Trải qua những năm tháng lao tù nghiệt ngă và bây giờ sống tạm dung tại hải ngoại với bao nỗi khó khăn, nhưng may mắn là trí óc của tôi chưa bị hủy diệt.
Tôi c̣n nhớ hầu hết những chuyện đă xảy ra về cuộc đời ḿnh, về bè bạn anh em và những giai đoạn lịch sử đă qua.
Nhưng, càng nhớ càng mệt óc v́ trong vườn trí năo đâu phải chỉ toàn là hoa hồng, thược dược, hướng dương, mà c̣n chen chúc quá nhiều cành gai và cỏ dại.
Tại các nước tư bản, cứ đến Chủ Nhật thứ nh́ trong tháng Năm th́ thiên hạ tổ chức Ngày Lễ Các Bà Mẹ, có lẽ xuất phát từ sáng kiến khai thác thị trường của các doanh gia để tăng kim ngạch thương mại.
Có nhiều người con, đến ngày này mới chợt nhớ là ḿnh có mẹ, vội vàng báo hiếu với một bó hoa tươi hoặc một tấm thiệp mừng gửi qua bưu điện.
Một năm chỉ có một ngày thoáng nhớ đến ân đức sinh thành. Riêng tôi, Ḷng Mẹ Việt Nam bao la nhân ái và h́nh bóng của người mẹ đă tạo ra tôi thành người là hơi thở ban cho tôi nguồn sống từng phút từng giây.
Sau mùa Thu tháng Tám 1945, chiến tranh vẫn c̣n tiếp diễn trên khắp nẻo quê hương. Từ Đà Nẵng, cha tôi dẫn bầy con tản cư về làng cũ. Cẩm Kim (thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) bên kia bờ sông Hội An với bến đ̣ bà Ba Nữ khuất sau một lùm tre già cằn cỗi. Chiến dịch tiêu thổ kháng chiến, bài Phong đả Thực, tiếp nối nhau khốc liệt, ngay đến cỏ cây cũng không dám ngẩng cao đầu. Thôn xóm được lệnh giết chó để ban đêm du kích đi qua không c̣n tiếng sủa.
Ban ngày máy bay chuồn chuồn của Pháp quanh quẩn bay sát ngọn tre, loại máy bay, mà lũ trẻ chúng tôi thường gọi là Bà Già. Mỗi lần nghe tiếng máy bay lượn qua lượn lại quanh làng, cả nhà ùa chạy xuống hầm đất sâu dưới lùm tre để trốn.
Tôi cố ư chạy sau cùng, lén núp bên gốc mít, dùng chiếc ná cao su mà lúc nào tôi cũng giấu sẵn sau lưng quần, lắp đạn là một viên đá mài nhọn để bắn lên máy bay.
Nhịp tim tuổi ấu thơ đập th́nh thịch, hồi hộp chờ đợi máy bay rụng xuống. Tôi lại bị một trận roi toét đít v́ tội chọc giận Bà Già và bị phạt phải đi đào củ nén đem rải xuống hầm để trừ rắn. Lại được dịp chui xuống hầm ngồi chơi với mấy con cóc. Bác và cha tôi trao quyền quản trị gia đ́nh gần hai chục miệng ăn cho người anh cả của tôi.
Anh có tính hay pḥng xa, sợ cả nhà bị đói trong thời kỳ tản cư cơ cực, cho nên từ ang gạo tẻ đến thúng khoai sắn đều phải tiết kiệm để ăn lâu dài.
Cha tôi thường nói ăn rồi ngồi không, của biển của sông cũng cạn. Ban đầu mỗi ngày ăn hai bữa, một cháo một cơm, rồi dần dần đến một cháo một khoai mà cũng không đủ sống. Chúng tôi tuy tuổi c̣n thơ dại, được sinh ra trong nhung lụa, nhưng đến lúc này cũng phải làm việc lam lũ suốt ngày.
Hừng sáng tôi phải xách nồi đi mua nước hến, chạy lúp xúp qua các đường ṃn quanh lũy tre xanh, nhọ đen dính đầy hai bắp chân khẳng khiu. Rồi ra g̣ mả t́m hái rau dền rau sam mọc hoang đem về nấu canh.
Lấy bẹ chuối khô làm bù đài khoanh hai bàn chân để trèo lên mấy thân cau cao vút, hái quả đem bán với lá trầu mọc sau vườn.
Qua đ̣ đến chợ Hội An mua thức ăn rồi về nấu cơm, c̣ng lưng thổi lửa rơm, khói đùn lên chảy nước mắt. Xay lúa, giă gạo, bằm chuối nấu cám heo, hái dâu nuôi tằm.
Đến mùa th́ làm phụ cấy phụ gặt, lén lấy lúa đem đổi bánh bèo ăn bên bờ ruộng. Anh em chúng tôi làm quần quật suốt ngày nhưng có lẽ tôi siêng nhất và dễ bị sai khiến nhất nhà. Nhỏ con mà nhanh như sóc.
Thoáng một cái là chạy đi bắt bọ rầy (quê tôi gọi là bù rầy), câu ếch, thộp châu chấu, bẫy chim về nướng ăn, độn thêm muối ớt cho nhiều để vừa ăn vừa hít hà cho đă thèm.
Mỗi lần bẩy con chim sẻ, (dùng cái rổ có chống que tre cột sợi dây dài, rải vài hạt gạo, ngồi núp sau cánh cửa thấy chim nhảy ḷ c̣ vào giữa rổ là giật sụp) tôi đem nướng mời cha ăn, phần tôi chỉ nhai cái đầu chim bé tí.
Trưa nào tôi cũng ŕnh bẩy được ít nhất một con chim sẻ. Cha tôi nằm ngủ lim dim trên ghế trường kỷ, chỉ cần nghe tôi nói nhỏ, Ba hả miệng ra, là người vẫn nhắm mắt mà hả miệng, nhai con chim nướng. Với đầu óc ngây thơ, tôi sung sướng nghĩ rằng ḿnh đă nuôi được cha bằng thịt chim sẻ.
Tôi bắt cả nhện mang đầy bọc trứng trắng và luôn cả thằn lằn (thạch sùng), rắn mối, để nướng ăn chơi, thường hối lộ một phần cho người anh kế để khỏi đánh lộn nhau. Tuổi thơ đầy cơ cực v́ chiến tranh nhưng cũng ngập tràn kỷ niệm thương yêu, suốt đời không quên được.
Buổi tối, bên ngọn đèn dầu leo lét hoặc ngồi ngoài sân sáng trăng, cha và chú tôi dạy chúng tôi học, không có giấy bút phải dùng chiếc đũa tre vót nhọn viết lên lá chuối già đă hơ qua lửa để khỏi bị rách.
Cha tôi thường ẵm tôi ngồi trên đùi, mặc dù tôi đă trên 10 tuổi, và bắt học thuộc ḷng cửu chương, từ hai lần hai là bốn đến chín lần chín là tám mươi mốt.
Học tiếng quốc ngữ rồi đến chữ Hán và chữ Pháp, nhưng không dám đọc to v́ sợ có ai nghe được th́ chết, riêng về chữ Pháp là điều cấm kỵ, bị kết tội Việt gian, mặc dù tôi chẳng hiểu nghĩa Việt gian là ǵ.
Cha tôi dạy học chữ Pháp theo cách học thuộc các câu ve,ợ có vần điệu, lên xuống, trầm bổng như giỡn chơi. Bớp (boeuf) ḅ, sư tử li ông (lion), sơ vanh (cheval) con ngựa, mu tông (mouton) con cừu.
Hoặc cái nhà th́ gọi me-dông (maison), la se (la chaise) cái ghế, xa-lông (salon) để ngồi.'
Cứ như thế mà tôi lải nhải suốt ngày, thuộc không biết bao nhiêu tên thú vật và những ngữ vựng thông thường trong tiếng Pháp.
Mấy chục năm sau, mỗi lần tôi ghé lại Paris trên những bước đường công tác, tôi thường đứng yên lặng nh́n tháp Eiffel hay soi ḿnh bên ḍng sông Seine để thấy lại h́nh bóng người cha già bên lũy tre xanh đă âm thầm dạy tôi những câu vè đầy sáng tạo, ơn dưỡng dục này đă thấm vào máu thịt hôm nay.
Lúc bấy giơ, mẹ tôi bị bệnh lao phổi cho nên phải ở riêng ngoài một cḥi lá, cũng trong khu vườn, để khỏi lây bệnh cho con.
Những đêm trăng sáng, khi chúng tôi quây quần bên cha để học, tôi thấy mẹ nhẹ nhàng từ cḥi bước ra, yên lặng ngồi cách xa chúng tôi vài bước. Nụ cười của mẹ đầy hạnh phúc trong ánh trăng vàng vặc.
Dường như mẹ chỉ có một ước mơ duy nhất là được chạy đến ôm từng đứa con vào ḷng cho thỏa t́nh mẫu tử.
Tôi ngồi trên đùi cha, lẩm nhẩm mấy câu vè Pháp ngữ, chợt nghe tiếng ho khúc khắc của mẹ, tiếng ho như đang cố dằn xuống, nghẹn đầy cuống họng.
Tôi ngừng bặt, nh́n mẹ và chợt thấy mẹ hóa thành một bà tiên thật đẹp, ngồi dưới ánh trăng sáng mỏng như lụa.
Trong trí óc ngây thơ và qua bao nhiêu chuyện cổ tích cha tôi kể lại, bà tiên lúc nào cũng đẹp và hiền.
Cha tôi cũng thường khoe trước đây mẹ là hoa khôi của vùng trời Đà Nẵng.
Suốt đời tôi vẫn tin điều đó và mẹ măi măi là bà tiên của tôi.
Bà tiên đă sống bên tôi qua bao nỗi thăng trầm của cuộc đời sáu mươi năm lẻ và đă từng hiện về trong chốn lao tù biệt giam để xoa dịu cho com những vết thương tra tấn đọa đày.
Bookmarks