Results 1 to 8 of 8

Thread: 40 năm sau cuộc bội phản

  1. #1
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    40 năm sau cuộc bội phản


    40 năm sau cuộc bội phản
    -
    Nguyễn Vy Khanh


    02-11-2005

    Với tư cách hậu sinh và nghiệp-dư nghiên cứu lịch-sử, chúng tôi xin có một số nhận xét về biến cố lịch-sử và chính-trị 1-11-1963 đă xảy ra 40 năm trước, mong độc giả xem đây là những góp ư hướng về tương lai hơn là tranh luận hơn thiệt và biên khảo lịch-sử.


    1. Trước hết, cuộc đảo-chánh 1-11-1963 nói chung là một vụ bội-phản có tính toán và v́ quyền lợi (1) phe nhóm cá nhân hơn là quốc-gia, của một số sĩ quan cao cấp trong đó phần lớn là thành phần đă được người Pháp đào tạo. Xảy ra như ở một số thuộc địa ở Phi châu mà t́nh trạng c̣n măi đến nay! Cuộc đảo-chánh 1-11 thêm một lần chứng minh và làm nổi bật cái năo trạng (mentality) phản trắc, hai ḷng và cái năo-trạng phục tùng ngoại bang của một số người Việt Nam. Ngay hai đảng viên Cần Lao đă phản là tướng Tôn Thất Đính và đại tá Đỗ Mậu: ông Đính, “con cưng của chế độ”, ngày 25-10 trước đảo-chánh, đă xin cải tổ chính phủ và cho ông chức bộ-trưởng Nội-Vụ nhưng bị từ chối (ông Trần Văn Đôn th́ mong được chức bộ trưởng Quốc-Pḥng) ngoài ra ông mang thêm mặc cảm tấn công các chùa đêm 21-8-63 và bị ông Nhu khiển trách họp báo nói tiếng Pháp bồi và cho đi nghĩ Đà-Lạt, c̣n đại tá Đỗ Mậu theo đảo-chánh v́ tức đă không được lên tướng trong khi bạn ông (cùng tŕnh độ như ông) được đeo sao. Sau ngày 2-11-1963, lon tướng tá được gắn thoải mái, cả tự gắn, có người (tướng Đỗ Cao Trí) phải khiếu nại và rồi dù vừa mới lên lon chưa đầy tháng cũng được thêm một lon nữa! Thời Trịnh Nguyễn và phân tranh Gia Long - Tây Sơn được tái diễn trên mảnh đất nhiều ngàn năm văn hiến đó! Những năo trạng đáng buồn đó, tiếc thay, hăy c̣n hiện diện sống động trong cộng đồng người Việt hải-ngoại!

    2. Cuộc đảo-chánh này nay nh́n lại thấy rơ là một mưu đồ chống phá những nền tảng cùng tư tưởng dân-chủ của một nền Cộng Hoà (République) non nớt 9 năm. Cá nhân một số tướng tá đảo-chánh đă phản chủ, phản thầy, phản đảng trưởng, nhưng toàn thể những người liên hệ xa gần với đảo-chánh đă phản bội chính thể dân chủ. Chế độ Ngô đ́nh Diệm vào 2, 3 năm cuối có thể bắt đầu mất ḷng dân v́ tỏ ra độc tài, đối lập bị tù, cả bị chết oan, đồng ư, nhưng đối lập ở Việt Nam ta cứ nhắm lật đổ chính quyền hợp pháp, cứ một sống một chết, mà không chấp nhận tṛ chơi dân chủ. Nếu tranh đấu chính-trị như ở các nước Tây phương th́ đă không đưa đến những hậu quả đó. Vả lại tất cả những người bị chính quyền bắt (sinh viên, học sinh, phật tử, chính-trị gia, cả những người bị bắt sau vụ đảo-chánh 11-11-1960 chờ ra ṭa) đều đă được Hội đồng cách-mạng thả tự do - nhưng bắt tù lại một số cao cấp của chính quyền vừa bị đảo-chánh, có người sau sẽ bị xử tử! Xét về toàn bộ nguyên nhân đưa đến cuộc đảo-chánh 1-11, yếu tố tôn giáo chỉ là cái cớ, một cớ có tổ chức chứ không tự bộc phát và “pháp nạn” chỉ xảy ra ở một số nơi có đầu năo phe Phật giáo chính-trị!

    3. Nếu phải nói đến Chính Nghĩa, Chính Danh, th́ nh́n chung, đă bị phe đảo-chánh và đồng minh Mỹ xem thường. 1-11-1963 là một cuộc đảo-chánh nghĩa là phá đổ Chánh đề phù Tà hoặc tạo-dựng một Chánh khác không thể Chánh bằng cái Chánh do dân chủ tạo nên, v́ dù ǵ th́ chính quyền đệ nhất cộng-ḥa là một cơ cấu hợp hiến, hợp pháp và tương đối có chính nghĩa! Ngay sau khi chắc chắn anh em tổng-thống Ngô đ́nh Diệm đă chết, chiều 2-11-1963, Ủy Ban Cách-mạng (2) đă ra Quyết nghị số 2 ngưng áp dụng Hiến Pháp 26-10-1956! Có người đổi “đảo-chánh” thành “cách-mạng” th́ cũng chẳng thấy cách-mạng ǵ hơn v́ cũng từng ấy nhân vật, từ thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ đến các tướng nhiều sao trong Hội đồng Cách-mạng đều do quân đội (và công an) thực dân Pháp đào luyện, và cũng chẳng có lư-thuyết cách-mạng ǵ mới! Những người làm đảo-chánh tự cho có chính-nghĩa dù không tôn trọng trật tự, dân chủ, cả những người làm đảo-chánh 11-11-1960 trước đó. Có người phê phán ông Ngô đ́nh Diệm “lật lọng”, “phản” cựu hoàng Bảo Đại là người đă bổ nhiệm ông làm thủ-tướng, có người c̣n nhân danh phong hoá Nho giáo hoặc dân tộc. Chúng tôi nh́n thời đó như một thời Trịnh Nguyễn và Gia Long-Tây Sơn: th́ Quang Trung cũng đă nhận lời vua Lê Hiển Tông phù Lê diệt Trịnh và c̣n được gả công chúa Ngọc-Hân cho, mà rồi sau quần thần vua Lê bị ông rượt sang Tàu. Thứ nữa sử cũng ghi rằng anh em Tây Sơn nhận phục tùng chúa Nguyễn, chỉ cốt lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan thôi, mà rồi thành Phú Xuân đă bị anh em Tây Sơn đốt cháy, c̣n quần thần Chúa Nguyễn phải bỏ chạy vô Nam. Thứ nữa, thời điểm tháng 6 và 7 năm 1954 là lúc chiến-tranh Việt-Pháp lên cao độ, khủng hoảng chính-trị (chính-phủ Bửu Hội không được lâu), xă hội băng hoại và miền Nam th́ thập nhị sứ quân. Cựu hoàng Bảo Đại dù là quốc trưởng nhưng không hề đụng việc, chỉ giải trí riêng với hậu thuẫn (và tiền bạc, bổng lộc) của các sứ quân. Bảo Đại lại do người Pháp đặt ở chức quốc trưởng, nên trưng cầu dân ư và Hiến Pháp 26-10-1956 không phải là một bước đầu dân chủ đấy sao? Trong hoàn cảnh bất an hậu thế chiến và thuộc địa đó, làm thủ tướng đâu phải dễ (trước đó mấy năm thủ tướng BS Nguyễn Văn Thinh đă phải tự sát!). Chính những người pro-Bảo Đại ở Pháp lúc đó đă nhận xét như LM Cao Văn Luận nhân chứng ghi lại trong hồi kư của ngài:” Bảo Đại đưa Ngô đ́nh Diệm ông Diệm về Việt Nam là để đốt cháy tương lai chính-trị của ông mà thôi!” (3). Thành quả và sự thực lịch-sử đă hiển nhiên, viết lịch-sử là đứng ở tổng thể và cân nhắc phải-trái, sao lại có người đi soi móc chi tiết thổi phồng cho to, mà lại làm một cách thiên vị hoặc giả dối, đạo đức giả ? Tiện đây chúng tôi xin mở dấu ngoặc nói thêm là đối với cuộc chiến-tranh vừa qua (1954-1975), giới viết lách trong nước và một phần ở hải-ngoại đă nhận ra rằng chẳng có chính nghĩa nào hết nếu xét cho cùng. Tất cả chỉ là cường điệu, và hai bên đều là công cụ cho những “lư-tưởng” đối chọi nhau. Và v́ không có chính nghĩa (dù có chính-đáng) nên cũng đă chẳng có một chung cuộc theo nghĩa có bên thắng có phe thua. Nga, Trung quốc và Hoa-Kỳ chỉ ngưng ... chơi v́ kiệt quệ, vậy thôi! Phạm Kim Vinh, vốn khó tính, vẫn nh́n nhận “chính quyền Ngô đ́nh Diệm là chính quyền duy nhất của người Việt quốc-gia tạo được chính danh, chính thống và chính nghĩa cho công cuộc chống Cộng của người Việt Nam” (4).

    4. Để “hoàn thành” cuộc đảo-chánh, trong hai ngày 1 và 2-11-1963, những kẻ chủ mưu và thừa hành đă ám sát theo thứ tự thời gian: đại tá Hồ Tấn Quyền tư lệnh hải quân trưa 1-11, đại tá Lê Quang Tung tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và em ông là thiếu tá Lê Quang Triệu tối 1-11; tổng-thống Ngô đ́nh Diệm và em ông là cố vấn Ngô đ́nh Nhu sáng 2-11. Bốn người, anh em ông tổng-thống và anh em ông Tung Triệu bị đại úy Nguyễn Văn Nhung cận vệ của Dương Văn Minh giết và bắn chết (thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa cùng với đại úy Nhung giết anh em tổng-thống), đại tá Quyền bị thuộc hạ phản thùng là thiếu tá Lực và đại úy Giang giết. Các sĩ quan khác không thuận theo đảo-chánh hoặc bị nghi ngờ th́ bị giam ở bộ Tổng Tham mưu như Cao Văn Viên, Lê Nguyên Khang, Nguyễn Ngọc Khôi, Đỗ Ngọc Nhận, v.v.

    Người trách nhiệm hàng đầu trong vụ ám sát anh em tổng-thống là trung tường Dương Văn Minh. Các tướng thuộc Ủy Ban Cách-Mạng ở Sài-G̣n lúc đó như Trần Văn Đôn (5), Tôn Thất Đính (6) và đại tá Đỗ Mậu (7), ... hoặc ở xa như tướng Khánh, Thi đều xác nhận điều này. Dù ǵ th́ anh em tổng-thống Ngô đ́nh Diệm đă bị ám sát chết, do thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa hay đại úy Nguyễn Văn Nhung thừa hành th́ tướng Dương Văn Minh và Ủy Ban Cách-Mạng phải liên đới trách nhiệm trước lịch-sử, cũng như các tướng Mai Hữu Xuân (“Mission accomplie!” chào tŕnh tướng Dương Văn Minh) và hai đại tá Nguyễn Văn Quan và Dương Văn Lắm, ... chỉ huy đoàn quân xa đi đón đă không làm tṛn trách nhiệm, hoặc có chỉ huy mà như không hoặc đồng lơa v́ sự đă rơ là hai ông Nghĩa và Nhung muốn làm ǵ th́ làm (cả cho biết trước!). Ông Trần Văn Đôn kết luận chuyện t́m kẻ chủ xướng đă tỏ đồng ư và khen “người nào đó ra lịnh giết nầy quả là một người thấy xa, ông ta không phải ngu dại khi làm việc đó” (8). Dĩ nhiên người Mỹ hài ḷng v́ tham vọng bành trướng chiến-tranh sẽ hết bị cản trở bởi vị nguyên thủ quốc-gia hợp hiến, đă mừng reo lên chiều ngày 2-11 khi đón hai ông Đôn và Lê Văn Kim đại diện các tướng đảo-chánh: “C'est formidable! C'est magnifique! (Tuyệt vời!)” (9).

    Vai-tṛ của Nguyễn Văn Nhung th́ đă rơ (10), c̣n thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa th́ nhiều nhân chứng từ sau 1963 đă ám chỉ ông tham gia việc giết anh em tổng-thống - cả hai đều ngồi chung xe thiết-giáp với anh em tổng-thống. Theo Trần Văn Đôn, ông Nghĩa đ̣i đi theo đoàn đón tổng-thống và nói “Moa có nhiệm vụ” (11). Hoàng Văn Lạc (biệt bộ tham mưu phủ tổng-thống lúc đảo-chánh) và Hà Mai-Việt trong Nam Việt-Nam 1954-1975: Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới xuất-bản năm 1990, buộc tội ông Nghĩa là đao phủ thủ thứ hai trong vụ ám sát tổng-thống. Điều tra của ông bà Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức xuất-bản năm 1994 cũng đưa tới cùng kết luận đó (12) nhưng ông Nghĩa từ chối trả lời phỏng vấn sau khi qua Mỹ theo diện H.O. Năm 1996, ông Nghĩa cuối cùng lên tiếng, tự biện hộ cho rằng ông có biết tướng Dương Văn Minh ra lệnh giết ông Nhu. Ngay sau đó, ông bà Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức viết bài vạch mười điểm sai lầm và ngụy biện của ông Nghĩa, cho biết thêm đại úy Phan Ḥa Hiệp (sau lên chuẩn tướng) đă nói với hai soạn giả (cũng như với nhiều người khác như Ngô Đ́nh Châu (13)), rằng ông đă nghe ông Nghĩa nói sẽ giết anh em ông Diệm để trả thù cho đại úy thiết giáp Bùi Ngươn Ngăi bạn ông và cùng đảng viên Đại-Việt bị tử thương trong ngày đảo-chánh (14). Ông Duệ th́ chắc chắn về việc ông Nghĩa nhúng tay giết tổng-thống v́ có hai nhân chứng thấy ông Nghĩa lau tay dính máu. Về sau ông Nghĩa làm phụ thẩm ṭa án cách-mạng xử tử ông Ngô đ́nh Cẩn, vậy theo ông Duệ, ông Nghĩa đă dính máu ba anh em ông tổng-thống (15)! Ông Huỳnh Văn Lang trong bộ hồi kư Nhân Chứng Một Chế Độ đă cho biết thêm một số chuyện: đại tá Nguyễn Văn Quan có vai-tṛ trong cái chết của anh em Ngô đ́nh Diệm, ông Quan thuộc đảng Đại Việt và có thù cá nhân với ông Nhu (16). Thứ nữa, tướng Dương Văn Minh bất măn bị lấy lại “chiến lợi phẩm” từ Bảy Viễn (17). Ông Nguyễn Hữu Duệ, lúc đảo-chánh là thiếu tá tư lệnh phó cho trung tá Nguyễn Ngọc Khôi Lữ đoàn Pḥng vệ tổng-thống phủ, đă ghi lại trong Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm (18), rằng ông Quan đă chối với ông vai-tṛ trong vụ ám sát tổng-thống v́ ông Quan chỉ t́nh cờ đi theo. Cựu đại tướng Cao Văn Viên trong Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng-Ḥa trong lời Bạt viết thêm khi bản dịch xuất-bản (19), đă tiết lộ thêm ông suưt bị cách-mạng giết vào tối 1-11 sau khi đại úy Nhung đă đưa anh em Lê Quang Tung đi giết ở Nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế.

    Ông Ngô đ́nh Cẩn và Phan Quang Đông th́ bị “cách-mạng nối dài” xử tử ngày 9-5-1964 tức sáu tháng sau. Ông cố vấn Ngô đ́nh Cẩn cả-tin ở lời hứa của người Mỹ, đă vào trốn ở toà lănh sự Mỹ ở Huế để cuối cùng bị đại sứ Henry Cabot Lodge giao lại cho những người v́ họ ông phải ... xin tị nạn, rồi khi có án tử th́ Lodge (vờ) xin ân xá cho nạn nhân của y! Như vậy cái chết đến với ông v́ một tướng Cần lao phản bội khác v́ muốn lấy ḷng Phật giáo nhưng lư do chính có thể v́ không khai thác được tiền tưởng ông Cẩn và gia-đ́nh gửi ở Thụy Sỹ trong thực tế có thể không hề có (20)!

    Đảo-chánh 1-11-1963 cùng với những cái chết bi đát không những đối với người chết, với công lao và hành trạng của họ, mà c̣n bi đát cả đối với người sống, bởi vậy đă 40 năm qua, tang thương đă nhiều mà những cái chết đó vẫn c̣n ám ảnh nhiều người, Việt cũng như Mỹ, Pháp! Bà Anne Blair gọi là một “mối ám ảnh đeo đuổi dai dẵng lương tâm nước Mỹ, quần chúng và nhà lănh đạo xứ này, tạo ra hội chứng Việt Nam / Vietnam Syndrome” (21). Người bản chất đă xấu càng tệ hơn bên cạnh con người thanh cao càng tỏ rạng hơn với thời gian!

    5. Đảo-chánh này đă có lợi cho kẻ thù nghịch là Hà-Nội và cho đồng minh Hoa-Kỳ. Hà-Nội từ sau đảo-chánh không c̣n phải đối đầu chính-trị với Ngô đ́nh Diệm - một người yêu nước, thanh liêm mà nay chỉ phải đối đầu với tay sai, bù nh́n của thực dân Mỹ, lại tham nhũng, mất tư cách, gây “khoảng trống chính-trị khổng lồ” cho miền Nam th́ dễ dàng quá xá! Cựu đảng viên cộng-sản Bùi Tín cho biết đảo-chánh đă gây thuận lợi cho mưu đồ thôn tính miền Nam của Hà-Nội, tháng 4-1964, chính tướng Nguyễn Chí Thanh đă đích thân vào Nam điều khiển cuộc chiến đó (22)! Hoa-Kỳ thủ phạm và ṭng phạm giết Ngô đ́nh Diệm, tổng-thống một quốc gia độc lập vừa là đồng minh, nay ai cũng biết là v́ quyền lợi đế quốc kinh tế chứ chẳng v́ lư thuyết cao quư ǵ cả! Lobby áp lực tư bản Mỹ đứng sau ba ông cố vấn “anti-Diem activists” của tổng-thống Kennedy là tác-giả bức công điện định mạng Deptel 243 gửi cho đại sứ “thực dân” Cabot Lodge, công điện bật đèn xanh cho vụ đảo-chánh! C̣n chuyện Hoa-Kỳ giết lănh tụ đồng minh, từ hơn 50 năm nay danh sách khá dài; khiến sau cái chết của tổng-thống Diệm, một vị lănh tụ ở á-châu là Ayoub Khan, thủ tường Pakistan, đă tuyên bố rằng làm đồng minh Hoa-Kỳ thật nguy hiểm, tốt hơn nên trung lập hoặc làm kẻ thù - sau này Kissinger cũng lập lại nhưng đạo đức giả v́ tay ông ta nhúng chàm ở Chili, Việt Nam và nhiều nơi khác! Chính phủ Mỹ chứng minh với thế giới rằng khi họ cần th́ là đồng minh, khi hết xử dụng được hoặc đụng chạm quyền lợi Mỹ th́ ám sát, kể cả người đó là theo chủ nghĩa quốc gia hoặc cùng tôn giáo Thiên Chúa với người Mỹ. Và làm đại sứ Mỹ ở đâu là hôm trước tŕnh ủy nhiệm thư, hôm sau trở thành chuyên viên đảo-chánh!

    6. Đă là một thiết yếu có tính cách giai-đoạn, thành thử về trường kỳ đă là một sai lầm lớn. Các tài liệu được bạch hóa cũng như nhiều nghiên cứu, sách báo từ đó đă đi đến cùng một kết luận: tổng-thống Kennedy đă cho phép (chứ không phải “ra lệnh” - đây là cách hiểu lệnh theo ư của tùy ṭng phụ tá ở Mỹ như ... và ở Việt Nam như Lucien Conein, Henri C. Lodge). Nghiên cứu mới nhất của kư giả James Rosen tựa The Strong Man: John Mitchell, Nixon and Watergate về vụ Watwergate nhưng trở về một nguồn là vụ ám sát tổng-thống Ngô đ́nh Diệm. Cuốn sách Doubleday sẽ xuất bản tháng 8-2004 nhưng đă có một số bài báo tiết lộ một số chi tiết, như chuyện một cuộn băng được bạch-hoá ngày 28-2-2003 cho biết phó tổng-thống Johnson đă xác nhận tổng-thống Kennedy và ban tham mưu kể cả ông, không những đă bật đèn xanh mà c̣n “tổ chức và thi hành vụ thảm sát này” (“organized and executed it”) với lư do “tham nhũng / corrup”) (?), do đó đă “giết ông ta. Chúng ta đă họp với nhau và dùng một bọn giết mướn đáng nguyền rủa để làm việc này” (“So we killed him. We all got together and got a goddam bunch of thugs and assassinated him”! Xin để ư chữ dùng của phó tổng-thống Johnson để gọi những người phe đảo-chánh! Nhưng ông thêm một câu cho nhẹ tội đồng lơa: “Chúng ta đă giết ông ta v́ cho rằng ông ta không tốt. Lúc đó tôi đă can đừng làm việc đó nhưng họ không nghe tôi và cứ thi hành” (“And I just pledge with them please don't do it. But that is where it started and they knocked him off”). Trong Triangle of Death: The Shocking Truth About the Role of South Vietnam and the French Mafia in the Assassination of JFK , hai nhà báo Bradley O'Leary và L.E. Seymour cho rằng vụ ám sát tổng-thống Kennedy là hậu quả của vụ ám sát anh em tổng-thống Ngô đ́nh Diệm và do bàn tay của mafia gốc Pháp ở New Orleans LA và cả người Việt Nam. Dù những cố vấn và chóp bu toà Bạch ốc có chia ra hai phe bảo-thủ và tự-do, nhưng trách nhiệm lịch-sử đă đổ lên đầu tổng-thống Kennedy! Tổng-thống Kennedy 2 ngày sau, 4-11-1963, xúc động và tỏ ư hối tiếc vụ đảo-chánh và nhận trách nhiệm (23) nhưng v́ muốn lấy phiếu cử tri nên ngày 20-11-1963 họp báo ở Hononulu đă tuyên bố sẽ rút quân về nếu thắng cử, và hai ngày sau th́ ông bị ám sát ở Dallas, phó tổng-thống Johnson lên thay sẽ tha hồ đổ quân vào Việt Nam như tư bản Mỹ muốn!

    Dĩ nhiên CIA cũng đă có một vai-tṛ quan trọng dù kín đáo hơn trong vụ ám sát hai anh em ông tổng-thống Ngô đ́nh Diệm (24). Ngoài ra, các thông tấn, báo chí nhất là New York Times từ 28-11-1962 đă “dám” cảnh cáo tổng-thống Ngô đ́nh Diệm nếu không nghe lời Mỹ, sẽ bị rớt đài (25). Các nhà báo Hoa-Kỳ như David Halberstam, Neil Sheehan, Malcolm Brownw, v.v… t́m liên hệ với báo chí Việt Nam đứng đầu là Bùi Diễm tờ Saigon Times để hoàn thành “chiến dịch” lật đổ tổng-thống một nước đồng minh! Báo chí và truyền thông Hoa-Kỳ sau đó vẫn tiếp tục can dự vào chính-trị Việt Nam đưa đến biến cố 30-4-1975 khiến nhiều người đă kết luận là báo chí Mỹ đă thua cuộc chiến đó, v́ vậy mà sau này quân đội Hoa-Kỳ đi đánh vùng Vịnh ở Trung đông đă giảm thiểu tối đa sự có mặt của giới truyền thông Mỹ!

    7. Biến cố đảo-chánh này và những diễn biến chính-trị sau đó chứng tỏ vai-tṛ tệ hại của các chính đảng vốn nhập cảng từ Bắc vào với Hiệp định đ́nh chiến 1954, đă không thật thích hợp với miền đất phía Nam. Các chính khách đó chỉ nhắm ghế bộ trưởng và quyền hành (thời kham khổ chiến đấu bí mật hay từ quần chúng nơi thôn quê hẻo lánh đă ... xa lắc!). Rồi từ ngoại quốc về thẳng ghế phó thủ tướng, bộ trưởng, ... rồi chạy theo người Mỹ vận động chức chưởng. Xuất hiện những Tân Đại Việt, Phong Trào Cấp Tiến cùng với những biến mất v́ ám sát của những Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn, ... Những đại tá Nguyễn Văn Quan, thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa đều là đảng viên Đại Việt. Vai-tṛ của các đảng phái đặc biệt là Đại-Việt Quan Lại tuy không là yếu tố quyết định nhưng góp phần phía chính trị lật đổ chế độ hợp hiến Ngô đ́nh Diệm. Bùi Diễm khoe trong hồi kư và qua các tài liệu mật Pentagon cũng như các tài liệu nói chung, đă cho thấy ông đă đóng vai khá động, với tư cách nhà báo của Saigon Times và đồng thời đảng viên Đại-Việt, đă làm “con thoi” của người Mỹ, ngay từ đảo-chánh 11-11-1960! Chính Đạo từng hơn một lần gọi ông Diễm và Đặng Văn Sung là “đảng viên Đại-Việt thời cơ” (26). Ông Diễm từ 1960, nhất là sau vụ Caravelle, đă liên hệ cũng như “tường tŕnh” vạch lá t́m sâu chế độ Ngô đ́nh Diệm cho các nhà báo người Mỹ như Neil Sheehan, M. Brown, David Halberstam, v.v. (27). Họ Bùi và đảng Đại-Việt v́ tham vọng quyền lực chính-trị đă “tế thần” chế độ tổng-thống Ngô đ́nh Diệm, qua connection Joseph Buttinger và thủ lănh Nguyễn Tôn Hoàn đang ở Hoa-Kỳ lúc đó (chờ về ... chấp chánh) làm lobby với chính quyền Kennedy. Các tướng lănh đảo-chánh cũng như chỉnh lư và biểu dương lực lượng sau đó (1963-1965) đều rơi vào mê hồn trận của đảng Đại-Việt, chi phối cho đến hoà đàm Paris và biến cố 30-4-1975 và cả sau đó ở hải-ngoại (28). Cũng không nên quên vai-tṛ của thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa trong cái chết của anh em ông tổng-thống Ngô đ́nh Diệm, ông Nghĩa là đảng viên Đại-Việt và từng tuyên bố trả thù cho đồng đảng bị tử trận ngày đảo-chánh. Sau ông lên đại tá và ra hải-ngoại được chất vấn vẫn chưa trả lời thỏa đáng.

    8. Nhiều nhân-vật liên hệ và sự kiện, diễn biến chung quanh vụ đảo-chánh cũng như chế độ Ngô đ́nh Diệm đă bị huyền thoại hóa, về gia tài gia đ́nh họ Ngô - tiền của tổng thống Ngô đ́nh Diệm gửi cha Toán Ḍng Chúa Cứu Thế đă bị tướng Trần Văn Minh cho người đến lấy, tiền của cố vấn Ngô đ́nh Cẩn đă bị tướng Đỗ Cao Trí và Nguyễn Khánh lấy - ông này c̣n đ̣i thêm tiền ở Thụy sỹ nhưng có lẽ không có nên đă phó mạng ông Cẩn cho phe Phật giáo bạo động lấy ḷng. Một vài sự vật và việc nhỏ nhoi khác cũng được thổi phồng, huyễn hóa cho lớn chuyện: nghiên mực Tức Mặc Hầu có người t́nh cờ thấy trong dinh Tổng thống, Vương Hồng Sển, một thư-kư thuộc địa (1923-43) lên đến Quản thủ Viện Bảo Tàng Sài-G̣n (1947-1964), lại đi thắc mắc và tố ông tổng-thống chiếm đoạt một nghiên mực (bằng suy luận) (29) - trong khi bao vàng bạc châu báu triều đ́nh Huế đă dâng cho Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận đại diện Hồ Chí Minh buộc nhà Vua cuối cùng Triều Nguyễn thoái vị - th́ chưa ai “dám” nói đến! Nghiên mực trong một căn pḥng tổng thống mà vật dụng, trang hoàng chưa chắc đă hơn pḥng ngũ của tài xế những ông tướng cùng thời, th́ có ǵ đáng nói ? Nhưng, nhiều “khoa bảng, sử gia” dùng đó để kết luận về ... con người tổng-thống Ngô đ́nh Diệm và phê cả chế độ!

    9. Rồi chỉnh lư, biểu dương lực lượng và một số quả báo đă xảy ra cho những người liên hệ xa gần vụ đảo-chánh: TT Mỹ John F. Kennedy bị ám sát 3 tuần sau, ngày 22-11-1963, bốn tướng đảo-chánh (DV Minh, Xuân, Đôn, Kim), Nguyễn Văn Nhung thiếu tá mới lên, Trần Văn Chương, ... hoặc bộ mặt thật chẳng ra ǵ của họ! Về Dương Văn Minh, bà Tùng Long đă có nhận xét rất đáng kể khi Huỳnh Thành Vị mời bà vào nhóm Ba phe sau khi ông Minh ở Thái Lan về lại Việt Nam, bà đă từ chối lấy lư do không làm chính-trị mà nếu có làm cũng không bao giờ hợp tác với ông Minh với lư như sau: “Khi cờ đến tay mà c̣n không phất được th́ bây giờ c̣n có cơ hội nào để làm nữa” (30). Bà Tùng Long lúc nhỏ ở gần nhà ông Minh ở đường Trương Công Định gần vườn Tao đàn, và học chung với các em gái ông Minh. Đại tướng Lê Văn Tỵ cũng từng phát biểu rằng tướng Big Minh chỉ “là một thùng phuy rỗng” (31).

    10. Trong số những người trung thành với chế độ Ngô đ́nh Diệm, đă có những người nh́n thấy trục trặc của chế độ do đó đă lên tiếng, ra tay, nhưng không được đáp ứng và do đó phải chịu trả giá bản thân: BS Trần Kim Tuyến, ông Nguyễn Văn Châu. V.v. Sau đảo-chánh 11-11-1960 của các sĩ quan như Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi và có bàn tay của một số chính khách, một số người thân tín của chế độ đă nh́n thấy cần cải cách, thay đổi. Một lực lượng đối lập dân chủ được h́nh thành, Phong Trào Đại Đoàn Kết, từ đầu năm 1961 đă có một số đề nghị cải cách trong đó đề nghị lập chức Thủ tướng và giao cho BS Phan Huy Quát là bộ mặt chính-trị tương đối thanh liêm và có tầm cỡ. Nhưng ông cố vấn Sài-G̣n không cùng ư kiến, do đó ông Châu mất chức, phải đi D.C. làm tùy viên quân sự từ tháng 9-1962, ông Tuyến làm tổng lănh sự ở Ai cập nhưng chưa nhận nhiệm sở th́ đảo-chánh đă xảy ra. Cuộc đảo-chánh 1-11-1963 xảy ra th́ t́nh h́nh Việt Nam về chính-trị, quân sự đă khác với thời đảo-chánh 11-11-1960: ba năm sau, người Mỹ thao túng mạnh mẽ hơn và các vị trung thành với chế độ đă bị ly tán, không có quân hoặc quyền hành như trước! Ông Châu bị ông Nguyễn Ngọc Khôi trách đem quân ủy vào làm yếu quân đội (32). C̣n ông Nguyễn Hữu Duệ th́ đưa ra sự kiện trước đảo-chánh, khi “đại tá Tung được lệnh cô lập ông Mậu để dằn mặt những người mưu toan” nhưng ông trung tá Châu “nhảy bổ vào tŕnh diện tổng-thống khóc lóc than phiền là ông Nhu bây giờ hết tin anh em, đă đẩy ông đi xa , nay c̣n anh Mậu theo cụ từ bao lâu nay mà cũng ra lệnh bắt (...) Nếu ông Châu đừng xía vô việc này th́ ông Mậu bị bắt, như vậy các tướng sẽ không dám làm đảo-chánh, tôi hỏi thêm ông Châu. Việc này có thể đúng, ông trả lời” (33)! Ông Duệ hỏi ông Châu chỉ vài ngày sau đảo-chánh. Theo Trần Văn Đôn và nhiều người th́ ông Đỗ Mậu theo đảo-chánh v́ sợ hơn là chủ động theo!

    11. Vụ hiệp thương hoặc cố vấn Ngô đ́nh Nhu tiếp xúc với đại diện Hà-Nội (Phạm Hùng, và có thể cả Trần Độ theo như lời ông Tôn Thất Thiện (34)) trước nay vẫn được dùng như một luận cứ để bênh vực ... Mỹ và nhóm tướng lănh đảo-chánh! Chính ông Ngô đ́nh Nhu trong một số buổi học tập chính-trị đă kể - chứ không giấu diếm như nhiều người lầm tưởng để khiến CIA Mỹ phải ŕnh rập! Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu nhiều lần nhưng nhất là trong Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, đă chứng minh “hành động “ve văn” Cộng-Sản của anh em Diệm-Nhu (...), yếu tố “phiến Cọng” này mới thực sự mang lại sự sụp đổ của đệ Nhất Cộng Ḥa (1956-1963) mà không phải cuộc tranh đấu của Phật Giáo, hay cái gọi là “bảo vệ chủ quyền quốc-gia”, “quốc thể”, “nền độc lập” như nhiều người tưởng nghĩ” (35). Một số người để biện hộ cho những hành vi phản bội, phá đổ miền Nam đă lấy lư do ông Nhu nói chuyện với miền Bắc mà họ gọi là “thỏa hiệp với Cọng, xé bỏ Hiến pháp” như Đỗ Mậu từng ngụy biện (36), v́ rồi cũng chính ông Mậu mấy năm trước khi chết đă viết Tâm Thư (1995) và về lại trong nước và đă có những thái độ, lời nói rất khả nghi! Lịch-sử chưa phê phán, chính ḿnh đă tự lột mặt nạ! Giả dụ chuyện đó (cũng như chuyện cành đào chủ tịch họ Hồ miền Bắc gửi cho tổng-thống miền Nam) có thật và thành công, thiển nghĩ nhiều triệu người Việt, Nam và Bắc, đă không phải hy sinh, nằm xuống hoặc mất tích, thương tật, v.v. và hôm nay cũng chẳng có ai phải bàn căi chuyện chất độc Orange đă thiêu hủy, gây thương tật cho thiên nhiên, môi trường sống ở Việt Nam cũng như những quái thai trong các ống thí nghiệm của Nhà Nước Hà-Nội! Và biết đâu miền Nam đă trở thành Nam Hàn! V.v. Ừ nhỉ, thế th́ cái diaspora Việt Nam hải-ngoại làm sao giải thích? * Vấn-đề nghiên cứu về biến cố, người trẻ sau này sẽ gặp nhiều khó khắn cũng như dễ dàng (37). Xin tham khảo chính văn, đừng nghe kể lại dù người đó là khoa bảng hay có tiếng; nhăn “linh mục, pháp danh” cựu này cựu kia, với một thiểu số có khi c̣n nguy hại hơn tài liệu và chứng giám của một tù nhân hay lính quèn! Có thật sự tham khảo mới có thể có nhận định, phán đoán chính đáng, công bằng. Hăy tập bỏ lư luận v́ người cùng phe, v́ danh tiếng người nào đó, nếu muốn tránh hời hợt và trở thành tṛ xiếc!

    -Còn tiếp-

  2. #2
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    40 năm sau cuộc bội phản

    Nguyễn Vy Khanh

    -Tiếp theo-


    Muốn nghiêm chỉnh nghiên cứu và phê phán cuộc đảo-chánh 1-11-1963, thiển nghĩ không thể không làm (thêm) những việc sau đây: - Nghiên cứu lư thuyết chính-trị Nhân Vị của ông Ngô đ́nh Nhu. Thuyết này không từ trên trời rơi xuống, có thông hiểu nó và con người chủ tŕ ra nó đông-tây tổng hợp và có cái nh́n viễn kiến - cũng như muốn hiểu Trung cộng không thể không tham khảo những ǵ Mao Trạch Đông đă viết từ những thập niên 1930, 40. Chính đảng trong chính quyền mà có lư thuyết nghiêm túc dĩ nhiên là cần thiết, băng đảng mới là nguy hại! - Nghiên cứu lại những lư-thuyết chống Cộng của ông Nhu cũng như của các người khác, của những thời 1954, 1960, 1963, v.v. so với sau đó cho đến 30-4-1975. - Khách quan t́m hiểu những thực hiện của chế độ đệ nhất Cộng-hoà như chính sách dinh điền, khu trù mật, ấp-chiến-lược, v.v. Cũng tránh thiên-kiến, cảm tính là những điều khó tránh cho những người có liên hệ xa gần đến các biến cố, và tránh những tổng quát hóa đơn sơ như kết luận kiểu “Ngô đ́nh Diệm tạo nên thời đại hoàng kim của Ki-tô giáo” (38) trong khi thực tế phức tạp nhiều! - Một khía cạnh khác cũng đáng kể nhưng ít ai đi sâu vào: vai-tṛ ông cố vấn miền Trung Ngô đ́nh Cẩn. Ông Cẩn liên hệ tốt đẹp với giáo hội Phật giáo ở Huế cũng như với Thích Trí Quang. Nhạy bén và biết hành xử chính-trị, trong vụ khủng hoảng Phật giáo mùa Hè 1963, ông đă mời được các vị lănh đạo Phật giáo đến nhà ông ngày 7-5-1963 và đă nói như sau khi tiễn họ ra cửa: “Một tṛ Ơn chết mà chết cả một chính phủ, huống chi của một tôn giáo lớn nhất mà bị triệt hạ ngang như thế!” (39). Giáo sư Nguyễn Văn Trung trong tập bản thảo “Vẽ Đường Cho Hươu Chạy” đă tổng kết về những sự kiện lịch-sử chưa ai nói đến về ông Ngô đ́nh Cẩn. Giáo sư đưa ra ánh sáng hai điểm qua hai tài liệu Bội Phản Hay Chân Chính, hồi kư tập thể của một số cựu tù nhân của Đội Công Tác Đặc Biệt Miền Trung và bài viết của luật sư Vơ Văn Quan đăng trên Thế Giới Ngày Nay cuối năm 1992 - ông Quan là người từng biện hộ cho ông Ngô đ́nh Cẩn: thứ nhất, ông Cẩn không phải là thủ phạm hay có dính líu đến vụ đàn áp Phật giáo, ngược lại ông c̣n ủng hộ cuộc “đấu tranh” đó và chống lại hai ông anh ở Sài-G̣n đă nghe lời TGM Ngô Đ́nh Thục. Thứ nữa, cách ông Cẩn chống Cộng làm cho cộng-sản Hà-Nội sợ và đă đem lại an ninh cho miền Trung vốn rất xáo động. Trích đoạn đă được đăng trên tờ Ngày Nay Houston (40) nói đến “thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô đ́nh Cẩn-Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ, siêu tổ chức”; và tù cộng-sản ở nhà tù ông Cẩn ra đều bị Hà-Nội nghi ngờ và không được tin dùng nữa! Ngoài ra, ông Trung c̣n đưa ra lư lẽ tại sao thượng tọa Thích Trí Quang muốn xử tử ông Ngô đ́nh Cẩn: chỉ để bịt miệng thế gian là chế độ Ngô đ́nh Diệm đàn áp Phật giáo trong khi thực tế ngược lại. Thích Trí Quang cộng tác với ông Cẩn lúc đầu là để trá hàng, lợi dụng ông Cẩn, và cuối cùng TT Quang đă để cho cộng-sản Hà-Nội lợi dụng ông! Cái chết của ông Cẩn là một sỉ nhục và ông đă khẳng khái tỏ ra khinh miệt kẻ gian khi không chịu bịt mặt!

    Về các tài liệu, hồi kư của bên người miền Nam, quốc gia đă đành, mà cũng nên xem qua tiếng nói, nhân chứng phía người Cộng sản Việt Nam và cựu đảng viên cộng-sản. Nếu lướt qua những tài liệu chúng tôi đă tham-khảo về biến cố đảo-chánh 1-11, xin lược lại đây một số ư kiến: một số người (Nguyễn Mạnh Quang,...). không tham khảo nguyên bản, chỉ lập lại lời người khác, hoặc trích lời dịch từ những nguyên bản tiếng ngoại ngữ có thể bất khả tín. Người khác, như Trần Ngọc Ninh (40 Năm Sau (41)), một cựu ủy viên tương đương bộ-trưởng của miền Nam, 40 năm sau đảo-chánh mà không cập nhật tài liệu và khám phá mới, đọc ông cứ như mới viết sau đảo-chánh thời cao trào Phật giáo hoặc suưt gây thánh chiến với Công giáo. Người khác nữa th́ nhầm lẫn nhân sự: một ông ở Úc (42) lầm Nguyễn Văn Châu với Nguyễn Hữu Châu, người khác ghi Trần Văn Châu khi nói tới giám-đốc Nha Chiến-tranh Tâm-lư không biết ông ta muốn nói Trần Văn Trung hay Nguyễn Văn Châu v́ cả hai đều giữ chức đó, ông Trung trước, ông Châu kế nhiệm.

    Tài-liệu hoặc tác giả có thể tin hoặc giúp ích cho nghiên cứu về biến cố có: LM Cao Văn Luận (Bên Gịng Lịch-Sử, 2 ấn bản khác nhau, 1972 & 1983 ở hải-ngoại), Hoàng Lạc & Hà Mai-Việt (Nam Việt-Nam 1954-1975: những sự thật chưa hề nhắc tới. 1990), Nguyễn Trân (Công Và Tội: những sự thật lịch sử; hồi-kư lịch sử chính trị miền Nam 1945-1975. 1992); Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức (Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm. 1994, một điều tra lịch-sử khá khách quan (43); bản dịch ra tiếng Anh: President Ngô D́nh Diêm and the US: his overthrow and assassination. 2001), Phan Văn Lưu (Biến Cố Chính-Trị Việt Nam Hiện Đại. 1994), Vĩnh Phúc (Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đ́nh Diệm. 1998), Minh Vơ (Ngô Đ́nh Diệm: Lời Khen Tiếng Chê. 1998), Huỳnh Văn Lang (Nhân Chứng Một Chế Độ, 3 tập), Nguyễn Hữu Duệ (Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm. 2003),... Cũng như những ấn phẩm xuất-bản trong nước trước 1975 như của Lê Tử Hùng, Đỗ Thọ, Lương Khải Minh và Cao Vị Hoàng, Minh Hùng Nguyễn Văn Bảo, v.v.

    Phía tác-giả ngoại quốc, trước hết phải kể đến những tài liệu giải mật của Pentagon (44), của chính quyền Hoa-Kỳ, Bản tường tŕnh của Phái đoàn điều tra LHQ (công bố ngày 13-12-1963 chứ không bị ch́m xuồng như một đôi người viết (45)), B. S. N. Murti (Vietnam divided; the unfinished struggle, 1960, tb 1964), Dennis J. Duncanson (Government and Revolution in Vietnam. 1968), Marguerite Higgins (Our Vietnam Nightmare, 1965), R. Shaplen (The Lost Revolution. 1965), Ellen J. Hammer (A Death in November: America in Vietnam, 1963. 1987), Frederick Nolting (From Trust to Tragedy: the political memoirs of Frederick Nolting, Kennedy's ambassador to Diem's Vietnam. 1988), Anne E. Blair (Lodge in Vietnam: a Patriot Abroad. 1995), Francis X. Winters (The Year of the Hare: America in Vietnam, January 25, 1963-February 15, 1964; xuất-bản 1997, từ tài liệu giải mật Foreign Relations of the U.S. 1961-1984),

    Những tài-liệu hoặc tác giả sau dùng được nhưng đề cao cảnh giác: Bùi Diễm (In the Jaws of History. 1987; Gọng Ḱm Của Lịch-Sử. 2000); Trần Văn Đôn (Our Endless War: inside Vietnam. 1978; Việt Nam Nhân Chứng. 1989), Nguyễn Cao Kỳ (How we lost the Vietnam War. 1976; Buddha's Child: my Fight to Save Vietnam. 2002), Phạm Văn Liễu. Trả Ta Sông Núi. Tập 1&2, 2002-, Nguyễn Ngọc Khôi (“Những sai lầm của Đệ Nhất Cộng Ḥa” (46)), Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của Đỗ Mậu (1986), Việt Nam: Một Trời Tâm Sự (1987) của Nguyễn Chánh Thi, 20 Năm Binh Nghiệp, tức Nghĩa Biển T́nh Sông. 1998) của Tôn Thất Đính - đều là những biện hộ không khéo hoặc quá đánh bóng cá nhân, Những bịa đặt, xuyên tạc của những Đệ Nhất Phu Nhân của Hoàng Trọng Miên, Đảng Cần Lao (1971) của Chu Bằng Lĩnh tức Mặc Thu, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư 1954-1963 (1998) của Nguyễn Mạnh Quang, Những Bí ẩn Lịch-sử Dưới Chế độ Ngô đ́nh Diệm, Những Con Tḥ Ḷ Chính-Trị ... và tương cận của Lê Trọng Văn, những bài viết và ấn-phẩm của nhóm Giao Điểm ở Cali và ở trong nước, cả cuốn Sáu Tháng Pháp Nạn của Vũ Văn Mẫu, cựu ngoại trưởng đă cạo đầu từ chức nhân biến cố Phật Giáo 22-8-1963 và cũng là thủ tướng hai ngày (28-4-1975) của tổng-thống cộng-ḥa cuối cùng Dương Văn Minh, đă viết cuốn này lúc c̣n ở trong nước và in ronéo năm 1984, đến 2003, TT Thích Măn Giác viết tựa và nhóm Giao Điểm in lại ở Nam California. Ngoài ra có những tài liệu, hồi kư khác có thể xử dụng về xa gần biến cố đảo-chánh hoặc con người: Nhị Lang (Phong Trào Tŕnh Minh Thế. 1984), Văn Bia (Đời Một Phóng Viên Và Những Ngày Chung Sống Với Chí Sĩ Ngô Đ́nh Diệm, 2001 (47)), Vương Văn Đông (Binh Biến 11-11-60. 2000), Nguyên Vũ (Chính Đạo, Vũ Ngự Chiêu) có nhiều tài liệu sử và biên thuật đáng kể và khá tinh tế sử dụng văn liệu, nhưng nếu ông nén cảm tính (dù ông đă ghi là “tâm bút” cho ít nhất hai cuốn Paris Xuân 1996 và Ngàn Năm Soi Mặt), khi sử-liệu-hóa lịch-sử th́ giá trị khách quan và khoa học sẽ rơ hơn và thuyết phục được giới trẻ. Những ám ảnh thường thấy trong toàn bộ các biên khảo của ông về chế độ đệ nhất cộng ḥa, đó là ngày sinh của tổng-thống Diệm thời mà giấy tờ hộ tịch chưa như sau này, đó là đánh giá cao hoặc cả tin những người Hoa-Kỳ, Pháp (48), v.v. trong mục-đích hạ giá các nhân vật người Việt, đó là mặc cảm về quyền lực của giáo hội Công giáo, đó là không khai thác những văn khố hoặc sự kiện có lợi cho chế độ đó, đó là quá đề cao các đảng phái khác khi phê phán đảng Cần Lao và chế độ, thiếu so sánh và căn cứ trên những sự kiện lịch-sử đă xảy ra, riêng vụ đảo-chánh, ông lư luận như bênh phe đảo-chánh (tại sao anh em tổng-thống vào trốn ở nhà Mă Tuyên, “một địa điểm đầy nghi hoặc” (49) - nhưng vụ ám sát đă xảy ra khi anh em tổng-thống đă bị bắt và đang bị đưa về bộ chỉ huy đảo-chánh! C̣n giả thuyết nếu xin đại sứ Hoa-Kỳ C. Lodge bảo vệ đưa ra khỏi nước th́ kết quả chắc ǵ đă khác hậu quả đă xảy ra với ông Cẩn: giao kẻ xin tị nạn cho phe ... giết người (!). Khi kết luận, thiển nghĩ Chính Đạo không công bằng khi núp sau luật nhân quả (nhưng ai đủ thẩm quyền để xét luật nhân quả?) để xem rất nhẹ tội kẻ chủ mưu giết anh em tổng-thống Diệm hơn là lời nói và cái ông gọi là “vỗ tay” của bà Trần Lệ Xuân khi bà nói đến các vị sư tự thiêu BBQ: sự tự thiêu dù sao cũng có phần nào nghi vấn, trong khi lời nói dù quá lố hoặc được hiểu là thêm dầu vô lửa hay vỗ tay cũng không phải là chính hành động ... giết người rồi chối tội sau khi đă nhận tiền ngoại bang và chia chác tiền của chiếm được!

    Nhiều luận án ở các đại học Pháp, Mỹ và Úc đă nghiên cứu nghiêm túc một số biến cố hoặc cả chân dung chính-trị miền Nam thời này, về chế độ đệ nhất cộng-hoà, về vai tṛ một số đảng phái ở miền Nam, và đă có những cái nh́n theo tôi là can đảm, trung thực, công bằng và khoa học. Ở Pháp có rất nhiều luận án từ cao học đến tiến sĩ không thể kể dài ḍng ở đây, ở Úc là nơi đang lên về nghiên cứu các vấn-đề Việt Nam từ chính-trị đến văn-học có những luận án tiến sĩ đại học Monash xin kể sau: The Miracle of Vietnam: the Establishment and Consolidation of Ngo Đinh Diem 's Regime, 1954-1959 của Nguyễn Ngọc Tân, The Budhish Crises in Vietnam 1963-1966 của Phan Văn Lưu, v.v.

    Ngoài ra cũng nên t́m hiểu thái độ cũng như những phát biểu của những người từng được chế độ đệ nhất cộng hoà cho đi du học, xem họ trung hoặc phản ra sao, cũng như nghiên cứu trường hợp những vị trí thức, khoa bảng hoặc thời cơ, “bảo hoàng hơn vua” để nịnh chế độ ra sao cũng như “tác phẩm” và thái độ của họ sau đó thế nào. Cũng như những người bỏ đạo gốc để theo đạo mới nịnh chế độ để tiến thân, rồi sau đảo-chánh, bỏ đạo mới! Và cả những người cao cấp nằm vùng, gián điệp nhị, tam trùng, v.v. Từ đó có thể có thêm những kết luận khác, về cái tâm địa khốn-cùng của con người chẳng hạn!

    Gần đây, một sinh viên tiến-sĩ người Mỹ đă gây ngạc nhiên cho tôi khi anh gặp tôi v́ muốn t́m hiểu rơ hơn vai tṛ của ông Nguyễn Văn Châu cũng như một số người khác liên hệ và chỉ ở những ngày trước sau vụ đảo-chánh 1-11. Một trí thức người Việt tốt nghiệp ở Nga cũng hỏi thăm tôi như vậy! Nghĩa là có người vẫn đi t́m sự thực lịch-sử, việc tôi vẫn và tiếp tục theo dơi! Ngoài ra mới đây, hai ngày 24-25 tháng 10-2003, một cuộc hội thảo về biến cố đảo-chánh 1-11 đă được Vietnam Center thuộc đại học Texas Technology ở Lubbock tổ chức. Cựu đảng viên cộng-sản Bùi Tín đă có bài tham luận đă kết luận như sau về tổng-thống Ngô đ́nh Diệm: “ông Diệm là một nhân vật chính-trị đặc sắc, có ḷng yêu nước sâu sắc, có tính cách cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị” (50). Bà Ngô đ́nh Nhu ở Paris h́nh như sắp ra hồi-kư (51), thế nào cũng sẽ cho thấy một số bộ mặt thật của nhân t́nh thế thái. Hy vọng các nhân chứng khác hoặc liên hệ đến cuộc đảo-chánh sẽ tiếp tục góp phần làm sáng tỏ một số sự kiện và con người!

    * Vài ḍng thêm: Khi vụ đảo chánh xảy ra, chúng tôi đang học trung học đệ nhất cấp. Một số tai mắt và quan-yếu của chế độ đệ nhất cộng hoà t́nh cờ có mặt trong nhà chúng tôi ở Tân-định khi tiếng súng phản-bội bắt đầu nổ sau 1 giờ 30 trưa. Sau đó là bể dâu đối với phần lớn trong các vị này và nay hầu như tất cả đều đă chết, phần lớn trên đường lưu-vong ở xứ người, ngay sau biến cố hoặc sau ngày 30-4-1975 và cả gần đây với những đợt H.O. - đă 40 năm rồi c̣n ǵ? Cá nhân chúng tôi - cũng như một số người Việt Nam, dù muốn dù không, đă bị lịch sử cuốn hút và ảnh-hưởng đến cuộc sống và cả cuộc đời! Rồi cuộc sống lưu vong, rồi những cơn băo ḷng của người Việt nhất là của một số bậc trưởng thượng hoặc đi trước, giữa đường đời thấy sự bất b́nh, khiến chúng tôi cũng đă đôi lần làm đôi việc rất khiêm tốn.

    Năm 1988, chúng tôi đă dịch và xuất bản cuốn Ngô Đ́nh Diệm Và Nổ Lực Hoà B́nh Dang Dở (Los Alamitos CA: Xuân Thu, 1989, tái bản cùng năm), một cách cung cấp thêm tiếng nói và quan-điểm của người trong cuộc là ông Nguyễn Văn Châu (1923-1985) cũng là cậu của chúng tôi. Đây là luận-văn Cao-học về sử mà ông đă tŕnh ở đại học Paris nhưng có tính hồi-kư v́ sự liên hệ và quá khứ của ông - tựa là Ngo Dinh Diem en 1963: une autre paix manquée. Lúc bấy giờ ông sống với nghề dạy học môn sử ở thành phố Orléans là nơi ông tị nạn chính trị sau khi ông về lại Hoa-thịnh-đốn sau vụ đảo-chánh 1-11. Ngày đảo-chánh ông đang có mặt ở Sài-G̣n lo đám táng người em ông là linh mục Ḍng Chúa Cứu Thế bị quân-xa đồng-minh Mỹ tung xe chết ở Vũng Tàu là nơi ngài đang dạy tiểu chủng-sinh ḍng - chứ ông Châu không phải về lại Việt Nam tổ chức hay liên hệ đến các phe đảo-chánh như một số người viết (52). Ông trung-tá Châu từng là giám-đốc Nha Chiến-tranh Tâm-lư, trưởng pḥng 5 Bộ Tổng tham-mưu và một số cơ-quan liên-hệ thuộc bộ Quốc pḥng. Với chế độ đệ nhất cộng-hoà, ông từng là quân-ủy của đảng Cần-Lao (Ban 5), đảng viên thuộc tiểu tổ Phan Đ́nh Phùng là tổ đầu tiên của đảng, nhánh Ngô đ́nh Cẩn cũng như bạn ông là Lê Quang Tung, là người khi được tin cẩn đă làm nhiều việc cũng như đă để lại một số sách lư thuyết về chống Cộng và lịch-sử (Thế Hệ Mới, Con Đường Sống; Con Người Mới; Gịng Lịch-sử; Thất bại của Việt Cộng, v.v.). Tài liệu Hà-Nội c̣n cho biết ông Châu lập và điều khiển Liên Đoàn Sỹ Quan Công Giáo khu thủ đô Sài-G̣n để làm mạnh và hiệu lực cho chế độ hơn cơ cấu “tổng tuyên úy quân đội” do quốc trưởng Bảo Đại lập với sắc lệnh từ 1952 (53)! Trở lại ngày đảo-chánh đă nói ở phần đầu, bạn hữu ông đến thăm sau đám tang (54). Khi tiếng súng đảo-chánh bắt đầu nổ, ông c̣n mặc áo tang đă vội vàng leo xe gắn máy một người lính thuộc quyền cũ (và từ chối lên xe jeep của NB, một đại úy do phe đảo-chánh gửi đến, sau ông đại úy làm lớn và cũng trở thành lư thuyết gia chống Cộng sáng giá của miền Nam và là người của Mỹ) và ẩn thân trong một nhà Ḍng rồi đổi chỗ. Khi đảo-chánh thành công, các bạn ông như anh em đại tá Lê Quang Tung tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, như đại tá Hồ Tấn Quyền chỉ huy Hải quân, đều bị đảo chánh giết, sinh mạng ông như ngọn đèn dầu trước băo táp bất nhân, phải nhiều lần ra phi trường ông mới được thoát trở về Hoa-Thịnh-đốn rồi bị nghĩ giă-hạn không lương. Thoát đạn vài vị tướng như nghe nói là TTĐ từng phải “nhịn nhục” ông trong quá khứ. Chán đồng minh Mỹ, ông đi Pháp, đổi sang nghề dạy học cũng như đi học lại. Sau Cao học, ông làm tiếp luận án tiến sĩ, có sang Canada và trở thành khách bộ Ngoại giao Mỹ muà hè 1984 khi đến D.C. nghiên cứu tài liệu. Chúng tôi lúc đó hành nghề thủ-thư ở thư viện Quốc hội Québec, đă phụ t́m giúp ông nhiều tài liệu của Anh nhất là của Sir R. Thompson, Dennis J. Duncanson, của Phi-Luật-Tân, (55)... Ông mất v́ bệnh tại miền Nam nước Pháp tháng 8-1985, hết c̣n có thể trả lời, bạch hóa một số hồi kư và nghi vấn về vụ đảo-chánh và vai-tṛ của ông trong quá-khứ! * Từ năm 1962, nội bộ anh em và gia-đ́nh Ngô đ́nh Diệm đă có những dấu hiệu rạn nứt, có thể bất đồng về một số quyết định chính-trị. Ông tổng-thống bắt đầu hết thích hợp thời thế (như chọn người ḍng dơi, biết chắc gốc gác), vả lại ông quá nhân từ và tin người - dùng người do Pháp đào tạo hoặc quá khứ khả nghi, cuối cùng là v́ sống theo tinh thần Nho giáo quyền huynh thế phụ mà ông đă không ngăn cản những sai trái của ông anh tổng giám mục và vợ chồng ông em cố vấn có con trai nối dơi. Hai ông cố vấn có lúc hai đường lối và nhân sự có khi không hẳn như nhau, đưa đến việc nghi ngờ và xa lánh những người thân tin từ đầu như ông trung tá NV Châu, bs Trần Kim Tuyến. Cả hai ông cố vấn đă dùng người đầu thú, chiêu hồi rất gentlemen, phần lớn thu phục người, nhưng có khi bị phản (Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, v.v.). Ba năm trước đó, sau vụ đảo-chánh 11-11-1960, ông trung tá Châu là thư kư Ủy Ban Nhân dân Chống Đảo-Chánh, các sĩ quan trung thành lúc đó nhiều hơn là người có ư phản. Ba năm sau, t́nh h́nh chính-trị và nhân sự đă thay đổi nhiều. Những cán bộ của Ngô đ́nh Cẩn hiệu nghiệm ở miền Trung nhưng bớt ở Sài-G̣n v́ không c̣n đồng thuận có trước đó và ê-kíp thu hẹp hơn trước (56). Chế độ sau 9 năm cầm quyền, với nhân t́nh đảo điên, với những quá đà và chia rẽ nội bộ, thế nào ngày cuối cũng đến, dù có hay không vụ đảo-chánh 1-11-1963. Nhưng nếu đến với nhiều lá phiếu thật của dân và không phải xảy ra những vụ giết người hèn nhát (anh em Diệm Nhu đă bị trói tay), bất công (ông Ngô đ́nh Cẩn ra đầu thú, thù hận và chính-trị đă xử thay v́ công lư xử), th́ lịch-sử đă bước đi ngă khác! Tổng-thống Ngô đ́nh Diệm dù có một số khuyết điểm (tinh thần gia tộc mạnh, nghe nịnh hót, xa dân, ...) đă hành xử lúc b́nh sinh và rồi tuẫn tiết như một nhà Nho, chứng tỏ khí tiết của một người quốc-gia yêu nước chân thành, trong khi đối lập và những kẻ phản dân chủ chạy theo tiền và ngoại bang. Có thể lúc về nước năm 1954 ông được sự ủng hộ của ngoại bang, nhưng đă tỏ ra có tài điều khiển khiến kéo dài được 9 năm. Ông không thật sự thiên vị đạo Công giáo và nếu có chăng là do những người tâng công hoặc lạm dụng, cả TGM Ngô Đ́nh Thục anh ông. (Năm 1959, tổng-thống Diệm được giải Leadership Magsaysay $15,000 đô nhưng ông đă chuyển cho đức Đạt Lai Lạt Ma qua lănh sự ở New Delhi). Kết luận như ông Minh Vơ: “Tổng-thống Ngô đ́nh Diệm là một lănh tụ xứng đáng của miền Nam” (57). LM Cao Văn Luận lúc gần cuối đời đă phê phán như sau: “Sự thanh toán ông Diệm và chế độ ông Diệm phải chăng là một sai lầm tai hại cho đất nước Việt Nam. Những hỗn loạn chính-trị, những thất bại quân sự sau ngày 1-11-1963 đă trả lời cho câu hỏi đó” (58).

    Cuộc đảo-chánh 1-11-1963 đă mở cửa cho cuộc chiến-tranh toàn diện, huynh đệ bị hy-sinh cho lư tưởng cường điệu của hai phe chiến-tranh lạnh, quốc-cộng trở nên lằn ranh hằn sâu lên tâm trí và thân xác con người Việt Nam cho đến hôm nay. Biến cố đó đă mở toang cho thú-tính tung hoành, cho thói tính vô-chính-phủ lên ngôi! Hậu quả này, nay đă rửa sạch, đă trả nợ xong chưa ? Một điều chắc chắn là thời gian 40 năm đă cắt nghĩa nhiều sự kiện, hành động, cũng như cho thấy bộ mặt thật của một số người (Nguyễn đ́nh Thuần, Phan Quang Đán, Bùi Diễm, TV Đôn, TT Đính, Đỗ Mậu (59), v.v.).

    Một nhận xét khác, từ biến cố 1-11, từ khi có quân có súng có “OK” của quan thầy cả tự ư nhân danh Chính nghĩa, để làm loạn, đảo-chánh, chỉnh lư, biểu dương lực lượng - mà năm 1964 là năm trăm hoa đua nở nhất, nhiều người làm chính-trị mỗi lúc một đưa Chính nghĩa ra làm ngáo ộp. Và xuất cảng ra đến hải-ngoại từ sau 1975. Chính nghĩa vốn là cái cao quư, hệ trọng cho cả một dân tộc, đă bị con người ta hễ có chuyện là lôi ra. Trục trặc phe nhóm, cá nhân, buôn bán bảo hiểm, làm ăn không như ư, thế là lại lôi Chính nghĩa ra. Thế mà cũng có thể lôi kéo, quyên góp được tiền bạc của nhiều người - th́ cứ xem như là một cách chống Cộng hay chống nằm vùng, chao đảo hoặc để lương tâm được ... yên ổn! Dĩ nhiên có những lúc mà Chính nghĩa đă được xử dụng đúng chỗ trong hơn 28 năm qua - phần lớn toàn mạo danh, thậm xưng, làm bạc giả!

    Trong bài này, hậu sinh chúng tôi trong việc t́m hiểu lịch-sử, chỉ nói đến sự phản trắc một cơ cấu dân chủ, hợp pháp, hợp hiến - tổng-thống Ngô đ́nh Diệm là người đại diện được dân cử. Hội đồng Cách-mạng cũng chỉ là một thiểu số của một cơ cấu là quân đội, hơn nữa các ủy viên đứng đầu phần lớn đă đi lính cho Pháp thời Pháp thuộc. C̣n Quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội miền Bắc nói chung anh hùng và nhiều bậc đáng kính hơn! Tai hại về lâu dài của vụ đảo-chánh phản bội, là đă làm yếu các chế độ sau đó v́ vẫn xây trên nền không-dân-chủ, và di hại hơn nữa v́ chứng đă thành bệnh khi ra đến hải-ngoại: năo trạng phản bội, chia rẽ, không tôn trọng dân chủ, cứ nh́n Văn Bút hải-ngoại, các cơ cấu cộng đồng Atlanta, Nam Cali và Bắc Cali đều chia làm 2 với thủ lănh khác nhau, rồi các cựu tù binh, tị nạn chính-trị, ngay cựu học sinh cũng thành nhiều hội mà danh xưng chỉ là một tṛ ... chơi chữ!

    Bài học nếu có cho thế hệ tương lai theo tôi là hăy quên quá-khứ nhưng hăy công b́nh với lịch-sử xét xử công tội cố gắng khách quan. Chân lư và công lư phải là những mục đích cần có trong việc t́m cho ra những nguyên nhân của năo trạng tinh thần và chính-trị người Việt Nam đă khiến cho nước Việt và con người Việt phải như hôm nay, t́m cho ra sự thực từ những khúc mắc chính-trị, gián điệp, tuyên truyền, v.v. Và thoát khỏi tâm địa thời thuộc địa và cả tư duy hậu thuộc địa!

    Tóm, tất cả người Việt chúng ta đều là nạn nhân của chính-trị nội bộ Hoa-Kỳ, của truyền thông và báo chí Hoa-Kỳ, của các cường quốc nói chung, của chiến-tranh lạnh, nhưng chúng ta cũng là nạn nhân chính chúng ta mà trong chúng ta kẻ nhiều tội nhất là những kẻ tự xưng là người của Mỹ, của Pháp, của Cộng sản quốc tế,...!

    Montréal, 16-10-2003

    http://motgoctroi.com/StLichsu/40nscpboi_NVK.htm

    -Mời xem tiếp phần chú thích-
    Last edited by longquan; 14-10-2011 at 12:45 PM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670
    40 năm sau cuộc bội phản



    Nguyễn Vy Khánh



    -Tiếp theo-

    Phần chú thích :

    1.Số tiền 3 triệu đồng Việt Nam tức 42,000 Mỹ kim do Lucien Conein đưa đến bộ Tổng Tham mưu cho các tướng đảo-chánh. X. Nguyên Vũ. Ngàn Năm Soi Mặt: tâm bút (Houston: Văn Hóa, 2002), tr. 114; Đỗ Mậu. Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Mission Hills CA: Quê Hương, tb 1987), tr. 816; v.v…
    2. Hội đồng Quân nhân Cách-mạng chỉ thành lập từ ngày 3-11-1963.
    3. Cao Văn Luận. Bên Gịng Lịch-Sử 1940-1965 (Sài-G̣n: Trí Dũng, 1972; Sống Mới tái bản, s.d.), tr. 256.
    4. Phạm Kim Vinh. Việt Nam Tự Do Từ Ngô Đ́nh Diệm Đến Lưu Vong. Tủ Sách PKV, 1987.
    5. Trần Văn Đôn. Việt Nam Nhân-Chứng (Los Alamitos CA: Xuân Thu, 198?), tr. 249.
    6. Tôn Thất Đính. 20 Năm Binh Nghiệp, tức Nghĩa Biển T́nh Sông (San Jose CA: TB Chánh Đạo, 1998), tr. 455.
    7. Đỗ Mậu. Sđd, tr. 789.
    8. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 250.
    9. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 238.
    10. Trần Văn Đôn kể Nhung đă khoe với con trai ông con dao găm lịch-sử (Sđd, tr. 236-8).
    11. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 236. Ngô Đ́nh Châu xác nhận điều này trong Những Ngày Cuối Cùng Của Đệ Nhất Cộng Ḥa Việt Nam (s.l.: Holly Graphics, 1999), tr. 19.
    12. Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức. Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm (San José CA: Quang Vinh, Kim Loan & Quang Hieu, 1994), tr. 532.
    13. Ngô Đ́nh Châu. Sđd, tr. 41. Ông Ngô Đ́nh Châu đă hỏi trung sĩ trưởng chiến xa M-113 chở anh em tổng-thống Diệm.
    14. Diễn Đàn Phụ Nữ, 148, 1996, tr. 59.
    15. Nguyễn Hữu Duệ. Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm (Tác-giả xuất-bản, CA 2003), tr. 170-171.
    16. Huỳnh Văn Lang. Nhân Chứng Một Chế Độ (Tác-giả xuất-bản, 2000), tập 3, tr. 256-8.
    17. Tập 2, tr. 70. Lại có tin ông DV Minh không nộp đủ, giấu đi một thùng phuy vàng (X. Nguyên Vũ. NNSM, Sđd, tr. 13).
    18. Nguyễn Hữu Duệ. Sđd, tr. 74 & 78. Ông Quan trước khi chết đă xin trở lại đạo Công giáo do TGM Nguyễn Văn B́nh rửa tội, điều ông muốbn từ trước đảo-chánh nhưng không làm v́ sợ hiểu lầm hoặc giống những người khác!
    19. Tr. 258. Nguyễn Kỳ Phong dịch, Vietnam Bibliography ở Centreville VA xuất-bản, 2003. Nguyên bản tiếng Anh xuất-bản năm 1985. Trong Bốn Mươi Năm Văn-Học Chiến-tranh (Đại Nam, 1997, tr. 140), chúng tôi có trách là các tướng sang Hoa-Kỳ viết report và study xuất-bản hạn chế cho bộ Quốc pḥng Mỹ mà quên đồng bào người Việt, nay có bản dịch này nằm trong số những tài liệu đó.
    20. Trong nước cũng làm một cuộc kỷ niệm 40 năm “cách-mạng 1-11-1963 thành công”, Nguyễn Đắc Xuân làm một cuộc “tham quan” dinh Gia Long và nhân đó tiết lộ tướng Dương Văn Minh đă “nạt nộ tướng Đôn “André! Giờ này mà anh c̣n muốn phản tôi hả? Nhung đưa súng đây”. Tướng Đôn sợ quá muốn xỉu luôn! “ (Bốn Mươi Năm Nh́n Lại, tuyển tập 1963-2003. Garden Grove CA: Giao Điểm, 2003). Chuyện tướng Đôn chiều ngày 1-11 điện thoại với tổng-thống Diệm đă có người nói đến, nhưng việc ttướng Minh giựt điện thoại và câu nói “lịch-sử” trên th́ chưa, chúng tôi ghi lại với dè dặt v́ chưa biết! Xuân kể theo lời KTS Nguyễn Hữu Đống mà theo ông là “người đại diện dân sự độc nhất có mặt bên cạnh tướng DV Minh lúc ấy”(?).
    21. Anne Blair. Lodge in Vietnam. New Haven: Yale University Press, 1995, tr. 190.
    22. Bùi Tín. “Nhân vật lịch-sử Ngô đ́nh Diệm và hậu quả cuộc đảo-chánh 1-11, 63”, Ngày Nay, 513, 15-10-2003, tr. A5 & B6.
    23. Theo cuộn băng 37 tiếng đồng hồ tàng trữ ở JFK Library (Boston) được giải mật ngày 24-11-1998.
    24. X. David Antonel et al. Les Complots de la CIA. Paris: Stock, 1976 (Chương “Un suicide accidentel” - lấy lại lời tuyên bố với báo chí của tướng Trần Tử Oai, ủy viên báo chí, nghe theo lời dặn của tướng Trần Văn Đôn).
    25. Trích theo F X Winters. Sđd, tr. 183. Trong khi đó, tờ New York Herald Tribune th́ bênh vực chế độ Ngô đ́nh Diệm!
    26. Chính Đạo. Tôn Giáo Và Chính-Trị: Phật Giáo, 1963-1967. Houston: Văn Hóa, 1994, trích theo bản cập nhật 2003 (phần C. Thay đổi đại sứ Mỹ).
    27. X. Marguerite Higgins. Our Vietnam Nightmare, 1965; Ellen J. Hammer . A Death in November: America in Vietnam, 1963. 1987; Nguyễn Ngọc Tân. “The Miracle of Vietnam: the Establishment and Consolidation of Ngo Đinh Diem 's Regime, 1954-1959”. Ph. D. Thesis, Monash University.
    28. X. Nghiên cứu của chúng tôi về các vận động chính-trị của người Việt hải-ngoại 1975-2005, sẽ công bố hoặc xuất-bản.
    29. Bách Khoa SG, 1969, đăng lại trong hồi kư Hơn Nửa Đời Hư.
    30. Bà Tùng Long. Hồi-Kư (Saigon: NXB Trẻ, 2003), tr. 221.
    31. Nguyễn Văn Châu ghi nhận trong Ngô Đ́nh Diệm Và Nổ Lực Hoà B́nh Dang Dở (Los Alamitos CA: Xuân Thu, 1989), tr. 95.
    32. “Những sai lầm của Đệ Nhất Cộng Ḥa”. Thời Báo Toronto 202, 11-11-1993; 203, 18-11-1993 (cùng đăng trên một số báo khác). Ông Khôi tư lệnh Lữ đoàn Pḥng vệ Tổng-thống phủ lúc xảy ra đảo-chánh 1-11, trong bài viết ông tỏ ra mặc cảm, ghen tương với nhiều người khác lên lon lên chức hơn ông và ông muốn đính chính chối từ liên hệ của ông với chế độ. Ông phê b́nh ông NV Châu đem đảng Cần lao vào quân đội làm mất hiệu lực và làm mất miền Nam (?). Phê phán ngây thơ v́ chiến-tranh một sống một c̣n với guồng máy cộng-sản, đáng ra c̣n phải đi xa hơn, nếu không triệt để tổ chức lại quân đội quốc gia th́ cũng phải cô lập hoặc cho làm bàn giấy tất cả những phần tử do Pháp đào luyện hoặc quá-khứ khả nghi (MH Xuân, TT Đính, DV Minh, Đỗ Mậu, ...) là chuyện khả thể ngay cả trong các xă hội dân chủ như Hoa-Kỳ, Pháp.
    33. Sđd, tr. 97.
    34. X. Vĩnh Phúc. Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đ́nh Diệm. (Westminter CA: Văn Nghệ, 1998), tr. 337.

    35. Chính Đạo. “Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975” (chưa xuất-bản, bản Internet ở trang giaodiem.com).
    36. Đó cũng là nội dung của cả chương XVI, sđd.
    37. Một người nghiên cứu trẻ, Nguyễn Kỳ Phong, tác-giả bộ Người Mỹ và Chiến-tranh Việt Nam (Centreville VA: Vietnam Bibliography, 2001) từng bị chính trị gia Nhị Lang phê phán quá dựa theo tài liệu của Mỹ. X. “Trở lại vụ án 47 năm trước: ai giết tướng Tŕnh Minh Thế?”. Văn Nghệ Tiền Phong, 636, 16-7-2002, tr. 24+.
    38. Chính Đạo. Tôn Giáo Và Chính-Trị: Phật Giáo, 1963-1967. Houston: Văn Hóa, 1994, trích theo bản cập nhật 2003.
    39. Hải Triều Âm, 2, 30-4-1964, tr. 5. Trích lại từ Lê Cung. “T́m hiểu những sự kiện đầu tiên trong phong trào Phật giáo miền Nam 1963”. Nghiên Cứu Lịch-Sử, 4, 1994, tr. 10. Chú thêm: Vụ tṛ Ơn bị giết khiến học sinh biểu t́nh và làm rớt chính phủ thời đó!
    40. Ngày Nay, 374, 15-9-1997, tr. A5-6.
    41. Đă đăng trên trang Internet Vietpage.com ngày 6-9-2003.
    42. ST. “Dân-tộc Việt Nam hai lần bị lường gạt”. Bên Kia Bờ Đại Dương, 45, 6-2002.
    43. Dĩ nhiên bị một số người bênh nhóm tướng lănh “cách-mạng”, chế độ sau đó và bênh nhóm Phật giáo bạo động, chỉ trích. Nhưng khác Vĩnh Phúc, hai tác-giả này đă phỏng vấn hoặc khiến một số người trong cuộc phải lên tiếng, cả sau khi đă xuất-bản như với trung tá Dương Hiếu Nghĩa (X. Diễn Đàn Phụ Nữ 148, 1996, tr. 59).
    44. The Pentagon Papers: as published by the New York times, The Pentagon history was obtained by Neil Sheehan. Written by Neil Sheehan [and others]. New York, Quadrangle Books [1971]. 810 p.
    45. Report of the UN Fact Finding Mission to South Vietnam. Washington D.C.: Government Printing Office, 1964. 254 tr.
    46. Bđd. Thời Báo Toronto 202, 11-11-1993; 203, 18-11-1993.
    47. Methuen MA: Lê Hồng, 2001. Chúng tôi đă có lời viết Tựa cho tập Hồi kư này.
    48. Thí dụ không tin lời học giả Trần Trọng Kim (VNSL) mà tin báo cáo của Khâm sứ Pháp về việc đào mă lănh tụ Cần Vương Phan Đ́nh Phùng. Chính Đạo. Sđd, chú 51. Để viết tiểu sử Ngô Đ́nh Diệm, theo lời ông Nguyên Vũ, đă “sử dụng cơ bản là tập tiểu sử chính phủ Diệm do cơ quan an ninh Pháp thành lập ngày 5/7/1954 hiện vẫn c̣n chưa giải mật” (HCM con người & huyền thoại, tập III: 1947-1969).
    49. Nguyên Vũ. NNSM. Sđd, tr. 135.
    50. Bùi Tín. Bđd. Ngày Nay, tr. A5.
    51. X. Trương Phú Thứ. Văn Nghệ Tiền-Phong, 643, 1-11-2002, tr. 8.
    52. Hoặc nói rằng ông Châu về dự lễ mở tay linh mục của người em ông (X. Nguyễn Hữu Duệ, Sđd, tr. 97) - thật ra đă xảy ra năm 1960.
    53. X. Nghiên Cứu Lịch-Sử, 48, 3-1963, tr. 6.
    54. Trong số có ông Đỗ Mậu (X. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 203), nhưng ông Mậu không nói đến trong hồi kư của ông. Người duy nhất trong số đó c̣n sống là ông NN Khôi.
    55. Ghi lại vài tài liệu c̣n nhớ: Dennis J. Duncanson: Lessons of Vietnam: three interpretive essays, 1971; Indo-China, the conflict analysed, Conflict Studies 39, 1973, v.v.; Robert Thompson: Defeating Communist insurgency: experiences from Malaya and Vietnam. 1966; “Vietnam: the human cost of communism”. Worldview Nov 1972; No exit from Vietnam. 1969; Peace is not at hand. 1974; v.v. Ngoài ra, nói đến tài liệu, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ c̣n giữ cuộn băng ông trả lời phỏng vấn của nhà báo Neil Sheehan năm 1974 (X. Prof. Nguyen Van Chau, Oct. 24, 1974, my study, Wash., D.C. [sound recording]. 1974; Call no: RYB 6636-6637 (Recording made or collected by Neil Sheehan in preparation for the writing of his book A bright shining lie: John Paul Vann and America in Vietnam).
    56. Nhà văn Nguyên Sa trong Hồi Kư (Irvine CA: Đời, 1998) đă viết lại sự hữu hiệu của công an miền Trung ở Sài-G̣n (tr. 271+).
    57. Minh Vơ. Sđd, tr. 286.
    58. Cao Văn Luận. Bên Gịng Lịch-Sử Việt Nam, 1940-1975 (Sacramento, CA: Tantu Research, c1983), tr. 6.
    59. Ông Tôn Thất Đính và Đỗ Mậu là hai người bị phê phán nặng nề nhất, riêng ông Đính ít ra đă có những lời “thú lỗi” dù tập thể ở đoạn cuối cuốn hồi kư: “cuộc hành quân 1-11-63 không phải là một thành công mà chính là một thảm bại lớn lao đối với lịch-sử” (Sđd, tr. 455). Hăy so với đa ngôn nhưng lời rỗng của Đỗ Mậu: “ư nghĩa thực sự của ngày 1-11-63 là giải thoát. Trên mặt lịch-sử, nó chấm dứt những bế tắc của thế và thời để khai mở một gịng sinh mệnh mới; trên mặt dân-tộc, nó chấm dứt một giai đoạn tŕ trệ và đen tối để dân-tộc lại trở về với chức năng của chủ nhân đất nước (!)... “ (Sđd, tr. 791).
    Last edited by longquan; 14-10-2011 at 12:45 PM.

  4. #4
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Hoa Kỳ và cuộc đảo chánh 1-11-1963

    Khui hồ sơ "Tối Mật" : Mỹ chủ mưu thanh toán anh em TT Ngô Đình Diệm

    Ngô Kỷ tổng hợp và chuyển ngữ


    Ngày 01 tháng 11 năm 1963, 44 năm qua, có thể chuyện đă trở thành cũ so với một đời người, nhưng lại quá mới nếu đem so với chiều dài của lịch sử. Từ trước đến nay, có rất nhiều cựu tướng lănh, chính trị gia Việt Nam lẫn Mỹ viết những cuốn hồi kư nói về ngày đảo chánh, nhưng hầu hết đều có tính cách chủ quan và mang màu sắc đánh bóng, chạy tội.

    V́ viết về "cái tôi" nên các chi tiết họ đưa ra chứa đầy thiên kiến, ích kỷ và cố tạo thành một "diễn đàn" để nhục mạ đối tượng nhằm thỏa măn tự ái và trốn chạy mặc cảm tội lỗi. V́ không đồng ư với lề lối viết đó, nên chúng tôi cố gắng sưu tầm và trích dịch một số dữ kiện có tính cách khả tín v́ được tŕnh bày trùng hợp với nhau từ hơn chục quyển sách ngoại quốc. Các chi tiết này được thâu thập từ văn khố chính phủ, từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp, từ các bản tự thú hữu thệ và từ các buổi điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ v.v...
    Trong tập tài liệu này, có đề cập đến những chữ như "chính phủ Diệm", "Tổng Thống Diệm", điều đó không nhất thiết Tổng Thống Diệm là người đích thân hay trực tiếp ra lệnh, sắp xếp, thông tường tất cả mọi sự kiện, vấn đề đang xảy ra trong nước. Nhưng v́ với chức vụ Tổng Thống, nên Tổng Thống Diệm phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hành động, lời nói của thuộc cấp, luôn cả của ông bà Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu, ông Ngô Đ́nh Cẩn v.v...


    V́ đề tài quá rộng lớn và vô cùng phức tạp, v́ chúng tôi không phải là sử gia, do đó các chi tiết trong tập tài liệu chỉ có tính cách tóm lược mà thôi. V́ tôn trọng sự trung thực của vấn đề, chúng tôi cố gắng giữ vai tṛ thật khách quan trong khi dịch thuật, mà không suy diễn, không phân tích, không ca ngợi, không chỉ trích, không vu cáo, không bênh vực, không lên án, không bào chữa...

    Chúng tôi chỉ ước ao những người từng chủ trương, tham dự cuộc đảo chánh năm 1963 nhân danh v́ đạo pháp, v́ tự do, v́ dân chủ, v́ nhân quyền, v́ hạnh phúc, v́ độc lập dân tộc, th́ cũng xin đừng quên rằng hiện nay nơi quê nhà, Cộng Sản Việt Nam là một tập đoàn "đảng trị", đang kỳ thị, đàn áp, bắt bớ, giam cầm các lănh tụ tôn giáo, đang đóng cửa, tịch thu các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, đang thủ tiêu, giết chóc các nhà chính trị đối lập, đang liếm gót giày Nga, Tàu, "đế quốc Mỹ", và đang vi phạm gấp hàng triệu lần những ǵ mà quư vị đă từng hô hào xuống đường, tranh đấu.

    Nếu quư độc giả cần thêm tài liệu, h́nh ảnh, hay nguyên bản, xin liên lạc về:
    Ngô Kỷ, P.O.Box 836 , Garden Grove , Ca 92842.
    Email: ngokyusa@yahoo.com



    Tiểu sử và sự nghiệp tổng thống Ngô Đ́nh Diệm



    Ông Ngô Đ́nh Diệm sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 trong một gia đ́nh có 9 người con. Thân phụ là ông Ngô Đ́nh Khả từng phục vụ dưới triều vua Thành Thái. Ông Diệm thuộc gia đ́nh Công Giáo và từng có ư muốn lớn lên làm linh mục. Học trường Quốc Học Huế và tốt nghiệp lúc 16 tuổi. Sau đó ghi danh học trường Luật và Quản Trị của Pháp ở Hà Nội, tỏ ra là một sinh viên thông minh, xuất sắc và ra trường đứng đầu lớp. Tốt nghiệp, ông Diệm đi làm việc ngay cho chính phủ.

    Ông tiến thân rất mau trên con đường công danh. Lần lượt ông được bổ nhậm vào các chức vụ: Quan Hậu Bổ, Tri Huyện tỉnh Thừa Thiên, Tri Phủ tỉnh Quảng Trị, Quản Đạo Ninh Thuận tỉnh Phan Rang và Tuần Vũ B́nh Thuận tỉnh Phan Thiết.


    Là người Việt Nam ái quốc, ông Diệm chống đối sự đô hộ của Pháp và lên án chủ nghĩa Cộng Sản, mà theo ông đó là kẻ thù của người Việt Quốc Gia. V́ thấy ông Diệm có khả năng và năng động, nên vào ngày 02 tháng 03 năm 1933, Vua Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm nắm chức vụ Thượng Thư Bộ Lại đứng đầu nội các (tương đương với Bộ Nội Vụ).

    Ông Diệm rất thích thú với công việc mới này, ông đưa ra một số biện pháp và chương tŕnh cải tổ guồng máy cai trị, nhưng bị Vua Bảo Đại và Pháp từ chối. Thất vọng và bất măn, ông từ chức và không giữ chức vụ ǵ sau đó nữa cho đến khi ông làm Thủ Tướng vào năm 1954.

    Ông Diệm sống tại nhà của thân sinh gần Huế. Ông từ chối mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nhưng ông từ chối với lư do Việt Minh giết anh cả của ông.

    Năm 1949, Pháp lập lên chính phủ Bảo Đại, ông Diệm yêu cầu Vua Bảo Đại đ̣i Pháp nới rộng tự do cho đất nước, nhưng bị từ chối nên ông Diệm rất thất vọng.
    Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ và sống 2 năm tại Lakehurst , New Jersey . Ông đi ṿng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam . Ông Diệm nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đức Hồng Y Francis Cardinal Spellman, Phát ngôn viên của Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Hồng Y Richard Cardinal Cushing, Linh Mục Raymond J. de Jaegher, Thượng Nghị Sĩ William F. Knowland, Thượng Nghị Sĩ John Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ William O. Douglas.


    Vào năm 1954, khi có triệu chứng Pháp thua tại Đông Dương và Cộng Sản có cơ hội chiếm Việt Nam , Hoa Kỳ quyết định can thiệp để thay thế Pháp và cố bảo vệ miền Nam Việt Nam. Chính phủ Mỹ muốn t́m người để ủng hộ. Lúc đó Ngoại Trưởng Mỹ John Foster Dulles biết được ông Diệm. Với tài quản trị, ái quốc, và chống Cộng triệt để, ông Diệm lấy được cảm t́nh của nhân dân Mỹ.
    Vua Bảo Đại cử ông Diệm làm Thủ Tướng. Về nước ngày 25 tháng 06 năm 1954, ông Diệm lấy làm lo lắng và xót xa khi thấy quốc gia đang bị băng hoại, tham ô, và quan lại. Ông phải phấn đấu và giữ sáng suốt để đương đầu trước một hoàn cảnh đầy khó khăn, phức tạp và tế nhị khi hai cường quốc Pháp và Mỹ đang tranh giành xâu xé ảnh hưởng tại Việt Nam .
    Vào ngày 01 tháng 10 năm 1954, Tổng Thống Mỹ Eisenhower viết cho ông Diệm một lá thư và được Đặc Sứ Mỹ Donald R. Heath trao vào ngày 23 tháng 10 năm 1954 với nội dung Mỹ cam kết ủng hộ kinh tế và quân sự cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm.


    Những nhân vật Mỹ chính yếu đứng sau lưng ông Diệm thời đó là Giám Đốc Cơ Quan Trung Ương T́nh Báo (CIA) Đại Tá Không Quân Edward G. Landsdale và Tướng J. Lawton "Lightning Joe" Collins, Đặc Sứ của Tổng Thống Eisenhower đặc trách miền Nam Việt Nam.

    Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ư. Ông Diệm đạt 98.2% phiếu thắng Vua Bảo Đại, và ông Ngô Đ́nh Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.

    Trong 9 năm thăng trầm của lịch sử, có những lúc Tổng Thống Diệm phải đương đầu với ư muốn bành trướng quân đội Mỹ tại Việt Nam . V́ muốn có chủ quyền và khỏi mất chính nghĩa, nên Tổng Thống Diệm mạnh mẽ chống lại việc đưa lính "tác chiến" Mỹ vào Việt Nam, ông chỉ nhận viện trợ và cho phép Cố Vấn Mỹ vào Việt Nam mà thôi, sự kiện này đă sinh ra bất đồng giữa hai chính phủ.

    Sau những chua cay ngọt bùi, khó khăn, nguy hiểm, vinh nhục trong chức vụ Tổng Thống, sự nghiệp và sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă kết thúc vào năm 1963, mà bắt nguồn từ biến cố Phật Giáo ngày 08 tháng 05 năm 1963 tại Huế.


    Diễn biến đưa đến đảo chánh

    Ngày 05 tháng 05 năm 1963, thành phố cổ kính Huế treo đầy cờ và khẩu hiệu để mừng Đức Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, bào huynh của Tổng Thống Diệm. Trong số cờ đó có cờ của Giáo Hội Công Giáo Vatican tức cờ nửa vàng nửa trắng và h́nh Đức Giáo Hoàng. Biểu tượng này được nh́n như là Ṭa Thánh Vatican công nhận miền Nam và đạo Công Giáo tại Việt Nam , xóa đi h́nh ảnh đô hộ của Pháp Quốc lâu nay.

    Ngày 08 tháng 05 năm 1963, Phật tử tại Huế treo cờ Phật Giáo để mừng Đại Lễ Phật Đản thứ 2.507, nhưng chính quyền không cho phép. V́ tức giận, tối đó một số Phật tử kéo đến biểu t́nh tại đài phát thanh để phản đối chính quyền. Trong khi xô xát, một quả bom nhỏ hay một trái lựu đạn phát nổ, t́nh h́nh hổn loạn. Kết quả có 9 người chết, trong đó có một trẻ em, và 20 người khác bị thương.

    Chính quyền quy kết Cộng Sản trà trộn đặt chất nổ giết người để gây xáo trộn. Phía biểu t́nh kết án Thiếu Tá Đặng Sỹ ra lệnh nổ súng giết người biểu t́nh. Theo lời kể của ông Lănh Sự Mỹ tại Huế: "Lính chính quyền hốt hoảng v́ tiếng nổ và la hét của đám biểu t́nh nên xả súng bắn vào đám biểu t́nh". Ông John Mecklin, Phát ngôn viên ṭa Đại Sứ tuyên bố: "Cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản không khác chi đi cấm người Mỹ hát nhạc mừng trong ngày Chúa Giáng Sinh". Cũng có tin cho rằng chính phủ Tổng Thống Diệm không cho phép treo cờ Phật Giáo lớn hơn và ngang hàng với cờ Quốc Gia Việt Nam v́ đó là theo luật lệ của chính phủ đă có từ lâu, chứ không phải là cấm treo cờ Phật Giáo.

    Vào thời điểm này, Phật giáo có khoảng 10.5 triệu người, và Công Giáo có khoảng 1.5 triệu người.

    Hôm sau, ngày 09 tháng 05 năm 1963, hơn 10 ngàn người kéo đến nhà Tỉnh Trưởng Huế biểu t́nh và đ̣i hỏi 5 điểm:

    1. Hủy bỏ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo.
    2. Phật Giáo được quyền b́nh đẳng như Công Giáo.
    3. Không được đàn áp Phật Giáo.
    4. Phật Giáo được quyền thờ phượng tôn giáo của ḿnh.
    5. Chính quyền phải bồi thường cho các gia đ́nh nạn nhân, và phải trừng trị các người có trách nhiệm trong vụ bắn chết người trong ngày 08 tháng 05 năm 1963.


    Ngày 15 tháng 05 năm 1963, phái đoàn Phật Giáo gồm 8 người từ Huế vào Sài G̣n tŕnh kiến nghị cho Tổng Thống Diệm. Tổng Thống Diệm đồng ư hầu hết các yêu sách, và hứa sẽ điều tra. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm không chịu bồi thường cho các gia đ́nh nạn nhân v́ sợ Phật Giáo làm tới. Nhưng tuần sau Tổng Thống Diệm đổi ư, không chịu nhượng bộ Phật Giáo, sự kiện này làm Phật Giáo bất măn.

    Ngày 28 tháng 05 năm 1963, Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết, Lănh Đạo Phật Giáo Việt Nam lên tiếng kêu gọi biểu t́nh. Tại Huế, hàng ngàn tăng ni xuống đường.

    Tại Sài G̣n hàng trăm tăng ni biểu t́nh và tuyệt thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại Sứ Mỹ Frederick E. Nolting vắng mặt tại Sài G̣n, Bộ Ngoại Giao Mỹ Mỹ chỉ thị ông Phó Đại Sứ William C. Trueheart (Deputy Chief of Mission ) giải quyết.

    Ngày 02 tháng 06 năm 1963, tại Huế, 500 sinh viên biểu t́nh chống chính quyền kỳ thị. Biến thành bạo động, cảnh sát dùng chó, lựu đạn cay tấn công đoàn biểu t́nh, 67 sinh viên bị thương phải vào bệnh viện. Chính quyền ra lệnh giới nghiêm Huế và cho cảnh sát, công an kiểm soát đường phố.

    Để tránh đụng chạm, Tổng Thống Diệm thải hồi 3 viên chức có trách nhiệm vụ bắn chết người biểu t́nh ngày 08 tháng 05 năm 1963, trong đó bị thải hồi có Thiếu Tá Đặng Sỹ. Chính quyền lên tiếng xin lỗi Phật Giáo, nói là các nhân viên chính quyền đă thiếu tế nhị khi hành xữ công tác và hứa sẽ cho một phái đoàn chính phủ tiếp xúc với Phật Giáo để bồi thường các gia đ́nh nạn nhân.

    Ngày 04 tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart gặp Ông Nguyễn Đ́nh Thuần, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để yêu cầu giải quyết. Phật Giáo có gặp nhưng hai bên bất đồng ư kiến.

    Ngày 07 tháng 06 năm 1963, bà Ngô Đ́nh Nhu tức bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và lên án những vị lănh tụ Phật Giáo do Cộng Sản giật dây.

    Sáng ngày 11 tháng 06 năm 1963, Phát ngôn viên của Phật Giáo thông báo cho các phóng viên, kư giả Mỹ biết sẽ có một biến cố quan trọng sẽ xảy ra tại ngă tư Lê Văn Duyệt và Phan Đ́nh Phùng thành phố Sài G̣n. Hàng ngàn tăng ni, phật tử đứng chung quanh, ḤaThượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi b́nh thản tự thiêu bằng xăng. Chính quyền tuyên truyền rằng Ḥa Thượng Thích Quảng Đức ngồi b́nh tỉnh là do bị chích ma túy nên không biết nóng.

    Bà Ngô Đ́nh Nhu tuyên bố về cái chết của Ḥa Thượng Thích Quảng Đức: "Tất cả cái mà các vị lănh đạo Phật Giáo đóng góp vào quốc gia này là đi nướng một vị tăng (barbecue)". Chính quyền Tổng Thống Diệm cho rằng việc tự thiêu là do Cộng Sản sắp đặt, và chính Đại Sứ Mỹ Nolting cũng ủng hộ lời giải thích này, ông nói: "Theo tôi nghĩ, đây là do Việt Cộng. Động lực thúc đẩy việc này là do chính trị chứ không phải do vấn đề tín ngưỡng".

    Cái chết của Ḥa Thượng Thích Quảng Đức là ngọn lửa châm ng̣i cho Phật Giáo đấu tranh kịch liệt và mạnh mẽ hơn. H́nh ảnh tự thiêu đă gây xúc động nhân dân, chính phủ Mỹ và toàn thế giới. Chính phủ Mỹ lên án Tổng Thống Diệm. Bộ Ngoại Giao Mỹ chỉ thị Phó Đại Sứ Trueheart bí mật tiếp xúc với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ để báo tin cho biết là Mỹ sẽ ủng hộ Phó Tổng Thống Thơ nếu Tổng Thống Diệm ra đi.

    V́ thấy Đại Sứ Mỹ Nolting quá thân với Tổng Thống Diệm, nên Tổng Thống Kennedy tuyên bố thay thế Đại Sứ Nolting bằng tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge trong khi Đại Sứ Nolting đang đi Âu Châu mà không thông báo cho ông biết.

    Đại Sứ Nolting chỉ được biết qua đài phát thanh mà thôi. Tức bực, Đại Sứ Nolting phát biểu: "Tôi nói thẳng là tôi nghĩ có một số người có thế lực tại Bộ Ngoại Giao, họ là những người rất vui mừng khi thấy tôi phải ra đi bởi v́ họ muốn cho ông Diệm thật nhiều sợi dây thừng để ông tự treo cổ ông ta. Có một chiến dịch đạp đổ ông Diệm làm tôi nghĩ rằng nó phát xuất từ các ông Thứ Trưởng Averrell Harriman, Roger Hilsman và một số viên chức trong Ṭa Bạch Ốc. Điều đó đi ngược lại sự cố vấn của CIA. Tôi muốn các điều tôi nói đây được ghi vào hồ sơ".

    Sau này, Tướng Maxwell D. Taylor, từng là Chủ Tịch Liên Quân Hoa Kỳ (Tổng Tham Mưu Trưởng) thời đó kể lại là Ban Cố Vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm 2 phe: một phe th́ muốn lật đổ Tổng Thống Diệm v́ nói là "không thể thắng Cộng Sản nếu c̣n Tổng Thống Diệm", c̣n phía ủng hộ Tổng Thống Diệm mà trong đó có Tướng Taylor th́ nói là "có thể chúng ta không thể thắng Cộng Sản nếu đi với Tổng Thống Diệm, nhưng nếu không đi với Diệm th́ đi với ai?" Mọi người đều im lặng, không ai trả lời được câu này.

    Ngày 16 tháng 06 năm 1963, Ủy Ban Chính Phủ và Phật Giáo kư bản Thông Cáo Chung, đồng ư thỏa măn các đ̣i hỏi của Phật Giáo, nhưng lại không nhận trách nhiệm. Báo chí Mỹ, đài VOA chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm. Phật Giáo thay thế Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết bằng Thượng Tọa Thích Trí Quang lănh đạo cuộc đấu tranh. Theo báo cáo của CIA, Thượng Tọa Thích Trí Quang là người Bắc, sinh năm 1922, là "một người khôn lanh, thâm hiểm, không t́nh cảm, có mưu đồ chính trị và đầy tham vọng lănh tụ".

    Ngày 25 tháng 06 năm 1963, Trưởng Pḥng CIA John Richardson tại Sài G̣n (CIA Chief Station) thất bại trong việc đứng ra điều đ́nh giữa chính quyền Tổng Thống Diệm và Phật Giáo. Ông Cố Vấn Nhu nói: "Các lănh tụ Phật Giáo không bao giờ tuyên bố và cũng không bao giờ chống Cộng Sản cả". Ông Nhu cũng chỉ trích thái độ mềm dẽo của Tổng Thống Diệm v́ làm như vậy khiến cho chính quyền khó giải quyết vấn đề. Ông Nhu tuyên bố: "Nếu chính phủ không áp dụng luật pháp th́ chính phủ sẽ sụp đổ và tôi là người đầu tiên nghĩ như thế". Ông Nhu hàm ư rằng trong t́nh trạng khẩn trương của đất nước, nếu cần, ông sẽ đứng ra ngoài t́nh cảm gia đ́nh, ông có thể chống cả chính phủ và Tổng Thống Diệm.

    Khi thấy phong trào đấu tranh của Phật Giáo bùng nổ mạnh mẽ dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang, Tổng Thống Kennedy hỏi ông Phụ Tá Tổng Thống Michael Forrestal rằng: "Họ là ai? Tại sao chúng ta không biết đến họ trước kia vậy?”

    Những ngày cuối tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart tiếp xúc Tổng Thống Diệm hàng ngày để đ̣i hỏi Tổng Thống Diệm nhượng bộ Phật Giáo. V́ thấy Tổng Thống Diệm không nghe lời, Phó Đại Sứ Trueheart đe dọa Mỹ sẽ không ủng hộ chính phủ Tổng Thống Diệm. Bị xúc phạm bởi những lời đe dọa của Mỹ, kể từ đây Tổng Thống Diệm tỏ ra bất cần Mỹ, và kêu gọi dân chúng thắt lưng buộc bụng để độc lập với Mỹ.

    Ngày 04 tháng 07 năm 1963, tờ báo viết bằng Anh ngữ Times of Viet Nam do ông Nhu tài trợ viết bài tấn công Mỹ và nói Ḥa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu v́ bị chích ma túy.

    Tại Hoa Thịnh Đốn, các giới chức cao cấp Bộ Ngoại Giao phúc tŕnh Tổng Thống Kennedy biết t́nh trạng bất ổn tại Việt Nam và kết tội ông Nhu phá hoại bản Thông Cáo Chung kư ngày 16 tháng 06.

    Tại Hoa Thịnh Đốn, bàn tán xôn xao về kế hoạch loại ông Cố Vấn Nhu và bà Nhu ra khỏi chính quyền. Đại Sứ Nolting được gọi họp tại Ṭa Bạch Ốc. Tại đây, ông Nolting khuyến cáo Tổng Thống Kennedy rằng nếu đảo chánh sẽ tạo ra nội chiến, và ông Nolting hy vọng là ông có thể thuyết phục được Tổng Thống Diệm. Mặc dù Tổng Thống Kennedy đă tuyên bố bổ nhiệm ông Henry Cabot Lodge thay thế ông Nolting để làm đại sứ tại Việt Nam, nhưng Tổng Thống Kennedy lại chỉ định ông Nolting qua Sài G̣n lần nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm.

    Ngày 11 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting trở lại Sài G̣n. Tuyên bố với báo chí, ông nói ông qua lần này nhằm thuyết phục Tổng Thống Diệm thay đổi lập trường. Ông khuyến khích Tổng Thống Diệm lên đài phát thanh để nhận lỗi về việc tranh chấp với Phật Giáo.

    Ngày 18 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting dành cả ngày thuyết phục, khuyến khích, yêu cầu và ngay cả đe dọa Tổng Thống Diệm, tuy nhiên không đạt được ǵ khả quan cả, trừ việc Tổng Thống Diệm đồng ư lên đài phát thanh để hứa "cộng tác" chặt chẽ với Phật Giáo. Vụ tự thiêu lần thứ hai xảy ra.

    Ngày 19 tháng 07 năm 1963, Tổng Thống Diệm nói trên đài phát thanh chỉ 2 phút. Với giọng nói lạnh lùng, Tổng Thống Diệm hứa hẹn rất ít, yêu cầu mọi người kính trọng chức vụ Tổng Thống của ông, và hứa sẽ chỉ định một Ủy Ban Chính Phủ khác điều tra các khiếu nại của Phật Giáo. Dù vậy, cảnh sát vẫn tiếp tục bao vây các chùa chiền bằng dây kẽm gai.

    Ngày 05 tháng 08 năm 1963, tại Phan Thiết, sư Nguyên Hương tự thiêu bằng xăng.

    Ngày 13 tháng 08 năm 1963, một vị sư ở Huế quấn cờ Phật Giáo tự thiêu.

    Tại Ninh Ḥa, một ni cô ngồi tại nhà thờ Công Giáo tự thiêu.

    Ngày sau đó, một vị sư 71 tuổi tự thiêu trong sân chùa Từ Đàm Huế.

    V́ phong trào Phật Giáo đấu tranh mạnh tại Huế và Nha Trang, nên chính quyền Tổng Thống Diệm ban t́nh trạng thiết quân luật tại hai tỉnh này. Quân đội xao động, truyền đơn rải cùng các căn cứ lính. Các quân nhân bắt đầu mang khăn quàng vào tay ủng hộ Phật Giáo đấu tranh.

    Ngày 14 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting từ biệt Tổng Thống Diệm về Mỹ. Ông Nolting yêu cầu Tổng Thống Diệm thỏa hiệp với Phật Giáo và muốn Tổng Thống Diệm lên tiếng phủ nhận lời tuyên bố "đổ dầu vào lửa" của bà Nhu, cũng như muốn Tổng Thống Diệm cho biết ai là người thực sự lănh đạo đất nước. Nếu Tổng Thống Diệm không thực hiện các điều kể trên th́ "chính phủ Mỹ khó có thể tiếp tục giữ t́nh hữu nghị như hiện tại".


    Tổng Thống Diệm nói với Đại Sứ Nolting rằng Hoa Kỳ phải nên hiểu rằng việc rối rắm này "không phải do Phật Giáo mà cũng chẳng phải do gia đ́nh ông tạo nên". Tuy nhiên, có lẽ v́ chỗ thân t́nh với ông Nolting nên Tổng Thống Diệm hứa là sẽ đưa ra một bản Thông Cáo. Thế nhưng, trong buổi phỏng vấn ngày sau đó, Tổng Thống Diệm lại tuyên bố: "Chính sách liên kết với Phật Giáo của tôi không thể thực hiện được".

    Chính phủ Tổng Thống Diệm muốn đánh một ván bài chót là đàn áp Phật Giáo thật mạnh mẽ, với hy vọng là nếu thành công th́ đây là món quà đón tiếp tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Mỹ cho đây là kế hoạch của ông Cố Vấn Nhu.

    Ngày 15 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting rời Sài G̣n. Ông Nhu cảnh giác cho các tướng lănh Việt Nam biết chính sách Mỹ thay đổi và có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam . Ông trưng dẫn bằng chứng là Mỹ vừa kư thỏa hiệp cấm thử bom nguyên tử với Liên Sô, có nghĩa là Mỹ đi ḥa hoăn với Cộng Sản.

    Ngày 20 tháng 08 năm 1963, mười vị tướng lănh yêu cầu Tổng Thống Diệm ban bố t́nh trạng thiết quân luật để quân đội có thể đưa các vị tăng ni ngoài Sài G̣n trở về chùa. Tối đó, ông Nhu tự ư hành động mà không thông báo cho các tướng lănh. Tấn công chùa Xá Lợi, phá cửa chính bằng súng, lựu đạn cay, bắt bớ lên xe. Tại Huế, lực lượng an ninh dùng súng tiểu liên M1 bắn chùa Từ Đàm, bắn bể tượng Phật và tịch thu 30 ngàn mỹ kim của chùa. Gần chùa Diệu Đế, đàn bà, đàn ông, trẻ em đương đầu với cảnh sát. Sau năm tiếng đồng hồ xô xát cho đến khi có xe tăng tới, tại chùa có 30 người chết, 200 bị thương và chở giam 10 xe người.

    Ngày 21 tháng 08 năm 1963, sau khi Tổng Thống Diệm ban bố t́nh trạng thiết quân luật, ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (Special Forces) do Đại Tá Lê Quang Tung cầm đầu, và Cảnh Sát Dă Chiến (Combat Police) tấn công chùa chiền. Có khoảng 2 ngàn chùa chiền bị bố ráp trên toàn quốc và bắt giam hơn 1.400 vị tăng ni. Ít nhất có năm mươi đến hàng trăm người bị chết. Sự kiện này đă làm cho Mỹ tại Sài G̣n cũng như Hoa Thịnh Đốn bực tức và lên án Tổng Thống Diệm gắt gao. Tại Honolulu, ông Nolting gặp tân Đại Sứ Lodge và một số giới chức Mỹ. Ông Nolting gởi cho Tổng Thống Diệm một điện thư: "Đây là lần đầu tiên ông đă nuốt lời hứa với tôi". Hết sức chịu đựng, và không c̣n nhẫn nại được nữa, Tổng Thống Kennedy quyết định giao cho CIA giải quyết vấn đề.

    Cũng trong ngày này, 6 giờ sáng, đài phát thanh Sài G̣n phát thanh lời Tổng Thống Diệm nói rằng 3 tháng thương thảo với Phật Giáo thất bại. Ông tuyên bố toàn nước đặt trong t́nh trạng thiết quân luật. Binh sĩ tại Sài G̣n mặc áo giáp, mang tiểu liên, lựu đạn cay và canh gác khắp các ngă đường, các cây cầu chính yếu. Xe Jeep trang bị súng lớn 30 caliber tuần tiểu thành phố. Sinh viên xuống đường biểu t́nh bất tuân lệnh thiết quân luật.


    BộTrưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu từ chức, cạo trọc đầu để phản đối Tổng Thống Diệm và xin đi Ấn Độ tu học. Tệ hại hơn là Đại Sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại Hoa Kỳ là ông Trần Văn Chương, thân sinh của bà Trần Lệ Xuân (tức bà Nhu) từ chức và chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm là chế độ độc tài. Phái đoàn Mỹ cứu trợ phải quay trở lại Mỹ v́ cảnh sát không cho phép máy bay hạ cánh. Chính phủ Mỹ bị hiểu lầm là đứng sau vụ đàn áp Phật Giáo.

    Ngày 22 tháng 08 năm 1963, lúc 9 giờ 30 tối, tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Tân Sơn Nhất, Sài G̣n.

    Ngày 23 tháng 08 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn mời ông CIA Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu để nhận thư trao tận tay cho tân Đại Sứ Lodge, nói là quân đội không có nhúng tay trong việc đàn áp Phật Giáo vừa rồi. (Ông Lucien Conein, CIA Operative, giữ vai tṛ chính yếu trong việc phối hợp với các tướng đảo chánh).

    Tướng Lê Văn Kim là phụ tá của tướng Đôn và là anh em rể của tướng Đôn đ̣i triệt hạ ông Nhu và yêu cầu chính phủ Mỹ lên tiếng ủng hộ th́ quân đội sẽ đứng lên lật đổ chính phủ Tổng Thống Diệm.

    Bí thư của Tổng Thống Diệm là ông Vơ Văn Hải yêu cầu bảo toàn Tổng Thống Diệm nếu loại bỏ ông Nhu. Tân Đại Sứ Lodge báo cáo về Hoa Thịnh Đốn tất cả sự kiện, nhưng ông Lodge không ủng hộ việc loại bỏ ông Nhu. Ông Lodge khuyên nếu Mỹ ủng hộ đảo chánh th́ nên núp trong bóng tối.

    Bức điện văn tố cáo "ông Nhu đang bị dân chúng chán ghét" được gởi đến bàn ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Roger Hilsman. Ông Hilsman lên án ông Nhu và nói rằng nếu c̣n ông Nhu th́ chẳng những đưa miền Nam Việt Nam vào thảm họa, mà c̣n kéo theo Mỹ xuống bùn đen nữa. Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Chính Trị Vụ Averell Harriman cũng đồng ư là Mỹ không nên ủng hộ chính phủ Diệm-Nhu nữa.

    Ngày 24 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge đánh điện văn cho Bộ Ngoại Giao. Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman phúc đáp, chỉ thị cho ṭa Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n tiếp xúc với các tướng lănh để thực hiện đảo chánh.

    Trúng vào thứ bảy cuối tuần, Tổng Thống Kennedy, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Robert S. McNamara không có mặt tại Hoa Thịnh Đốn, nhưng các phụ tá của họ như ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman, và ông Phụ Tá Tổng Thống Forrestal có mặt làm việc, với sự hỗ trợ của Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman. Các người này thảo một bức điện văn để trả lời cấp tốc cho Đại Sứ Lodge. Bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8 năm 1963 này có nội dung như sau:

    "Bộ Ngoại Giao gởi Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n để thi hành ngay lập tức.

    Tối Mật. Không được phép phổ biến.

    Chỉ đích thân Đại Sứ Lodge mới được phép đọc mà thôi. Đối với CINPAC/POLAD th́ chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc mà thôi.


    Theo CAS Sài G̣n 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon 329. (Các con số là những kư hiệu mật mă).

    "Bây giờ th́ rơ là hoặc quân đội đề nghị lệnh thiết quân luật hoặc ông Nhu đă lừa họ. Ông Nhu đă lợi dụng t́nh trạng đó để tấn công chùa chiền bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngỡ lầm rằng quân đội làm. Hơn nữa, cũng thật quá rơ là ông Nhu đă âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.

    Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng t́nh trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và các chính trị gia có tư cách.


    Nếu ông (tức Đại Sứ Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối th́ chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại được".

    Kư tên: Hilsman, Forrestal, Ball, W.Everell Hariman ".

    -Còn tiếp-

  5. #5
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Hoa Kỳ và cuộc đảo chánh 1-11-1963

    -Tiếp theo-



    Sau khi soạn bản điện văn này, ông Forrestal gọi Tổng Thống Kennedy đang nghỉ cuối tuần tại Hyannis Port , Massachusetts và đọc cho nghe. Tổng Thống Kennedy hỏi lại: "Có thể chờ cho đến thứ Hai để có đủ người họp được không?". Ông Harriman và Hilsman trả lời là "phải cần gởi gấp ngay bây giờ". Nghe thế, Tổng Thống Kennedy đồng ư và bảo "hăy gởi đi". Ông Hilsman cũng gọi báo cho Ngoại Trưởng Rusk và cũng được đồng ư cho phép gởi đi. Ông Hilsman gởi ngay điện văn này qua Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n, và được coi như Mỹ "bật đèn xanh" đảo chánh.
    Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamara và Giám Đốc CIA McCone chưa được đọc bức điện văn trước khi gởi đi nên rất bất măn. Đại Sứ Lodge nhận được điện văn và gởi ngay cho ông Xếp CIA William Colby, lúc đó đang làm Giám Đốc CIA Vùng Viễn Đông (Chief of the CIA's Far East Division) trụ sở tại Langley Virginia. Ông Xếp CIA Colby có quyền đọc tất cả điện văn tại trung tâm chỉ huy CIA ở Virginia .

    Ngày 25 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge báo cáo Bộ Ngoại Giao là ông đă nhận được bức điện văn, nhưng nói "căn bản quyết định vẫn là từ Hoa Thịnh Đốn".
    Ngày 26 tháng 08 năm 1963, sáng thứ Hai, các cố vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm hai phe: Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Maxwell Taylor phàn nàn Bộ Ngoại Giao quyết định làm bức điện văn ngày 24 tháng 08 mà không hội ư các nhân vật cao cấp, tạo nên sự nghi ngờ về mức độ thành công của việc đảo chánh. Bộ Trưởng Quốc Pḥng và Giám Đốc CIA cùng quan điểm. Giám Đốc CIA McCone cho rằng: "Tổng Thống Diệm là người lănh tụ xứng đáng nhất tại Việt Nam, và CIA cũng khó mà thực hiện được tinh thần bức điện văn ngày 24 tháng 08 năm 1963". Tổng Thống Kennedy khiển trách ông Phụ Tá Forrestel đă không chịu giữ lại bức điện văn cho tới thứ Hai. Ông Forrestal xin từ chức nhưng Tổng Thống Kennedy muốn giữ ông ta lại. Bộ Quốc Pḥng bất đồng với Bộ Ngoại Giao nên muốn có thêm một cơ hội nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu.


    8 giờ sáng, đài VOA lên tiếng chỉ trích cảnh sát của ông Nhu tấn công chùa chiền, và minh xác là quân đội không có nhúng tay. Đài VOA cũng tuyên bố Mỹ cắt viện trợ chính phủ Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge gọi Ngoại Trưởng Rusk phàn nàn về việc đài VOA đi thông báo việc cắt viện trợ, v́ 11 giờ sáng này Đại Sứ Lodge sẽ gặp tŕnh Ủy Nhiệm Thư cho Tổng Thống Diệm. Ông Ngoại Trưởng Rush gởi điện văn qua xin lỗi ông Lodge, và đài VOA đính chính không cắt viện trợ. Trong dịp này, Đại Sứ Lodge yêu cầu Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu ra khỏi chức cố vấn, nhưng quá trễ v́ lúc này ông Nhu đă trở thành tai, mắt và là bàn tay sắt của Tổng Thống Diệm.

    Cũng trong ngày này, ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Trần Thiện Khiêm tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Khiêm khuyên ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Dương Văn Minh tức "Big" Minh. Tướng Minh đang là cố vấn quân sự cho Tổng Thống Diệm, và càng tréo cẳng ngổng nữa là ông ta cũng lại là Chủ Tịch Ủy Ban Đảo Chánh. Trong khi đó th́ ông CIA AlSpera bay lên vùng cao nguyên để gặp tướng Nguyễn Khánh. Tướng Khánh không nêu danh tánh các tướng tham dự đảo chánh, nhưng khi nghe nhắc đến tên tướng Khiêm th́ tướng Khánh nói "chúng tôi thích vậy".
    Thứ Ba ngày 27 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy họp các cố vấn cao cấp lại. Có cựu Đại Sứ Nolting tham dự. Ông Nolting không tin tưởng cuộc đảo chánh thành công v́ ông cho rằng các tướng đảo chánh không can đảm như anh em ông Diệm-Nhu, họ không thống nhất mà lại chia rẽ, họ không có lănh đạo thật sự và họ không có thực lực quân đội trong tay. Tổng Thống Kennedy hỏi lại ông Nolting: "Tại sao Tổng Thống Diệm không giữ lời hứa với chúng ta? Tại sao chính quyền Tổng Thống Diệm dùng sức mạnh đàn áp Phật Giáo? Bà Nhu hiện đang nắm chức quyền ǵ?". Ông Nolting cố bào chữa cho Tổng Thống Diệm và đề nghị chính phủ Mỹ nên cho thêm một cơ hội nữa để đ̣i Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu và truất quyền bà Nhu. Ông Nolting nói với Tổng Thống Kennedy rằng: "Ông Diệm và ông Nhu cũng giống như cặp song sinh Siamese dính nhau nên không thể tách ra được". Ông Nolting cũng nhắc cho Tổng Thống Kennedy biết về việc 3 năm trước đây, ông Đại Sứ Mỹ Durbrow cũng đ̣i Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu nhưng thất bại nên đă trở về Mỹ. Tổng Thống Kennedy mỉm cười và nói rằng: "Nếu ông nói đúng, th́ chuyến đi của Đại Sứ Lodge kỳ này sẽ là chuyến đi ngắn nhất trong lịch sử". Cuối cùng Tổng Thống Kennedy vẫn giữ lập trường ủng hộ bức điện văn ngày 24 tháng 08.


    Tại Sài G̣n tất cả trường học đóng cửa, ra lệnh bắt đối lập, tin tức đảo chánh loan truyền. Các tướng đảo chánh âm thầm di chuyển các đơn vị Dù vào Sài G̣n. Có 2 đơn vị Dù khác có thể tiến vào thủ đô trong ṿng 8 tiếng đồng hồ. Chính quyền Diệm-Nhu ra lệnh bố trí chống đảo chánh.

    Người tín cẩn nhất của chính quyền Diệm-Nhu là Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Thủ Đô Sài G̣n. Trong tay có 2,500 lính Dù, 1,500 lính Thủy Quân Lục Chiến, 700 Quân Cảnh. Ngoài ra Tướng Đính có liên hệ với Sư Đoàn 5 Bộ Binh.

    Chính quyền Diệm-Nhu có Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy 1,700 lính Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống, 900 lính Lực Lượng Đặc Biệt và 700 Cảnh Sát Dă Chiến.

    Ngày 08 tháng 08 năm 1963, ông CIA Conein gặp lại các tướng đảo chánh lần thứ nh́, gồm các Tướng: Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim và Đại Tá Nguyễn văn Thiệu. Các tướng muốn Mỹ chính thức ủng hộ cuộc đảo chánh bằng sự lên tiếng của Đại Sứ Lodge.

    Ông Trưởng Pḥng CIA John Richardson khuyến cáo rằng t́nh h́nh không thể thối lui. Sài G̣n bây giờ đă biến thành một trại lính. Đây là trận đánh cuối cùng của gia đ́nh Tổng Thống Diệm. Ông tiên đoán rằng các tướng đảo chánh sẽ thắng, tuy nhiên phải thuyết phục cho được Tướng Tôn Thất Đính và Đại Tá Lê Quang Tung gia nhập đảo chính. Đảo chánh sẽ chết nhiều sinh mạng. Ông Đại Sứ Lodge ủng hộ đảo chánh và nói rằng "nếu trễ sẽ bị thất bại". Trái với ư kiến của ông Trưởng Pḥng CIA Richardson và Đại Sứ Lodge, Tướng Paul D. Harkins, Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam nghi ngờ khả năng các tướng đảo chánh. Ông khuyên Mỹ nên đứng ngoài cuộc đảo chánh.

    Tại Hoa Thịnh Đốn, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia họp ủng hộ đảo chánh. Cựu Đại Sứ Nolting phản đối nói rằng: "Nếu Mỹ bỏ rơi hai ông Diệm-Nhu tức là Mỹ đă nuốt lời cam kết trong quá khứ". Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman chống lại ư kiến ông Nolting, và chỉ trích ông Nolting đă không phục vụ quyền lợi nước Mỹ trong thời gian ông làm đại sứ tại Việt Nam . Tổng Thống Kennedy phân vân, nhưng cuối cùng đồng ư ủng hộ cuộc đảo chánh, tuy nhiên ông muốn trao quyền quyết định cho Đại Sứ Lodge. Tổng Thống Kennedy nói với ông Lodge: "Tôi tin là ông sẽ không ngại ngùng khi đưa ra quyết định đ́nh hoăn hay thay đổi kế hoạch đảo chánh nếu ông nghĩ là cần thiết".
    Bây giờ, Ngoại Trưởng Rusk tự tay gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge, chỉ thị mọi cách phải loại bỏ cho được ông bà Nhu ra khỏi chính quyền. Khoan cắt đứt viện trợ mà hăy chờ cho đến khi nào các tướng sẵn sàng đảo chánh. Sợ rằng nếu Tổng Thống Diệm biết được th́ Tổng Thống Diệm sẽ kêu gọi Bắc Việt ủng hộ để đánh đuổi Mỹ.

    Ngày 29 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge: "Tôi chấp thuận tất cả những điều đề cập trong cái điện văn mà những vị khác gởi cho ông (tức bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8), và tôi ủng hộ các điều đó hết ḿnh. Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức để có thể giúp ông hoàn thành sứ mạng này một cách mỹ măn. Cho đến khi các tướng lănh ra tay, tôi xin được dành cái quyền thay đổi kế hoạch hay đảo ngược chỉ thị vào giờ chót. Tôi hoàn toàn nhận hết trách nhiệm về bất cứ sự thay đổi nào, và tôi cũng chịu hoàn toàn trách nhiệm về kế hoạch này và hậu quả của nó".

    Tại Sài G̣n, Chánh Pḥng CIA Richardson và ông CIA Conein nhận điện văn của tướng Cố Vấn Quân Sự Tổng Thống Taylor từ Hoa Thịnh Đốn, đ̣i phải "suy nghĩ lại" việc ủng hộ đảo chánh. V́ 10 giờ sáng phải gặp lại Tướng Minh, do đó ông Chánh Pḥng CIA Richardson ra lệnh cho ông CIA Conein không được tuyên bố ǵ mà chỉ đến nghe và về tŕnh lại ư kiến của Tướng Minh thôi.

    Tướng Minh đ̣i hỏi Mỹ phải chứng tỏ việc ủng hộ các tướng lănh đảo chánh, bằng cách tuyên bố Mỹ cắt viện trợ kinh tế cho chính phủ Diệm. Đại Sứ Lodge điện về Ngoại Trưởng Rusk nói là quá trễ để mà suy nghĩ lại, ông nói: "Chúng ta đă bước sâu quá rồi nên không thối lui được, hăy dồn mọi nỗ lực ủng hộ các tướng đảo chánh ngay". Đại Sứ Lodge xin phép để Tướng Harkins tiếp xúc với các tướng đảo chánh và cũng yêu cầu Mỹ cắt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm để các tướng đảo chánh tin tưởng có Mỹ ủng hộ. Cùng ngày, Ṭa Bạch Ốc cho phép Tướng Harkins tiếp xúc các tướng đảo chánh và cho phép Đại Sứ Lodge cắt đứt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm.

    Tổng Thống Kennedy gởi thư riêng cho Đại Sứ Lodge nói rằng Tổng Thống Kennedy ủng hộ các kế hoạch đảo chánh của ông Lodge. Tuy nhiên Tổng Thống Kennedy không đồng ư với ông Lodge về việc ông Lodge nói là "không thể thối lui được". Tổng Thống Kennedy nhắc Đại Sứ Lodge về kinh nghiệm đau thương tại Vịnh Con Heo ở Cu Ba. Tổng Thống Kennedy nói: "Kinh nghiệm dạy tôi rằng sự thất bại mang lại cái tệ hại nhiều hơn là việc đi thay đổi quyết định...Khi chúng ta làm, chúng ta phải thắng, nhưng nếu cần phải thay đổi quyết định th́ cũng phải nên thay đổi, hơn là để thất bại".

    Thứ Sáu, ngày 30 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lo có cảnh tắm máu tại Sài G̣n. Ông đưa ra kế hoạch dự trù di tản gần 5,000 cư dân Mỹ tại Việt Nam . Một tàu chiến chở trực thăng, tàu tấn công, tàu destroyer nằm sẵn tại ven biển Việt Nam . Tại Okinawa, có 3,000 Thủy Quân Lục Chiến ứng trực 100%. Tại Bộ Ngoại Giao, Phụ tá Ngoại Trưởng Hilsman báo cáo lên Ngoại Trưởng Rusk rằng có thể trận đánh đảo chánh kéo dài quá lâu, và nếu vậy th́ quân đội Hoa Kỳ phải nhảy vô ṿng chiến để ủng hộ phe đảo chánh cho thành công.

    Ngày 31 tháng 08 năm 1963, Tướng Minh thông báo cho Tướng Harkins biết là kế hoạch đảo chánh phải "tŕ hoăn". Các tướng đảo chánh sợ sự thân thiết giữa Chánh Pḥng CIA Richardson với Tổng Thống Diệm sẽ làm bại lộ kế hoạch đảo chánh. Tướng Harkins mời Tướng Minh đến cơ quan MACV, và hứa là Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh. Tướng Khiêm thông báo cho Tướng Minh biết ư kiến của Mỹ.

    Ngày hôm sau, Tướng Khiêm lại gặp Tướng Harkins. Tướng Minh lo hoạch định kế hoạch đảo chánh. Tướng Khiêm th́ cho biết là các tướng không có đủ sức thắng lực lượng trung thành Tổng Thống Diệm. Lực lượng lính Bộ Binh sẽ không tham dự đảo chánh nếu không đánh tới cùng. Tướng Harkins và ông Chánh Pḥng CIA Richardson báo cáo thẳng về Hoa Thịnh Đốn nói là kế hoạch đảo chánh bất thành. Đại Sứ Lodge than: "Không có ai, không có tổ chức nào trong đám tướng lănh này làm nên tṛ trống ǵ cả". Tin tức các tướng bỏ cuộc đảo chánh khiến cho Tổng Thống Kennedy và các cố vấn tại Ṭa Bạch Ốc hoang mang.

    Đầu tháng 9 năm 1963, Tổng Thống Kennedy chỉ định Bộ Trưởng Quốc Pḥng Robert McNamara qua Việt Nam . Tháp tùng có một số cố vấn cao cấp trong đó có Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng William Bundy. Tại Việt Nam có 800 học sinh bị bắt nhốt.

    Ngày 02 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy trả lời câu phỏng vấn của Walter Cronkite trên đài CBS rằng Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ miền Nam Việt Nam, nhưng ông nói tiếp: "Tôi không nghĩ là có thể thắng chiến tranh được trừ khi họ được nhân dân ủng hộ. Và theo ư tôi, trong 2 tháng qua chính phủ Diệm đă quá xa rời quần chúng".

    Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman suy diễn lời chỉ trích trực tiếp và công khai này của Tổng Thống Kennedy rằng sẽ có một cuộc đảo chánh, nhưng không biết bao giờ xảy ra. Dù vậy, các tướng đảo chánh vẫn án binh bất động. Cùng ngày, phe ông Nhu viết bài trên báo Times of Viet Nam lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh.

    Ông Xếp CIA Colby nói: "Ư họ muốn khuyên chúng ta nên đứng ngoài". Bà Nhu viết bài chửi Mỹ. Bà xưng bà là người cứu tinh cho miền Nam Việt Nam, và bà c̣n tố cáo Mỹ và Cộng Sản giật dây Phật Giáo biểu t́nh làm loạn. Bà tố cáo Đại Sứ Lodge mưu sát bà. Để trả thù, em bà Nhu là ông Trần Văn Khiêm lập một danh sách ám sát lại người Mỹ. Trong cuộc phỏng vấn với kư giả Úc Denis Warner, ông Khiêm tiết lộ các người Mỹ nằm trong danh sách bị ám sát đó có tên ông Chánh Pḥng CIA Sài G̣n Richardson, ông CIA Conein và Phát Ngôn Viên Ṭa Đại Sứ John Mecklin. T́nh cảm giữa Việt Nam và Hoa Kỳ căng thẳng và tồi tệ trầm trọng.

    Trong thời điểm này, Hoa Thịnh Đốn bất măn việc Pháp đứng làm trung gian giải quyết chiến tranh Việt Nam . Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh và Tổng Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli, thành viên Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này được thiết lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli qua lại Sài G̣n - Hà Nội nhiều lần để t́m giải pháp thương thảo. Vào tháng 07 năm 1963, Bắc Việt đồng ư căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng Thống Diệm để miền Nam trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân.

    10 giờ 30 sáng ngày 6 tháng 9 năm 1963, tại buổi họp trong Ṭa Bạch Ốc, Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, tức bào đệ của Tổng Tống John Kennedy nêu ra các câu hỏi: "Liệu có thắng hai ông Diệm-Nhu? Liệu ông Nhu có bị ông Diệm loại bỏ? Phải xử sự ra sao nếu không thể thắng ông Diệm được?". Cuối cùng ông Robert Kennedy đề nghị phải cứng rắn với Tổng Thống Diệm và cắt đứt viện trợ. Bộ Trưởng Quốc Pḥng trả lời là không có cái tin tức nào chính xác cả. Tướng Taylor đề nghị cử Tướng Victor Krulak đi Việt Nam . Bộ Ngoại Giao cử ông Joseph A. Mendenhall tháp tùng.

    6 giờ sáng ngày 08 tháng 09 năm 1963, hai viên chức này đến Việt Nam . Tướng Krulak phỏng vấn 80 cố vấn Mỹ luôn cả các viên chức cao cấp. Nhà Ngoại Giao Mendenhall lại dành th́ giờ đi Sài G̣n, Huế, Đà Nẳng để thăm viếng một số bạn bè cũ.

    Ngày 09 tháng 09 năm 1963, hai vị này trở về Hoa Thịnh Đốn phúc tŕnh lại cho Tổng Thống Kennedy. Tướng Krulak báo cáo là "tinh thần chiến đấu cao và tốt. Việc xáo trộn chính trị không ảnh hưởng ǵ đến việc đánh giặc. Dân chúng ghét ông Nhu thôi chứ không ghét Tổng Thống Diệm". Trái lại, nhà ngoại giao Mendenhall th́ báo cáo là "chính phủ Diệm bị dân chúng chán ghét, chế độ sắp sụp đổ, và không thể chiến thắng Cộng Sản được nếu c̣n Diệm-Nhu". Nghe xong hai báo cáo, Tổng Thống Kennedy ngơ ngẫn v́ hai báo cáo hoàn toàn trái ngược nhau, khiến T.T. Kennedy phải hỏi: "Có phải là hai vị đă đến cùng một quốc gia không vậy?" Tuy vậy, Tổng Thống Kennedy ra lệnh cho các cố vấn nghiên cứu việc cắt viện trợ kinh tế Việt Nam.

    Ngày 11 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lại nói chưa thể cắt viện trợ chính phủ Diệm. Không được đảo chánh. Tổng Thống Kennedy muốn thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu khỏi chính quyền.

    Ngày 17 tháng 09 năm 1963, Hội Đồng An Ninh chỉ thị Đại Sứ Lodge ḥa hoăn với Tổng Thống Diệm, nhưng bằng mọi cách thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu. Đại sứ Lodge rất bất măn v́ lệnh này, ông muốn đảo chánh Diệm và cắt đứt viện trợ. Đại Sứ Lodge liên lạc với Tướng Minh bàn việc đảo chánh. Hội Đồng An Ninh muốn t́m một giải pháp khác. Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamara và Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Taylor qua Việt Nam để nh́n tận mắt t́nh h́nh Phật Giáo, và nếu cần th́ phải áp lực Tổng Thống Diệm. Tháp tùng trong chuyến đi có ông Xếp CIA Colby, đại diện Ṭa Bạch Ốc Forrestal, đại diện Bộ Ngoại Giao William Sullivan và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng P. Bundy.

    Trước khi trở lại Hoa Thịnh Đốn, Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamara, Tướng Taylor và Tướng Harkins ghé thăm Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm hút thuốc liên miên và chỉ tay vào bản đồ để khoe thành tích tiến triển tốt đẹp. Ông McNamara nhắc Tổng Thống Diệm về các xáo trộn chính trị và t́nh h́nh nguy ngập. Tổng Thống Diệm không đồng ư và bào chữa rằng đó là do báo chí xuyên tạc làm người Mỹ hiểu lầm. Tổng Thống Diệm phàn nàn các học sinh nông nổi, thiếu giáo dục và không hiểu trách nhiệm nên gây rối trật tự, do đó không có giải pháp nào hơn là tống giam họ. Tổng Thống Diệm thú nhận đă để xáo trộn là v́ ông "quá nhẹ tay và đối xử quá tốt với Phật Giáo".

    Tổng Thống Diệm lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh. V́ trước khi đi, Tổng Thống Kennedy đă ra lệnh các nhân viên đừng có ư kiến ǵ về vấn đề này nên mọi người đều nín thinh. Bộ Trưởng McNamara hỏi tại sao chính phủ không cải chính những lời tuyên bố "ồn ào" của bà Nhu, và nhắc đến việc bà Chiang Kai-shek lạm quyền nên đẩy nước Tàu vào tay Cộng Sản. Tổng Thống Diệm biện minh rằng "bà Nhu là một dân biểu, nên bà có quyền phát biểu theo ư của bà. Người Mỹ phải thông cảm cho bà v́ bà bị báo chí truyền thông tấn công và xuyên tạc bà với đầy ác ư". Phái đoàn không lấy làm thỏa măn về thái độ của Tổng Thống Diệm.

    Ngày 02 tháng 10 năm 1963, phái đoàn trở về Hoa Thịnh Đốn báo cáo t́nh h́nh với Tổng Thống Kennedy: "Về lănh vực quân sự tốt, nhưng sự tai tiếng chính trị của hai ông Diệm-Nhu sẽ làm xấu đi". Thảo kế hoạch cắt viện trợ chương tŕnh Commodity Import Program, đó là chương tŕnh viện trợ kinh tế giúp Việt Nam 40% số lượng nhập cảng của quốc gia, và sinh ra một số ngân quỹ lớn cho quân đội. Tổng Thống Kennedy tuyên bố giờ phút này các cố vấn trong chính phủ ông không c̣n có những ư kiến dị biệt nữa.

    Tướng Trần Văn Đôn gặp lại bạn cũ là ông CIA Conein tại Tân Sơn Nhất. Rồi lại hẹn gặp nhau lại tại Nha Trang, hai trăm dặm cách Sài G̣n. Phó Đại Sứ Trueheart ra lệnh ông CIA Conein không được tuyên bố ǵ cả, chỉ lấy tin tức mà thôi.

    Tại Nha Trang, Tướng Đôn công bố đảo chánh. Điều đặc biệt và quan trọng trong buổi họp này là có sự tham dự của Tướng Tôn Thất Đính. Tướng Tôn Thất Đính khoe rằng ông là người cứu Tổng Thống Diệm thoát khỏi cuộc đảo chánh tháng 8, từng cứu Tổng Thống Diệm thoát khỏi các vụ đụng đầu với Phật Giáo, Cộng Sản v.v... V́ những công lao đó nên Tướng Đính xin Tổng Thống Diệm trả ơn bằng cách bổ nhiệm ông làm Bộ Trưởng Nội Vụ, nhưng bị Tổng Thống Diệm từ chối nên Tướng Đính sinh ra thù vặt và bất măn Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn biết được t́nh cảnh ấm ức này nên đă t́m cách chiêu dụ Tướng Đính gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn đề nghị ông CIA Conein gặp riêng với Tướng Minh.

    -Còn tiếp-

  6. #6
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Hoa Kỳ và cuộc đảo chánh 1-11-1963

    -Tiếp theo-


    Ngày 05 tháng 10 năm 1963, ông CIA Conein gặp Tướng Minh tại Sài G̣n, nói chuyện bằng tiếng Pháp. Tướng Minh đưa ra các điểm:

    - Phải biết lập trường của Mỹ có ủng hộ chính phủ mới tương lai không?
    - Không đ̣i hỏi Mỹ ủng hộ đảo chánh, nhưng Mỹ đừng cản đường.
    - Muốn Mỹ tái viện trợ kinh tế và quân sự cho chính phủ mới.

    Tướng Minh đưa ra các kế hoạch giết ông Nhu và giết ông Ngô Đ́nh Cẩn, bao vây Sài G̣n bằng lính, đánh thẳng vào pḥng tuyến bảo vệ Phủ Tổng Thống. Ông CIA Conein không có ư kiến. Tướng Minh hẹn sẽ gặp lại.

    Hoa Thịnh Đốn biết tin nên vừa háo hức mà vừa hồi hộp. Tổng Thống Kennedy nói với Đại Sứ Lodge rằng chính phủ Mỹ không muốn giật dây cuộc đảo chánh này, nhưng cũng không muốn bị hiểu lầm là cản trở đảo chánh hay từ chối viện trợ kinh tế và quân sự cho chính quyền mới. Điều quan tâm lớn nhất của Hoa Thịnh Đốn là rủi cuộc đảo chánh thất bại th́ Mỹ sẽ bị cáo buộc là cấu kết với đám đảo chánh chủ mưu phản loạn. Ṭa Bạch Ốc ra lệnh Đại Sứ Lodge phải cẩn thận và làm sao để mà "có thể chối được". Các báo cáo liên quan đến t́nh h́nh đảo chánh phải báo cáo riêng, không được báo cáo chung với bản báo cáo thường nhật của Ṭa Đại Sứ. Phải báo cáo riêng và báo cáo về Hoa Thịnh Đốn phải dùng qua ngă CIA, chứ đừng qua ngă lỏng lẻo Bộ Ngoại Giao. Hơn nữa, chỉ có Đại Sứ Lodge mới được quyền chỉ thị CIA hành động và chỉ thị bằng khẩu lệnh mà thôi. Đại Sứ Lodge nói với ông CIA Conein: "Nếu có ǵ trục trặc, tôi sẽ chối tuốt luốt".

    Biết Tướng Minh chống Tổng Thống Diệm, Mỹ tuyên bố cắt viện trợ Tổng Thống Diệm, hứa ủng hộ tân chính phủ. Muốn chứng tỏ Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh, Mỹ triệu hồi ông Trưởng Pḥng CIA Richardson về Mỹ v́ cho rằng ông này thân thiện với Tổng Thống Diệm.
    Ngày 05 tháng 10 năm 1963, Ông Giám Đốc CIA tại Mỹ McCone phản đối kế hoạch giết ông Nhu và muốn đứng ngoài cuộc đảo chánh. Tuy nhiên vẫn muốn theo dơi kế hoạch đảo chánh. Ông CIA Conein gặp Tướng Minh nói là Mỹ chống ám sát, do đó Tướng Minh nói: "Nếu quư vị không thích th́ chúng tôi sẽ không đề cập đến nó nữa". Tướng Minh muốn biết quan điểm của Mỹ nếu có cuộc đảo chánh "sắp tới đây". Ông CIA Conein liên lạc với Đại Sứ Lodge và trả lời "bảo đảm ủng hộ chính phủ tương lai". Từ lúc này, ông CIA Conein biết là nhân vật mà ông cần liên lạc thường xuyên chính là Tướng trẻ Trần Văn Đôn. Có những cuộc tiếp xúc thường xuyên giữa CIA và các tướng đảo chánh.


    Ngày 17 tháng 10 năm 1963, Mỹ báo cho chính phủ Diệm biết là viện trợ Lực Lượng Đặc Biệt của ông Nhu chỉ được tiếp tục nếu được chỉ huy bởi quân đội. Tướng Đôn gặp Đại Sứ Lodge tại một buổi tiệc. Ông Lodge nói là không có nhận được dấu hiệu đảo chánh nào cả.

    Ngày 24 tháng 10 năm 1963, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo kéo quân vể Sài G̣n đảo chánh hụt v́ các tướng đảo chánh tại Sài G̣n thay đổi kế hoạch.

    Ngày 25 tháng 10 năm 1963, ông CIA Conein hỏi Tướng Đôn bao giờ đảo chánh? Tướng Đôn trả lời là không biết và hỏi lại ông CIA Conein có được phép của chính phủ Mỹ để thảo luận về cuộc đảo chánh không? Conein trả lời là Đại Sứ Lodge ra lệnh. Sau đó Tướng Đôn được Đại Sứ Lodge xác nhận tại phi trường.

    Ngày 27 tháng 10 năm 1963, Tổng Thống Diệm mời vợ chồng Đại Sứ Lodge lên Đà Lạt gặp mặt. Sau nhiều lần thuyết phục nhưng Tổng Thống Diệm không nghe, Đại Sứ Lodge nói với Tổng Thống Diệm: "Thưa Ngài, tất cả lời đề nghị rơ ràng của tôi đều bị Ngài từ chối hết. Theo Ngài nghĩ th́ liệu Ngài có thể làm cái ǵ mà điều đó có thể đem lại cái nh́n thiện cảm nơi người Hoa Kỳ?". Mỗi lần nhắc câu hỏi giống vậy th́ Tổng Thống Diệm lại đổi đề tài.
    Ngày 28 tháng 10 năm 1963, Tướng Đôn gặp ông CIA Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Đôn không cho biết chắc chắn ngày đảo chánh, nhưng nói là rất gần. Tướng Đôn nói sẽ thông báo cho Ṭa Đại Sứ biết vài giờ trước khi bắt đầu đảo chánh. Tuy nhiên Tướng Đôn muốn Đại Sứ Lodge đừng đ́nh chuyến bay Hoa Thịnh Đốn đă định vào ngày 31 tháng 10 năm 1963. Tướng Đôn cho biết nhiệm vụ Tướng Minh lo quân đội, Tướng Kim lo chính trị, và Tướng Đôn lo liên lạc với Mỹ. Hỏi về nhiệm vụ Tướng Tôn Thất Đính, Tướng Đôn nói Tướng Đính v́ từng trung thành với Tổng Thống Diệm, nên do đó không dám giao trọng trách v́ e ngại bị phản.


    Ngày 29 tháng 10 năm 1963, Đại Sứ Lodge thông báo cho Hoa Thịnh Đốn sắp có đảo chánh. Nói rằng không thể tŕ hoăn được và không kịp thông báo cho Tổng Thống Diệm.

    Ngày 30 tháng 10 năm 1963, Mc George Bundy gởi điện văn nói là Tổng Thống Kennedy vẫn c̣n ư muốn đảo chánh. Tổng Thống Kennedy chỉ thị Đại Sứ Lodge "nên can thiệp nếu cảm thấy kế hoạch đảo chánh nguy hiểm, chúng ta ủng hộ nếu thấy diễn tiến đảo chánh tốt, nhưng nếu thấy t́nh h́nh không thuận tiện th́ tŕ hoăn lại để khỏi làm ảnh hưởng đến chỗ đứng của Mỹ tại Đông Nam Á".

    Bản điện văn thứ nh́ của Ṭa Bạch Ốc th́ bày tỏ sự bất măn và nói rằng "chúng ta không thể chấp nhận cái luận điệu cho rằng chúng ta không có đủ tư cách để tŕ hoăn hay ngăn cản cuộc đảo chánh".

    Đại Sứ Lodge nghĩ là chính phủ Mỹ muốn ngăn cản đảo chánh, do đó ông gởi một điện văn về Hoa Thịnh Đốn: "Đừng có nghĩ là chúng ta có quyền tŕ hoăn hay ngăn cản đảo chánh. Không thể thông báo cho Tổng Thống Diệm được v́ làm như vậy là chúng ta phản bội các tướng lănh đảo chánh".

    Trái lại, đối với ông Xếp CIA Colby th́ nhận định lại khác: "Bây giờ đảo chánh th́ nói là do người Việt Nam làm, nhưng theo tôi nghĩ th́ trên thực tế quyết định này đă được Ṭa Bạch Ốc quyết định từ vài tuần trước, lúc mà trong cuộc họp báo công khai tuyên bố là cần có một bộ mặt mới trong chính phủ Việt Nam, ám chỉ muốn thay đổi hai anh em Diệm-Nhu. Chúng ta cắt ngân khoản CIA viện trợ Lực Lượng Đặc Biệt của ông Nhu, điều đó có nghĩa là khi chúng ta không đồng ư với họ chỗ nào th́ chúng ta cắt chỗ đó. Mỹ đă bật đèn xanh để các tướng đảo chánh ra tay".

    Tư Lệnh Mỹ tại Việt Nam , Tướng Harkins không tin tưởng Đại Sứ Lodge và cũng không tin tưởng các tướng lănh đảo chánh. Ông nói: "Tướng Đôn nói dối, ông ta nói với ông CIA Conein là có đảo chánh trước ngày 02 tháng 11, nhưng lại nói với tôi là không có đảo chánh".

    Tướng Harkins ra lệnh Thủy Quân Lục Chiến lên bờ Việt Nam . Tướng Harkins gởi điện văn cho Tướng Taylor ở Mỹ bày tỏ sự chống đối âm mưu đảo chánh Tổng Thống Diệm. Ông nói: "Chúng ta ủng hộ T.T. Diệm trong suốt 8 năm khó khăn. Thật sai lầm nếu hạ ông xuống, đá ông lăn lóc và đi truất phế ông ta". Chống lại ư kiến ủng hộ đảo chánh của Đại Sứ Lodge, Tướng Harkins gởi điện văn cho ông Lodge: "Chúng ta phải cần thu thập thêm tin tức. Mặc dù Tướng Đôn tuyên bố là đảo chánh là do chính người Việt Nam thực hiện. Tuy nhiên trong ngày gần đây rồi Mỹ cũng phải nhào vô dù có muốn hay không. Chúng ta cần phải tiếp tục ủng hộ Tổng Thống Diệm cho đến khi nào chịu đựng hết nổi".

    Ngày 31 tháng 10 năm 1963, Hoa Thịnh Đốn gởi cho Đại Sứ Lodge một điện văn được coi là điện văn cuối cùng. Nội dung là chính phủ Mỹ ra lệnh: "Không được đứng về phe nào. Nếu t́nh thế xảy ra không rơ ràng, th́ Mỹ phải đứng ḥa hoàn giữa hai bên. Nếu đảo chánh bị thất bại, ṭa đại sứ nên cho phép họ tỵ nạn tùy theo sự quyết định của Đại Sứ Lodge. Nhưng cố gắng khuyến khích họ nên đi nơi khác tỵ nạn. Dù vậy, nếu có cuộc đảo chánh xảy ra th́ Mỹ vẫn mong là nó thành công". Đại Sứ Lodge đ́nh chuyến bay trong ngày này.

    Ngày 01 thá ng 11 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn đến Bộ Tổng Tham Mưu lúc 7 giờ 30 sáng, 6 tiếng đồng hồ trước khi đảo chánh. Tướng Đôn chuẩn bị gặp Tướng Harkins và Đô Đốc Tư Lệnh Thái B́nh Dương Harry D. Felt lúc 9 giờ 15 sáng. Đô Đốc Felt muốn gặp Tướng Đôn tại Bộ Tổng Tham Mưu nhưng Tướng Đôn lại muốn gặp nhau tại cơ quan MACV. Tướng Đôn nói chuyện b́nh thường. Ông nói nếu đảo chánh thành công th́ sẽ thắng Cộng Sản. Trong khi nói chuyện, Đô Đốc Felt chỉ lên bản đồ hỏi rằng có 2 Tiểu Đoàn Dù chưa đồng ư gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn bảo đảm là các lực lượng này trên đường đến Tây Ninh, Tây Bắc của Sài G̣n, sẽ kéo về thủ đô và chủ động cuộc đảo chánh.

    9 giờ 45 sáng, Đô Đốc Felt rời MACV để đến thăm Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn sợ Tổng Thống Diệm rời Sài G̣n nên nhờ Đô Đố Felt cầm chân Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge làm hẹn và muốn tham dự. Gặp mặt tại Dinh, Tổng Thống Diệm nói: "Mỗi lần Đại Sứ Mỹ đi Hoa Thịnh Đốn là có tin đồn đảo chánh. Tôi biết là đang có sửa soạn đảo chánh, nhưng tôi không biết ai chủ mưu v́ họ giữ bí mật kỹ quá". Khi Đại Sứ Lodge sắp đi th́ Tổng Thống Diệm kéo qua một bên và nói là ông sẳn sàng thực hiện những điều chính phủ Mỹ muốn ông ta làm. Nhưng đă quá trễ, lúc Đại Sứ Lodge và Đô Đốc Felt từ biệt th́ lính đă bao vây thủ đô Sài G̣n.

    11 giờ 45 sáng, Đô Đốc Feelt chào Tổng Thống Diệm trở lại CINCPAC, có Tướng Đôn và Tướng Harkins đi cùng. Đô Đốc Felt họp báo tại phi trường Tân Sơn Nhất. Sau khi Đô Đốc Felt đi th́ Tướng Đôn và Tướng Harkins ăn trưa với nhau.

    Đại Sứ Lodge ngồi lại nói chuyện với Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm nói là Mỹ giật dây xúi Phật Giáo biểu t́nh và tung tin đảo chánh. Đại Sứ Lodge trả lời: "Thưa Ngài, nếu một người Mỹ nào hứa hẹn một điều ǵ sai trái th́ tôi sẽ tống cổ họ ra khỏi nước ngay". Bào chữa cho ông Cố Vấn Nhu, Tổng Thống Diệm khuyên ông Lodge nên gọi nói chuyện với ông Xếp CIA Colby và cựu Đại Sứ Nolting để họ giải thích cho ông Lodge biết lư do tại sao Tổng Thống Diệm cần đến ông Nhu nhiều như vậy.

    Trước khi Đại Sứ Lodge đứng ra về, Tổng Thống Diệm nói: "Xin ông vui ḷng nói với Tổng Thống Kennedy rằng tôi là đồng minh tốt và thẳng thắn, tôi muốn là chúng ta nên thẳng thắn cùng giải quyết những vấn đề bây giờ hơn là nói về nó sau khi chúng ta đă mất tất cả".



    Khi Đại Sứ Lodge tiếp chuyện với Tổng Thống Diệm th́ có một vị tướng đến nhà ông CIA Conein báo tin giờ đảo chánh sắp bắt đầu. Vị tướng này bảo ông CIA Conein mang tất cả số tiền lên Bộ Tổng Tham Mưu. Ông CIA Conein ôm 3 triệu đồng Việt Nam tương đương với 42,000 mỹ kim ra đi. Ông mang theo khẩu súng lục và mấy trái lựu đạn và một cái máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với các viên chức CIA khác. Theo ông Conein th́ số tiền này được rút từ quỹ của CIA để dùng mua thực phẩm cho lính đảo chánh và bồi thường các gia đ́nh có lính chết v́ đảo chánh. Trước khi đến Bộ Tổng Tham Mưu, ông CIA Conein bấm mật mă 9,9...9,9...9,9 để thông báo đến các nhân viên CIA biết đảo chánh bắt đầu. Tuy nhiên, theo tờ báo Times of Viet Nam phát hành ngày 02 tháng 09 năm 1963, trên trang nhất có tựa lớn "CIA Tài Trợ Đảo Chánh" (CIA Financing Planned Coup d'Etat). Trong bài báo này có nói đến việc cơ quan CIA của Mỹ chi từ 10 triệu tới 24 triệu để tài trợ cho cuộc đảo chánh chính phủ Tổng Thống Diệm. Số tiền này được ứng ra để trả lương và tưởng thưởng cho lính, cảnh sát, công chức. Và số tiền đó cũng được dùng để trả cho các tổ chức Phật Giáo, phong trào thanh niên đấu tranh, các cơ sở tuyên truyền và cho các trường hợp bất khả kháng. Ṭa Đại Sứ Mỹ từ chối nguồn tin này. Khi hỏi Tổng Thống Diệm th́ Tổng Thống Diệm nói: "Ông có nghĩ là tờ báo Times of Viet Nam lại đi in như vậy nếu đó không phải là sự thật?". Sau đó Tổng Thống Diệm có trưng dẫn một số bằng chứng để xác nhận điều đó là đúng.

    Các tướng đảo chánh đă nối đường dây điện thoại từ Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh và Ṭa Đại Sứ. Một đường dây điện thoại khác được bắt từ Bộ Tổng Tham Mưu đến tư thất của ông CIA Conein với mục đích để ông CIA Conein có thể liên lạc thường xuyên với 12 lính Biệt Kích "A" Team đang bảo vệ vợ con ông. Nếu đảo chánh bất thành, các người lính này sẽ tự động đưa vợ con ông ra khỏi nước. Ông CIA Conein đến Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh khoảng 12 giờ 15 - 12 giờ 30 trưa. Tướng Đôn vắng mặt v́ tiển Đô Đốc Felt ra phi trường. Khi Tướng Minh nh́n thấy người Mỹ th́ hất hàm hỏi: "Ông làm ǵ đây?". Ông CIA Conein trả lời là "Tôi được kêu tới đây". Tướng Minh dằn mặt: "Nếu đảo chánh thất bại th́ ông phải đi cùng với chúng tôi".

    Hầu hết các tướng lănh trung thành với Tổng Thống Diệm hay theo đảo chánh đều đến Bộ Tổng Tham Mưu do Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Trần Thiện Khiêm khoản đăi. Sau khi mọi người an tọa, Tướng Minh đứng dậy và tuyên bố đảo chánh, vừa lúc đó Quân Cảnh tràn vào pḥng với súng tiểu liên vây xung quanh. Tướng Minh kêu gọi các tướng ủng hộ đảo chánh. Họ được phép rời pḥng Tổng Tham Mưu nhưng không được ra khỏi Bộ Chỉ Huy.

    Những vị c̣n ngồi tại chỗ, trong đó có Đại Tá Lê Quang Tung phản đối đảo chánh bị tống giam ngay. Tướng Minh sai đem cái máy thâu băng vào pḥng, trong băng ông thâu lời tuyên bố đảo chánh, lên án gia đ́nh Tổng Thống Diệm độc tài và hứa là quân đội có khả năng cai trị nước hơn. Tướng Minh đ̣i các tướng hiện diện kư vào bản tuyên cáo và hỗ trợ quân đội đảo chánh. Ông phân phát cho các tướng những cuốn băng để phân phối đến các đài phát thanh. Nếu đảo chánh thất bại th́ các tướng không thể chối được việc ḿnh t́nh nguyện tham gia đảo chánh.

    1 giờ 30 quân đội phát động đảo chánh. Thông thường là đảo chánh ban đêm, nhưng lần này đảo chánh ban ngày nên lính chính phủ Tổng Thống Diệm không chuẩn bị ứng phó kịp thời. Lính đảo chánh mang khăn quàng đỏ, dấu hiệu đảo chánh tại miền Nam Việt Nam . Hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến tiến vào Sài G̣n từ Biên Ḥa. Một tiểu đoàn Dù, một tiểu đoàn Bộ Binh từ Vũng Tàu. Hai tiểu đoàn Dù từ B́nh Dương. Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Quân Trường gần đó. Đụng độ yếu ớt, quân đảo chánh chiếm phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Chỉ Huy Hải Quân, Bộ Quốc Pḥng. Khoảng 500 Thủy Quân Lục Chiến bao vây Tổng Nha Cảnh Sát v́ nơi đó phe Tổng Thống Diệm chứa rất nhiều vũ khí. Lính đảo chánh chiếm Sở Bưu Điện Trung Ương và Pḥng Điện Tín. Phe chính phủ Tổng Thống Diệm tử thủ tại Đài Phát Thanh Sài G̣n và các đài phát thanh khác.

    3 giờ chiều, Tướng Đôn gọi cho Ṭa Đại Sứ để hỏi có kế hoạch nào để đưa Tổng Thống Diệm và gia đ́nh ra khỏi Việt Nam nếu họ đầu hàng, Đại Sứ Lodge nói chắc chắn có máy bay v́ chính Đại Sứ Lodge đang có máy bay sẵn dự định để chở ông đi Mỹ, nhưng ông hoăn lại chuyến bay.

    3 giờ 30 chiều, quân đảo chánh chiếm Đài Phát Thanh. Đụng độ nặng nề nhất là tại lô cốt Cộng Ḥa của lực lượng Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống gần Dinh Gia Long. Chiến xa của phe trung thành Tổng Thống Diệm bắn hỏa tiễn vào các cao ốc làm bể kiếng khiến dân chúng hốt hoảng di tản.
    Khi nghe báo cáo là gặp sức kháng cự quá mạnh của phe Tổng Thống Diệm tại lô cốt Cộng Ḥa, Tướng Khiêm gọi Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ tại Bộ Chỉ Huy Không Quân, Tướng Khiêm nói: "Kỳ, lính pḥng vệ ông Diệm chống cự mạnh quá và th́ giờ không c̣n nhiều nữa. Ngay bây giờ hay không c̣n dịp khác nữa, ông có sẵn sàng giúp đỡ không?" Kỳ trả lời: "Dĩ nhiên, ngay lập tức". Với tướng mạo màu mè, bộ râu kẽm, luôn choàng cái khăn cổ tím và mang bên ḿnh cái súng lục cán mạ ngà voi, ông ra lệnh cho 2 phi công xuất trận. Khoảng 4 giờ chiều, hai chiếc máy bay T-28 xuất hiện trên bầu trời Sài G̣n, một chiếc từng dội bom Dinh Độc Lập năm 1962. Bom thả trật mục tiêu, một quả bom thả rớt xướng hầm trống của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bên kia Dinh Gia Long. Dù là bị oanh kích, nhưng trận đánh vẫn tiếp diễn tới tối.


    Khi nhận được báo cáo đầu tiên về việc có quân đội tiến về Dinh Gia Long một cách bất thường, ông Nhu tỏ ra không mấy quan ngại. Ông nghĩ đó chính là nằm trong kế hoạch đảo chánh giả của ông gồm 2 phần: nhận diện và tiêu diệt đám đối nghịch chế độ. Phần một ám hiệu là Bravo I, một cuộc đảo chánh giả. Với rất nhiều đơn vị lính trung thành với chế độ trú đóng xung quanh Sài G̣n, các lực lượng này sẽ tấn công một số mục tiêu đă được định sẵn trong thủ đô. Khi cuộc tấn công bắt đầu, Tổng Thống Diệm và ông Nhu sẽ thoát xuống Vũng Tàu, cách Sài G̣n 50 dặm về phía Đông-Nam. Sau nhiều ngày vô luật lệ và xáo trộn, chính phủ của phe phản loạn sẽ ra mặt. Lúc đó những lực lượng lính trung thành với chính phủ Diệm sẽ tiến vào Sài G̣n và tiêu diệt phản loạn trong phần "phản đảo chánh" với ám hiệu Bravo II. Theo kế hoạch này, ông Nhu tiên đoán là "chúng ta sẽ lừa bọn tay sai của Mỹ rúc hết vào một cái rọ trong thủ đô".

    Nhưng thật rủi cho anh em Tổng Thống Diệm, ông Nhu v́ quá tin nên giao kế hoạch làm đảo chánh giả cho Tướng Tôn Thất Đính thực hiện. Vào trưa 01 tháng 11 ông Nhu cố liên lạc với Tướng Đính nhưng không gặp, ông Nhu liên lạc với các tướng trung thành chế độ nhưng cũng không gặp được, lúc đó th́ ông Nhu mới nhận thức ra là đảo chánh thật.

    Khoảng sau 4 giờ chiều, Tổng Thống Diệm gọi Tướng Khiêm, người đă cứu Tổng Thống Diệm trong cuộc đảo chánh năm 1960. Thay v́ nói chuyện với Tướng Khiêm, th́ Tướng Đôn trả lời. Tổng Thống Diệm hỏi: "Các tướng đang làm cái ǵ vậy?". Tướng Đôn trả lời: "Thưa Ngài, thời điểm đă đến, quân đội phải đáp lại nguyện vọng của đồng bào". Tổng Thống Diệm quở trách Tướng Đôn ăn nói thiếu lễ độ. Sau đó Tổng Thống Diệm tuyên bố là ông muốn thực hiện những điều cải tổ như ư quân đội miền Nam Việt Nam đ̣i hỏi trong tháng 09 rồi. Tổng Thống Diệm mời Tướng Đôn và những tướng lănh khác vào Dinh Gia Long để thảo luận. V́ nhớ lại cái kinh nghiệm chua cay của cuộc đảo chánh thất bại 1960 khi Tổng Thống Diệm dùng kế hoăn binh để đoàn quân trung thành với ông có đủ th́ giờ về giải cứu, do đó Tướng Đôn từ chối lời mời.

    4 giờ 30 chiều, Tổng Thống Diệm gọi điện thoại cho Đại Sứ Lodge hiện đang ở nhà. Theo lời Đại Sứ Lodge báo cáo cho Bộ Ngoại Giao sau này, th́ cuộc đối thoại có nội dung như sau:

    "Tổng Thống Diệm: Có một số đơn vị lính phản loạn và tôi muốn biết thái độ của chính phủ Mỹ ra sao?

    Đại Sứ Lodge: Tôi hiện không có đủ chi tiết để tŕnh với Ngài. Tôi có nghe tiếng súng nổ, nhưng tôi không biết nguyên do. Vả lại, bây giờ ở Hoa Thịnh Đốn là 4 giờ 30 sáng do đó chính phủ Mỹ chắc không thể có quan điểm ǵ.

    Tổng Thống Diệm: Nhưng ông phải có vài ư kiến tổng quát chứ? Tôi là Tổng Thống. Tôi đă cố gắng thi hành những bổn phận của tôi. Bây giờ tôi muốn sử dụng cái bổn phận của tôi. Tôi tin là bổn phận trên tất cả.

    Đại Sứ Lodge: Ngài lẽ dĩ nhiên đă làm những bổn phận của Ngài. Tôi cảm phục sự can đảm và công lao đóng góp lớn lao của Ngài vào quốc gia của Ngài. Không ai có thể tướt đi cái công ơn mà Ngài đă làm. Bây giờ tôi đang lo ngại cho sự an toàn tính mạng của Ngài. Tôi đă sắp xếp để đưa Ngài và em của Ngài ra nước ngoài để bảo toàn tính mạng nếu Ngài từ chức. C̣n nếu như Ngài không đồng ư, th́ tôi cũng đă sắp đặt để Ngài mang tước vị Quốc Trưởng và Ngài có thể ở lại đây an toàn.

    Tổng Thống Diệm: Không, không, tôi không muốn vậy. Tôi muốn tái lập trật tự. Tôi phải tái lập trật tự.(cúp máy)

    Tướng Đôn có kể lại là trong khi đang đảo chánh th́ Tổng Thống Diệm gọi điện thoại nói chuyện với Tướng Đôn, Tướng Đôn nói với Tổng Thống Diệm: "Thưa Tổng Thống, tôi lấy làm tiếc về sự việc xăy ra, nhưng điều tôi muốn Tổng Thống bây giờ là hăy khôn ngoan và hiểu cho hoàn cảnh, và hiện có một chiếc máy bay đặc biệt sẵn sàng đưa Tổng Thống và gia đ́nh ra khỏi nước nếu Tổng Thống đầu hàng vô điều kiện".

    Cả chiều 01 tháng 11, nhiều tướng đảo chánh gọi vào Dinh kêu gọi Tổng Thống Diệm và ông Nhu đầu hàng.

    4 giờ 30, Tướng Minh lên tiếng với ông Nhu rằng nếu ông Nhu và Tổng Thống Diệm không ra đầu hàng th́ Dinh Tổng Thống sẽ bị pháo kích và dội bom. Phe đảo chánh mang Đại Tá Lê Quang Tung đến, ông ta là người chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt trung thành với Tổng Thống Diệm.

    Họ kê súng vào đầu Đại Tá Tung bắt gọi. Đại Tá Tung báo cáo thẳng là phe đảo chánh bắt giam tất cả tướng lănh và viên chức trung thành chính phủ, và Tướng Khiêm với Tướng Đính đă gia nhập phe đảo chánh rồi. Đại Tá Tung kêu gọi đầu hàng, nhưng ông Nhu không chịu.

    Tối hôm đó, phe đảo chánh trói tay Đại Tá Tung và em của ông ta giữ chức Phó Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Họ bị giao cho cận vệ của Tướng Minh chở về Bộ Tổng Tham Mưu bắn chết và chôn vào 2 cái hố mới được đào.

    5 giờ 15 chiều, Tướng Minh gọi Tổng Thống Diệm đầu hàng. Tổng Thống Diệm từ chối nói chuyện với Tướng Minh phản loạn và khinh bỉ cúp máy. Quá tức giận về thái độ của Tổng Thống Diệm làm bẽ mặt Tướng Minh trước binh sĩ, sau đó vài tiếng, Tướng Minh gọi lại vào Dinh, Tướng Minh dọa nếu anh em Tổng Thống Diệm không ra đầu hàng th́ Dinh này sẽ trở thành "b́nh địa". Tổng Thống Diệm vẫn từ chối nói chuyện với vị tướng lănh đạo cuộc đảo chánh này.

    Để chứng tỏ lời đe dọa là thật, Tướng Minh ra lệnh tấn công vào Dinh. Lư do Tướng Minh chần chừ không tấn công là v́ muốn giảm thiểu sự đổ máu của hai bên. Hơn nữa, Tướng Minh và các tướng đảo chánh không có ư định tấn công vào Dinh là v́ nghĩ là khi thấy lực lượng quân đội đảo chánh hùng hậu như vậy th́ tự động anh em Tổng Thống Diệm ra đầu hàng. Sự từ chối giải pháp đầu hàng của Tổng Thống Diệm đă làm Tướng Minh và các tướng ngạc nhiên, bực tức vô cùng.

    Không tướng nào muốn tấn công vào Dinh Gia Long cả. Tổng Thống Diệm hiện vẫn c̣n là khuôn mặt đáng kính. Họ không muốn mang tiếng nhục khi tấn công trực tiếp vào Tổng Thống Diệm. Các tướng đảo chánh chọn Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu v́ Đại Tá Thiệu là người Công Giáo. Họ muốn người Công Giáo diệt người Công Giáo. Đó là lối lư luận và tính toán của các tướng đảo chánh theo đạo Phật.

    Khoảng hơn 3 giờ sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, Đại Tá Thiệu tấn công Dinh Gia Long bằng vũ khí hạng nặng .50 caliber, 75 mm và xe tăng, phá sập cổng Dinh, dù vậy Tổng Thống Diệm cũng không chịu đầu hàng.

    Rạng sáng, phe đảo chánh tiến vào Dinh Gia Long với cảnh tượng đổ nát, ngổn ngang. Họ t́m kiếm Tổng Thống Diệm và ông Nhu, lúc đó mới phát giác là hai ông đă thoát thân từ lúc 8 giờ tối hôm qua, tức buổi tối 01 tháng 11.

    Anh em Tổng Thống Diệm trốn khỏi Dinh Gia Long bằng đường hầm bí mật cổng sau và chạy lên núp trong một nhà của người thương gia Tàu tên là Mă Tuyên tại Chợ Lớn vào lúc 9 giờ tối ngày 01 thá ng 11. Trong nhà này trang bị đầy đủ hệ thống điện thoại tối tân để Tổng Thống Diệm và ông Nhu gọi cầu cứu. Hai ông muốn lên cao nguyên hoặc xuống biển để đích thân điều động cuộc "phản đảo chánh", nhưng khi gọi không được ai th́ hai ông thất vọng năo nề. Hai ông có ư xin tỵ nạn tại ṭa Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia nhưng thất bại.

    6 giờ sáng, Tổng Thống Diệm gọi Tướng Đính ra lệnh các tướng đảo chánh đầu hàng.

    6 giờ 20 sáng, Tổng Thống Diệm vẫn lại từ chối nói chuyện với Tướng Minh, nhưng lại gọi Tướng Đôn và chịu đầu hàng trong "danh dự". Hai ông muốn được hộ tống ra phi trường an toàn để đi ra khỏi nước. Tướng Minh v́ bị Tổng Thống Diệm làm nhục mấy lần trước mặt binh sĩ nên không chấp nhận cho anh em Tổng Thống Diệm đầu hàng cho đến khi nào "người Việt ngưng giết người Việt", có ư là tại Dinh Gia Long vẫn đang c̣n đánh nhau.

    Ba mươi phút sau, Tổng Thống Diệm gọi lại Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh, Tổng Thống Diệm báo là ông đă ra lệnh lính Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống ngưng bắn và ông đồng ư đầu hàng vô điều kiện.


    Lần này các tướng đồng ý.


    -Còn tiếp-
    Last edited by longquan; 15-10-2011 at 03:24 AM.

  7. #7
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Hoa Kỳ và cuộc đảo chánh 1-11-1963

    -Tiếp theo-



    Trong khi thương thảo, các tướng đảo chánh yêu cầu ông CIA Conein thu xếp máy bay chở Tổng Thống Diệm và gia đ́nh ra khỏi nước. Ông CIA Conein gọi cho Phó Trưởng Pḥng CIA David Smith. Chờ độ 10 phút th́ ông Smith trả lời là cần 24 tiếng đồng hồ mới thu xếp có máy bay. Chính phủ Mỹ muốn đưa Tổng Thống Diệm bay đến một quốc gia khác tỵ nạn, có lẽ là Âu Châu, v́ tại đó ông khó về để phục thù. Chuyến bay được chỉ thị phải bay trực tiếp và không được ngừng lấy xăng, và chỉ ở Guam mới có loại máy bay đó mà thôi. Ông CIA Conein báo lại cho các tướng đảo chánh biết lời của ông Trưởng Pḥng CIA Smith, Tướng Minh gắt gỏng nói: "Chúng tôi không thể giữ họ lâu nữa được".

    Chấp thuận lời đầu hàng của anh em Tổng Thống Diệm, Tướng Minh ra lệnh cho một chiếc xe thiết giáp M 113 và 4 xe Jeep đi đón anh em Tổng Thống Diệm do Tướng Mai Hữu Xuân và Đại Tá Dương Ngọc Lắm cầm đầu. Sau khi cái xe rời Bộ Tổng Tham Mưu th́ được báo là anh em Tổng Thống Diệm không có tại Dinh Gia Long. Tướng Minh ra lệnh lục soát khu vực Sài G̣n, và do chỉ điểm của mật báo viên, các tướng đảo chánh mới biết là anh em Tổng Thống Diệm đang ở nhà thờ tại Chợ Lớn. Đoàn xe được lệnh đổi lộ tŕnh và tiến về Chợ Lớn.

    8 giờ 30 sáng, Tổng Thống Diệm và ông Nhu cùng mặc bộ đồ vest màu xám bị bắt tại nhà thờ Don Thanh mà hay gọi là nhà thờ Cha Tam tại Chợ Lớn trong khi họ đang cầu nguyện v́ là ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn của đạo Công Giáo.

    Theo lời kể của một sĩ quan Việt Nam : "Tổng Thống Diệm th́ chứng tỏ cái phong cách lịch sự, nhưng ông Nhu th́ kèn cựa cho tới phút chót". Ông Nhu phản đối: "Các ông đem chiếc xe như vậy để mà chở Tổng Thống hả?". Hai tay bị trói ra đàng sau, hai ông bị đẩy vào trong chiếc xe thiết giáp M113. Trên đường về Bộ chỉ Huy, đoàn xe ngừng tại cổng xe lửa độ 5 phút. Theo hầu hết lời kể, th́ chính cận vệ của Tướng Minh là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đă bắn và đâm anh em Diệm-Nhu.

    Theo lời kể khác, th́ Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tài xế xe thiết giáp cũng là người giết hai ông. Theo lời kể của Tướng Khánh, người điều tra cái chết của Tổng Thống Diệm sau cuộc chỉnh lư nói rằng: "Đại Úy Nhung đă giết anh em ông Diệm. Nó là tên giết người chuyên nghiệp. Nó đă giết 40 người, nó gạch một gạch trên dao găm mỗi lần nó giết một người". Đại Úy Nhung bị Tướng Khánh giam năm 1964 nhưng không sống lâu để khai ai ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm, và Đại Úy Nhung bị chết trong nhà tù bằng cách treo cổ.


    Có nhiều mâu thuẫn giữa các tướng trong việc ai là người ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm. Theo lời thuật của Tướng Đôn trong quyển hồi kư của ông ta th́ Tướng Minh ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn viết: "Tôi khẳng định là Tướng Minh và một ḿnh ông ta quyết định thôi". Trái lại, các sĩ quan cho rằng nếu không phải tất cả, th́ hầu hết các tướng đảo chánh đă cùng quyết định giết Tổng Thống Diệm. Theo lời khai của Thiếu Tá Nghĩa th́ "số mạng của Tổng Thống Diệm được quyết định bởi đa số tướng lănh trong Ủy Ban Cách Mạng".

    Theo ông xếp CIA William Colby th́: "Thật quá rơ ràng chính Tướng Minh đă giết anh em Diệm-Nhu". Trái lại, theo lời của một viên chức cao cấp CIA khác, ông George Carver th́ hoài nghi: "Tôi không nghĩ là Tướng Minh quyết định một ḿnh, v́ theo cái bản tính của ông, ông ta thích thảo luận và chia xẻ trách nhiệm khi làm một quyết định quan trọng v́ ông ta sợ đổ thừa sau này".

    Nhưng cũng theo người khác kể th́ chính Tướng Mai Hữu Xuân đă ra lệnh giết.

    Theo lời kể của ông CIA Conein th́ khi ông ta rời Bộ Tổng Tham Mưu cũng cùng lúc với xe thiết giáp đi đón ông Diệm. Báo chí được mời tới Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh (tức Bộ Tổng Tham Mưu). Về đến nhà, ông CIA Conein nhận lệnh của ông Phó Trưởng Pḥng CIA Smith đ̣i đi kiếm Tổng Thống Diệm.

    Khoảng 10 giờ 30 sáng, khi ông CIA Conein trở lại Bộ Chỉ Huy, th́ các tướng nói là anh em Diệm-Nhu đă tự tử trong nhà thờ tại Chợ Lớn. Theo ông CIA Carver:"Cái việc cứng đầu tới giờ chót, tạo nên những cái chết vô ích cho đôi bên, và làm bẽ mặt Tướng Minh trước binh sĩ, tức anh em ông Diệm-Nhu đă kư vào một bản án tử h́nh". Tướng Minh bảo ông CIA Conein đến nh́n xác chết anh em ông Diệm-Nhu nhưng ông CIA Conein từ chối. V́ với con mắt nhà nghề t́nh báo, ông CIA Conein rất dễ nhận ra là bị giết hay tự tử, và điều biết đó sẽ rất là nguy hiểm.

    Xác hai ông được mang tới bênh viện St.Paul tại Sài G̣n để làm giấy khai tử, và được chôn tại một nghĩa trang dân sự cách nhà Đại Sứ Lodge một block đường mà trên mộ không có bia tên ǵ cả. Trong tờ giấy chứng tử th́ lại đề ông Diệm là Thượng Thư thời Pháp thuộc chứ không phải là Tổng Thống, và đề ông Nhu là Quản Thủ Thư Viện, một chức vụ cũ rồi.

    Tại Hoa Thịnh Đốn th́ các cố vấn cao cấp của Tổng Thống Kennedy theo dơi sát nút cuộc đảo chánh từ lúc 1 giờ 30 sáng ngày 01 tháng 11 khi được CRITIC báo cáo là có đảo chánh. V́ việc Đại Tá Thảo kéo quân về Sài G̣n đảo chánh hụt trước kia làm cho Hoa Kỳ hơi bi quan về việc đảo chánh. Sau khi nối trực tiếp đường dây với Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam , Phụ tá Tổng Thống Forrestal nói chuyện với Phó Đại sứ Trueheart. Ông Trueheart báo cáo là "có ông CIA Conein túc trực bên bộ chỉ huy đảo chánh, và đây là cuộc đảo chánh thật. Bây giờ không c̣n các báo cáo hồi hộp nữa đâu". Nghe xong, ông Forrestal đánh thức Tổng Thống Kennedy và họ cùng xuống pḥng Situation Room để theo dơi suốt cuộc đảo chánh.

    Tướng Taylor có mặt với Tổng Thống Kennedy trong lúc đó đă ghi lại trong hồi kư như sau: "Khi nghe tin Tổng Thống Diệm bị giết, mặt mày Tổng Thống Kennedy tái méc và run lập cập. Ông bước vội ra khỏi pḥng với cái trạng thái hốt hoảng chưa từng thấy. Trở lại pḥng, Tổng Thống Kennedy nói với các phụ tá: "Tại sao họ phải làm vậy? Tổng Thống Diệm đă chiến đấu khổ nhọc trong 9 năm trời chống Cộng Sản, lẽ ra ông ta phải nhận được sự đền bù xứng đáng hơn là cái việc bị giết chớ ?!".

    Ông xếp CIA Colby kể lại: "Tổng Thống Kennedy xúc động và buồn bă quá chừng. Ông ta cảm thấy như ḿnh dự phần nào trách nhiệm về việc này". Tổng Thống Kennedy từng ủng hộ đảo chánh, rồi rút lui, rồi ủng hộ lại. Cố vấn đặc biệt của Tổng Thống Kennedy là ông Arthur Schlesinger nói: "Việc giết Tổng Thống Diệm và ông Nhu không nằm trong kế hoạch chúng tôi và chúng tôi cũng không mong điều đó. V́ nhiều lư do mà các tướng đảo chánh đă giết hai ông.

    Cái chết của Tổng Thống Diệm làm Tổng Thống Kennedy buồn rầu bởi v́ Tổng Thống Kennedy là con người đạo đức, ông ta không muốn người khác bị giết, hơn nữa người đó lại là vị nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, một phần khác nữa là Tổng Thống Kennedy sợ rằng cái chết của Tổng Thống Diệm sẽ lôi kéo thêm quân Mỹ vào Việt Nam ". Cũng theo Schlesinger th́ vào thời điểm đó có 16 ngàn cố vấn Mỹ tại Việt Nam, và có 75 lính Mỹ chết.

    Mặc dù Tổng Thống Kennedy mất b́nh tĩnh, nhưng các giới chức Mỹ th́ b́nh thường. Quân đội và CIA th́ luôn nhận thức rằng có đảo chánh là có đổ máu chết chóc. Tướng Taylor sau này nói rằng: "Thực hiện một cuộc đảo chánh không phải giống như một tiệc trà. Nó là một việc làm vô cùng nguy hiểm". Trước khi đảo chánh, Phó Đại Sứ Mỹ Trueheart có gởi một điện văn cho Bộ Ngoại Giao khuyến cáo rằng: "Thật nguy hiểm cho hai ông Diệm-Nhu có thể bị tử h́nh v́ các tướng đảo chánh sợ rằng hai ông sẽ t́m cách trở về chiếm lại quyền". C̣n ông Phụ Tá Ngoại Trưởng, Roger Hilsman, người đồng tác giả bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 08 ủng hộ đảo chá nh, khi bị hỏi ông nghĩ ǵ khi bàn tay ông đang dính đầy máu, th́ ông Hilsman dững dưng, tỏ vẻ chính phủ Mỹ không quan tâm lắm về cái chết của ông Diệm. Ông nói: "Cách mạng th́ ghê gớm lắm. Người ta phải chịu trả giá chết chóc mà".

    Theo lời của ông Thiện, Bí Thư Báo Chí của Tổng Thống Diệm nói là có phỏng vấn Tướng Kim, một tướng có thiện cảm với Tổng Thống Diệm trước kia nhưng nay tại sao theo phe đảo chánh, th́ Tướng Kim trả lời: "Chính phủ Mỹ bảo chúng tôi chọn giữa Tổng Thống Diệm và viện trợ của Mỹ. Chúng tôi không c̣n chọn lựa nào khác hơn". Đang họp tại Pháp, v́ quá mừng khi nghe được tin hai anh em Tổng Thống Diệm bị giết, ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Cộng Sản reo lên: "Đây là một món quà từ Trời cho chúng tôi”

    Bào huynh Tổng Thống Diệm là Đức Giám Mục Ngô Đ́nh Thục và Bà Nhu đang ở nước ngoài khi đảo chánh. Vài ngày sau đảo chánh, Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n sắp đặt cho 3 đứa con của ông bà Ngô Đ́nh Nhu ra khỏi nước.

    Ngày 02 tháng 11 quân đảo chánh vây nhà ông Ngô Đ́nh Cẩn, ông Cẩn chạy đến trốn trong một nhà thờ Công Giáo tại Huế. Các Linh Mục đến Ṭa Lănh Sự Mỹ ở Huế xin tỵ nạn cho ông Cẩn nhưng không được, v́ theo luật quốc tế chỉ có Ṭa Đại Sứ mới có quyền cho tỵ nạn mà thôi. Ông Lănh Sự John Helble hỏi lệnh Ṭa Đại Sứ và Bộ Ngoại Giao. Bộ Ngoại Giao chỉ thị Lănh Sự Helble phải cho ông Cẩn tỵ nạn.

    10 giờ 45 sáng, một ḿnh ông Cẩn đến trú ẩn tại Ṭa Lănh Sự Huế. Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Sư Đoàn I đến Ṭa Lănh Sự yêu cầu đừng chứa chấp ông Cẩn v́ e dân chúng tràn vào không giữ an ninh nổi. Cùng ngày, ṭa Lănh Sự Mỹ ở Huế yêu cầu ṭa Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n di chuyển gấp ông Cẩn.

    Ông Lănh Sự Helble kể :"Tôi được cho biết là sẽ đưa anh em ông Diệm-Nhu ra khỏi nước". Tháp tùng bởi một người sĩ quan Mỹ, ông Cẩn lên máy bay đi vào Sài G̣n. Hạ cánh Tân Sơn Nhứt, thay v́ gặp một viên chức ṭa Đại Sứ như đă hứa, nhưng ông CIA Conein đón bắt ngay ông Cẩn và giao cho quân đảo chánh giam giữ. Trên lúc chiếc máy bay chở ông Cẩn đang bay, th́ Đại Sứ Lodge gọi về Hoa Thịnh Đốn báo tin là Tướng Đôn hứa sẽ cho ông Cẩn được xử án một cách phân minh và công bằng, bởi vậy ông quyết định giao ông Cẩn cho phe đảo chánh.

    Ông CIA Conein kể là Đại Sứ Lodge dặn: "Tôi sắp xếp chuyến bay đặc biệt này và ông phải giải giao người trên phi cơ này cho quân đảo chánh". Vào mùa Xuân 1964, ông Cẩn bị ghép đủ thứ tội như: tội thủ tiêu, tổ chức ám sát, bắt người vô cớ, làm thiệt hại kinh tế quốc gia mặc dù có lời xin ân xá của Đại Sứ Lodge. Ông Cẩn bị xử bắn ngày 09 tháng 05 năm 1964, tức 1 năm 1 ngày sau ngày nổi dậy biểu t́nh của Phật Giáo Huế.

    Ngày 22 tháng 11 năm 1963. Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết tại thành phố Dallas, Texas, Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson lên nhậm chức Tổng Thống Mỹ. Lúc c̣n là Phó Tổng Thống, ông Johnson từng qua hội kiến với Tổng Thống Diệm vào tháng 05 năm 1961 để bàn việc đưa quân Mỹ tham chiến Việt Nam. V́ cảm phục và nể trọng Tổng Thống Diệm, nên ông Johnson đă ca ngợi rằng: "Thủ Tường Diệm là một Churchill của Á Châu...Lịch sử xếp ông ta như là một trong những vĩ nhân của thế kỷ 20".

    Sau cuộc đảo chánh 1963, đất nước liên tiếp trải qua bao cảnh chính biến và cuối cùng đưa cả một dân tộc vảo một thảm họa đen tối nhất lịch sử là để miền Nam Việt Nam rơi vào tay bọn Cộng Sản vô thần. Để rồi hôm nay đây, nơi đất khách quê người, chúng ta xót xa mang nỗi hờn vong quốc, và ngậm ngùi tiếc nhớ những kỷ niệm, dĩ văng xa xưa!!!

    Ngô Kỷ

    ngokyusa@yahoo.com

    Vài Links tài liệu Hoa Kỳ liên quan đến Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm:

    http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB101/index.htm

    http://en.wikipedia.org/wiki/Arrest_..._Ngo_Dinh_Diem

    http://25thaviation.org/history/id549.htm

    http://www.iusb.edu/~journal/1998/Paper2.html

    http://www.vietvungvinh.net/Portal.a...5Oct06BL02.htm

    Tham khảo và dịch thuật từ các sách sau đây:

    - Lost Victory (William Colby)
    - The Wound Within: America in the Vietnam Years, 1945-1974 (Alexader Kendrick)
    - Kennedy in Vietnam : American Vietnam Policy 1960-63 (William J. Rust)
    - Beyon Vietnam : The United States and Asia (Edwin O. Reischauer)
    - Can We Win In Vietnam ? (FranK E. Armdruster, Raymond D. Gastil, Herman Kahn, William Pfaff, Edmund Stillman)
    - The Perfect War: The War We Coudn't Lose and How We Did (James William Gibson)
    - VIETNAM An American Ordeal (George Donelson Moss)
    - The Ten Thousand Day War VIETNAM :1945-1975 (Michael Maclear)
    - THE UNFINISHED WAR Vietnam and the American Conscience (Walter H. Capps)
    - The Vietnamese and Their Revolution (John T. McAlister,Jr/Paul Mus)
    - Why we were in Vietnam (Norman Podhoretz)
    - America 's Longest War THE UNITED STATES AND VIETNAM 1950-1975 (George C. Herring)
    - In Retrospect THE TRAGEDY AND LESSONS OF VIETNAM (Robert S. McNamara)
    - THE VIETNAM WAR Opposing Viewpoints (David L. Bender)
    - The "Uncensored War" THE MEDIA AND VIETNAM (Daniel C. Hallin)
    - Vietnam Crisis (Stephen Pan,PH.D.,-Daniel Lyons,S.J.)



    http://ngodinhdiem.blogspot.com/2007...dinh-diem.html

  8. #8
    HangChot
    Khách

    Bài viết hay...

    Bài viết củaTiến sĩ Phạm văn Lưu


    Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị ám sát,...Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch củaTrung Hoa Dân Quốc, đă nhận xét: Người Mỹ cótrách nhiệm nặng nề trong việc ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ư hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lănh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tím được một lănh tụ cao quí như vậy.[1].Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đ́nh Nhu[2], tôi nghĩ cần phải thêmvào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới t́m được một nhà lănh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu..

    Xem thêm :
    http://quanvan.net/?view=story&subje...788&chapter=17

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •