Từ trái qua: Thanh Thoại, Đỗ Kim Ninh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ.
Hàng sau: Trần Đại Lộc, Phan Văn Phùng, Lê Đ́nh Điểu, Đỗ Quư Toàn (sau đêm đọc thơ tại khuôn viên Đại Học Văn Khoa, Sài G̣n).
Trong tập “Nguyên Sa Hồi Kư” (NS/HK) do Đời, California, xuất bản năm 1998, ở phần Hai, chương “Nồi niêu soong chảo,” thi sĩ Nguyên Sa đă đề cập tới phần đời làm báo đầy biến động, nhiều đương đầu hào hứng (sau cuộc cách mạng 1 tháng 11, 1963 tại miền Nam,) của nhóm kư giả trẻ:
Nhóm “Nồi niêu soong chảo” do nhà thơ Trần Dạ Từ đại diện.
Nguyên Sa viết:
“Những ngày Sáng Tạo có tiền kiếp. Thời gian bỏ đi có tiền kiếp của nó.
Những ngày ở Sống với Chu Tử là một tiền kiếp khác, xôn xao Lương Sơn Bạc. Tờ Sống ra được có một số th́ bị đ́nh bản, anh em báo Sống với Đằng Giao, Tú Kếu, Trần Dạ Từ nhóm kư giả trẻ gọi là ‘nồi niêu soong chảo’ lếch thếch nồi soong ra đi đầu quân, khi th́ ở Tiền Tiến với ông chủ nhiệm Đỗ Công Dụng, khi th́ Ḥa B́nh với Linh Mục Trần Du, khi khác là Tranh Đấu của chủ nhiệm Ngô Đức Măo, một đệ tử của cụ Nguyễn Thế Truyền, Mai Châu bỏ tiền...” (NS/HK, trang 213)
Trên hành tŕnh báo chí gập ghềnh, cam go lư tưởng, qua mấy chục nhật báo khác nhau, thời gian đáng nhớ nhất của tác giả “Thuở Làm Thơ Yêu Em” có lẽ là thời gian ông phải đương đầu với cuộc tranh chấp sống mái với người bỏ tiền in tờ Tranh Đấu.
V́ thế, ông đă t́m tới “Ông đội mũ” (bí danh Trần Dạ Từ đặt cho thi sĩ Nguyên Sa). Với Nguyên Sa th́ dường như, đó cũng là một kỷ niệm đáng nhớ, khi ông viết:
“Trần Dạ Từ là một tiền kiếp khác. Phải rồi, Trần Dạ Từ là tiền kiếp. Tiền kiếp đẩy tôi tới nhà in, tôi vẫn đội mũ nguyên trên đầu, Trần Dạ Từ dắt tới trước mặt tôi chủ nhân của nhà in nói đây là ông anh tôi, liệt kê các loại vơ nghệ tài chính và xă hội, kể từ hôm nay ông anh sẽ lo mọi vấn đề tiền bạc.
Tôi gật đầu bảo chứng người em tiền kiếp, tôi nói tôi trả tiền, cứ in, ngày nào thanh toán ngày đó, không cần để tới sáng ngày mai. Viên quản lư vui vẻ ngay, máy in đang chờ, thợ in đang chờ, có người lănh nhận việc trả tiền là bật đèn xanh...”
(NS/HK, trang 214). Kết quả, “đại gia” Mai Châu đă phải “tung khăn” đầu hàng “Ông đội mũ!”
Lập lại sự việc này, tôi không có ư muốn đề cập tới t́nh thân giữa Nguyên Sa, Trần Dạ Từ.
Một t́nh thân mang tính tinh truyền từ kiếp trước. Một t́nh thân đă vượt xa cái biên giới hạn hẹp của chữ và, nghĩa.
Lập lại sự việc này, tôi chỉ muốn nhấn mạnh, phải chăng định mệnh đă chọn, trao những dụng cụ cần thiết, như cuốc, xẻng... vào tay Trần Dạ Từ để ông xắn sâu và, xới lên những khoáng-sản-tinh-thần.
Những khả năng trí tuệ tiềm ẩn nơi con người sinh ra, vốn mang sẵn một “định mệnh dữ dội” (?)
Lập lại chuyện này, tôi cũng chỉ muốn nhấn mạnh, qua trên dưới ba chục nhật báo của miền Nam Việt Nam, 20 năm mà, Lê Hà Vĩnh tức Trần Dạ Từ đóng vai tổ chức ban biên tập, cắt đặt bằng hữu ông vào những vai tṛ, chức vụ có tính vận hành, quyết định. Nhưng, tuyệt nhiên, độc giả không hề thấy dù chỉ thấp thoáng bóng dáng hay tên tuổi họ Lê trên “manchette” báo.
Tôi muốn cám ơn thi sĩ Nguyên Sa, qua trích đoạn hồi kư kể trên.
Từ đó, tôi muốn gọi họ Lê là: “Người đứng sau những khởi động đáng ghi nhớ.”
Cũng vậy, tôi muốn gửi lời cám ơn ca sĩ Khánh Ly, qua một đoạn viết ngắn, nơi trang 2 booklet đi kèm đĩa nhạc “Nụ Cười Trăm Năm” (nhạc Trần Dạ Từ), khi cô viết:
“Mùa Hè 1959, ông Mặc Thu, sếp chương tŕnh Tiếng Thơ đài phát thanh Saigon, trịnh trọng bảo một anh nhóc t́, ‘Thi sĩ coi cháu Mai tập bài này, điệu ru con miền Bắc.’
Tức cười. Năm ấy tôi 14. Thi sĩ bất quá chỉ hơn dăm ba tuổi. Hai anh em cùng dân bà Cả Đọi, đi xin ngâm thơ để kiếm cơm. Biết nhau từ đó...”
Từ bảng chỉ đường đơn sơ của ca sĩ Khánh Ly, nơi booklet của CD “Nụ Cười Trăm Năm” (nhạc Trần Dạ Từ), hôm nay, tôi mới được biết, sự ra đời của phong trào hát cộng đồng vào khoảng giữa thập niên (1960, cũng có dấu ấn của “người đứng sau những khởi động đáng ghi nhớ” Trần Dạ Từ.
Kư ức họ Lê cho biết, trong một buổi tham dự trại Suối Thông/Đà Lạt, 1965 do thanh niên, sinh viên tổ chức, cùng với cố nhà báo Lê Đ́nh Điểu, ông chú ư tới một nhạc sĩ trẻ ôm cây ghi ta thùng, hát một số ca khúc có nội dung phản ảnh những băn khoăn, khắc khoải có tính cách thời đại, như nỗ lực đi t́m tiếng nói chung cho lớp tuổi của họ.
Ông càng chú ư hơn nữa, khi thấy các bạn trẻ hân hoan tham dự vào tâm t́nh, chuyển động của ca khúc, qua tiếng vỗ tay.
Nhịp theo. Hào hứng.
Trần Dạ Từ bàn với Lê Đ́nh Điểu:
“Nên đem anh chàng này về Saigon, Điểu à!”
Nhưng bằng cách nào?
Vấn đề ở chỗ đó!
Một lần nữa, tôi lại thấy dường như định mệnh đă chọn, trao những dụng cụ cần thiết, như cuốc, xẻng... vào tay Trần Dạ Từ, để ông xắn sâu và, xới lên những khoáng-sản-tinh-thần, một mặt nào đấy, làm thành ư nghĩa một thời cho miền Nam, 20 năm.
Số là thời gian đó, nhà thơ Trần Dạ Từ đang làm cố vấn cho nhà văn Huy Quang/Vũ Đức Vinh, tổng giám đốc Hệ Tổng Truyền Thanh Việt Nam.
Nhiệm vụ của ông là cung ứng những chương tŕnh phát thanh đặc biệt theo yêu cầu của nhà văn Huy Quang, hoặc góp ư với ông tổng giám đốc, trong những vấn đề thuộc lănh vực chuyên môn.
Ở cương vị này, Trần Dạ Từ đă thực hiện được một chương tŕnh “mẫu,” gọi là “chương tŕnh hát cộng đồng,” thu ngay tại đài Saigon, với hàng chục ca viên một lúc
. Nhà văn Huy Quang thích lắm. Ông nói, “đài cần có những chương mới mẻ như thế.”
Tuy nhiên, cũng chính v́ sự quá mới mẻ - Hiểu theo nghĩa, hồi nào giờ, các đài phát thanh của miền Nam chỉ quen phát những chương tŕnh song ca, tam ca, tứ ca.
Nói chung là hợp ca. Chưa bao giờ đài có chương tŕnh “cộng đồng ca” với hàng chục ca viên.
V́ thế, nhà văn Huy Quang nghĩ, ông cần phải có được sự chuẩn thuận của cấp cao hơn: Tổng ủy viên Thông Tin - Chiêu Hồi (tức bộ trưởng Thông Tin-Chiêu Hồi cũ).
Như tôi từng nói, bản chất họ Lê vốn quyết liệt, đeo đuổi tận cùng những ǵ đă dự trù.
Nên, để thành tựu được mơ ước của ḿnh, ông cùng Lê Đ́nh Điểu và một số bạn khác, thực hiện một băng “mẫu.”
Do ông và các bạn hát; đưa tŕnh tổng ủy viên Thông Tin-Chiêu Hồi thời đó: Tướng Nguyễn Bảo Trị.
Tôi nói, tôi muốn gửi lời cám ơn ca sĩ Khánh Ly v́, nhờ bảng chỉ đường đơn sơ này, tôi mới được biết tác giả “Nụ Hôn Đầu” đă bước vào lănh vực phát thanh rất sớm.
Đó là những năm đầu thập niên (1960), khi người Mỹ mở cuộc thi tuyển, chọn ra một số người để huấn luyện họ trở thành những chuyên viên phát thanh chính quy, cho lănh vực phát thanh ở miền Nam Việt Nam.
Và, họ Lê là một trong số người được tuyển.
Nhắc lại giai đoạn “hai anh em cùng dân bà Cả Đọi,” nhà thơ Trần Dạ Từ nói, ông nhớ ông có theo học một khóa phát thanh, diễn ra trong một ngôi biệt thự kín khuất ở đường Chi Lăng, Gia Định. Học viên được chỉ dạy cặn kẽ từ cách viết một bản tin cho phát thanh, tới kỹ thuật biên tập một chương tŕnh.
Học viên cũng được dạy và thực tập sử dụng âm thanh, cách chọn lựa, ứng dụng “sound effect.” Kỹ thuật “in/out” một buổi phát thanh, v.v...
Tất cả những lớp học đó, đều diễn ra trong những wagon xe lửa, như những studio lưu động, đặt trong biệt thự vừa kể.
Ông nói, khoảng gần 2 năm sau, kỹ thuật phát thanh do người Mỹ dạy, mới được người Mỹ đem về khu cư xá Thành Tín, ở đầu đường Hồng Thập Tự và, giao việc quản trị cho quân đội VN, với ngân sách của Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ.
Nói cách khác, hậu thân của giai đoạn này, chính là đài Tiếng Nói Tự Do với ông Vũ Quang Ninh (thời c̣n mang cấp bậc đại úy).
Họ Lê cũng nhớ, thời gian đầu của đài Tiếng Nói Tự Do, ngoài cá nhân ông, trong vai tṛ trưởng ban Phóng Viên, c̣n có Phan Tùng Mai (con nhà cách mạng Phan Văn Hùm), trưởng ban Biên Tập; Nguyễn Sơn, trưởng ban Nghiên Cứu; Nhă Ca phụ trách biên tập chương tŕnh Văn Học Nghệ Thuật...
Ở giai đoạn h́nh thành, đài Tiếng Nói Tự Do được phép tuyển thêm phóng viên.
Đài đă phỏng vấn một số sinh viên đang theo học trường Bộ Binh Thủ Đức.
Một trong những sinh viên sĩ quan được tuyển chọn về làm phóng viên cho đài, là nhà báo tên tuổi sau này, Nguyễn Thượng Hiệp. Nghe và y cứ trên những tŕnh bày của Lê Đ́nh Điểu, Trần Dạ Từ... về nhu cầu giới trẻ cần những h́nh thức sinh hoạt mới, linh động, lành mạnh, tươi tốt...
Tướng Trị đồng ư. Sự đồng ư của ông, có nghĩa “đèn xanh” được bật cho hệ thống Truyền Thanh Việt Nam, phát thanh rộng răi những ca khúc mang tính “cộng đồng ca” nhắm vào lớp thính giả thanh viên, sinh viên.
Đó là cánh cửa thứ nhất, mở vào phong trào du ca, sau này.
Rất mau chóng, ngọn lửa đem thi ca vào đời thường, đă cháy lan qua các khuôn viên đại học khác.
Như Vạn Hạnh, Đà Lạt, Huế... Trước khi phong trào tỏa rễ, đâm chồi ra đường phố; với những cuộc đọc thơ tại các quán café, hay những họp mặt văn nghệ của văn nghệ giới trẻ.
Vẫn ở vị trí của “Người đứng sau những khởi động đáng ghi nhớ,” hôm nay, nhắc lại, họ Lê c̣n hưng phấn cho biết:
“Khi tôi đọc thơ Thanh Tâm Tuyền, với những câu như:
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống gịng sông
“mà ḷng ḿnh phơi trên kè đá
“con thuyền xuôi
“chiều không xanh, không tím, không hồng
“những ống khói tầu mệt lả...”
“Các bạn trẻ cho biết họ hiểu ngay.
Họ không thấy đó là những câu thơ khó hiểu như khi đọc bằng mắt...”
Cá nhân, tôi vẫn lấy làm tiếc sau khi giải thưởng văn học nghệ thuật toàn quốc, bộ môn thơ, năm 1971, trao cho thi phẩm “Thuở Làm Thơ Yêu Em” Trần Dạ Từ th́, giữa các nhà thơ như Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Mộng Tuyết, Trần Dạ Từ,... đă xẩy ra một cuộc tranh biện khá ồn ào, kéo dài nhiều tháng!
Du Tử Lê
Bookmarks