Tôi thức trắng đêm, nghĩ hoài đến những thử thách, gay go sắp tới. Khoảng sau giờ rưỡi sáng, tôi nhón gót ra khỏi giường rồi đi vô bếp pha cafe. Ngoài sân, có một lớp tuyết mỏng mới rơi đêm đó. Tuyết phủ lên những mảng băng từ nhiều ngày trước. Bốn bề yên lặng, tôi nghe nhịp đập của tim tôi. Một vài miếng tuyết dầy rơi từ nóc nhà xuống cái bàn ngoài sân và trên nắp thùng rác, làm tôi giựt ḿnh.
Ư kiến má tôi đi Atlanta là ư kiến hay. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy bức bí, hồi hộp một cách kỳ lạ khi tôi tới gần má tôi. Tôi hoảng sợ khi nghe tiếng chân của bà đi xuống nhà bếp. Tôi làm bộ chăm chú vô việc pha cafe và thay giấy lọc để khỏi phải nói chuyện với bà. Nhưng rồi bà lên tiếng trước:
- Tối hôm qua má ngủ không được.
- Con cũng vậy, suốt đêm con nghĩ hoài tới Trương Đ́nh Hùng.
Bà hỏi:
- Nếu chuyện đó làm con khổ tâm, tại sao con lại làm?
Tôi miễn cưỡng trả lời:
- Tại con phải làm.
Sau khi Lance đi học, John đi làm, má tôi về pḥng, kéo màn cửa sổ che lại rồi đi nằm. Tôi mở va-li, lấy ra mấy bộ đồ để ủi, giết th́ giờ.
Khoảng mười giờ rưỡi, John về nhà. Tôi hơi ngạc nhiên thấy anh về sớm, những mừng quá, v́ tôi sợ cái yên lặng ngợp thở trong căn nhà này rồi. John rủ tôi đi chợ mua vài thứ lặt vặt.
Chúng tôi mời má tôi đi cùng, nhưng bà từ chối, viện cớ là trời lạnh. Quá trưa một chút, trên đường về nhà, tôi mở radio nghe tin tức, th́ ngay lúc đó người xướng ngôn viên đọc bản tin Trương Đ́nh Hùng và Ronald Louis Humphrey vừa bị bắt. Tôi chưa bao giờ gặp Humphrey. Hùng chỉ cho tôi biết ông ta là “một người có thẻ đặc biệt để lên từng lầu thứ bảy của Bộ ngoại giao và có thể lấy bất cứ tài liệu nào chúng ta muốn”.
Thay v́ thấy ḷng nhẹ nhơm và vui mừng v́ thành công, tâm tư tôi tràn trề sự thương xót cho Hùng. Tôi nhướng to hai con mắt để nước mắt khỏi trào ra. John đưa khăn tay cho tôi. John biết tố sẽ xúc động hơn, v́ vậy anh mới bỏ sở về nhà với tôi. Nếu không có người chồng hiểu tôi, bao bọc tôi như John, ai cứu má và hai em tôi trước ngày cộng sản cướp miền Nam? Ai nâng tôi khi ngă, ai cười tôi khi tôi không biết kể chuyện cười?
- Dễ nhứt là ḿnh tránh làm những việc phải! - Tôi than thở
- Không, không phải vậy. Làm sao sống được với lương tâm của em, nếu em từ chối giúp Bộ tư pháp bây giờ? Em sẽ cảm thấy như một con lừa.
Tôi mỉm cười trong nước mắt:
- Trên thế gian này không thiếu ǵ con lừa; có thêm một con nữa cũng chẳng chết ai.
Chồng tôi nghiêm giọng:
- Đừng có nói bậy như vậy. Em đă tự hạ giá em. Việc em làm là một việc trọng đại. Thời gian sẽ cho em hiểu việc em làm cho đất nước này.
- Nghe cổ lỗ sĩ quá! Em có cảm tưởng ḿnh là một người non dại đang làm một việc cũ rích cho Chánh phủ.
Anh nói:
- Tốt nhất là em nên im lặng, đừng nói ǵ nữa, nếu không muốn anh nổi giận.
Nghe giọng anh, tôi biết anh đă nổi giận rồi.
Sáu giờ chiều hôm đó, má tôi coi tin tức dài truyền h́nh, bà giữ im lặng, không thèm nói với tôi một lời. Tôi không coi truyền h́nh, bỏ lên lầu đọc chuyện cho Lance nghe. Tôi thầm tự hỏi, tôi sẽ phải nói ǵ với con tôi, nếu thằng nhỏ nghe tin tức về chuyện tôi dính dấp vô, hoặc thấy h́nh tôi trên báo trong buổi xử án!
Cho tới giờ phút này. Lance vẫn tưởng má nó là một người “buôn bán đồ sứ” bên Paris. Chuyện ǵ khó quá mà John thế tôi được, tôi đùn cho anh. Thôi th́ để chừng nào cần cho Lance biết, ba nó nói chuyện với nó giùm tôi vậy.
Tin tức báo chí và truyền h́nh cho biết David Trường bị bắt tại một sở lựa thơ trên đường K vùng Tây Bắc, Washington. Có lần Hùng nói với tôi rằng anh chọn việc làm trong một sở nhỏ. Việc lựa thơ là việc rất tầm thường, để che mắt mọi người cho anh làm “việc lớn”.
C̣n ông Humphrey bị bắt ở một công sở quan trọng hơn, đó là trụ sở của cơ quan Thông tin Hoa Kỳ. Người ta cũng nêu tên một số đồng loă nhưng không bị bắt, như: Huỳnh Trung Đồng, chủ tịch Hồi Việt kiều yêu nước tại Paris; Phan Thanh Nam của toà đại sứ Mặt trận giải phóng miền Nam tại Paris, và đại sứ Đinh Bá Thi, trường phái đoàn Việt Nam cộng sản tại Liên hợp quốc ở New York.
Cho đến lúc này, Bộ tư pháp chưa tiết lộ danh tánh của những người hoặc những nhân viên mật vụ tham dự cuộc điều tra, kể cả tôi. Không một ai thuộc phe cộng sản nghi ngờ tôi. Sự che giấu lư lịch của tôi có thể coi như hoàn hảo đến độ Nguyễn Thị Ngọc Thoa, đồng chí của David Trường vội gởi thơ khẩn cấp qua Luân Đôn cho tôi để báo động, khuyên tôi không nên về Mỹ và nên có một luật sư để che thân. Chị cũng khuyên tôi nên đốt hết mọi giấy tờ liên lạc giữa tôi và Hùng, cũng như với chị và những hội đoàn Việt Nam. Cuối thơ, chị nhấn mạnh: “Đừng về Mỹ!”
Huỳnh Trung Đồng cũng gởi một bưu thiệp bí mật bắt tôi huỷ mọi giấy tờ hoặc tài liệu “liên hệ giữa cô và chúng tôi”, ông ra lịnh cho tôi “không được tới gần toà đại sứ và các nhân viên. Đừng để cho bất cứ ai biết cô là con gái của ông ấy”.
Là một điệp viên, tôi coi những lời cảnh cáo đó như mội lời khen cho thành tích của ḿnh. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không để lại một dấu vết nào chứng tỏ tôi theo phe “tư bản” hoặc tôi là một tên “phản động”.
Măi tới ngày 17 tháng Ba, báo chí mới biết “Keyseat” là ai, khi luật sự của David Trường đệ tŕnh toà án một bản yêu sách, hỏi về lập trường và động cơ của tôi. Trong bản yêu sách, ông ghi địa chỉ của tôi ở số 8 Regal Lane, Regent Park, London. Đó là địa chỉ cuối cùng của tôi mà Hùng biết.
Hôm sau Lance đi học về, nói với tôi rằng cô giáo của Lance đưa h́nh tôi trong tờ báo, hỏi có phải người làm chứng trong vụ án là má của Lance không. Lance trả lời cô giáo: “Chắc là đúng v́ chỉ có một Dung Krall đă ở nhà số 8 Regal Lane. London thôi”. Vợ chồng tôi đă mất nguyên một buổi tối để giải thích cho đứa nhỏ mới bảy tuổi hiểu về những hoạt động của má nó trong hai năm qua. Nó lắng nghe cẩn thận, rồi cuối cùng nói:
- Vậy là má làm cho FBI! Con thấy Bill Fleshman có bộ dáng của FBI.
Tôi và John nín cười muốn bể bụng.
Tôi không rơ con tôi hiểu việc này tới mức nào, nhưng chúng tôi cố gắng cho Lance biết rằng, từ nay trở đi, cẩn thận giữ ḿnh là điều quan trọng. Chúng tôi dặn Lance không bao giờ ra khỏi sân trường trong giờ học, không được đi theo người lạ.
Sau buổi nói chuyện đó mấy ngày, có kẻ cậy cửa lẻn vô nhà khi chúng tôi đi vắng. Khi về, tôi thấy đèn treo trên nóc trên bàn ăn bị bẻ, mảnh thuỷ tinh văng tứ tung trong pḥng. Trên bàn ăn có chữ “phản bội” viết nguệch ngoạc bằng mực đen trên tấm giấy có gạch hàng.
Tôi giận hơn là sợ, liền gọi cho John biết. Sau đó tôi gọi ông Don Marsland, người giám sát của chiến dịch “Magic Dragon”. Chỉ trong ṿng có mấy phút, John về tới nhà: nhân viên FBI cũng tới ngay sau đó. Cả xe cảnh sát cũng hú còi chạy tới. Nhà biến thành một nơi công cộng.
Các điều tra viên lấy dấu tay trên nắm cửa, mặt bàn, tủ lạnh, bếp. Tôi phải trả lời liên tục những câu hỏi má tôi biết chẳng có liên quan ǵ cho cuộc điều tra. Điều mà tôi lo ngại hơn hết là con tôi. V́ vậy, tôi yêu cầu mọi người cố gắng làm cho xong việc trước khi con tôi đi học về. Tôi không muốn Lance lo sợ. Tôi muốn con tôi sống một cách vô tư, b́nh thường như những đứa con có cha mẹ b́nh thường hơn tôi.
Chiều hôm đó, tôi nói dối với Lance là tôi đă vô ư làm vỡ đèn khi tôi cuốn sợi đây điện cho ngắn lại để ba cháu không bị đụng đầu mỗi khi ngồi xuống đứng lên tại bàn ăn, v́ trước đó John cũng đă bị đụng đấu vô cái choá đèn mấy lần rồi. Lance tin tôi ngay và c̣n chọc tôi:
- Vậy th́ má phải để dành tiền để mua cái đèn khác, thường cho chủ nhà.
Thằng nhỏ nói đúng, v́ đây là nhà mướn; làm hư đồ trong nhà th́ phải thường cho chủ. Tôi gật đầu đồng ư với con.
Don Marsland cho chồng tôi biết chung quanh nhà tôi sẽ có người canh chừng suốt ngày đêm, ông ta đoán rằng kẻ xâm phạm có thể trở lại. Một người khác được biết phái tới để coi chừng Lance ở sân trường vào giờ ra chơi.
Hai ngày sau đó, tôi đi bộ với Lance tới trường. Trường chỉ cách nhà có vài đoạn đường ngắn. Nhưng tới ngày thứ ba, Lance phản đối:
- Con lớn rồi, con đi học một ḿnh được mà.
Tôi đành để Lance đi một ḿnh. Tôi biết ḿnh đă vô t́nh truyền sự lo sợ của ḿnh qua thằng nhỏ. Tôi không thích nó cứ phải lo sợ nh́n trước nh́n sau, lúc đi tới trường.
Một tuần sau, một việc kinh hoàng xảy tới cho gia đ́nh tôi. Tan học rồi mà mười phút sau Lance không về nhà như thường lệ.
Còn tiếp ...
Bookmarks