Page 61 of 94 FirstFirst ... 115157585960616263646571 ... LastLast
Results 601 to 610 of 937

Thread: Ngày này năm xưa

  1. #601
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Đọc lại lịch sử qua hai tác phẩm của học giả Trần Trọng Kim

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2017/...m-cua-hoc.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...m-cua-hoc.html
    Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên

    Đọc lại lịch sử qua hai tác phẩm của học giả Trần Trọng Kim

    Lệ Thần Trần Trọng Kim (1883-1953) là một sử gia thời cận đại. Người ta biết đến ông qua tác phẩm chính “Việt Nam sử lược” gồm 5 Phần:
    (1) Thượng Cổ thời đại;
    (2) Bắc Thuộc thời đại;
    (3) Tự Chủ thời đại;
    (4) Nam Bắc Phân Tranh thời đại; và
    (5) Cận Kim thời đại.

    Trong vai tṛ của nhà viết sử, Trần Trọng Kim đă cố gắng kể lại những “thời đại” mà Việt Nam đă trải qua, từ thời Thượng cổ, khởi đầu từ nước Âu Lạc, đến thời cận kinh dưới triều vua Gia Long. Bằng một giọng văn, có thể nói là “trung thực” của người chép sử, ông đă cho người đọc, vốn là những kẻ hậu sinh, có một cái nh́n tổng quát về những giai đoạn lịch sử.


    Học giả Trần Trọng Kim (1883-1953)

    Phần Tựa của “Việt Nam sử lược” tác giả đă nêu lên quan điểm của một nhà sử học:

    “Sử là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đă qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, t́m ṭi cái căn nguyên những công việc của người ta đă làm để hiểu cho rơ những vận hội trị loạn của một nước, những tŕnh độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đă phải lao tâm lao lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này”.

    Ngược ḍng thời gian, măi đến thế kỷ thứ 13, nước ta đời nhà Trần mới có lịch sử dưới h́nh thức ghi chép các sự kiện quan trọng của các đời vua theo lối “biên niên sử” của Trung Hoa. Lối ghi chép đó, theo Trần Trọng Kim, thiếu hẳn sự giải thích nguyên nhân cùng những hậu quả của sự việc.

    Vấn đề ở đây là “công tâm” của người viết sử khi kể lại chuyện lịch sử. Mà đă là con người th́ cái ṿng “tham, sân, si” luôn luôn chi phối, đối sừ gia đó cũng không phải là ngoại lệ. Thế cho nên, hậu thế khi đọc sử cần có sự sáng suốt trong việc đánh giá một sử gia.


    “Việt Nam Sử Lược” (bản in trước năm 1975)

    Có điều chắc chắn, một người viết sử, không ít th́ nhiều, luôn bị những t́nh cảm và chính kiến chi phối khi kể lại. Trần Trọng Kim nhận xét về lịch sử và tŕnh độ hiểu biết về sử của người Việt ngày xưa:

    “Sử của ḿnh đă không hay, mà người ḿnh lại không mấy người biết sử. Là v́ cái cách học tập của ḿnh làm cho người ḿnh không có thể biết được sử nước ḿnh. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học th́ chỉ học sử Tàu, chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương ǵ cũng lấy điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước ḿnh th́ nhất thiết không nói đến. Người ḿnh có ư lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm ǵ. Ấy cũng là v́ xưa nay ḿnh không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc ǵ cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự ḿnh th́ không có cái ǵ là cái đặc sắc, thành ra thật rơ như câu phương ngôn: "Việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng!" Cái sự học vấn của ḿnh như thế, cái cảm t́nh của người trong nước như thế, bảo rằng ḷng v́ dân v́ nước mở mang ra làm sao được?”


    “Việt Nam Sử Lược” (bản in sau năm 1975)

    Nếu “Việt Nam sử lược” được coi là “chính sử” th́ tác phẩm thứ hai, “Một cơn gió bụi”, lại được nhiều người đọc gọi là “hồi ức lịch sử”. Khi nói đến “hồi ức” người ta liên tưởng đến những biến cố mà chính tác giả có dự phần.

    Tác phẩm thứ hai của Trần Trọng Kim lấy bối cảnh là nước Việt Nam từ năm Quư Mùi (1943) đến năm Mậu Tư (1948). Tác giả kể lại những biến cố trong suốt thời gian được mô tả là “gió bụi” trong suốt cuộc đời của ḿnh. Đó cũng là giai đoạn mà nước Việt trải qua một xung đột ư thức hệ chính trị mới, từ đó dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam với sự tham gia của hai khối Tư Bản và Cộng Sản. Viết về Việt Minh, sử gia Trần Trọng Kim giải thích:

    Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên

    “Ông Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu và phao tin rằng ông đă chết trong ngục khi bị bắt ở Hương Cảng, và lại đổi tên là Lư Thụy rồi chen lẫn với những người cách mệnh Việt Nam ở bên Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập ra đảng cộng sản gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, và cho người về hoạt động ở miền thượng du Bắc việt. V́ vậy thuở ấy người ta mới biết là có đảng Việt Minh.

    “Đến cuối năm 1940 nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây đánh vào Lạng Sơn, những người như bọn ông Trần Trung Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của ông Phan Bội Châu lập ra khi trước, theo quân Nhật về đánh quân Pháp hồi tháng chín năm 1940. Sau v́ người Nhật kư hiệp ước với người Pháp rồi trả lại thành Lạng Sơn cho người Pháp, ông Trần Trung Lập bị quân Pháp bắt được đem xử tử. Toán quân phục quốc vỡ tan, có một số độ 700 người, trong số ấy có độ 40 nữ đảng viên theo ông Hoàng Lương chạy sang Tàu.

    “Vậy các đảng của người Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng năm 1942 trở đi, có Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và những người cách mệnh không có đảng phái v...v...

    (hết trích)


    “Một cơn gió bụi” (bản in sau và trước 1975)

    Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên


    Nhật báo Điện tín loan tin Đế quốc Việt Nam độc lập năm 1945

    Thời điểm nổi bật trong cuộc đời “chính trị bất đắc dĩ” của nhà viết sử họ Trần là lúc ông đứng ra thành lập chính phủ năm 1945 trong t́nh trạng Pháp và Nhật đang tranh dành ảnh hưởng tại Việt Nam. Trước đó, tiên sinh đă rời đất nước để sang “tị nạn” tại “Chiêu Nam Đảo” mà ngày nay là đất nước Singapore. Từ Singapore ông lại đi xe lửa về Bangkok, Thái Lan, và cuối cùng là về Huế để thành lập chính phủ theo yêu cầu của Vua Bảo Đại với sự hỗ trợ của người Nhật.

    “Một cơn gió bụi” ghi lại những cảm tưởng về Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, qua cuộc hội kiến lần đẩu tiên tại Huế:

    “Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như thế nào. V́ trong thời bảo hộ của nước Pháp, h́nh như ngài chán nản không làm ǵ cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7 tháng tư tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đúng đắn.

    “Ngài nói: “Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đă không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đă tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó với mọi việc.“

    “Tôi tâu rằng: “Việc lập chính phủ, ngài nên dùng những người đă dự định từ trước, như Ngô Đ́nh Diệm chẳng hạn, để có tổ chức sẵn sàng. Tôi nay th́ phần già yếu bệnh tật, phần th́ không có đảng phái và không hoạt động về chính trị, tôi xin ngài cho tôi về nghỉ.“

    “Ngài nói: “Trẫm có điện thoại gọi cả Ngô Đ́nh Diệm về, sao không thấy về.“

    “Tôi tâu: “Khi tôi qua Sài g̣n, có gặp Ngô Đ́nh Diệm và ông ấy bảo không thấy người Nhật nói ǵ cả. Vậy hoặc có sự ǵ sai lạc chăng. Ngài cho điện lần nữa gọi ông ấy về. C̣n tôi th́ xin ngài cho ra Bắc”.

    “Ngài nói: “Vậy ông hăy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hăy ra Bắc.“

    “Lúc ấy tôi mệt nhọc lắm, và có mấy người như bọn ông Hoàng Xuân Hăn đều bảo tôi trở lại. Tôi chờ đến gần mười ngày. Cách độ ba bốn hôm tôi lại đi hỏi ông tối cao cố vấn Nhật xem có tin ǵ về ông Diệm chưa. Trước th́ cố vấn Nhật nói chưa biết ông Diệm ở đâu, sau nói ông Diệm đau chưa về được. Đó là lời tối cao cố vấn, chứ tự ông Diệm không có điện riêng xác định lại.

    “Vua Bảo Đại thấy t́nh thế kéo dài măi cũng sốt ruột, triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập chính phủ mới. Ngài nói: “Trước kia người ḿnh chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng ḿnh cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ th́ người Nhật bảo ḿnh bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên v́ nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.“

    “Tôi thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu t́nh thế, liền tâu rằng: “Nếu v́ quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức ǵ cả, xong ngài nói v́ nghĩa vụ đối với nước, th́ dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi t́m người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.“

    “Tôi ra bàn với ông Hoàng Xuân Hăn để t́m người xứng đáng làm bộ trưởng. Nguyên tắc của tôi định trước là lựa chọn những người có đủ hai điều kiện. Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục”.

    (hết trích)


    Vua Bảo Đại ở Hồng Kông năm 1948 sau khi chấp nhận sống lưu vong

    Cuối cùng, nội các Trần Trọng Kim cũng ra mắt đồng bào ngày 17/04/1945 với thành phần gồm một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ và bốn luật sư. Nhà sử học, nhà giáo và là “nhà chính trị bất đắc dĩ” Trần Trọng Kim tiết lộ trong hồi ức của ḿnh:

    “Có một điều nên nói cho rơ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ t́m lấy người mà làm việc. Và tôi đă định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc trong nước th́ tôi thôi ngay, không làm nữa”.

    Nội các Trần Trọng Kim có danh sách cụ thể như sau:
    - Nội các Tổng trưởng: giáo sư Trần Trọng Kim;
    - Nội vụ Bộ trưởng: y sĩ Trần Đ́nh Nam;
    - Ngoại giao Bộ trưởng: luật sư Trần Văn Chương;
    - Tư pháp Bộ trưởng: luật sư Trịnh Đ́nh Thảo;
    - Giáo Dục và Mỹ Nghệ Bộ Trưởng: toán học thạc sĩ Hoàng Xuân Hăn;
    - Tài Chánh Bộ Trưởng: luật sư Vũ Văn Hiền;
    - Thanh Niên Bộ Trưởng: luật sư Phan Anh;
    - Công Chính Bộ Trưởng: kỹ sư Lưu Văn Lang;
    - Y tế Bộ trưởng: y khoa bác sĩ Vũ Ngọc Anh;
    - Kinh tế Bộ trưởng: y khoa bác sĩ Hồ Bá Khanh;
    - Tiếp tế Bộ trưởng: cựu y sĩ Nguyễn Hữu Thi.

    Tiếc thay, nội các “Đế quốc Việt Nam” của học giả Trần Trọng Kim chỉ tồn tại hơn 4 tháng, từ ngày 17/04 đến 25/08/1945. Tuy nhiên, có 4 điều đặc biệt mà nội các này đă thực hiện:
    (1) Lập lại quốc hiệu Việt Nam;
    (2) Dùng tiếng Việt làm quốc ngữ và Việt hóa giáo dục;
    (3) Đ̣i lại Nam kỳ (Cochinchine) để thống nhất lănh thổ; và
    (4) Soạn hiến pháp nhấn mạnh tự do và độc lập.

    Điểm yếu của nội các là chưa có đủ thời gian cần thiết để thành lập Quốc hội, chưa có quân đội và chưa được nước nào công nhận ngoài Đế quốc Nhật Bản. Nội các này, sau hơn 4 tháng đă tan ră khi bị Việt Minh “cướp chính quyền”. Đây là cụm từ không mang tính miệt thị, mà trái lại Việt Minh rất tự hào khi thừa nhận họ đă “cướp chính quyền”!


    Nội các Trần Trọng Kim

    “Một cơn gió bụi” có đoạn viết về đảng Việt Minh thời 1945, khi đó đang hoạt động mạnh, trong khi lính bảo an ở các địa phương bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Trần Trọng Kim viết:

    “Dân gian bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng v́ thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt ǵ cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh, nói họ đă có các nước Đồng Minh giúp đỡ cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ư ngă về Việt Minh”.

    Trong một lần tiếp xúc với một cán bộ Việt Minh, người này đă khẳng định với Thủ tướng Trần Trọng Kim: “Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Đồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường”. Cụm từ “cướp chính quyền” đă trở thành sự thật khi Nhật Bản đầu hàng v́ hai quả bom nguyên tử. Diễn biến lịch sử được nhà sử học thuật lại như sau:

    “Vua Bảo Đại gọi tôi vào nói: "Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hăy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem t́nh thế biến đổi ra sao đă". Tôi bất đắc dĩ phải tạm ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan Kế Toại điện vào xin từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời.

    “Cách hai ngày sau, ngày 19/8, các công chức ở Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu t́nh. Đảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm lấy Bắc Bộ. Được mấy ngày ông Hồ Chí Minh về làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn thể thanh niên và các người trí thức ở bắc bộ điện vào Huế xin vua Bảo Đại thoái vị và nhường cho Hồ Chí Minh.

    “Trong t́nh thế nguy ngập như thế, ở Huế c̣n có người bàn sự chống cự. Tôi muốn biết rơ sự thực, liền gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi xem có thể trông cậy bọn ấy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói: "Tôi có thể nói riêng về phần tôi th́ được. C̣n về phần các thanh niên tôi không dám chắc".

    “Bọn thanh niên tiền tuyến trước rất nhiệt thành nay c̣n thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không ra ǵ, đạn dược không đủ, c̣n làm ǵ được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu ḷng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ c̣n cách lui đi là phải hơn cả.

    “Tôi vào tâu vua Bảo Đại: "Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đă nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải hơn cả. V́ dân ta đă bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, ḿnh ngăn lại th́ vỡ lở hết cả. Ḿnh thế lực đă không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước".

    “Vua Bảo Đại là ông vua thông minh, hiểu ngay và nói: "Trẫm có thiết ǵ ngôi vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của một nước độc lập c̣n hơn làm vua một nước nô lệ".

    “Nhờ ngài có tư tưởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần t́nh thế nguy ngập, phần sợ hăi, c̣n ai dám nói năng ǵ nữa. Đến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến nữa. C̣n các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là t́nh cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.

    “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: "Quân đội Nhật c̣n trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật c̣n có thể giữ trật tự". Tôi nghĩ quân Nhật đă đầu hàng, quân Đồng Minh sắp đến, ḿnh nhờ quân Nhật đánh người ḿnh c̣n nghĩa lư ǵ nữa, và lại mang tiếng "cơng rắn cắn gà nhà". Tôi từ chối không nhận.

    Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên

    (hết trích)

    Thế là Việt Minh “cướp chính quyền”, vua Bảo Đại thoái vị, và ông Trần Trọng Kim ra ở nhà đă thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế. Được mấy ngày, Việt Minh vào đưa vua Bảo Đại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.

    Người dân một phần v́ tuyên truyền của Việt Minh, một phần v́ không nắm rơ t́nh h́nh nên có thái độ coi chính phủ non trẻ của ông Trần Trọng Kim là “bù nh́n” do người Nhật sai khiến.

    Chính vua Bảo Đại khi “lưu vong” ở Hồng Kông có nói chuyện với một phóng viên của một tờ báo bên Pháp: "Người Nhật thấy chúng tôi cương ngạnh quá, tỏ ư tiếc đă để chúng tôi làm việc".

    Về sau, khi vua Bảo Đại gặp lại Trần Trọng Kim tại Hồng Kông, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đă nói một câu chua chát: “Chúng ḿnh một già một trẻ mắc lừa bọn du côn” với hàm ư đă nghe lời tuyên truyền của Việt Minh.


    Hồ Chí Minh và “công dân” Vĩnh Thụy

    Để kết thúc bài viết này về sử gia Trần Trọng Kim, chúng tôi xin trích một đoạn nói lên nỗi ḷng của ông:

    “Cuộc đời của tôi đi đến đấy đối với người ngoài cho là thật hiu quạnh, song tự tôi lại thấy có nhiều thú vị hơn là những lúc phải lo toan làm công việc nọ kia, giống như người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt rồi hết tṛ, đâu lại vào đấy. Đàng này ngồi yên một chỗ, ngắm rơ tṛ đời và tự ḿnh tỉnh sát để biết cái tâm t́nh của ḿnh. Tôi nhớ lại câu cổ nhân đă nói:

    "Hiếu danh bất như đào danh, đào danh bất như vô danh". Muốn có danh không bằng trốn danh, trốn danh không bằng không có danh”.


    ***

    Tham khảo:
    Bài quá dài, phải căt bớt. Xin coi từ đường dẫn trên

  2. #602
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    VIỆT NAM SỬ LƯỢC

    http://www.ninh-hoa.com/bk-NguyenVan...amVNSuLuoc.htm
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06/httpwww.html



    TÁC PHẨM VIỆT NAM SỬ LƯỢC THĂNG TRẦM THEO D̉NG THỜI GIAN


    Tác phẩm Việt Nam sử lược được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1920, tính đến nay đă được 93 năm. Trong khoảng thời gian ấy chúng ta cùng nh́n lại những bước thăng trầm của nó.

    1- Trước tháng 7 năm 1954.
    Tuy chưa được tận mắt thấy, tận tay cầm tác phẩm Việt Nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim xuất bản lần đầu tiên nhưng tôi được thấy trang b́a tác phẩm Việt Nam sử lược tập thứ nhất do Nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn xuất bản lần thứ nhất vào năm 1920 trên trang Wikipedia tiếng Việt. Sách được in thành hai tập: Tập thứ nhất và Tập thứ nh́ (gọi là “tập” chứ không gọi là “quyển”).Trên cùng của trang b́a là bốn chữ “ Việt Nam sử lược” bằng chữ Hán, bên dưới bốn chữ ấy là bốn chữ “Việt Nam sử lược”bằng chữ quốc ngữ và kề bên dưới là ḍng chữ bằng tiếng Pháp: “Précis d’histoire Việt Nam”.Sau năm 1920 Nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn có tái bản nữa hay không th́ chúng tôi không có tài liệu để tham khảo.

    Cho đến giữa năm 1954 Nhà xuất bản Tân Việt đă năm lần xuất bản tác phẩm Việt Nam sử lược. Hiện tôi đang sử dụng ấn bản Việt nam sử lược in lần thứ năm, ấn bản này được in xong vào ngày 20 Mars 1954 (20/03/1954). Qua trang Wikisource tôi được thấy trang b́a Việt Nam sử lược in lần tư vào năm 1951. Trong bài “Sự thật về Trần Trọng Kim và Việt Nam sử lược”(được đăng trên nhiều trang mạng) học giả An Chi nói là ông sử dụng tác phẩm Việt Nam sử lược dày 588 trang do Nhà xuất bản Tân Việt in và phát hành tại Sài G̣n năm 1949. Ông không nói in lần thứ mấy? Có thể đây là ấn bản in lần thứ ba chăng ?C̣n hai lần in trước không biết vào năm nào, tôi chưa tiếp cận được.

    2- Sau ngày chia đôi đất nước.

    a- Miền Bắc: Quan điểm của những người theo chủ nghĩa Mác xít th́ không có thiện cảm với Việt Nam sử lược. Nhà văn Đào Xuân Quí- tập kết ra miền Bắc- ghi lại việc học môn lịch sử thời c̣n bé tại Trường Tiểu học Pháp- Việt Ninh Ḥa (Khánh Ḥa): “…C̣n sử Việt th́ học rất sơ sài, chủ yếu là dựa vào quyển Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, bị xuyên tạc đi rất nhiều”(1). Với quan điểm “bị xuyên tạc” cho nên Việt Nam sử lược không được xuất bản ở miền Bắc, nên việc muốn tiếp cận Việt Nam sử lược rất khó khăn.Theo lời của ông Mai Khắc Ứng kể vào thời điểm cuối năm 1962: “…Thầy Đặng Huy Vận đă lôi dưới đáy rương ra cho tôi mượn cuốn sách mà thầy Vượng khuyên tôi t́m đọc. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thời đó là sách cấm. Pḥng đọc hạn chế của Thư viên Quốc gia ở số 31 đường Trường Thi cũng không ló ra”(2).

    b- Miền Nam: Sau khi chia đôi đất nước, Nhà xuất bản Tân Việt tiếp tục cho in tác phẩm Việt Nam sử lược và ấn bản in lần thứ sáu được in xong vào ngày 25/04/1958 ( một người bạn đă cho tôi mượn ấn bản in lần thứ sáu để đối chiếu với ấn bản in lần thứ năm và các ấn bản mới được in gần đây ). Sau năm 1958 có tiếp tục in nữa hay không th́ chúng tôi không có tài liệu tra cứu.

    Năm 1971 Trung Tâm Học Liệu thuộc Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Ḥa cho xuất bản lần thứ nhất tác phẩm Việt Nam sử lược với số lượng 80.000 cuốn. Lần xuất bản này tác phẩm Việt Nam sử lược được chia thành hai quyển: Quyển 1 và Quyển 2.

    3 - Sau ngày thống nhất đất nước.
    Một thời gian dài sau năm 1975 tác phẩm Việt Nam sử lược vẫn chưa được xuất bản ở Việt Nam. Vào những năm cuối của thập kỷ 90 của thế kỷ trước, tác phẩm Việt Nam sử lược bắt đầu cho xuất bản trở lại ở Việt Nam. Nhiều Nhà xuất bản đă cho xuất bản tác phẩm này. Việc tiếp cận tác phẩm Việt Nam sử lược hiện nay rất là dễ dàng.

    4- Những khác biệt giữa các ấn bản Việt Nam sử lược gần đây và ấn bản của nhà xuất bản Tân Việt.
    Đa số các Nhà xuất bản gần đây khi cho xuất bản tác phẩm Việt Nam sử lược hầu như “ gần đúng” với nguyên bản, có nghĩa là không thêm thắc điều ǵ vào cả. Đa số đều không có Lời Nhà xuất bản. Với Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin th́ Lời Nhà xuất bản có ghi: “ Tuy nhiên, cuốn sách được viết dưới chế độ thực dân phong kiến nửa thuộc địa nên không khỏi có đôi điều hạn chế về cách nh́n nhận cũng như thiếu sót về mặt sử liệu”.
    Bởi vậy, những chỗ sai sót so với chính sử hiện nay, chúng tôi xin được phép lược bỏ hoặc có chú thích- ghi rơ biên tập(BT) ở dưới để bạn đọc tiện theo dơi so sánh”(3)
    Các từ ngữ mà cụ Trần Trọng Kim dùng khi viết Việt Nam sử lược như:
    Giặc cướp; khởi loạn; biến loạn; giặc giă ; quấy nhiễu; loạn; phiến động; đánh dẹp; bảo hộ…đều được Nhà xuất bản chú thích lại.
    Riêng trong Quyển 4: “ Tự chủ thời đại” ở Chương 6: “ Công việc họ Nguyễn làm ở xứ Nam” theo nguyên bản có tất cả 9 mục nhưng khi Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin cho xuất bản đă bỏ bớt mục số 6: “ Lấy đất Chiêm Thành” và mục số 7: “ Mở đất Nam Việt và sự giao thiệp với Chân Lạp”. Nhà xuất bản chỉ ghi ở cuối trang ḍng chữ “Lược bỏ 5 trang (BT)”
    Nhà xuất bản Thanh Hóa khi cho xuất bản Việt Nam sử lược đă cho in giống như Việt Nam sử lược của Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin từ chú thích (BT) cho đến số trang chỉ trừ không có Lời Nhà xuất bản mà thôi.
    Với Nhà xuất bản Đà Nẵng th́ Lời Nhà xuất bản ghi như sau: “Do sách xuất đă lâu nên ngôn ngữ cũ và số liệu có vài chỗ chỉ phù hợp với t́nh h́nh xă hội thời bấy giờ. Tuy vậy, lần tái bản này, chúng tôi vẫn giữ nguyên bản đă được xuất bản lần đầu, chỉ bỏ phần chú thích bằng Hán Nôm là loại chữ mà bạn đọc Việt Nam ngày nay ít dùng”(4).
    Như vậy chỉ có Nhà xuất bản Đà Nẵng là không có phần chữ Hán Nôm khi xuất bản Việt Nam sử lược
    Ở cuối bài “ Nước Việt Nam” trong những trang kề sau bài Tựa, hầu như đại đa số các Nhà xuất bản cũ cũng như gần đây đều in: “Nay ta nên theo từng thời đại mà chia sách Việt Nam sử ra 5 quyển để cho tiện sự kê cứu”. Với Nhà xuất bản Thời Đại không gọi “ 5 quyển” mà gọi “5 phần”: Phần 1; Phần 2…(5)

    5 – Tuyên bố giữ “nguyên bản” nhưng lại là “dị bản”.
    Tất cả các Nhà xuất bản gần đây khi cho xuất bản Việt Nam sử lược đều nói giữ đúng nguyên bản. Sự thật có đúng như vậy không?
    Trong bài “Tổng kết” ở cuối tác phẩm Việt Nam sử lược các Nhà xuất bản gần đây đă in lại “nguyên bản” câu sau: “Mặc dù nước Việt Nam hiện nay được hoàn toàn độc lập, nhưng sự hay dở trong tương lai chưa biết ra thế nào? Song người bản quốc phải biết rằng phàm sự sinh tồn tiến hóa của một nước, là ở cái chí nguyện, sự nhẫn nại và sự cố gắng của người trong nước. Vậy ta phải hết sức học tập, mà giữ cái tâm trí cho bền vững th́ chắc tương lai c̣n có nhiều điều hy vọng”(6).
    Nếu người tinh ‎khi נọc đến đoạn: “Mặc dù n‎‎ớc Việt Nam hiện nay được hoàn toàn độc lập” th́ sẽ đặt câu hỏi: Cụ Trần Trọng Kim soạn Việt Nam sử lược vào những năm trước 1920 là thời điểm nước ta bị thực dân Pháp đô hộ chẳng lẽ cụ không phân biệt được đâu là độc lập, đâu là lệ thuộc mà lại hạ bút viết một câu sai sự thật lịch sử một cách trầm trọng như vậy?
    Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin và Nhà xuất bản Thanh Hóa in đoạn ấy trong bài Tổng kêt như sau: “Mặc dù nước Việt Nam hiện nay sự hay dở tương lai chưa biết ra thế nào? Song người bản quốc phải biết rằng…” (7). Lại càng xa “nguyên bản” hơn nữa!
    Các Nhà xuất bản gần đây khi cho xuất bản Việt Nam sử lược đều dựa vào “nguyên bản” nhưng “nguyên bản” lại là ấn bản Việt Nam sử lược do Trung Tâm Học Liệu thuộc Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Ḥa xuất bản vào năm 1971(8).Trên trang “Văn thư lưu trữ mở Wikisource” có toàn bộ nội dung Việt nam sử lược quyển 1 và quyển 2 của Trung Tâm Học Liệu xuất bản.
    Các ấn bản Việt Nam sử lược do Nhà xuất bản Tân Việt ghi như sau: “Vận mệnh nước Việt Nam hiện nay c̣n ở trong tay người Pháp, sự hay dở tương lai chưa biết ra thế nào. Song người bản quốc phải biết rằng..”. Khi soạn Việt Nam sử lược nước ta chưa độc lập nhưng cụ Trần Trọng Kim vẫn luôn đặt niềm tin tưởng vào tiền đồ của dân tộc: “chắc tương lai c̣n có nhiều hy vọng”.
    Vậy đoạn văn: “Mặc dù nước Việt Nam hoàn toàn được độc lập…” và đoạn văn: “ Vận mệnh nước Việt Nam c̣n ở trong tay người Pháp…” th́ đoạn văn nào là nguyên bản?. Tuy không có trong tay ấn bản Việt Nam sử lược in lần thứ nhất của Nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn để đối chiếu nhưng chúng ta nhận thấy đoạn văn của Nhà xuất bản Tân Việt có logic hơn. Vậy chúng ta có thể khẳng định đoạn văn của Nhà xuất bản Tân Việt là “ nguyên bản”.

    6 -Lời đê nghị với các Nhà xuất bản hiện nay
    Trong tác phẩm Việt Nam sử lược có tất cả 189 chú thích của cụ Trần Trọng Kim. Do thời điểm soạn Việt Nam sử lược thiếu thông tin nên có nhiều địa danh cụ chú thích sai.
    Ví dụ ở Quyển 3 chương 10 trong phần nói về vua Trần Duệ Tông liên quan đến Chiêm Thành có chú thích: “Thành Đồ Bàn bây giờ hăy c̣n di tích ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Khánh Ḥa”. Huyện Tuy Viễn dưới triều Nguyễn thuộc tỉnh B́nh Định chớ không phải thuộc tỉnh Khánh Ḥa. Nay di tích thành Đồ Bàn thuộc huyện An Nhơn tỉnh B́nh Định hoặc ở
    Quyển 5, chương 16 ở mục số 2: “ Triều đ́nh chạy ra Quảng Trị” có chú thích số 1 của cụ Trần như sau: “Trường Thi thủa bấy giờ ở làng Đa Chữ cách Kinh thành 10 cây số”. Ở Thừa Thiên chỉ có làng La Chữ chớ làm ǵ có làng Đa Chữ! Trường Thi Hương ngày xưa ở làng La Chữ, nay thuộc thôn La Chữ, xă Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Có những chú thích sai như vậy nhưng không thấy Nhà xuất bản nào đính chính lại cả!

    Chúng ta là lớp người hậu sinh có điều kiện nghiên cứu hơn cụ Trần cho nên trong tương lai các Nhà xuất bản khi cho xuất bản tác phẩm Việt Nam sử lược nên xem xét lại tất cả các chú thích của cụ Trần nếu có chú thích nào sai sót th́ xin chữa lại chú thích ấy kề sau chú thích của cụ Trần. Đó cũng là một cách chúng ta góp phần vào việc hoàn thiện tác phẩm Việt Nam sử lược.

    Mặc dù tác phẩm Việt Nam sử lược có một số hạn chế nhất định nhưng khi cho xuất bản Việt Nam sử lược chúng ta cố gắng giữ “nguyên bản”, chỗ nào sai với lịch sử th́ chúng ta chú thích thêm. Làm như thế là chúng ta tôn trọng tác giả.





    NGUYỄN VĂN NGHỆ


    Chú thích:

    1- Đào Xuân Quí, Từ ngôi trường cũ (In chung trong tác phẩm: Dưới mái trường xưa), Nxb Công ty Cổ phần Sách& Thiết bị Trường học tỉnh Khánh Ḥa, 2005, trg 52
    2- Mai Khắc Ứng, Trần Trọng Kim và Việt Nam sử lược, Tạp chí Xưa & Nay số 346 (12/2009)
    3- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, trg 5.
    4- Trần Trọng Kim, Việt nam sử lược, Nxb Đà Nẵng, 2003, trg 3
    5- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Thời Đại, 2010, trg 18
    6- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Thời Đại, 2010, trg 634
    Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn Học, 2012, trg 634
    7- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, trg 603
    Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Thanh Hóa 2006, trg 603
    8- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược quyển 2, Trung tâm Học liệu xuất bản (thuộc Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Ḥa), 1971, trg 353.
    9- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (In lần thứ 5), Nxb Tân Việt, 1954, trg 573.

    Sách in năm 1971 của Việt-Nam Cộng-Hoà dưới dạng PDF
    https://www.scribd.com/document/3531...E1%BB%8Dng-Kim

    https://www.vinadia.org/viet-nam-su-...ran-trong-kim/

    Việt Nam Sử Lược #1- #6 - Tác Phẩm Kinh Điển của Trần Trọng Kim | Tṛ Chuyện Đêm Khuya

    https://www.youtube.com/watch?v=tiBERXMt8_E
    https://www.youtube.com/watch?v=5QBFH9JRAWE
    https://www.youtube.com/watch?v=0J5x1iMH9pY
    https://www.youtube.com/watch?v=nsp9gw4LEyM
    https://www.youtube.com/watch?v=cbSNb06MHDU

  3. #603
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Liệu thế giới có thể.. chết v́ Trung Quốc? (1/2)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2018/...rung-quoc.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...oi-co-the.html

    Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018
    Liệu thế giới có thể.. chết v́ Trung Quốc? (1)

    “Dead by China” được viết bởi Peter W. Navarro, giáo sư Kinh tế học và Chính sách Công cộng thuộc Đại học California, cùng với sự cộng tác của đồng nghiệp Greg Autry. Navarro là người đă được Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump bổ nhiệm phụ trách Ủy ban Thương mại Quốc gia trong nội các của ông.
    Sách thuộc loại nghiên cứu – b́nh luận, dày 300 trang và được xuất bản ngày 15/5/2011 tại Hoa Kỳ. Thật ra, cuốn sách có tựa đề đầy đủ: “Death by China: Confronting the Dragon – A Global Call to Action” (Chết bởi Trung Quốc - Đương đầu với con Rồng - Lời kêu gọi Hành Động Toàn Cầu). Cuốn sách đă được dịch ra nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt, và cộng thêm một bộ phim tài liệu, dựa vào cuốn sách cũng đă được tŕnh chiếu.


    Phần bản dịch tiếng Việt do Tiến sĩ Trần Diệu Chân dịch với tựa đề “Chết bởi Trung Quốc” và được giới thiệu lần đầu tiên tại Little Saigon, California, vào ngày 11/11/2012. Có rất nhiều bản dịch với tựa của cuốn sách mang tên khác nhau, chẳng hạn như “Chết dưới tay Trung Quốc”, “Chết v́ Trung Quốc”… Chúng tôi dùng bản dịch của TS Chân để tham khảo.


    “Dead by China” bản tiếng Anh

    Trong “Lời nói đầu” giới thiệu cuốn sách, ông Đường Bách Kiều (Dang Baiqiao), Hiệu trưởng Đại học Dân Chủ, lănh đạo phong trào sinh viên đ̣i dân chủ Thiên An Môn năm 1989, đă viết:

    “Những năm cuối thập niên 80 (thế kỷ 20) là những năm mà Trung Quốc tràn đầy phấn kích và niềm hy vọng v́ những tư tưởng mới của phương Tây như tự do cá nhân, kinh tế tư nhân đang lan tỏa mạnh mẽ và đầy sức sống, có tác dụng gột rửa vết nhơ do cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông gây ra.
    “Trong thời điểm tràn đầy niềm hy vọng, tôi đă cùng một số lănh đạo sinh viên, học sinh kêu gọi cải cách chính trị, dùng tư duy mới của thế giới hiện đại để mang lại sự tôn nghiêm cho Trung Quốc. Tôi đă tổ chức diễn thuyết tại các trường học và quảng trường ở khắp nơi trên toàn quốc trong ngập tràn mong mỏi lănh đạo tối cao Đảng Cộng sản Trung Quốc nghe theo chủ trương của chúng tôi.
    “Nhưng thảm kịch tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989 với những cỗ xe tăng đă nghiền nát phong trào của chúng tôi, những h́nh ảnh khủng bố chiếu trên truyền h́nh là minh chứng cho thảm kịch này…”

    (hết trích)

    Theo ông Đường Bách Kiều, cuốn sách viết về Trung Quốc sẽ giúp độc giả hiểu được những “sự thật khó tin” trong việc lănh đạo Bắc Kinh duy tŕ áp chế tàn bạo tiếng nói của người dân Trung Quốc. Mặt khác, họ vẫn tung ra khắp thế giới những sản phẩm nguy hiểm “chết người”.
    Chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa trọng thương của Trung Quốc đă hủy hoại nền kinh tế Mỹ nói riêng và Phương Tây nói chung. Ngoài ra, thông qua mạng lưới gián điệp được tổ chức tinh vi, Bắc Kinh đă đánh cắp những kỹ thuật chiến tranh tân tiến nhất của Ngũ Giác Đài (Lầu Năm Góc) để nhanh chóng tự trang bị cho họ nhằm thực hiện mộng “bá quyền”.



    Bức ảnh một thanh niên đơn độc trước đoàn xe tăng trong sự kiện Thiên An Môn năm 1989

    “Dead by China” gồm 5 phần chính với 16 Chương, qua đó tác giả điểm lại một loạt các sự kiện, từ những chính sách thương mại – tiền tệ bị Trung Quốc lạm dụng, đến lao động nô lệ và các sản phẩm tiêu dùng đầu độc con người. Đó là những mối đe đọa rơ rệt đối với sự ổn định kinh tế toàn cầu và ḥa b́nh thế giới.
    Ngay ở phần đầu sách, Navarro khẳng định “Cuốn sách không nhằm việc đả kích hay chỉ trích Bắc Kinh v́ đó là sự thật… họ là sát thủ tàn độc nhất hành tinh”. Bất chấp sự an toàn của người tiêu dùng, họ tung ra các sản phẩm “đầu độc hàng loạt” từ đồ chơi cho trẻ em đến những loại thực phẩm chúng ta… “đút vào mồm”.
    “Trong khi đó, "thứ xảy ra ở Trung Quốc không ở lại Trung Quốc". Khi các nhà máy Trung Quốc tạo ra cơn lũ sản phẩm để chất lên giá các cửa hàng của Target và Walmart, các loại tro bụi ô nhiễm không khí cực kỳ độc hại của Trung Quốc cũng bay hơn 6.000 dặm theo các ḍng khí đối lưu tầng trên khí quyển đến California, thả các chất thải độc hại xuống dọc đường đi.
    “Ngày nay, phần lớn mưa acid ở Nhật và Hàn quốc là "Made in China", trong khi tỉ lệ ngày càng tăng các hạt bụi mịn phát hiện trong không khí các thành phố ở bờ biển phía Tây như Los Angeles cũng xuất phát từ các nhà máy của Trung Quốc….”

    (hết trích)


    Chúng tôi không Bán và Mua bất cứ thứ ǵ “Made in China”

    Navarro phanh phui một sự thật “trần truồng” về xă hội Trung Quốc: “… Đảng Cộng sản cầm quyền cai trị không phải là một đảng "Cộng ḥa Nhân dân" chân chính mà là một chế độ thần quyền thế tục. Trong khi Mác trở ḿnh trong mồ và xác ướp Mao từ chiếc ḥm pha lê của ḿnh hướng cặp mắt đờ đẫn vào quảng trường Thiên An Môn, một bộ phận nhỏ dân số Trung Quốc trở nên giàu có cực kỳ dù cho một tỉ công dân Trung Quốc tiếp tục sống trong thế giới đói nghèo...”
    Để dập tắt chống đối, đảng cầm quyền đă dựa vào công an và lực lượng bán quân sự với con số trên một triệu người. Mạng lưới theo dơi “kiểu Orwell” (*) cũng có khoảng 50.000 công an mạng. Các công an “thực” và “ảo” này không ngừng ngăn chặn và đàn áp những thế lực mà họ cho là “thù địch”.
    “Ngay cả khi vô số cái chết dưới tay Trung Quốc diễn ra cả bên trong nước Cộng ḥa Nhân dân này và ở những xưởng máy chết chóc trên khắp thế giới, các nhà lănh đạo doanh nghiệp, nhà báo, và nhà chính trị Mỹ có quá ít để nói về nguy cơ lớn nhất, duy nhất đối mặt với nước Mỹ và thế giới.

    “Trong lĩnh vực kinh doanh, một số công ty lớn nhất của Mỹ - từ Caterpillar và Cisco đến General Motors và Microsoft - đă hoàn toàn đồng lơa với chính sách "trước hết chia rẽ nước Mỹ và sau đó chinh phục nó" của Trung Quốc. Bi kịch ở đây là khi chủ nghĩa con buôn Trung Quốc bắt đầu tấn công ngành công nghiệp Mỹ vào cuối những năm 1990 - những ngành như đồ gỗ, dệt và may mặc - bắt đầu sụp đổ hết ngành này đến ngành khác…”.
    (hết trích)

    Đối với các dược phẩm, Trung Quốc cũng sản xuất cho thế giới đến 70% lượng penicillin, 50% lượng aspirin, và 33% lượng tylenol. Các công ty dược Trung Quốc cũng đă chiếm lĩnh phần lớn thị phần thế giới về kháng sinh, enzyme, các acid amin chính và vitamin tổng hợp.
    Trung Quốc thậm chí đă thống lĩnh đến 90% thị phần thế giới về vitamin C, cùng lúc đó họ đang có vai tṛ áp đảo trong việc việc sản xuất các loại vitamin A, B12, và E, không kể nhiều loại nguyên liệu để sản xuất vitamin tổng hợp.
    “Các số liệu thống kê này làm tất cả chúng ta lo lắng chỉ v́ một lư do đơn giản: Một phần quá lớn các loại thuốc Trung Quốc đang tràn ngập các cửa hàng và siêu thị thuốc của chúng ta thực sự là chất độc. Đấy là lư do tại sao thực phẩm và dược phẩm Trung Quốc luôn được xếp hàng đầu trong các loại phải kiểm tra khi nhập vào biên giới hoặc bị trả về bởi cả cơ quan Quản lư Thực phẩm & Dược phẩm của Mỹ lẫn Cơ quan An toàn Thực phẩm châu Âu”.

    Cho dù là do ngẫu nhiên hay cố t́nh, việc đầu tiên bạn cần biết cụ thể về cái Chết dưới tay Trung Quốc này là nó không phải dành riêng ai. Thật vậy, người Trung Quốc, dù là nông dân, ngư dân, nhà chế biến thực phẩm hay là người bán thuốc, đều có thể đầu độc chính người dân của họ y như họ đầu độc người Mỹ, người Châu Âu, người Nhật, người Hàn và tất cả những ai trên toàn thế giới dùng thực phẩm và thuốc của họ, trong đó có Việt Nam.
    Để nếm thử chút ít vị “chua chát” trong câu nói trên, hăy tự đặt câu hỏi với đầu bếp Trung quốc: “Có ǵ trong chảo của anh thế?”. Câu trả lời là có tới 10% nhà hàng ở Trung Quốc sử dụng cái gọi là “dầu ăn bẩn" để nấu nướng.
    “Dầu ăn bẩn là một hỗn hợp hôi hám của dầu đă qua sử dụng và chất thải thu được từ hố ga và cống rănh từ các nhà bếp thương mại, chứa đầy nấm mốc độc aflatoxin gây ung thư gan. Những kẻ nhặt rác ở Trung Quốc lén lút bán thứ này cho nhiều nhà hàng với giá chỉ bằng một phần năm giá dầu đậu nành hay dầu lạc mới. Ngoài khả năng gây ung thư, cái hỗn hợp gồm dầu bị mốc với đủ loại thực phẩm bỏ đi này có thể là bản án tử h́nh bất ngờ cho bất kỳ ai bị dị ứng thực phẩm nặng”.
    Câu chuyện “dầu ăn bẩn” này cho dù có thể làm chúng ta căm phẫn dù đă từng xảy ra tại Việt Nam. Tuy nhiên, so với chuyện những kẻ giết người hàng loạt melamine th́ nó… chưa là ǵ cả.
    “Những kẻ sát nhân” mang tên melamine đă “hạ gục” nhiều nạn nhân ngay trên đất Trung Hoa và phần c̣n lại của thế giới. Bản thân melamine là một hóa chất “có giá trị” khi chúng không bị lén lút cho vào thực phẩm.
    “Kết hợp melamine với formaldehyde để sản xuất nhựa melamine, bạn sẽ có được một chất dẻo có độ bền cao dùng chế tạo các sản phẩm như formica và các bảng viết bằng bút xóa. Trộn với một số hóa chất khác, bạn có thể dùng melamine như một chất chống cháy, phân bón, hay là “phụ gia siêu dẻo” dùng trong bê tông cường độ cao. Thế nhưng thêm melamine vào các sản phẩm như thức ăn gia súc, sữa, hoặc sữa cho trẻ sơ sinh th́ không c̣n cách nào nhanh hơn để hủy hoại hai quả thận trong người”.
    Thế tại sao những doanh nhân Trung Quốc lại thêm melamine vào thực phẩm? Đó là v́ hàm lượng nitrogen cao trong melamine có thể “nhái” mức protein cao trong thực phẩm. Sự giả mạo protein “kiểu Trung Quốc” do đó có thể đánh lừa các nhân viên kiểm tra thực phẩm chứ chưa nói ǵ đến người tiêu thụ. V́ melamine rất rẻ so với protein thật, nên điều này có nghĩa là rất nhiều tiền sẽ vào túi kẻ “bất nhân”, bất kể nhiều người có thể thiệt mạng.
    Thế giới lần đầu biết đến việc giả mạo protein của Trung Quốc vào năm 2007, khi hàng chục ngàn chó và mèo ở châu Âu, Mỹ và Nam Phi bị chết v́ loạt thức ăn nhiễm melamine.
    Thế cho nên, các du khách Trung Hoa ra nước ngoài thay v́ “ngoạn cảnh” lại dành th́ giờ xếp hàng tại các siêu thị để mua sữa mang về nước. Họ mất tin tưởng vào sữa “nội địa”!


    Trung Quốc thu giữ 72.000 tấn sữa nhiễm melamine

    Người Phương Tây có câu “An apple a day, keeps the doctor away” (Mỗi ngày một trái táo, bác sĩ sẽ tránh xa). Một quả táo ở Trung Quốc lại khác, ăn táo “xuất khẩu” từ Trung Quốc sẽ khiến cho các bác sĩ chuyên khoa ung thư có việc làm… cả đời.

    “Hơn 30 năm qua, các nhà xuất khẩu nước táo cô đặc Trung Quốc đă tăng từ 10.000 gallon lên đến gần nửa tỷ gallon mỗi năm; và ngày nay Trung Quốc chiếm lĩnh hơn một nửa thị trường Mỹ. Điều chắc chắn là, giá của họ rẻ hơn giá của các nhà nông Mỹ. Nhưng có một lư do làm cho nó rẻ là v́ các vườn cây Trung Quốc dùng rất nhiều các loại thuốc trừ sâu bất hợp pháp có chứa arsen để rồi thấm vào cây và cô đọng trong quả”.

    Lai có một câu mà người ta hay nói “Mọi thứ trà đều là trà Tầu cả”. Đúng thế v́ trà xuất xứ từ Trung Hoa từ ngàn xưa nhưng “trà Tầu” ngày nay được người Trung Quốc “chế biến” bằng cách phơi lá chè trên một cái sân kho rất rộng rồi dùng xe tải cán lên… “cho chóng khô”. Xe Trung Quốc dùng xăng pha ch́ nên không có cách nào hiệu quả hơn thế để biến lá chè thơm ngon trở thành một thứ vũ khí giết người!

    “Câu chuyện thủy sản” Trung Quốc bắt đầu ở miền Đông Nam Hoa Kỳ, nơi mà trong những năm 90s việc nuôi cá da trơn miền Nam là một trong những câu chuyện thành công lớn của ngành thủy sản Mỹ. Thế rồi con rồng Châu Á bước vào.

    Các doanh nghiệp Trung Quốc kiếm lợi nhuận bằng mọi tṛ lừa đảo trong kinh doanh, và các cơ sở nuôi thủy sản của Trung Quốc không phải là ngoại lệ. Thật vậy, bắt đầu vào những năm đầu của thế kỷ 21, dưới sự tấn công dữ dội của ngành xuất khẩu được trợ cấp của Trung Quốc, nhiều cơ sở nuôi trồng thủy sản Hoa Kỳ ở các tiểu bang như Louisiana, Mississippi và Alabama đă thực sự hoàn toàn biến mất.
    “Ngày nay, Trung Quốc là nhà cung cấp thủy sản nuôi số một thế giới và chiếm lĩnh các thị trường cá da trơn, cá rô phi, tôm, và lươn. Tuy nhiên, các cơ sở nuôi trồng thủy sản Trung Quốc cho chúng ta một h́nh ảnh thôn quê không yên b́nh và không ḥa hợp với thiên nhiên. Hơn thế nữa, họ c̣n tạo ra một cơn ác mộng của sự bẩn thỉu kinh người như dưới địa ngục”.
    Sự “bẩn thỉu” của các cơ sở thủy sản bắt đầu bằng sự kiện chỉ có dưới một nửa đất nước Trung Hoa là có cơ sở xử lư nước thải. Vậy th́, cái cách thức mà những thứ do người thải ra này - cùng với không biết bao nhiêu thuốc trừ sâu, phân bón, bùn than, thuốc kháng sinh, thuốc nhuộm, và các chất gây ô nhiễm khác - t́m được đường đến bữa cơm tối ở nhà bạn. Đó là điều đáng để chúng ta suy nghĩ.
    Nằm dọc sông Dương Tử, những thành phố lớn đang phát triển, chẳng hạn như Thành Đô và Trùng Khánh, đổ thẳng ra sông hàng tỷ tấn chất thải chưa qua xử lư từ người, động vật và cả chất thải công nghiệp. Đống độc hại này sau đấy lại có thêm thời gian để lên men và thối rữa khi dồn về hồ chứa đằng sau đập Tam Hiệp khổng lồ phía bên dưới Trùng Khánh.


    Nuôi thủy sản tại Trung Quốc

    Tin trên báo St. Louis Post-Dispatch: Bà Donnals đang ngồi trên hiên nhà bỗng nghe một tiếng nổ, kế theo sau là những tiếng la hoảng loạn. Quay nh́n con trai ḿnh, Bryan, 6 tuổi, đang chạy về phía bà, quần áo trên người đang cháy, và ngọn lửa đang phun ra từ phía sau của ngôi nhà di động của gia đ́nh Donnals.
    Bryan đang chơi với chiếc xe địa h́nh ATV được chế tạo tại Trung Quốc … th́ bất ngờ nó tăng tốc và lồng lên mất kiểm soát… Chiếc xe bốn bánh màu đỏ dung tích 110cc đă chút nữa đâm vào một b́nh khí propan trước khi đâm vào chiếc xe moóc và bốc cháy.
    Chẳng có ǵ buồn cười về câu chuyện hăi hùng này. May thay, cậu bé Bryan đă sống sót sau khi bị phỏng nặng. Tuy nhiên, các bạn vẫn nên biết nhận xét hài hước hoàn toàn không cố ư của ông nội Bryan sau tai nạn bởi v́ nó phản ánh tính dễ lăng quên hiện nay của quá nhiều khách hàng người Mỹ về mối đe dọa của “đồ rẻ tiền” Trung Quốc”.

    Ông Tim Donnals, người đă mua chiếc xe cho đứa cháu đáng thương, nói: “Tôi đă không nghĩ rằng nó sẽ có thể nổ tung, nếu không tôi đă chẳng mua nó”. Quả thật như vậy. Từ nay trở đi bạn cần nhớ:

    “Bất cứ khi nào bạn mua cái ǵ từ Trung Quốc, bạn phải lường trước về điều xấu nhất. Đó chính là v́ các nhà sản xuất Trung Quốc có một lịch sử lâu dài về đồ rẻ tiền có thể nổ tung vào ban đêm hay ban ngày, bốc cháy và vỡ tan, gây chấn thương và đau đớn”.


    Nạn nhân của đồ chơi Trung Quốc

    Kể cũng lạ. Việt Nam v́ c̣n nghèo nên chuộng “của rẻ”… nhưng một nước giàu như Hoa Kỳ cũng lại bị rơi vào cái bẫy “rẻ tiền” của hàng Trung Quốc. Tác giả Navarro phân tích như sau:

    “Sở dĩ gian thương Trung Quốc không quan tâm đến yếu tố an toàn cho người tiêu thụ và các nhà sản xuất Trung Quốc không sợ bị trừng phạt. Có bị kiện ra ṭa họ cũng được nhà nước Bắc Kinh bao che và nhất là rất khó theo đuổi một vụ kiện đ̣i bồi thường tại Hoa Kỳ hay tại Trung Quốc. Ngoài ra, cán bộ kiểm phẩm an toàn của Trung Quốc đă bị mua từ trên cao xuống đến thấp. Đây là bộ máy tham ô và tồi bại nhất thế giới”.
    (C̣n tiếp)
    ***
    Chú thích:

    * Tiểu thuyết "1984" của George Orwell viết năm 1948 mô tả một chế độ mà mọi cử chỉ và suy nghĩ của công dân đều bị theo dơi qua một mạng lưới bao trùm khắp mọi nơi, từ pḥng ngủ ra đến quảng trường. (Xem thêm bài viết “Từ tương lai trở về… hiện tại” http://chinhhoiuc.blogspot.com/2017/...-hien-tai.html)
    ***
    Phim 1984 (trên VUDU có thể ghi tên để coi miễn phí)
    https://www.vudu.com/content/movies/...984%252F140331

  4. #604
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Liệu thế giới có thể… chết v́ Trung Quốc? (2/2)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2018/...ng-quoc-2.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...ng-quoc22.html

    Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2018
    Liệu thế giới có thể… chết v́ Trung Quốc? (2)

    (Tiếp theo)

    Ngày 11/12/2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và cũng từ thời điểm đó, 57.000 nhà máy đă “biến mất” tại Mỹ. Hơn 25 triệu người không thể nào t́m được cho ḿnh một công việc đàng hoàng và nước Mỹ phải gánh số nợ nước ngoài lên đến 3.000 tỷ đô la.
    Điều trớ trêu, chính từ thời Tổng thống Bill Clinton lại là người ủng hộ hết ḿnh việc Trung Quốc tham gia WTO với tham vọng để một nước theo chủ nghĩa Cộng sản có cơ hội tham gia sân chơi quốc tế và từ đó có thể thay đổi đường lối chính trị độc tài.

    Ngày 9/5/2000, ông Clinton tuyên bố tại Đại học Johns Hopkins:

    “Nếu các bạn tin tưởng vào tương lai cởi mở, dân chủ, tự do cho người Trung Quốc và nếu các bạn tin tưởng hơn vào tương lai thịnh vượng của Hoa Kỳ… chúng ta nên kư kết thỏa thuận để họ gia nhập WTO… Và nếu bạn tin tưởng vào an ninh và ḥa b́nh của Châu Á hay cả thế giới, chúng ta nên đồng thuận. Đây là điều đúng đắn phải làm…”


    Tổng thống Bill Clinton phát biểu tại Đại học Johns Hopkins (năm 2000)

    Ông Clinton tuyên bố như trên cũng chỉ là theo đuổi “học thuyết” của Tổng thống Richard Nixon khi đến Bắc Kinh để mở ra một “kỷ nguyên mới”. Nixon nói, “Nếu có điều ǵ đó tôi muốn làm trước khi chết, đó là đi Trung Quốc. Nếu tôi không đi được, tôi muốn các con tôi đi”.

    Để dọn đường cho chuyến thăm của Tổng thống Nixon, cố vấn Kissinger đă mau chóng thu xếp 1 chuyến đi “tiền trạm” bí mật sang Bắc Kinh. Ngày 21/2/1972, Air Force One ch́nh thức đáp xuống Thượng Hải, các đài truyền h́nh Mỹ đồng loạt loan tin Tổng thống vừa đặt chân đến đất Trung Hoa. Đó là môt bản tin gây chấn động toàn cầu.


    Tổng thống Richard Nixon và Thủ tướng Chu Ân Lai (năm 1972)

    Cả hai vị Tổng thống Hoa Kỳ đă mắc một sai lầm lớn khi “bắt tay” với Trung Quốc. Theo Peter Navarro, tác giả “Dead by China”, nước Mỹ đă bị “lừa bịp về chất lượng hàng hóa đi cùng với một tṛ chơi bổ sung với cái tên là “Nọc độc Thượng Hải”. Tất cả đều phát xuất từ Trung Quốc.
    Ông giải thích, một công ty Mỹ tới Trung Quốc v́ muốn cắt giảm chi phí sản xuất, khi t́m được một ứng viên, vị giám đốc tŕnh bày các kế hoạch hay thiết kế chi tiết cho nhà sản xuất Trung Quốc. Một trong ba điều có thể xảy ra:

    (1) Trường hợp hoàn hảo nhất là nhà sản xuất Trung Quốc kư một thỏa thuận lâu dài với công ty Mỹ, sản xuất các sản phẩm chất lượng cao với giá thấp, và hai bên “cùng có lợi”;
    (2) Một khả năng rất dễ xảy ra hơn, Navarro gọi đó là “Nọc độc Thượng Hải”: Nhà sản xuất Trung Quốc từ chối lời đề nghị nhưng giữ lại bản thiết kế của công ty Mỹ. Vài tháng sau, chính họ chế tạo mặt hàng của công ty Mỹ để bán như là một đối thủ cạnh tranh bằng cách sử dụng thiết kế “ăn cắp” của công ty Mỹ;
    (3) Khả năng thứ ba: Sự “lừa bịp chất lượng” bắt đầu khi nhà sản xuất Trung Quốc nhanh chóng chế ra một “phiên bản thử nghiệm bêta” theo yêu cầu của Mỹ một cách chính xác. Công ty Mỹ sẽ rất rất hài ḷng với vụ làm ăn và chi phí được cắt giảm đáng kể (thường là tới 50%). Sau thời kỳ trăng mật này là “sự lừa bịp”. Họ bắt đầu thay thế các nguyên vật liệu hay các bộ phận kém phẩm chất vào để gia tăng lợi nhuận.



    Sản phẩm “Made in China” trên thị trường Hoa Kỳ

    Peter Navarro cho rằng chính phủ Hoa Kỳ chỉ quan tâm đến những vấn đề chính trị trong đối ngoại mà hầu như quên hẳn chuyện kinh tế ngay trong nội bộ nước Mỹ. Ngoài trách nhiệm của những chính trị gia, c̣n có phần thiếu sót của các học giả, nhà báo trước t́nh trạng kinh tế - xă hội ngay tại nước Mỹ. Ông viết:

    “Rơ ràng là chúng ta đă từng nghe các học giả uyên thâm như Thomas Friedman của cuốn “Thế giới phẳng” rằng tương lai phồn thịnh của Mỹ nằm ở việc mở rộng nhanh công ăn việc làm trong lĩnh vực dịch vụ mà? Và những cái đầu biết nói như Fareed Zakaria của tờ Newsweek và thậm chỉ cả James Fallows của tờ Altantic luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng việc chuyển dịch công ăn việc làm trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo từ Mỹ và châu Âu tới các nước có thu nhập thấp như Trung Quốc và Ấn Độ là vấn đề không thể tránh được, cũng như việc thủy triều lên và mặt trời lặn.”

    Navarro viết một cách “thẳng thừng”, ông phải xin lỗi trước v́ những lời lẽ như sau:

    “Bọn họ đều sai lầm “phẳng” như nhau cả thôi. Những ǵ mà những học giả tịt ng̣i này, cùng với những tác giả đồng hạng và quan điểm như họ, tất cả đều mắc sai lầm ở chỗ, họ đă không nắm vững một trong những nguyên lư căn bản nhất của kinh tế học: công nhân người Mỹ có thể cạnh tranh với nhân công ở các nước có thu nhập thấp ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, miễn là họ phải hiệu quả và ưu việt hơn - và khi sân chơi tự do thương mại bằng phẳng!”

    Cũng cần phải nói thêm, trong cuốn “Thế Giới Phẳng” (The World is Flat), Thomas Friedman có đề cập đến 10 yếu tố tác động đến việc “làm phẳng thế giới” mà ông gọi là “tác nhân làm phẳng” (flattener), trong đó “Flattener #6” là nhân tố mang tên “Offshoring”, tạm dịch là hướng ra nước ngoài (*)


    B́a sách “The World Is Flat” của Thomas Friedman

    Cũng v́ chính sách “hướng ngoại” nên các nhà máy của Hoa Kỳ đóng cửa để dời ra nước ngoài. Tiền bạc thu về có phần khấm khá cho các công ty nhưng để lại một hậu quả bi thảm cho cuộc sống của người lao động Mỹ và những hệ quả không thể lường trước được như chúng ta thấy ngày nay.
    Chính phủ đương thời của Tổng thống Donald Trump phải đương đầu với những đ̣n “hóa giải” về kinh tế - xă hội” để “Make America Great Again”. Đó cũng là lư do Peter Navarro được Trump tin tưởng trong vai tṛ phụ trách Ủy ban Thương mại Quốc gia. Và đó cũng là lư do giải thích về “cuộc chiến thương mại” giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện đang xảy ra.

    Từ quan điểm của một người đứng bên ngoài nước Mỹ, chúng ta thấy “triều đại” của Tổng thống Trump có rất nhiều chính sách “chưa từng có” trong lịch sử của Hoa Kỳ khiến một số người dân chống đối. Mặt khác, cuộc chiến kinh tế với Trung Quốc ngày nay lại được đa số người Mỹ ủng hộ. Có lẽ v́ ông vốn xuất thân từ thương trường trong khi các Tổng thống tiền nhiệm đều là các chính khách!


    Cảnh hoang phế của nhà máy sản xuất tại Mỹ sau khi các công ty chuyển ra nước ngoài

    Trở lại với câu hỏi được đặt ra qua tiêu đề của bài viết này: “Liệu thế giới có thể.. chết v́ Trung Quốc?”. Hăy c̣n quá sớm để có câu trả lời “Yes” hay “No” nhưng chúng ta cũng tạm yên tâm khi câu hỏi được đặt ra… dù có vẻ hơi muộn màng. Người Phương Tây vẫn nói “Better late than never”!
    Phần c̣n lại của thế giới, trong đó có Việt Nam, chỉ biết “trông chờ” vào một kết quả thuận lợi từ “cuộc chiến thương mại” theo từng hoàn cảnh của mỗi quốc gia… Chúng ta chỉ biết… chắp tay cầu nguyện.

    “Wait and see”


    Tổng thống Donald Trump và tác giả “Dead by China”, Peter Navarro

    ***
    * Như đă nói ở phần đầu, các bạn có thể xem thêm phim tài liệu “Dead by China” tại:
    https://www.youtube.com/watch?v=1cOV_G1S_Pw
    ***
    Chú thích:
    (*) Đọc thêm bài viết về Thomas Friedman, “Trái đất tṛn nhưng sao thế giới lại phẳng?”, đă post trên Blogspot tại:
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...lai-phang.html.
    ***

  5. #605
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÂN ĐO "TỘI ÁC” VÀ “THỜI GIAN”

    https://bencublog.wordpress.com/2018...-va-thoi-gian/
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...-thoigian.html
    Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi từ đường dẫn

    NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÂN ĐO TỘI ÁC VÀ THỜI GIAN
    February 27, 2018
    Topa


    Sàig̣n cuối tháng ba dương lịch thời tiết thật nóng. Vợ chồng tôi vừa đặt chân đến thành phố buổi trưa th́ buổi chiều vợ mới cưới của tôi bị nằm liệt trong khách sạn đến không làm sao nhấc nổi cái đầu lên. Nàng đă bị nhiễm độc bởi thức ăn nước uống, bởi thời tiết, bởi khói xe và bụi bặm… Bác sĩ đến khám bệnh cho nàng đă nói vậy. Nàng và tôi không ngờ khí hậu Sàig̣n lại nóng đến nỗi gần như làm cháy cả da lẫn thịt. Cũng chỉ v́ chiều nàng mà giờ đây cuộc du lịch của hai đứa đă mất đi nhiều thú vị.

    Nàng và tôi dự định đi đến Thái Lan, rồi sau đó qua xứ chùa tháp là quay về lại Hoa Kỳ. Nhưng, khi đến Campuchia và thấy cũng gần với Việt Nam, hơn nữa người hướng dẫn viên du lịch nói sẽ lo mọi thủ tục chỉ trong có vài ba tiếng đồng hồ là xong, v́ vậy nàng muốn ghé cho biết Sàig̣n trong dăm ba ngày. Nàng nói: “Là người Việt Nam mà không biết chút ít nào về cảnh vật của quê hương th́ cũng là điều thiếu sót, phải vậy không anh?”

    Sàig̣n chật chội nhưng lại có quá đông người sử dụng phương tiện xe gắn máy nên cảnh kẹt xe và không khí bị ô nhiễm là chuyện không sao tránh khỏi. Ngày xưa, ngày mà tôi rời khỏi thủ đô của miền Nam khi chiến tranh đă vào những ngày cuối cùng, và, ngày đó tôi mới lên bảy tuổi nên trí nhớ về một vùng quê hương quả là quá nghèo nàn.

    Hôm nay vợ của tôi muốn tôi đi xem thành phố cho biết v́ nàng quyết định ngày mai chúng tôi phải rời khỏi Việt Nam. Nàng không muốn nh́n thấy tôi cũng bị nằm liệt một chỗ như nàng. Đang đi trên đường Lê Lợi th́ một vật mà tôi nh́n thấy phía trước mặt đă làm cho tôi phải chú ư đến. Đó là cái cân thật cũ để cân người đặt trên vỉa hè nơi có người bộ hành qua lại tấp nập. Bên cạnh cái cân có đặt một tấm bảng carton với hàng chữ thật lớn: “Cân sức khỏe 2000 đồng”, viết bằng bút lông màu đỏ nét chữ rất lớn – rất đậm – như muốn mọi người phải chú ư đến. Vậy mà không một người nào qua lại trên hè phố để mắt đến.

    Người đàn ông chủ của cái cân vào khoảng sáu mươi lăm tuổi và có gương mặt rất khắc khổ nhưng cũng thật trí thức. Bộ đồ mà ông đang mặc, đôi dép mà ông đang mang, cho tôi biết cuộc sống của ông nghèo lắm. Ông ngồi đó, sau cái cân với gương mặt dửng dưng của người bất cần đời. Bên phía tay phải của ông có một cây cột xi măng thật cao của đường dây điện và, ông cột vào cây cột xi măng đó một cây thước cây mà tôi nghĩ là để đo chiều cao của người. Công việc kinh doanh với chỉ một cái cân và cây thước, đây là lần đầu tiên tôi nh́n thấy trong đời. Người đàn ông ngồi đó tuy hai mắt vẫn đang nh́n người qua lại trên hè phố nhưng với vẻ dửng dưng như không hề chờ đợi sẽ có người đến đứng lên cái cân.

    “Hai ngàn đồng Việt Nam”, tôi nhẩm tính với hối suất vừa đổi trong khách sạn th́ chỉ vào khoảng mười xu đô la Mỹ mà thôi. Cũng v́ gương mặt của ông và thái độ như bất cần đời của ông nên tôi cứ đứng từ xa, từ khoảng cách mười thước, và, tôi đưa máy lên làm như chụp h́nh cảnh vật của thành phố, rồi lại để xuống mà mục đích là chỉ để chờ xem có người nào đến đứng lên cái cân không.

    Hai mươi lăm phút trôi qua rồi mà vẫn không có một người qua lại nào nh́n đến cái cân, nên tôi tự hỏi, như vậy một ngày ông ấy sẽ kiếm được bao nhiêu tiền để sinh sống. Và, có lẽ v́ vậy mà quần áo và đôi dép của ông… Tôi đeo máy chụp h́nh lên vai rồi bước đến đứng lên cái cân.Tôi nh́n vào những con số trong bàn cân rồi tôi vừa định bước xuống th́ ông chỉ tay đến chỗ để cây thước đo chiều cao, nhưng tôi đă lắc đầu. Tôi rút trong túi áo ra tờ giấy mười ngàn đồng và đưa cho ông. Ông không nói mà ra dấu cho tôi hiểu là chờ ông một chút để ông đổi tiền. Tôi khoát tay, đồng thời nói: “Bác giữ lấy số tiền dư”. Ông nh́n tôi nhếch môi nở nụ cười và gật đầu như thay cho lời cảm ơn. Ông vẫn không nói một lời nào. Qua đôi con mắt của ông nh́n tôi, tự nhiên tôi thấy đôi con mắt đó như rất gần gũi. Ánh mắt nh́n của ông thật kỳ lạ và làm như có một ma lực thu hút khiến cho tôi phải muốn làm quen với ông. Ánh mắt đó, con người đó, cho tôi cái linh cảm ông là người trí thức đang bị thất thế và bất măn với cuộc đời. Chắc chắn một con người như ông mà nếu tôi được ông tiếp chuyện, th́ có thể ông sẽ thố lộ những điều bí ẩn lư thú nào đó mà ông biết. Hoặc, biết đâu ông cũng là chứng nhân của một sự biến chuyển trong một đất nước có quá nhiều điều kỳ quái này. Và, biết đâu rồi mẹ tôi, nữ văn sĩ Lữ Tuư Phượng sẽ có thêm tài liệu để viết sách.Tôi quyết định làm quen với ông nên tôi ngồi xuống nh́n thẳng ngay mặt ông…
    Với giọng nói thật trầm và thật buồn, ông kể câu chuyện đời tư của ông:

    – Khi cuộc tổng tấn công của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân 1968 trên khắp miền Nam đang có dấu hiệu thất bại, th́ tôi được người của Mặt trận đưa vào trong khu. Và, thật đúng lúc, tôi đă thoát khỏi sự truy bắt của an ninh Việt Nam Cộng Ḥa chỉ trong tích tắc. Thời gian này tôi đang là sinh viên năm cuối của Đại học Khoa Học Sàig̣n.Tôi được người của Mặt trận đưa lên Tây Ninh để rồi từ đây tôi được đưa vào trong khu an toàn. Năm tháng sau, trong một bữa tiệc tối trong khu an toàn tôi đă được gặp đủ mặt giới trí thức và tu sĩ từ khắp các nơi ở miền Nam được đưa vào trong khu. Người của Mặt trận đối xử với chúng tôi hết sức trọng đăi. Chúng tôi cũng được gặp mặt đầy đủ những người lănh đạo của Mặt trận như, Nguyễn Hũu Thọ,Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát,Trần Hữu Trang. Phía nữ th́ có Nguyễn Thị B́nh và Nguyễn Thị Định. Nhưng, đặc biệt hơn cả là được gặp anh Sáu Dân Vơ Văn Kiệt.Tôi nói đặc biệt là v́ từ buổi gặp gỡ đầu tiên trong bữa tiệc tối hôm đó, tôi đă được đi theo sát nhân vật này cho đến sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải… hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Tôi không làm sao quên được buổi gặp gỡ đầu tiên vào tối hôm đó v́, chính anh Sáu Dân Vơ Văn Kiệt khi đứng lên phát biểu đă nói:

    – Ngụy quyền Thiệu – Kỳ – Khiêm tuyên truyền trong nhân dân với khẩu hiệu là, đừng nghe những ǵ chúng ta nói, mà hăy nh́n kỹ những ǵ chúng ta làm. Chúng ta sẽ làm,và làm với tất cả ư chí thật cao để thể hiện cho nhân dân miền Nam và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới thấy quân đội nhân dân của chúng ta là, quân đội từ nhân dân mà ra, v́ nhân dân mà phục vụ,v́ nhân dân mà chiến đấu. Quân đội nhân dân của chúng ta sẽ không bao giờ tơ hào ǵ, dù chỉ là một cây kim hoặc một sợi chỉ của nhân dân như những tên lính Ngụy chuyên cướp giật của nhân dân và hăm hiếp phụ nữ. Chúng ta sẽ chứng minh cho bọn Ngụy quyền Sàig̣n và thế giới thấy rằng, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam và quân đội nhân dân của chúng ta sẽ thực thi một xă hội công bằng, một xă hội không có người bóc lột người, một xă hội không có người đói kẻ no. Lănh đạo Mặt trận đă công bố nghị quyết thực thi chính sách hoà giải ḥa hợp dân tộc để thể hiện ḷng nhân đạo truyền thống của dân tộc ta, v́ vậy sẽ không có việc trả thù những người v́ chưa hiểu,v́ thiếu thông tin mà đă hiểu sai lạc về Mặt trận và quân đội của chúng ta. Chúng ta sẽ giang rộng cánh tay ra đón chào những ai quay về với Mặt trận, với nhân dân. Chúng ta chỉ đánh kẻ chạy đi chứ không bao giờ đánh kẻ chạy lại.

    Anh Sáu Dân Vơ Văn Kiệt c̣n nói nhiều lắm. Nhưng, điều làm cho tôi tở mở trong ḷng hơn cả là những lời ông đă nói như trên. Tôi được người của Mặt trận tuyên truyền móc nối để tham gia đấu tranh giải phóng cũng chỉ v́ mục đích như anh Sáu Dân Vơ Văn Kiệt đă nói chứ… chứ tôi đâu có ngờ rằng lời tuyên tuyền của chính quyền Thiệu-Kỳ- Khiêm đă chứng minh sự tiên đoán của họ là hoàn toàn đúng sau này về những hành động dă man, về những việc làm tồi tệ, về những lời nói xảo trá không bao giờ đi đôi với việc làm của người cộng sản.Tôi không bao giờ quên được cái cảm giác bàng hoàng thất vọng tột cùng khi trong một buổi họp của những người lănh đạo đảng cộng sản miền Bắc, trong đó có sự tham dự của anh Sáu Dân Vơ Văn Kiệt khi bàn về số phận của những người thua trận của miền Nam, th́, chính tên Lê Duẩn, rồi Trường Chinh, rồi Phạm Văn Đồng đều biểu quyết là phải giết hết những người có trọng trách lănh đạo và những người chỉ huy suốt cuộc chiến. Anh Sáu Dân Vơ Văn Kiệt lên tiếng nói về một kế hoạch mà chỉ những kẻ không có trái tim của con người mới có thể thốt ra những lời tàn bạo như vậy. Sáu Dân Vơ Văn Kiệt dơng dạc nói:

    – Tại sao chúng ta phải tốn đạn để giết đi một lực lượng lao động lớn lao đó làm ǵ để phải bị mang tiếng với thế giới. Sao chúng ta không nhốt bọn chúng lại cho đến chết và bắt bọn chúng lao động cực lực ngày đêm để tạo ra của cải cho chúng ta dùng, và, chúng ta sẽ chỉ cho bọn chúng ăn uống cầm chừng thôi. Chúng ta bắt bọn chúng lao động thật nhiều và thật nặng th́ từ từ bọn chúng sẽ kiệt sức và rồi sẽ biến mất hết trên mảnh đất này mà chúng ta không tốn một viên đạn nào và cũng không bị mang tiếng ác với thế giới là đă có một cuộc tắm máu xảy ra.


    Có lẽ v́ thấy “sáng kiến” của anh Sáu Dân Vơ Văn Kiệt sáng suốt quá nên sẽ được chấp thuận, v́ vậy, Nguyễn Hộ liền đứng lên tuyên bố như để tiếp lời anh Sáu Dân:

    – Chúng ta đă giải phóng hoàn toàn miền Nam rồi th́ vợ của bọn chúng, chúng ta lấy. Nhà cửa của bọn chúng, chúng ta ở. Con của bọn chúng, chúng ta bắt làm nô lệ. Chúng ta sẽ tạo cho bọn người miền Nam, gái th́ làm đĩ, trai th́ đi khai mương khai rạch khai phá những khu đất những khu rừng hoang và các băi ḿn…

    Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi từ đường dẫn

    – Bà… người ông yêu bây giờ ở đâu và làm ǵ mà lại xuất hiện trên internet? Tôi có thể giúp ông việc ǵ không?

    – Cám ơn chú em nhiều lắm, nhưng tôi không cần chú em giúp tôi việc ǵ cả. Những việc tôi đă gây ra th́ tôi vui vẻ đón nhận nó v́ đó là lẽ công bằng của trời đất, là lẽ công bằng của Thượng Đế và, nếu Thượng Đế thấy sự trừng phạt của Ngài trong mấy chục năm qua là đă đủ th́, Ngài sẽ cho tôi gặp lại cả hai hoặc, một trong hai người… bằng xương bằng thịt. Chú em hỏi người tôi yêu bây giờ ở đâu và làm ǵ à. Người tôi yêu bây giờ đang sinh sống trong một xứ sở văn minh nhất hành tinh này. Giàu nhất hành tinh này. Nhân đạo nhất hành tinh này. Và, người tôi yêu đang rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt khắp năm châu bốn biển. Người tôi yêu là nữ văn sĩ lừng danh tên Lữ Túy Phượng. H́nh của nàng mà tôi lấy từ trên mạng xuống tôi cũng có đem theo đây, để tôi đưa cho chú em xem nhé.

    Trong khi người đàn ông cân đo tội ác và thời gian của cộng sản quay người ra phía sau để lấy quyển tập, th́, tôi cũng như vừa bị trúng một cơn gió độc. Tôi cũng đang bàng hoàng xúc động mạnh. Đầu của tôi đang bị quay cuồng và hai con mắt của tôi bị hoa lên và rồi tôi cứ nh́n trừng trừng vào người trước mặt để tự hỏi, người mà tôi cho là lập dị v́ muốn cân đo tội ác và thời gian của cộng sản, là cha của tôi đây sao. Nh́n tấm h́nh mà ông đưa cho tôi xem th́ đúng đó là h́nh của mẹ tôi, và, như vậy ông đúng là cha của tôi rồi. Tôi ôm đầu khổ sở nh́n lên trời cao và than thầm. “Sao Thượng Đế lại nỡ thử thách con như thế này để làm ǵ. Con không đủ can đảm để gọi ông ấy tiếng cha. Con không đủ can đảm để ôm ông ấy. Con phải đối xử, phải hành động như thế nào đây hỡi ông trời trên cao kia. Sao ông nỡ để quê hương con cứ phải ch́m măi trong đau thương và thù hận. Sao ông nỡ gây ra chi những thảm cảnh đau thương như thảm cảnh ngày cha con gặp lại nhau mà con là con lại không đủ can đảm để nhận người đă tạo ra con”.

    Tôi nh́n ngay mặt người chưa có một ngày nuôi dưỡng tôi, chưa có một lần ẵm bồng tôi… với ḷng dạ thật xót xa đau đớn.

    Người muốn cân đo tội ác và thời gian của bọn cộng sản nh́n tôi ngạc nhiên với hai con mắt mở lên thật lớn. Chắc chắn ông quá bất ngờ khi nh́n thấy thái độ của tôi. Ông chưa kịp hỏi nhưng tôi đă đứng lên và quay lưng bước đi thẳng về khách sạn. Tôi thoáng nghe h́nh như ông nói hay hỏi câu ǵ nhưng nào tôi có c̣n nghe được ǵ nữa đâu.

    Tôi mặc kệ những người qua lại trên đường phố đang trố mắt nh́n tôi. Có nhiều, có rất nhiều cô gái đưa tay lên che miệng khi nh́n thấy tôi bước đi với khuôn mặt đầm đ́a nước mắt.
    *
    – Chuyện ǵ đă xảy ra với anh vậy?

    Người vợ yêu quư của tôi tṛn xoe đôi con mắt nh́n tôi hỏi, nhưng tôi không trả lời và vẫn để nguyên bộ quần áo đang mặc, tôi lao ḿnh nằm dài ra trên giường, mặt úp xuống gối và tiếp tục khóc. Một khoảng thời gian không lâu sau, một ư nghĩ thoáng qua và tôi liền ngồi lên cầm điện thoại phôn về cho mẹ tôi. Mẹ tôi không bắt máy. Tôi tắt điện thoại rồi quay qua người vợ yêu quư và kể lại cho nàng nghe từng chi tiết về câu chuyện đă làm cho tôi xúc động.

    Người vợ yêu quư của tôi đă khuyên nhủ tôi phải đến gặp cha tôi v́ nàng cho đây là định mệnh đă sắp đặt khiến cho tôi được gặp lại cha tôi. Nàng khuyên tôi là dù có như thế nào th́ tôi cũng không thể nhẫn tâm chối bỏ người đă tạo ra ḿnh v́ dù sao ông cũng đă quá hối hận, quá đau khổ về những ǵ ông đă làm trong quá khứ. Tối hôm đó mẹ tôi cũng khuyên tôi phải đến gặp cha tôi.

    Tội nghiệp người vợ yêu quư của tôi. Mặt trời chưa lên th́ nàng đă thức dậy trang điểm cho thật đẹp để đến ra mắt cha tôi. Sau đó nàng và tôi đến tiệm bán bông hoa, và, nàng mua một bó hoa thật lớn và thật đẹp rồi cùng tôi đi đến chỗ có người đàn ông ngồi cân đo tội ác và thời gian của cộng sản Việt Nam. Tôi bước những bước thật dài và thật nhanh về phía trước, trong khi người tôi yêu đang bước từng bước nặng nhọc theo sau.

    Cái cân cũ và cây thước cùng người đàn ông cân đo tội ác và thời gian của cộng sản Việt Nam không có mặt ở đây ngày hôm nay. Trong khi tôi đang nh́n quanh để t́m kiếm th́ chị bán nước ngọt và cà phê trên cái xe nhỏ đẩy tay lên tiếng hỏi:

    – Ông muốn t́m ǵ?
    – Tôi muốn t́m ông… thường ngày ngồi ở đây. Ông…
    – À, ông cân đo tội ác và thời gian của… ừ há, sao hôm nay không thấy ổng đến chứ từ nào đến giờ ổng luôn luôn có mặt rất đúng giờ. Không biết hôm nay có chuyện ǵ không vậy cà.

    Một người thanh niên vừa dựng chiếc xe gắn máy bên cạnh xe cà phê – Có lẽ anh ta chạy xe ôm – tôi nghĩ vậy. Anh cũng vừa nghe chị bán cà phê nói nên anh nh́n tôi và nói về một điều mà tôi rất lo sợ:

    – Xe cứu thương đưa ổng vào bệnh viện Sàig̣n hồi sáng sớm nay rồi. Có lẽ… kỳ này … không qua khỏi quá. Ăn ít quá th́ sức đâu mà chống lại bệnh tật chứ.

    Tôi hoảng hốt hỏi:

    – Bệnh viện Sàig̣n ở đâu vậy anh?

    Chỉ tay về phía xa anh nói:

    – Phía đó đó. Anh cứ đi thẳng hướng này là gặp liền à. Gần cuối đường chỗ có cái bùng binh lớn mà phía bên kia là chợ Sàig̣n đó.
    *
    Tôi đặt bó hoa lên xác của người đàn ông cân đo tội ác và thời gian của cộng sản Việt Nam và, cũng là cha ruột của tôi. Cả hai đứa chúng tôi cùng đứng trước cái xác mà khóc và khóc thật nhiều. Tôi hối hận và đau đớn quá. Ngực tôi cứ đau quặn lên từng cơn và luôn có câu hỏi trong đầu là v́ sao hôm qua tôi lại nhẫn tâm bỏ đi không một lời nói nào với cha. V́ sao hôm qua tôi lại không có can đảm để ôm ông và kêu lên tiếng cha thân yêu. V́ sao… Nếu biết trước sự thể như thế này th́…Tôi cũng là tên đàn ông thật tệ hại. Tôi là đứa con bất hiếu v́ dù sao ông cũng là cha của tôi dù ông chưa có một ngày nuôi dưỡng. Tôi bỗng chợt nhớ đến lời mẹ tôi từng dạy dỗ tôi lúc đến Mỹ là:
    “Con luôn phải thương yêu mọi người như thương chính bản thân ḿnh bởi, chúng ta khác người cộng sản ở chỗ trái tim của chúng ta là trái tim của con người”.

    Tôi cúi xuống hôn lên trán và lên má cha tôi. Người vợ yêu quư của tôi cũng làm theo không một chút đắn đo suy nghĩ. Tôi th́ thầm bên tai cha lời từ giă. Tôi hứa với cha là, khi về đến Mỹ tôi cũng sẽ đặt một cái cân và cây thước trước cửa nhà. Tôi sẽ tiếp nối công việc của cha. Tôi cũng sẽ là người cân đo tội ác và thời gian của cộng sản Việt Nam./.

    ToPa ( Ḥa-Lan )
    Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi từ đường dẫn

    https://vantuyen.net/2016/07/27/topa...-va-thoi-gian/

  6. #606
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Hai H́nh Ảnh, Hai Chế Độ

    http://nhinrabonphuong.blogspot.com/...hai-che-o.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...hai-che-o.html

    Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018
    Hai H́nh Ảnh, Hai Chế Độ


    Nội các nghiêm trang Các dân biểu Quốc Hội nước
    CHXHCN/VN đang chăm lo việc Nước trong giấc mơ !


    Dontre Défi contre Thiêu-Ky à Saigon -
    Công khai thách đố! Công an Việt Cộng bịt miệng!<!>


    Tự do biểu t́nh Đàn áp biểu t́nh !


    Giương biểu ngữ Hạ biểu ngữ !

    https://i.postimg.cc/TYCcJYG9/mail-4.jpg
    Dân cử dân bầu hay Đảng cử Dân bầu ?


    Tờ báo của những người “xâm ḿnh” hay cơ quan trung ương của đảng… ta ?

    https://i.postimg.cc/YCTYdvP1/mail-6.jpg
    Cô giáo thanh lịch dịu hiền Cô giáo ngày nay tay sắt!

    https://i.postimg.cc/KYLLwZXC/mail-7.jpg
    Sân học đường hiền ḥa ! Nay… sàn đấu vơ tự do !

    https://i.postimg.cc/ydH9zwsx/mail-8.jpg
    Tuổi xanh sinh hoạt lành mạnh ! Nay, y như “phim” xă hội đen!


    Gái Việt thùy mị duyên dáng đoan trang Hiện tại, nóng bỏng hở hang !


    https://i.postimg.cc/NGbXWJVG/mail-10.jpg
    Gái Việt ngày vu quy —> ngóng chờ… Đại Hàn chọn lấy !

    https://i.postimg.cc/fRS0Swbk/mail-11.jpg
    Khô sạch —> … ướt dơ !

    --------[/]
    Tổ quốc danh dự trách nhiệm! Ngu dại! Chỉ biết c̣n đảng c̣n ḿnh.

    Văn Hoá Áo Dài VN XHCN
    https://i.postimg.cc/B6YRw88B/mail.png
    https://i.postimg.cc/Z5mZNd6W/mail-1.png
    https://i.postimg.cc/Jh4L6C6m/mail-2.png

    Không Ngu Không Phải Việt Cộng!


    Đảng Giàu Dân Khổ!

    https://i.postimg.cc/vZYkMLWt/mail-14.jpg
    Chỉ có ở Việt Nam..Quan chức lớn chết cũng lựa chỗ đẹp để an cư..trong khi dân nghèo bệnh cũng phải ngồi ngủ ngay trong bệnh viện. Sống chết mặc bây….
    Sợ Gì Chớ!
    [url]https://i.postimg.cc/XqK16pqP/mail-3.png[url]
    "Chơi Nổi" Và Hiện Thực Đời Sống VN..!!!

    VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TA ĐÓ..?

    https://i.postimg.cc/v85NVShv/mail-15.jpg
    Bánh tét dài nhất

    https://i.postimg.cc/wMzF2g2Q/mail-16.jpg
    Bánh chưng, bánh dày lớn nhất

    https://i.postimg.cc/Kj5fswsS/mail-17.jpg
    Mâm ngũ quả lớn nhất

    ... những mảnh đời cơ cực NHẤT


    https://i.postimg.cc/PfFP12qP/mail-18.jpg
    Những bữa cơm không bát đũa

    https://i.postimg.cc/X7GXLdZx/mail-19.jpg
    Đói rét chờ lũ rút

    https://i.postimg.cc/XXSWQZhD/mail-20.jpg
    Tuổi già bươi chải kiếm ăn

    https://i.postimg.cc/s2vVfRpm/mail-21.jpg
    Những đứa trẻ màn trời chiếu đất

    https://i.postimg.cc/9MCJtcJt/mail-22.jpg
    Những chỗ trú không thể gọi là nhà

    Ở VN Ngày Nay
    https://i.postimg.cc/rsCdGLZW/mail-23.jpg

    Đâu Là Chó, Đâu Là Người?


    Cống Thoát Nước Việt Nam Có Một Không Hai!


    Cuộc Thi Ngủ Của Các Lănh Đạo
    https://i.postimg.cc/QMQrdxFp/mail-4.png
    https://i.postimg.cc/fyL4CcBK/mail-5.png
    https://i.postimg.cc/x8Fw4XZS/mail-6.png
    https://i.postimg.cc/J76CnFzd/mail-7.png

    "Pḥng Chờ Mổ" Lộ Thiên, Chỉ Có Tại Thiên Đường XHCN VN

    Buồn Quá Ai Ơi!
    https://i.postimg.cc/3J4VwJ6d/mail-27.jpg
    https://i.postimg.cc/ZqZMjPqd/mail-28.jpg
    https://i.postimg.cc/vmHpbLdd/mail-29.jpg

    Lượm trên mạng

  7. #607
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    HỒI KƯ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI (1/2)

    http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/...oi-ha-noi.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...ha-noi-12.html

    SUNDAY, JUNE 23, 2013
    HỒI KƯ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI


    Đă quá nửa đêm về sáng. Nh́n Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nh́n b́nh minh bừng sáng Phương Đông, được nh́n Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nh́n chồng.
    Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng ḍng lệ, xúc động, bùi ngùi.
    Tôi đang sống và đang viết Bài T́nh Ca của Một Người Tị Nạn.

    Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người t́m tự do và tượng thần tự do” đă được b́nh chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.

    tự do

    Ông Ḥa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Ḥa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.

    Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Ḥa, hỏi tôi, “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à...?”
    Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, ...nữa là bác!”
    Thực ra tôi đă không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi t́m Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
    Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đă gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người v́ ṭ ṃ, có người giễu cợt . Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
    Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những gịng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.
    Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đă không biết được những ǵ xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
    Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đă “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. V́ chưa trưởng thành, tôi đă không hiểu thế nào là ...Vẹm!
    Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải pḥng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.
    Trước Nhà Hát Lớn, vali, ḥm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất. Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
    Gia đ́nh lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hăng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
    Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải pḥng ùn ùn với hành lư để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn ...
    Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nh́n tôi, “Đề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!” Tôi bàng hoàng v́ thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: đấu tranh, cảnh giác, căm thù và ... tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép).
    Hà Nội im ĺm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “B́nh Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”. Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, v́ “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hăn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng v́ “cả nước” không có xà pḥng.
    Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi t́m thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đă đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!” Họ truy lùng... đốt sách! Tôi đă phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quư, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là ... “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê b́nh, kiểm thảo...cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học. Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
    Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày v́ “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Đây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, ...đi tù!
    Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, c̣n được gọi là “sau ḥa b́nh lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng vơ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang v́ những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.
    Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nḥa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội. Đoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Đại Đồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ. Danh ca Minh Đỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm ǵ, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai c̣n dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.
    “Chỉ thị Đảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng răi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đ̣n gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”. Lư do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an ŕnh ṃ, “theo dơi”, “nắm vững t́nh h́nh” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.
    Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ th́ con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
    Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”! Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đă nhẩy lầu, tự tử.
    “Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng c̣n bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển h́nh”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, c̣n th́ “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” v́ “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
    Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc ḷng “từng điểm”: tội ác địa chủ th́ phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển h́nh” th́ mang thai nhi cho vào cối giă, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu ...! Một vài vụ, do “Đảng lănh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ . Cảnh tượng này thật năo nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Đảng, hiếu với dân ...” là vậy!
    “Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ th́ phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
    “Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xă hội chủ nghĩa là... nói dối! Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những ǵ Đảng nói. Nói dối để sống c̣n, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, v́ được “rèn luyện” trong xă hội ngục tù, lấy “công an” làm “ṇng cốt” chế độ.

    Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you”. Ở miền Bắc, thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “công tác” thế nào? Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “...rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng... các nước anh em!”
    Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên pḥng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đ̣ về Đồng Hới. Trải 9 trại giam nữa th́ về tới Hỏa Ḷ Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có ǵ tươi đẹp, xă hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.
    Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”! Đối xử lọc lừa, gia đ́nh, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”. Hà Nội đă mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy xụp tinh thần v́ danh từ “đồng chí”!
    Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “t́nh h́nh”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
    Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đ̣i tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đă dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nh́n bằng nửa con mắt!”
    Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
    Phố Hàng Đào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây th́ phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Đảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Đào “bất măn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
    Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Đoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang v́ “lăng mạn tiểu tư sản”. Không hành lư nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ v́ “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về...! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, th́ tiêu tan giấc mơ T́nh nghệ sĩ!
    Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “t́nh nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ c̣n người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những ǵ Đảng ... nói dối!
    Tôi may mắn sống sót, dù mang lư lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn v́ “tŕnh báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đă quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải pḥng, vùng biển.
    Hải pḥng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
    Năm 1980, tôi vào Sài G̣n, thành phố đă mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn c̣n dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài g̣n cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đă đổi thay sau 1954 v́ “cán ngố” cai trị.
    Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài G̣n, t́m manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Ḥa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Đường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nh́n “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”
    “Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ...!. Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”
    Về lại Hải Pḥng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saig̣n, tôi đă t́m ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Đă đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi....”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
    Năm bốn mươi tư tuổi, tôi t́m được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn c̣n pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.
    Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đă đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đă lang thang “đầu đường xó chợ” th́ mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lư lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”. Tôi mang nhẫn nhục, “kiên tŕ” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
    Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, th́ xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đă cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xă hội”, c̣n đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
    Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến ḥa b́nh”. Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.

    Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ ...!

    Hoàng Oanh - Về Đây Anh (Nguyễn Hiền & Nhật Bằng) PBN 74
    https://www.youtube.com/watch?v=aEEmndP689M
    tudo NGUYỄN VĂN LUẬN
    Posted by Thoi Chinh Chien at 10:05 PM

  8. #608
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    HỒI KƯ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI (2/2)

    http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/...oi-ha-noi.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...ha-noi-22.html

    SUNDAY, JUNE 23, 2013
    HỒI KƯ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI


    Bản T́nh Ca Của Một Người Tị Nạn
    tự truyện t́m Tự Do của tác giả Nguyễn Văn Luận
    *
    Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do.
    Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đă nh́n thấy cầu Hiền Lương v́ bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc:

    "...sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường...
    hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!"


    Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nh́n cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần gian.
    Mười chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đă mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng v́ chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời ḿnh.


    Bạo quyền cộng sản Việt Nam bắn giết hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người bị tập trung lên rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ c̣n tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!"

    Hai mươi lăm năm sau (1981) tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng sản.

    Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "Anh có biết nói tiếng Pháp?". Tôi nh́n ông, giọng run run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc).
    Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu ḷng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
    *
    Đứng bên rào kẽm gai, sau dăy nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một ḿnh, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, t́m quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không c̣n cộng sản.
    Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt th́ trượt chân trên sân trại. Tôi đă kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngă th́ người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nh́n tôi.
    Tiếng trẻ thơ kêu "Má", tôi nh́n nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân t́nh của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đă cùng Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.
    Chồng Mai là người lính Cộng Ḥa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn v́ cháo loăng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm.
    Một đêm mưa băo, Mai bị tên Việt cộng trưởng công an xă cưỡng hiếp, du kích xă canh gác quanh nhà. Mai phải sống v́ con mới lên ba, mất cha c̣n mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đă mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba"!
    Tôi mang nặng tủi nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi t́m tự do. Mai gánh những thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ văng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt gánh đoạn trường, đi Mỹ.
    Con đă có Má, có Ba. Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn.
    Tôi nh́n con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho con h́nh người lính Cộng Ḥa, ở bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!".

    Mai đă nhất định không đi kinh tế mới. Tôi đă trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù bỏ lại quê hương nhưng c̣n Tổ quốc Việt Nam.
    Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm, người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng sản.


    Quê hương mới của chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment hai pḥng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đă cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ.
    Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, v́ đă thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn c̣n giai cấp.
    Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, th́ mới thành "người vô sản chân chính"!

    Nh́n con ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà th́ thầm những dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho ḿnh đi học tiếng Anh.
    Đọc ḍng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ
    "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn định cư", theo ư Mai, ư nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ,
    "ḿnh trả ngay từ tháng thứ hai".
    Việc đơn giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đ̣i riêng.
    Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ th́ ḿnh trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung.
    Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo ḷng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để ḷng vẩn đục sẽ trở thành bất lương.
    Cha mẹ bất lương con cái sẽ chẳng nên người .

    Một sáng mùa Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đă nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những ǵ muốn nói.
    Bà Jenny hiểu chút ít về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà c̣n dạy học. Bà đă thấy "Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy một gia đ́nh người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà có cảm t́nh.
    Đây là ứng nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn cho gia đ́nh tôi? Nói thế nào th́ cũng đúng v́ vài nơi trên đất Mỹ vẫn c̣n kỳ thị chủng tộc.
    Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu quan trọng:
    "bé Nam" đi học, chúng tôi xin được việc làm.
    Bà Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen "Cháu cute." Vợ chồng nh́n nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển.

    "Từ nay chúng ḿnh có Má, bé Nam có Bà...!"

    Mai thốt lên khi chúng tôi đồng ḷng nhận "Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước.
    Sống một ḿnh trong căn nhà rộng răi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn turkey.
    Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu v́ vốn tiếng Anh ít ỏi.
    Bỗng bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy th́ Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!".
    Nghe tiếng "Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát.

    Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm:
    Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục.
    Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ư muốn nhận gia đ́nh tôi làm Con, làm Cháu.
    Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đ́nh người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm t́nh người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
    Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm hăng bóp" v́ "giỏi việc, lại biết tiếng Anh," nhiệt t́nh giúp đỡ bà con.
    Cũng như Má Jen, Mai không thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đă thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào băo lụt miền Trung, miền Bắc, v́ lương tâm, đạo lư. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao giờ được măn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai ḷng độ lượng.

    Tôi làm technician, ngành điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy công nông lănh đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm trong ngành điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng!

    Bây giờ, ngồi trước máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng email, việc hăng, việc nhà, công tư ḥa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đă có cuộc sống an ḥa, hạnh phúc, một gia đ́nh thật sự yêu thương.

    "Ngày mai, chúng ḿnh đi New York thăm con".

    Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
    Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn pḥng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc trời" New York.

    Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của Ba, của Gia Đ́nh tị nạn, mong ước từng ngày cho Con thành Người.*

    Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không ngủ để nh́n lại đời ḿnh. Tháng chín, trời sang Thu se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đă sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương lai.

    Người cộng sản muốn làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài phần th́ sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn. Hung thần đă chết.

    Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục:
    người lính Cộng Ḥa, giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia . Việt Nam, từ tinh thần đến lănh thổ.
    Người lính chiến Cộng Ḥa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đă không có niềm tin để sống sót, đă thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô tội.
    Người lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nh́n mắt con thơ thấy h́nh người lính chiến.

    Anh đă để lại Con Thơ cho tôi được làm "Ba" mang tṛn trách nhiệm. Con đă trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa.

    Đă quá nửa đêm về sáng. Nh́n Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nh́n b́nh minh bừng sáng Phương Đông, được nh́n Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nh́n chồng.
    Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng ḍng lệ, xúc động, bùi ngùi.
    Tôi đang sống và đang viết Bài T́nh Ca của Một Người Tị Nạn.

    Hoàng Oanh - Về Đây Anh (Nguyễn Hiền & Nhật Bằng) PBN 74

    tudo NGUYỄN VĂN LUẬN
    Posted by Thoi Chinh Chien at 10:05 PM

  9. #609
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Khi tôi chết (1/2)

    http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/...i-ra-bien.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...atdoisong.html

    WEDNESDAY, MAY 23, 2012
    Khi tôi chết hăy đem tôi ra biểnđừng đem tôi ra biển

    Hai bài thơ dưới đây : Khi tôi chết hăy đem và đừng đem tôi ra biễn" làm nhớ lại những đề tài Khi Tôi Chết xin Phủ Kỳ và Xin Đừng Phủ Kỳ gần đây được phổ biến trên internet. nhất là đem những lời trối trăn của Cố Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng thật vô căn cứ và dữ kiện không thành lập.


    Nghĩa Tử Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng


    khi tôi chết hăy đem tôi ra biển
    đời lưu vong không cả một ngôi mồ
    vùi đất lạ thịt xương e khó ră
    hồn không đi, sao trở lại quê nhà
    khi tôi chết hăy đem tôi ra biển
    nước ngược ḍng sẽ đẩy xác trôi đi
    bên kia biển là quê hương tôi đó
    rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh ŕ
    khi tôi chết hăy đem tôi ra biển
    và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
    cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
    biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi
    khi tôi chết hăy đem tôi ra biển
    đừng ngập ngừng v́ ái ngại cho tôi
    những năm trước bao người ngon miệng cá
    th́ sá ǵ thêm một xác cong queo
    khi tôi chết hăy đem tôi ra biển
    cho tôi về gặp lại các con tôi
    cho tôi về nh́n thấy lệ chúng rơi
    từ những mắt đă buồn hơn bóng tối
    khi tôi chết hăy đem tôi ra biển
    và trên đường hăy nhớ hát quốc ca
    ôi lâu quá không c̣n ai hát nữa
    (bài hát giờ cũng như một hồn ma)
    khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
    đời lưu vong tận huyệt với linh hồn.

    Du Tử Lê


    Các bạn thân mến,
    Dưới đây là một bài thơ của Cựu Trung Tá QLVNCH Nguyễn văn Phán với tựa đề "Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển" để hoạ lại bài thơ của Du Tử Lê mà chúng ta đă biết từ những năm qua: "Khi tôi chết hăy đem tôi ra biển" mà khi đọc xong tôi cảm thấy thật xúc động vô cùng về sự hào hùng của các cựu Quân nhân QLVNCH.


    Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
    Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
    Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
    Ôi ! Lính chiến một thời kiêu hănh quá.
    Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
    Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
    Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
    Nguyện trấn giữ dăy Trường Sơn yêu quư.
    Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
    Đưa tôi về B́nh Giả, Chiến Khu Đ
    Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
    Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.
    Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
    Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
    Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
    Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.
    Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
    Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
    Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
    Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

    Nguyễn Văn Phán



    Tôi đă thấy những ngôi mộ phủ lá cờ vàng,
    Trong nghĩa trang c̣n tươi màu đất mới,
    Quê hương Việt Nam một thời lửa khói,
    Người lính quên ḿnh v́ lư tưởng tự do.
    Các anh hiên ngang chết dưới màu cờ,
    Bỏ lại vợ hiền, đàn con thơ dại,
    Những vành khăn tang bàng hoàng chít vội,
    Nước mắt nào cho đủ tiễn đưa anh?
    Có thể anh là người lính độc thân,
    Chưa có người yêu, lên đường nhập ngũ,
    Ngày mẹ ǵa nhận tin anh báo tử,
    Tuổi đời ǵa thêm v́ nỗi đớn đau.
    Có thể anh vừa mới có người yêu,
    Hẹn cưới nhau khi tàn mùa chinh chiến,
    Tiền đồn xa chưa một lần về phép,
    Anh đă ra đi măi măi không về.
    Súng đạn vô t́nh làm lỡ hẹn thề,
    Người yêu anh đă có t́nh yêu mới,
    Khi trên mộ anh chưa tàn hương khói,
    Trách làm ǵ!. Thời con gái qua mau.
    Hỡi người tử sĩ dưới nấm mồ sâu,
    Tiếc thương anh lá cờ vàng ấp ủ,
    Nghĩa trang quân đội những ngày nắng gío,
    Ṿng hoa tang héo úa chết theo người.
    Những ngôi mộ phủ lá cờ vàng. Xa rồi,
    Xác thân anh đă tan vào cát bụi,
    Nhưng lịch sử vẫn c̣n ghi nhớ măi,
    Miền Nam Việt Nam cuộc chiến đấu hào hùng.

    Nguyễn Thị Thanh Dương
    ( Jan.19-2010)


    Posted by Thoi Chinh Chien at 3:07 PM

  10. #610
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Thi cử ngày xưa
    Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2017/...-ngay-xua.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/06...ng-5-2017.html

    Thi cử ngày xưa
    Ngày xưa, "lều” và “chơng" là một hiện tượng đặc thù của nền “văn hóa thi cử” Việt Nam. Đây cũng là tựa đề của cuốn truyện “Lều Chơng” mà Ngô Tất Tố đă giới thiệu trên báo “Thời Vụ”, số 109 ra ngày 10/3/1939, với những nhận xét có phần cay đắng về giới “lều chơng”:

    "Lều" "Chơng" đă làm chủ vận mệnh của giang sơn cũ kỹ mà người ta tán khoe là "bốn ngh́n năm văn hiến". Những ông ngồi trong miếu đường làm rường cột cho nhà nước, những ông ở nơi tuyền thạch, làm khuôn mẫu cho đạo đức phong hóa, đều ở trong đám "lều chơng" mà ra.

    “Lều chơng với nước Việt Nam chẳng khác một đôi tạo vật đă chế tạo đủ các hạng người hữu dụng hay vô dụng. Chính nó đă làm cho nước Việt Nam trở nên một nước có văn hóa. Rồi lại chúng nó đă đưa nước Việt Nam đến chỗ diệt vong. Với chúng, nước Việt Nam trong một thời kỳ rất dài kinh qua nhiều cảnh tượng kỳ quái, khiến cho người ta phải cười, phải khóc, phải rụng rời hồn vía…”



    Trường thi theo phong cách xưa

    Dưới triều nhà Lư và nhà Trần, cả ba tôn giáo - Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo - đều được coi trọng và đối xử một cách công bằng. Triều đ́nh nhà Lư đă mở các khoa thi “Tam trường” để lấy người bổ làm quan. Sang đời Hậu Lê th́ Nho học độc tôn. Triều nhà Lê c̣n mở khoa thi kinh điển dành riêng cho các nhà tu hành một cách hạn chế.


    Một khoa thi tại Nam Định: có hơn 10.000 sĩ tử nhưng chỉ chọn được 60 người

    Đến thời vua Minh Mệnh, Nho học suy vi. Khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương qua thời kỳ Thuộc địa của người Pháp, t́nh trạng xă hội biến thiên nhanh chóng, Nho học phải nhường chỗ cho các học thuật mới. Việt Nam sau khi trở thành thuộc địa th́ bỏ khoa cử mà theo Pháp học, riêng ở miền Bắc vào năm 1915 và miền Trung, năm 1918, việc thi cử theo lối cũ mới kết thúc.

    Các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lư Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định. Trong 845 năm đó, đă có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên, trong các đời Lư, Trần, Hồ có một đặc điểm chung là các khoa thi đều do triều đ́nh đứng ra tổ chức. Hệ thống thi cử tuyển người làm quan này gọi là khoa cử.


    Giám khảo trong kỳ thi

    Theo học giả Đào Duy Anh, năm 1397, triều nhà Trần, Hồ Quư Ly lại bắt đầu định phép thi Hương. Những người trúng tuyển cử nhân trong kỳ thi Hương mới được dự thi Hội tổ chức vào năm sau. Ai đỗ thi Hội th́ thi một bài văn sách nữa để định cao thấp, được gọi là thi Đ́nh.

    Nhà Hậu Lê, vua Lê Thái Tổ đánh thắng nhà Minh, vẫn chưa định phép thi Hương, thi Hội, đến đời vua Lê Thái Tông mới hạ chiếu thi khảo trong nước. Kỳ thi này lấy hơn ngàn người trúng tuyển, chia làm ba hạng: hạng nhất và nh́ bổ vào Quốc tử giám c̣n hạng ba vào trường ở các đạo để học tập, họ được miễn lao dịch.


    Công bố kết quả sau kỳ thi

    Thi Hội là khoa thi 3 năm một lần ở cấp trung ương do bộ Lễ tổ chức. Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tư, Ngọ, Măo, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Th́n, Tuất. Khoa thi này được gọi là "Hội thi cử nhân" hoặc "Hội thi cống sĩ" (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đă đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.

    Trước năm 1442, thí sinh đỗ cả 4 kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị ǵ. Nếu không tiếp tục thi Đ́nh th́ vẫn chỉ có học vị hương cống hoặc cử nhân. Chỉ sau khi thi Đ́nh, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận là có học vị các loại tiến sĩ.

    Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh - tên dân gian là ông Nghè). Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên.Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng (ông Phó Bảng hay Ất tiến sĩ). Khoa thi Hội đầu tiên năm 1397 đời Trần Thuận Tông, khoa thi Hội cuối cùng tổ chức năm 1919 thời vua Khải Định, đánh dấu sự chấm dứt của khoa bảng phong kiến Việt Nam.


    Chủ khảo hội đồng thi

    Kỳ thi cao nhất là thi Đ́nh tổ chức tại sân đ́nh nhà vua. Nơi thi là một cái nghè lớn, nên sau này người ta thường gọi các vị vào thi là các “Ông Nghè”. Nhà vua trực tiếp ra đầu đề, và sau khi hội đồng giám khảo hoàn thành việc chấm bài, cân nhắc điểm sổ, chính nhà vua tự tay phê lấy đỗ. Người đỗ đầu gọi là Đ́nh Nguyên.

    Đôi khi lúc chấm bài, chủ khảo (trong đó có cả vua) thấy người thủ khoa không đạt được điểm số tối thiểu để gọi là Trạng. Những khoa này sẽ không có trạng nguyên - thủ khoa giữ cấp Đ́nh nguyên (như trường hợp Lê Quư Đôn đỗ cao nhất nhưng chỉ được cấp vị Đ́nh nguyên Bảng nhăn). Theo lệ cũ, người nào đă thi Hội đỗ vào thi Đ́nh đều không bị đánh hỏng,. Riêng chỉ có khoa thi năm 1496, vua Lê Thánh Tông thân hành xem xét và đă đánh hỏng 11 người.

    Thời nhà Nguyễn, thi Đ́nh chỉ đối sách một bài rất dài. Quan trường hội đồng xét văn rồi đứng lên Ngự lăm, điểm cao lấy vào hạng Tiến sĩ, điểm thấp th́ vào hạng Phó bảng. Vào năm 1828 vua Minh Mạng chỉnh đốn lại khoa cử và bỏ Đệ nhất giáp. Học vị trạng nguyên, bảng nhăn không c̣n trên khoa bảng từ đó.


    Tân khoa ra mắt chức sắc vào thời Pháp thuộc

    Lê Quư Đôn khi b́nh về việc thi cử đời nhà Hậu Lê cho rằng: “Quốc giao khôi phục sau khi nhiễu nhương th́ nhà Nho vắng vẻ, đến đời Hồng Đức mở rộng khoa mục th́ kẻ sĩ xô về hư văn, đời Đoan Khánh trở đi th́ sĩ tập suy bại quá lắm”.

    Vua Minh Mệnh triều Nguyễn cũng đă phê phán : “Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những người làm văn cử nghiệp th́ câu nệ hủ sáo, khoe khoang lẫn nhau, biệt mối nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Học như thế th́ trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi”.

    Pham Kế Bính đưa ra nhận xét: “Xưa nay lối khoa cử của ta là một con đường rộng răi phẳng phiu cho bọn sĩ phu. Sĩ phu có do con đường ấy xuất thân mới là chinh đồ, mà sự vinh hạnh về sau cũng bởi đó mà ra cả. Bởi vậy nhân tâm nước ḿnh say mê bia đá bảng vàng, cố sức dùi mài truyện hiền, kinh thánh, có người đầu bạc mà vẫn chịu khó đeo bộ lều chiếu để đua ganh với bọn thiếu niên. Mà rút lại th́ có ǵ đâu, học cũng chẳng qua là học văn chương, thi cũng chẳng qua là thi văn chương...”

    ***

    * H́nh ảnh sử dụng trong bài này có xuất xứ từ bài viết “L'enseignement en Indochine” trên trang web http://belleindochine.free.fr/
    ***
    Lều chơng - Full - Ngô Tất Tố
    https://gacsach.com/doc-sach-truc-tu...go-tat-to.html
    hay:
    https://www.sachhayonline.com/tua-sach/leu-chong
    Phim:
    http://www.video4viet.com/?cid=3895
    Lều chơng phim lịch sử Việt Nam 2010 tập 1 23

    Kho chứa sách cũ:
    http://ndclnh-mytho-usa.org/KhoChuaSachCu.htm
    http://ndclnh-mytho-usa.org/KhoSachC...-Viet-Nam_.pdf

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 5 users browsing this thread. (0 members and 5 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •