Sàig̣n, ngày 7/5/1975,
Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2, Sàig̣n.
Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ.
Xe thứ nh́ có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngơ TK9, t́m địa chỉ.
Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi,
– Phải nhà này có Vương Mộng Long không?
Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi pḥng khách. Tôi ở nhà một ḿnh. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để t́m kiếm vợ con tôi.
– Phải! Các ông cần ǵ?
– Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh ḿnh, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời,
– Tôi đây!
– À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?
– Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.
Ông Thượng Tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói,
– Vất vả hai ngày nay tôi mới t́m được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui ḷng tiếp tôi hay không?
– Vâng, mời ông vào nhà.
Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm ṭ ṃ bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn pḥng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, ch́a tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang tiếng Bắc pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời,
– Anh Long có nhận ra tôi không?
– Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đă gặp ông lúc nào.
– Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.
– À…
– Tháng Sáu năm ngoái, anh đă phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?
– Ư…ư.. ông cứ tự nhiên…
Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đ́nh tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi t́nh nguyện đi lính Ngụy hay đă bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?
Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của ḿnh không có ư tầm thù. V́ thế, ḷng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại. Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng-Trị, ở Tây-Nguyên.
Ông khách thao thao,
– Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư Đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy ḥa b́nh…
Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi “diplôme” th́ Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suưt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư Đoàn 320/ Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường B́nh-Định, một nửa xuôi Jarai.
Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suưt tí nữa ông ta đă bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đă thua tôi (TĐ82/BĐQ).
Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7&8 năm 1974) ông ta la lớn,
– Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng ĺ như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!
Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nh́n tôi, tán dương,
– Ĺ thật! Tớ khen cậu đó!
Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn Ma Thuột tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn 2 Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông Trung Tá Trung Đoàn Trưởng CSBV đă được thăng cấp Thượng Tá. Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.
Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đă ba lần, ông ta thắc mắc,
– Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, ĺ lợm như thế?
Tôi chỉ trả lời thật gọn,
– V́ chữ hiếu!
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa măn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.
Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về. Nơi bực cửa, khách nh́n vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm,
– Tôi c̣n ở Sàig̣n ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đă đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, v́ anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng th́ tôi tối, anh tối th́ tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một v́ sao rụng.
– Cám ơn ông.
Vào lúc người sĩ quan Cộng-Sản cất bước, tôi cố với theo,
– Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông. Thế là ḥa. C̣n trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, th́ ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đă chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.
– Anh nói đúng. Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có “Thằng Hai Nâu”. Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh…
Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.
Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm.
Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải.
Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn.
Từ tháng giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lư ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đă lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn thanh Danh (k19VB) và Lê văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín.
Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành phố để hỏi hồ sơ của ḿnh th́ được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm.
Một anh bạn gốc Không-Quân đă giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Pḥng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.
Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, t́m dư hương ngày cũ. Tôi đạp xe một ṿng quanh Sàig̣n, gặp người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn Huấn, cựu Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22/ Biệt Động Quân giúp tôi 100 ngh́n đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (k21VB) cho tôi 100 ngh́n đồng. Và anh Vũ Văn Ích, một người anh con d́ con già của tôi cũng giúp tôi 100 ngh́n đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.
C̣n tiếp...
Bookmarks