LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
Chuyện Biệt Kích
W
Phần V
TRỞ VỀ TỪ CƠI CHẾT
(1980-l994)
22. NHỮNG NHÀ TÙ Ở THANH HÓA.
Đối với đa số lính biệt kích, Phong Quang thể hiện một giai đoạn thay đổi rơ rệt. Một thời họ đă từng là những tên gián điệp biệt kích bí ẩn đáng ghét hơn là đáng sợ. Sự đầu hàng của Cộng hoà Việt Nam và việc chuyển hàng ngh́n tù nhân dân sự và quân sự của Nam Việt Nam đă làm thay đổi cách nh́n của miền Bắc.
Một số lính quân đội Nam Việt Nam ở Phong Quang, Hà Tây và Nam Sơn c̣n rất ngạc nhiên khi thấy rằng hàng trăm tên biệt kích c̣n sống sót. Khi những lính Nam Việt Nam trở về nhà và sau đó rời khỏi Việt Nam, họ thường viết về những người lính biệt kích đă không chịu chết…
Đầu năm 1982, nhóm cán bộ An ninh Quốc gia đă đến Thanh Phong để phỏng vấn một số biệt kích đă ở Long Thành giữa những năm 1960. Trọng tâm thẩm vấn là hiểu biết của lính biệt kích về Vơ Đại Tôn, thành viên cũ ban lănh đạo kỹ thuật chiến lược, đă ở Long Thành trong giai đoạn đó. Tôn đă bị bắt ở Lào trong vụ xâm nhập "kháng chiến" xuất phát từ Thái Lan. Sau đó chính phủ Lào đă chuyển anh ta cho Việt Nam và hắn được đưa ra Hà Nội để xét xử.
Trong cuộc họp báo, Tôn đă gây bực tức cho những người bắt anh ta bằng việc tấn công Chính phủ Hà Nội thay cho việc thể hiện thái độ ăn năn. Cuộc họp báo đă phải hoăn lại và Tôn đă bị đưa trở lại biệt giam. Những người lính biệt kích cũng đă đóng góp chút ít trong cuộc phỏng vấn của các quan chức Hà Nội.
Cuối năm 1979 những tù nhân ở Thanh Phong dần dần được tha. Mùa hè năm 1982 đa số lính biệt kích đă được tha về nhà. Trước khi tha, nhân viên An ninh Quốc gia đă nói với nhiều người trong số họ và thông báo những lợi ích tiếp tục của họ đối với Nhà nước. Họ đă nói cho một số người được lựa chọn phải chuẩn bị để trong tương lai "đón khách" bằng các tín hiệu đặc biệt người ta mong đợi. Những người biệt kích này sẽ làm những ǵ họ được yêu cầu.
Tháng 12 năm đó, những người c̣n lại ở trại K1 được chuyển về trại giam Trung ương ở huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Mùa thu năm 1987, 7 biệt kích cuối cùng ở đó rốt cuộc đă được phóng thích trở về nhà, trong số họ có Nguyễn Hữu Luyến, nhân vật ṇng cốt cứng rắn đến cùng.
Cho đến năm 1989 phần lớn phạm nhân cải tạo lao động ở Thanh Lam đă được tha. Một số người dân tộc H'mông được tuyển chọn ở Lào để hoạt động trong các toán gián điệp đầu năm 1962, không có nhà cửa, gia đ́nh nên tiếp tục ở lại trại. Thêm hai người nữa đă chết ở đó năm 1993. Một lính biệt kích được tha theo lời hứa danh dự đối với trại cải tạo lao động đă kể lại việc trở về nhà của anh ta sau 15 năm lao động nặng nhọc.
Tôi hỏi anh ta: "Anh cảm thấy như thế nào?"
"Cảm thấy như thế nào ư? Anh không thể tưởng tượng được".
"Ấy! Tôi muốn nói rằng gia đ́nh anh phản ứng như thế nào?"
Người lính biệt kích kể lại chuyện này:
"Tôi nhớ khi trở về đến ga tàu Sài G̣n, lúc đó ban đêm và tôi biết không thể đi bộ về ngay với mẹ tôi được. Tôi đă không liên lạc ǵ với bà 15 năm qua. Chúng tôi được phép viết thư về nhà sau năm 1976 song đa số chúng tôi nghi ngờ rằng đó là âm mưu của Bộ Nội vụ v́ vậy chúng tôi chẳng bao giờ viết thư về nhà. Một số chúng tôi được thăm thân ở trại nhất là những người có người thân ở miền Bắc. Tôi nhớ Nguyễn Thái Kiên đă được anh ḿnh là Nguyễn Thái Phiệt đến thăm, mọi người nói rằng ông này là biên tập viên báo Quân đội nhân dân. Đa số chúng tôi không muốn gia đ́nh chi phí cho chuyến đi Bắc để thăm chúng tôi. Chúng tôi có thể giấu diếm gửi thư qua những người thăm của họ. Trong trường hợp của tôi, tôi không viết thư về nhà.
Tôi biết nếu tôi đi ban ngày có thể sẽ gây ngạc nhiên lớn. Anh phải hiểu là suy nghĩ và cách hành động của tôi được thực hiện theo một thực tế là tôi đă xa nhà đi lao động vất vả 15 năm. Tôi không thể tả lại được và không ai có thể tả được. Tôi đi bộ từ trung tâm Sài G̣n về nhà mẹ tôi. Tôi ngủ ngoài đường, ngay trong trường hợp này tôi cũng đă chạy đến trạm tuần tra kiểm soát. Cuối cùng tôi chẳng có giấy tờ ǵ và giấy thông hành của tôi đă hết hạn. Tôi t́m thấy một quán cà phê nhỏ đối diện với nhà mẹ tôi. Lúc đó khoảng vài giờ trước lúc rạng đông và tôi ngồi ở đó.
Lúc tảng sáng th́ mẹ tôi ra khỏi nhà, tôi vẫn ngồi đó và quan sát bà, tôi chú ư nh́n xem có người nào khác ở chung quanh, tôi không nh́n thấy ai và tin rằng là an toàn.
Mẹ tôi bắt đầu đi xa khỏi nhà và tôi đi theo rất nhanh cho đến khi đến cạnh bà, tôi đi bộ song song cùng với bà mấy bước, chẳng nói ǵ, tôi không tin rằng bà nhận ra khi tôi ở đó một lúc nhưng tôi đoán là bà đă cảm nhận thấy sự có mặt của tôi và điều đó làm bà giật ḿnh, bà dừng lại vài giây. Tôi nh́n bà mà nói "Mẹ ơi, con đây mà".
Mẹ tôi chỉ nh́n chằm chằm tôi trong mấy giây, sau đó túm chặt tay tôi và dắt tôi trở về nhà như hồi tôi c̣n con nít và bà đă đưa về nhà khi tôi làm điều ǵ đó xấu.
Bà đưa tôi đến buồng trước, tới trước bàn thờ gia tiên. Có một bức ảnh của cha tôi ở chỗ dành cho những người đă chết, bên cạnh đó là ảnh của tôi. Mẹ tôi nh́n tôi, sau đó lại nh́n bức ảnh, bà nh́n tôi lần nữa sau đó lại nh́n bức ảnh. Hồi sau bà nói: "Đó là con, mẹ tưởng là con đă chết".
Sau đó mẹ tôi hỏi tôi không nhiều. Tôi ở nhà, c̣n cái ǵ nữa cần phải nói? Nguyễn Văn Hinh chậm răi quay đi nh́n ra cửa sổ không nói lời nào, không người nào cần đến.
PHẦN KẾT
Khi viết cuốn này th́ hơn một trăm lính biệt kích trước đây đă được tái định cư ở Mỹ. Gần hai trăm người sống sót cùng với hàng trăm mẹ goá con côi của những người đă chết vẫn c̣n ở lại Việt Nam. Mặc dù có một số người muốn ở lại, hầu hết trong số họ muốn rời khỏi Việt Nam.
Để đủ tiêu chuẩn được nhập cư vào Mỹ theo chính sách hiện hành th́ những người lính biệt kích trước đây phải ở tù ít nhất là ba năm sáu tháng sau 5/1975. Cơ quan nhập cư và nhập tịch (INS) kết luận rằng bất cứ trường hợp ở tù nào trước thời hạn đó đều được coi là tù nhân chiến tranh bị giam giữ trong thời chiến, trên cơ sở INS vận dụng chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Khi viết cuốn này, INS không tin rằng hầu hết lính biệt kích đang ở Việt Nam vẫn c̣n bị giam giữ 3 năm sau tháng 5 năm 1975 và tin là họ đă được giảm án tù trước thời hạn đó. Hầu hết những người làm đơn xin phỏng vấn nhập cư đều bị giám đốc khu vực của INS ở Băngkok từ chối.
Nguyễn Hữu Luyện, người tổ chức và là cố vấn cho toán HECTOR là một trong những lính biệt kích cuối cùng được phóng thích sau 21 năm lao động khổ sai. Anh ta cố trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền và như dự đoán đă bị bắt. Đầu năm 1992, anh ta đă được phóng thích và được phép rời Việt Nam để tái định cư ở Mỹ. Hiện tại Luyện và vợ anh ấy sống ở Đông Boston, bang Massachusetts. Anh ta học tiếng Anh và dạy tiếng Việt. Thế là cố gắng để sinh tồn.
Một trong bảy người cuối cùng được phóng thích khỏi lao động khổ sai là một người dân tộc Mường tên là Quách Rạng, người đă tới ngôi nhà mới của anh ta tại Chamblee, bang Georgia vào năm 1992. Ngọc Ban, vợ Rạng là một người phụ nữ đầy nghị lực, đă nói chuyện với một đám đông tụ tập khoảng 400 người vợ và thành viên của các gia đ́nh người Việt Nam ở địa phương tại Atlanta, Georgia vào tháng 7/1992. Chị ấy đă đề cập đến việc người ta nói rằng chồng chị đă mất tích. Mặc dù chị vẫn được trả tiền tuất nhưng chị vẫn tiếp tục chờ chồng trở về. Chị ấy tin chồng chị sẽ trở lại.
Thành viên của các toán từ CASTER đến RED DRAGON đă vượt Thái B́nh Dương và định cư khắp nơi trên nước Mỹ, từ Boston đến Seatle. Trong số họ có Mai Nhuệ Anh, chỉ huy toán HECTOR 2; Quách Nhung, linh hồn sống sót của toán HORSE; Trương Tuấn Hoàng, điệp viên cuối cùng được cử đi bổ sung cho toán REMUS: và Hà Văn Chấp, chỉ huy toán CASTER; người cùng toán của anh ta Đinh Anh là những thành viên của toán đầu tiên được đưa vào Bắc Việt Nam theo kế hoạch của CIA nhằm tiến hành hoạt động điệp vụ chống Hà Nội. Dù sao, trong thế giới ngày nay người ta cũng chưa biết liệu Washington có giao một nhiệm vụ thiện chí nào cho các toán đó không.
Điệp viên đơn trước đây là Trần Quốc Hùng đă thực hiện một chuyến xâm nhập. Hưng đă viết về những kinh nghiệm ở tù của ḿnh và của đồng đội trong ba cuốn sách với đầu đề là "Thép đen" (Black Steel). Các chương của cuốn sách đă được đọc trên đài phát thanh tiếng Việt ở California. Người ta đă chú ư theo dơi các buổi phát thanh này trong khi các chương tŕnh nhạc kịch trên ti vi vào buổi chiều th́ bị quên lăng. Lê Văn Bưởi một điệp viên đơn cũ đă tới Mỹ năm 1993. Khi viết cuốn này th́ Bưởi đang điều trị bệnh ung thư ở Utica New York. Anh ta bị ung thư ṿm họng và có thể không sống nổi để đọc cuốn sách này. Trước khi rời khỏi thành phố Hồ Chí Minh năm 1993. Bưởi đă được điều trị bằng phương pháp chạy tia ở một bệnh viện địa phương. Theo những người làm công tác xă hội ở Utica th́ Bưởi không chỉ chạy tia quá nhiều ở thành phố Hồ Chí Minh mà phương pháp điều trị này c̣n lan ra cả toàn bộ đầu của anh ta. Trí nhớ của Bưởi mất dần và đầu bị đau thường xuyên. Anh ta vẫn cố giải thích những điều anh ta và những người yêu nước của ḿnh đă cố làm trong khoảng 35 năm nay. Anh ta mong rằng khi chết không ai phải bận tâm ǵ cả.
Lê Văn Ngung, trước đây là chỉ huy của toán HADLEY, hiện nay làm nghề chạm trổ thiếc và tạo khuôn mẫu cho Kirk và Stieff ở Baltimore, bang Maryland. Công việc anh ta làm là một công việc nghệ thuật đầy kiên nhẫn. Vũ Viết Tinh, một thành viên trong toán hiện nay là người gác cổng của bệnh viện ở Indiana và đă lấy vợ hồi tháng 12/1994.
Bookmarks