Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
..................
Hoàng trở lại. Anh ta một tay cầm hai hộp thịt, một tay cầm mớ giấy. Hoàng x̣e giấy ra cho tôi:
– Ác quá mày ! Đọc coi !
Tôi đọc và kêu lên:
– Thế này th́ chúng ḿnh phải cuốn gói đi ngay !
Ông huyện ủy giật ḿnh hỏi:
– Ǵ thế đồng chí ?
– Chúng nó kể tên từng đứa một trong đoàn chúng tôi.
– Ồ tưởng cái ǵ chớ cái vụ đó th́ ăn thua chi đâu. Chúng nó in tên các cấp tỉnh ủy huyện ủy xă ủy kể lai lịch từng người một và kêu gọi hồi chánh mà. Chúng rải truyền đơn khắp nơi để dân chúng biết mà t́m gọi ḿnh nữa. Người dân nào đem được một cán bộ cỡ nào th́ được thưởng một số tiền bao nhiêu, c̣n cán bộ cỡ nào tự ḿnh t́m đường về nộp mạng th́ được tặng bao nhiêu tiền.
– Làm vậy mà có kết quả à?
– Có mạnh chớ sao không !
– Thế à ?
– Ngày nào cũng có. Hễ có là chúng cho loa tên tuổi người đó. chụp h́nh in kèm với lời kêu gọi rồi rải đi khắp nơi ! Đồng chí nghĩ coi nó đánh ḿnh thế đó, ḿnh đành chịu thôi không đỡ gạt nổi.
Tôi thấy ngồi lâu sẽ bi ông Huyện ủy tuyên truyền về chánh sách hồi chánh rồi nhiễm mất (và tôi bị nhiễm thiệt, nhưng chưa nhiễm ngay bây giờ mà mấy năm sau) nên nháy Hoàng đi về lều. Vừa đi, tôi hỏi:
– Ở đâu ṃ ra vậy?
– Thiếu ǵ ! Hầu như ai cũng được một vài hộp. .
– Tụi ngu bỏ mẹ ! Đáng lẽ chúng nó để ḿnh chết đói, lại ném thịt cá cho ăn !
– Nó khôn thấy bà !
– Khôn ǵ ! “Khôn liền” th́ có !
– Ăn hết hộp này nó không liệng nữa đâu ! Ḿnh thèm! Ăn quen nhịn không quen. Thế là ḅ về t́m thịt. Thế là nộp thịt. Phải không?
Tôi cười :
– Anh học trường tâm lư chiến của tụi nó hồi nào vậy ?
– Mới vừa rồi đó ! Cái ông đó đă dạy ḿnh một bài học tâm lư chiến khá chi tiết.
– Đổi với cái ǵ vậy?
– Cái áo thun ba lỗ.
– Mới cũ?
– Cũng c̣n mới ! Chỉ sợ không c̣n đồ đổi thôi, chứ thịt thiếu ǵ !
– Bây giờ mà trở lại được trạm 1 quơ ba cái đồ mắc trên cây ném trên vách đá đem vô đây đổi thịt ăn hé !
– Bố tao bảo trở lại tao cũng không trở. Xe tăng lôi tao cũng bứt xích chạy ngược lại.
Hoàng là người gương mẫu trong trường đi B, nhưng đi qua khỏi ngọn sông Bến Hải anh mới bắt đầu hiện nguyên h́nh: “bất măn chúa, tấu nhạc toàn chói tai.”
Tôi nhớ lại lúc mới đi chặng đầu tiên của con đường này. Vui vẻ, hào hứng, phấn khởi vô cùng. Mọi người coi giải phóng Miền Nam như trở tay. Lấy đồ trong túi c̣n khó hơn. Trên trời không có máy bay. Dưới chân tuy đồi dốc khá nhiều, nhưng sức lực c̣n dồi dào. Thanh Niên Xung Phong vừa đi hằng đoàn vừa hát. Cơm ăn với muối nhưng rất ngon miệng.
Và tự cho ḿnh đang nằm gai nếm mật cùng với nhân dân khi ngủ giữa trời dưới một tấm tăng bằng cái… lá đa rách nát. Giản chính tư tưởng và giản chính những thứ kềnh càng. Cuộc sống bị “giản chính” một cách không thương tiếc. Dọc theo đường đi, nào áo len, nào mũ dạ, quần ga-bạc-đin, giày bố, khăn mặt, cặp da v.v…. treo mắc như một cửa hàng chợ trời đầy màu sắc.
Người đi trước vứt bỏ, người đi sau nhặt lấy hoặc đổi lấy cái tốt của người vừa bỏ , vứt cái xấu của ḿnh. Cứ thế, cho đến vài trạm sau th́ chẳng c̣n thấy món đồ nào treo mắc hai bên đường nữa. Con người đă giản chính tối đa. Ở trạm 3, tôi thấy một anh chàng đập cây ghi ta của ḿnh ra mà nhóm lửa v́ trời mưa to quá, củi ướt vả lại giữa ban đêm, không c̣n cách nào khác hơn là hi sinh món nhạc cụ yêu quí đă từng được cơng từ Hà Nội vào đây. .
Nghe Hoàng nói có lắm thịt hộp th́ tôi mê lắm nhưng biết chắc trong ba-lô không c̣n được bao nhiêu món có giá trị để đổi chác. Ở đây th́ đồ vật đổi chác phải là thứ thiệt chứ không thể đem dây chuyền mạ, cà rá giả ra mà đổi lợn, gà như đối với đồng bào Thượng.
Đi “ruồng” thịt hộp và nói chuyện khào, tâm thần sảng khoái. Về đến lều thấy Thiệp nằm gác tay lên trán thở hắt ra mà rầu. Hoàng nói:
– Chắc cậu không c̣n giữ ư định vô Nam kỳ quốc với tụi này nữa phải không?
– Tôi phải trụ h́nh ở lại đây rồi anh ạ! Chờ xem t́nh thế thế nào !
– Đă rơ rồi, c̣n xem tới xem lui cái ǵ nữa !
– Nhưng mà… Khổ quá anh ơi !
– Thôi, để nấu cơm ăn cho khoẻ cái đă rồi sẽ tính tới . Tôi cắt ngang.
Đợi đến sẫm tối chúng tôi mới bắt đầu nổi lửa nấu cơm. Lửa khói đốm đỏ đốm xanh khắp cả một dăy rừng. Tiếng chí choé í ới nghe thiệt vui tai. Suốt ngày đói meo uống nước cầm hơi, ngồi nhao nháo ngó lên trời không thấy trời, trông xuống đất chỉ thấy toàn sỏi đá mong cho chóng tối để nấu cơm.
– Các anh ăn đi ! Tôi ăn không vô đâu!
Chúng tôi biết Thiệp ngại không muốn ăn chỗ thịt của Hoàng vừa đổi được. Không phải Thiệp sợ mất lập trường mà “ăn của anh em rồi lấy ǵ trả lại. Ở đây một hạt muối cũng phải đổi chác mà ! ” Tôi bèn nói :
– Tớ ăn cơm Miền Bắc mười năm, nay cậu ăn lại miếng thịt mà ǵ dữ vậy?
Tôi nói cà rỡn cho nguôi buồn thằng bạn đồng hành để nó ăn no , chôn lấy nỗi buồn của nó, cũng là của tôi, chẳng ngờ nó ̣a lên khóc.
– Các anh tốt bụng quá ! Xin cảm ơn! Tôi tưởng các anh thành kiến với tụi tôi nặng lắm !
– Thành kiến với tụi lớn đầu không nên nết ḱa ! Chớ tụi tao đâu có thành kiến với cả đồng bào Miền Bắc. Mày hiểu không? Chúng ḿnh cùng là nạn nhân của những chánh sách lạ kỳ hết cả mà.
Hoàng Việt nói xong đi lấy tấm h́nh vợ Thiệp:
– Dẹp bàn thờ được rồi chứ! Rồi đem mấy chén cúng trút vào gà mèn trộn cho đều.
– Ừ ừ tôi quên khuấy đi.
Chúng tôi ngồi dưới đất ăn cơm trắng và thịt nghiền đóng thành bánh xắt lát mỏng.
– Thịt nạc Mỹ đây !
Tôi vừa gắp một miếng vừa nói :
– Kê vô mát cả răng!
Hoàng Việt tiếp tục khuyên lơn Thiệp:
– Cậu cho là cô Anh đă hi sinh rồi phải không? Thế mà bây giờ cô cấy c̣n sống. Đó là một cái may không ngờ được. Cậu c̣n muốn ǵ nào? Chắc cậu muốn cổ được thả dù xuống đây chắc. Chuyện đó th́ không thể có. Vậy ta hăy vui với cái ta đang có là cô Anh c̣n sống. Đó là phần cô Anh. C̣n cậu, hăy so sánh với ông bạn nhà văn của chúng ta đây th́ sao?
Cậu sung sướng hơn nhiều phải không? Nếu chẳng may cô Anh lâm vào trường hợp cô Phương và chính tay cậu gói liệm, chôn người yêu như cậu đă liệm và chôn cô Phương th́ sao? Cô Phương vĩnh viễn nằm lại đó, mưa gió sẽ khỏa tan nấm đất. Có ai c̣n biết tới nữa đâu. Trước khi chết không trối được một lời, chết rồi không được người yêu nh́n xác.
Thiệp đang bưng chén cơm bỗng đặt xuống, gục đầu xua tay:
– Thôi … thôi, anh đừng nói nữa! Tôi hiểu vậy, nhưng tôi đau quá anh ạ !
Rồi bỏ lên vơng nằm :
– Tôi xin lỗi các anh, tôi đă làm cho bữa cơm mất ngon.
Hôm sau, tiếp tục đi ruồng thịt hộp tôi lại gặp quá nhiều người quen, toàn dân Nam Cờ. Đúng là khúc ruột … thừa Miền Trung. Tất cả rác rến cặn cáu của dân Nam Bộ mang từ ngoài xứ xă nghĩa vào đến đây đều x́ bật ra .
Trong sáu người có ba người tôi quen từ trong kháng chiến Nam Bộ. C̣n ba người kia không quen nhưng cũng là dân Thành Đồng. Tất cả đều là cán bộ trung cấp nghĩa là từ Tiểu đoàn phó lên tới Trung đoàn phó. Ai nấy đều mang gị heo oai phương lẫm liệt.
Quư, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 chuyên gia đào gốc lim ở nông trường Lam Sơn tóc bạc phếu như bọt biển, Mật, Tiểu đoàn phó thuộc đội Công binh Sư đoàn 330 và Trữ, Tiểu đoàn trưởng kiêm Tham mưu phó Trung đoàn 2 đóng ở Băi Thượng nơi tôi từng tới lui để t́m ngơ chui qua Lào về Nam mà không lọt. (Nếu lọt tôi đă không phải bị muỗi đ̣n xóc tiêm cho thuốc bổ sốt rét rừng trên đường này).
Các tay tổ này cũng đang lùng t́m thịt hộp. Tôi và Hoàng khoái tỷ v́ đă gặp được bồ tèo. Dù thế nào cũng xin tháp tùng với họ đi cho vững bụng. Khi tôi bày tỏ ư ấy ra th́ Mật nói ngay:
– Ê, tụi này là một lũ tội nhơn đây nghe ta ! Bộ muốn không c̣n chỗ đội nón hay sao mà dính vào ?
– Tại sao là tội ?
– Chuyện Tam Quốc ba mươi sáu cuốn kể sao cho hết.
– Tóm tắt “Hồi thứ năm mươi” nghe thử coi.
– Đại khái là ở trên phân công tụi này về khu Sáu !
– Trời đất! Thiệt sao cha?
– Không thiệt th́ bịa à?
Hoàng nói:
– Th́ ở mấy trạm ngoài ḿnh cũng nghe một vụ tréo cẳng ngỗng như vậy mà.
Tôi lại hỏi Mật:
– Ông đă nếm mùi khu Sáu chưa?
– Mới nghe hin hỉn là đă chạy sốt vó rồi, nếu phải nếm chắc ói tới mật xanh.
Hoàng Việt hỏi:
– Nói vậy đây là khu Sáu rồi sao cha? Vậy gần qua ranh Nam Cờ ḿnh rồi !
Mật xua tay:
– Chưa, chưa đến khu Sáu đâu mẹ đĩ ! Nhưng khu Sáu không có đường xuống. Phải xuống “Khu Eo” rồi mới luồn vô “khu Éo” (Có một số ngôn ngữ sáng tạo trên đường dây như khu Eo, khu éo là khu Năm, khu Sáu). Đừng có mừng vội.
Đoàn người rẽ theo những đường ṃn khác nhau đi ruồng thịt hộp. Tôi và Mật cố tri nên bắt cặp với nhau đi chung một đường. Tôi hỏi tiếp:
– Rồi các cha làm sao?
– Một số chống lệnh một số thỉ hành lịnh.
– Họ không nói ǵ à?
– Nói chớ sao không nói ! Họ bảo là phạm kỷ luật quân đội sẽ ra ṭa án binh khu.
– Ớn vậy à?
– Chống lệnh cấp trên đâu phải chuyện đùa ta! Chắc họ bảo sẽ cho các trạm phía trong bắt giữ chúng tớ lại. Nhưng chưa thấy ai bắt cả.
– Nếu họ cho người bắt th́ làm sao?
– Làm sao th́ mặc làm sao, dẫu có bề nào cũng chẳng có ghê mà ! Tụi tôi về quê chiến đấu chứ có theo giặc đâu mà sợ tội !
Tôi vẫn c̣n thắc mắc:
– Nhưng lệnh đâu lại có lệnh lạ kỳ vậy hả?
– Người ra lệnh cứ việc ra c̣n dưới này có thế nào cũng mặc. Cậu chưa rơ đầu đuôi, để tôi kể cho nghe. Số là ở khu Sáu vừa lập một trung đoàn mới chỉ có lính, rất thiếu cán bộ cậu biết không? Cho nên họ điện ra Hà Nội xin cán bộ. Sẵn dịp bọn này đang đi ngang qua đây, thế là bộ Tổng ra lệnh cho chúng tôi xuống Bác Kế để nhận công tác, tức là lắp vào cái trung đoàn mới đó và chỉ huy nó luôn.
– Sẵn ổ đẻ, sướng thấy bà, c̣n đ̣i ǵ nữa!
– Ổ ǵ mà đẻ sướng, cha non ! Có sướng mấy tôi cũng không đẻ mà ! Ổ tôi phải lót ở trong Nam th́ tôi mới đẻ. Mà ở trong đó tôi có sắn ổ rồi. Tôi mong về tới đó. Tôi phải về trong đó cơ! Sống chết cũng về mà! Chứ theo ông, ông bị phân công xuống khu này, ông có đi không ông nội “Thành bùn Tổ c̣?”
Câu hỏi như một đột biến trong tâm tư tôi.
Ừ nhỉ. Đó là lương tâm con người đối với Quê hương. Tôi có người yêu quê ở khu Năm đi về khu Năm. Sao tôi không đi với nàng. Nếu tôi xin đi khu Năm th́ chắc chắn được ngay. V́ khu Năm, khu Sáu, ngoài người địa phương, không ai đi. Ngược lại người ở khu Năm mà được đi Nam Bộ th́ lấy làm sung sướng. Chao ôi ! Cũng thời là con cháu Thành đồng Tổ quốc, nhưng đứa th́ con cháu ruột, đứa lại ghẻ.
(Cái Thành đồng Tổ quốc này có một thời bị cà nanh dữ dội. Số là cái “thành” này già Hồ tặng cho Nam kỳ không phải cho khu Năm khu Sáu. Đây là lời phỉnh vĩ đại nhất đối với dân Nam kỳ. Do sự phỉnh này mà dân Nam kỳ mới đưa ngực ra đỡ đạn cà-nông trong mười năm trời và lấy làm tự “h́u” so với các miền đất kháng chiến khác. “Tụi tao anh “rũng” nên mới được cái vinh dự to bằng bồ ấy.”
Do đó khu Năm khu Sáu phân b́. “Miền Nam đi trước về sau ! ” Cùng với Nam Bộ, khu Eo khu Éo cũng anh “rũn” nào có kém ai ? Tại sao già Hồ không tặng ǵ hết. Già Hồ thấy hơi khó xử, nên lập lờ nói tráo rằng: “Hồi đó tui tặng cái “thành” đó chung cho Miền Nôm” (từ vĩ tuyến mười bảy trở dzô!! Ô hô hô!) Nhưng cái huy hiệu thành đồng nhỏ hơn hai ngón tay tréo, chỉ được phát không cho dân Nam kỳ chứ không phát cho dân khu Năm khu Sáu.
Nhưng dù được nhận mặc ḷng, dân Nam kỳ cũng không có đứa nào thèm đeo trên ngực v́ cái ngực bằng xương thịt th́ lỗ chỗ dấu đạn mút-canh-tông và cà nông, c̣n áo th́ tả tơi nên không c̣n chỗ đeo. C̣n một chỗ khả dĩ được cái huy hiệu đó nhưng không thể đeo v́ đeo ở đó, không ai nḥm thấy. Vinh quang cũng có lắm thứ vinh quang, thứ vinh quang thiệt t́nh là ghế ngồi, đất đứng th́ dân Nam Kỳ không được cấp phát bao giờ.
C̣n vinh quang hàng mă th́ được cấp phát nên không nhận. Đại khái cái Thành Đồng nó như vậy đó, cho nên dân Nam Kỳ trên đường này và trong thời kỳ chống Mỹ ở Nam Bộ có những danh từ nhại lại: Thành bùn Tổ cuốc, Thành bùn Tổ c̣).
Còn tiếp ....
Bookmarks