Quốc Gia VNCH có hai ông Thủ Tướng Chính Phủ bị bọn Cộng Sản Việt Nam giam chết trong tù: Ông Thủ Tướng Phan Huy Quát và ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên.
Thủ Tướng Phan Huy Quát đi Tù và Chết trong Nhà Tù Chí Hoà, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên trước khi đi Tù và Chết trong Trại Tù Khổ Sai ở miến Bắc, c̣n có lần Đi dự Hoà Đàm với Pháp ở Đà-lạt và cùng với một số kư giả làm cuộc “Kư Giả đi Ăn Mày” ở Sài G̣n.
Đây là bài về ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên.
TỪ ĐIỂN TÁC GIẢ VIỆT NAM. Nguyễn Quang Thắng. Nhà Xuất Bản Văn Hóa, ấn hành ở Việt Nam Tháng Chín 1999.
Vietnam War - Fall of Saigon - Bà Kiều Mộng Thu, dân biểu Hạ viện, cùng với các dân biểu, nghị sĩ thuộc phe đối lập biểu t́nh ngồi chống chính phủ
DB Kiều Mộng Thu (b́a phải hàng sau), DB Ls Trần văn Tuyên (ngồi giữa, hàng trước), kế bên là DB Trần Văn Sơn (mặc veston, cầm giấy, Hải quân Trung tá, bút danh sau 1975 là Trần B́nh Nam) và những dân biểu đối lập khác trong cuộc tuyệt thực 24 giờ trước thềm quốc hội để phản đối cái họ gọi là “Chính quyền tham nhũng, không hiệu quả và áp bức” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Sài G̣n, ngày 10 tháng 2, 1975. Một dân biểu cầm bảng với ảnh TT Thiệu bị gạch chéo với hàn chữ: “C̣n Thiệu là c̣n chiến tranh, nghèo đói. Thiệu phải từ chức” trước một bàn thờ có lư và chân đèn cầy với một tu sĩ Phật giáo. Nguồn ảnh: AP Photo / Ut
TRẦN VĂN TUYÊN
Quí Sửu 1913 – Bính Th́n 1976.
Luật sư, một trong những người sáng lập Hội Hướng Đạo Việt Nam, sinh ngày 1-9-1913 tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên quán huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà Đông.
Học ở Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân Luật Đại Học Luật Khoa Hà Nội, dạy học tại Trường Trung Học Thăng Long, tham gia hoạt động chống Pháp từ những năm 1930-1931. Năm 1934, ông cùng Đặng thái Mai, Vơ nguyên Giáp… thành lập Liên Minh Dân Chủ và Phong Trào Đông Dương Đại Hội.
Năm 1942 ông bị Pháp bắt giam một thời gian v́ “tội thành lập Đảng Thanh Niên Hưng Quốc”. Sau khi được xử trắng án và tự do, ông thi đỗ ngạch Tri Huyện Tư Pháp, được bổ làm Tri Huyện huyện Thanh Miện, Hải Dương, đến năm 1944 th́ từ chức.
Sau Tổng Khởi Nghiă Tháng 8 năm 1945, ông tham chính, giữ chức Đổng Lư Văn Pḥng Bộ Ngoại Giao Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Năm 1946 ông tham gia Hội Nghị Trù Bị Đà Lạt, phụ trách Ban Lễ Nghi của phái đoàn Việt Nam, cùng với các ông Nguyễn Tường Tam, Vơ nguyên Giáp, Hoàng xuân Hăn.
Đầu năm 1946 ông lưu vong sang Trung Hoa, năm 1950 ông về Sài G̣n, có thời làm Bộ Trưởng Bộ Thông Tin, năm 1950-1951 ông giữ chức Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng trong chính phủ Trần văn Hữu.
Năm 1954 ông là Cố Vấn Đặc Biệt trong Phái Đoàøn Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) dự Hội Nghị Genève nhằm chấm dứt Chiến tranh Đông Dương. Năm 1959-1960, ông cùng 17 nhân sĩ ( Báo chí nước ngoài gọi là Nhóm 18 Caravelle) ra tuyên cáo đ̣i chính quyền Ngô Đ́nh Diệm thay đổi chính sách.
Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11 Tháng 11 năm 1960, ông bị Mật Vụ Ngô Đ́nh Nhu bắt giam, đến sau ngày 1 Tháng 11 năm 1963 mới được giải thoát. Năm 1965 ông giữ chức Phó Thủ Tướng Đặc Trách Kế Hoạch, năm 1967 ông là Dân Biểu Quốc Hội, Trưởng Khối Dân Tộc-Xă Hội tại Hạ Nghị Viện Sài G̣n, Cố Vấn Phong Trào Đấu Tranh Cải Thiện chế độ Lao Tù, Thủ Lănh Luật Sư Đoàn Sài G̣n.
Ngày 26 Tháng 10, 1976 ông mất tại Ḥa B́nh.
Các tác phẩm của ông: Hiu quạnh (1944), T́nh mộng (1953), Hội Nghị Genève ( 1954), Việt Nam dưới thời thuộc Pháp (1958), Chính đảng (1968), Người khách lạ ( 1969), Con đường Cách Mạng Việt Nam (1969)Ngưng trích.
Đây là bài “Ít ḍng Nhật Kư về Hội Nghị Trù Bị Đà Lạt 1946” ông Trần Văn Tuyên viết ở Sài G̣n. Trích:
Ngày đi. 16-4-1946. Khởi hành ở phi trường Gia Lâm, 7 giờ 30 sáng. Pháp cho mượn 2 chiếc máy bay Junker cũ kỹ. Hai anh Trưởng và Phó Phái Đoàn (Nguyễn Tường Tam, Vơ nguyên Giáp) cùng đáp một chiếc cất cánh sau. Bọn tôi đi chuyến đầu gồm Tạ quang Bửu, Dương bạch Mai, Kiều công Cung, tất cả 12 người.
Gần tới Paksé, gặp băo, nhưng trời nắng đều.
Tới Paksé lúc 11 giờ 20. Không ra thăm thành phố. Máy bay chở hai anh Tam, Giáp đến sau 20 phút.
12 giờ 30 máy bay chúng tôi bay đi Đà Lạt trước. Tới trường bay Liên Khàng lúc 3 giờ chiều. Có các ông Pignon, Davec, Brisson và Lê văn Kim, ông Kim lúc đó là tùy viên báo chí của Đô Đốc D’Argenlieu, Cao Ủy Pháp, ra đón. Thêm nột nhà nhiếp ảnh Tiệp Khắc, một phóng viên Bỉ, cô Anna Lê Trung Cang, chủ nhiệm nhật báo Điện Tín ở Sài G̣n.
Đói, khát, không có ǵ để ăn uống. Ông Davec kiếm được 10 quả “thanh lí” và một ấm nước nhỏ.
Chờ chuyến bay thứ hai đến để cùng về Đà Lạt nhưng măi không thấy đến. Nhiều người lo ngại đă xẩy ra chuyện bất trắc. Không liên lạc được với Paksé, cũng không liên lạc được với Sài G̣n. Lo ngại càng tăng. Đă có người lo sợ một “thủ đoạn” ác độc của người Pháp. Trời về chiều, chờ không được, sợ tối nguy hiểm, đành phải về Đà Lạt trước.
30 cây số đường rừng, giữa đồi núi và rừng thông trùng điệp. Xe hỏng máy cách Đà Lạt 5 cây số. Trăng mọc trên ngàn thông, bao phủ bởi sương trắng. Cảnh vật thật tuyệt diệu.
6 giờ tối mới về đến Đà Lạt. Thành phố vắng tanh, tối đen và yên lặng. Mọi người về Hotel Du Parc, riêng hai anh Trịnh văn Bính, Dương bạch Mai sang Hotel Lang Biang.
Cơm dọn sẵn cho 30 người ăn. Nhưng mọi người chỉ ăn qua loa. Mệt! Hoang mang… Băn khoăn về số phận của toán thứ hai, những người chính của phái đoàn. Ăn cơm xong, anh em họp lại trong buồng tôi. Đa số tỏ ư lo ngại. Một số cho rằng Pháp chơi xấu, có thể hi sinh một chiếc máy bay và hai phi công, đâm máy bay vào núi. Thế là hết chuyện đàm phán.
V́ họ đă thủ tiêu được những người lănh đạo mà họ lo sợ nhất: Nguyễn Tường Tam, Ngoại Trưởng Chính Phủ Liên Hiệp, Lănh Tụ Cách Mạng chống Pháp cực đoan (VNQDĐ) và Vơ nguyên Giáp, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Giải Phóng, Chủ Tịch Quân Ủy Hội Kháng Chiến chống Pháp.
Có anh lo sợ cho số phận những người trong phái đoàn đă đến Đà Lạt. E ngại người Pháp bắt luôn tất cả đem đi cầm tù. Anh Kiều Công Cung đề nghị với tôi đưa cho mỗi người 100$, xuống chợ mua mỗi người một chiếc xe máy, ngay đêm hôm ấy, băng về Phan Rang.
Một giờ sáng mới được tin chiếc máy bay thứ hai bị hỏng máy quạt, phải ở lại Paksé, chờ hôm sau Sài G̣n đem máy quạt lên thay mới bay tới được.
Hỏng máy thật hay là đ̣n tâm lư!
Ngưng trích.
Còn tiếp ...
Bookmarks