Bất cứ nước nào đă tự hào là có một nền văn hóa là phải có một cuốn tự điển để chuẩn xác cho ngôn ngữ của quốc gia ḿnh hầu tránh sự dùng chữ bừa băi, lố lăng hay lai căng, vay mượn. Chữ quốc ngữ sau khi thành h́nh không lâu đă có ngay một cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên của Paulus Huỳnh Tịnh Của, cuốn Đại Nam Quốc Âm Tự Vị xuất bản cuối thế kỷ 19.
Dựa theo cuốn tự điển đầu tiên này nhiều tự điển và từ điển Việt Nam khác được các tác giả sau này biên soạn. Trước 1975, hai cuốn thông dụng trong Nam là Việt Nam Từ Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức và Việt Nam Từ Điển của Lê Văn Đức. Phía nhà cầm quyền cộng sản sau 1946 không biên soạn tự điển tiếng Việt nào. Cho tới khi cộng sản chiếm hoàn toàn miền Nam Việt Nam năm 1975 cuốn từ điển thông dụng của họ chỉ có Từ Điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên. Bộ Bách Khoa Tự Điển Việt Nam mà Hà Nội quảng cáo từ lâu cho tới nay h́nh như vẫn c̣n trong dạng dự thảo mấy vần đầu A, B, C mà thôi.
Có nhiều tác giả thường khen Hà Nội có những công tŕnh khảo cứu văn học công phu hơn Việt Nam Cộng Ḥa v́ nhà cầm quyền cộng sản chịu bỏ ra những ngân quỹ lớn cho việc biên khảo và huy động nhiều nhân lực. Điều này có thể đúng với một số tác phẩm nhưng không đúng với tất cả v́ các nhà biên khảo Hà Nội vô t́nh hay cố ư c̣n nặng về tuyên truyền, và phải hướng mọi nghiên cứu của họ theo đường lối chỉ thị của đảng cộng sản nên trở thành thiếu vô tư.
Thí dụ đơn giản là cuốn biên khảo Người Anh Hùng Làng Dóng của Cao Huy Đỉnh nói về huyền thoại thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) cả hàng ngàn năm trước mà cũng xen kẽ vào những đoạn tuyên truyền chống Mỹ cứu nước khiến ta có cảm tưởng như ăn cà rem mà lại thêm gia vị... mắm tôm.
Trong cuốn Từ Và Vốn Từ Tiếng Việt do nhà xuất bản Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội phát hành năm 1986, tác giả Nguyễn Văn Tu viết rằng từ trước tới nay Việt Nam chỉ mới có sáu cuốn từ điển tiếng Việt mà ông gọi là từ điển một ngôn ngữ. Tác giả liệt kê những từ điển có trước 1945 như cuốn từ điển của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức tới Từ Điển Học Sinh của nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội và kể thêm một cuốn thời Việt Nam Cộng Ḥa của Đào Văn Tập xuất bản tại Sài G̣n.
Sau đó, cũng tác giả Nguyễn Văn Tu cho nhà xuất bản Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghịệp, Hà Nội in cuốn Các Nhóm Từ Đồng Nghĩa Trong Tiếng Việt, khi liệt kê các từ điển Việt Nam có ghi thêm Từ Điển Tiếng Việt Phổ Thông của Viện Ngôn Ngữ Học nhưng cả hai cuốn sách của ông Tu đă dẫn đều không hề nói tới cuốn từ điển của Lê Văn Đức.
Việt Nam Từ Điển của Lê Văn Đức được biên soạn trong mười năm với sự hiệu đính của nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ, in trong ba năm và tới năm 1970, nhà xuất bản Khai Trí mới cho ra mắt tại Sài G̣n. Bộ từ điển gồm hai cuốn khổ lớn, chữ nhỏ dày tổng cộng 2515 trang có đầy đủ phần định nghĩa thông thường và các phần nhân danh, địa danh, tục ngữ, thành ngữ, điển tích...
Chẳng lẽ Nguyễn Văn Tu là một giáo sư nhiều năm, đă từng viết sách về ngôn ngữ mà không biết tới bộ từ điển đồ sộ Lê Văn Đức. Thực ra th́ ông Tu biết nhưng hoặc là theo chỉ thị của đảng cộng sản hoặc là tự ư ông muốn d́m những tác phẩm của miền Nam chăng v́ cho rằng cái ǵ xuất hiện ở miền Nam đều vô giá trị.
Điều nhận xét này không vơ đoán mà chỉ là nhận xét về đường lối của Việt cộng xưa nay vẫn cố t́nh lờ đi những công tŕnh của miền Nam.
Thí dụ về truyền h́nh, Việt cộng phổ biến và giảng dạy rằng truyền h́nh Việt Nam chỉ có từ năm 1970 là năm Hà Nội bắt đầu có đài, một tuần phát h́nh hai ba lần, mỗi lần vài chục phút. Trong khi tại Việt Nam Cộng Ḥa đă có truyền h́nh từ năm 1966 khi đài phát đặt trên một phi cơ lượn trên không phận Sài G̣n trong thời gian chờ đài dưới đất đang xây cất dở dang.
Nói tới lịch sử điện ảnh th́ cộng sản chỉ kể từ những phim đèn chiếu (phim tranh vẽ chỉ có h́nh, không cử động) sau 1946 khi họ chạy vào rừng, rồi tới phim phóng sự vài chục phút Nước Về Bắc Hưng Hải mà không nói ǵ tới những phim Việt Nam vùng quốc gia như Cánh Đồng Ma, Trận Phong Ba hay Kiếp Hoa.
Sách viết về lịch sử mỹ thuật hay âm nhạc chẳng hạn, họ sẵn sàng bôi tên những họa sĩ, những nhạc sĩ có tên tuổi từ trước 1945 nếu những nghệ sĩ tài danh đó đă ở lại hoặc trở về vùng quốc gia không theo họ, cùng ở với họ trong chốn rừng rú Việt Bắc.
Trở lại chuyện tự điển, sau hiệp định Geneva 1954, cộng sản chính thức trở về tiếp thu Hà Nội cũng chưa có th́ giờ lo chuyện này. Tới sau ngày 30.4.75 chiếm được Sài G̣n cán bộ văn hóa Hà Nội vào Sài G̣n c̣n ào ào vơ vét các loại từ điển song ngữ Anh - Việt, Pháp - Việt, Hán - Việt mà Hà Nội không có.
Về tiếng Việt măi tới năm 1963, Hà Nội mới soạn xong cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên, rồi tới năm 1967 mới phát hành. Cuốn Từ Điển Tiếng Việt này do Văn Tân chủ biên với thành phần biên soạn gồm 13 người trong đó có những nhà trí thức, học giả quen tên từ lâu như Nguyễn Tấn Gi Trọng, Ngụy Như Kontum, Trần Văn Giáp, Hoa Bằng...
Dưới chế độ Cộng sản, ngôn ngữ Việt tại miền Bắc đă có nhiều tiếng mới rất xa lạ với tiếng Việt b́nh thường. Lấy thí dụ ngay trong cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Văn Tân ta đă bắt gặp những chữ lạ tai có nghĩa khác hẳn nghĩa thông thường mà người Việt đă dùng trước khi cộng sản Việt ra công khai năm 1945.
Xin đơn cử vài thí dụ :
- lô gích: hợp với luận lư.
- quá độ: thời gian chuyển tiếp giữa hai thời kỳ.
- hồ hởi: cởi mở, vui vẻ, phấn khởi.
- đường kính: thứ đường ăn đă tinh chế thành tinh thể màu trắng.
- lái xe: người điều khiển tay lái cho xe ô tô chạy (dùng động từ làm danh từ).
- sự cố:nguyên nhân sinh ra việc biến.
- công nghiệp: phương thức dùng máy móc biến hóa nguyên liệu thành vật dụng hoặc thành công cụ.
Trong Từ Điển Tiếng Việt (Văn Tân) nhiều tiếng Việt gốc Hán đă Việt hóa cho ngôn ngữ thêm phong phú th́ các tác giả tự điển lại cho là lộn xộn và chủ trương loại bỏ nhiều từ thông dụng. Về điểm này các tác giả viết trong Lời Nói Đầu: "Cái hiện tượng thiếu ngăn nắp trong tiếng Việt kể ra th́ c̣n nhiều." Cũng trong bài này, khi giải thích cách xếp đặt từ theo thứ tự nào, họ viết: "Về trật tự ABC chúng tôi theo đúng trật tự của vần chữ quốc ngữ Việt."
Ngôn ngữ của một dân tộc có phải là một cái tủ áo đâu mà gọi là một ngôn ngữ thiếu ngăn nắp. Và khi sắp xếp chữ theo vần A, B, C sao không gọi là theo thứ tự mà lại dùng hai chữ trật tự như khi xếp ngôi vị các đảng viên trong Bộ Chính trị, hay hô hào trật tự trong một đám biểu t́nh tiền chế để hoan hô lănh tụ. Họ hô hào làm cho tiếng Việt trong sáng nhưng chính những người làm tự điển lại làm mù mờ và nghèo nàn thêm tiếng Việt.
Cho tới trước năm 1967, ở trong Nam và có thể cả ngoài Bắc khi cần kê cứu tiếng Việt vẫn phải dùng tạm cuốn Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức (Ban Văn Học) Hà Nội biên soạn và nhà in Trung Bắc Tân Văn in năm 1931. Cuốn này dày khoảng 700 trang, được tái bản nhiều lần và được dùng rộng răi v́ cuốn từ điển Huỳnh Tịnh Của th́ quá cổ cả về định nghĩa và cách viết nên chỉ c̣n dùng để nghiên cứu mà thôi.
Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức c̣n thiếu sót nhiều (thí dụ chữ sen chỉ có định nghĩa là một loài cây dưới nước mà thiếu định nghĩa thông thường nữa là cô giúp việc trong gia đ́nh) nên miền Bắc năm 1967 có Từ Điển Tiếng Việt (Văn Tân) và miền Nam năm 1970 có Việt Nam Từ Điển của Lê Văn Đức thay thế.
Viện Ngôn Ngữ Học của Hà Nội xúc tiến việc soạn thảo một cuốn tự điển Việt Nam mới, và tới năm 1988 nhà xuất bản Khoa Học Xă Hội in xong tại thành Hồ với tên là Từ Điển Tiếng Việt. Sách dày 1206 trang do Hoàng Phê chủ biên. Theo lời giới thiệu ở đầu sách, Từ Điển Tiếng Việt là một cuốn từ điển đầu tiên của Việt Nam do một tập thể cán bộ ngôn ngữ biên soạn. Tập thể này gồm 17 người so với cuốn Từ Điển Tiếng Việt (Văn Tân) th́ tập thể của Từ Điển Tiếng Việt (Hoàng Phê) đông hơn tới bốn người nhưng không có những học giả quen tên lâu đời như trường hợp từ điển Văn Tân mà toàn là những tên lạ.
Trong lá thư đề ngày 7.3.1987 in trên đầu sách, Phạm Văn Đồng khen ngợi bộ biên tập, tán dương cuốn sách này là chuẩn hóa tiếng Việt và giữ ǵn sự trong sáng cho tiếng Việt.
Cho tới nay từ điển Hoàng Phê đă được tái bản nhiều lần. Khi biên sọan Từ Điển Tiếng Việt (Hoàng Phê), các tác giả đă tham chiếu các từ điển trong Nam, ngoài Bắc nên có một số ưu điểm và mới mẻ hơn nếu so với Từ Điển Tiếng Việt (Văn Tân) hoặc Việt Nam Từ Điển (Lê Văn Đức).
So với cuốn Văn Tân, từ điển Hoàng Phê có nhiều từ hơn. Chẳng hạn hai từ thanh nhạc và lâm sàng là hai từ mà báo chí cộng sản thường dùng, từ điển Hoàng Phê có giải nghĩa nhưng từ điển Văn Tân không có và từ điển Lê Văn Đức cố nhiên không có v́ h́nh như trong Nam không ai dùng hai từ này. Về thành ngữ có từ đầu" đứng trước Văn Tân có 14 thành ngữ như đầu cua tai nheo, đầu trâu mặt ngựa... nhưng thiếu đầu Ngô ḿnh Sở.
Hoàng Phê có đầy đủ hơn nhưng nếu so với Lê Văn Đức th́ không thấm vào đâu v́ trong Việt Nam Từ Điển (Lê Văn Đức) có tới 44 thành ngữ với từ "đầu" đứng trước.
Về cách định nghĩa, tự điển Hoàng Phê biên soạn gọn gàng và chính xác. Tuy nhiên cũng c̣n nhiều trường hợp cần bàn bạc. Chẳng hạn từ trước tới nay khi định nghĩa chữ "cây" các tác giả thường thường theo cách định nghĩa chữ tree hay arbre trong tiếng Anh và tiếng Pháp. Và ghi cây là thực vật có lá, thân mộc, thẳng. Định nghĩa như thế th́ hồng, cúc, bầu, bí không được gọi là cây nữa v́ chúng làm ǵ có thân mộc và không thẳng. Trong từ điển Hoàng Phê và Văn Tân cây được định nghĩa là thực vật có thân lá rơ rệt. Vậy nếu tra chữ "tơ hồng" trong từ điển Hoàng Phê th́ giống thực vật không có lá rơ rệt này vẫn được gọi là cây. Theo Lê Văn Đức th́ cây là tất cả loài thực vật biết ăn phân, chịu sương nắng, sống, lớn và sinh sản. Định nghĩa như thế th́ lại quá dài ḍng.
Từ "ly" trong Nam thay từ "cốc" ngoài Bắc, từ điển Văn Tân định nghĩa ly là cốc pha lê nhỏ. Từ điển Hoàng Phê định nghĩa là cốc nhỏ để uống rượu. Thực ra cốc và ly chỉ là hai tiếng của hai miền Nam và Bắc chỉ chung một đồ dùng, chứ cốc và ly không hề khác nhau như mèo và hổ. Trong trường hợp này ở từ ly có thể ghi "xem từ: cốc" và khi ở từ cốc sẽ mô tả rơ ràng và chính xác hơn, tránh rườm rà làm sai nghĩa.
Văn Tân giảng là cốc pha lê nhỏ, Hoàng Phê thêm cốc dùng để uống rượu. Vậy th́ những cái cốc làm bằng nhôm, bằng chất dẻo, bằng thủy tinh và mang ra uống nước cam, nước trà mà không uống rượu th́ không được gọi là "ly" hay sao?
Về chính tả, từ điển Hoàng Phê viết li với chữ i ngắn và có giải thích là sở dĩ họ dùng i ngắn là tuân hành quyết định ngày 5.4.1984 của Bộ Giáo Dục. Cái kiểu ra sắc lệnh bắt phải viết thế này thế nọ là một lề thói quen dùng của các chế độ cộng sản. Tuy nhiên có lẽ thấy cách dùng i ngắn nó ngô nghê quá và quyết định của Bộ Giáo Dục cũng phi lư nên nhiều tác giả chẳng nghe theo. Trong cuốn Từ Điển Chính Tả Thông Dụng của Nguyễn Kim Thản do nhà xuất bản Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội in năm 1985 (sau quyết định của Bộ Giáo Dục) tác giả vẫn viết và khuyên nên viết ly, cụng ly với chữ y dài như dân ta vẫn dùng từ xưa tới nay, và cũng là mặc nhiên không coi quyết định của Bộ ra sao cả.
Một điểm nữa là từ điển Hoàng Phê c̣n rất nhiều từ nguyên văn Anh , Pháp. Từ volt trong từ điển Hoàng Phê được giữ nguyên tiếng Anh với định nghĩa đơn vị đo hiệu thế, điện thế.
Ta cũng thấy nhan nhản những từ nguyên văn ngoại quốc khác rồi giảng nghĩa bằng tiếng Việt như logarithm, clinker, logic v.v... xếp thẳng hàng với những chữ Việt trong một cuốn từ điển mang danh là Từ Điển Tiếng Việt. Chúng tôi nghĩ việc định nghĩa những tiếng Anh, Pháp như trên là công việc của từ điển song ngữ Anh - Việt chứ không phải là công việc của nhóm Hoàng Phê. Trừ những tiếng Anh, Pháp đă Việt hóa và viết theo lối Việt như ô tô, xà bông, xe tăng chẳng hạn, chúng tôi thấy cách làm của từ điển Văn Tân khi ghi theo lối Việt như ga men, lô ga rít, vôn, vôn kế, lô gích, ác mô ni ca... rồi giảng nghĩa những từ này bằng tiếng Việt hợp lư hơn. C̣n nếu làm như Hoàng Phê là ghi cả clinker, logic... sao chẳng
ghi luôn school, book, maison, amour... cho từ điển Việt Nam phong phú, nhiều từ nhất thế giới, là đỉnh cao trí tuệ, ưu việt !.
Một điểm khác cần bàn căi là địa vị tiếng Việt miền Nam mà Hoàng Phê có ư muốn loại bỏ.
Trong Từ Điển Tiếng Việt (Hoàng Phê) có rất ít từ miền Nam. Khi giảng giải những từ vô (vào), mền (chăn), mùng (màn)... các nhà soạn từ điển thuộc Viện Ngôn Ngữ Học đă ghi chú là phương ngữ tức là thổ ngữ địa phương. Thiết nghĩ một từ nếu chỉ thông dụng ở một địa bàn thật nhỏ hẹp như cấp tỉnh chẳng hạn th́ gọi là thổ ngữ được, nhưng trường hợp những chữ như vô, mùng, mền được đồng bào trên cả một lănh thổ bát ngát từ Quảng Trị tới Cà Mau đều nói và hiểu mà chỉ coi là thổ ngữ th́ người ta có thể ngờ rằng tập thể soạn giả từ điển Hoàng Phê có tinh thần tự tôn, địa phương hay kỳ thị. (Trong từ điển Văn Tân có các từ màn, mùng, mền... mà không hề ghi là phương ngữ.)
Ngoài Bắc ai ai cũng hiểu những từ vừng, lạc, bít tất, hoa đại Xiêm... mà đồng bào trong Nam chỉ hiểu được khi gọi là mè, đậu phộng, vớ, bông sứ Thái Lan. Tuy vậy trong Việt Nam Từ Điển của một người, Lê Văn Đức, vẫn có những chữ vừng, lạc, tất... ghi như là tiếng nói chung của quốc gia. Nếu ông Lê Văn Đức, người Nam, mà lại ghi vừng, lạc, tất... là thổ ngữ th́ độc giả miền Bắc sẽ nghĩ sao?
Có thể v́ chỉ thị của đảng cộng sản vốn kỳ thị miền Nam mà quan niệm phương ngữ của nhóm Hoàng Phê quá khắt khe nên rất nhiều từ thông dụng trong Nam bị coi như không có trong ngôn ngữ Việt. Có thể dẫn chứng là trong Từ Điển Tiếng Việt ấn bản đầu tiên từ la ve mà đồng bào trong Nam thường đọc là la de, dùng
thay cho từ bia của miền Bắc đă bị loại bỏ không được nhắc nhở. Sau khi từ điển phát hành, trên báo Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh số 528 - 15.4.1988 đă có người nêu lên sự bất công này nên ở ấn bản 1994, 1996 của từ điển Hoàng Phê mà chúng tôi được thấy đă bổ túc sự thiếu sót đó. Tuy nhiên từ la ve và tất cả từ miền Nam thông dụng khác nếu có trong các ấn bản mới của từ điển Hoàng Phê vẫn được các soạn giả giữ vững lập trường theo chỉ thị của đảng cộng sản Bắc kỳ coi là chúng là những thổ ngữ chẳng đáng lưu tâm.
V́ người ngoài Bắc không lưu tâm tới hai "thổ ngữ" la ve nên khá nhiều nhà văn có tiếng miềnBắc đă phạm lỗi chính tả sơ đẳng khi viết là la de hai từ quá thông dụng này của miền Nam.
Vũ Thị Thường trong Câu Chuyện Bắt Đầu Từ Những Đứa Trẻ do nhà xuất bản Tác Phẩm Mới , Hà Nôi in năm 1977, Dương Thu Hương trong Những Bông Bần Ly cũng do Tác Phẩm Mới xuất bản năm 1981 và bao nhiêu nhà văn miền Bắc khác cho tới bây giờ vẫn viết la de với chữ D như những văn hào lói ngọng.
Nếu từ la ve và những từ miền Nam khác được ghi trong từ điển, trong các sách văn phạm chắc nhiều tác phẩm hay đă tránh được những viên sạn, cắn phải ê răng.
Soạn một cuốn từ điển cho có giá trị không phải là chuyện dễ mà đ̣i hỏi công sức của nhiều người, thời gian của nhiều năm.
Nhưng vẫn phải làm v́ tương lai của một ngôn ngữ luôn luôn phải chuẩn hóa, phải ǵn giữ cho trong sáng, chọn lọc thêm từ ngữ cho chính xác và phong phú. Người Pháp, người Mỹ hănh diện với những Petit Larousse, Petit Littré hay Webster, American Heritage không cồng kềnh như các bộ từ điển bách khoa, chỉ khoảng hai ngàn trang mà đầy đủ và chính xác, lẽ nào Việt Nam không có một cuốn từ điển cho đầy đủ dùng được cho toàn quốc, cả hai miền Nam, Bắc.
Việc đó chúng tôi nghĩ Hà Nội có thể làm được nếu các soạn giả chịu lắng nghe những ư kiến xây dựng và gạt bỏ sự tự tôn, gạt bỏ tư tưởng địa phương hay kỳ thị và nhất là gạt bỏ "sợi chỉ đỏ xuyên suốt" tức là chỉ thị của đảng cộng sản vốn đă có óc kỳ thị Bắc Nam.
Tác giả: Đặng Trần Huân
Bookmarks