Results 1 to 3 of 3

Thread: Hai Sứ Thần Việt khiến triều đ́nh Tàu phải nể phục

  1. #1
    Member
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    153

    Hai Sứ Thần Việt khiến triều đ́nh Tàu phải nể phục

    1-Mạc Đĩnh Chi
    Mạc Đĩnh Chi (chữ Hán: 莫挺之; 1280-1346) tự Tiết Phu (節夫), làm quan đời Trần Anh Tông. Ông vừa là trạng nguyên của Đại Việt và cũng được phong làm lưỡng quốc trạng nguyên (Trung Hoa và Đại Việt) khi sang sứ Trung Hoa. Mạc Đĩnh Chi là người làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc xă Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông có tướng mạo xấu xí nhưng trí tuệ thông minh.

    Năm Mậu Thân, 1308, ông được cử cầm đầu phái bộ sứ giả sang nhà Nguyên, mừng việc Nguyễn Vũ Tông lên ngôi. Có một mẩu chuyện thú vị đă xẩy ra trong chuyến đi sứ này của ông, được sách "Đại Việt sử kư toàn thư" ghi lại như sau:

    "Đĩnh Chi thấp bé nên người Nguyên khinh ông. Một hôm, viên tể tướng mời ông vào phủ, cho cùng ngồi. Lúc ấy, đang hồi tháng 5 tháng 6. Trong phủ có treo bức trướng mỏng, trên thêu h́nh con chim sẻ đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ làm như ḿnh nhầm tưởng là chim sẻ thật rồi chạy đến bắt. Người Nguyên thấy vậy cười ồ, cho là người phương xa quê mùa. Nhưng trong cái chộp bắt chim sẻ đó, Mạc Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi người lấy làm lạ, hỏi tại sao, Đĩnh Chi đáp rằng: Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ chứ chưa hề thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay bức trướng của tể tướng lại có h́nh chim sẻ đậu cành trúc. Trúc là biểu tượng của bậc quân tử, chim sẻ là biểu tượng của kẻ tiểu nhân, Tiểu tướng làm như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo cùa tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy, tôi v́ thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân vậy. Mọi người nghe vậy đều phục tài ông".

    Đĩnh Chi tuy người thấp bé mà tài cao, đi sứ không làm nhục mệnh vua, một ḷng canh cánh lo ǵn giữ quốc thể, thật là đáng kính. Những kẻ ngạo mạn cười ồ khi Đĩnh Chi vờ bắt chim sẻ, sau khi nghe Đĩnh Chi giải thích việc làm của ḿnh, không biết họ có hiểu chính họ bị Đĩnh Chi nói xỏ là lũ tiểu nhân hay không. Xé bức trướng xong lại nói v́ thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân, có lẽ Đĩnh Chi muốn ngầm bảo rằng, sao mà thánh triều lắm tiểu nhân đến vậy.

    Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng về tài ứng đối nhanh. Ông được cử đi sứ Tàu nhằm lúc công chúa nhà Nguyên chết nên theo dự lễ tang. Triều đ́nh nhà Nguyên trao ông vinh dự đọc điếu văn đă soạn sẵn trong buổi lễ. Tới chừng lên đọc, giở tờ giấy ra chỉ thấy 4 chữ nhất, Mạc Đĩnh Chi biết người ta muốn thử tài ḿnh, ông không hề bối rối, ứng khẩu luôn bài văn điếu, nguyên văn như sau:

    Thanh thiên nhất đoá vân
    Hồng lô nhất điểm tuyết
    Thượng uyển nhất chi hoa
    Dao tŕ nhất phiến nguyệt
    Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!

    Tạm dịch:
    (Một) cụm mây trên trời xanh
    (Một) đốm tuyết cạnh ḷ hồng
    (Một) cánh hoa nơi vườn ngự
    (Một) mảnh nguyệt dưới ao trong
    Ôi! Mây tan, tuyết chảy, hoa rụng, nguyệt mờ!

    Tuy nhiên, các quan lại nhà Nguyên lại xúm xít đề ra hàng loạt câu đối chiết tự để thách thức Mạc Đĩnh Chi. Nhưng vị trạng nguyên Đại Việt đă chiến thắng áp đảo. Một viên quan nhà Nguyên vẫn cố gỡ gạc, ra một câu đối nữa:

    Thập khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư phụ mẫu. (Ghép chữ thập, chữ khẩu, chữ tâm th́ thành chữ tư là lo, lo nước, lo nhà, lo bố mẹ).

    Viên quan này vừa đọc xong, Mạc Đĩnh Chi đă đối ngay:
    Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương. (Ghép chữ thốn, chữ thân, chữ ngôn th́ thành chữ tạ là ơn, ơn trời, ơn đất, ơn vua chúa).

    Đến lúc này, giới quan lại triều Nguyên chỉ c̣n biết bày tỏ sự khâm phục trước tài học uyên bác và trí thông minh tuyệt vời của Mạc Đĩnh Chi. Chính viên tể tướng triều Nguyên bày ra cuộc thách đố ác ư này đă không giấu được sự kinh ngạc, phải thốt lên với Mạc Đĩnh Chi:

    - Ngài quả là bậc kỳ tài!

    Một lần Cụ được nhà vua (vua nước ta) triệu vào cung cùng nhiều đại thần, danh sỹ. Vua đưa ra một câu đố nói rằng Sứ Tàu bắt Ta phải giải, nếu giải được họ sẽ vào tŕnh quốc thư. Không giải được, vua Ta phải đích thân đến tận nhà khách họ đang ở để nghe giải. Đó là yêu sách ngang ngược. Nhưng v́ là nước nhỏ không thể làm mếch ḷng nước lớn. Vua đ̣i các quan hăy tập trung giải câu đố. Nội dung câu đố chữ Hán như sau :

    Lưỡng Nhật, b́nh đầu nhật.
    Tứ Sơn, điên đảo sơn.
    Lưỡng Vương, tranh nhất quốc.
    Tứ Khẩu, tung hoành gian.

    Các quan cố vắt óc mà không đoán câu thơ kiêm câu đố quái dị kia là cái ǵ. Rút cục không vị nào hiểu được bài thơ - giải được câu đố. Vua lo lắng quay sang hỏi Cụ Mạc. Cụ vui vẻ bảo: Tâu thánh thượng, đó chỉ là tṛ dùng để đố bọn trẻ, đâu để thánh thượng bận tâm.

    Vậy nó là cái ǵ - Vua hỏi.
    - Đó là chữ ĐIỀN - Cụ Mạc đáp ngay!

    Vua cũng là người hay chữ, hiểu ra, ngài cười tươi. Các quan trong triều vô cùng cảm phục tài trí thông minh của cụ Mạc. Câu đố dịch nghĩa như sau :

    - Hai h́nh chữ nhất để bằng đầu, hai sóng hàng nhau .
    (Các canh của nó tạo ra chữ Điền).

    - 4 trái núi, điên đảo.
    (4 chữ Sơn sắp ghép theo 2 chiều, dọc - ngang, cũng tạo thành chữ Điền.)

    - Hai ông vua tranh nhau một nước.
    (Hai chữ Vương ghép lại trên, dưới - cũng thành chữ Điền).

    - 4 cái miệng ở trong khoảng dọc, ngang -
    (4 chữ Khẩu ghép lại cũng tạo thành chữ Điền).

    Câu đố của sứ thần Tàu là chữ ĐIỀN. Bài thơ giải nghĩa như sau :
    Hai Nhật (h́nh chữ nhật) bằng đầu để sóng hàng.
    4 Núi (Sơn) điên đảo dọc cùng ngang.
    Hai Vua (Vương) nghiêng ngả lo tranh nước.
    4 Miệng (Khẩu) liền nhau ghép vững vàng.

    Sứ thần Tàu nhận lờ́ giải với sự ngạc nhiên cảm phục.

    Đền thờ Mạc Đĩnh Chi


    2- Giảng Văn Minh.
    Thám Hoa khoa Mậu Th́n 1628

    Giang Văn Minh (chữ Hán: 江文明, 1573 - 1638[1]) tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, là quan nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông được mệnh danh là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua) v́ đă đối đáp thẳng thắn trước triều đ́nh Trung Quốc và bị vua Minh Tư Tông hành h́nh vào năm 1638, thọ 65 tuổi.

    Ngày 30 tháng 12 năm Dương Ḥa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua Lê Thần Tông cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn B́nh và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh.
    Sau khi chết, ông được truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công.

    Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đă bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài[4]. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.
    Đến khi triều kiến, Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lư do “V́ lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi c̣n chờ tra cứu, chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và băi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc. Đồng thời, Chu Do Kiểm c̣n ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau:
    “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”
    Nghĩa là: Cột đồng đến nay rêu đă xanh[5]

    Câu này có hàm ư nhắc tới việc Mă Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng găy th́ Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).

    Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đă hiên ngang đối lại bằng câu:
    "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
    Nghĩa là: Sông Bạch Đằng từ xưa máu c̣n đỏ

    Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ư nhắc lại việc người Việt đă ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc, máu giặc c̣n nhuộm đỏ sông Bạch Đằng.

    Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn vơ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đă trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Măo (1639).

    Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông c̣n cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước[5][6] Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông[5] và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công[1], ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).

    Mộ Giang Văn Minh


    Theo Lịch Sử Việt Nam

    C̣n các sứ thần "đỉnh cao trí tuệ" th́ sao nhỉ? Đó là khi đi cũng như khi về các đỉnh cao đều dấu như "mèo dấu kít". Nhưng rồi cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ḷi ra cho toàn dân biết. Khởi đầu là việc các quan to, chức lớn, quan nào sau khi "đoạt" được ghế thơm (dân không hề bầu) cũng vội vă khăn gói qua chầu thiên tử. Lê Khả Phiêu được Giang Trạch Dân tiếp đón nồng hậu với nàng Trương Mỹ Vân đẹp như tiên. Nàng lỡ mang bầu (chả biết có phải Phiêu là tác giả hay chỉ lả kẻ đổ vỏ ốc sau khi người khác ăn) nên Phiêu đành kư nhượng Aỉ Nam Quan và Thác Bản Giốc.

    Sau Phiêu các quan chức khác cũng lần lượt qua chầu như vậy. Có nhượng bộ ǵ hay không th́ chưa thấy ḷi ra, nhưng sao đất, biển cứ bị "hàm răng chó" gặm dần. Tuy nhiên để lấy ḷng thiên tử Lông Đứt Mạch, (đưá con vô thừa nhận) đă tự nhận ḿnh thuộc dân tộc Choang (dân Tàu tại Quảng Tây). Mới đây, sau khi chộp được chức Tổng Bí Thư, ông Trọng Lú cũng hồ hởi, phấn khởi sang chầu Hồ Quân Vương, và đă bợ Hồ một câu "thúi ŕnh" làm dân Việt Nam phải bịt muĩ:
    "Chưa bao giờ t́nh hữu nghị Việt Trung lại tốt đẹp như bây giờ".

    Đúng thế! Hiện giờ hàng ngày có tới 500 tàu đánh cá của dân Chệt hoạt động trên vùng biển cuả Việt Nam, nhưng hễ ngư dân Việt ló ra là tàu vũ trang của Chệt xua đuổi. Hữu nghị quá rồi chứ!!!

    Các sứ thần khác: Hồ Xuân Sơn, Nguyễn Chí Vịnh đă làm được những điều ǵ vẻ vang cho nước Việt??? Có điều là ông Hồ Xuân Sơn, khi bị các sĩ phu Bắc Hà yêu cầu công bố những thỏa thuận với Chệt th́ ông lặn! Thế là huề!!!

    Nhớ lại tổ tiên ta ngày xưa, sau khi đánh cho tụi Tàu chạy són ra quần, nhưng vẫn tỏ tinh thần hiếu hoà, sai sứ giả sang làm lành. Không hề có một vị vua nào, kể từ nhà Ngô, Lư,Trần, Lê lại phải đích thân sang chầu vua Tàu cả.

    Bây giờ sao lại thế nhỉ???

    Vinh Phan

  2. #2
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    ... xin trích:

    Một lần Cụ được nhà vua (vua nước ta) triệu vào cung cùng nhiều đại thần, danh sỹ. Vua đưa ra một câu đố nói rằng Sứ Tàu bắt Ta phải giải, nếu giải được họ sẽ vào tŕnh quốc thư. Không giải được, vua Ta phải đích thân đến tận nhà khách họ đang ở để nghe giải. Đó là yêu sách ngang ngược. Nhưng v́ là nước nhỏ không thể làm mếch ḷng nước lớn. Vua đ̣i các quan hăy tập trung giải câu đố. Nội dung câu đố chữ Hán như sau :

    Lưỡng Nhật, b́nh đầu nhật.
    Tứ Sơn, điên đảo sơn.
    Lưỡng Vương, tranh nhất quốc.
    Tứ Khẩu, tung hoành gian.


    Các quan cố vắt óc mà không đoán câu thơ kiêm câu đố quái dị kia là cái ǵ. Rút cục không vị nào hiểu được bài thơ - giải được câu đố. Vua lo lắng quay sang hỏi Cụ Mạc. Cụ vui vẻ bảo: Tâu thánh thượng, đó chỉ là tṛ dùng để đố bọn trẻ, đâu để thánh thượng bận tâm.

    Vậy nó là cái ǵ - Vua hỏi.
    - Đó là chữ ĐIỀN - Cụ Mạc đáp ngay!



    Xin góp ư với tác giả Vinh Phan:

    Truyền kỳ cho người giải câu đố trên của sứ thần Trung Hoa (không rơ tên và ngày tháng viên sứ thần này đến nước Việt) đó là Trạng Nguyên Nguyễn Hiền chứ không phải Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi. Nguyễn Hiền (chữ Hán: 阮賢, 1234 - ?) đỗ Trạng Nguyên khi 13 tuổi. Ông là người làng Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường (nay là xă Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Và như vậy, ông trở thành Trạng Nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử (cổ) Việt Nam, tại khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính B́nh thứ 16 (1247) thời vua Trần Thái Tông. Cùng năm đó có Lê Văn Hưu (黎文休) 17 tuổi đỗ Bảng Nhăn và Đặng Ma La (鄧麻羅) 14 tuổi đỗ Thám Hoa. Đây cũng là khoa thi đầu tiên trong lịch sử đặt ra danh vị Tam khôi, bao gồm Trạng Nguyên, Bảng Nhăn, Thám Hoa. V́ c̣n thiếu niên nên vua cho ông về quê 3 năm tu dưỡng, sau ra làm quan đến chức Thượng Thư bộ Công. Về hưu, mất tại nhà. Có đi sứ nhà Nguyên vài lần.

    Ngày 14 tháng 8 năm Bính Tư, Trạng Nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng và qua đời (41 tuổi). Nhà vua thương tiếc truy phong ông là: Đại Vương Thành Hoàng và tôn làm Thần ở 32 nơi, trong đó có đ́nh Lại Đà ở xă Đông Hội-huyện Đông Anh, Hà Nội.

    Hiện nay, tại đền thờ trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) c̣n giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau:

    "Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc, Vạn niên thiên tuế lập tam tài"

    Tạm dịch là: "Mười hai tuổi khai khoa hai nước Ngh́n năm ghi măi chữ tam tài".

    Danh sách các Trạng Nguyên nước Việt (48 người): Nguyễn Hiền | Trần Quốc Lặc | Trương Xán | Trần Cố | Bạch Liêu | Lư Đạo Tái | Đào Tiêu | Mạc Đĩnh Chi | Đào Sư Tích | Lưu Thúc Kiệm | Nguyễn Trực | Nguyễn Nghiêu Tư | Lương Thế Vinh | Vũ Kiệt | Vũ Tuấn Chiêu | Phạm Đôn Lễ | Nguyễn Quang Bật | Trần Sùng Dĩnh | Vũ Duệ | Vũ Tích | Nghiêm Hoản | Đỗ Lư Khiêm | Lê Ích Mộc | Lê Nại | Nguyễn Giản Thanh | Hoàng Nghĩa Phú | Nguyễn Đức Lượng | Ngô Miễn Thiệu | Hoàng Văn Tán | Trần Tất Văn | Đỗ Tống | Nguyễn Thiến | Nguyễn Bỉnh Khiêm | Giáp Hải | Nguyễn Kỳ | Dương Phúc Tư | Trần Văn Bảo | Nguyễn Lượng Thái | Phạm Trấn | Phạm Duy Quyết | Phạm Quang Tiến | Vũ Giới | Nguyễn Xuân Chính | Nguyễn Quốc Trinh | Đặng Công Chất | Lưu Danh Công | Nguyễn Đăng Đạo | Trịnh Tuệ/Trịnh Huệ.

    Thực ra khoa mà danh sĩ Nguyễn Hiền đỗ Trạng Nguyên là khoa thứ 3 (thời nhà Trần) nhưng là khoa đầu tiên lấy đỗ Tam Khôi. Xin lập lại, ông là Tam Khôi đầu tiên và cũng là Trạng Nguyên đầu tiên, trẻ nhất của nền khoa cử (cổ) nước Việt.

    Trân trọng

    Phạm Thắng Vũ
    Sept 22, 2011.
    Last edited by phamthangvu; 22-09-2011 at 07:56 PM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    153

    Thành thực cám ơn bạn Thắng Vũ

    Quote Originally Posted by phamthangvu View Post

    Xin góp ư với tác giả Vinh Phan:

    Truyền kỳ cho người giải câu đố trên của sứ thần Trung Hoa (không rơ tên và ngày tháng viên sứ thần này đến nước Việt) đó là Trạng Nguyên Nguyễn Hiền chứ không phải Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi. Nguyễn Hiền (chữ Hán: 阮賢, 1234 - ?) đỗ Trạng Nguyên khi 13 tuổi. Ông là người làng Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường (nay là xă Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Và như vậy, ông trở thành Trạng Nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử (cổ) Việt Nam, tại khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính B́nh thứ 16 (1247) thời vua Trần Thái Tông. .
    Thành thực cám ơn bạn Thắng Vũ. Tôi sẽ điều chỉnh điều này trong Record của tôi.
    Again, thank you
    Regards
    Vinh Phan

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 25-04-2012, 10:23 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 01-12-2010, 06:27 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •