Results 1 to 3 of 3

Thread: Hải Quân Mỹ cứu tàu Việt Nam vào cuối cuộc chiến

  1. #1
    An Loc Đia
    Khách

    Hải Quân Mỹ cứu tàu Việt Nam vào cuối cuộc chiến

    Ngày 30 tháng tư 1975, quân đội Bắc Việt tiến vào các đường phố vắng vẻ của Sài G̣n. Những ciếc xe te tăng đă cán sập cánh cổng dinh tổng thống và những người cán binh treo cờ màu vàng đỏ của Việt cộng.
    Chỉ vài giờ trước đó, những người Mỹ cuối cùng đă được sơ tán, cứu thoát bằng những máy bay trực thăng của Thuỷ Quân Lục chiến đến Hàng Không mẫu hạm Mỹ đang chờ ngoài khơi bờ biển.
    Chiến tranh Việt Nam đă chính thức đi qua. Bây giờ những chiếc tàu hải quân đang đi tỏa ra khỏi Việt Nam.
    Nhưng có một ngoại lệ. Đêm đó, thuyền trưởng một khu trục hạm hộ tống nhỏ, chiếc USS Kirk, đă nhận được một mệnh lệnh bí mật phải quay mũi trở lại Việt Nam.

    Hải quân Nam Việt Nam: "Chúng ta quên họ rồi"
    Thuyền trưởng Paul Jacobs đă nhận được chỉ thị từ Đô đốc Donald Whitmire, chỉ huy chiến dịch di tản - Operation Frequent Wind. Ông đă xuống tàu USS Blue Ridge, con tàu chỉ huy của hạm đội 7.
    Jacobs nhớ lại thông điệp ngạc nhiên của Whitmire: "Ông ấy nói : 'Chúng tôi sẽ gửi bạn trở lại để cứu con tàu hải quân Việt Nam. Chúng ta đă quên họ rồi... Và nếu chúng ta không cứu được một số nào hay tất cả, chắc họ sẽ bị giết chết' ".
    Chiếc Kirk đă được gửi đến một ḥn đảo ngoài khơi đất liền Việt Nam - một ḿnh. Và có một điều kỳ lạ hơn, viên đô đốc nói với Jacobs: Anh sẽ nhận đưọc lệnh từ một người thường dân.
    Richard Armitage xuống con tàu Kirk vào đêm khuya, mặc một chiếc áo khoác thể thao đi mượn. Nhiều năm sau đó, Armitage đă trở thành vị chỉ huy đứng thứ hai sau Colin Powell trong bộ Ngoại giao chính quyền Bush. Nhưng chính trong ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975, ông đang ở trong một sứ mạng đặc biệt theo lệnh của bộ trưởng quốc pḥng. Tuần đó, ông chỉ mới tṛn 30 tuổi.
    Armitage nhớ lại lúc xuống tàu và lập tức được hộ tống đến bữa ăn của các sĩ quan, nơi ông đă gặp Jacobs và Commodore Donald Roane, chỉ huy trưởng đội tàu nhỏ của khu trục hạm Hải quân.
    "Commodore Roane đă nói cái ǵ đại loại như 'Người bạn trẻ, tôi không quen với việc có những người dân sự xa lạ lên tàu của tôi giữa ban đêm mà ra lệnh cho tôi", Armitage nhớ lại. "Tôi nói, 'Thưa ngài, tôi cũng không quen với việc xuống một con tàu lạ vào nửa đêm để ra lệnh cho ngài. Nhưng hăy chạy nhanh đến Côn Sơn nào...' Và tất cả đă hành động như thế ".
    Kế hoạch bí mật để không chỉ cứu những con tàu
    Chiếc Kirk và phi hành đoàn của khoảng 260 sĩ quan và nhân sự của nó đă được lệnh đến đảo Côn Sơn, khoảng 50 dặm ngoài khơi bờ biển miền Nam Việt Nam và chưa bị chiếm đóng bởi những người Bắc Việt. Côn Sơn là nơi của một nhà tù khét tiếng. Lúc này, bến cảng của nó là nơi ẩn náu cho những ǵ c̣n lại của hải quân Nam Việt Nam.
    Armitage đă đưa ra kế hoạch để cho họ tập trung ở đó.
    Armitage, tốt nghiệp trựng Annapolis, từng là một sĩ quan t́nh báo Hải quân, được phân công tác cho các đơn vị Việt Nam. Ông đă đạt được uy tín đối với người Việt Nam khi ông từng làm việc với họ và trở nên thông thạo ngôn ngữ của họ. Sau đó, ông đă từ nhiệm khỏi sứ mạng và lực lượng Hải quân để phản đối chính quyền Nixon đă kư hiệp định hoà b́nh Paris. Thỏa thuận năm 1973 giữa tất cả các bên tham chiến ở Việt Nam để chấm dứt sự tham dự trực tiếp của quân đội Mỹ trong chiến tranh. Armitage cảm thấy Mỹ đă bán đứng người miền Nam Việt Nam.
    Nhưng khi t́nh h́nh trở nên rơ ràng rằng chính phủ miền Nam Việt Nam sắp xụp đổ, một quan chức tại Ngũ Giác Đài đă yêu cầu Armitage bay trở lại Việt Nam với một nhiệm vụ nguy hiểm. Công tác của ông: loại bỏ hoặc phá hủy các tàu hải quân và kỹ thuật công nghệ để không rơi vào tay những người Cộng sản.
    Một vài tuần trước khi Sài G̣n thất thủ, Armitage đă có mặt tại văn pḥng của một người bạn cũ, Đại tá Đỗ Kiếm, Phó tư lệnh Hải quân Nam Việt Nam. Cùng với nhau, họ đă đưa ra kế hoạch bí mật để giải cứu các con tàu Việt Nam khi - như đă rơ ràng xảy ra - chính phủ miền Nam Việt Nam đầu hàng.
    Đỗ nhớ lại đă cảnh báo Armitage rằng họ sẽ giải cứu nhiều hơn là chỉ những con tàu.
    "Tôi đă nói với anh ta, tôi nói, 'Vâng, các phi hành đoàn của chúng tôi sẽ không rời khỏi Sài G̣n mà không có gia đ́nh của họ, do đó sẽ có rất nhiều người dân" Đỗ nhớ lại.
    Ông nói rằng Armitage cứ lặng thinh. "Ông không trả lời có mà cũng không trả lời không. Do đó tôi cứ xem như một sự thừa nhận", ông nói.
    Armitage đă không báo cho thượng cấp của ḿnh tại Ngũ Giác Đài biết là có những người tị nạn trên tàu. Ông lo sợ chính quyền Mỹ sẽ không muốn giải cứu họ.
    Mặc dù, cả Đỗ cũng như Armitage cũng không thể đoán biết được có bao nhiêu người tị nạn sẽ xuất hiện ở Côn Sơn.

    Hỗn loạn ở đảo Côn Sơn
    Chiếc Kirk gấp rút băng đêm đi Côn Sơn và đến đảo khi như mặt trời ló dạng vào ngày 01 Tháng năm. Có 30 tàu hải quân Nam Việt Nam, hàng chục tàu thuyền đánh cá và các tàu hàng. Tất cả đều khẳm đầy những người tị nạn, tuyệt vọng để được ra khỏi Việt Nam.
    Những con tàu "đă được nhồi nhét khẳm đầy người", ông Kent Chipman, vào năm 1975 đă là một thợ máy trợ lực 21 tuổi trong pḥng máy của con tàu và hiện nay làm việc tại một nhà máy lọc nước tại Texas đă cho biết. "Tôi không thể xem bên dưới ḷng tàu, nhưng ở trên boong người người chặt cứng san sát nhau".
    Không đếm được chính xác có bao nhiêu người trên những con tàu. Một số tư liệu lịch sử cho rằng đă có đến 20.000 người. Một số khác cho rằng nhiều đến 30.000. Jan Herman, một sử gia của Bộ Y tế Hải quân Mỹ, người ghi lại câu chuyện của con tàu Kirk, đă sử dụng số lượng cao hơn.
    Các kỹ sư của Kirk được gửi xuống một số các tàu thuyền để chúng có thể khởi động.
    "Chúng tơi tả, xấu xí, bầm dập", ông Chipman nói. "Thậm chí một số con tàu không chạy được, ; họ đă lôi nhau đi. Một số chiếc đă thực sự thách đố với sóng nước. Chúng tôi chuyển người của ḿnh sang những chiếc đang chạy".
    Một con tàu chở quá khẳm đang bị ch́m. Những người trên boong đă nhảy xuống biển.
    Stephen Burwinkel, người lính cứu thương của tàu Kirk - trong ngành Hải quân thường được biết đến như một tử thi bệnh viện - đă lên con tàu ấy để kiểm tra những người đau yếu và bị thương. Ông thấy một trung úy quân đội Việt Nam đang giúp hành khách rời tàu ch́m, chuyển họ qua những con tàu khác trên một tấm ván gỗ hẹp. Khi mọi người cố chen đẩy để thoát khỏi con tàu ch́m, một người đàn ông đánh ngă một người phụ nữ phía trước anh ta. Cô bị rơi khỏi tấm ván vào ḷng đại dương.
    Người phụ nữ đă lập tức được cứu thoát. Nhưng Burwinkel lo lắng rằng những người khác trên tàu sẽ hoảng sợ. Ông cho biết viên trung úy đă hành động nhanh chóng.
    Burwinkel nhớ lại, "Người trung úy Việt Nam này không hề lưỡng tự, ông đến ngay sau anh chàng đó, rút súng ra bắn ngay vào đầu, giết chết anh ta, đá qua một bên. Chấm dứt tất cả các sự cố ngay lúc đó và sau đó ". Cú bắn người thật kinh hoàng, ông nói, nhưng rất có khả năng ngăn chặn được một cuộc bạo loạn.

    Dẫn đường đi đến Philippines
    Sau khi sửa chữa những ǵ có thể sửa được trên những con tàu đủ điều kiện và di chuyển những người từ các con tàu bị bỏ lại, chiến Kirk dẫn đầu đội tàu hải quân, thuyền đánh cá và tàu hàng đi về phía Philippines.
    Chiếc USS Cook, một khu trục hộ tống hạm khác như chiếc Kirk, đă giúp những các con tàu rời khỏi Côn Sơn. Các thủy thủ đoàn của tàu Cook đă cung cấp gạo, và người tử thi bệnh viện của con tàu này cũng đă giúp Burwinkel và các phụ tá của ông từ tàu Kirk đến chăm sóc những người đau yếu và bị thương.
    Theo Herman. khi đội tàu quay đầu ra biển, trên đường đến Philippines, nhiều tàu Hải quân khác đă cùng đến và đi để hộ tống. Trong số những con tàu này có nhũng chiếc USS Mobile, USS Tuscaloosa, USS Barbour County, USS Deliver và USS Abnaki.
    Nhưng rơ ràng từ nhật kư hải hành của tàu Kirk và các tàu khác là các thủ thủ đoàn tày Kirk đă dẫn đầu chỉ đạo.
    "Đối với tôi, chiếc Kirk thật lư tưởng", ông Armitage, người đă chuyển từ tàu Kirk sang một chiếc tàu chỉ huy của hải quân Việt Nam. "Nó có thể lên lạc với các tàu c̣n lại của hạm đội Mỹ. Nó sẽ đi với chúng tôi nang qua tới Philippines và có thể cứu bất cứ ai có thể bị hiểm nguy. Một số người đă bị thương. Một số mang thai. Tất cả đă đều đau yếu khá lâu. Và chúng ta cần một phương cách để có thể chăm sóc những người này".
    Các thủy thủ của Kirk bận rộn cung cấp nước uống, thức ăn và thuốc men cho những người trên các con tàu của miền nam Việt Nam.
    Burwinkel đă bỏ th́ giờ di chuyển từ tàu này sang tàu khác để điều trị những người bị thưong và đau yếu. Với cả hàng ngàn người - đa số là trẻ sơ sinh và trẻ em - ông đă làm việc gần như không nghỉ.
    "Khi họ đă trao tôi tấm huy chương thành tích v́ tất cả các công việc này, tôi khá thẳng thắn gọi nó là tấm huy chương không ngủ" của ḿnh, "ông Burwinkel, người đă tạo nên một sự nghiệp trong ngành Hải quân, hiện đang nghỉ hưu và sinh sống tại Pensacola, Fla. "Tôi đă đến đấy và thực hiện những công việc của ḿnh trong đêm đen, trở về tàu Kirk cố gắng t́m được một chút ǵ để ăn và trở lại làm việc thêm vài chuyến nữa - thu thập hiểu biết, tiếp tế cho bản thân ḿnh và lại sẵn sàng cho ngày hôm sau ".
    Lănh thổ chủ quyền cuối cùng của Việt Nam Cộng ḥa"
    Trong 30.000 người tị nạn trên những con tàu được hộ tống bởi chiếc Kirk suốt sáu ngày, chỉ có ba người tử nạn.
    Nhưng khi đội tàu nhỏ của Việt Nam tiếp cận Philippines, viên thuyền trưởng tàu Kirk đă nhận một số tin xấu. Sự hiện diện của những con tàu miền Nam Việt Nam tại một cảng Philippine sẽ mang đến cho chính phủ ở Manila một t́nh thế khó khăn về ngoại giao.
    "Chính phủ Philippines đă không cho phép chúng tôi vào cảng, dứt khoát như thế, bởi v́ những con tàu giờ đây thuộc về người Bắc Việt và họ không muốn xúc phạm đến đất nước mới", Jacobs, viên thuyền trưởng, đă nhớ lại.
    Chính phủ Philippines, tổng thống Ferdinand Marcos là một trong những người đầu tiên nhận ra được rằng những nhà cai trị cộng sản hiện nay đang kiểm soát một nước Việt Nam duy nhất, và Jacobs được lệnh là các con tàu nên trở về.
    Armitage và Đại tá Đỗ, người bạn miền Nam Việt Nam của ḿnh đă đưa ra một giải pháp mà Marcos đă phải chấp nhận.
    Đỗ nhớ lại kế hoạch: "Chúng tôi sẽ nâng quốc kỳ Mỹ lên cao và hạ cờ Việt Nam xuống như một dấu hiệu [chuyển nhượng] con tàu trở về với Hoa Kỳ, bởi v́ trong chiến tranh những con tàu này được trao cho chính phủ Việt Nam như một một khoản vay mượn từ Hoa Kỳ , nếu họ muốn để chống lại những người Cộng sản. Bây giờ chiến tranh kết thúc, chúng ta mang chúng trở về với Hoa Kỳ ".
    Đă có một cuộc t́m kiếm điên cuồng để t́m cho ra 30 lá cờ Mỹ. Hai sĩ quan từ tàu Kirk đă được gửi đến trên boong mỗi tàu biển Việt Nam để chỉ huy sau một buổi lễ hạ cờ chính thức.
    Rick Sautter là một trong những sĩ quan của tàu Kirk đă chỉ huy một tàu Việt Nam.
    "Đó là di tích cuối cùng của miền Nam Việt Nam. Khi những lá cờ hạ xuống và những lá cờ Mỹ dương lên, thế là hết. Bởi v́ một con tàu của Hải quân chính là chủ quyền lănh thổ, do đó đấy chính là các chủ quyền lănh thổ cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa", ông nói.
    "Hàng ngàn và hàng ngàn người trên thuyền bắt đầu hát quốc ca (miền nam Việt Nam). Khi lá cờ hạ xuống, họ đă khóc, khóc và khóc," Đỗ nhớ lại.
    "Đỉnh Cao Sự nghiệp của tôi"
    Ngày 07 tháng Năm, các tàu mang cờ Mỹ được phép vào Subic Bay.
    Đối với những người tị nạn, đó chỉ là khởi đầu cuộc hành tŕnh dài của họ, một cuộc hành tŕnh đă đưa họ đến Guam, sau đó tái định cư tại Hoa Kỳ.
    Đối với các thủy thủ tàu Kirk, kết thúc chiến tranh Việt Nam bằng cách giải cứu 20.000 đến 30.000 người là rất thỏa măn.
    "Đây là đỉnh cao của sự nghiệp của tôi và tôi rất tự hào về những ǵ chúng tôi đă làm, những ǵ chúng tôi đă hoàn thành và làm thế nào mà chúng tôi thực hiện được những điều đó", Jacobs nói. "Tôi cảm thấy như chúng tôi đă xử lư thật chuyên nghiệp và đó là một giờ khắc như thể thật tối tăm".
    Armitage nói rằng ông "ghen tỵ" với các sĩ quan và nhân sự của con tàu USS Kirk. Con tàu đă không gặp chiến trận trong chuyến đi Việt Nam của nó. Nhưng đă kết thúc với việc cứu mạng hàng chục ngàn người tị nạn, một trong những nhiệm vụ nhân đạo lớn nhất trong lịch sử của quân đội Mỹ.
    Armitage nói: "Họ đă không phải chịu gánh nặng với các thảm kịch bất ngờ trước đây của Việt Nam."

    Nguồn: Joseph Shapiro và Sandra Bartlett, NPR
    Lê Quốc Tuấn, X-Cafe chuyển ngữ
    02.09.2010


    Các con tàu Việt Nam đang đi vào Subic Bay theo sự hướng dẫn của chiến hạm Kirk


    Richard Armitage, ân nhân của gần 30 ngàn người Việt Nam trong cuộc cứu mạng cuối tháng Tư/1975


    Chiến hạm Kirk đến Côn Sơn ngày 1 tháng Năm 1975


    Một chiếc tàu đưa những người tị nạn VN đến chiến hạm Kirk

  2. #2
    An Loc Đia
    Khách

    General William C. Westmoreland.

    "Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đă không giữ đúng lời cam kết đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa."

    "Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn." (On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)

    General William C. Westmoreland.

  3. #3
    Member Cu Cường's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    861

    US Navy Ship and Lost Baby Refugee Reunited 35 Years Later


Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 9
    Last Post: 12-12-2011, 03:49 PM
  2. Replies: 3
    Last Post: 08-06-2011, 04:26 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 15-05-2011, 06:38 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 29-10-2010, 06:08 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 13-09-2010, 12:54 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •