4* Những di sản của chiến dịch Babylift
4.1. Không có hồ sơ lư lịch cá nhân
Ngày 5-4-1976, tờ Time cho biết, nhiều trẻ em hoàn toàn không có hồ sơ về lư lịch cá nhân, đó là những con người không có họ và tên, không có giấy tờ chứng minh ngày và nơi sinh, quốc tịch…cho nên không thực hiện hồ sơ con nuôi.
Cục di trú và nhập tịch cho biết, có 1,671 em hợp lệ, và 353 không hợp lệ.
4.2. Bi kịch gia đ́nh
Nhiều trường hợp đau ḷng khó xử xảy ra.
- Bà Hà Thị Vơ
Người từng đưa 3 đứa con đi theo chương tŕnh Babylift, khi đến Mỹ, đưa đơn kiện, khi nhận ra đứa con út 3 tuổi tại một gia đ́nh nhận con nuôi, bà đ̣i con lại. Cậu bé không nhận bà, khiến cho nhà chức trách bác bỏ yêu cầu của bà.
- Bà Doăn Thị Hoàng An
Bà An ở bang Montana, nhận ḿnh là mẹ ruột của cậu bé Ben, 4 tuổi, được vợ chồng Johnny và Bonnie Nelson nhận làm con nuôi từ chương tŕnh Babylift.
Khi ra toà, cậu bé Ben không nhận bà Hoàng An, không có phản ứng trước những cử chỉ triều mến và thương yêu của bà Hoàng An, dù vậy, ṭa phán quyết cậu Ben thuộc về bà mẹ Việt Nam.
Thế là vợ chồng Nelson tiếp tục đưa đơn kiện lên toà thượng thẩm.
5* Trở về cố hương
5.1. Trẻ mồ côi trở về Việt Nam trong vai trung tá Mỹ
Cô Kimberly Mitchell có chuyến về Việt Nam trong vai một trung tá Mỹ.
Gần 40 năm sau khi được một trung sĩ Mỹ, thuộc KQ/HK và vợ ông, nhận làm con nuôi năm 1972, cô Mitchell được biết là một trẻ sơ sinh mang số 899, bị bỏ rơi tại cô nhi viện Thánh Tâm, Đà Nẵng.
Trung tá Mitchell hiện là Phó giám đốc văn pḥng Trợ giúp Quân nhân và Thân nhân tại Bộ QP/HK, cho biết: “Tôi muốn cố gắng nối kết lại với quá khứ c̣n chưa biết của ḿnh. Trung tá Mitchell đă thăm Sài G̣n và Đà Nẳng trong chuyến đi một tuần lễ về VN.
Chuyến thăm tại trại mồ côi Thánh Tâm, nay là một tu viện, được coi là phần xúc động nhất của chuyến đi. Tại tu viện, Mitchell gặp “Sơ” Mary, là người đă từng làm việc trong thời gian tiếp nhận em bé số 899 vào cô nhi viện. “Sơ Mary cho biết, cái tên mà họ đặt cho tôi là Trần Thị Ngọc Bích, nghĩa là viên ngọc quư. Đây là chuyến thăm của một đời người, nghĩa là một lần duy nhất. Tôi chắc chắn sẽ không chờ 40 năm nữa để quay trở lại”, Mitchell thuật lại.
5.2. Phim Ngựi con gái Đà Nẳng (The daughter from Da Nang)
Phim tài liệu The daughter from Da Nang được đề nghị lănh giải Oscar về loại phim tài liệu. Phim đă chiếm nhiều giải nhất trong các Đại Hội Điện Ảnh (Film Festival) Hoa Kỳ năm 2002: Sundane Film Festival, San Francisco International, Ojai Film Festival, Durango, Colorado, Texas, New Jersey International, Nashville, Cleveland.
Nội dung phim
Vào những ngày sau cùng của cuộc chiến VN, chính phủ Gerald Ford đă bỏ ra 2 triệu USD để mở chiến dịch Babylift. Gần 3,000 trẻ mồ côi từ VN sang Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc để làm con nuôi.
Cuộc di tản bắt đầu bằng một tai nạn kinh hồn làm chết hàng trăm trẻ em.
Cuốn phim xoay chung quanh cuộc đời của Heidi Bub và trong chuyến đi t́m mẹ ruột sau 22 năm.
Heidi Bub sinh năm 1968 tại Đà Nẵng, con của bà Mai Thị Kim và một quân nhân Hoa Kỳ.
Chồng bà Kim là Đỗ Hữu Vinh, từ năm 1964, đă bỏ vợ và 3 con ở lại Đà Nẳng, nhảy núi theo Việt Cộng chống Mỹ.
Bà Kim vào làm công nhân trong căn cứ Mỹ ở Đà Nẳng. Ở đó, bà đụng một ông lính Mỹ rồi sanh ra Mai Thị Hiệp (Heidi)
Khi VC đánh vào Đà Nẳng, v́ sợ con lai Mỹ bị VC khủng bố, nên bà đưa con vào Hội Cha Mẹ Nuôi lúc Heidi 6 tuổi.
Khi sang Mỹ, Mai Thị HIệp được bà Ann Neville, một phụ nữ độc thân, khoa trưởng ở một trường đại học, nhận làm con nuôi, tên là Heidi Bub.
Bà Ann Neville sinh sống ở bang Tennessee, thánh địa của kỳ thị chủng tộc Klu Klax Klan. Bà che dấu nguồn gốc và cố làm cho Heidi giống 101% như Mỹ để bảo vệ con.
Về vật chất, Heidi không thiếu thốn ǵ cả, nhưng t́nh cảm giữa hai mẹ con rất khô khan cằn cỗi, thiếu hẳn những bộc lộ t́nh thương mẹ con. Bà Ann quá nghiêm khắc. Cuối cùng, bà đuổi Heidi ra khỏi nhà mà không giải thích lư do.
Lúc 6 tuổi, Heidi tưởng rằng ḿnh không ngoan nên bị mẹ ruột từ bỏ. Lúc 22 tuổi, cô có mặc cảm, có lẻ ḿnh quá tệ hại nên đă bị mất mẹ hai lần.
Năm 22 tuổi, Heidi bắt đầu t́m mẹ ruột. Trong lúc đó, ở VN, bà Mai Thị Kim cũng ra sức t́m lại đứa con.
Năm 1991, mẹ con bắt liên lạc được, qua một nhân viên của sứ quán HK. Heidi bắt đầu học tiếng Việt.
Năm 1997, kư giả Trần Tương Như, người VN đầu tiên mà Heidi tiếp xúc tại Mỹ. Trần Tương Như giúp Heidi trong chuyến về VN gặp lại mẹ ruột.
Tại phi trường Đà Nẵng, Heidi gặp lại mẹ ruột và các anh chị cùng mẹ khác cha. Tiếp theo là những tổ chức, như những bữa cơm đại gia đ́nh, viếng thăm hàng xóm, đi chợ…
Chỉ vài ngày sau, Heidi cảm thấy khó chịu, bị sốc v́ khác biệt văn hoá. Biên giới riêng tư của ḿnh bị xâm phạm.
Bà Kim muốn ngủ chung giường với Heidi để tâm sự suốt đêm, không muốn rời con, nhưng đối với Heidi th́ đó là một cuộc tấn công, lấn át không gian cá nhân. Heidi không có th́ giờ để suy nghĩ về những sự việc quá mới, quá xa lạ đối với ḿnh.
Heidi thật sự bị sốc khi các anh chị cho rằng cô có bổn phận phải cung cấp tiền bạc và làm đơn bảo lănh cho gia đ́nh sang Mỹ.
Heidi nghĩ rằng cô bị bóc lột và bị lợi dụng, nên đă đổi vé máy bay về Mỹ sớm hơn lịch tŕnh ấn định.
Khi về đến Mỹ, cô nhận được thơ của các anh chị khác cha, chủ yếu vẫn là tiền bạc và bảo lănh. Cô cảm thấy không sốt sắng để trả lời những búc thơ đó.
6* Trí thức Việt kiều giữa hai lằn đạn
6.1. Quê hương là chùm khế ngọt
Người tỵ nạn Cộng Sản đă nhận đất nước đă mở rộng ṿng tay cứu giúp và cưu mang ḿnh là quê hương thứ hai. Quê hương nầy, cụ thể là Hoa Kỳ, đă trợ giúp tài chánh bước đầu để xây dựng cuộc sống mới. Con cái người tỵ nạn được có nền giáo dục rất tiến bộ, và nhất là đất nước nầy đă cho ngựi tỵ nạn một đời sống b́nh đẳng với người bản xứ, nhân quyền được tôn trọng.
Sống ở quê hương thứ hai, nhiều người cho đó là nơi tạm dung, nên không bao giờ quên quê hương mà ḿnh được sinh ra. Quả thật đó là chùm khế ngọt. Quê hương VN cụ thể là 84 triệu đồng bào của ḿnh trong nước.(Không kể 3 triệu đảng viên CSVN)
Có hai quan niệm và h́nh thức phục vụ quê hương. Đó là đấu tranh đ̣i tự do, dân chủ và nhân quyền cho đồng bào trong nước, và một h́nh thức khác là về nước, phục vụ đảng CSVN góp phần xây dựng quê hương.
6.2. Trí thức Việt kiều bị kẹt giữa hai lằn đạn
Ngày chạy trốn chế độ độc tài CS bằng di tản, vược biên, vượt biển, người tỵ nạn bị VC chửi tơi bời. Tôi xin trích nguyên văn lời của tác giả Tống Phước Hiến như sau:
Trích nguyên văn. “Cộng Sản xem những người vượt biên, vượt biển chạy trốn chúng là bọn phản quốc, phản động, là cặn bă, bọn ăn bám, vong bản, lười biếng…” (hết trích)
Thế rồi Nghị Quyết 36 của đảng CSVN ra đời. Người trí thức tỵ nạn được hoan nghênh khi trở về thành Việt Kiều Yêu Nước.
Những trí thức Việt Kiều Yêu Nước nầy lại bị một lằn đạn thứ hai, cũng không kém nặng nề như những lời chửi bới của Việt Cộng trước kia.
Phục vụ quê hương là không có điều kiện. Tổng thống Kennedy có nói một cây đại ư như sau, ta không nên đ̣i hỏi tổ quốc phải làm ǵ cho ta, mà tự hỏi, ta phải làm làm ǵ cho tổ quốc. Một vị trí thức về nước góp phần xây dựng quê hương, chưa làm được ǵ mà xin được mua nhà ở VN. Suốt mấy năm không được đáp ứng, bèn than phiền nầy nọ lung tung, khiến cho trí thức chân chính trong nước xem thường ra mặt.
6.3. Câu chuyện mất quyền tỵ nạn của một Việt kiều Pháp
Bài viết của kư giả Xuân Mai trên báo áp phê số 4 tại Paris như sau
“Ông Nguyễn Văn Tuyền, 59 tuổi đến định cư tại Pháp năm 1980. Với lá đơn thống thiết như sau: “Nếu tôi ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù không có ngày ra. V́ lư do nhân đạo, tôi trân trọng thỉnh cầu nước Pháp, vui ḷng chấp thuận cho tôi được tỵ nạn chính trị, sống tạm dung trên mảnh đất tự do nầy, và tôi chỉ trở về quê cũ khi nào quê hương tôi không c̣n chế độ độc tài Cộng Sản.”.
Nhưng ông Tuyền đă phản bội tư cách tỵ nạn của ông đến 7 lần từ năm 1995 đến năm 2000. (Theo tài liệu của OFPRA=Office Francais de Protection des Réfugiés et Aptride-Cơ quan Bảo vệ Người Tỵ nạn và Vô Tổ quốc
Ngày 27-6-2000, ông Tuyền và 544 Việt kiều Pháp bị OFPRA gởi thơ thông báo rút lại thẻ tỵ nạn, với lư do trở về quê cũ khi c̣n chế độ độc tài Cộng Sản.
“Chiếu theo điều 1, khoản 2A của Hiệp Định Genève ngày 28-7-1951, chúng tôi thu hồi thẻ tỵ nạn. Đồng thời cũng tŕnh lên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, kể từ nay, OFPRA không c̣n chịu trách nhiệm với ông, về t́nh trạng cư trú, xin việc làm, hưởng trợ cấp xă hội theo diện người tỵ nạn chính trị”.
Được biết, từ năm 1988 đến năm 2000, tổng số người Việt ở Pháp bị truất bỏ quyền tỵ nạn và quyền lợi, với con số là 22,417.
Bài viết ghi như sau: “Chính phủ Việt Cộng qua các đại sứ từ Vơ Văn Sung, Mai Văn Bộ, Trịnh Ngọc Thái đến Nguyễn Chiến Thắng đă coi người Việt Nam là thành phần cực kỳ phản động, cần phải triệt hạ, hoặc áp dụng chính sách gậy ông đập lưng ông. Đó là, dễ giải trong việc cấp chiếu khán cho họ, để họ bị OFPRA cắt quyền tỵ nạn và trợ cấp xă hội. Sau khi cấp chiếu khán, ṭa đại sứ thông báo danh sách cho Bộ Nội vụ Pháp biết tên họ của những người vi phạm luật tỵ nạn. Một khi mất thẻ tỵ nạn, th́ mất luôn thẻ thường trú (Carte de Séjour) nên không xin được việc làm. Trường hợp đó, muốn sống ở Pháp trên 3 năm, th́ phải có Passport của chính phủ CSVN, để trở thành công dân Việt Cộng cho đến măn kiếp.
Cái thâm độc của VC là như thế.
Việt Cộng nh́n con người ở bản chất. Một bản chất bị cho là “Phản động, phản quốc, cặn bă…”th́ khó gột rửa được. Nếu không có tiền gởi về hàng tỷ đô la mỗi năm, th́ cái bản chất đó vẫn tồn tại trong đầu óc của VC. Khúc ruột thừa ngàn dậm vẫn luôn luôn là như thế.
Có những câu hỏi cho “trí thức Việt Kiều Yêu nước”:
Quư vị về phục vụ quê hương với thân phận nào đây?
- Quư vị có được đối xử b́nh đẳng với người dân trong nước không? Tại sao, người dân được tự do mua nhà, c̣n quư vị th́ không.?
- Có ai được giữ chức quản lư, như trưởng toán, trưởng pḥng, trưởng ban hay giám đốc không? Quư vị chỉ là những người thừa hành dưới quyền sai bảo của cán bộ đảng viên Việt Cộng mà thôi.
- Quư vị có được tự do phát biểu ư kiến riêng của ḿnh không? Có được quyền binh vực cho công lư, công bằng, lẻ phải, sự thật hay không? Khi thấy những cảnh bất công, đàn áp đánh đập người yêu nước…quư vị có dám đứng về phía đồng bào của ḿnh không? Nếu không, th́ quư vị có thể bị xem như a ṭng với tội phạm.
- Về nước phục vụ quê hương mà không dám đứng về phía công lư, lẽ phải của đồng bào ḿnh, th́ lương tâm quư vị ra sao?
Hỏi, tức là trả lời vậy.
7* Kết
Ngày 30 tháng 4 mở ra một trang sử đau buồn của dân tộc. Trí thức Việt Kiều nên đồng tâm hiệp lực với trí thức chân chính trong nước, để đ̣i lại những quyền công dân và quyền con người mà dân tộc 84 triệu người Việt Nam xứng đáng được hưởng ở thế kỷ 21 nầy. Đó là cách phục vụ dân tộc đúng đắn.
Trí thức trong nước rất kiên cường, bất khuất, đă can đảm đ̣i tự do dân chủ cho đồng bào của ḿnh, th́ trí thức Việt Kiều không nên “Áo gấm về làng”, phát biểu linh tinh vô tổ chức để được nhận bằng khen hoặc xin được mua nhà…
Tấm gương của những trí thức chân chính trong nước như: Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân Diện, Lê Đăng Doanh, Trần Vũ Hải, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Tụy, Chu Hảo, Lê Hiếu Đằng trong việc đ̣i tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam, cần được nên theo.
Làm người, nhất là trí thức, thành phần ưu tú của dân tộc, phải nên có tư cách tối thiểu để có thể ngửa mặt nh́n thiên hạ, ở trong cũng như ở ngoài nước.
Trúc Giang
Minnesota ngày 28-4-2012
http://www.danchimviet.info/archives/57191
Bookmarks