Có bài học nào mà học đă 37 năm lại chưa thuộc ? Thưa đó là “bài học mất nước”. Nói cách khác đó là bài học “Đạo mất trước, Nước mất sau ”, mà từ xưa đến nay ta vẫn chưa thuộc. Hay c̣n có thể nói đó là bài học “nỏ thần” đă bị cướp mất trong truyện huyền thoại Kim-Quy, mà hầu hết người Việt chúng ta đều đă được đọc hay nghe kể lại từ thời niên thiếu. Nhưng đă có mấy ai thuộc và thấu hiểu được hết ư nghĩa triết lư cao độ ẩn chứa trong huyền thoại này? V́ kể từ vào cuối thế kỷ 19 dưới thời Pháp thuộc, phần đông sĩ phu thời bấy giờ bị mất hết sĩ khí v́ ham sống sợ chết, trước cái gọi là “văn minh thuốc súng” của phương Tây như thi sĩ nhà nho Trần Tế Xương (1871-1907) đă thốt lên : “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo ”(TTX./ ”Than Đạo Học”) và đă châm biếm cái hạng sĩ phu vong thân, ích kỷ, ỷ lại, vô ư thức trách nhiệm đối với đất nước dân tộc, mà chỉ biết lo “vinh thân ph́ gia”, nên cắm đầu chạy theo cái học ngoại lai để kiếm chút bơ thừa sữa cặn : “Chi bằng đi học làm ông Phán / Tối rượu sâm banh sang sữa ḅ” (TTX./ “Chữ Nho”). Hay như nhà cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940) cũng đă mỉa mai cái hạng trí thức này trong bài thơ “Sống”:
“Sống tưởng công danh, không tưởng nước
Sống lo phú quư chẳng lo đời
Sống mà như thế đừng nên sống
Sống tủi làm chi đứng chật trời ” !
Cái hạng trí thức “giá áo túi cơm” này thời nào cũng có, ngày xưa th́ ít nhưng ngày nay càng nhiều, v́ trào lưu cấp tiến nên chạy theo cái học ngoại lai đâm ra vong bản tức là mất cái gốc Nhân là cái Đạo nơi ḿnh : “nhân chi sở dĩ đạo giả”. (Tuân Tử), rồi thành ra vong thân tức không c̣n biết ḿnh là ai. Do đó mới có mặc cảm tự ti, hèn nhát, ích kỷ, ỷ lại… nên mới tủi nhục là người Việt, và v́ chấp ta ngă mạn đâm ra ngu dốt mà không chịu học, rồi cứ đi phổ biến nhiều điều sai lầm như Nho giáo là của Tàu, chữ Nôm là từ chữ Hán, hay huyền thoại là huyễn thoại, v.v... th́ tự nhiên không những “ăn cháo đá bát ” khi đi khinh chê cái tuyệt học của thánh hiền, mà lại c̣n tỏ vẻ “trí thức” để phê b́nh cái văn hóa của dân tộc ḿnh là thui chột : “Các nước phương Tây vượt trội bởi v́ văn hóa của họ lành mạnh, tâm lư của họ đúng đắn. Nước Việt Nam đau khổ và nghèo nàn bởi v́ văn hóa Việt Nam thui chột và tâm lư người Việt Nam bệnh hoạn.” ! (1) Nói cách khác, trí thức nào không thể phân biệt được sự khác nhau giữa huyền thoại và huyễn thoại, th́ điều đó chứng tỏ rơ rệt sự vong bản của ḿnh. V́ vậy không những đă không hiểu và không truyền bá được ư nghĩa đích thực của nó, mà lại c̣n đi cho là chuyện hoang đường. Cho nên người viết thiết tưởng cần nhắc lại sơ qua sự khác biệt này ở đây cho mọi người.
Huyền thoại hay huyền sử c̣n được gọi là chuyện “cổ tích” tức là chuyện có thực đă xảy ra với dấu (chứng) tích cổ xưa và đă được truyền khẩu trước khi được ghi chép lại theo thứ tự thời gian thành lịch sử, nên gọi đó là sử kư. Tuy những mốc liên hệ tương quan như là ai, cái ǵ, khi nào, ở đâu, tại sao, và thế nào (“the 5W’s &H”: who, what, when, where, why & how) được kể lại và ghi chép không c̣n xác thực với thời gian, v́ dĩ nhiên phải bị thất thiệt bởi cái luật “tam sao thất bổn” không thể tránh, nhưng cốt lơi của truyện vẫn là “cổ tích”. Vả lại đặc tính của huyền thoại là để chuyển tải cái ư nghĩa triết lư nhân sinh của Việt tộc, là cái Đạo làm Người để lưu truyền cho con cháu. V́ Ở TRÊN ĐỜI NÀY KHÔNG CÓ G̀ QUAN TRỌNG HƠN CON NGƯỜI. V́ vậy nó được cơ cấu hóa bởi nền tảng triết lư với bốn yếu tố căn bản đó là “ từ, tượng, số, chế ”, cho nên nó mang đặc tính huyền bí, huyền diệu, mông lung…
“Về một dân tộc cũng thế : nền móng lư tưởng của nó đă được h́nh thành ở những bước sơ khởi mà nay ta gọi là huyền thoại và đó sẽ là nhiên liệu cho huyền sử. Huyền sử nói lên lư tưởng công cộng của một dân được biểu lộ qua những mụn mảnh của lịch sử. Phải dùng sử để có tính chất cụ thể, dễ hiểu cho mọi người. Nhưng tại sao lại dùng mảnh vụn lịch sử. Thưa trước hết v́ đó là thời tiền sử, khuyết sử, chưa có sử kư ghi chép các biến cố cách liên tục theo tuế thứ. Lẽ thứ hai quan trọng hơn nhiều đó là huyền sử chỉ là lư tưởng, mà đă là lư tưởng th́ không bao giờ hiện thực được đầy đủ : khi được điểm này lúc được điểm kia. V́ thế mỗi nhân vật huyền sử chỉ biểu hiện một vài tác động để biểu lộ một hai khía cạnh nào đó. Chính tính chất lư tưởng nọ mà Kinh Dịch kêu là “tại thiên thành tượng”, chưa đạt lúc “tại địa thành h́nh”.” (2)
Hay nói cách khác :
“Thiên địa trong con người phát xuất dưới h́nh thức linh tượng và sinh tượng, thường c̣n quá mênh mang mập mờ, nên Lăo kêu là “hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng”. Muốn cho bớt tính chất mung lung th́ lư trí t́m cách biến sơ tượng thành biểu tượng, rồi biểu tượng xé nhỏ ra thành nhiều từ ngữ, mỗi từ ngữ chỉ trỏ một vật, một sắc thái. Từ ngữ và biểu tượng làm thành cái thang để con người trèo lên đến sơ nguyên tượng. Đợt thấp nhất của cái thang là các từ ngữ chỉ thị vạn vật. Khi người ta dừng lại nơi này th́ Nho kêu là “ tế ư từ ”: vướng mắc lại ở từ ngữ th́ chỉ thấy sự vật riêng biệt không liên hệ chi với nhau. Đó là mầm mống cá nhân ích kỷ. Danh lư ở hai đợt này.
Đợt hai là biểu tượng chỉ ư nghĩa của một nhóm danh từ. Khi bị ngưng trệ nơi đây th́ biểu tượng đốc ra những truyện vui không có đạo lư, nghĩa là không có sức linh động, v́ nó chỉ có thể sinh động khi được móc nối lại sơ nguyên tượng. Khi sự móc nối có trung thực th́ mới ngộ đạo và biểu tượng trở thành huyền sử, huyền thoại : với ư nghĩa huyền diệu linh thiêng. C̣n khi sự móc nối giả tạo th́ bấy giờ huyền thoại đọa ra nghĩa huyễn thoại, huyễn hoặc. Điều đó xảy ra khi biểu tượng móc nối với các vọng phát vô thức. ” (3)
Do đó huyễn thoại là chuyện không có thực, hoàn toàn bịa đặt bởi óc tưởng tượng của người ta để mưu cầu lợi riêng. Nên c̣n nói là chuyện gạt con nít hay để dụ những kẻ ngây thơ nhẹ dạ dễ tin, làm lợi cho đảng CS chẳng hạn, như huyễn thoại “ Đạo Đức HCM ” sống gương mẫu với “cần-kiệm-liêm-chính” không lấy vợ để hy sinh v́ nước v́ dân ; hay huyễn thoại anh hùng “ Lê văn Tám ” và anh hùng “ Nguyễn Văn Bé ”. V́ vậy nhân dịp kỷ niệm biến cố 30/4 người viết thiết tưởng cần trích lại đây truyện Kim-Quy để nhắc lại cốt truyện và nhân tiện nêu lên ư nghĩa triết lư được ẩn chứa trong huyền thoại này để làm bài học cho những ai chưa biết hay đă quên.
“An Dương Vương nước Âu Lạc là người ở Ba Thục, họ Thục, tên Phán, nhân việc tiên tổ cầu hôn với con gái của Hùng Vương tên là Mỵ Nương không được nên sinh ra hàm oán ; Phán muốn hoàn thành ư chí của tổ tiên nên cử binh đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải hiệu là Âu Lạc mà ở, đắp thành ở đất Việt Thường; thành đắp xong lại sập. Vương mới lập đàn, trai giới cầu đảo ba tháng.
Ngày mồng bảy tháng ba bỗng thấy một ông già theo phương tây mà đến thẳng cửa thành, vừa đi vừa than rằng :
- Xây đắp thành này th́ bao giờ cho xong !
Vương rước vào trên điện, lạy và khóc rằng :
- Ta đắp thành này đă xong lại đổ, hao tổn công sức mà rồi không thành là tại làm sao?
Ông già thưa:
- Ngày nào có sứ giả Thanh Giang cùng đắp với Vương th́ thành ấy mới xong.
Nói đoạn cáo từ.
Rạng ngày, Vương đứng ở cửa Đông trông ra th́ thấy một con rùa vàng theo hướng Đông mà bơi lại ; rùa đứng trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là Thanh Giang sứ giả, biết rơ lẽ trời đất, âm dương, quỷ thần.
Vương mừng hỏi rằng :
- Điều đó ông già đă báo cho ta rồi.
Bèn sai lấy kim dư rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi v́ cớ ǵ mà thành không đắp được.
Kim Quy nói:
- Ở đây có tinh khí núi sông, con Tiên vương phụ vào để báo thù nước, lại có con gà trắng sống ngàn năm hóa làm yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu, trên núi có con quỷ, nguyên trước là một nhạc công chôn cất ở đây hóa ra quỷ. Ở bên có một cái quán để cho hành khách qua lại ngủ nhờ ; chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng là dư khí của quỷ thần. Hễ có người khách nào qua lại đến đấy ngủ nhờ th́ quỷ tinh hóa ra thiên h́nh vạn trạng mà giết hại rất nhiều. Bây giờ ta nên bắt con gà trắng và đứa con gái của chủ quán mà giết đi th́ tinh quái sẽ hết. Nhưng chắc là nó lại hóa ra yêu thư, sai chim cú ngậm thư bay lên trên cây chiên đàn, tâu với Thượng Đế để xin phá thành ấy đi. Thần này xin cắn cho rơi cái thư ấy xuống, Vương lập tức thu lấy tất nhiên thành đắp mới xong.
Kim Quy bảo Vương giả làm khách đi đường xin ngủ nhờ trong quán. Vương để Kim Quy ở trên ngưỡng cửa.
Ngộ Không nói :
- Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người, Lang Quân không nên ở lại, vả nay trời cũng chưa tối, nên đi mau đến chỗ khác để tránh họa.
Vương cười rằng :
- Sinh tử tại mệnh, quỷ mỵ mà làm ǵ, ta không sợ.
Mới ngủ lại đó.
Trong đêm có quỷ tinh đến ngoài kêu rằng :
- Ai ở trong nhà này phải mở cửa ra mau.
Kim Quy mắng rằng:
- Cửa đóng th́ mày làm ǵ nào?
Quỷ tinh phóng hỏa tan ra vạn trạng, quỷ dị đủ phương để khủng bố nhưng rốt cuộc cũng chẳng vào được nhà.
Đến lúc gà gáy, các quỷ đều chạy tan, Kim Quy khiến Vương đuổi theo đến núi Thất Diệu, quỷ tinh thu về hết cả, Vương trở lại quán trọ.
Sáng ngày, chủ quán đem người đồng đến để chôn thi thể của khách ngủ lại hôm qua, thấy Vương ngồi đó, nói cười như không có ǵ cả. Quán chủ bước đến, vái lạy rằng :
- Lang quân được như thế tức là Thánh nhân rồi, xin ban linh thuật để cứu sinh linh.
Vương bảo :
- Hăy giết con gà trắng của mày mà tế th́ quỷ thần tan hết.
Ngộ Không giết con gà trắng th́ đứa con gái tự nhiên cũng nhào xuống chết. Vương lập tức bảo người đào núi Thất Diệu, được một nhạc khí đời cổ và một hài cốt, sai đốt trộn thành tro mà quăng ra sông.
Lúc bấy giờ trời đă gần chiều, Vương cùng Kim Quy leo lên núi Việt Thường, quỷ tinh đă hóa ra chim si hưu ngậm thư bay lên cây chiên đàn.
Kim Quy bèn hóa ra một con chuột mà ḅ theo sau lưng cắn chân chim ; thư rơi xuống đất ; Vương lập tức thu lấy th́ sâu đă ăn hết hơn một nửa rồi.
Từ đó, quỷ tinh tan hết, không lại phá phách như xưa nữa.
An Dương Vương đắp thành nửa tháng đă xong ; thành dài và rộng ngh́n trượng, xoáy tṛn như h́nh con ốc, lại đặt tên là thành Thăng Long (chắc sai ; bản của Despierres ghi là Tư Long). Người nhà Đường gọi là thành Sát Quỷ Lôn bởi v́ thành rất cao lớn.
Kim Quy ở lại với Vương ba năm rồi từ về ; Vương bảo rằng :
- Nhờ ơn của người, thành đă vững chắc, nếu như có việc ngoài th́ lấy ǵ mà chống giữ?
Kim Quy thưa :
- “Quốc độ tu đoản, xă tắc an nguy” là vận của trời, nhưng người biết tu đức th́ có thể lâu dài được, Vương đă có ḷng ước nguyện th́ tôi đâu dám tiếc.
Mới cởi cái móng chân đưa cho Vương và nói :
- Thản hoặc giặc có đến th́ dùng móng này làm máy nỏ, đem ra mà đánh giặc th́ không có ǵ đáng lo.
Nói đoạn trở về Đông Hải.
Vương khiến bầy tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy móng này làm máy, hiệu là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỗ ; sau Triệu Đà đem quân đến xâm lăng, cùng Vương giao chiến ; Vương dùng thần nỗ mà bắn, quân Triệu Đà thua chạy, đóng đồn ở núi Trâu Sơn, đối luỹ với Vương. Triệu Đà biết Vương có nỏ thần nên không dám tái chiến mới khiến sứ thỉnh ḥa. Vương mừng, cắt từ sông Tiểu Giang trở về phương Bắc cho Triệu Đà cai trị, trở về phương Nam th́ do Vương cai trị (nay là sông Nguyệt Đức).
Chưa được bao lâu, Đà sai con vào túc vệ cầu hôn với con gái Vương là Mỵ Châu; Vương bất ư không ngờ gian kế của cha con Triệu Đà ; Trọng Thuỷ dỗ Mỵ Châu trộm lấy nỏ thần cho xem, rồi lén làm nỏ khác đổi lấy vuốt rùa giấu đi, nói dối với Mỵ Châu là trở về Bắc thăm cha mẹ.
Nhân đó nói rằng :
- T́nh phu phụ th́ không nỡ quên, mà ơn phụ tử cũng không nên bỏ, ta nay về thăm cha mẹ mà vạn nhất hai nước thất ḥa, Nam Bắc cách biệt, ta trở lại t́m nàng th́ nàng lấy vật ǵ mà làm giấu cho ta biết.
Mỵ Châu nói :
- Thiếp là nhi nữ gặp phải bước phân ly thực khó thắng được t́nh cảm ; thiếp có chiếc nệm gấm lông ngỗng thường mang trên người, đến lúc ấy th́ thiếp lấy lông ngỗng mà rải ở các ngă ba để chỉ cho chàng biết chỗ thiếp mà đến cứu.
Trọng Thuỷ từ tạ, cắp nỏ mà về báo cáo với Triệu Đà, Đà được nỏ rất mừng liền phát binh đánh Vương; Vương không lo pḥng bị, mải đánh cờ vây, cười rằng:
- Đà không sợ nỏ thần của ta sao?
Đến lúc quân Triệu Đà tiến bức, Vương mới xách nỏ ra bắn th́ thần cơ đă mất ; quân chạy tán loạn.
Vương chở Mỵ Châu lên ngựa chạy về hướng Nam, đến bờ biển, cùng đường, không có thuyền để sang ngang, Vương hét lớn lên rằng :
- Trời để mất ta hay sao? Giang sứ đâu mau đến cứu ta.
Kim Quy nổi lên trên mặt nước, mắng rằng :
- Người cỡi ngựa ở sau lưng là giặc đó, hăy giết nó ta mới cứu.
Vương bèn tuốt gươm chém Mỵ Châu.
Mỵ Châu ngửa mặt lên trời mà cầu xin :
- Thiếp là con gái, nếu có ḷng phản nghịch mưu hại đến phụ thân thời chết hóa thành bụi trần, bằng như một niềm trung tín, bị người phỉnh phờ thời hóa làm ngọc châu để rửa cái thù nhục nhă này.
Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy trên nước, hàu hến ăn vào ḷng hóa thành minh châu.
Vương cầm sừng văn tê bảy tấc, Kim Quy rẽ nước dẫn Vương vào biển, đời truyền tại núi Mộ Dạ, làng Cao Xá, châu Diễn tức là chỗ đó vậy.
Quân Triệu Đà đến chỗ ấy không thấy ǵ hết, chỉ thấy tử thi của Mỵ Châu ; Trọng Thuỷ ôm thây nàng mà về chôn ở Loa Thành, hóa làm ngọc thạch. Trọng Thuỷ thương cảm vô cùng, thấy là những chỗ trang điểm hay tắm gội của Mỵ Châu, tưởng nhớ đến h́nh dung của nàng bèn nhảy xuống giếng mà chết. Sau này, ai được Ngọc Châu ở Đông Hải, càng múc nước giếng ấy mà rửa th́ sắc ngọc càng thêm rực rỡ. Nhân tránh tên Mỵ Châu nên gọi ngọc châu là Đại Cưu, Tiểu Cưu vậy. ” (4)
Ư nghĩa triết lư :
“Câu truyện này ai cũng biết thuộc ḷng nhưng không mấy ai nghĩ rằng đó là câu truyện thật đă gây một ảnh hưởng quyết liệt trên sử mệnh nước Việt Nam hơn bất cứ câu truyện nào có chứng tích lịch sử cụ thể, v́ nó c̣n ảnh hưởng đến đời chúng ta hiện nay, khiến chúng ta đang điêu đứng v́ cộng sản hay các tư trào khác, bởi v́ chúng ta đă không c̣n hồn nước nữa. Cái hồn đó là móng châu kim quy đă bị đánh tráo mất rồi. Sự đánh tráo này quả là một biến cố tương đương với tội Adong Evà bên trời Tây, v́ nó làm cho lịch sử rẽ sang một lối khác, nó ghi dấu một sự mất mát nền tảng tức là mất cái Đạo làm người. Đạo người là Thiên Địa chi Đức, được biểu tượng trong con rùa có lưng tṛn tượng Thiên 4 chân tượng Địa. Vuốt rùa chính là tinh hoa của cái Đạo Trời đất, tức cũng là Nhơn Đạo. Cái Nhơn đạo đó đă bị Hán Nho choán mất chỗ, và nước Việt Nam cổ đại của Hồng Bàng đă chấm dứt với Triệu Đà. Cái nước Việt Nam do Triệu Đà khai sáng không c̣n là nước lư tưởng Văn Lang nữa. Người Việt Nam đă bị đuổi ra khỏi cái nước lư tưởng kia rồi và hiện nay có c̣n nói bốn ngàn năm văn hiến th́ cũng chỉ là biểu lộ một tấm ḷng hoài cổ về một nơi xa xôi ở măi tận xa xưa, chẳng c̣n mấy âm vang trong ḷng, nên không c̣n gây được hiệu lực nào nữa. Tuy nhiên có điều khác với cảnh huống Adong Evà v́ hai ông bà không những bị đuổi ra khỏi địa đàng, nhưng c̣n bị một thiên thần coi chừng không cho trở lại cây hằng sống, c̣n chúng ta “ai bắt được ngọc châu ở Đông Hải (hiểu là triết Đông) mà múc nước giếng Mỵ Châu lên rửa th́ càng rửa, sắc ngọc càng thêm rực rỡ”. Biết đâu nó sẽ rực rỡ đủ để soi đàng cho chúng ta trở lại được Văn Lang. ” (5)
Hai chữ “Mỵ Châu” và “Trọng Thủy” c̣n có nghĩa :
“Chữ Mỵ chỉ t́nh thương có thể quá đáng không c̣n biết đề pḥng, nên Mỵ Châu có thể là quá Nhân, ngược lại Trọng Thủy quá Trí. Rất có thể người xưa đă chơi chữ khi viết tên Trọng Thủy th́ viết chữ Thủy là bắt đầu, nhưng ngầm hiểu thủy là nước : mà thủy chỉ trí nên “trọng thuỷ” là duy trí v́ duy trí nên hoá ra “ngư tinh”, chỉ du mục bắc phương quá lư trí mà thiếu t́nh nghĩa.” (6)
[B]“V́ Minh triết phát xuất từ nông nghiệp giàu tính chất mẹ nên về sau gọi là Âu Cơ, rồi đến Mỵ Nương và Mỵ Châu[B]. Mỵ với Mễ đều chỉ Minh triết nông nghiệp là một, nên khi Mỵ Châu bị giết th́ cũng là lúc nền Minh triết Việt Mễ bị đàn áp trước Hán học đực rựa và tất nhiên nó đàn áp luôn đàn bà. Và cái luật tam ṭng tiên thiên chỉ sự tuân theo ba luật vũ trụ là biến dịch, loại tụ, giá sắc đốc ra ṭng ba cái đực rựa là : “Tại gia ṭng phụ ; Xuất giá ṭng phu ; Phụ tử ṭng tử” (7)
Đó là vài ba ư nghĩa triết lư thâm sâu trong huyền thoại Kim Quy với “Nỏ Thần”, là Tinh Hoa của Đạo Trời, Đạo Đất, là Hồn Nước, là Hồn Thiêng Sông Núi, là Tinh Thần Bất Khuất, là Tổ Hùng, là Tổ Quốc Dân Tộc, là Chính Nghĩa Tự Do Dân Chủ, là Đạo Nhân tức Đạo làm Người. Với h́nh ảnh Mỵ Châu là Minh Triết Việt tức triết lư nhân sinh mà nếu ta không chịu t́m hiểu để học hỏi, th́ làm sao có thể thấu hiểu được cái Đạo đó để mới BIẾT mà sống Đạo cho thành Nhân, thành Người? Do đó ta cứ tưởng là một khi sinh ra ta đă là người, nhưng thực ra nếu ta chưa giác ngộ được cái Đạo th́ ta chỉ là ngợm, với cái tiểu ngă đầy tham, sân, si, với ích kỷ và hèn nhát. V́ ta đă không ư thức được cái Đạo Nhân với Nghĩa Hùng Dũng, hùng cường, do đó ta đă đánh mất Đạo tức đă để Chính Nghĩa bị cướp đi như từ 37 năm qua (1975-2012) mà vẫn chưa giành lại được, nên coi như là bài học chưa thuộc. Nhưng tại sao vậy ?
(c̣n tiếp)
Bookmarks