Vậy Tâm là ǵ ? Tâm ở đâu ? Có thật là tâm ở trong mỗi người như bạn nguyentrongsuu đă cắt nghĩa theo chương 3:9-13 Sáng Thế Kư của Kinh Thánh ? Nên nếu bạn muốn t́m hiểu Tâm là ǵ và ở đâu, th́ bạn ráng chịu khó đọc tác phẩm "Tâm Tư" của triết gia Kim-Định mà tôi sẽ lần lượt trích đăng từ từ ở đây.Originally Posted by nguyentrongsuu
TỰA
Đă một dạo chúng ta quen nói rằng Viễn Đông không có khoa danh lư. Đó là câu nói chỉ thật có lớp ngoài mà sai lớp trong.
Nh́n bao trùm đường vận hành của tư tưởng nhân loại chúng ta có thể phân ra ba lối suy luận. Lối thứ nhất là có danh lư của triết học Tây Âu, xây trên những lư lẽ rút ra từ sự kiện hay những ư niệm của sự vật. Lối thứ hai của triết lư Ấn Độ gọi là vô lư hay phản lư : tuyệt đối quay lưng lại với lư lẽ suy luận.
Viễn Đông không hữu lư hay phản lư nhưng là hàm lư, nghĩa là lư luận chỉ đóng một vai tṛ tương đối và nằm khuất trong t́nh cảm, làm nên một lối lư luận riêng biệt vận chuyển qua ba đợt lư, t́nh, chí. Tận cùng của lư là lư luận biện chứng. Tận cùng của t́nh là cảm nghiệm, là nghệ thuật. Tận cùng của chí là thể nghiệm, là ngộ đạo, tức nhận thức ra chiều kích vũ trụ nơi ḿnh. Ta gọi đó là An tư hay Tâm tư.
Khoa An tư hay Tâm tư nhằm giúp vào việc nhận thức ra và đáp ứng nhu yếu có tính cách vũ trụ của con người đại ngă Tâm linh, sự nhận thức đó cũng gọi được là Ư thức vũ trụ hay là "thiên địa chi tâm". Người thường mới có thiên địa chi ư, chi tưởng, nhưng chưa có "thiên địa chi tâm". Để có được "vũ trụ chi tâm" th́ cần rút bớt nghị lực ra khỏi ư, khỏi tưởng, khỏi tướng đặng đầu tư vào việc hàm súc tinh luyện những mối t́nh vi tế cho tới khi nào thể nghiệm qua thân tâm rằng ḿnh với vũ trụ cùng rung theo một tiết nhịp, lúc ấy mới trúng là "thiên địa chi tâm" (dialectique cosmo-psycho-somatique) được tŕnh bày trong quyển này qua một hai lối hành xử, dăm ba câu nói, một hai bài thơ. Những câu nói cũng như những bài thơ đó khi đứng riêng lẻ th́ không có ǵ gọi được là lư luận cả, nhưng lúc đặt vào mạch lạc của cái toàn thể trong nền Minh triết Viễn Đông bằng cách phân tích và xếp đặt cho câu nọ liên hệ với câu kia th́ lại làm tỏa ra một nguồn sáng lung linh và uyển chuyển vận hành theo tiết nhịp không c̣n phải là mạch lạc của danh lư, sự lư, luận lư, nhưng là thuận theo "tính mệnh chi lư". Nói khác đó là cái lư luận không luận lư mà vẫn có luận lư, không suy tư mà vẫn có suy tư, một nền suy tư phồng lên bằng cả tầm vóc vũ trụ và tạm gọi là TÂM TƯ. Sau đây là mấy ư tưởng hướng dẫn vào Tâm Tư.
Tâm tư nối tiếp hai quyển Nhân Bản và Chữ Thời bằng đặt giữa hai quyển trên một mối liên hệ sống động. Nếu Nhân Bản dẫn tới con người toàn diện, th́ Chữ Thời dẫn tới "vũ trụ chi tâm". Quyển Tâm Tư sẽ đặt phương tŕnh : "vũ trụ chi tâm" = "nhân bản toàn diện". Nói khác muốn có cái tâm bao la như vũ trụ (đă là tâm chân thực bao giờ cũng to bằng vũ trụ) th́ cần con người phải sống toàn diện, phát huy mọi khả năng trong con người. Khi mọi khả năng được tài bồi vun tưới để nảy nở đều đặn, để tất cả vươn lên tới chỗ chí cực, không năng lực nào lấn át năng lực kia khác, th́ lúc ấy liền nhận thức ra sự vật nào cũng nằm trong thế tương liên với Toàn thể. Nói gọn lại th́ Tâm chính là Toàn thể.
Có Tâm là khi Toàn thể tham dự : khi ta xem, nghe, nghĩ mà toàn thể thân tâm xem, nghe, nghĩ, chí cực th́ đấy là Tâm Tư.
Đó là một phương tŕnh rất phong phú có khả năng bơm sinh động vào cho mọi ư niệm trừu tượng. Và làm cho cái biết hàng ngang của luận lư trở thành "chu tri" là cái biết tṛn đầy, biết "ṿng tṛn" theo Tam tài. Vậy cái biết tri kiến hay lư trí mới là cái biết nhị nguyên hàng ngang : có Đông có Tây, có trước có sau, thiếu hai điểm nửa để làm ra tṛng tức t́nh thâm vi tế và triêu văn đạo. Với hai yếu tố mới này làm như hàng dọc thêm vào cái biết luận lư hàng ngang mỗi lần đi lên một đợt là biến đổi tâm thức, biến đổi cái nh́n và lần cuối biến đổi trọn vẹn để làm thành một cái biết rất sâu xa thấm thía gây an vui thư thái khác hẳn với cái biết lưu tục dù của suy luận hay khoa học cũng không bằng.
Kim-Định
Bookmarks