Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
P1
HÀNG KHÔNG MẪU HẠM ORISKANY
Oriskany là một trong 3 chiếc hàng không mẫu hạm có sự hỗ trợ của lực lượng không quân xuất phát từ các căn cứ trên đất liền ở Thái Lan và miền Nam Việt Nam được Washington giao nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến trên không đối với miền Bắc Việt Nam để - theo như tuyên bố chính thức của chính phủ Mỹ - đưa cuộc chiến trên bộ ở miền Nam Việt Nam đến một kết thúc có lợi buộc miền Bắc Việt Nam chấm dứt sự "hung hăng” của họ ở miền Nam hoặc ít ra - khi thời gian trôi qua và chiến tranh không c̣n là từ phổ biến ở nước Mỹ nữa - buộc những nhà lănh đạo ở Hà Nội chấp nhận những điều khoản đă được đàm phán. Sau khi các quan chức chính phủ Mỹ tranh luận về chiến lược và mục tiêu, sau khi họ trao đổi và xem xét lại các điều khoản giao kèo và trao đổi về cách thức hợp lư nhất và tốt nhất để gây áp lực đối với Hà Nội buộc Hà Nội phải chấp thuận mọi điều khoản do chính phủ Mỹ đưa ra th́ những viên phi công Mỹ trong bộ quân phục của sĩ quan hải quân của phi đội 162 sẽ thi hành mọi mệnh lệnh của Washington và ném bom xuống miền Bắc Việt Nam. Cuộc không kích chính dự kiến vào buổi trưa ngày 17/6/1966 nhắm vào cây cầu giao thông đường sắt tại Cổ Chai (1) cách Hà Nội 25 dặm về phía nam và các viên phi công của phi đội 162 tham gia vào cuộc không kích sẽ phải làm quen các mục tiêu trên toạ độ bản đồ trước khi cuộc họp ngắn chính thức bắt đầu trong pḥng tác chiến không quân. Là một điểm chuyển giao trên tuyến đường sắt dẫn vào miền Nam, Cổ Chai được bảo vệ chặt chẽ bởi hệ thống tên lửa và trận địa pháo pḥng không và là mục tiêu quan trọng số một đối với các phi công của hàng không mẫu hạm Oriskany kể từ khi họ đến Yankee Station 11 ngày trước đó. Một bản đồ điện tử đặt trước pḥng chuẩn bị thể hiện những mức độ cận cảnh khác nhau về miền Bắc Việt Nam.
Hơn một năm trước khi chiến dịch ném bom bắt đầu vào ngày 2/3/1965, nông dân chiếm 80% tỷ lệ lao động ở miền Bắc và nông nghiệp chiếm gần một nửa GNP khoảng 1,5 tỷ đô la, không bằng một nửa thu nhập hàng năm của một trong những công ty của Mỹ. Ở một đất nước có 19 triệu dân này, trồng lúa là vụ mùa chính và v́ lúa rất cần một lượng nước lớn trong giai đoạn đầu phát triển nên khung cảnh mà phi công Mỹ nh́n từ trên máy bay, từ phía Đông, là những cánh đồng lúa xanh ngát, nước được chia tách bởi những mương đất trông giống như các ô bàn cờ. Bên cạnh đó là những con đê được đắp bằng tay để giữ nước cho ruộng lúa và có những mương để tháo nước cho ruộng lúa. Những con đê đó c̣n có tác dụng bảo vệ những vụ lúa chuẩn bị thu hoạch khỏi lũ lụt do những con sông trong vùng Bắc Bộ gây ra vào mùa mưa khi 85% lượng mưa của cả năm trút xuống vào mùa này (từ tháng 11 - tháng 5). Phân bón là điều quan trọng thứ hai sau nước tưới đối với trồng lúa và do thiếu phân hoá học nên phân người và phân gia súc dùng để bón ruộng gây ra một mùi hôi rất khó chịu bốc lên từ đất ruộng mà nông dân Việt Nam không để ư nhưng phi công Mỹ nào phải nhảy dù ra khỏi máy bay bị trúng pháo pḥng không của quân đội Việt Nam sẽ nhận ra ngay tức th́. Trong những ruộng lúa có đôi chỗ nhô ra những núi đá vôi và những g̣ đất trông rất lạ mắt. Đồng bằng sông Hồng từ phía Bắc sang phía Tây đều có núi vây quanh những khu rừng lớn.
Mặc dù nền kinh tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà c̣n kém phát triển nhưng hệ thống pḥng không được sự giúp đỡ của các đồng chí, bạn bè từ Liên Xô và Trung Quốc đặt ở các chiến hào trên ruộng lúa th́ không lạc hậu một chút nào.
Tên lửa điều khiển SAM 2 của Liên Xô, dài 35 feet và mang một đầu đạn nặng 349 poud, phát nổ như một quả cầu lửa có thể nh́n thẳng từ khoảng cách xa đến hàng dặm. Số lượng các đơn vị tên lửa bắt đầu tăng dần từ năm 1966. Mỗi đơn vị tên lửa có 6 tên lửa cùng với radar, computer và máy phát điện. Việc lắp đặt rất cơ động để có thể di chuyển tên lửa đến một vị trí mới trong 24 giờ và các tên lửa được luân chuyển vị trí cho nhau trong khoảng 300 vị trí khác nhau.
Tên lửa SAM gây cho các phi công sự sợ hăi về mặt tâm lư v́ bạn nh́n thẳng những tên lửa đó đang lao về phía máy bay của bạn, càng ngày càng gần nhưng hoả lực của pháo cao xạ mới đóng vai tṛ tích cực hạ gục máy bay Mỹ. Mỗi tháng có khoảng 7000 quả đạn pháo được bắn đi bằng khoảng 18 tấn đạn nhắm vào các máy bay Mỹ(?). Hơn nữa, tất cả những phi công Mỹ đều có linh cảm rằng mọi dân quân ở miền Bắc, từ những cô gái trẻ đến những cụ già, có một khẩu súng trường sẵn sàng nhả đạn khi họ bay qua.
(1) Nút giao thông nổi tiếng ở Phủ Lư, Hà Nam.
Pḥng chuẩn bị số 4 treo đầy những bộ đồ bay c̣n đẫm mồ hôi trên tường không khác ǵ mấy căn pḥng tập thể dục khép kín là pḥng họp của phi đội và pḥng gia đ́nh của các phi công của phi đội 162, nơi của các kế hoạch của những chiến dịch ném bom được thuyết tŕnh và yêu cầu từng thành viên của phi đội phải thực hiện một cách chính xác và cũng là nơi các bộ phim của Hollywood được tŕnh chiếu vào buổi tối cũng là một h́nh vẽ của cḥm sao. Bên trong pḥng có 16 chiếc ghế lái bọc da màu nâu, vừa cứng vừa cũ. Trên bức tường chính là hê thống bản đồ và màn h́nh. Một màn h́nh TV 23 inh nối trực tiếp với mạch đóng của con tàu hiển thị những chuyến cất cánh và hạ cánh của các phi công trên boong tàu nằm về bên phải của căn pḥng. Ở giữa b́nh tṛn đựng cà phê và can nước lọc 10 lít là một h́nh h́nh đầu lâu trạm trổ bằng gỗ. Hầu hết các phi đội không quân hải quân đều có biệt hiệu như một yếu tố kích thích tinh thần dũng cảm và phi đội 162 lấy biệt hiệu là "hunter" - kẻ đi săn - mặc dù các thành viên của phi đội đă viết thư cho Charler Salulz, tác giả của tập truyện tranh hài "peaunts", để được phép lấy h́nh của nhân vật Snoopy làm phù hiệu của phi đội in lên đuôi máy bay.
Buổi sáng ngày 16/7/1966, Richard Bellinger, chỉ huy trưởng của phi đội 162, là người đầu tiên bước vào pḥng chuẩn bị số 4. Bellinger thấy khó chịu khi thấy chiếc giường gấp chưa có người dọn dẹp mà các sĩ quan cấp dưới đă ngủ trực đêm qua đă bỏ đi đâu đó. Pḥng chuẩn bị, không giống như pḥng cá nhân của các sĩ quan cấp dưới, được lắp điều hoà nhiệt độ và những viên phi công trẻ luôn tận dụng cơ hội để ngủ ở đây. Đêm hôm trước, các hành lang của tàu Oriskany đều để nhiệt độ 940F vào lúc 10 giờ tối. Bellinger bắt tay vào dọn lại chiếc giường xếp th́ Rick Adams, một sĩ quan cấp dưới đă ngủ trên một trong hai chiếc giường đó, vừa đi ăn sáng về và dọn lại chỗ ḿnh nằm.
Bellinger không thể tức giận với Rick Adams được lâu Bellinger đă lập gia đ́nh nhưng không có con và Rick Adams là chàng thanh niên 25 và Bellinger hầu như coi cậu là con trai của ḿnh. Các phi công hải quân luôn bay theo đội h́nh hai để giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, thông thường là một sĩ quan cao cấp bay cùng với một sĩ quan cấp dưới và Rick Adams trở thành bạn bay của Bellinger ở trận không kích đầu tiên của tàu Oriskany vào năm 1965. Adams bỏ học ngang chừng trường đại học Minnesota sau khi đă học khoa triết học được 3 năm và dành thời gian trượt tuyết ở Aspen trước khi đâm đơn tham gia chương tŕnh huấn luyện sĩ quan phi công hải quân. Trong một trận không kích gần Hà Nội, Rick Adams b́nh tĩnh gọi bộ đàm cho Bellinger: "Này Belly, nh́n đằng sau ḱa?" Bellinger nh́n lại vừa lúc thấy hai tên lửa đang phóng về phía ḿnh. Bellinger lượn một ṿng gấp và hai tên lửa của Bắc Việt Nam vụt qua. Bellinger nói với Adams rằng: "Chắc cậu thấy thích phải không?" Chuyến bay đó gắn kết t́nh bạn của hai người và kết thúc trận không kích đó, Bellinger trở thành sĩ quan chỉ huy mới của phi đội có quyền gọi 6 phi công tham gia cuộc không kích năm 1965 để chuẩn bị cho cuộc không kích năm 1966 và Adams là người đầu tiên mà Bellinger chọn. Những người c̣n lại được gửi đi học chiến thuật bay ở các trung tâm không quân hải quân ở Mỹ và phi đội có sự gia nhập của các thành viên mới như Dick Uyliam và John (Black Mac) MacDonald, những người này cùng với Rick Adams được biết đến như những phi công giỏi nhất của Yankee Station.
Rick Adams cảm thấy chuyến không kích năm 1965 hơi thất vọng. Cậu được đào tạo trở thành một phi công chiến đấu và tham gia vào chuyến bay đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam hy vọng tràn trề sẽ đối đầu với Mig. Cậu nh́n quanh bầu trời, gắng t́m một dải khói, một tia sáng loé lên từ kính chắn khoang lái, bất kỳ điều ǵ để khẳng định sự có mặt của máy bay kẻ địch. Nhưng Bắc Việt có rất ít Mig và các phi công giỏi. Họ nhanh chóng bị bắn hạ 5 chiếc máy bay khi đối đầu lần đầu với phi công Mỹ vào năm 1965 và họ nhanh chóng thay đổi chiến thuật. Họ không đối đầu trực tiếp với máy bay Mỹ trong các cuộc không chiến nữa, mà họ chủ yếu dùng Mig vào các mục đích tinh thần. Mig xuất hiện trên bầu trời buộc các máy bay ném bom Mỹ phải thả bom vội vàng để chạy trốn hoặc để chiến đấu hiệu quả hơn và ép những máy bay này bay vào tầm kiểm soát của pháo pḥng không. V́ vậy Mig thường phá hỏng một nhiệm vụ hành động của không quân Mỹ đơn giản chỉ bằng việc cất cánh lên bầu trời mà thôi. Và đối với chàng thanh niên Rick Adams đang nóng ḷng bắn hạ Mig, máy bay kẻ địch vẫn là những bóng ma.
Tháng 10/1965, Adams bị trúng tên lửa. Cậu và Bellinger bị chia tách trong một cuộc không kích nhóm bay qua một thung lũng nhỏ hy vọng gây bất ngờ cho một chiếc Mig. Adams nh́n thấy một ánh chớp và cảm thấy thân máy bay bị lắc mạnh giống như là bạn ở trong ô tô - cậu tả lại - và bị ai đó đạp mạnh vào thành xe. Cậu nh́n vào trong gương thấy cánh phải của ḿnh bốc cháy. Cách thông thường để nhảy ra khỏi máy bay là dùng hai tay kéo kính chắn trước mặt xuống, gây ra một tiếng nổ hất tung ghế bay của phi công ra ngoài. Adams kéo kính chắn bằng một tay đến gần điểm nhảy dù và tiếp tục bay đến khi nào c̣n có thể.
Adams nói lại quyết định của ḿnh trong những năm sau đó: "Số lượng phi công Mỹ nhảy khỏi máy bay sớm là rất nhiều. Máy bay của họ dính đạn và bốc cháy. Họ nghe thấy ai đó kêu trong radio "nhảy đi" và khi họ nhảy ra khỏi máy bay th́ họ chắc chắn sẽ trở thành tù binh chiến tranh".
Adams lái chiếc máy bay của ḿnh ra biển, chỉ bị bỏng tay trước khi buộc phải nhảy dù và được một máy bay trực thăng cứu vớt và đi lên một tàu hàng không mẫu hạm. Cậu là phi công đầu tiên trúng tên lửa mà thoát chết hay không bị bắt làm tù binh. Câu chuyện của cậu lái chiếc máy bay dính lửa bay nhanh trong khắp hạm đội.
Buổi sáng ngày 19/7/1966, Rick Adams không có lịch bay trong cuộc không kích vào cây cầu ở Cổ chai. Hoặc cậu sẽ không được tham gia vào bất cứ cuộc không kích ở miền Bắc Việt Nam nữa. Tuần trước, 4 ngày sau khi Oriskany đến Yankee Station, Adams lại bị bắn hạ lần thứ hai, lần này dính đạn pháo cao xạ. Cậu lại trở thành người Mỹ đầu tiên bị bắn hạ hai lần và được cứu thoát trong cuộc chiến ở Việt Nam và lực lượng hải quân quyết định lần này là quá đủ.
Đối với các phi công khác, Rick trở thành thánh Christopher, một biểu tượng may mắn cần phải ôn hoà hơn trước khi tiến hành một nhiệm vụ không kích; và khi phi đội 162 tập trung tại pḥng chuẩn bị số 4 th́ cậu là trung tâm của sự chú ư. 9 giờ sáng, DickWyman, Black Mac, Jim Nuun, Ferry Dennison và những thành viên khác đă có mặt ngồi vào chỗ của ḿnh, nhấm nháp từng ngụm cafe và trao đổi nhỏ với nhau. Nhưng Cal Swanson đội trưởng của phi đội là người duy nhất chưa đến và anh sẽ cầm đầu phi đội 162 tấn công cầu Cổ Chai.
CVA-34 USS Oriskany.
Bookmarks