Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.................... .....
Bây giờ đây đâu phải là tôi quên rằng tôi đă có một dịp hay ho như vậy, đâu phải tôi quên rằng người con gái ngồi trước mặt tôi đó đă có một cặp chân tuyệt mỹ! Nhưng tôi không buồn nghĩ đến cặp chân ấy nữa.
Người ta không c̣n th́ giờ, đúng ra là không c̣n tâm hồn nào để nh́n cái đẹp nữa. Tôi c̣n phải dành trí khôn để ước lượng xem phải uống bao nhiêu kí-ninh nữa để cắt cơn sốt, xem nếu tôi đi th́ có đi nổi không, xem cây gậy của tôi có nặng so với sức lực của tôi bây giờ không, nhất là làm thế nào để cùng với cái cô diễn viên múa kia đuổi kịp theo đoàn v.v.. và v.v…
Và nếu tâm trí tôi có bắt buộc phải nghĩ tới đôi chân đẹp đó chăng đi nữa th́ đôi mắt tôi, chúng cũng từ chối.
Chỉ sau vài hôm đi trên đường Trường Sơn th́ mắt tôi bắt đầu không thấy núi đẹp như trong thơ nữa. Núi ôm ấp mây, núi quàng khăn tuyết … tất cả những nét đó h́nh như vô lư. Mắt tôi cứ hau háu như mắt cú vọ để t́m kiếm một cái đọt bứa, một cái mụt chuối rừng c̣n sót lại hay một cái quai dép, một mẩu ni-lông của ai làm rớt dọc đường. Mắt tôi hễ mở ra th́ bắt đầu nh́n những ḥn đá chơm chởm gập ghềnh chỗ thấp chỗ cao, nh́n những bộ mặt vàng nẫu, những cặp chân cà tong cà teo run run khiêng pháo lên dốc.
Tất cả những ǵ đẹp đẽ cũng không cần thiết, đúng ra cũng không cần có ở đây.
Và dù là cái đẹp đó là cái riêng của tôi đi nữa, tôi cũng không cần. Tôi không cần nó, tôi không khát nó, tôi không thèm nó. Tôi cần, tôi khát, tôi thèm cái khác: ăn! Ăn cái ǵ th́ ăn, nhưng núi đẹp và cặp chân vũ nữ tuyệt vời kia th́ không thay cho món ăn được.
H́nh như ánh mặt tôi gọi Thu cho nên Thu quay lại. Tôi không tỏ vẻ ngạc nhiên về sự ở lại của hai đứa và cũng không có vẻ vui mừng v́ chỉ có hai đứa ở lại mà thôi.
Thu cố nhấc cái chân què đi tới ngồi phệt xuống bên vơng của tôi và thở dài:
– Đoàn đi cả rồi anh!
Tôi nh́n Thu không đáp.
– Khổ quá đi mất!
Tôi cũng không đáp.
– Không biết rồi phải làm sao?
Sự lặng im vẫn kéo dài.
Tôi ngạc nhiên về sự sắt đá của tôi trước những câu than thở đồng cảnh ngộ của một cô gái. Tôi biết tôi phải nén ḷng v́ nếu tôi nói ra th́ tôi sẽ nói những lời không đúng đắn về lập trường, về t́nh nghĩa, về sự có lư hay vô lư. Nếu tôi nói ra một câu th́ những tiếng đầu tiên phải là những tiếng không có văn hoa, văn hoá.
Nhưng chửi ai, văng tục với ai?
– Anh hết sốt chưa? Thu hỏi.
– Qua cơn rồi em ạ!
– Không biết rồi ngày mai em ra sao, anh nhỉ?
– Thu chưa bao giờ bị sốt nên đâu hiểu sốt là thế nào!
Thu ngồi lặng thinh. Bây giờ th́ chỉ c̣n có hai đứa, hai đứa bé mồ côi, khát sữa bú tay.
Một chốc Thu mới nói lại nguyên văn câu nói lúc năy:
– Đoàn đă đi hết rồi anh ạ!
– Anh biết rồi.
Rồi hai đứa lặng thinh.
Tôi cố mở hai mí mắt nặng nề dày cộm của thằng sốt rét ra mà liếc nh́n chung quanh. Cảnh tượng thật là ảo năo, buồn thảm, bi đát, đau thương. Tất cả những chữ na ná như thế trong ngôn ngữ Việt Nam gom lại cũng không đủ tả cái cảnh chung quanh tôi lúc bấy giờ.
Những cái cọc hôm qua kín những vơng và những tăng, những màn, những cái giàn nhỏ đầy những ba-lô, khăn túi, những cái bếp th́ khói lửa tuy phải che đậy từng tí nhưng vẫn ấm áp tươi vui với ánh lửa và hương củi lửa. Tôi nghĩ rằng chỉ có những người đi rừng biền biệt xóm làng như chúng tôi mới hiểu nổi giá trị của lửa.
Hôm qua là cả một không khí hoạt động bánh trái vui nhộn, nhưng hôm nay đây, họ đă đi, mang theo họ cả khung trời. Chưa một lần nào tôi thấy vừa cô đơn vừa buồn tủi như hôm nay.
Thu đưa cho tôi hai mẩu giấy. Tôi không đọc ngay nhưng tôi biết đó là của anh đoàn phó và của Lâm – của Lâm, mảnh giấy tọng teng mà dưới mắt giao liên là những cái của nợ, v́ những người này thường hay ṃ vào trạm của họ để cằn nhằn, xin xỏ hoặc ỳ ra không chịu đi, tệ hơn nữa có những người nằm ngủ luôn không dậy, họ phải khiêng đi chôn cho khỏi thối trạm, có lẽ đó cũng là những người bị rơi rớt trên đường mà đoàn họ gửi lại núi rừng thiêng này – cũng như lũ chúng tôi đây.
Còn tiếp ...
Bookmarks