2) TRƯỜNG HỢP NGUYỄN HUỆ:
Nhân vật lịch sử và "nạn nhân" chính yếu của "Tổ Quốc Ăn Năn" là vua QUANG TRUNG. Thật ra ở đây, ông Kiểng cũng chỉ BẮT CHƯỚC tác giả A. PEYREFITTE khi thấy ông này phê b́nh vua LOUIS XIV và NAPOLÉON của Pháp.
Cũng xin được giới thiệu cùng Quư Độc Giả A. PEYREFITTE , tác giả cuốn "LE MAL FRANCAIS" là một NHÀ VĂN và CHÍNH TRỊ GIA Thứ Thiệt, v́ ông A. Peyrefitte có chân trong Hàn Lâm Viện Pháp cũng như đă tham chánh trong khoảng thời gian 20 năm trong Nội Các của 3 vị Tổng Thống Pháp là De Gaulle, Pompidou và Giscard d’Estaing. Khác với "Tổ Quốc Ăn Năn", "LE MAL FRANCAIS" là một tác phẩm có GIÁ TRỊ v́ là kết quả của một công tŕnh SUY TƯ ĐÚNG ĐẮN của một Nhà Văn và Nhà Chính Trị có KHẢ NĂNG. Và đó là điều mà "TỔ QUỐC ĂN NĂN" KHÔNG CÓ được v́ những lư do mà chúng tôi đă nêu trên.
A. Peyrefitte đi ngược lại khuynh hướng của đa số các Sử Gia người Pháp khi phê b́nh vua Louis XIV và Napoléon. Có lẽ v́ chịu ảnh hưởng của nền Văn Hóa TÂY PHƯƠNG có tính chất DUY LƯ, MỘT CHIỀU nên đa số các Sử Gia PHÁP chỉ thấy và CA TỤNG tính chất HIỂN HÁCH của các CHIẾN CÔNG của LOUIS XIV và NAPOLÉON cũng như tính chất HUY HOÀNG của thời đại LOUIS XIV có biệt hiệu là "Ông Vua Mặt Trời"(le Roi-Soleil).
Trong khi đó, A. Peyrefitte có cái nh́n NHÂN BẢN hơn nên ông thấy được đàng sau sự Huy Hoàng của thời đại Louis XIV qua biểu tượng thường được nhắc tới là Cung Điện VERSAILLES, là sự NGHÈO ĐÓI và THỐNG KHỔ của đa số dân chúng PHÁP vào thời kỳ đó, nhất là giới NÔNG DÂN.
Có lẽ v́ thấy A. Peyrefitte phê b́nh Louis XIV và Napoléon, nên ông Kiểng mới BẮT CHƯỚC "Hạ Bệ" Nguyễn Huệ! Nhưng v́ NGK không nắm được lư do thâm sâu của việc làm của Peyrefitte, nên không hiểu rằng việc làm của PEYREFITTE có thể ĐÚNG mà NGK lại có thể SAI!
Về vua Quang Trung, nguyên nhân CHÍNH YẾU có lẽ là v́ sinh trưởng và được nuôi dưỡng trong bầu khí Văn Hóa HAI CHIỀU KÍCH "T́nh Lư Tương Tham", nên ngoài Khả Năng QUÂN SỰ không những Ngang Hàng mà c̣n có thể HƠN cả Louis XIV và Napoléon (v́ bên cạnh những Chiến Công Hiển Hách, hai ông VƠ TƯỚNG người PHÁP cũng THUA nhiều trận "liểng xiểng", c̣n trái lại NGUYỄN HUỆ CHƯA THUA trận nào), con người Nguyễn Huệ c̣n có một CHIỀU KÍCH KHÁC mà cả Louis XVI và Napoléon đều không có.
Về điểm trên, chúng tôi sẽ dùng những Sử Liệu với những CHỨNG NHÂN đến từ nhiều phe nhóm, thời kỳ, nguồn gốc khác nhau, để cho sự phán đoán đạt được sự VÔ TƯ tối thiểu.
Thứ nhất là cụ TRẦN TRỌNG KIM mà NGK "buộc tội" là v́ thù hận nhà Nguyễn nên thổi phồng tài năng của vua Quang Trung.(48) Luận cứ trên không vững v́ nếu cụ TTK thù hận nhà Nguyễn, tại sao lại được vua Bảo Đại mời ra tham chính? Cụ TTK viết về NGUYỄN HUỆ như sau:"Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy vơ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học"(49)
Về phía QUỐC GIA, trong thời kỳ từ 1954 đến 1975, có tác giả PHẠM VĂN SƠN trong bộ Sử Giáo Khoa thứ hai là "Việt Sử Tân Biên" và "Việt Sử Toàn Thư", có viết như sau :"Quang Trung Hoàng Đế tuy là một quân nhân thượng vơ, múa gươm trên ḿnh ngựa mà lấy thiên hạ, nhưng sau cuộc đại định cũng đă tỏ ra biết chú trọng đến nhân tài, văn hóa và chính trị. Trong các việc này nhà vua có nhiều sáng kiến đặc biệt phát sinh ở một tinh thần cách mạng và quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến"(VSTT, tr. 560)(50)
Về phía TRONG NƯỚC th́ có nhà Viết Sử ĐỖ BANG viết về NGUYỄN HUỆ như sau: "Xuất thân không là trí thức, nhưng v́ do yêu cầu dựng nước, nên Nguyễn Huệ không thành kiến với trí thức mà hết sức trân trọng và thủy chung nên Nguyễn Huệ đă tập hợp được xung quanh ông bao gồm nhiều trí thức tâm huyết , tận tụy với nước, với Quang Trung, như Trần Văn Kỷ, Ngô Th́ Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp….
Trước Nguyễn Huệ và sau Nguyễn Huệ hiếm có ai đă nh́n nhận đúng đắn về vai tṛ của trí thức vào việc dựng nước như ông, mặc dù Nguyễn Huệ là người ít học, xuất thân từ một gia đ́nh nông dân ở một vùng ngoại biên của văn hóa kinh kỳ.
Quan điểm sử dụng trí thức của Quang Trung được thể hiện rơ trong bài "CHIẾU LẬP HỌC": "Dựng nước lấy việc học làm đầu, trị nước chọn nhân tài làm gốc….Trẫm buổi đầu dựng nghiệp, tôn trọng việc học, lưu tâm yêu mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài ra giúp đất nước."(51)
"Khác với đội quân thời trung cổ chuyên đi cướp bóc của cải và nô lệ, Nguyễn Huệ năm 1786 ra Thăng Long đă t́m ngay các tiến sĩ, quan lại của Lê – Trịnh, chọn trong họ những người có tài để đưa về Phú Xuân nhằm thực hiện môt nền văn trị lâu dài. Và, cho t́m các thợ rèn giỏi đưa về Phú Xuân để phát triển kỹ thuật của một kinh đô và một nền quân chính cần được đẩy mạnh kiến thiết và xây dựng ở một tầm mới của thời đại." (52)
Về việc thẩm định thời đại Tây Sơn, "năm 1822 một người Anh tên Crawfurd đến Việt Nam có thuật lại rằng" Tôi đă gặp những thương nhân Hoa Kiều ở Huế, đă nói chuyện với họ. Họ đă sống dưới chế độ Tây Sơn và chế độ Nhà Nguyễn, họ nói chắc rằng, triều đại Tây Sơn cai trị công bằng và ôn ḥa hơn nhà vua hiện tại (tức Minh Mạng) hay cha nhà vua ấy(Gia Long)".(53)
"Năm 1790, giáo sĩ La Mothe cũng viết "Phải nói trắng ra rằng, t́nh cảnh không đến nỗi tệ. Dưới triều đại này chúng tôi được che chở khỏi bị lũ cướp phá phách, và về phần đạo giáo th́ chúng tôi được hưởng nhiều tự do và an ninh hơn các triều đại trước". (54).
Trong khi ở bên trới TÂY, vào thời sớm hơn một chút, vua LOUIS XIV đang theo đuổi mộng "ĐẠI PHÁP", "ĐẠI THẾ KỶ"(Le Grand Siècle), hay đồng thời với Nguyễn Huệ, NAPOLÉON đang theo đuổi mộng THỐNG NHẤT ÂU CHÂU, bất kể đến sự KHỔ CỰC, ĐAU THƯƠNG của Dân Chúng và Binh Lính, th́ chúng ta hăy lắng nghe vua QUANG TRUNG tâm sự với Ngô Thời Nhậm ở dưới núi Tam Điệp như sau:
" Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đă có sẵn, chẳng qua mười ngày, có thể đuổi được người Thanh, nhưng nghĩ, chúng là nước lớn gấp mười nước ḿnh, sau khi bị thua trận, ắt ấy làm thẹn mà lo báo thù, như thế th́ việc binh đao không bao giờ dứt không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao. Không phải Ngô Thời Nhậm th́ không ai làm được. Chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng bấy giờ nước giàu dân mạnh, th́ ta có sợ ǵ chúng".(55).
Tóm lại, BẮT CHƯỚC A.Peyrefitte, nhưng không hiểu thâm ư của Peyrefitte khi ông này phê b́nh Louis XIV và Napoléon, nên NGK mới đ̣i "Hạ Bệ" Nguyễn Huệ. Có lẽ v́ theo phương pháp LƯ LUẬN MỘT CHIỀU đă LỖI THỜI nên NGK không biết là Nguyễn Huệ chỉ GIỐNG Louis XIV và Napoléon ở một khía cạnh là một VƠ TƯỚNG TÀI BA, c̣n môt khiá cạnh khác của Nguyễn Huệ mà cả Louis XIV lẫn Napoléon đều không có là sự ĐỨC ĐỘ và ḷng NHÂN ÁI. Như đă được đề cập ở trên, nguyên nhân chính yếu có lẽ là v́ hai VƠ TƯỚNG gốc PHÁP đă lớn lên trong bầu khí văn hóa DUY LƯ MỘT CHIỀU của TÂY PHƯƠNG, trong khi NGUYỄN HUỆ đươc sinh ra và nuôi dưỡng trong nền văn hóa HAI CHIỀU KÍCH "T́nh Lư Tương Tham" của Viễn Đông và Việt Nam. Do đó, nêu lấy CÔNG TÂM mà đọc những ḍng vừa trích ở trên của những CHỨNG NHÂN thuộc những phe nhóm, nguồn gốc và thời kỳ khác nhau, th́ chúng ta đâu có thấy NGUYỄN HUỆ qua h́nh ảnh của một "Tướng Cướp" như NGK cố t́nh xuyên tạc, mà trái lại qua bức chân dung của một vị VƠ TƯỚNG "anh hùng vô địch" nhưng lại có ḷng NHÂN ÁI đối với quốc dân và binh sĩ , một vị VUA ANH MINH, TÀI BA ĐỨC ĐỘ, VĂN VƠ SONG TOÀN, đúng theo LƯ TƯỞNG của nền Văn Hóa NHÂN CHỦ, HAI CHIỀU KÍCH của dân tộc VIỆT vậy!
3) TRƯỜNG HỢP NHO GIÁO:
a) VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN:
Mục tiêu chính yếu khác của "Tổ Quốc Ăn Năn" là ĐÁNH ĐỔ NHO GIÁO, v́ theo NGK, Nho Giáo "đă khiến cho các xă hội Á Đông trong đó có Việt Nam thuộc văn hóa Trung Hoa dậm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm. Ư này ở trang 277 của cuốn Tổ Quốc Ăn Năn được coi là lư do chính tại sao phải đánh Nho Giáo, hạ bệ Khổng Tử".(56)
Nhưng có lẽ ông Kiểng không ư thức được rằng đề tài trên đă LỖI THỜI lắm rồi, v́ "Thời Trang" Văn Hóa xem Nho Giáo là nguyên nhân khiến các xă hội Á Đông "chậm tiến" đă qua đi từ lâu. Và từ lâu nay, xuất hiện một "Thời Trang" MỚI là làm sao GIAIÛ THÍCH ẢNH HƯỞNG của NHO GIÁO đối với sự HIỆN ĐẠI HÓA VƯỢT BỰC của các "Con Rồng" Á CHÂU như Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba….mà mẫu số chung là nền văn hóa NHO GIÁO. Do đó, chúng tôi có cảm tưởng là NGK và những người thuộc phe nhóm của ông luôn luôn ĐI TRỄ MỘT CHUYẾN TÀU!
C̣n một lư do khác khiến chúng tôi xem đề tài trên đă LỖI THỜI, là v́ cách đây đă hơn 20 năm ,căn cứ trên nhận xét của một Học Giả Quốc Tế danh tiếng gốc Pháp ETIEMBLE về số phận khác nhau của Nho Giáo tại Trung Hoa, Việt Nam một bên, và bên kia là Nhật Bản, chúng tôi đă có dịp phân trích vấn đề này như sau:"Vận nước có khi lên khi xuống……nhưng nếu muốn t́m một giải thích văn hóa về vấn đề trên th́ chúng tôi có nhận xét như sau: Nho Giáo đến đời nhà Tống chia làm hai ḍng: ḍng "Lư Học" của Chu Hy ảnh hưởng mạnh ở Trung Hoa và Việt Nam lại nặng phần từ chương trích cú; c̣n ḍng "Tâm Học" của Vương Dương Minh gần với tinh thần NHO GIÁO NGUYÊN THỦY hơn lại mạnh ở Nhật, nên giúp giới Sĩ Phu của Nhật thời đó sáng suốt hơn, cũng như "giúp Nhật trong ṿng non nửa thế kỷ trở nên một trong những quốc gia đệ nhất hoàn cầu"(57).
Thực ra sở học của ông Kiểng về Nho Giáo không có bao nhiêu: bằng chứng là để "T́m hiểu Khổng Giáo mà NGK chỉ đọc cuốn Luận Ngữ do Nguyễn Hiến Lê biên soạn, dù có đối chiếu bản Luận Ngữ bằng tiếng Pháp của Bùi Đức Tín, của Anne Cheng…."(58)
Với vốn kiến thức rất "khiêm nhường" về đề tài trên, và một DỤNG Ư rất "lộ liễu" là cố t́nh xuyên tạc và "hạ bệ" nền văn hóa cổ truyền bằng mọi giá, nên NGK đưa ra những giải thích rất KỲ CỤC về những thuật ngữ căn bản của Nho Giáo như "Quân Tử – Tiểu Nhân", chữ "Nhân", Chữ "Đức", chữ "Lễ", vai tṛ của Khổng Tử , thái độ của Nho Giáo đối với Phụ Nữ….
b) QUÂN TỬ – TIỂU NHÂN:
Ông Kiểng viết: "Điều rất ngạc nhiên là tuyệt đại đa số những người bàn luận về Khổng Giáo không hiểu ư nghĩa của những từ ngữ "quân tử" và "tiểu nhân" ở vào thời đại Khổng Khâu (và rất lâu sau khi ông qua đời) nên họ thường coi "sĩ" và "quân tử" là những giá trị tinh thần, biểu tượng cho một nhân cách, một đạo đức và họ hay đồng hóa "sĩ" và "quân tử" với sự cao thượng.
Thực ra "nho" chỉ là những người học để ra làm quan, "sĩ" là những nho được tuyển chọn để được huấn luyện thành quan, "quân tử "là một giai cấp, giai cấp của kẻ sĩ, những kẻ làm tay sai cho các vua chúa để thống trị quần chúng.
C̣n "tiểu nhân" chỉ có nghĩa là quần chúng mà thôi" (59)
NHẬN XÉT:
- Nhận xét đầu tiên là tính chất TRỊCH THƯỢNG, NGẠO MẠN toát ra từ các ḍng trên: NGK làm như từ xưa đến nay,trong những người nghiên cứu Nho Giáo th́ hầu như KHÔNG có ai hiểu ĐÚNG trừ đương sự.
Ở đây, có lẽ nên nói NGƯỢC lại th́ ĐÚNG hơn: "Điều đáng ngạc nhiên là hầu như tuyệt đại đa số những người bàn luận về Khổng Giáo ít hay nhiều hiểu ĐÚNG hai từ ngữ "quân tử" và "tiểu nhân", TRỪ NGK là người đă từ chối khả năng Suy Tư của chính ḿnh, nên vẫn c̣n giữ lại loại Phản Xạ, cũng như dùng loại Phương Pháp, bàn về những Vấn Đề với loại Nội Dung đă LỖI THỜI để cuối cùng biến cuốn sách ḿnh viết thành BẢN SAO của một cuốn sách khác của một người NGOẠI QUỐC".
- Thứ hai, dẫu trước Khổng Tử, hai từ ngữ "quân tử" và "tiểu nhân" có ư nghĩa như NGK lập luận đi nữa, th́ nếu NGK nghiên cứu đàng hoàng và chịu khó CẬP NHẤT HÓA vốn Kiến Thức của ḿnh th́ sẽ hiểu rằng đúng theo tinh thần của cuộc CÁCH MẠNG Chính Trị mà Khổng Tử muốn thực hiện nhằm đánh đổ chế độ KẾ TỬ bằng cổ động cho chế độ KẾ HIỀN, th́ ít nhất là từ đời Khổng Tử trở về sau, "Quân Tử" đă mang ư nghĩa LUÂN LƯ, ĐẠO ĐỨC, nghĩa là bất kỳ ai dù thường dân cũng thế hễ có những đức tính CAO THƯỢNG đều được gọi là QUÂN TỬ, chứ không phải hiểu theo nghĩa đă LỖI THỜI của NGK!!!
c) CHỮ LỄ:
NGK viết: "Tiên học lễ hậu học văn chỉ có nghĩa trước học cúng rối sau mới học chữ" (60). Theo NGK, chữ "lễ" trong Nho Giáo không có nghĩa là lễ phép, lịch sự mà chỉ có nghĩa "lễ nghi" mà thôi".
Nếu "quả thật chữ "lễ" trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có nghĩa là cúng tế, nghi thức trong thờ phụng mà thôi, cũng như về sau chữ "lễ" dùng rộng ra gồm cả phong tục, tập quán mà xă hội thừa nhận trong các sinh hoạt như quan, hôn, tang , tế, th́ cũng như cặp cụm từ "quân tử – tiểu nhân", sau Khổng Tử chữ "lễ" c̣n bao gồm nhiều nghĩa khác như lẽ công chính của đạo lư và lẽ thích nghi đạo lư ở đời. Lễ theo quan niệm của Khổng Tử là để giữ t́nh cảm cho hợp với đạo trung, tạo thành t́nh cảm nhân hậu, căn bản trọng yếu của Nho Giáo. Lễ để định lẽ phải trái, trật tự trên dưới, thân sơ trong xă hội. Mục tiêu sau cùng của chữ "lễ" trong Khổng Giáo nhằm để tiết chế cái tư dục của nhân sinh." (61)
Cũng như với tiểu mục trước, tuyệt đại đa số những người có dịp nghiên cứu Nho Giáo đều hiểu ít nhiều theo một hay nhiều ư nghĩa đă được THĂNG HOA của chữ "Lễ" vừa tŕnh bày ở trên TRỪ NGK. KỂ CŨNG LẠ!!!
C̣n về các chữ quan trọng khác của Nho Giáo như chữ NHÂN, chữ ĐỨC….., NGK cũng có lối Hiểu và Giải Nghĩa rất Lập Dị KỲ CỤC, KHÔNG GIỐNG AI CẢ!!! Như đối với cụm từ "Quân Tử – Tiểu Nhân" và chữ LỄ vừa nêu trên vậy.
d) VAI TR̉ CỦA KHỔNG TỬ:
V́ mục tiêu chính yếu của NGK với "Tổ Quốc Ăn Năn" là ĐÁNH ĐỔ NHO GIÁO, nên ngoài việc chỉ trích các thuật ngữ quan trọng của Nho Giáo như "Quân Tử – Tiểu Nhân", chữ LỄ, chữ NHÂN, chữ ĐỨC…vvv…, NGK c̣n nhắm "mủi dùi" vào chính con người KHỔNG TỬ.
Nhận xét của ông Kiểng về phần đóng góp của KHỔNG TỬ: "Đối với Nho Giáo, Khổng Tử không sáng tác ǵ cả. Đóng góp của ông không đáng kể so với Mạnh Tử và cũng kém hẳn các danh nho sau này." (62)
Nếu quả đúng như NGK nhận xét th́ Mạnh Tử đă không "nức nở" khen Thầy ḿnh "không hết lời", cũng như hậu thế đă không "tặng" cho Khổng Tử các danh hiệu cao quư nhất như VẠN THẾ SƯ BIỂU, THÁNH CHI THỜI… trong khi danh hiệu cao nhất của Mạnh Tử là Á THÁNH. Cũng như giới Học Giả QUỐC TẾ Cận Đại và Hiện Đại đă không tỏ sự NGƯỠNG MỘ đối với Ông như thế, đến nổi như Học Giả Richwein chẳng hạn tuyên dương KHỔNG TỬ là THÁNH QUAN THẦY CỦA THẾ KỶ ÁNH SÁNG (Le Siècle des Lumières), có lẽ do ẢNH HƯỞNG của KHỔNG TỬ trên NHỮNG NGƯỜI CHA TINH THẦN CỦA NỀN DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Franklin, Jefferson……vvv…..
Ngoài ra, dựa vào câu nói "thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ" NGK chê trách Khổng Tử như sau: "Đó không phải câu nói khiêm tốn như ta có thể nghĩ, mà cả một tôn chỉ của Khổng Khâu. Ông coi những triết lư và hiểu biết của người xưa là đầy đủ và hoàn chỉnh, đời sau cứ thế mà theo không được sửa đổi thêm bớt ǵ cả"(63).
Thật ra cụm từ trên có nhiều lối hiểu khác nhau từ đợt b́nh thường cho đến đợt Minh Triết cao siêu. Nhưng cứ sự, th́ có nhiều Học Giả Quốc Tế danh tiếng xem đây là một lời nói KHIÊM TỐN của Khổng Tử, v́ như đối những chữ LỄ, chữ NHÂN, chữ ĐỨC hay cụm từ "QUÂN TỬ – TIỂU NHÂN", tuy trên bề mặt có vẻ "Thuật Nhi Bất Tác" v́ KT dùng những Thuật Ngữ đă có từ lâu, nhưng trên thực tế Khổng Tử đă THUẬT NHI TÁC, tức Ông cho chúng mang những Ư Nghĩa rất MỚI MẺ, rất CÁCH MẠNG mà các từ ngữ trên không có trước thời Khổng Tử.
Nếu không, th́ Tư Tưởng, Tiếng Tăm của Ông đă bị "chôn táng" với nhà Chu, chứ đâu c̣n SỐNG MẠNH cho đến ngày nay, để cả Thế Giới phải mời KHỔNG TỬ như tại Hội Nghị Quốc Tế về Triết Học tại Honolulu vào năm 1949, ra làm NHẠC TRƯỞNG cho cuộc HOÀ TẤU VĂN HÓA ĐÔNG TÂY Mai Hậu!!!(64)
e) THÁI ĐỘ CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI PHỤ NỮ:
Một vấn đề quan trọng khác là thái độ của Nho Giáo đối với Phụ Nữ. Ông Kiểng viết: "Hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ rất mọi rợ và vô nhân đạo. Nó hạ giá người phụ nữ xuống ngang hàng một nô lệ và một vật dụng"(65)
Đối với vấn đề này cũng như nhiều vấn đề khác, NGK cũng KHÔNG CẬP NHẬT HÓA vốn kiến thức của ḿnh nên vẫn tiếp tục dùng những LUẬN CỨ của các THẾ KỶ TRƯỚC.
Trước tiên, ông Kiểng không biết đến sự phân biệt giữa VIỆT NHO và HÁN NHO của Cố Triết Gia KIM ĐỊNH. Theo Chủ Thuyết VIỆT NHO của Cố Triết Gia được kiện chứng bởi các khám phá của KHOA HỌC gần đây, dân Bách Việt gốc NÔNG NGHIỆP vào đất Tàu trước Hoa Tộc, nên đặt nền móng đầu tiên cho Nho Giáo. C̣n Hoa Tộc là dân DU MỤC vào sau, tuy yếu về VĂN HÓA nhưng mạnh về QUÂN SỰ nên dồn dân Bách Việt về phương Nam và CAI TRỊ nước Tàu trên nhiều ngàn năm cho đến ngày nay.
Ngoài ra, cặp NÔNG NGHIỆP – DU MỤC thường đi đôi với cặp DÂN CHỦ – ĐỘC TÀI. Và v́ vai tṛ của PHU NỮ rất quan trọng trong xă hội NÔNG NGHIỆP (như việc GIEO GẶT, trọng điểm của xă hội Nông Nghiệp hầu chắc là do phụ nữ sáng kiến ra), nên các xă hội nông nghiệp cổ sơ thường theo chế độ MẪU HỆ, thờ NỮ THẦN, cũng như dành cho Phụ Nữ vai tṛ quan trọng được thấy chẳng hạn qua tập tục tính theo HỌ MẸ và tục CƯỚI RỂ như một vài sắc dân Ra Đê trên Ban Mê Thuột vẫn c̣n giữ.
Mặt khác, nền VƯƠNG ĐẠO của NHO GIÁO NGUYÊN THỦY do Khổng Tử đại diện v́ rất gần với tinh thần NÔNG NGHIỆP của VIỆT NHO nên đạt được tinh thần DÂN CHỦ qua thuật ngữ DÂN VI QUƯ của Mạnh Tử chẳng hạn và như đă nói ở trên, đă có ảnh hưởng rất lớn trên những người CHA TINH THẦN của Thế Kỷ ÁNH SÁNG như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Frankhlin, Jefferson…..(66)
Nhưng đến nhà HÁN th́ bề ngoài có vẻ tôn Nho nhưng trong thực tế lại lập tháp Thạch Cừ nhằm xuyên tạc Nho Giáo như chẳng hạn giải nghĩa Nho theo kiểu ma thuật có lợi cho chính quyền chuyên chế, hạ giá đạo Hiếu để đề cao "trung quân" hay thay thế TAM CƯƠNG Đạt Đức: Trí-Nhân-Dũng của Nho Giáo Nguyên Thủy bằng TAM T̉NG của Đổng Trọng Thư.
Nho VƯƠNG TRIỀU cùng với số phận của người PHỤ NỮ c̣n tiếp tục SA ĐỌA với các nhà triều đại MINH, TỐNG,THANH.
Vậy nên muốn hiểu đúng TINH HOA của NHO GIÁO, phải trở về với NHO GIÁO NGUYÊN THỦY hay xa hơn nữa là VIỆT NHO, đặc biệt trong môi sinh tinh thần của LÀNG XĂ VIỆT.
Nhiều Học Giả Ngoại Quốc như M. Durand trong "La Femme Annamite" đều nhận thấy vai tṛ QUAN TRỌNG của người Phu Nữ VIỆT trong đời sống gia đ́nh. "Lấy chồng, người vợ có quyền TAY H̉M TAY KHÓA , nghĩa là quyết định về tài sản và tài chánh của gia đ́nh. Jules Ferry, một viên quan cai trị Đông Dương thời Pháp thuộc, đă không tiếc lời ca tụng vẻ đẹp gia đ́nh trong xă hội Việt Nam, nhờ người vợ đóng vai tṛ NỘI TƯỚNG, Chủ Nhân Ông thực sự của gia đ́nh" (67)
Nhưng địa vị đặc biệt CAO QUƯ của Phụ Nữ VIỆT khi so với thân phận rất HẨM HIU của tuyệt đại đa số người phụ nữ CÙNG THỜI ở trong các nền văn hóa khác, được đặt nổi một cách đặc biệt trong bộ "Quốc Triều H́nh Luật" c̣n được gọi là LUẬT HỒNG ĐỨC ra đời cách đây khoảng 5 thế kỷ. Nhưng v́ NGK KHÔNG chịu CẬP NHẬT HÓA vốn Kiến thức của ḿnh nên không hay biết ǵ về nội dung của Bộ Luật rất quan trọng này.
Khi so sánh LUẬT HỒNG ĐỨC với LUẬT TÂY PHƯƠNG cùng thời, trên phương diện TÀI SẢN, trong khi Luật Hồng Đức cho vợ chồng hoàn toàn B̀NH ĐẲNG VỀ HÔN SẢN th́ tại Mỹ, măi tới năm 1890 nhiều tiểu bang mới sửa đổi và một số tiểu bang vẫn c̣n áp dụng học lư "Femme Couverte" của Thông Luật, theo đó NGƯỜI VỢ LÀ VẬT SỞ HỮU CỦA CHỒNG và không có quyền pháp lư đối với lợi tức do chính bà kiếm ra cũng như đối với con cái và tài sản của bà, trừ khi hai vợ chồng kư hôn khế trước đặt tài sản của họ dưới chế độ giám hộ (trust).
Và một cách Tổng Quát, trong khi người phụ nữ VIỆT ở thế 15, có quyền tư hữu ngang hàng với chồng và giữa vai tṛ quan trọng trong gia đ́nh cũng như ngoài xă hội, th́ măi tới thế kỷ 18 ở Âu Châu và thế kỷ 20 ở Mỹ, địa vị của người đàn bà TÂY PHƯƠNG c̣n thấp trong cả trong gia đ́nh lẫn ngoài xă hội. Cao trào Phụ Nữ (Feminism) chỉ thực sự lên cao tại Mỹ vào thập niên 1960 và thu thành quả tích cực vào những năm 1990.(68)
Vậy nên câu tuyên bố sau đây của NGK "Hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ rất mọi rợ và vô nhân đạo. Nó hạ giá người phụ nữ xuống ngang hàng một nô lệ và một vật dụng" ÁP DỤNG CHO PHỤ NỮ TÂY PHƯƠNG TH̀ ĐÚNG HƠN, ít nhất cho đến thế kỷ 18 đối với Âu Châu và thế kỷ 20 đối với Hoa Kỳ!
ĐÚNG LÀ TUYÊN BỐ ẤU TẢ!!!
(C̣n tiếp)
Bookmarks