ĐẢO GUAM, 27 NĂM SAU – 1
Viên phi công loan báo cho hành khách chuẩn bị để hạ cánh, đồng thời cho biết những ai ngồi ở ghế cạnh cửa sổ bên cánh phải, phía tôi đang ngồi, đă có thể nh́n thấy căn cứ Không Quân Anderson ở phía Bắc của đảo Guam. Quả nhiên, trên phi đạo, một chiếc phi cơ vận tải quân sự loại mới C-17 vừa hạ cánh và đang từ từ tiến về băi đậu. Cách đây đúng 27 năm, tôi đă từng đặt chân lên phi trường này, cảm giác nôn nao không thể ngăn chặn với muôn vàn kỷ niệm và những ư nghĩ ngổn ngang như cùng bừng dậy trong thâm tâm tôi.
Đúng đêm 30 tháng Tư, 1975, tôi cùng trên 200 đồng bào di tản đă được chuyển từ (đảo) Grande Island thuộc căn cứ Hải Quân Mỹ Subic Bay ở Phi Luật Tân đến căn cứ Không Quân Clark để đi đảo Guam. Nhưng khi qua đến phi trường, mọi người lại được thông báo rằng trại tị nạn ở Guam đă đầy, chúng tôi sẽ phải đi đảo Wake, xa hơn Guam khoảng ba tiếng đường bay.
Bay qua khỏi đảo Guam độ một giờ đồng hồ, th́nh ĺnh viên phi công loan báo rằng phi cơ đang gặp trục trặc kỹ thuật, phải quay lại Guam, mọi người đều lộ nét lo âu, nhưng rồi máy bay cũng an toàn đáp xuống phi đạo của phi trường quân sự Anderson. Đoàn người được đưa vào một nhà chứa máy bay (hangar) rất lớn để ngồi chờ, trong khi các chuyên viên lo sửa chữa chiếc vận tải C-141 của Không Quân Hoa Kỳ. Hôm ấy là sáng mùng 1 tháng Năm. Hơn hai tiếng đồng hồ sau, máy bay được sửa xong, mọi người lại tiếp tục chuyến bay đến đảo Wake. Chỉ vài tiếng dừng chân ngắn ngủi nhưng cũng đủ gây ấn tượng sâu đậm trong ḷng, khiến tôi đă tâm niệm rằng phải trở lại hải đảo này khi có cơ hội. Cơ hội đó đă không đến với tôi, cho mãi đến 27 năm sau.
Trung Tá Tuyên Úy Trưởng, David Girardin, của Bộ Tư Lệnh lực lượng Hải Quân trong vùng quần đảo Marianas (U.S. Naval Forces Marianas), đặt bản doanh trong căn cứ Hải Quân ở bán đảo Orote Point, và trung sĩ nhất trưởng ban phụ tá pḥng tuyên úy, Mannix Babanto, đă thân mật ra tận phi trường đón tôi. Một ư nghĩ ngộ nghĩnh chợt nảy sinh: “Tên anh chàng này cũng dễ nhớ đây, Bà-Bán-Tô.” Họ đă giúp tôi nhận xe thuê và hướng dẫn tôi đi một ṿng quanh căn cứ trước khi về nơi tạm trú. Tôi hơi ngạc nhiên v́ họ không để tôi nghỉ ở lưu xá dành cho các sĩ quan độc thân (Bachelor Officers’ Quarters) như thường lệ, nhưng là một khu ở ngoài căn cứ, tận trên đỉnh núi, pḥng của tôi đầy đủ tiện nghi như một “suite” của các khách sạn sang trọng.
Sáng hôm sau, ở văn pḥng các tuyên úy, tôi đem việc này nói với vị tuyên úy Công Giáo, Thiếu Tá Kent McCord, ông nói ngay: “Úi chào, Nimitz Hill, họ đă đưa cha về lưu xá của các sĩ quan cao cấp đấy.” Tôi thầm nghĩ: “Thảo nào.” Tuyên úy trưởng Girardin đã dành riêng cho một văn pḥng với đầy đủ điện thoại và máy điện toán, rất tiện lợi cho việc đọc và viết điện thư hàng ngày (ở thời điểm 2002). Được biết trước về chuyến công tác của tôi, một nhân viên dân sự, đă và đang làm thư kư cho văn pḥng tuyên úy suốt 26 năm qua, bà Bennie Limtiaco, trao ngay cho tôi hai tập albums đầy những h́nh ảnh của dân tị nạn ở Orote Point từ cuối tháng Tư năm 1975. Tôi không có giờ xem ngay, nhưng biết chắc các h́nh ảnh này sẽ gợi lại trong tôi bao nhiêu tủi hận của những ngày bất chợt phải ly hương từ mấy mươi năm cũ.
Cũng như Puerto Rico và Phi Luật Tân, đảo Guam, nguyên là thuộc địa của Tây Ban Nha, đă nhượng lại cho Hoa Kỳ từ năm 1898. Cái tên “đảo Guam” đă bắt đầu đi vào tâm tư của người dân Việt từ khoảng những năm 1965-66; lúc ấy, cuộc chiến Quốc-Cộng đang đến hồi khốc liệt và bộ Quốc Phòng Mỹ đă bắt đầu sử dụng các siêu pháo đài bay (Stratofortress) B-52, cất cánh từ đảo Guam, để dội bom “trải thảm” (carpet bombing) trên chiến trường Việt Nam. Mỗi chiếc phi cơ này có thể chở được đến 70 ngàn cân (Lbs.) bom, tính trung b́nh mỗi qủa bom nặng 250 cân (khoảng 120 kư lô), vị chi là 280 quả. Mỗi phi vụ thường có ba chiếc B-52, họ bay thành hàng ngang và dội bom cùng một lúc. 840 qủa bom thi nhau nổ, tạo cơn địa chấn trên một dải đất chiều ngang chừng 500 thước và dài khoảng một cây số rưỡi. Thường th́ rất ít sinh vật có thể sống sót trong tầm “tấm thảm” đó, nếu không chết v́ mảnh bom, cũng chết v́ bị nội thương do sức ép khủng khiếp trong không khí.
Khoảng tháng 7, năm 1967, cả hai chính phủ Mỹ và VNCH cùng loan tin rằng đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tư lệnh các lực lực quân sự của phía Cộng Sản ở miền Nam, đă thiệt mạng trong một cuộc oanh tạc của B-52. Tuy nhiên, chính phủ của CSBV (Cộng Sản Bắc Việt, VNCH đã gọi họ như vậy) lại loan báo rằng tướng Thanh đă chết v́ một cơn đau tim ở Hà Nội! Khi đó ông ta mới được 53 tuổi! Sự thật về sự kiện này, sớm muộn rồi cũng sẽ được phơi bày. (Con trai út của tướng Thanh là thượng tướng (ba sao) Nguyễn Chí Vịnh, hiện đang giữ chức thứ trưởng bộ Quốc Pḥng của Việt Nam).
(Còn tiếp)
Bookmarks