- TÓM LƯỢC TÂM THƯ -
Muốn Chống Ngoại Xâm Hăy Dẹp CSVN và Xây Dựng Lại Chính Nghĩa Dân Tộc
TS-LS. Lưu Nguyễn Đạt
TÂM THƯ
- Kính Gửi Đồng Bào, Đồng Hương Việt Nam Trong và Ngoài Nước;
- Qua Thiện Tâm Tôn Kính của Quư Trưởng Thượng Dân Tộc, Tôn Giáo, Cộng Đồng, Trí Thức, Chuyên Gia, Doanh Nghiệp;
- Qua Công Tâm của các Nhà Tranh Đấu Cho Độc Lập, Quyền Lợi, Tự Do, An Sinh, Hạnh Phúc và Tiến Bộ của Dân Tộc Việt Nam, nhất là Quư Vị trong Lực Lượng Quốc Gia Chân Chính và Thành Phần Ly Khai của Lực Lượng Cộng Sản và Ngoại Vi;
- Qua Kinh Nghiệm Sống và Tri Thức của Toàn Thể Đồng Bào đă chịu đựng mọi thử thách văn hoá, xă hội, lịch sử trong hơn 70 năm qua;
- Qua Tinh Thần Hào Kiệt, Lư Tưởng Anh Minh, Sáng Tạo của Thế Hệ Trẻ Việt Nam Trong và Ngoài Nước;
- Qua sự Công B́nh và Công Lư Toàn Cầu của các Tổ Chức và Chính Quyền Quốc Tế Bảo Trọng Nhân Quyền và Vận Mệnh Sinh Tồn của Nhân Loại, Trong đó có Dân Tộc Việt Nam.
XÉT RẰNG:
- Nạn ngoại xâm bởi Đế quốc Hán Cộng là một thực trạng lịch sử, gần đây thêm sôi động bởi những hành vi hống hách của bá quyền Bắc Kinh nhằm thôn tính Biển Đông và toàn bộ Khu Đông Nam Á, trong đó có chư hầu ư thức hệ là CSVN;
- Nạn ngoại xâm bởi Đế Quốc Hán Cộng chỉ là hậu quả thanh toán nợ nần quân bị chiến lược giữa những chế độ chuyên trị cướp đất, cướp dân, giữa những tên đầu nậu quốc tế buôn bán súng đạn, ranh giới, đảo rừng, và quyền thế đảng phiệt;
- Nạn Đế quốc Hán Cộng, dù trầm trọng tới mấy, vẫn chỉ là "hiện tượng" hay phản xạ tàn phá ngoài da cơ thể Tổ Quốc Việt Nam. Căn bệnh thật tại nội tạng là CSVN, một thứ ung thư mà Dân Tộc chúng ta cần phải loại trừ bằng đủ mọi cách, vừa điều trị vừa đề pḥng.
- Nhà cầm quyền Hà Nội vốn không có chính danh v́ nhiều lần cướp đoạt chính quyền bằng bạo lực, lừa lọc, phản bội minh ước đă cam kết và nhất là không hề có chính nghĩa v́ luôn luôn chủ mưu bán nước, hại dân bằng mọi thủ đoạn tiêu diệt, tù đày, cướp bóc tàn ác, nên không có tư cách, khả năng và uy tín cần thiết để bảo vệ nền độc lập căn bản cũa dân tộc và sự vẹn toàn lănh thổ của tổ quốc;
NAY TRÂN TRỌNG ĐỀ NGHỊ TOÀN DÂN VIỆT NAM
- Với 90 triệu người trong và ngoài nước, sau hơn 70 năm bị sát hại, hành hạ, ngược đăi, bị thiệt tḥi, tha hoá, lư tán, chậm tiến, suy nhược
- Kết lực đảm nhận trách nhiệm lịch sử Tổng Khởi Nghĩa giải thể chế độ CSVN, lỗi thời, bất tài tham nhũng, bán nước hại dân;
- Và lập tức khai sáng, tạo dựng lại Chính Nghĩa Dân Tộc trên nền tảng Dân chủ Tự do Tiến Bộ thực sự của dân, bởi dân, v́ dân, trên căn bản [a] pháp trị hiến định đa nguyên, cân bằng; [b] quản trị quốc gia kết sinh thế lực chính đáng và trách nhiệm công minh; [c] song song với một hệ thống Xă Hội Dân Sự và Đảng Phái chân chính; [d] xuất phát từ một dân tộc có nguồn gốc văn hoá đạo đức, có giáo dục nhân bản, có thực lực, quyền lợi và trách nhiệm trong một xă hội cầu tiến, công b́nh, ôn hoà.
- Vậy, muốn chống ngoại xâm hăy dẹp tai ương CSVN và xây dựng lại chính danh và chính thống dân tộc:
QUA TRỌNG TRÁCH KHAI TRIỂN VÀ THỰC THI:
I. Nền Pháp trị Hiến định Đa nguyên, Cân bằng
1. Hiến pháp mà Việt Nam cần lựa chọn phải là một hệ thống quy ước thành văn, dưới h́nh thức luật căn bản của lănh thổ, xác định rơ thế lực kết sinh của ba thành tố: chính quyền, xă hội, và người dân.
[a] Trong khu vực chính quyền, hiến pháp bao gồm những nguyên tắc căn bản thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền hành và trách nhiệm của một chính quyền đa nguyên, đa nhiệm, có trọng trách bảo vệ an ninh xứ sở, phát triển đất nước thịnh vượng, đồng thời bảo trọng quyền lợi, an sinh, phẩm giá của mọi người dân v.v.
[b] Trong khu vực xă hội, hiến pháp bao gồm những "nguyên tắc tổ chức" cộng đồng, hiệp hội, đảng phái; định hướng kinh tế tư hữu; giáo dục phổ thông, cấp tiến, nhân bản; tín ngưỡng độc lập v.v.
[c] Trong khu vực cá nhân của người dân, hiến pháp phải hạn chế mọi áp lực của chính quyền và xă hội để "bảo đảm và thực thi" những quyền bẩm sinh [1] bất khả xâm phạm, bất khả khước từ của người dân, mà quan trọng nhất, gồm có quyền sinh sống [xứng đáng nhân bản, an ninh, hạnh phúc], quyền tự do [tư tưởng, sáng tạo, ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng, thờ phụng, khước từ] quyền tư hữu [vật chất và tinh thân].
Như vậy, với tư cách một khế ước xă hội,[2] Hiến pháp xác định liên hệ thích hợp, thích đáng giữa cá nhân, xă hội và chính quyền. Cá nhân hội nhập xă hội dân sự và xă hội chính trị trên căn bản thuận nhận song phương [3] trong tinh thần hỗ tương, bảo vệ lẫn nhau, với những quyền hành và trách nhiện tương xứng.
Luật lệ và trật tự chính trị không có tính cách tự nhiên, bất dịch, và chỉ có tính cách khả chấp, khi có chính nghĩa, khi thuận hoà với ước vọng chung [4] của toàn dân có chủ quyền tối hậu – gây áp lực công dân, thuận hay chống, trong việc thi hành, bổ túc, điều chính, thay đổi, băi bỏ một khế ước xă hội, một thể chế chính trị.
2. Nguyên tắc cai trị mà theo đó mọi người dân, tổ chức, pháp thể, tư cũng như công, kể cả Chính quyền, Nhà Nước đều phải tôn trọng, thi hành một cách công minh, công bằng là nguyên tắc pháp trị [5], hay thượng tôn luật pháp [
không ai đứng trên pháp luật] v.v. phải được suy diễn từ những quy định gốc sẵn có trong hiến pháp. Mọi đạo luật, thủ tục ứng dụng luật pháp, hay cả điều khoản trong hiến pháp nếu soạn thảo "ngoài phạm vi"[6] hay ngược lại một trong ba khu vực quyền hành và trách nhiệm quy định trong hiến pháp đều coi là vi hiến và vô hiệu.
3. Trong trường hợp đặc biệt cần bổ túc, cập nhật, điều chỉnh, sửa sai, hiến pháp có thể được tu chính, hoặc thay đổi toàn diện, bằng những thủ tục trọng thể, kỹ lưỡng. Hiến Pháp mới cần đem trưng cầu dân ư hay được soạn thảo bởi một quốc hội lập hiến, do dân cử.
II. Quản trị quốc gia trên b́nh diện kết sinh thế lực chính đáng và trách nhiệm công minh
1. Quyền hành quản trị đất nước không nên tập trung trong tay một cá nhân hay kiêm nhiệm bởi một đảng phiệt chuyên chính, mà cần phân công phân nhiệm tới thành phần dân cử, công chức, chuyên viên, cán sự đa nguyên, đa dạng.
2. Dù là đại nghị hay tổng thống chế, căn bản vẫn là nhà cầm quyền phải được dân bầu từ gốc. Riêng, với thể chế tổng thống, chính phủ trung ương, ở cấp lănh đạo hay chuyên ngành, phải được dân lựa chọn theo quyền đầu phiếu mở rộng và thủ tục bầu cử minh bạch. Chính quyền trung ương thường được phân nhiệm thành ba ngành chuyên biệt: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong tương lai, tại Việt Nam, có nên thêm ngành giám sát/công tố để phanh phui và truy tố cấp thời mọi vi phạm, lạm quyền, sai quấy, tham nhũng trong chính quyền và các khu vực giáo dục, quản trị, doanh nghiệp, vụ lợi hay bất vụ lợi?
Trên căn bản phân ngành độc lập, với quyền hạn và trách nhiệm đặc định, chuyên biệt, tuy liên kết phục vụ quyền lợi chung của đất nước, dân tộc, nhưng vẫn ở thế liên kiểm, nên chính phủ có cơ đồ duy tŕ mức độ cai trị quân b́nh, không lạm quyền, không độc đoán, không suy thoái tập thể.
3. Thành phần công chức [7]
hay công vụ [8], muốn hội nhập công minh guồng máy quản trị đất nước, phải được tuyển chọn và tiến cử trên căn bản chuyên cần, tài đức [9] — hơn là do bè phái hay màu cờ sắc áo đảng phiệt [10] — để một mặt tăng trưởng hiệu lực công vụ, mặt khác, giảm thiểu nạn độc tải, lạm quyền, tham nhũng.
4. Thành phần công chức, đang thi hành công vụ, không được "làm chính trị", để giữ thái độ trung kiên phục vụ người dân, mà không bị áp lực đảng phái chi phối. Muốn ứng cử, tham gia phụ giúp bầu cử, người công chức phải tạm ngưng công vụ trong chính quyền hay nhiệm sở, để tránh t́nh trạng xung đột quyền lợi công vụ và chính trị.[11]
5. Công chức, giáo chức, chuyên viên, cán sự, thuộc thành phần chuyên cần, trọng yếu trong guồng máy hành chính, giáo dục, quản trị, công cũng như tư, cần phải được đối đăi, tiến thưởng xứng đáng với nghiệp vụ giao phó. Như thế sẽ giảm thiểu quốc nạn tham nhũng, làm ăn bất hợp pháp, chạy chọt, phí phạm tài sản và nhân lực.
III. Tổ chức Xă Hội Dân Sự: Nẩy Mầm Dân Chủ từ Hạ tầng Cơ sở
Trong hệ thống dân chủ chân chính nhằm bảo vệ và phát huy quyền lợi chung của toàn dân, Việt Nam cần thực thi nhiệm vụ xă hội dân sự đặt trọng tâm trên quan hệ hỗ tương, hỗ trợ để thực hiện lợi ích chung, hữu hiệu, mở rộng.
Thế nào là Xă Hội Dân Sự [XHDS]?
Xă Hội Dân Sự [XHDS][12] tự nguyện đoàn ngũ hoá dưới h́nh thức các tổ chức bất vụ lợi,
[13] độc lập, hoặc tổ chức phi chính phủ,
[14] để hoạt động trong các lĩnh vực xă hội, kinh tế, từ thiện, giáo dục, tôn giáo, nghề nghiệp, điều nghiên, văn học, nghệ thuật, các phong trào dân vận bảo trọng nhân quyền v.v.
Sinh hoạt hợp pháp của tổ chức XHDS cũng cho phép lượng giá hệ thống pháp trị hiện hữu là dân chủ cởi mở nếu tôn trọng hoạt động chính thống và hợp hiến của XHDS, c̣n không sẽ phải coi là chuyên chế, phản dân chủ, bất hợp hiến, khi cấm đoán, kiềm chế các tổ chức tập thể này. XHDS phải được minh thị tôn trọng như một nhu cầu chính đáng của dân, do dân, v́ dân. Mọi h́nh thức tổ chức XHDS khác, "phản dân sự", đều có tính cách trá h́nh, lươn lẹo, vừa phản động ngược chiều, vừa vô hiệu, phí phạm nhân lực, tài lực, v́ không gây được hào khí chí nguyện độc lập, tự kiểm, tự duy.
1. Khu vực XHDS khác với khu vực cá nhân, gia đ́nh, nhóm phiệt khi những thành phần này hành động v́ quyền lợi, mục tiêu riêng rẽ của cá nhân, gia đ́nh, bè nhóm, nhằm bảo vệ lợi ích thu hẹp của họ. Trái lại, các tổ chức thuộc lĩnh vực XHDS hoạt động theo tiêu chuẩn "tập thể mở rộng" như thành lập hội văn học, hiệp hội từ thiện, cơ sở bảo vệ nhân quyền.
Kể từ những năm 1990, với sự h́nh thành của các Phong Trào Tân Xă Hội, [15] sinh hoạt XHDS đă đột phát mạnh để trở thành khối thế lực quản trị thứ ba
[16], giữa chính phủ và doanh nghiệp tư bản [kinh tế thị trường], nhằm thực thi chiến lược xây dựng trật tự xă hội toàn cầu, trong một không gian nhân bản không ranh giới. Sinh hoạt chính của XHDS đă chuyển hướng, đặt trọng tâm vào các chương tŕnh kết sinh thuần xây dựng của XHDS. Mức độ tranh đấu chính trị c̣n lại nay tụ tập thành Xă Hội Chính Trị, [17] gần gũi với các tổ chức tranh đấu về ư thức hệ, chống đối các tai ương cai trị chuyên chế, các bạo hành công lực, công quyền.
Nhưng tại các quốc gia mà mực độ tự do công dân c̣n quá thấp, với cơ cấu công quyền chuyên chế c̣n lấn át quá mạnh, th́ khía cạnh chính trị khó có thể tách ra khỏi mục tiêu sinh hoạt của các tổ chức XHDS: [a] vừa giúp đỡ xây dựng xă hội thiếu thốn về mặt vật chất, kinh tế, giáo dục, [b] vừa bênh vực xă hội lâm nạn, bị ngược đăi tinh thần, mất tự do, mất phẩm giá con người, bị chuất quyền công dân, chuất quyền sở hữu.
2. Khu vực XHDS khác với khu vực vụ tư lợi kinh tế thị trường.
[18] Trong khi các doanh nhân, các pháp nhân sĩ nghiệp, công ty thương mại đều sinh hoạt mong lấy lời v́ đầu tư sáng kiến, vốn liếng, máy móc, tổng hợp thành "vốn tư bản",
[19] th́ các hiệp hội từ thiện, hiệp đoàn, các tổ chức khuyến học, bảo tồn văn hoá, bảo vệ nhân quyền v.v. lại là những pháp nhân thiện nguyện, bất vụ lợi, sinh hoạt với mục đích cung cấp ích lợi chung theo nhu cầu hơn là theo khả năng. Căn bản trao đổi của XHDS không tùy thuộc vào yếu tố cung cầu trên thị trường mà căn cứ vào thực trạng ưu tiên, mức độ khẩn cấp của nạn nhân, của kẻ thất thế, cũng như căn cứ vào nhu cầu tinh thần của lư tưởng và phẩm giá con người, của giá trị tư tưởng. Vốn liếng của XHDS là "vốn xă hội", [20] hay "vốn công dân thiện chí" là những đóng góp tự nguyện về nhân lực và kiến thức của người dân .
Mọi sinh hoạt bất vụ lợi cũng cần phương tiện cụ thể, tiền bạc, cơ sở sinh hoạt. Nhưng chỉ khác là những hạ tầng cơ sở tài lực và điều hành đó không làm lợi cho thành viên các tổ chức hiệp hội, mà phải được phân minh, để riêng thành các chương mục phục vụ tập thể cần cung phụng, theo tiêu chuẩn của nội quy của hiệp hội và đường hướng chung của XHDS.
Có ngân quỹ mới có dịch vụ cộng đồng, mới có các dự án bảo vệ nhân phẩm, b́nh quyền, đa dạng trong nghề nghiệp, giúp đỡ từ thiền, cải tiến môi sinh, bảo vệ môi trường. Có tài chính mới có dự án nghiên cứu y tế công cộng, mới thực hiện được những chương tŕnh sáng tạo văn nghệ, phát huy giáo dục v.v. Nhưng mọi thủ tục tài chính, thu và chi phải được thực hiện theo đúng thủ tục minh bạch, đúng tiêu chuẩn công bằng, không lạm quyền tư lợi, không a ṭng tham nhũng.
3. Khu vực XHDS khác với khu vực công quyền [chính quyền, chính phủ, nhà nước],
[21] v́ XHDS tự nguyện xây dựng căn bản công dân quyền trên các trụ lực hiến định như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do sáng tạo, tự do phê phán công quyền v.v. Rơ rệt, XHDS giữ thế đứng hiến định của cộng đồng, xă hội, trong việc xây dựng & bảo tŕ nền tảng dân chủ.
Ngày hôm nay, những ai có lương tri và lương tâm đều công nhận rằng XHDS, với "Vốn Xă Hội" và đặc tính văn hoá tân xă hội, đă [a] một mặt tạo dựng sức mạnh liên đới phát huy và bảo trọng nền dân chủ chân chính, [b] mặt khác tiếp tục t́m phương thức giảm thiểu xung đột, va chạm, và các mâu thuẫn, đối kháng trong xă hội.
Cái ưu điểm của XHDS là tính cách năng động của các tổ chức dân sự tự nguyện trong việc ảnh hưởng, định hướng chính sách đối nội vá đối ngoại; thay đổi, phát huy đời sống kinh tế, xă hội, văn hoá giáo dục; tăng cường mức độ an ninh trong nước và ngoài nước. Đó là sự nẩy mầm dân chủ từ hạ tầng cơ sở, từ ư dân, sáng kiến, yêu sách, đ̣i hỏi, khuyến cáo của dân lên tới thượng tầng cơ sở của hệ thống chính quyền [Nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp] có trách nhiệm đối với dân, đối với đất nước.
4. Trái lại, tại các chế độ cộng sản, kể cả cái gọi là "nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam" [NCHXHCNVN], đă nhập nhằng bày đặt một số tổ chức tập đoàn, cũng dâng cao danh nghĩa dân chủ trá h́nh. Đó là hiện tượng quái dị của các "tập đoàn dân sự" [sic] lấy tên là "Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam" [MTTQVN] từ cấp thành phố, tỉnh, tới cấp huyện, và các "Câu Lạc Bộ" đủ thứ [CLB, liên minh, liên kết với MTTQVN], đều được thành lập bởi đảng viên cộng sản hoặc chuẩn-đảng-viên-khăn-quàng-đỏ.
Tốt nhất, nên gạt bỏ thuật ngữ Xă Hội Dân Sự [XHDS] đối với các "hội ma" này tại Việt Nam ngày nay, mà nên đặt các tổ chức đó vào thực trạng của nó, mà người viết mạn phép tạo một thuật ngữ mới là "Xă Hội Đảng Sự" [XHĐS], có thể dịch ra tiếng Anh-Mỹ là "
Nomenklatura Society" [NS], với những quyền lợi riêng rẽ, ưu đăi, bất hợp pháp không khác mấy các "Xă Hội Đen", hoặc "Xă Hội Mafia-Đỏ".
IV. Tiêu Chuẩn Tổ Chức Đảng Phái Chính trị trong Thể Chế Dân Chủ Tự Do
Tuy hiện tượng đảng phái chính trị đă có từ lâu, nhưng hệ thống pháp chế của đảng phái mới được xác định gần đây.[22]
Tiêu chuẩn tổ chức đảng phái chính trị đề cập ở đây chỉ có tính cách điển h́nh, căn cứ vào các nguyên tắc khả chấp của các thể chế dân chủ tự do trên thế giới.
Vậy đảng phái chính trị trong hệ thống dân chủ tự do có thể định nghĩa là [a] sự hội họp tự do của các công dân [b] nhằm tham dự vào guồng máy chính quyền [c] bằng cách đề cử ứng cử viên và [d] tham dự các cuộc tranh cử tự do liên hệ.
Một cách rộng răi hơn, đảng phái chính trị là địa bàn tập thể [a] thực hiện những quyền hạn căn bản, hiến định, bất khả khước từ của người dân, [b] là nhịp cầu liên kết thế lực giữa các ngành và các tổ chức trong chính quyền, và [c] khả năng chính đáng gây áp lực chính quyền với tư cách đảng đối lập trong một nền dân chủ đa nguyên nguyên, đa đảng.
Như vậy đảng phái chính trị được thành lập với những nguyên tắc và quyền hạn sau đây:
1. Quyền cá nhân kết hợp, hội họp một cách tự do, thuận hành, không bị cưỡng ép. Đảng phái chính trị cũng phải được tự do thành lập, không bị trở ngại, quấy rầy, không bị cấm đoán.
Quyền hội họp c̣n có liên hệ phụ thuộc với quyền tự do ngôn luận, với tư cách cá nhân hay tập thể. Khi đảng phái chính trị được bảo vệ, th́ tiếng nói của đảng, của thành viên đảng cũng phải được bảo vệ, không bị cấm đoán, hay hạn chế.
V́ mục đích của đảng phái chính trị là chuẩn bị cho thành viên tranh cử, nên quyền ứng cử và bầu cử của thành viên đảng cũng phải được bảo vệ tương xứng, không bị cấm đoán, hay hạn chế.
2. Chính quyền có bổn phận ban hành luật pháp và các thủ tục pháp định bảo vệ người dân thi hành quyền tự do hội họp, lập đảng và những quyền liên hệ phụ thuộc của họ, bằng cách cấm đoán, giải trừ mọi trở ngại can thiệp, sách nhiễu của lực lượng công quyền hay các đảng phái đối nghịch, trên căn bản bảo toàn mọi sinh hoạt hợp pháp của người dân.
3. Về mặt pháp lư, mọi h́nh thức hạn chế quyền hội họp và những quyền liên hệ phụ thuộc của người dân đ̣i hội nhập hay thành lập đảng phái chính trị phải được minh định rơ ràng trong hiến pháp hay bằng luật pháp hiện hành, với lư do chính đáng, không thiên vị, căn cứ vào nhu cầu bảo vệ nền dân chủ tự do.
4. Mọi sự hạn chế quyền hội họp phải hội đủ tính cách cân xứng với sự phương hại đích thực cho nền dân chủ tự do.
5. Chính quyền không được cấm đoán cá nhân hay đảng phái hội họp trên căn bản kỳ thị sắc tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, khuynh hướng chính trị, tư tưởng, giai cấp xă hội, tư bản, khuynh hướng luyến ái v.v.
6. Cá nhân hay tập thể phải được quyền gia nhập hay thành lập đảng phái chính trị một cách công b́nh trước pháp luật, không bị kỳ thị, không được biệt đăi. Những trường hợp tạm thời nâng đỡ các thành phần thiểu số bị thiệt tḥi trong quá khứ phải được coi là cần thiết, nên không có tính cách biệt đăi bất công.
7. Tính cách Chính trị Đa nguyên phải được coi là cần thiết cho môi trường sinh hoạt dân chủ tự do chân chính. Chính trị đa nguyên là phương thức cung cấp cho người dân nhiều cơ hội so sánh để lựa chọn đúng đảng và đúng người chấp chính theo ư muốn của họ.
8. Đảng phái chính trị khi tham chính, dù trong ngành lập pháp, hành pháp hay tư pháp, đều phải xác định lập trường trung trực, không thiên vị, thượng tôn luật pháp, bảo trọng công lư, quyền lợi chung của dân tộc, của đất nước, đặt trên quyền lợi và cương lĩnh của đảng phái.
9. Đảng phái chính trị trong chế độ dân chủ tự do [a] không được sử dụng bạo lực như phương tiện chính trị, [b] không được xúi giục bạo động, cũng như [c] không được phá quấy, cản trở quyền tự do hội họp, tự do ngôn luận, phát biểu chính trị của đảng phái đối lập.
Quyền biểu t́nh chống đối không lấn quá mức đến độ cản trở, triệt hại quyền hội họp, phát biểu của đối phương. Sử dụng quyền chính trị phải có tính cách song phương, tương xứng, chứ không thể độc đoán, một chiều.
Đảng phái chính trị ôn hoà cũng phải được đối xử tương xứng và được chính quyền bảo vệ khi có trường hợp vi phạm, sai quấy bởi đối phương.
10. Đảng phái chính trị khi vi phạm luật pháp hay lạm quyền đảng vụ phải được dành quyền bào chữa, sửa sai, đền bù theo đúng thủ tục luật pháp quy định.
11. Đảng phái chính trị cũng phải kê khai t́nh trạng tài chính liên quan tới sinh hoạt đảng vụ, tuyên huấn, tranh cử, trong quyền hạn và trách nhiệm pháp định.
Bookmarks