Đọc lại lịch sử qua hai tác phẩm của học giả Trần Trọng Kim
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2017/...m-cua-hoc.html
https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...m-cua-hoc.html
Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên
Đọc lại lịch sử qua hai tác phẩm của học giả Trần Trọng Kim
Lệ Thần Trần Trọng Kim (1883-1953) là một sử gia thời cận đại. Người ta biết đến ông qua tác phẩm chính “Việt Nam sử lược” gồm 5 Phần:
(1) Thượng Cổ thời đại;
(2) Bắc Thuộc thời đại;
(3) Tự Chủ thời đại;
(4) Nam Bắc Phân Tranh thời đại; và
(5) Cận Kim thời đại.
Trong vai tṛ của nhà viết sử, Trần Trọng Kim đă cố gắng kể lại những “thời đại” mà Việt Nam đă trải qua, từ thời Thượng cổ, khởi đầu từ nước Âu Lạc, đến thời cận kinh dưới triều vua Gia Long. Bằng một giọng văn, có thể nói là “trung thực” của người chép sử, ông đă cho người đọc, vốn là những kẻ hậu sinh, có một cái nh́n tổng quát về những giai đoạn lịch sử.
Học giả Trần Trọng Kim (1883-1953)
Phần Tựa của “Việt Nam sử lược” tác giả đă nêu lên quan điểm của một nhà sử học:
“Sử là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đă qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, t́m ṭi cái căn nguyên những công việc của người ta đă làm để hiểu cho rơ những vận hội trị loạn của một nước, những tŕnh độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đă phải lao tâm lao lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này”.
Ngược ḍng thời gian, măi đến thế kỷ thứ 13, nước ta đời nhà Trần mới có lịch sử dưới h́nh thức ghi chép các sự kiện quan trọng của các đời vua theo lối “biên niên sử” của Trung Hoa. Lối ghi chép đó, theo Trần Trọng Kim, thiếu hẳn sự giải thích nguyên nhân cùng những hậu quả của sự việc.
Vấn đề ở đây là “công tâm” của người viết sử khi kể lại chuyện lịch sử. Mà đă là con người th́ cái ṿng “tham, sân, si” luôn luôn chi phối, đối sừ gia đó cũng không phải là ngoại lệ. Thế cho nên, hậu thế khi đọc sử cần có sự sáng suốt trong việc đánh giá một sử gia.
“Việt Nam Sử Lược” (bản in trước năm 1975)
Có điều chắc chắn, một người viết sử, không ít th́ nhiều, luôn bị những t́nh cảm và chính kiến chi phối khi kể lại. Trần Trọng Kim nhận xét về lịch sử và tŕnh độ hiểu biết về sử của người Việt ngày xưa:
“Sử của ḿnh đă không hay, mà người ḿnh lại không mấy người biết sử. Là v́ cái cách học tập của ḿnh làm cho người ḿnh không có thể biết được sử nước ḿnh. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học th́ chỉ học sử Tàu, chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương ǵ cũng lấy điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước ḿnh th́ nhất thiết không nói đến. Người ḿnh có ư lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm ǵ. Ấy cũng là v́ xưa nay ḿnh không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc ǵ cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự ḿnh th́ không có cái ǵ là cái đặc sắc, thành ra thật rơ như câu phương ngôn: "Việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng!" Cái sự học vấn của ḿnh như thế, cái cảm t́nh của người trong nước như thế, bảo rằng ḷng v́ dân v́ nước mở mang ra làm sao được?”
“Việt Nam Sử Lược” (bản in sau năm 1975)
Nếu “Việt Nam sử lược” được coi là “chính sử” th́ tác phẩm thứ hai, “Một cơn gió bụi”, lại được nhiều người đọc gọi là “hồi ức lịch sử”. Khi nói đến “hồi ức” người ta liên tưởng đến những biến cố mà chính tác giả có dự phần.
Tác phẩm thứ hai của Trần Trọng Kim lấy bối cảnh là nước Việt Nam từ năm Quư Mùi (1943) đến năm Mậu Tư (1948). Tác giả kể lại những biến cố trong suốt thời gian được mô tả là “gió bụi” trong suốt cuộc đời của ḿnh. Đó cũng là giai đoạn mà nước Việt trải qua một xung đột ư thức hệ chính trị mới, từ đó dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam với sự tham gia của hai khối Tư Bản và Cộng Sản. Viết về Việt Minh, sử gia Trần Trọng Kim giải thích:
Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên
“Ông Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu và phao tin rằng ông đă chết trong ngục khi bị bắt ở Hương Cảng, và lại đổi tên là Lư Thụy rồi chen lẫn với những người cách mệnh Việt Nam ở bên Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập ra đảng cộng sản gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, và cho người về hoạt động ở miền thượng du Bắc việt. V́ vậy thuở ấy người ta mới biết là có đảng Việt Minh.
“Đến cuối năm 1940 nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây đánh vào Lạng Sơn, những người như bọn ông Trần Trung Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của ông Phan Bội Châu lập ra khi trước, theo quân Nhật về đánh quân Pháp hồi tháng chín năm 1940. Sau v́ người Nhật kư hiệp ước với người Pháp rồi trả lại thành Lạng Sơn cho người Pháp, ông Trần Trung Lập bị quân Pháp bắt được đem xử tử. Toán quân phục quốc vỡ tan, có một số độ 700 người, trong số ấy có độ 40 nữ đảng viên theo ông Hoàng Lương chạy sang Tàu.
“Vậy các đảng của người Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng năm 1942 trở đi, có Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và những người cách mệnh không có đảng phái v...v...
(hết trích)
“Một cơn gió bụi” (bản in sau và trước 1975)
Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên
Nhật báo Điện tín loan tin Đế quốc Việt Nam độc lập năm 1945
Thời điểm nổi bật trong cuộc đời “chính trị bất đắc dĩ” của nhà viết sử họ Trần là lúc ông đứng ra thành lập chính phủ năm 1945 trong t́nh trạng Pháp và Nhật đang tranh dành ảnh hưởng tại Việt Nam. Trước đó, tiên sinh đă rời đất nước để sang “tị nạn” tại “Chiêu Nam Đảo” mà ngày nay là đất nước Singapore. Từ Singapore ông lại đi xe lửa về Bangkok, Thái Lan, và cuối cùng là về Huế để thành lập chính phủ theo yêu cầu của Vua Bảo Đại với sự hỗ trợ của người Nhật.
“Một cơn gió bụi” ghi lại những cảm tưởng về Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, qua cuộc hội kiến lần đẩu tiên tại Huế:
“Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như thế nào. V́ trong thời bảo hộ của nước Pháp, h́nh như ngài chán nản không làm ǵ cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7 tháng tư tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đúng đắn.
“Ngài nói: “Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đă không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đă tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó với mọi việc.“
“Tôi tâu rằng: “Việc lập chính phủ, ngài nên dùng những người đă dự định từ trước, như Ngô Đ́nh Diệm chẳng hạn, để có tổ chức sẵn sàng. Tôi nay th́ phần già yếu bệnh tật, phần th́ không có đảng phái và không hoạt động về chính trị, tôi xin ngài cho tôi về nghỉ.“
“Ngài nói: “Trẫm có điện thoại gọi cả Ngô Đ́nh Diệm về, sao không thấy về.“
“Tôi tâu: “Khi tôi qua Sài g̣n, có gặp Ngô Đ́nh Diệm và ông ấy bảo không thấy người Nhật nói ǵ cả. Vậy hoặc có sự ǵ sai lạc chăng. Ngài cho điện lần nữa gọi ông ấy về. C̣n tôi th́ xin ngài cho ra Bắc”.
“Ngài nói: “Vậy ông hăy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hăy ra Bắc.“
“Lúc ấy tôi mệt nhọc lắm, và có mấy người như bọn ông Hoàng Xuân Hăn đều bảo tôi trở lại. Tôi chờ đến gần mười ngày. Cách độ ba bốn hôm tôi lại đi hỏi ông tối cao cố vấn Nhật xem có tin ǵ về ông Diệm chưa. Trước th́ cố vấn Nhật nói chưa biết ông Diệm ở đâu, sau nói ông Diệm đau chưa về được. Đó là lời tối cao cố vấn, chứ tự ông Diệm không có điện riêng xác định lại.
“Vua Bảo Đại thấy t́nh thế kéo dài măi cũng sốt ruột, triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập chính phủ mới. Ngài nói: “Trước kia người ḿnh chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng ḿnh cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ th́ người Nhật bảo ḿnh bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên v́ nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.“
“Tôi thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu t́nh thế, liền tâu rằng: “Nếu v́ quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức ǵ cả, xong ngài nói v́ nghĩa vụ đối với nước, th́ dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi t́m người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.“
“Tôi ra bàn với ông Hoàng Xuân Hăn để t́m người xứng đáng làm bộ trưởng. Nguyên tắc của tôi định trước là lựa chọn những người có đủ hai điều kiện. Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục”.
(hết trích)
Vua Bảo Đại ở Hồng Kông năm 1948 sau khi chấp nhận sống lưu vong
Cuối cùng, nội các Trần Trọng Kim cũng ra mắt đồng bào ngày 17/04/1945 với thành phần gồm một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ và bốn luật sư. Nhà sử học, nhà giáo và là “nhà chính trị bất đắc dĩ” Trần Trọng Kim tiết lộ trong hồi ức của ḿnh:
“Có một điều nên nói cho rơ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ t́m lấy người mà làm việc. Và tôi đă định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc trong nước th́ tôi thôi ngay, không làm nữa”.
Nội các Trần Trọng Kim có danh sách cụ thể như sau:
- Nội các Tổng trưởng: giáo sư Trần Trọng Kim;
- Nội vụ Bộ trưởng: y sĩ Trần Đ́nh Nam;
- Ngoại giao Bộ trưởng: luật sư Trần Văn Chương;
- Tư pháp Bộ trưởng: luật sư Trịnh Đ́nh Thảo;
- Giáo Dục và Mỹ Nghệ Bộ Trưởng: toán học thạc sĩ Hoàng Xuân Hăn;
- Tài Chánh Bộ Trưởng: luật sư Vũ Văn Hiền;
- Thanh Niên Bộ Trưởng: luật sư Phan Anh;
- Công Chính Bộ Trưởng: kỹ sư Lưu Văn Lang;
- Y tế Bộ trưởng: y khoa bác sĩ Vũ Ngọc Anh;
- Kinh tế Bộ trưởng: y khoa bác sĩ Hồ Bá Khanh;
- Tiếp tế Bộ trưởng: cựu y sĩ Nguyễn Hữu Thi.
Tiếc thay, nội các “Đế quốc Việt Nam” của học giả Trần Trọng Kim chỉ tồn tại hơn 4 tháng, từ ngày 17/04 đến 25/08/1945. Tuy nhiên, có 4 điều đặc biệt mà nội các này đă thực hiện:
(1) Lập lại quốc hiệu Việt Nam;
(2) Dùng tiếng Việt làm quốc ngữ và Việt hóa giáo dục;
(3) Đ̣i lại Nam kỳ (Cochinchine) để thống nhất lănh thổ; và
(4) Soạn hiến pháp nhấn mạnh tự do và độc lập.
Điểm yếu của nội các là chưa có đủ thời gian cần thiết để thành lập Quốc hội, chưa có quân đội và chưa được nước nào công nhận ngoài Đế quốc Nhật Bản. Nội các này, sau hơn 4 tháng đă tan ră khi bị Việt Minh “cướp chính quyền”. Đây là cụm từ không mang tính miệt thị, mà trái lại Việt Minh rất tự hào khi thừa nhận họ đă “cướp chính quyền”!
Nội các Trần Trọng Kim
“Một cơn gió bụi” có đoạn viết về đảng Việt Minh thời 1945, khi đó đang hoạt động mạnh, trong khi lính bảo an ở các địa phương bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Trần Trọng Kim viết:
“Dân gian bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng v́ thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt ǵ cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh, nói họ đă có các nước Đồng Minh giúp đỡ cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ư ngă về Việt Minh”.
Trong một lần tiếp xúc với một cán bộ Việt Minh, người này đă khẳng định với Thủ tướng Trần Trọng Kim: “Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Đồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường”. Cụm từ “cướp chính quyền” đă trở thành sự thật khi Nhật Bản đầu hàng v́ hai quả bom nguyên tử. Diễn biến lịch sử được nhà sử học thuật lại như sau:
“Vua Bảo Đại gọi tôi vào nói: "Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hăy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem t́nh thế biến đổi ra sao đă". Tôi bất đắc dĩ phải tạm ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan Kế Toại điện vào xin từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời.
“Cách hai ngày sau, ngày 19/8, các công chức ở Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu t́nh. Đảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm lấy Bắc Bộ. Được mấy ngày ông Hồ Chí Minh về làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn thể thanh niên và các người trí thức ở bắc bộ điện vào Huế xin vua Bảo Đại thoái vị và nhường cho Hồ Chí Minh.
“Trong t́nh thế nguy ngập như thế, ở Huế c̣n có người bàn sự chống cự. Tôi muốn biết rơ sự thực, liền gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi xem có thể trông cậy bọn ấy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói: "Tôi có thể nói riêng về phần tôi th́ được. C̣n về phần các thanh niên tôi không dám chắc".
“Bọn thanh niên tiền tuyến trước rất nhiệt thành nay c̣n thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không ra ǵ, đạn dược không đủ, c̣n làm ǵ được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu ḷng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ c̣n cách lui đi là phải hơn cả.
“Tôi vào tâu vua Bảo Đại: "Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đă nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải hơn cả. V́ dân ta đă bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, ḿnh ngăn lại th́ vỡ lở hết cả. Ḿnh thế lực đă không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước".
“Vua Bảo Đại là ông vua thông minh, hiểu ngay và nói: "Trẫm có thiết ǵ ngôi vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của một nước độc lập c̣n hơn làm vua một nước nô lệ".
“Nhờ ngài có tư tưởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần t́nh thế nguy ngập, phần sợ hăi, c̣n ai dám nói năng ǵ nữa. Đến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến nữa. C̣n các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là t́nh cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.
“Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: "Quân đội Nhật c̣n trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật c̣n có thể giữ trật tự". Tôi nghĩ quân Nhật đă đầu hàng, quân Đồng Minh sắp đến, ḿnh nhờ quân Nhật đánh người ḿnh c̣n nghĩa lư ǵ nữa, và lại mang tiếng "cơng rắn cắn gà nhà". Tôi từ chối không nhận.
Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên
(hết trích)
Thế là Việt Minh “cướp chính quyền”, vua Bảo Đại thoái vị, và ông Trần Trọng Kim ra ở nhà đă thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế. Được mấy ngày, Việt Minh vào đưa vua Bảo Đại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.
Người dân một phần v́ tuyên truyền của Việt Minh, một phần v́ không nắm rơ t́nh h́nh nên có thái độ coi chính phủ non trẻ của ông Trần Trọng Kim là “bù nh́n” do người Nhật sai khiến.
Chính vua Bảo Đại khi “lưu vong” ở Hồng Kông có nói chuyện với một phóng viên của một tờ báo bên Pháp: "Người Nhật thấy chúng tôi cương ngạnh quá, tỏ ư tiếc đă để chúng tôi làm việc".
Về sau, khi vua Bảo Đại gặp lại Trần Trọng Kim tại Hồng Kông, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đă nói một câu chua chát: “Chúng ḿnh một già một trẻ mắc lừa bọn du côn” với hàm ư đă nghe lời tuyên truyền của Việt Minh.
Hồ Chí Minh và “công dân” Vĩnh Thụy
Để kết thúc bài viết này về sử gia Trần Trọng Kim, chúng tôi xin trích một đoạn nói lên nỗi ḷng của ông:
“Cuộc đời của tôi đi đến đấy đối với người ngoài cho là thật hiu quạnh, song tự tôi lại thấy có nhiều thú vị hơn là những lúc phải lo toan làm công việc nọ kia, giống như người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt rồi hết tṛ, đâu lại vào đấy. Đàng này ngồi yên một chỗ, ngắm rơ tṛ đời và tự ḿnh tỉnh sát để biết cái tâm t́nh của ḿnh. Tôi nhớ lại câu cổ nhân đă nói:
"Hiếu danh bất như đào danh, đào danh bất như vô danh". Muốn có danh không bằng trốn danh, trốn danh không bằng không có danh”.
***
Tham khảo:
Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên
Bookmarks