Originally Posted by
THOC GAY
2. Bản CÁO TRẠNG SỐ MỘT
của PHONG TRÀO NHÂN DÂN CHỐNG THAM NHŨNG
gửi đồng bào và anh em chiến sĩ.
Làm tại Huế ngày 8 tháng 9 năm 1974.
CÁO TRẠNG SỐ 1 CỦA PHONG TRÀO
NHÂN DÂN CHỐNG THAM NHŨNG
Kính thưa Đồng bào và Anh em chiến sĩ,
Trong bài nói chuyện với Công chức, cán bộ toàn quốc tại Vũng Tàu ngày 10-7-1973 về cuộc Cách mạng Hành chánh phải hoàn thành trong ṿng 6 tháng từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1973. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă hoạch định mục tiêu của cuộc Cách mạng đó là phải trừ tham nhũng tận gốc rễ. Tiếp theo ông lại tuyên bố: “Tham nhũng không những là quốc nạn mà c̣n là quốc nhục”.
Nhân dân những tưởng rằng vị Nguyên thủ Quốc gia đă thấu hiểu được sự t́nh và sẽ có những biện pháp chung quyết để chấm dứt tệ trạng nói trên. Song tiếc thay! Những ǵ nhân dân đă chứng kiến sau đó cho thấy sự thật phũ phàng với những vụ tham nhũng tày trời mà những người chủ động không thể là ai khác ngoài những người thân cận nhất với ông Tổng thống và ngay cả cá nhân ông.
Bởi thế, hôm nay, Quốc dân Đồng bào và anh em chiến sĩ cần đặt thẳng vấn đề với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về một số trường hợp tai tiếng sau đây, với đầy đủ bằng chứng để phân đục trắng đen.
Trường hợp thứ nhất: NHÀ CỬA
Khi c̣n là Sư đoàn trưởng, Đại tá Nguyễn Văn Thiệu đă được cấp một căn nhà trong cư xá Bộ Tổng Tham mưu và một ngân khoản 500.000 đồng để tu bổ, trang trí như một số các tướng tá khác. Nhưng khi làm Chủ tịch ủy ban Lănh đạo Quốc gia, mặc dù đă có sẵn dinh Độc Lập và bao nhiêu Dinh số 1, số 2, số 3 v.v... tại Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Vũng Tàu, Nha Trang v.v... ông c̣n chiếm thêm 2 căn nhà của cư xá Bộ Tổng Tham Mưu nữa và lấy 30 triệu đồng bạc để tu bổ và trang trí, chưa kể một đại đội công binh được biệt phái làm việc không công.
Ba căn nhà đó đă bỏ không 9 năm nay và c̣n có thể bỏ không thêm 5 năm nữa v́ ông đă sửa đổi Hiến pháp để ngồi lại thêm 5 năm nữa, cộng chung là 14 năm, trong lúc bao nhiêu là tư lệnh sư đoàn, Tướng Tá khác không có một căn nhà để ở.
Ông Tổng thống chỉ có 2 người con, trưởng nữ đă xuất giá, c̣n thứ nam th́ được ông mua một biệt thự của hăng Shell ở đường Phan Đ́nh Phùng Sài G̣n giá trên 40 triệu đồng. Vừa rồi ông c̣n mua sở đất của Đồn Điền Đất Đỏ (Plantation des Terres) đường Công Lư Sài G̣n giá 98 triệu đồng để tên phu nhân, c̣n tiền th́ do ông Nguyễn Xuân Nguyên, anh em cột chèo của ông Tổng thống, Chủ tịch Công ty Phân bón Hải Long, viết chi phiếu để trả. Đó là chưa kể một biệt thự nguy nga ông tậu ở Thụy Sỹ mà đồng bào có dịp xuất ngoại đă trông thấy.
Như vậy, việc chiếm hữu ba căn nhà trong cư xá Bộ Tổng Tham mưu phải chăng cho thấy ḷng tham quá độ và sự lạm quyền quá lố của ông không?
Ông lấy tiền đâu mà mua nhà cửa như thế, và khi mua sắm, ông đă đóng bao nhiêu thuế trước bạ cho ngân sách quốc gia? Ông có chịu điều kiện cho Đồn Điền Đất Đỏ chuyển ngân về Pháp không? Việc làm của ông có đi đôi với chính sách thắt lưng buộc bụng do chính ông hô hào không? Phải chăng đó là một tội tham nhũng, một tội hối mại quyền thế, một sự che mắt Quốc Dân với những lời lẽ mạnh mẽ hô hào chống tham nhũng?
Với tư cách là Tổng Tư Lệnh Quân Lực ông có cảm thấy sự thẹn với lương tâm binh sĩ: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhà không có để ở, có khi vợ phải đi làm con điếm nuôi con, tinh thần và thể xác hi sinh hết cho đại cuộc quốc gia?
Trường hợp thứ hai: ĐẤT ĐAI
Dân Đà Lạt không mấy ai không biết thuở vườn ông mới chiếm bên bờ Hồ Xuân Hương rộng 3 mẫu, tính giá rẻ mạt cũng phải 2000 đồng một thước vuông th́ trị giá ít ra cũng phải 60 triệu đồng. Nhà chưa làm nhưng đường xá đă mở mang rất đẹp, điện nước đầy đủ, trồng hoa cảnh huy hoàng. Công binh và công chánh phải tốn bao nhiêu xăng nhớt, vật liệu, nhân công để trang trí cho thuở vườn ấy của ông?
Ngoài ra, c̣n biết bao sở đất ông chiếm hữu và bỏ không từ nhiều năm nay như sở đất sau trường Đại học Đà Lạt, mấy trăm mẫu vào gần Gia Rai trên Quốc lộ 1, mấy trăm mẫu ở Long Khánh, Gia Định và nơi khác?
Dân nghèo nhưng thiếu đất làm ăn, dân tị nạn thương phế binh và quả phụ không có một chỗ cắm dùi, th́ lương tâm và trách nhiệm của một vị lănh đạo một quốc gia đương lâm chiến rách nát, có cho phép ông bạo chiếm nhiều vùng đất ph́ nhiêu và bỏ hoang như thế không?
Nếu do các Tỉnh trưởng, Thị trưởng nịnh hót dâng hiến th́ ông há không biết đó là công thổ, chiếm lấy là cướp giựt của dân? Một vị lănh đạo công minh phải từ chối và cách chức ngay các kẻ lấy của công sản để lo lót mua địa vị cho họ, ông nghĩ sao?
Toàn dân đau khổ triền miên và đặc biệt là đồng bào các vùng giới tuyến Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Tín, B́nh Định, B́nh Long đă bỏ nhà cửa ruộng vườn, mồ mả cha ông, chạy tán loạn, kéo lê cuộc đời dở sống dở chết trên những cồn cát cằn cơi, trong những rừng lá đầy chướng khí, sẽ nghĩ thế nào về ông?
Trường hợp thứ ba: ĐẦU CƠ PHÂN BÓN
Đă mấy năm nay, nông dân điêu đứng v́ nạn khan hiếm phân bón, phải trả giá vàng mới mua được, trong khi họ biết rơ một phần quan trọng của ngoại viện đă dành để nhập cảng phân bón và thuốc sát trùng để yểm trợ cho chương tŕnh phát triển nông nghiệp. Trước sự phẫn uất cao độ của dân chúng, một nhóm Dân biểu Hạ Viện đă mạnh mẽ tố cáo một số Tỉnh trưởng, Dân biểu, Nghị sĩ đă cấu kết với gian thương đầu cơ tích trữ, tạo ra t́nh trạng khan hiếm để bóc lột nhân dân.
Không thể bưng bít được nữa, Thượng viện đă phải lậo Uỷ ban Điều tra.
Sau 3 tháng làm việc, Uỷ Ban này mà thành phần gồm đến 9 phần 10 là những nghị sĩ chân chính, đă lập một hồ sơ tuy c̣n thiếu sót nhưng chứa đựng nhiều dữ kiện đáng kể. Theo hồ sơ ấy, tổ chức phạm tội đầu cơ phân bón lớn nhất là Công ty Hải Long mà Chủ tịch là Nguyễn Xuân Nguyên, anh em cột chèo của ông Tổng thống và là người đă kư chi phiếu trả tiền mua sở nhà đất của Đồn Điền Đất Đỏ cho bà Nguyễn Văn Thiệu. Khi câu chuyện vỡ lở, ông đă mời Uỷ Ban Điều tra vào dinh Độc Lập ăn sáng và bảo mang hồ sơ vào ông xem rồi giữ hồ sơ này lại yêu cầu ủy ban “đừng làm khó dễ công ty của chúng tôi nữa”.
Được thể, Nguyễn Xuân Nguyên không thèm ra trả lời trước Uỷ Ban Điều tra theo giấy mời của ủy ban này.
Nghị sĩ Trần Trung Dung và Uỷ Ban của ông phải xin hoăn thêm một tháng, mượn cớ là để điều tra bổ túc nhưng kỳ thực là để lập một hồ sơ khác, trong đó không c̣n có tên Công ty Hải Long nữa.
Theo điều 68 Hiến Pháp, Tổng thống “không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào thuộc lănh vực tư dù có thù lao hay không?” Ở đây, ông Tổng thống đă hùn hạp với Công ty Hải Long hay ít ra là đă bảo trợ cho Công ty này trong vụ đầu cơ phân bón nói trên như thế, ông có thể nào chạy được tội vi hiến và tham nhũng không?
Hậu quả của sự đầu cơ đó làm cho giá phân tăng vọt lên theo giá lúa lên cao, gây ra cảnh đói kém cho toàn dân. Ước tính thấp nhất cho thấy nhân dân đă mất trên 30 tỷ bạc cho gian thương và tham nhũng trong vụ đầu cơ này.
C̣n đâu là “Cuộc Cách mạng Xanh” với lúa Thần Nông không phân bón? Cách mạng Xanh đă bị tham nhũng bóp chết và trớ trêu thay! Chính người đề xướng lại là thủ phạm!
Trường hợp thứ tư: BỆNH VIỆN V̀ DÂN
Bốn chữ “bệnh viện v́ dân” nghe rất hay v́ gợi ư rằng dân nghèo sẽ có nơi nương tựa khi ốm đau, nhưng sự thật quá sức phũ phàng v́ hai chữ “V́ Dân” chỉ là một bức b́nh phong che đậy bao nhiêu việc làm tồi tệ.
Các cơ sở điều trị tối tân của bệnh viện được xây cất trên một khoảng công thổ rộng và đẹp nên không tốn tiền mua. Tiền xây cất một phần do sự đóng góp của các người lấy điểm với phu nhân Tổng thống, một phần do tiền phụ trội vé số kiến thiết và vé hát, một phần khác là quà tặng gửi bằng hiện kim hiện vật của các nước bạn giúp dân nghèo Việt Nam, và phần lớn c̣n lại là tiền bán các tang vật buôn lậu do quan thuế bắt được như rượu Tây, thuốc lá Mỹ, vải Nhật, máy móc v.v... đều bị bà Nguyễn Văn Thiệu dành lấy, nói là để sung vào quỹ bệnh viện để giúp dân nhưng không có sổ sách nào chứng minh. Số tiền thu được không dưới mấy trăm triệu một năm tức lên hàng tỷ bạc bốn năm nay. Thế mà bệnh viện kia lại là tư sản của bà Nguyễn Văn Thiệu và của Hội Phụ nữ Phụng sự Xă hội của bà.
Các y sĩ điều trị trong bệnh viện đều được Bộ Y tế, Cục Quân Y biệt phái theo tiêu chuẩn thân cận nhiều ít với bà hay đàn em của bà.
Dân được hưởng những ǵ? Tiền pḥng quá đắt, dân nghèo không mon men vào được. Các pḥng miễn phí vào khoảng 100 giường nhưng điều kiện nhập viện rất khó, chưa kể tiền phải tốn thêm cho bác sĩ, thuốc men, nên đại đa số dân nghèo bị gạt ra ngoài.
Hai chữ “V́ Dân” rơ ràng đă bị bán đứng với ư đồ đen tối che mắt Quốc tế nhưng không che mắt được người dân. Là nơi tiếp thu tất cả các tang vật buôn lậu, bệnh viện V́ Dân đă bị coi là cơ sở buôn lậu hợp pháp.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tự xưng là người trực tiếp cầm quân đánh vào dinh Gia Long nói là để triệt hạ một chế độ độc tài, gia đ́nh trị, thế th́ ông trả lời thế nào với Quốc Dân về chế độ độc tài, gia đ́nh trị, và thối nát hiện tại c̣n tồi tệ hơn chế độ trước bao nhiêu lần trong việc cấu kết với những người thân tộc để tham nhũng và dĩ công vi tư? Phải chăng đó là một quốc nạn và một quốc nhục, một sự phản bội những người đă hy sinh cho một cuộc trường kỳ chiến đấu gian khổ của quân ta trên 1/4 thế kỷ nay?
Trường hợp thứ năm: BUÔN BÁN BẠCH PHIẾN
Đă mấy năm qua, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu luôn luôn hô hào bài trừ bạch phiến, ma túy, với những bích chương dán khắp nơi. Nhưng có người bắt bạch phiến, ma túy, th́ cũng có người buôn bán bạch phiến ma túy ngay dưới ánh mắt của những người hữu trách. Dân chúng nghi ngờ đây là một sự vừa ăn cướp vừa la làng những tưởng chỉ có một số cấp thừa hành nào đó phạm tội tày trời nói trên. Nào ngờ theo cuốn “Chánh Trị Bạch Phiến ở Đông Nam Á” (The Politics of Heroin in Southeast Asia) xuất bản năm 1972, mà tác giả là Alfred W. McCoy, th́ hỡi ôi chính ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm là những người cầm đầu tổ chức buôn bán bạch phiến, ma túy tại miền Nam này.
Sách này bị tuyệt đối cấm nhập cảng vào Việt Nam, nhưng nó cũng đă lọt được vào mắt xanh của những người t́m hiểu.
Theo sách đó, việc buôn bán bạch phiến ở miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của hai ông Tổng thống và Thủ tướng, đă được các viên chức thân cận nhất của hai ông cho nhập cảng lậu rồi phân phối cho những tổ chức buôn lậu quốc tế đặc biệt là Bang Triều Châu ở Chợ Lớn. Tác giả nói rơ vị Tướng phụ tá An Ninh và Quân Sự của Tổng thống trực tiếp chỉ huy hệ thống buôn lậu từ các nước ngoài và phân phối khắp 4 quân khu. Các lực lượng quân đội được sử dụng cho đường dây buôn lậu này gồm cả Hải, Lục, Không quân, Lực lượng đặc biệt, nhiều vị Tư lệnh vùng, Cảnh sát và Quan thuế.
Quyển sách cũng cho biết lúc quân đội Đồng Minh c̣n ở Việt Nam, mỗi năm, việc buôn lậu bạch phiến, ma túy đem lại một lợi tức khổng lồ là 88 triệu Mỹ kim tức vào khoảng 57 tỷ bạc Việt Nam, tính trung b́nh trong 5 năm th́ lợi tức đó lên tới 285 tỷ bạc. Nếu đem chia số lợi tức này cho 19 triệu dân miền Nam th́ mỗi đầu người được trên 15 ngàn đồng. V́ cuộc buôn bán đó đương c̣n tiếp tục nên lợi tức kia tăng thêm ít ra cũng tới 400 tỷ bạc.
Chắc ông Tổng thống và Thủ tướng chỉ được một phần thôi nhưng ít ra cũng được 50/60 tỷ. Nhưng điều tai hại hơn hết không phải là mất mấy trăm tỷ bạc vào tay tham quan ô lại và gian thương mà là di độc nó gây ra cho dân tộc nhất là giới thanh thiếu niên trong nhiều thế hệ.
Sách ấy bán ra khắp nơi trên thế giới, tường thuật tỉ mỉ những đường dây di chuyển, những nơi đổ hàng kể cả những vụ đổ bể v́ phe cánh ghen ăn phá nhau tại nhiều phi cảng, hải cảng và giang cảng ở miền Nam và Cao Nguyên. Danh tánh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu được nêu rơ cùng với danh tánh của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và một số Tướng lănh, Dân biểu, Nghị sĩ, Sĩ quan cao cấp thuộc hạ.
Nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho là vô căn cứ th́ ông phải kiện tác giả cuốn sách ấy tại Ṭa án Quốc tế hay một Toà án nào ông thấy cần, v́ đây không phải chỉ cá nhân ông bị liên hệ mà cả danh dự quốc gia Việt Nam bị bôi nhọ. Nếu ông không chịu tỏ thái độ th́ dân chúng Việt Nam sẽ đứng lên kiện tác giả quyển sách này nhưng với điều kiện là nếu tác giả trưng đầy đủ bằng chứng và thắng kiện th́ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải chịu án phí và những hậu quả của bản án.
Trường hợp thứ sáu: VỤ GẠO MIỀN TRUNG
Sáu triệu dân miền Trung thiếu gạo, đói khổ hơn 1 năm nay; Chính phủ phải trợ cấp tiền chuyên chở để giá gạo ở Huế, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Quảng Ngăi cũng xấp xỉ giá ở Sài G̣n. Nhưng dân nào có được hưởng chỉ v́ hành vi bóc lột trắng trợn của một mệnh phụ có quyền thế lớn.
Dân miền Trung tiêu thụ mỗi tháng 80.000 tấn gạo. Một phần nửa do gạo địa phương và khoai sắn cung cấp, c̣n 40.000 tấn phải được tiếp tế hàng tháng. Tiền yểm trợ mỗi tháng cho vùng Nha Trang, Tuy Ḥa là 2000 đồng và 2500 đồng cho vùng Quảng Ngăi, Quảng Tín, 3000 đồng cho vùng Đà Nẵng, Huế. Đổ đồng 90 triệu bạc cho 40.000 tấn mỗi tháng. Nhưng người ta đâu có chở đủ 40.000 tấn gạo mỗi tháng ra Trung. Do đó, chỉ dân thành thị mua được gạo tự do, c̣n dân các Xă, Ấp xa chỉ mua được mỗi gia đ́nh 5 kư lô gạo theo giá chính thức, số c̣n thiếu phải mua giá chợ đen cắt cổ. Việc bán gạo bị hạn chế, lấy cớ ngăn cản không chở gạo qua vùng Việt Cộng nhưng các viên chức của Chính quyền mua gạo Mỹ giá rẻ, bán lại giá cao cho gian thương để kiếm lời. Cảnh sát có bắt được cũng làm ngơ hay thông đồng, nhắm mắt cho con buôn tiếp tục bán gạo qua bên kia nuôi Việt Cộng.
Việc hạn chế chỉ nhằm giảm số gạo chở ra Trung xuống độ 20.000 tấn mỗi tháng giúp lái buôn ăn không trên 40 triệu đồng tiền yểm trợ chuyên chở hàng tháng, tức 480 triệu mỗi năm, chưa kể các tiền lời khác.
Người bao thầu chở gạo ra miền Trung là Phạm Sanh, Chủ tịch Nam-Việt Ngân hàng. Người bao thầu phân phối gạo ở miền Trung là mệnh phụ Ngô Thị Huyết, tức Sáu Huyết là cô ruột của Tổng thống Thiệu, mẹ đẻ của Tổng trưởng Dân Vận Hoàng Đức Nhă. Bà Sáu Huyết thông đồng với Phạm Sanh để chia nhau số tiền yểm trợ chuyên chở đó. V́ thế, dù Nam Việt Ngân hàng đă bị Ngân Hàng Quốc gia cảnh cáo nhiều lần về sự quản trị bê bối, Phạm Sanh vẫn được Tổng trưởng Thương mại và Kỹ nghệ ứng trước tiền mua gạo ra miền Trung với bạc tỷ. Phạm Sanh cứ trễ năi trong việc thi hành khế ước buộc Tổng Cường phải phạt y 240 triệu đồng.
Phạm Sanh dại ǵ mà không trễ năi khi được bà Sáu Huyết đỡ đầu.
Một tỷ bạc ứng trước đem làm các dịch vụ khác hay bỏ vào ngân hàng cũng dễ kiếm được 30 triệu bạc lời mỗi tháng. Trễ 3 tháng là kiếm được lời gần 100 triệu. Chia đôi mỗi người 50 triệu. Tuy có lệnh phạt 240 triệu, chưa chắc Phạm Sanh đă chịu nạp ngay mà có lẽ không nạp cũng nên.
Dân miền Trung đói kém phải ăn củ năng, củ chuối kể cả xương rồng, đến nỗi phải chết tức tưởi, nhưng người ta đâu thèm nghĩ đến miễn là mỗi tháng bỏ túi được 50, 60 triệu đồng.
Đây quả là một quốc nạn v́ bao nhiêu người phải đói chết v́ nó. Đây quả là một quốc nhục v́ do một mệnh phụ cô ruột của ông Tổng thống, mẹ đẻ của ông Tổng trưởng, bóc lột xương máu dân nghèo miền Trung.
“Lời oán than của dân chúng quả đă lên tận Trời cao v́ tham nhũng là gươm đao giết họ”.
Dưới mắt dân chúng, tham nhũng đi đôi với quyền hành. Quyền hành càng lớn th́ tham nhũng càng nhiều và tham nhũng khủng khiếp, hiện tại chỉ có thể có là tại v́ chính vị nguyên thủ quốc gia đă bao che và chủ động.
Tham nhũng đúng là một quốc hận v́ nó bóc lột nhân dân đến tận xương tủy, đâm sau lưng chiến sĩ, phá hoại nền kinh tế quốc gia, hủy diệt sức đề kháng của dân tộc.
Tham nhũng đúng là một quốc nhục được vị nguyên thủ quốc gia chủ trương làm mất thanh danh quốc gia trên trường quốc tế khiến cho địch khinh và bạn chán. Bất cứ người dân Việt nào xuất ngoại cũng cảm thấy tủi hổ khi nghe những người quốc bạn với nước ta thốt ra những câu nói chua chát như sau đây:
- “Chúng tôi có cảm t́nh với quư ông nhưng chúng tôi tiếc không bênh vực được cho lập trường của quư ông, chỉ v́ Chính phủ của quư ông quá thối nát, tồi tệ”.
Thử hỏi ông Tổng thống và Chính phủ ông có cảm thấy xấu hổ về lời nói trên đây của những người bạn chân thành với dân tộc ta không?
Lâu nay, nhân dân cắn răng chịu đựng v́ tin vào ư chí chống Cộng của ông Tổng thống. Sợ làm ra điều ǵ th́ có thể gây hại cho đại cuộc. Nhưng khi các tài liệu mật của Hội Nghị Đ́nh Chiến được công bố nhân dân phải bật ngửa. Điều kiện của Chính phủ miền Nam đưa ra là Cộng Sản Bắc Việt phải rút hết 300 ngàn cán binh khỏi miền Nam. C̣n điều kiện của Cộng Sản Bắc Việt là đ̣i Tổng thống Thiệu phải ra đi. Kết cục hai bên đă thỏa thuận bỏ những đ̣i hỏi trên để đồng ư vào Hiệp định Paris 1973.
Rơ ràng Tổng thống Thiệu đă chấp nhận cho 300 ngàn quân xâm lược ở lại miền Nam để đổi lấy cái ghế Tổng thống của ông, là một điều trái với lập trường “Bốn Không” của ông đă cam kết với quốc dân và với điều 4 hiến pháp. Chiến tranh hiện nay tiếp tục giết hại quân dân ta là tại ḷng tham của ông Nguyễn Văn Thiệu đă coi ngôi vị Tổng thống của ông nặng hơn vận mệnh của dân tộc.
Đây là một thứ tham nhũng tệ hại hơn hết v́ là tham nhũng trên sự sống c̣n của dân tộc hay nói đúng hơn là một sự phản bội dân tộc.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời thế nào với Quốc Dân và Quốc Dân phải làm ǵ đối với ông.
Đó là hai vấn đề phải được đặt ra và phải được giải quyết tức khắc trên căn bản công bằng:
- Những ǵ của Quân đội phải trả lại cho Quân đội.
- Những ǵ của Quốc gia phải trả lại cho Quốc gia.
- Những ǵ của Dân tộc phải trả lại cho Dân tộc.
Huế, ngày 8 tháng 9 năm 1974
Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo ḥa b́nh
Trích từ “Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa”
của Nguyễn Khắc Ngữ, Montréal, Canada, 1979 trang 417 đến 422.
Bookmarks