Bài này từ Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập của cố giáo sư Lăng Nhân, NAM CHI TÙNG THƯ xuất bản lần thứ nhất, giấy phép số 1051 LC/BC 3/XB, Sài G̣n, ngày 7/04/1966, in xong ngày 30/07/1966.
-- Tất cả bài thơ trong truyện này đều có chữ Nho đi kèm, nhưng v́ không hiểu nên không chép lại được.
PHAN BỘI CHÂU
1867-1940
Quán làng Đan nhiễm, tổng Xuân liễu, huyện Nam đàn, tỉnh Nghệ An (Trung Việt), sinh năm đinh măo 1867, tên thuở nhỏ là San, sau đổi Bội Châu, hiệu Sào Nam, thân sinh là tú tài Phan Văn Phổ.
Ông rất thông tuệ, năm lên 6, nhân có đĩa bắp ngô luộc bưng lên mời khách, khách ra câu đối:
-- Ta ăn ngô (ngô là bắp ngô mà lại nghĩa là ta).
Ông đối liền:
-- Họ hái thị (thị là quả thị mà cũng có nghĩa là họ).
Năm 19 tuổi, lúc phong trào cần vương do Phan đ́nh Phùng lănh đạo đang bồng bột ở Nghệ Tĩnh, ông tổ chức một đội quân học sinh dưới hiệu cờ sĩ tử cần vương, đội quân này chẳng bao lâu tan ră.
Đỗ đầu xứ tỉnh Nghệ, thi hương mấy khoa đều hỏng; măi năm 34 tuổi, canh tí 1900 (1) mới đỗ giải nguyên, liền sau đó, ông quay sang hoạt động chính trị.
Năm 1901, mưu lấy thành Vinh vào ngày quốc khách Pháp 14-7, nhưng việc bị tiết lộ nên không thành, ông bèn viết tập Lưu cầu huyết lệ thư, rồi đi khắp nơi để liên kết các bậc sĩ phu có tâm huyết.
Năm 1905, sang Nhật, sau khi tiếp xúc với Lương khải Siêu, Khuyển dưỡng Nghị, cùng Đại Ôi bá tước, ông viết tập Việt Nam vong quốc sử.
Về nước ít lâu, ông lại trở sang Nhật, lần này cùng đi với Cường Để. Sau loạt bài Khuyến thanh niên du học (1905) và Hải ngoại huyết thư (1906), phong trào Đông du sôi nổi, nhiều phần tử ưu tú được bí mật đưa sang theo học ở Nhật.
Năm 1908, thành lập hội Việt Nam Cống hiến tại Nhật, ông đứng làm tổng ủy kiêm giám đốc trường học của hội.
Việc đang tiến hành, bỗng cuối năm ấy nhà cầm quyền Nhật hạ lệnh trục xuất người Việt Nam. Ông và các đồng chí phải dời đất Phù tang, sang Thái lan, rồi đi Trung hoa.
Năm 1912, cách mạng Trung hoa thành công, ông cùng Cường Để và Nguyễn thượng Hiền lập Việt Nam Quang phục, phái người về nước hoạt động, ngầm giúp các nhóm kháng Pháp, phát hành một loại giấy bạc riêng gọi là Quang phục hội chỉ tệ.
Năm 1913, xẩy ra vụ ném bom ở Thái b́nh và Hà nội, chính quyền Pháp kêu ông án tử h́nh vắng mặt. Đốc quân Long tế Quang bắt giam ông ở Quảng châu, có ư muốn giải về cho Pháp, th́ may gặp trận thế chiến thứ nhất bùng nổ, ông được trả tự do. Nằm trong nhà lao, ông viết tập Ngục trung thư gởi về nước, gây xúc động lớn trong dân chúng.
Sau vụ khởi nghĩa ở Thái nguyên (1917) và vụ ném bom ở Sa diện (Quảng châu, Trung hoa), người Pháp biết là có hội Quang phục nhúng tay vào, lại kết ông vào án tử h́nh vắng mặt một lần nữa.
Tháng 7-1925, ông bị thám tử Pháp bắt cóc tại ga Bắc trạm rồi giải về Hà nội. Trong phiên ṭa ngày 23-11-1925, ông lănh án tử h́nh. Nhưng trước cao trào của nhân dân đ̣i ân xá, toàn quyền Varenne phải nhượng bộ, cho đưa ông về giam lỏng tại Huế.
Từ đó, ông sống những ngày tàn trong một ngôi nhà nhỏ ở xóm Bến ngự, cho đến ngày 29-9 năm canh th́n (29-10-1940) th́ từ trần, thọ 74 tuổi.
Văn phẩm của Phan bội Châu rất nhiều, hầu hết đă được phổ biến sâu rộng. Nay chúng tôi chỉ lục ra vài bài ít người c̣n nhớ.
*
* *
Bấy giờ là vào khoảng 1895. Ông chưa đỗ thủ khoa (đỗ năm 1900) nhưng tiếng tăm đă lừng lẫy v́ văn chương hùng kính và chí khí quật cường. Ông thường ra Bắc vào Nam, lấy mối duyên văn tự kết thân với những người có tâm huyết.
Một hôm vào Huế nghe Nguyễn thượng Hiền có mở trường học, liền t́m đến, v́ biết tiếng Nguyễn là bậc cao sĩ: Nguyễn đỗ trúng cách thi hội năm 1885 nhưng chưa kịp truyền lô (xướng danh) th́ vua đă xuất bôn, nên trong thời gian này ở nán lại kinh sư dạy học cho qua ngày.
Hôm ông tới trường th́ Nguyễn vừa ra cho học tṛ một bài phú lấy đầu đề là: Bái thạch vi huynh.
Ông liền thảo ngay một bài, đưa nộp:
BÁI THẠCH VI HUYNH PHÚ
dĩ "thạch bất năng ngôn tín khả nhân" vi vận
Thạch vận
Du băi Thương giang
Đạo phùng Hoàng thạch
Liễm khước trần dung
Túc thử kiệt khách
Tướng lăng tằng chi ngạo cốt, chỉ ưng trưởng ngă thập niên
Ấp lỗi lạc chi kỳ tư, liêu phục nhượng quân bán tịch.
Bất vận
Diệc dĩ:
Thạch chi vi vật
Nguy nguy ngật ngật
Thái thượng nhân chi vong t́nh
Đại trượng phu chi bất khuất
Ḱnh thiên tác trụ, tiêu vạn cổ chi cương thường
Trịch địa thành thanh, hưởng lưỡng gian chi văn bút
Kiến chỉ, kiến chỉ, huynh dă, phi tha!
Kính chi, kính chi, bái hồ cảm bất...
Năng vận
Thời hoặc:
Tinh lăm phỏng
Viễn trục đăng
Nham yêu tùng nhi tiệm khẩn
Sơn kiên tủng nhi song lăng
Thí hoán kha kha, định điểm đầu dĩ tương hứa
Phỉ hiềm lục tục, khỉ chiết yêu nhi bất năng.
Ngôn vận
Phùng quân bán diện
Thinh ngă nhất ngôn
Di phong, tỉ nguyệt,
Phụ kiền mẫu khôn.
Duy quân dă, sương vi yêu, ngọc vi tủy
Duy ngă dă, thiết vi cốt, băng vi hồn.
Thỉnh thai bá thúc chi cư, thiên bách niên tiền hà xứ?
Hợp tứ Kiều Bành chi xỉ, thập nhị hội nhi vi nguyên.
Tín vận
Tự ngoan, tự si,
Diệc hào, diệc tuấn
Cố miện tương liên
Ngang tàng độc tín.
Nhược can niên bất khuất tất, chỉ ưng vơ vơ lương lương
Kiến tân nguyệt nhi hạ giai, tương đối tuân tuân lật lật.
Khả vận
Vạn trục huề quy
Bán song bồi tọa
Đông hải thổ thôn
Bồng lai hữu tả
Thác tân hoa chi ngũ sắc, khả nhân, khả nhân
Uẩn mỹ phác chi liên thành, loại ngă, loại ngă.
Toại linh:
Vong h́nh hài
Duyệt u nhă.
Lạc hữu huynh hiền
Diệc viết bái khả
Vị thừa nguyệt nhi cứ hổ báo, Xích bích thuyền đầu
Thả lâm phong nhi ấp thần tiên, Cốc thành sơn hạ.
Nhân vận
Năi hữu:
Khâm thương vũ
Ngạo hồng trần
Đăng hung tắc bát cửu Vân mộng
Kết lư ư vạn hác Tùng quân
Hỷ Mễ huynh chi vị lăo
Chiêu Thạch tính dĩ vi lân
Tam sinh điển hải chi lao, nguyện ngôn tư bá
Nhất phiến bổ thiên chi lực, hữu hạnh phùng quân.
Tổng kết
Đệ:
Tương túc y quan nhi chỉnh bái
Phục kỳ tứ hải dĩ vi xuân.
Bài phú "TÔN ĐÁ LÀM ANH" (2)
Lấy câu thơ "Thạch bất năng ngôn tín khả nhân" làm vần. (3)
Dạo chơi khắp nẻo Thương giang,
May gặp giữa đường Hoàng Thạch, (4)
Vội cúi mặt trần
Kính chào kiệt khách.
Trộm liếc ngang tàng ngạo cốt, hơn ta chỉ độ mười niên,
Ngắm coi lỗi lạc phong tư, nên kính nhường người nửa chiếu.
Lại xem:
Đá nguyên là vật
Ṿi vọi cao ngất
Rơ thái thượng nhân quên t́nh
Hệt đại trượng phu chẳng khuất
Chọc trời cột trụ, nêu cao muôn thuở cương thường. (5)
Gieo đất tiếng vang, lừng khắp hai vùng văn bút.
Thấy đó, thấy đó, rơ anh c̣n ai
Kính thay, kính thay, xin lạy chẳng chút...
Có khi:
Đôi lần thăm hỏi,
Cao cũng trèo lên,
Sườn núi rậm ŕ mấy bụi,
Đầu non chót vót đôi bên,
Thử nói: tŕnh anh, tất phải cúi đầu đáp lễ.
Phải đâu như họ, dù cho mỏi gối chẳng nài!
Gặp anh một chút,
Nghe em đôi lời:
D́ trăng, chị gió,
Mẹ đất, cha trời.
Anh th́ h́nh sương vóc ngọc,
Em thiệt cốt sắt hồn băng!
Lường xem Bá, Thúc (6) nơi nào, ngàn mấy trăm năm đâu chốn?
Hợp tứ Kiều, Bành (7) bao tuổi? Mười hai hội là một nguyên!
Giả điếc, giả ngây,
Tự hào tự tuấn,
Săn sóc cùng thương,
Ngang tàng tự tín,
Đă bao năm không khuất tất, v́ chưng lọc cọc lon bon;
Thấy trăng non nên xuống thềm, càng phải kiêng kiêng, nể nể!
Muôn trục xách mang,
Bên giường hầu hạ,
Đông hải chờn vờn,
Bồng lai lơi lả.
Rơ thật hoa tươi năm sắc, duyên dáng bóng người,
Mới hay giá trị liền thành tốt tươi vẻ ngọc.
Khiến cho:
Quên h́nh hài,
Ưa u nhă,
Vui có anh hiền.
Cúi xin lạy tạ.
Dưới bóng nguyệt thu h́nh hổ báo, Xích bích (8) đầu thuyền,
Lại lâm phong vái lạy thần tiên, Cốc thành (9) chân núi.
Này có:
Kính trời xanh,
Ngạo hồng trần.
Trừ hung đến khoảng chằm Vân mộng (10),
Cất nhà nơi vạn hác Tùng quân (11).
Mừng Mễ huynh hăy c̣n tráng kiện (12),
Coi họ Thạch như chỗ hương lân.
Trọn đời lấp biển ra công, lại càng mong bác (13),
Đôi chút vá trời giúp sức, may được gặp anh (14).
Em xin:
Chỉnh đốn áo khăn cúi lạy,
Ước mong bốn bể vui xuân.
Nguyễn thượng Hiền đọc văn lấy làm kinh ngạc, cho là thần bút. Đọc đến vần nhân, soát lại không thấy vế nào có chữ nhân ở cuối, Nguyễn mỉm cười. Theo lẽ mỗi đoạn đều phải có chữ đă ra làm vần ở cuối một vế th́ mới hợp phép.
Lại xem đến câu:
Trọn đời lấp biển ra công, lại càng mong bác,
Đôi chút vá trời giúp sức, may được gặp anh.
th́ Nguyễn thấy ngay thâm ư Phan nói về thời thế, hờn mất nước, chí phục thù, để khích lệ ḿnh, bèn phê:
Tích trạng nguyên hữu vô "tâm" chi phú, kim quân hầu diệc mục hạ vô "nhân" da? (xưa có vị trạng nguyên làm bài phú bỏ vần "tâm" để chỉ trích vua cai trị vô nhân đạo, nay ông bỏ vần "nhân" dễ thường cho thiên hạ không có ai là người cả hay sao?)
Nguyễn muốn ngầm bảo: c̣n có tôi đây chứ!
Thế là Nguyễn đă mắc mưu của Phan: khuyên mời không bằng nói khích. Mưu này đă khiến Phan đạt mục đích nhiều lần, v́ Phan nắm chính nghĩa trong tay, khiến đối phương tự thấy có mặc cảm tội lỗi. Nhưng cũng phải có mắt xem người: nói khích vào tai mật vụ th́ sự phản ứng lại trái hẳn.
Quả nhiên sau này, Nguyễn từ quan, bí mật xuất dương, theo Phan lập hội Việt Nam Quang Phục.
Chú thích
(1) Tú Xương: Điểm đầu canh tí chửa phai son.
(2) Bái Thạch vi huynh: Lạy đá tôn là anh. Lương khê man chí: Mễ nguyên Chương làm thái thú châu Nhu tu nghe thấy có quái thạch ở đất Hà nhu, sai lính khiêng về nhà, làm vật yến ngoạn. Nhưng sau nh́n đá thấy kinh sợ, bèn sai mở tiệc, lạy đá nói: "Ta được thấy Thạch huynh đă 20 năm nay, bây giờ xin gọi Thạch huynh là anh ruột".
(3) Tả truyện: nước Tấn có đá biết nói ở đất Ngụy du, Tấn hầu hỏi Sư Khoáng v́ cớ ǵ đá lại biết nói. Sư Khoáng thưa: đá vốn không biết nói, song làm một ông vua, hoang dâm vô độ, sa xỉ cùng cực, làm khổ nhân dân th́ đá cũng phải lên tiếng (Tả truyện Chiêu bát niên).
(4) Hoàng Thạch: Hoàng thạch công, ông tiên qua chơi cầu Hạ b́ đánh rơi chiếc giầy xuống dưới cầu, Trương Lương xuống nhặt lên, ông trao cho cuốn binh thư dặn rằng: "Hễ con đọc hết sách này, sẽ trở nên thày vua. Sau 13 năm đến dưới núi Cốc thành ở Tế bắc gặp ta". Trương Lương giúp Hán cao tổ định thiên hạ, nhớ lời t́m đến núi Cốc thành chỉ thấy một ḥn đá vàng. Trương lập đền thời...
(5) Tấn Tôn Sước làm xong bài phú Thiên thai nhờ Vinh kỳ chữa cho, Kỳ nói: "Anh thử đem gieo xuống đất xem có nghe thấy toàn tiếng vàng đá không"? Hai vùng: chữ lưỡng gian: trời đất.
(6) Bá, Thúc: Bá di, Thúc tề ở mỏm đá núi Thú dương sơn không ăn lộc nhà Châu.
(7) Vương tử Kiều và Bành Tổ sống lâu lắm, cộng tuổi hai ông này lại thời hàng hội, hàng nguyên.
(8) Tô đông Pha chơi thuyền đêm trăng trên sông Xích bích. Sông có đá lổm chổm như h́nh hổ báo ở đầu thuyền.
(9) Cốc thành: xem chú Hoàng thạch công ở trên.
(10) Vân mộng: nơi Hán bái công giả vờ đến chơi rồi bắt Hàn Tín.
(11) Muôn hang bụi cây thông, cây tre là nơi ở ẩn cày ruộng của Nghiêm tử Lăng thời Hán quang vũ.
(12) Mễ quân: Mễ nguyên Chương đích thị là người lạy đá.
(13) Điền hải: lấp bể. Sơn hải kinh: con gái vua Viêm đế chết đuối ở bể Đông hóa ra chim tinh vệ, ngày ngày đến núi Tây sơn ngậm gỗ, đá, bay đến lấp bể.
(14) Vá trời: Hoài nam tử: Nữ oa thị luyện đá năm sắc để vá trời xanh làm cho địa b́nh thiên thành.
*
* *
Sau khi Phan được tha về ở bến Ngự, thường ngày bị mật vụ ḍ xét từng đường đi nước bước, ông lấy làm bực bội vô cùng: muốn tỏ bày chí hướng mà không nói được với ai, muốn câm đi mà không nén được ḷng, trong lúc đó thời cục thế giới đă biến chuyển, Nhật đă gây hấn ở Măn châu, ông làm mấy vần thơ cho hả nỗi căm hờn:
Muốn nói, nhưng mà nói với ai?
Nín câm, chẳng lẽ nín câm hoài!
Giữa đường gặp măi người gai mắt,
Ngoài cửa đưa vào chuyện choáng tai.
Tiếng súng Măn châu xoay cả đất,
Chiếc tàu Hồng hải cháy luôn trời.
Dưới đèn ngẫm nghĩ gương kim cổ:
Ḿnh nói ḿnh nghe, khóc lại cười...
Khóc cũng không đi đến đâu, ông đành cười mà viết câu chuyện hài đàm như sau:
KỀNH VÀ CÀNG
Kềnh và Càng làm bạn với nhau đă hơn mười năm, nửa chừng bị những duyên cớ ǵ đó, mà kẻ tây người nam lâu ngày không gặp mặt.
T́nh cờ một ngày kia, gặp nhau ở xứ Bông lông, biệt cửu tương phùng, hai người vui chuyện lắm.
Kềnh hỏi Càng:
-- Bấy lâu anh làm những chuyện ǵ?
-- Tôi chỉ làm có ba việc, nhưng đều là việc rất to lớn, mà lại rất bí mật.
-- Tôi vẫn biết anh mà đă làm th́ việc tất phải to lớn và bí mật thiệt. Nhưng chúng ta là bạn tâm phúc, đă hơn mười năm, không lẽ anh giấu tôi.
-- Đành anh là bạn tâm phúc, nhưng cách biệt đă mấy năm trời, chắc đâu anh ngày nay cũng vẫn là anh ngày xưa đặng? Nếu tôi nói với anh mà rủi anh tiết lộ việc của tôi ra, chẳng nguy cho tôi lắm sao?
-- À! Anh tính làm việc cách mạng chứ ǵ?
-- Đâu có! Việc cách mạng là rất nguy hiểm, ai dại ǵ mà làm? Việc tôi làm, không để cho người ngoài biết, tôi nể anh lắm, nên tôi mới nói, nhưng anh phải giữ hết sức bí mật cho tôi, nghe!
-- Vâng tôi xin y lời anh, anh nói mau cho tôi rơ ba việc là những việc ǵ?
-- Một là ăn, hai là ngủ, ba là ỉa.
-- Ủa, té ra anh cũng chỉ làm ba việc đó thôi sao? Nhưng tôi hỏi anh, anh làm ba việc đó mà có thiệt lấy làm đắc ư không?
-- Tôi nghĩ làm ba việc đó đáng sung sướng thiệt, vậy mà nào ngờ nó c̣n làm ḿnh cực khổ nữa anh ạ.
-- Ba việc đó sướng chết, c̣n cực khổ nỗi ǵ mà anh than phiền,kỳ không?
-- Tôi không biết bên anh ra thế nào, chớ bên tôi thời cực khổ lắm: khi ăn th́ khổ v́ bầy ruồi xanh bay quanh bay quất, khi nó đậu vào đũa, khi nó đậu vào chén, có bao giờ nó cho tôi được ăn ngon đâu. Đến khi tôi ngủ th́ những muỗi với rệp lại lục đục, ḷ ṃ từ đầu tới đít, bao giờ nó cho ngủ được yên đâu. Khó chịu nhất là khi tôi đi ỉa, th́ ba con chó vô loài kia, nó cứ ŕnh trước ŕnh sau, ŕnh tả ŕnh hữu, chúng nó chầu chực khi nào trong ruột tôi ḷi ra vật ǵ th́ nó giành nhau chụp ngay, chẳng mấy khi tôi được tự do thế chẳng là cực khổ hay sao?
-- -- Vậy có lẽ anh vụng hơn tôi đó mà! Tôi hỏi anh dùng thức Nam hay là thức Tây?
-- Tôi chỉ có thức Nam thôi chớ, tôi làm ǵ có thức Tây?
-- Thế th́ phải rồi, chết cho anh dùng thức Nam đó. Nếu anh ăn th́ lên hàng cơm Tây, ngủ th́ vào buồng ngủ Tây, ỉa th́ ỉa cức Tây, e sướng như trời.
-- Tôi tưởng anh nói làm sao. Chứ như thức anh làm vậy th́ tôi xin lạy anh sát đất...
Bookmarks