Results 1 to 9 of 9

Thread: Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

    Hồ Chí Minh : Con Người Trăm Mặt



    Trong bốn người liên quan tới việc xuất dương, chỉ có Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh ra đi năm 1911, là tự nhận ḿnh t́m đường cứu nước. Trước đó, qua bộ máy tuyên truyền của đảng và chính Hồ viết sách để ca tụng và huyền thoại cuộc đời ḿnh, làm cho nhiều người nhẹ dạ không muốn tin cũng phải gật đầu chấp nhận, v́ biết đâu mà ṃ. Nhưng vào tháng 2-1983, hai sử gia VN, tiến
    sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đă công bố khắp thế giới, một tài liệu vô cùng quan trọng, t́m thấy tại văn khố Pháp duy nhất nói tới giai đoạn 1911 của Nguyễn Tất Thành.
    Đó là hai lá thư xin nhập học Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale) viết ngày 15-9-1911 và một lá viết tại New York ngày 15-12-1912 gởi Khâm sứ Trung Kỳ. Điều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích t́m đường làm quan để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng ḿnh, chứ không hề có ư định cứu nước giúp dân như Trần Dân Tiên từng viết sách ca tụng.

    Ngoài ra những bí mật đă được bật mí, theo đó mới biết được gần suốt cuộc đời của Hồ, hầu như sống bằng nghề t́nh báo KGB, phục vụ cho quyền lợi của đệ tam quốc tế mà thôi. Nên người ngoài cũng không lấy làm lạ trước những sự kiện của đảng Cọng Sản Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, địa vị của Hồ Chí Minh từ năm 1930 cho tới cuối năm 1944 trong đảng rất mù mịt, không chiếm được một ưu thế nào, v́ Hồ thật sự đâu có làm ǵ. Cũng theo sử liệu, lănh đạo đảng lúc đó là những tên tuổi Đặng Xuân Khu, Nguyễn văn Cừ, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng cho nên măi tới hội nghị đảng lần thứ VIII, họ Hồ vẫn chưa có một danh vị đảng. Theo Lê Quảng Ba viết trong Hồi kư Đầu Nguồn, tiếng nói của nhóm cán bộ lưu vong tại hang Pắc Pó trong thời gian 1941-1944, Hồ Chí Minh từ Nậm Quang chính thức dời về đóng trụ ở biên giới Hoa-Việt, để dạy lớp cán bộ. Lớp học kết thúc ngày 26-1-1941 nhưng đă bế tắc v́ Hồ không đủ uy tín để tổ chức được một chiến khu nào tại miền xuôi. Bởi vậy mới thấy tới ngày 22-12-1944, Vơ Nguyên Giáp mới lập được Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tại rừng Trần Hưng Đạo, Huyện Nguyên B́nh, tỉnh Cao Bằng, chỉ được 34 người, hầu hết la dânợ Nùng, Thổ bản địa.

    Nhưng Hồ là người may mắn, từ thuở nhỏ đă được các quí nhân tại Phan Thiết như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang làm vang danh tại trường Dục Thanh. Sau đó qua Pháp, được Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền góp chữ và uy tín, đưa Bồi Ba, tức Nguyễn Tất Thành bước vào con đường chính trị, báo chí thế giới qua danh xưng của nhóm là Nguyễn Ái Quốc mà Hồ nhận riêng là của ḿnh.

    Rồi từ hang Pắc Pó trở lại Tàu, may mắn bị quân Trung Hoa Quốc Gia bắt. Từ đó qua bảo đăm của Nguyễn Hải Thần cùng Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, với chủ tướng Trương Phát Khuê, họ Hồ chính thức sắm thêm vai gián điệp t́nh báo cho quân đội Đồng Minh tại Đệ Tứ Chiến Khu Hoa Nam, sau khi được trả tự do ngày 16-3-1945, theo như tài liệu của Michael Maclear viết trong ‘The Ten Thousand Day War Việt Nam (1945-1975), xuất bản tại New York năm 1981.

    Cũng từ đó, qua vai tṛ điệp viên t́nh báo quốc tế thuộc các cơ quan KGB, Trung Cộng, Trung Hoa Dân Quốc, rồi do Charles Fenn giới thiệu, lại trở thành điệp viên chính thức của OSS tức là Office of Strategic Services, tiền thân của cơ quan Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ ( CIA), làm việc dưới quyền Thiếu Tá Mỹ Archimedes Patti, đặc trách chiến trường Đông Dương. Nhờ đó, Hồ bước qua hết các xác chết cản đường trong đảng, để mùa thu tháng chín 1945, nghênh ngang vơng lọng về Hà Nội nhận chức và đọc diễn văn. Đó là tất cả quá tŕnh xuất dương cứu nước của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, một huyền thoại (?)mà bao chục năm qua, thiên hạ vẫn không ngớt viết, nói về cuộc đời của một tên quốc tặc ‘ trước sau, nhỏ lớn ‘ đă và đang cùng với đồng bọn ‘ rước voi Nga-Tàu ‘ về dầy xéo cướp chiếm công khai non nước Việt, mà hiện nay cả thế giới, ai cũng đều thấy rơ.

    Từ câu chuyện nhục nhă trên, nhiều người đă thở dài khi nghĩ rằng, phải chi Nguyễn Tất Thành lúc đó, được thực dân Pháp nhận vào trường Thuộc Địa, th́ với bản chất bất lương như vậy, cùng lắm Hồ chỉ là một tham quan Việt gian làm tay sai cho Pháp mà thôi. Nhờ đó đất nước và dân tộc Việt Nam ngày nay có thể đă thoát được nổi trường hận cùng khốn tận tuyệt dưới bàn tay tàn độc cũa một Hồ Chí Minh làm tay sai cho các thế lực quốc tế, từ Liên Xô, Trung Cộng, Pháp, Tàu Trắng và Hoa Kỳ. Năm 1932 danh xưng Nguyễn Ái Quốc được khai tử trong nhà tù Hồng Kông, để thay thế vào cái tên Hồ Chí Minh (với công luận : đó là một người Tàu được nhập vai HCN thật đă chết) . Chuyện thật giả, đúng sai cho tới giờ này chỉ có trời mới biết, chứ mặt thật th́ ai cũng chỉ dựa vào sách báo để ghi lại mà thôi.

    1- NGUYỄN TẤT THÀNH, CON NGƯỜI TRĂM MẶT ::

    Nhiều năm sau ngày ‘bác’ lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đă có một thời gian dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài G̣n, qua Pháp t́m đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, th́ cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, th́ ‘bác’ có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói ‘người’ có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng ǵ tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà ṃ. Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt ḷng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, v́ vậy ta thấy sách vở đă chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của ‘bác’ bị phát giác.

    Trong số 100 tên, có lẽ cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’ xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đă gây ra không biết bao nhiêu tranh căi, từ ấy cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cọng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lănh tụ ‘Hồ Chí Minh’. Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn c̣n rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hăng Đầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đă vậy, tên cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm thiên hạ mới có dịp ‘ đào mồ cuốc mă tên đại phản quốc ‘ để rửa hận cho quốc dân VN, nhất là trong giai đoạn ‘ quốc phá gia vong ‘ hiện tại, ngụy quyền cộng sản Hà Nội qua Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng .. đă công khai bán dân tộc và đất nước Việt cho Tàu đỏ.

    + Nguyễn Ái Quốc và nhóm Trinh-Trường-Truyền :

    Trước khi Nguyễn Tất Thành xuất dương, th́ Phan Chu Trinh và con là Phan Chu Dật mới 8 tuổi, đă tới Pháp ngày 1-4-1911 với trợ cấp của Chính Phủ Đông Dương. Từ năm 1912, Phan Chu Trinh kết thân với Phan văn Trường đang theo học Tiến Sĩ Luật tại Paris, nên dọn về ngôi biệt thự của Trường tại số 6 đường Villa des Gobellins. Từ năm 1912, Hồ đă bắt được liên lạc với Phan Chu Trinh tại Pháp qua thư từ, v́ hai người đă quen biết nhau từ ngày c̣n ở Việt Nam, nên Thành vẫn gọi Trinh là ‘Hy Mă Nghị Bá Đại Nhân’.

    Trong lúc đó tại Việt Nam từ năm 1911-1919, có nhiều biến cố thật quan trọng đă xảy ra. Trước hết là Đề Thám, lănh tụ cuối cùng trong phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi xướng xuất năm 1885, đă bị Lương Tam Kỳ giết chết ngày 10-2-1913. Cũng năm này, vào ngày 17-1 tại Huế, tên Khâm Sứ Trung Kỳ là Georger Mahé đă khai quật lăng vua Tự Đức để cướp vàng bạc châu báu. Sự việc được báo chí như tờ Le Courrier d’ Haiphong và dư luận cả nước chống đối và nguyền rủa dữ dội bọn thực dân và đám quan lại Việt Nam bất lương vô liêm sĩ. Ngày 12-4, tại Thái B́nh, các đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu và Cường Để, đă ám sát tên Tuần Phủ chó săn Nguyễn Duy Hàn.

    Những biến cố bi thảm trên, đă khiến cho Phan Chu Trinh bên Pháp cũng lên tiếng chỉ trích thực dân, kể luôn Toàn Quyền Đông Dương là Sarraut , người đang cưu mang giúp đở cha con ông. Tại Trung Hoa, v́ nhận tiền của Pháp nên Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Long Tế Quang đă bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lăo Bạng từ năm 1914 tới năm 1917 mới thả. V́ những biến cố đă xảy ra, ngay khi Đức tuyên chiến với Pháp ngày 3-8-1914, nhà cầm quyền Ba Lê vin vào đó để bắt giữ và phân tán những yếu nhân trong Hội Ái Quốc Đông Dương, do Trinh và Trường thành lập. Ngày 15-9-1914, Pháp bắt giam Phan Chu Trinh và Phan văn Trường tại ngục Santé măi tới tháng 2-1916 mới phóng thích. Từ đó người Pháp cũng cắt đứt trợ cấp cho cha con ông, khiến lâm vào cảnh nghèo đói, nên cả hai mắc phải bệnh lao phổi nặng. Tháng 3-1921, Dật chết tại Bắc Kỳ.

    Từ đầu năm 1919, đại chiến lần thứ 1 đă kết thúc trong sự bại trận của phe trục Đức, Áo, Hung, Thổ và Bảo Gia Lợi. Kinh đô Paris của Pháp trở thành nơi tụ hội của các thế lực quốc tế. Tổng Thống Hoa Kỳ là Woodrow Wilson đưa ra chủ thuyết ‘Tự Tri’ và đề xuất việc thành lập Hội Quốc Liên, rất được các nước nhược tiểu ủng hộ.

    Tại Nga, do Nga Hoàng Nicholas II (1894-1917), đứng về phe Đồng Minh chống Đức, nên nước này đă tích cực yểm trợ Nikolai V.I. Lenin (1870-1924) lật đổ vương triều. Ngày 7-11-1917, Lenin và Leon Trotsky đứng chung thành lập chế độ Bolshevik, hay c̣n gọi là cuộc Cách Mạng tháng mười, mở màn cho cảnh núi sông xương máu trong ḍng lịch sử nhân loại, có cả Việt Nam, từ đó cho tới nay vẫn chưa chấm dứt. Tháng 3-1919 Lenin lập Đệ Tam Quốc Tế Cọng Sản để xuất cảng chủ nghĩa vô thần, vô sản khắp năm châu.

    Đây là miếng mồi béo bở mà Lenin, trùm đỏ vừa mới nổi lên, dẫn dụ các dân tộc bị trị khắp Á Châu từ Trung Đông, Ấn Độ, Trung Á, tới Trung Hoa và Đông Dương, lũ lượt kéo về thánh địa Viện Thợ Thuyền Đông Dương tại Mạc Tư Khoa, để học tập con đường cách mạng vô sản chuyên chính, đánh gục tư bản, tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đàng xă hội chủ nghĩa. Trong nước, nhiều cuộc bạo động chống Pháp kháp nước, quan trọng nhất là vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân cùng các chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân tại Huế ngày 3/5/1916. Sau đó là cuộc biểu t́nh của Phan Xích Long tại Sài G̣n tháng 11-1916 và đặc biệt nhất là sự chiếm đóng tỉnh Thái Nguyên của Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Trần Trung Lập vào năm 1917 dù thất bại, nhưng vẫn mang nhiều khích lệ tới tuyệt đại dân chúng Việt Nam đang sống lầm than khổ ải dưới ách nô lệ của giặc Pháp.

    Trong giai đoạn trăm hoa đua nở, Nguyễn Tất Thành bỗng nổi lên như cồn trong giới cách mạng vô sản Pháp, qua bản ‘thỉnh nguyện thư đ̣i nhân quyền’ năm 1919, kư tên Nguyễn Ái Quốc, mà công án tới nay đă quy cho Hồ là cướp công của ba nhân vật đă sáng tạo: Phan Chu Trinh, Phan văn Trường và Nguyễn Thế Truyền. Nội dung bản thỉnh nguyện gồm 8 điểm, do một nhóm người An Nam yêu nước chung viết, được tờ báo L’Humanité của đảng Xă Hội Pháp, đăng ngày 18-6-1919 với dụng ư chính trị, dù thực chất chẳng có ǵ đặc biệt, nếu đem so sánh với sự đ̣i hỏi người Pháp phải trao trả độc lập hay ít nhất để Việt Nam tự trị của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sống lưu vong và Vua Duy Tân đang bị cầm giam ngoài hải đảo.

    Dù ǵ chăng nữa th́ đây cũng là một cơ hội vàng ṛng với Hồ, v́ ít nhiều tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc, đại diện cho nhóm người An Nam yêu nước trên đất Pháp, cũng được nhóm người Việt qua Tây đánh Đức, hồi hương mang về phổ biến trong dư luận lúc đó. Mặt khác, qua chiến thắng của đảng Bolchevik Nga, khiến đảng xă hội Pháp hầu như nghiêng về Đệ Tam Quốc Tế, vô t́nh giúp anh thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc đó, đang thất nghiệp phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Chu Trinh, bỗng được các chính khách tả phái Pháp chú ư v́ tính chất vô sản chuyên chính, nên đă giúp Hồ thoát cảnh chết đói, bằng cách cử ‘bác’ tới học ở Viện Thợ Thuyền Đông Phương năm 1923. Từ đó Hồ qua bí danh Nguyễn Ái Quốc chính thức là một đảng viên của đệ tam quốc tế cộng sản.

    + Vụ Án Nguyễn Ái Quốc :

    Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đă được tranh căi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Đọc ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp’ do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo.

    Ta biết tờ Le Paria hay ‘Người Cùng Khổ’ do Hội Liên Hiệp Thuộc Địa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lư. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Đảng VC, dám tuyên bố ‘bác’, tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lư tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ kư tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Đảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc.

    Riềng bài viết ‘Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân’ được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như h́nh thức. Theo nhận xét, th́ lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy. C̣n Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao tŕnh độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà c̣n phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, th́ không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn.

    Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành, đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng mang tên Dục Thanh tói nổi nhiều người sinh đẽ tại chỗ cũng không biết đó là cái quỹ quái ǵ, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lư một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại c̣n kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lư và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đ́nh bản.

    Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành. Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đă láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá ‘sáng lập và linh hồn hay quản lư báo’.

    Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đă rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu. TRong thời gian đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đă xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Độc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết kư tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, ‘bác’ tại Pháp trong khi thành lập tờ ‘Người Cùng khổ’ đă kiêm nhiệm thêm tờ ‘Việt Nam Hồn’. Những sự thật th́ không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đă trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.

    + Nguyễn Ái Quốc, điệp viên ngoại hạng của cọng sản quốc tế :

    Ngày 15-10-1923, Nguyễn Ái Quốc đại diện cho đảng CS Pháp, tham dự Đại Hội Nông Dân Quốc Tế, tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Cũng kể từ đó, Hồ thoát xác thành một con người cọng sản quốc tế, chỉ biết phục vụ cho nền vô sản chuyên chính mà thôi. Để thưởng công, ngoài sự cho báo đảng đánh bóng tên tuổi, chính phủ Liên Xô c̣n cho Quốc ở lại phục vụ trong thánh địa Đông Phương, một tổ chức mặt nổi là của Quốc tế Cọng Sản nhưng bên trong được Cơ Quan T́nh Báo Nga (Intercenter Mainburo) bảo trợ. Theo tổ chức, Ban Phương Đông lúc đó gồm ba khu vực: Miền Tây Trung Hoa, trụ sở tại Chita thuộc Mông Cổ. Miền Viễn Đông có trụ sở tại Hải Sâm Uy, phụ trách các nước Măn Châu, Cao Ly, Nhật Bản và Khu Đông Nam trụ sở tại Thượng Hải, gồm miền Hoa Nam và các nước Đông Nam Á đang là thuộc địa. Ngày 22-1-1924, Lénin chết, Nguyễn Ái Quốc đă làm thơ đăng trên tờ Pravda, khóc thương nức nở và thề trước linh cửu cha già quốc tế, là sẽ biến đau thương thành hành động. Hăy đọc bài thơ của Tố Hửu khóc cha non Staline, để biết được nổi bi thương cùng tận của ‘ bác ‘ lúc đó đối với cha già LêNin :

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ Chí Minh - Gián điệp Quốc tế - Người muôn mặt ( 2 )

    ‘Stalin ! Stalin,
    Yêu biết mấy, nghe con tập nói
    Tiếng đầu ḷng, con gọi Stalin
    ông Stalin ôi. ông Stalin ôi,
    Hởi ôi ông mất, đất trời có không?
    thương cha, thương mẹ, thương chồng
    thương ḿnh thương một, thương ông thương mười.’
    (Đời đời nhớ ông ,Tố Hửu).

    Mặc dù tài liệu Đảng dấu chuyện Hồ xuất thân từ trường Stalin nhưng mới đây thư khố Nga giải mật, bật mí cho ta biết là gần hết cán bộ cao cấp của đảng VC , trong đó có Nguyễn Ái Quốc, đều xuất phát từ ḷ ‘Viện Thợ Thuyền Đông Phương’. Trường này được Lenin thành lập ngày 21-4-1921, để huấn luyện các cán bộ cọng sản vùng Châu Á, nên gọi là Viện Phương Đông. Sau khi tốt nghiệp, những học viên sẽ trở thành cán bộ cách mạng vô sản chuyên chính về mặt lư thuyét cũng như hoạt động móc nối, tuyên truyền và thu thập tin tức từ quần chúng. Tháng 8-1924 Hồ được Đệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, phong chức ‘Uỷ Viên Ban Phương Đông’, phụ trách Cục Phương Nam coi toàn vùng Đông Nam Á. Để che mắt mật thám Tây Phương, Hồ trở thành ‘Lou’, đặc phái viên của hăng Thông Tấn Nga Rosta, kiêm thư kư, thông ngôn cho phái đoàn Borodin của Liên Xô, tại Quảng Châu, qua bí danh Lư Thụy.

    Trước khi Hồ tới, Borodin đă móc nối được cả hai phe Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch và Đảng CS. Trung Hoa ngồi lại với nhau, dưới ảnh hưởng của Liên Xô. Do trên, có một số cán bộ cao cấp của Đảng CS. Trung Hoa như Mao Trạch Đông đă được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Đảng. Trường Vơ Bị Ḥang Phố, do Nga bảo trợ khai giảng ngày 15-6-1924 do Tưởng Giới Thạch làm Giám Đốc, c̣n Chu Ân Lai phụ trách chính tri. Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng đă xảy ra tại Quảng Châu, trong buổi lể kỷ niệm lần thứ 13 cách mạng Tân Hợi (10-10-1911), làm nhiều người cả hai phe thương vong, đồng thời đă khiến Tôn Dật Tiên tỉnh mộng, nên ông bỏ lên Bắc Kinh để hợp bàn chuyện thống nhất đất nước và kêu gọi t́nh hữu nghị Hoa-Nhật, khiến Liên Xô thất vọng v́ kế hoạch bị đổ vỡ nửa chừng.

    Khi Lư Thụy, một tên mới của Nguyễn Tất Thành tới Quảng Châu, th́ ở đây đă có nhiều người Việt sinh sống, phần lớn làm viêc trong Sa Điện tô giới Pháp, hai khu vực được ngăn cách bằng con sông Châu Giang. Nhờ các quan địa phương như Hồ Hán Dân rất có cảm t́nh với người Việt, nên đă giúp đỡ những chính khách lưu vong bị Pháp săn đuổi phải chạy sang Tàu trốn lánh như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật cho tới Phan Bội Châu. Theo Niên Biểu, th́ Sào Nam và Cường Để đă lập Việt Nam Quang Phục Hội tại đây, trong đó có nhóm Tâm Tâm Xă của một số thanh niên Việt Nam yêu nước. Tâm Tâm Xă gồm 9 đảng viên, đa số là người Nghệ An, có học thức, chủ trương bạo động gồm Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Sơn. Mùa thu 1924, Phan Bội Châu và Nguyễn Hải Thần đă yêu cầu Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Đốc trường Vơ bị Hoàng Phố, thu nhận các sinh viên Việt Nam vào thụ huấn và được ông chấp thuận.

    Do cảm t́nh và cũng nhận thấy giữa hai đảng cách mạng Việt Nam và Trung Hoa Dân Quốc lúc đó, đều có chung mục đích, đánh đuổi giặc xâm lăng ra khỏi đất nước ḿnh, nên Phan Bội Châu đă đổi danh xưng Việt Nam Quang Phục Hội, thành Việt Nam Quốc Dân Đảng và uỷ cho Hồ Tùng Mậu phổ biến trong nước. Đây cũng là giai đoạn mà các sử gia dày công t́m kiếm về mối liên hệ giữa cụ Phan Bội Châu và Lư Thụy, dẫn tới nghi án Hồ Chí Minh cùng Lâm Đức Thụ bán đứng Phan Bội Châu cho Pháp bắt tại tô giới Thương Hải năm 1925, mà sử liệu đă nhắc tới.

    Theo niên biểu Phan Bội Châu, cho thấy Sào Nam có gặp Nguyễn Ái Quốc đôi ba lần và trùm cọng sản Lư Thụy đă nhắc cụ thay đổi đảng cương Việt Nam Quốc Dân Đảng, thời gian khi Hồ ở Tàu cuối năm 1924. Cũng năm này, Phạm Hồng Thái, một đảng viên của Việt Nam Quang Phục Hội, nhân Toàn Quyền Đông Dương là Martial Merlin (1923-1925), ghé Sa Diện, sau khi từ Nhật Bổn về Hà Nội. Phạm Hồng Thái đă giả làm một phóng viên nhà báo, mang bom vào tận pḥng ăn cũa tên giặc Pháp, quyết giết kẻ xâm lăng nhưng bom nổ chỉ làm Merlin bị thương nhẹ, trong lúc có 4 tuỳ tùng chết và 4 người khác bị thương. Xong nhiệm vụ, người chiến sĩ thoát thân nhưng v́ con sông Châu Giang trước mặt. Cuối cùng ông cũng đền xong nợ nước và sau đó được chính người Trung Hoa, trân trọng cho ông được ngh́n thu bên cạnh 72 liệt sĩ trong cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, trên Hoàng Thạch Cương, khói hương miên viễn. Tên thực dân thoát chết nhưng cũng vỡ mật lại càng căm hận người Việt Nam yêu nước, c̣n thế giới th́ chấn động và kính phục cháu con Hồng Lạc, bất khuất anh hùng.

    2 - HUYỀN THOẠI NGUYỄN ÁI QUỐC CHẾT TRONG NHÀ TÙ HỒNG KÔNG (1932) :

    Cũng trong chuyện dài về Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh, huyền thoại đáng kể nhất là vụ Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà tù Hồng Kông vào cuối năm 1932, v́ nghiện thuốc phiện và bị bệnh lao. Vụ này trước sau, từ Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Vơ Nguyên Giáp cho tới cơ quan tuyên truyền của VC, đều nói là do Pháp phao tin để làm hạ uy tín Hồ. Riêng vợ luật sư Frank Loseby, người được Cọng Sản Quốc Tế mướn để biện hộ cho Hồ, sau năm 1969 khi ‘bác’ chết, đă nói tin đó là có thật, và do chính chồng bà ta tung ra, để đánh lạc hướng mật thám Pháp.

    Cuối cùng, theo các sử gia, việc Nguyễn Ái Quốc ‘giả chết’ đều theo ư Liên Xô, nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Với Nga, Nguyễn Ái Quốc chết mới có cơ hội đưa các cán bộ khác lên thay thế và gầy dựng lại đảng VC đă bị tan tác. Với Tây Phương, khai tử con người cọng sản quốc tế chuyên nghiệp, để một bí danh mới của Nguyễn Tất Thành là HỒ CHÍ MINH , đóng vai điệp viên tam trùng, đang cần thiết tại mặt trận Viễn Đông sắp tới. Tất cả đều nằm trong ṿng bí mật và có lẽ chẳng bao giờ t́nh báo Nga, chịu mở hồ sơ vụ trên, dù Hồ đă chết thật từ lâu rồi.

    Nhưng mới đây báo chí Trung Cộng lại tung tin ‘ Việc Hồ Chí Minh ‘ chết trong nhà tù Hồng Kông là thật. V́ kể từ đó TC mới đem một người Tàu chánh hiệu vào ‘ thế vai ‘ của HCM, đồng thời c̣n cài thêm vài trăm người cùng bọn vào đảng , qua tên VN.. mà hậu quả ngày nay từ Trung Ương Đảng xuống tới các Tỉnh Ủy, hầu hết đều là Tàu .. nên đâu có ǵ lạ trước việc CSVN đă chính thức bán nước cho giặc, hiện đă trở thành ‘ một tỉnh hay khu tự trị ‘ thuộc lảnh thổ Trung Hoa như Măn Châu, Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương..

    Nay qua ḍng thế sự, góp nhặt những chuyện đời, để rồi tọc mạch kể lại cho thế gian vui. Nguyễn Du đă ôm bộ ngực gầy xương giữa trời lộng gió, trên đỉnh Hồng Lĩnh nhưng muôn đời sau, người ta vẫn t́m đến với thi nhân, để cùng cảm thông chung manh áo lạnh. Đường vào lịch sử Hồng Lạc cũng vậy v́ sự hưng thịnh, tồn vong, thảo khấu hay là chính thống, đều không qua khỏi những ḍng chữ đá trên bia sử.

    Cho nên ngày nay, ta đọc câu chuyện sử về người trăm mặt Nguyễn Tất Thành, cũng chẳng qua chỉ đọc lại những câu chuyện kể về vận nước, mệnh ngươi, khen chê, xưng tụng. Xuôi nam hay ngược bắc, trong gió ngàn bay, nh́n ra biển lộng, đâu đâu cũng thấy chiến thuyền của chúa Nguyễn căng buồm lướt sóng hay vó ngựa chân voi dồn dập của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ danh trấn non sông. Nhưng rồi ngao ngán biết bao, khi lạc đường vào lịch sử, để phải đọc những huyền thoại gian dối của ‘bác’, làm cho hồn vừa giận vừa cười.

    Quả thật, trong ḍng lịch sử VN, lôi hết những tên đại gian hùng giết vua phế chúa như Trần Thủ Độ, Hồ Quư Ly, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Trương Phúc Loan, Phan Khắc Hoè.. đem so sánh, th́ chỉ bằng một cọng râu lơ thơ của Hồ mà thôi. Cũng nhờ những câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc giả chết hay sự bặt tin của Lư Thụy, măi cho tới khi sắp mở màn thế chiến thứ hai, Nguyễn Tất Thành mới được tái sinh qua cái tên Hồ Chí Minh từ năm 1939 cho tới bây giờ, chung cuộc chỉ là một màn kịch, diễn về một con người tầm thường nhưng được nổi nhờ cơ duyên và sự phô trương vô tiền khoáng hậu.

    Hiện nay các sử gia đều đặt nghi vấn, về câu hỏi là tại sao đồng loạt các cán bộ cao cấp của Đông Dương Cong sản đảng từ Mạc Tu Khoa về, trong đó có Lê Hồng Phong tự dưng bị lộ, và kẻ chỉ điểm theo mật thám Pháp là một liên lạc người Hoa? Một điều khác cũng rất quan trọng, đó là tài chính dùng nuôi quân, nhưng Hồ đă ôm trọn khiến cho Hoàng văn Hoan, Vũ Anh và nhiều kẻ khác, đói đến độ phải nhờ vào người Quốc Gia mà sống.

    Đây cũng chỉ là một phần nhỏ, tóm lược về cuộc đời của Nguyễn Tất Thành, qua huyền thoại ‘xuất dương’ t́m đường cứu nước, một con người trăm tên, trăm mặt, thay đổi h́nh dạng và thủ đoạn chính trị, đâu có khác ǵ loài tắc kè xanh xanh đỏ đỏ. Đó mới chính là ‘ sự thật về cuộc đời Hồ Chí Minh ‘, một chuyện dài không bao giờ kết thúc dù chế độ CSVN có bị giựt sập...

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt
    CỰU ĐẠI SỨ TQ TỪNG NHƯ THƯ KƯ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI



    Tác giả/nhà báo: Đào Vận Tây
    Người dịch: Quốc Thanh
    Mạng Lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc

    Phiên dịch tiếng Việt Trương Đức Duy, không quản lâm nguy nhậm chức sĩ quan liên lạc, chuyên trách theo chữa bệnh cho Hồ Chí Minh, đôi khi c̣n nấu ăn cả cho khách

    TRỞ THÀNH THƯ KƯ RIÊNG, ÔNG Ở BÊN

    HỒ CHÍ MINH ĐẾN GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG

    Về Trương Đức Duy

    Người phiên dịch tiếng Việt có thâm niên của nước ta, sinh năm 1930 ở Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tập tại Việt Nam.

    Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu. Từng lần lượt giữ chức Vụ phó Vụ Châu Á Bộ ngoại giao, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Vương quốc Thái Lan kiêm Đại sứ tại Campuchia dân chủ, đồng thời là Đại diện thường trú của Ủy ban Kinh tế và Xă hội Khu vực Châu Á-Thái B́nh Dương của Liên Hiệp Quốc, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam.

    Sau khi về hưu, từng trải qua các chức vụ Phó chủ tịch Hội hữu nghị Trung-Việt, Chủ tịch các khóa 3, khóa 4, khóa 5 và Chủ tịch danh dự Hội hữu nghị Hoa kiều Việt Nam, Campuchia, Lào.

    Năm 1967, Hồ Chí Minh bị bệnh đến Trung Quốc nghỉ dưỡng, Trương Đức Duy làm phiên dịch theo suốt cả thời gian này. Trong khoảng thời gian 2 năm sau đó, Trương Đức Duy luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời.

    Năm 1967, quân xâm lược Mỹ gieo ngọn lửa chiến tranh khắp cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, Trương Đức Duy tinh thông tiếng Việt đang làm việc ở Sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam.

    “Khi ấy, lănh đạo tối cao của Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông dẫn dắt quân dân Việt Nam, với sự chi viện một lượng lớn vật lực, tài lực và nhân lực từ Trung Quốc, ngoan cường chống Mỹ cứu nước”, Trương Đức Duy nói.

    Chính vào thời điểm ngặt nghèo ấy, không ai ngờ bệnh tật lại tàn nhẫn tấn công người lănh tụ huyền thoại này. “Sức khỏe của ông quá quan trọng đối với Việt Nam! Ông yêu cầu tôi đi cùng ông sang Trung Quốc chữa bệnh. Khỏi cần nói cũng hiểu là tôi phải gánh trên vai nhiệm vụ nặng nề đến nhường nào”. Trong 2 năm tiếp đó, Trương Đức Duy là phiên dịch của Hồ Chí Minh và là Thư kư Tổ chăm sóc y tế Trung Quốc, luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến giây phút cuối cùng.

    “Tôi gọi ông là Bác Hồ (bác đại diện cho thế hệ cha chú trong tiếng Việt), ông gọi tôi là em Duy. Ông để râu dài, đặc biệt rất sợ tiêm. Ông để chúng tôi ăn cơm cùng, kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện cách mạng phiêu lưu mạo hiểm của ḿnh, mọi người nghe rất thích thú”. Trương Đức Duy nhớ lại.

    Không quản hiểm nguy

    Người phiên dịch Trung Quốc thành “thư kư” của Hồ Chí Minh

    Vào một ngày đầu năm 1967, Trương Đức Duy đang là Bí thư thứ ba Sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam nhận được cuộc điện thoại từ Vũ Kỳ, Thư kư của Hồ Chí Minh, nói Bác Hồ có chuyện muốn ông trực tiếp đến ngôi nhà gỗ nhỏ một chút.

    “Tôi bước vào, chợt thấy chột dạ, sao Bác Hồ không làm việc mà lại nằm trên giường?” Trương Đức Duy hốt hoảng, nhẹ bước tới bên giường, hỏi thăm Hồ Chí Minh. Ông cụ vẫy tay ra ư bảo ông ngồi xuống cạnh giường: “Bác gọi chú đến là muốn chú báo cáo với đồng chí Chu Ân Lai, nhưng chú phải chú ư giữ bí mật”.

    Th́ ra thời gian gần đây, cả tay và chân của Hồ Chí Minh đều không c̣n cử động linh hoạt được nữa, tuy đă được bác sĩ khám, và cũng đă qua một vài loại trị liệu, nhưng không thấy biến chuyển. Cho nên, ông muốn sang Trung Quốc khám bệnh.

    “Tôi hiểu rồi!” Trương Đức Duy về ngay đại sứ quán, điện báo cho Chu Ân Lai. Hai ngày sau, sứ quán nhận được điện trả lời của Bắc Kinh, Chu Ân Lai đề nghị đưa Hồ Chí Minh tới ở Nhà khách Tùng Hóa Ôn Tuyền tỉnh Quảng Đông, rồi Trung ương sẽ chọn cử một bác sĩ giàu kinh nghiệm đến chẩn trị. Ngày 14 tháng 4, Hồ Chí Minh lên chiếc chuyên cơ bay đến Quảng Châu, người đi theo chỉ có Trương Đức Duy, Thư kư Vũ Kỳ và Cục trưởng Cục bảo vệ sức khỏe Nhữ Thế Bảo.

    Theo chỉ thị của Chu Ân Lai, về phía Quảng Châu đă thành lập “Tổ chăm sóc y tế Trung Quốc” để kiểm tra sức khỏe và chữa trị một cách có hệ thống cho Hồ Chí Minh, c̣n Trương Đức Duy th́ là Thư kư của Tổ chăm sóc y tế.

    Tổ chăm sóc y tế kiểm tra thêm rồi chẩn đoán là: Bị chứng xơ vữa động mạch tuổi già, máu cung cấp lên năo thiếu nặng, một vùng mạch máu năo nào đó bị tắc nghẽn, cho nên mới sinh ra liệt nhẹ nửa người. Nhằm đúng vào nguyên nhân bệnh và triệu chứng ấy, Tổ chăm sóc y tế đă bố trí phương án trị liệu tổng hợp.

    Song Thư kư Vũ Kỳ và Cục trưởng Nhữ Thế Bảo lại đến t́m Trương Đức Duy, nói cho ông biết một t́nh huống đặc biệt – Bác Hồ sợ nhất là tiêm, đề nghị Tổ chăm sóc y tế không áp dụng phương pháp tiêm. V́ thế, phương án trị liệu đă không sử dụng cách châm cứu, mà dùng cách day ấn huyệt vị. Trương Đức Duy, Vũ Kỳ và Nhữ Thế Bảo cũng cùng với Hồ Chí Minh tiến hành tập luyện hồi phục sức khỏe vừa phải, “chúng tôi ném bóng cho ông, ông đỡ lấy rồi lại ném lại, ông được vui vẻ nói cười nên cũng không cảm thấy cô đơn nhàm chán”.

    Tự tay nấu bếp

    Ông làm món sườn hấp chao[1] cho Bác Hồ

    Để giúp Hồ Chí Minh tăng cường thể lực, các đầu bếp lần nào cũng làm ra đầy một bàn các thức ngon, nhưng Hồ Chí Minh tiết kiệm quen rồi, vẫn giữ mỗi bữa chỉ cần ăn một món tanh[2], một món rau, một món canh. Các bác sĩ khuyên ông ăn thức ăn phong phú một chút th́ sẽ giúp ích cho việc hồi phục sức khỏe, ông mới ăn thêm chút ít thức bổ dưỡng.

    Song Hồ Chí Minh nói, cơm và thức ăn quá nhiều, mỗi lần dùng bữa chỉ có ḿnh ông, vừa ăn không hết lại vừa cảm thấy cô quạnh. Thế là muốn để cho cả Trương Đức Duy, Vũ Kỳ và Nhữ Thế Bảo cùng ăn. Để phối hợp với trị liệu cho người già, sau khi được sự đồng ư của lănh đạo cấp trên, họ bắt đầu cùng ăn cơm với Hồ Chí Minh.

    Trương Đức Duy phát hiện ông thích ăn thịt gà và sườn, nhưng đầu bếp lại sợ răng người già không tốt, nên khi ninh hầm thường nấu cho nát nhừ, mất cả hương vị. “Tôi liền đề nghị đầu bếp làm mấy món thịt gà luộc chặt miếng và sườn hấp chao kiểu Quảng Đông thử xem, quả nhiên ông rất hào hứng với mấy món này, cứ khen ngon măi. Rồi c̣n yêu cầu đầu bếp thường xuyên nấu kiểu cơm nhà, như vậy “vừa tiết kiệm tiền lại vừa ngon”. Trương Đức Duy nói.

    Trị liệu được hơn 2 tháng, hiệu quả chữa trị rơ, Hồ Chí Minh rất hài ḷng, v́ nhớ đến cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, nên ngày 1 tháng 7 năm 1967 đă rời Quảng Châu quay về Hà Nội. Song về Hà Nội không lâu, Vũ Kỳ đă gọi điện nói Bác Hồ lại thèm ăn món sườn hấp chao rồi, nhưng mà đầu bếp không biết làm, nên muốn Trương Đức Duy dạy cho. Thế là Trương Đức Duy đă đến Phủ chủ tịch để bày cho đầu bếp cách làm.

    Mấy hôm sau, Vũ Kỳ lại gọi điện nói đầu bếp nấu không đúng vị, Bác nuốt không nổi, mong Trương Đức Duy tới tự tay làm một lần, vừa nghe nói được tự tay nấu ăn cho Hồ Chí Minh, Trương Đức Duy thấy vô cùng vinh dự, lập tức tới làm luôn. “Kết quả là Bác Hồ ăn hết, luôn mồm khen ngon, ‘đây mới là món sườn hấp chao chính cống’. Tôi nghe mà thấy trong ḷng cũng quá phấn khởi”.

    Xem lễ ở quảng trường

    Phiên dịch giúp Hồ Chí Minh ăn mặc cải trang

    Ai ngờ chỉ hơn 1 tháng sau, sức khỏe Hồ Chí Minh đột ngột xuất hiện vấn đề mới.

    “Khi ấy Vũ Kỳ gọi điện cho tôi đến Phủ chủ tịch, khi gặp ông bảo Bác Hồ về nước làm việc và hoạt động quá nhiều, mấy hôm trước mưa dầm bị sốt cao, măi chưa dứt”. Bí thư Trung ương Đảng Việt Nam Lê Văn Lương mong Trung Quốc điều Tổ chăm sóc y tế đến Hà Nội chữa trị.

    Chu Ân Lai được tin liền lập tức điều Tổ chăm sóc y tế đến Hà Nội, cho chữa trị kết hợp Đông Tây y, sốt hạ luôn, nhưng căn bệnh cũ ở năo lại có hội chứng tái phát, tim cũng xuất hiện vấn đề mới. Cuối cùng, qua bàn bạc nhiều phía, Hồ Chí Minh lại sang Trung Quốc nằm tại Nhà điều dưỡng Trung ương Ngọc Tuyền Sơn ở Bắc Kinh dưỡng bệnh trong hơn nửa năm.

    Ngày 1 tháng 10 cùng năm là lễ kỷ niệm 18 năm ngày thành lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, sáng hôm ấy ở Quảng trường Thiên An Môn có quần chúng diễu hành chúc mừng, Trung ương muốn để Hồ Chí Minh được dự lễ, nhưng v́ bảo mật nên lại không thể bố trí Hồ Chí Minh lên lầu thành Thiên An Môn được. Thế là, Chu Ân Lai đă nghĩ ra được một biện pháp tuyệt diệu, để Đặng Dĩnh Siêu đi theo Hồ Chí Minh bí mật lên tầng 4 của Đại lễ đường nhân dân, nh́n ra từ cửa sổ cảnh tượng tráng lệ của cuộc diễu hành quần chúng. C̣n buổi tối, Mao Chủ tịch sẽ mời Hồ Chí Minh lên lầu thành Thiên An Môn xem bắn pháo hoa.

    “Việc này cần phải bảo mật ra sao đă tốn mất rất nhiều suy nghĩ. Cuối cùng chúng tôi quyết định giúp ông ăn mặc cải trang để đi xem lễ”. Trương Đức Duy hóa trang cho Hồ Chí Minh, mặc bộ Tôn Trung Sơn, đội một chiếc mũ cán bộ Trung Quốc, đeo một chiếc khẩu trang, cuốn hết râu lại, như vậy sẽ chẳng ai nhận ra được.

    Tối đó, Hồ Chí Minh gặp mặt Mao Chủ tịch, Chu Ân Lai và Ủy viên trưởng Chu Đức một cách suôn sẻ. Mao Chủ tịch c̣n đích thân đi cùng Hồ Chí Minh ra ngoài lầu thành, ngồi trên mội chiếc ghế nhỏ xem pháo hoa. Trương Đức Duy nhớ lại: “Hai vị chủ tịch đều xem rất hào hứng, trao đổi với nhau bên nào bắn đẹp hơn, tôi đứng đằng sau làm phiên dịch”.

    Trên đường về chỗ ở, Hồ Chí Minh cảm khái nói Mao Chủ tịch, Chu Ân Lai đă quá quan tâm đến ông! “Không ngờ lại chu đáo đến vậy, c̣n thân thiết hơn cả đồng chí và anh em!”

    Giây phút hấp hối

    Ông đă chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Hồ Chí Minh

    Trong khoảng thời gian 2 năm tiếp đó, Tổ chăm sóc y tế c̣n từng 3 lần đến Hà Nội chữa bệnh cho Hồ Chí Minh. Mùa hè năm 1969, Hồ Chí Minh muốn để cho Tổ chăm sóc y tế được về Trung Quốc nghỉ phép 1 tháng, tiện thể nhờ Trương Đức Duy mang thư đến cho Thủ tướng Chu Ân Lai luôn.

    “Thư ông đă tự ḿnh viết xong, chủ yếu là bày tỏ sự cảm ơn và nguyện vọng muốn sang Trung Quốc lần nữa. Tôi dịch ra tiếng Trung, ông xem rồi kư 3 chữ Hồ Chí Minh bằng chữ Hán”.

    Vào trung tuần tháng 8 năm đó, Hồ Chí Minh ra ngoài đi thị sát đột nhiên bị cảm, dẫn đến viêm phế quản cấp, từng bị choáng mất một lúc. Cả bệnh tim và bệnh mạch máu năo cùng phát, tiếp đến viêm phế quản chuyển thành viêm phổi cấp.

    Bắt đầu từ ngày 25 tháng 8, Bắc Kinh điều sang thêm liên tiếp 2 tốp chuyên gia và đội chăm sóc y tế Đông, Tây y…, mang theo các loại thuốc cấp cứu và dụng cụ đáp chuyên cơ tới Hà Nội. Các thầy thuốc Trung Quốc thay phiên túc trực ngày đêm bên giường bệnh Hồ Chí Minh, đă dùng một loạt các biện pháp trị liệu, nhưng đều không thấy có hiệu quả.

    “Tôi c̣n nhớ rất rơ, trong những ngày tháng cuối cùng ấy, ông cụ tỏ ra rất yên lặng”. Trương Đức Duy nói, ông luôn ở trước giường Hồ Chí Minh, có lần Hồ Chí Minh bị hôn mê khi tỉnh lại, nh́n thấy hộ lư Trung Quốc đứng bên giường c̣n yêu cầu các cô hát.

    Hai cô hộ lư liền khẽ hát bài hát “Ca ngợi xă hội chủ nghĩa” đă quen thuộc với mọi người.[3] Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, măn nguyện ch́m vào giấc ngủ.

    Rạng sáng ngày 2 tháng 9, Hồ Chí Minh đă không c̣n tự chủ được hơi thở, tim ngừng đập hoàn toàn. Các bác sĩ Trung Quốc đă sử dụng mọi loại thiết bị, nhưng cuối cùng vẫn không thể hồi phục được nhịp tim cho ông cụ.

    Ba tốp chuyên gia chăm sóc y tế do Chu Ân Lai lệnh điều thêm vào ngày hôm đó c̣n chưa kịp tới Hà Nội th́ tử thần đă cướp đi mất sinh mạng của Hồ Chí Minh. Đồng hồ điểm đúng 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh đă không vượt qua nổi cái mốc 79 tuổi.

    (Nguồn: “Báo Pháp chế buổi chiều”)

    Mạng Lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc

    Bản tiếng Việt © Việt sử kư 2012

    [1] Một món ăn dưỡng sinh của Trung Quốc -ND.

    [2] “Tanh” ở đây là gọi thức ăn đối lập với “chay”-ND.

    [3] Nguyên văn: 《社会主义好》. Bài ca cách mạng ra đời khi nước Trung Quốc mới được thành lập. – ND.
    Theo VietSuKy

  4. #4
    chichchoe
    Khách

    H́nh HCM mới.

    Hôm qua tôi vô www. hoang sa. o rg của VC. Tôi bất ngờ khi họ chưng ra h́nh bác hồ mới là h́nh người Việt. Tôi nghĩ có thể v́ thời đại Internet này h́nh ảnh bác Hồ là người Tàu có vợ con đăng đầy nên chúng quê quá nên đăng h́nh HCM ban đầu.
    Nhận xét về nhân chủng học, ngôn ngữ, t́nh cảm... tôi chắc chắn h́nh HCM thường phổ biến là người Tàu.
    H́nh mới đăng đây là người VN. ( V́ tôi có h́nh người Bắc rất nhiều như cụ Phan Đ́nh pHùng, Phan Bội Châu, Đề Thám...).
    H́nh mới này rất ít, có thể là được lấy cắp. H́nh lúc trẻ, sau khi lớn tuổi, h́nh ảnh phổ biến là người Tàu.
    So sánh h́nh ảnh mới này với h́nh thường phổ biến là thấy một trời một vực.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt
    Giải mật: vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc




    Ngày 3 tháng 12 năm 1960, Mao Trạch Đông hội kiến với Hồ Chí Minh-Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên phải là Hoàng Văn Hoan.

    Lănh đạo Việt Nam Hoàng Văn Hoan “đào thoát” tới Trung Quốc năm 1979

    Năm 1979, giữa hai nước Trung-Việt xảy ra một sự kiện khiến cho tập đoàn Lê Duẩn đương quyền khi ấy ở Việt Nam bị bẽ mặt, cả thế giới phải kinh ngạc. Hoàng Văn Hoan – một trong những nhà lănh đạo lăo thành của Việt Nam đă đáp phi cơ từ Cộng ḥa Dân chủ Đức (Đông Đức) bay tới Bắc Kinh. Cho đến tận giờ, người ta vẫn gọi việc Hoàng Văn Hoan đến Trung Quốc là “Lănh đạo cấp cao nhất của nước ngoài đào thoát tới Trung Quốc”.



    Trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam có hai phái thân Xô và thân Hoa. Phái thân Hoa có Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, Thượng tướng Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Hoan… Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… thuộc phái thân Xô nắm hết quyền lực trong Đảng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đă bị chết trận. Thượng tướng Chu Văn Tấn bị giam lỏng. Đại tướng Vơ Nguyên Giáp bị treo gị.



    Hoàng Văn Hoan lúc này trong người cảm thấy khó chịu, vùng năo luôn bị đau âm ỉ, bệnh viện ở Hà Nội kiểm tra nói: bị lao phổi. Nhưng lại chữa măi vẫn không khỏi?



    Ông sinh năm 1905 tại tỉnh Nghệ An (nay là tỉnh Nghệ Tĩnh[1]), Việt Nam. Tên thật là Trần Xuân Phong. Năm 1925 tham gia học lớp đào tạo thanh niên Việt Nam do Hồ Chí Minh mở ở Quảng Châu, sau đó làm công tác cách mạng ở các nước Thái Lan, Miến Điện, Campuchia… và ở Châu Âu, nói thành thạo tiếng Trung Quốc giọng Quảng Đông, viết được những bài thơ hay bằng chữ Hán.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt
    Giải mật: vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc




    Chính Hoàng Văn Hoan đă ư thức được rằng nếu ở lại trong nước th́ không những chẳng làm được việc ǵ, mà bệnh của ḿnh lại có thể c̣n bị nặng thêm. Ông lợi dụng dịp đi thăm nước Cộng ḥa Dân chủ Đức cũ, với sự giúp sức của bạn bè và t́nh báo Trung Quốc, đă tới Bắc Kinh theo ngả Pakistan.



    Ngày thứ ba tới Bắc Kinh, kết quả kiểm tra ở Bệnh viện 301 Giải phóng quân cho thấy thực ra trong người ông có một khối u dài 6cm, rộng 5cm, được chẩn đoán là bị ung thư phổi sắp đến giai đoạn cuối.



    Năm 1979, tới Bắc Kinh, được đồng chí Đặng Tiểu B́nh đón tiếp thịnh t́nh

    Bệnh viện 301 áp dụng phương pháp Đông Tây y kết hợp, đầu tiên tiến hành xạ trị, tiếp đó dùng các bài thuốc Đông y quư để tiến hành liệu pháp Đông y. Nằm chữa trị ở bệnh viện được hơn 1 tháng, khối u đă nhỏ lại chỉ c̣n dài 5cm, rộng 4cm. Khối u nhỏ lại được nhanh như vậy có thể nói là hết sức có hiệu quả.


    Nói chuyện với Việt kiều ở Côn Minh năm 1980

    Bởi được trị liệu theo Đông Tây y kết hợp ở Bệnh viện 301, được dùng những bài thuốc Đông y vừa quư lại vừa đích thực có tác dụng kháng ung thư, cho nên Hoàng Văn Hoan đă hơn 70 tuổi vẫn sống tiếp được tới 15 năm nữa một cách đầy khỏe mạnh.


    Bơi ở Thanh Đảo năm 1984

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt
    Giải mật: vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc

    Hoàng Văn Hoan tới Trung Quốc không lâu, Việt Nam lần lượt tuyên bố hủy bỏ các chức vụ Đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…, xóa Đảng tịch Đảng cộng sản Việt Nam của ông. Ngày 26 tháng 6 năm 1980, bị chính quyền Việt Nam xử tử h́nh vắng mặt. 


    Ở Thanh Đảo năm 1984

    Với sự nỗ lực của Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, quan hệ Trung-Việt được khôi phục. Nhất là Nguyễn Văn Linh c̣n cho đưa cả người nhà của Hoàng Văn Hoan sang Trung Quốc, khiến cho Hoàng Văn Hoan được đoàn tụ với gia đ́nh vào những năm cuối đời.


    Tác giả đang viết: “Việt Trung hữu nghi, vạn cổ trường thanh”

    C̣n có một giả thuyết khác, khi các nhà lănh đạo Nguyễn Văn Linh… muốn khôi phục lại quan hệ b́nh thường với Trung Quốc, do qua kênh b́nh thường có chút khó khăn, nên con trai cả của Hoàng Văn Hoan đang làm việc tại Viện khoa học xă hội Việt Nam đă bí mật đến Sứ quán Trung Quốc để đẩy nhanh sự tiếp xúc giữa lănh đạo hai nước. **



    Mộ Hoàng Văn Hoan h́nh chữ nhật, sau mộ lập một tấm bia đá cao to, chính giữa bên trên có khảm bức di ảnh màu của Hoàng Văn Hoan, hai bên khắc nổi năm sinh năm mất “1905-1991”. Dưới di ảnh viết “Mộ đồng chí Hoàng Văn Hoan, nhà cách mạng lăo thành Việt Nam, người bạn lâu năm được nhân dân Trung Quốc tôn kính”.

    Hoàng Văn Hoan (1905-1991)

    Lănh đạo Đảng và chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Sinh ở tỉnh Nghệ An. Năm 1926 tham gia lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh mở ở Trung Quốc, sau gia nhập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1928-1942, lần lượt hoạt động cách mạng ở Xiêm và Trung Quốc.

    Năm 1942, về nước triển khai đấu tranh vũ trang và tiến hành các hoạt động lập căn cứ địa. Năm 1945, được bầu làm Ủy viên trung ương, nhậm chức Bí thư Đảng ủy Khu giải phóng Việt Bắc, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 cùng năm, từng nhậm chức Thứ trưởng Bộ quốc pḥng và Ủy viên chính trị toàn quốc Vệ quốc quân.

    Cuối năm 1946, nhậm chức Đại diện Liên khu 4 tại Chính phủ trung ương, lănh đạo đấu tranh chống Pháp. Năm 1948, nhậm chức Đặc phái viên hải ngoại tại Chính phủ trung ương. Tháng 12 năm 1950, nhậm chức Đại sứ đầu tiên ở Trung Quốc, kiêm Đại sứ tại Triều Tiên, Mông Cổ. Tại “Đại hội 2” năm 1951 và “Đại hội 3” năm 1960 được bầu làm Ủy viên Trung ương. Hai lần, vào tháng 8 năm 1958 và tháng 9 năm 1960, được bầu làm Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng. Từ năm 1958, nhậm chức Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội.

    Tháng 12 năm 1971, được bầu là Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc. Năm 1979, sau khi Việt Nam trắng trợn bài Hoa, v́ phản đối tập đoàn Lê Duẩn… nên đă bị đánh và bức hại, để đấu tranh lại với những thế lực bài Hoa trong Đảng, vào tháng 7 bị bức phải rời Việt Nam gián tiếp chuyển tới Bắc Kinh, đă di cư tới Trung Quốc. Không lâu sau, Việt Nam lần lượt tuyên bố hủy bỏ các chức vụ Đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…, xóa Đảng tịch Đảng cộng sản Việt Nam của ông.

    Ngày 26 tháng 6 năm 1980, bị chính quyền Việt Nam xử tử h́nh vắng mặt. Là người bạn lâu năm của nhân dân Trung Quốc, có t́nh cảm sâu nặng với nhân dân Trung Quốc. Đă làm rất nhiều công việc hữu ích để phát triển t́nh hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung-Việt. Đồng thời c̣n là một người “thông hiểu về Trung Quốc”, có nhiều nghiên cứu về văn hóa truyền thống Trung Quốc, đă viết nhiều bài thơ, câu đối bằng tiếng Hán trong đời. Trong thời gian bệnh nặng, các vị lănh đạo Đảng và nhà nước như Dương Thượng Côn, Trần Vân, Lư Tiên Niệm… đă lần lượt đến bệnh viện thăm và an ủi động viên.

    Ngày 18 tháng 5 năm 1991 qua đời tại Bắc Kinh, hưởng thọ 86 tuổi. An táng tại Nghĩa trang cách mạng Bát Bảo Sơn Bắc Kinh. Tác phẩm để lại có “Hoàng Văn Hoan văn tập”. 

    Nguồn: www.tiexue.net *

    Bản tiếng Việt © Việt sử kư 2012

    [1] Chỗ này tác giả nhầm. Tỉnh Nghệ Tĩnh đă được tách ra lại thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh từ năm 1991.- ND.

    -

    * Trang mạng được mở năm 2001, tiền thân là trang mạng mô phỏng chiến tranh thành lập năm 1999 tại Bắc Kinh; mạng www.tiexue.net có nội dung chủ yếu là về quân sự, cung cấp những thông tin thiết thực toàn diện và có giá trị. Qua vài năm phát triển, mạng www.tiexue.net đă phát triển thành mạng quân sự bằng tiếng Trung lớn nhất toàn cầu. (Nguồn: http://www.tiexue.net/).

    ** Xem: 76. TRƯỚC VÀ SAU CUỘC GẶP CẤP CAO TRUNG-VIỆT Ở THÀNH ĐÔ. Mời xem thêm: + Hồi kư Hoàng Văn Hoan: Giọt nước trong biển cả; + Hoàng Khoa Khôi: Đọc và B́nh Luận “Giọt Nước Trong Biển Cả”-Hồi kư của Hoàng Văn Hoan (Dân luận), Phần 2; + Hoàng Văn Hoan (Wikipedia), + Số phận ông Hoàng Văn Hoan (BBC, 14/2/2009); + Nhìn lại nhân vật Hoàng Văn Hoan (BBC, 18/2/2009); + Tiến sĩ Balazs Szalontai: Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng sau 1979 (BBC).

  8. #8
    Diêt VC
    Khách
    Quote Originally Posted by TNTVN View Post
    Hoàng Văn Hoan là người của Trung Cộng được mua chuộc trong DCSVN. Biết được và phá được gián điệp HVH này củng là kỳ công của t́nh báo VN. Bời vậy, ai tuyên truyền DCSVN theo Tàu là tầm xàm hết. DCSVN trên danh nghĩa thôi, thật ra họ là Nationalism (Người theo Việt Nam Dân Tộc).
    Chà ! rặn ra được một tiếng ngoại "Nationalism "rồi tự hănh diện là ḿnh thuộc loại "nhà nhân chủng học" bằng thứ lư luận con trẻ,th́ chả khác chi khỉ đang múa may quay cuồng.

    Nên nhớ,dân tộc VN không có những loại người đi lấy bọn ngoại bang làm" ông tổ"...cứ xem tên Tố Hữu khóc lóc vật vă hơn cha mẹ của hắn qua đời trước cái chết của tên đồ tể diệt chủng Stalin.Vậy th́ cái gọi là" chủ nghĩa Nationalism "này ai cũng quá hiểu rằng,cái dân tộc tánh mà VC đang mang trong người chính là" đệ tam quốc tế CS Nga Tàu"...

    Thuyết Nationalism này nếu ám chỉ cho Hitler là chính xác,v́ Hitler mang một dân tộc tánh cuồng ngạo,tự xem dân tộc Đức là chủng tộc cao quư,nên đă dẫn đến việc tàn sát hàng triệu dân Do Thái.Tuy nhiên,đối với dân tộc Đức,Hitler vẫn chưa hề bị xem là kẻ giết hại đồng chủng,v́ Hitler không hề giết dân của ḿnh.Trong khi HCM th́ nhận lệnh của Mao trạch Đông,qua bài học" cải cách ruộng đất",đă hai tay đẩm máu của hàng trăm ngàn nông dân vô tội miền bắc năm 1945..Một cái đảng chuyên làm tôi tớ,chịu ngoại bang sai khiến,ngay cả theo lời ngoại bang mà quay súng giết hại đồng bào của ḿnh...th́ chỉ có thằng NGU là mới cho rằng bọn VC là theo chủ nghĩa Nationalism.

    VC hết người hay sao mà tung vào VL một tên bồi bút kém" chất lượng" như thế.Đúng là vẹt mà nghĩ ḿnh là phượng hoàng.:D

    Rùng ḿnh :mad:

    DVC

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

    Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt

    Hồ Chí Minh Và Hội Tam Điểm

    Tho Van 2012/04/28

    Trần Gia Phụng

    1.- NGUYỄN ÁI QUỐC VÀO HỘI TAM ĐIỂM

    Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử hiện đại hoạt động kín đáo, thường thay tên đổi họ, và thường che giấu hành tung của ḿnh. Một trong những điều được hắn che giấu suốt đời là việc hắn gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) Pháp năm 1922. Hồ Chí Minh đă dùng tên khác, viết sách để tự ca tụng ḿnh, nhưng hoàn toàn không hé lộ một tư nào về việc hắn gia nhập hội Tam Điểm. Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) cũng tránh né không nói đến trong các bản tiểu sử của Hồ Chí Minh.

    Tài liệu bằng tiếng Việt đầu tiên và duy nhất lưu hành ở Hà Nội, nói về việc Hồ Chí Minh gia nhập Hội Tam Điểm có lẽ là sách Nguyễn Ái Quốc tại Paris 1917-1923, Nxb: Thông Tin Lư Luận ấn hành năm 1989, tác giả là bà Thu Trang. Trong sách nầy, bà Thu Trang viết rằng: “Theo một mật báo đă ghi ngày 14 tháng 6 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào Hội Franc-Maçonnerie (Tam điểm)...” (tr. 201.)

    Mẩu tin nầy không bị ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đảng CSVN kiểm duyệt hay gạch bỏ, có thể nhờ câu tiếp theo của bà Thu Trang: “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đă đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ. Mặc dù theo truyền thống, Hội trên chỉ dành cho giới giáo sĩ, quư tộc hoặc những nhà trí thức bác học tên tuổi v.v... Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào hội nầy là do được sự giới thiệu (ít nhất phải có hai hội viên cũ giới thiệu) như một nhà báo lỗi lạc, hay một nhà cách mạng đă có tên tuổi? Khó mà đoán được...” (tr. 201.)

    Cần chú ư các điểm:

    1) Bà Thu Trang không phải là người Việt ở trong nước, mà bà đă định cư ở Paris từ năm 1961. Bà được Nhà xuất bản Thông Tin Lư Luận Hà Nội giới thiệu là “một nữ trí thức Việt kiều ở Pháp, với ḷng tôn kính Bác Hồ” (Lời nhà xuất bản, tr. 5.)

    2) Năm xuất bản là năm 1989, tức 20 năm sau khi Hồ Chí Minh qua đời (1969). Năm đó, nhà cầm quyền cộng sản các nước trên thế giới tương đối cởi mở, kể cả Liên Xô, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, nên mẩu tin nầy không có ǵ làm mất uy tín đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).

    3) Đa số người Việt trong nước ít biết Hội Tam Điểm là hội ǵ, chủ trương như thế nào?

    Hội Tam Điểm (Franc - Maçonnerie do tiếng Anh: Freemasonry) nguyên là một hội đoàn giáo dục, nhắm truyền bá cho hội viên một triết lư sống có đạo đức. Xuất hiện ban đầu ở Anh vào thế kỷ 17 như một nhóm nghề nghiệp (thợ nề, thợ chẻ đá). Về sau nhóm trở thành một hội đoàn hướng đến lư tưởng cao cả như bác ái (fraternity), b́nh đẳng (equality) và hoà b́nh (peace). Dần dần hội cho gia nhập cả những người giàu có hoặc có địa vị trong xă hội. Lư tưởng chấp nhận tự do tín ngưỡng và b́nh đẳng giữa mọi người của hội Tam Điểm đi đôi với chủ nghĩa tự do thời thế kỷ 18. Hội Tam Điểm phổ biến ở các nước nói tiếng Anh, bị Giáo hội Ky-Tô giáo La Mă chống đối, v́ Giáo hội cho rằng hội Tam Điểm tranh quyền với Giáo hội. Do đó, hội Tam Điểm không được chấp nhận ở các quốc gia theo Ky-Tô giáo La Mă. Dầu vậy, dần dần hội Tam Điểm phát triển khắp nơi. Hiện nay, trên thế giới, hội Tam Điểm đông nhất là hội Hoa Kỳ, chiếm khoảng 75% hội viên toàn cầu. Có nơi hội Tam Điểm chia ra thành nhiều phái và có khi chống đối nhau.(1)

    Như thế, tuy cùng đề cao lư tưởng và quyền lợi công nhân, nhưng hội Tam Điểm phóng khoáng, tự do, trong khi đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị độc tài và hai bên rất chống đối nhau. Nguyễn Ái Quốc đă gia nhập đảng Cộng Sản Pháp từ cuối năm 1920 đầu năm 1921. Nguyễn Ái Quốc chuyển qua hội Tam Điểm là hội đối nghịch với đảng CS vào năm 1922. Bà Thu Trang giải thích rằng “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đă đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ...” Tuy nhiên, xin đừng quên một điều là lúc đó, đời sống Nguyễn Ái Quốc tại Paris rất khó khăn. T́nh trạng nghèo khó nầy được hắn mô tả lại khá rơ trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch dưới bút danh Trần Dân Tiên. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc vào hội Tam Điểm để t́m kiếm một cơ hội thăng tiến mưu sinh (ăn xin) mới?

    Nguyễn Ái Quốc vào Hội Tam Điểm ngày 24-6-1922, th́ trong tháng 7-1922, Nguyễn Ái Quốc hai lần gặp gỡ Phạm Quỳnh tại Paris, cũng là một nhân vật Tam Điểm Việt Nam. Nguyên lúc đó, vua Khải Định (trị v́ 1916-1925) hướng dẫn phái đoàn Việt Nam sang dự cuộc đấu xảo (hội chợ triển lăm) ở Marseille (Pháp). Phạm Quỳnh tháp tùng theo phái đoàn nầy. Lúc đó, Phạm Quỳnh là một nhà báo, nghị viên Hội đồng thành phố Hà Nội, và đă gia nhập Hội Tam Điểm ở Hà Nội.

    Theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.

    Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật kư là đă gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đă gặp trong nhật kư. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rơ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.] (Xin xem phần tài liệu phía dưới.)

    Vài tháng sau khi gia nhập Hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quốc ra khỏi hội nầy và suốt đời giấu kín việc vào hội Tam Điểm v́ một điều dễ hiểu, hội Tam Điểm đối nghịch với đảng CS. Vậy phải chăng v́ Phạm Quỳnh biết rơ chuyện Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm ở Paris sau hai cuộc tiếp xúc vào tháng 7-1922, mà Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc, ra lệnh thủ tiêu Phạm Quỳnh ngày 6-9-1945, tại một địa điểm cách Huế 20 km, để giấu kín bí mật của ḿnh?

    Theo lời tác giả Thu Trang, “Nguyễn Ái Quốc đă không ở lâu trong Hội nầy [Tam Điểm], v́ cuối năm 1922 trên báo L'Humanité, Nguyễn Ái Quốc đă thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.” (sđd. tr. 201.) Thật ra, lư do chính Nguyễn Ái Quốc dứt điểm hội Tam Điểm, v́ lúc đó hắn được đại diện Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản mời sang Nga hoạt động. Lời mời nầy vẽ ra trước mắt hắn một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới.

    Nguyên vào tháng 10-1922, D. D. Manuilsky, đại diện ĐTQTCS, từ Moscow qua Paris dự Đại hội kỳ 2 đảng CS Pháp. Nhân đó Manuilsky mời Nguyễn Ái Quốc sang Moscow tham gia Hội nghị Quốc tế Nhắn dân vào năm 1923.(2) Sự việc nầy có nghĩa là Manuilsky chọn Nguyễn Ái Quốc để đưa qua Liên Xô huấn luyện. Nhận được lời mời Manuilsky, Nguyễn Ái Quốc vĩnh biệt hội Tam Điểm.

    Ra khỏi hội Tam Điểm để gia nhập một tổ chức khác thích hợp với ḿnh hơn, là chuyện b́nh thường. Chuyện bất b́nh thường ở đây là vào tháng 6 tuyên thệ gia nhập hội Tam Điểm, th́ khoảng chưa đầy nửa năm sau, Nguyễn Ái Quốc lại “thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.” (Bà Thu Trang, đă dẫn.) Ngay từ lúc nầy, mới bước vào con đường chính trị, Nguyễn Ái Quốc đă tự chứng tỏ là một con người “cơ hội chủ nghĩa”, vừa lật lọng, vừa phản bội.

    Bên cạnh sách bằng tiếng Việt, bà Thu Trang, với tên Thu Trang-Gaspard viết lại chuyện Nguyễn Ái Quốc ở Paris bằng tiếng Pháp, nhan đề sách là Hồ Chí Minh à Paris (1917-1923), do Nxb. Éditions L'Harmattan ấn hành tại Paris năm 1992, nội dung giống sách trên.

    Về việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm, ngoài những tài liệu của bà Thu Trang trên đây, c̣n có một số tài liệu chi tiết hơn của các tác giả Pháp. Một trong những người nầy là Jacques Dalloz. Ông viết sách Francs-maçons d'Indochine, Paris: Éditions Maçonniques de France, 2002. Sách nầy tŕnh bày đầy đủ những nhân vật Tam Điểm ở Việt Nam, trong đó có Phạm Quỳnh và Nguyễn Ái Quốc.

    Riêng về Nguyễn Ái Quốc, ngoài sách trên, trong bài báo nhan đề “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue française D'Histoire d'Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d'Histoire d'Outre-mer, tr. 105, Jacques Dalloz viết: “Vào đầu năm 1922, do sự giới thiệu của một nhà chạm trỗ tên là Boulanger, hắn ta dự lễ gia nhập của tổ Fédération universelle (Paris GODF). Phiếu của hắn ta ghi là: “Nguyễn Ái Quấc, sinh ngày 15-2-1895 (Việt Nam), thợ tô sửa h́nh, thợ vẽ.” (tạm dịch từ nguyên bản Pháp văn là: “Au début de 1922, il s'est présenté à l'initiation de la loge la Fédération universelle (Paris GODF), recommandé par le graveur Boulanger. Sa fiche indique: “Nguyen Ai Quâc, né le 15-2-1895 (Annam), retoucheur en photo, dessinateur”.) (3)

    Trong mệnh đề nầy có hai điều đáng chú ư: Thứ nhất là danh xưng Nguyễn Ái Quấc và thứ hai ngày sinh của Nguyễn Ái Quấc.

    2.- DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUẤC (QUỐC) và HỒ CHÍ MINH

    Danh xưng Nguyễn Ái Quấc (Quốc) lúc đầu không phải là tên một người, mà là tên chung của bốn người. Đó là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành.(4) Cả bốn hắn (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc, đồng kư bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn do Phan Văn Trường viết, gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles (Paris) sau thế chiến thứ nhất, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L'Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919.

    Trong bốn người cùng dùng chung biệt hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường sống và hoạt động chính trị tại Pháp khá lâu, đang bị mật thám Pháp theo dơi, không tiện ra mặt. Nguyễn Thế Truyền (1898-1969) là sinh viên du học, đang hưởng học bỗng của Pháp để theo học ngành hóa học,(5) nên không thể công khai chống Pháp.

    Chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật thám chú ư. Nguyễn Tất Thành tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh tại Nghệ An, con hắn Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) và bà Hoàng Thị Loan. Lúc nhỏ, Nguyễn Sinh Cung học chữ Nho, rồi chuyển qua tân học, theo chương tŕnh Pháp. Sau khi đậu tiểu học khoảng năm 17 tuổi, Nguyễn Sinh Cung vào học lớp nhất niên (năm thứ nhất bậc trung học tức lớp 6 ngày nay) trường Quốc Học (Huế) năm 1907.

    Một người bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung ghi nhận lúc học Quốc Học, Cung vẫn mang tên nầy. Tài liệu nầy cho biết thêm rằng đang học lớp nhất niên trường Quốc Học [tương đương với lớp ngày nay], Cung cùng học sinh Quốc Học tham gia biểu t́nh trong vụ Trung Kỳ dân biến tại Huế tháng 4-1908. Pháp đàn áp cuộc dân biến. Cung lo sợ bị bắt, liền bỏ học, trốn vào nam.(6) hắn ghé Quảng Nam, Quảng Ngăi, Quy Nhơn, rồi làm giáo viên dạy Quốc ngữ và chữ Pháp ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào năm 1910, với tên mới là Nguyễn Tất Thành.(7) Như vậy, có thể Nguyễn Sinh Cung đổi tên thành Nguyễn Tất Thành trong khoảng thời gian nầy.

    Trong khi đó, phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Sinh Huy (tên cũ là Nguyễn Sinh Sắc) đang làm thừa biện [thư kư] bộ Lễ ở Huế, được bổ làm tri huyện B́nh Khê (B́nh Định) tháng 5-1909, tức được thăng chức. Điều nầy chứng tỏ Pháp và triều đ́nh Huế lúc đó không quan tâm đến hoạt động của học sinh Nguyễn Sinh Cung, nên không ghép Nguyễn Sinh Huy vào tội không biết dạy con và mới cho phụ thân của Cung thăng quan. Năm sau (1910), quan huyện Nguyễn Sinh Huy dùng roi mây đánh chết người nên bị sa thải.

    Dạy học tại trường Dục Thanh được nửa năm, Nguyễn Tất Thành vào Sài G̣n, lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài G̣n, đi Pháp ngày 5-6-1911. hắn đặt chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911.

    Sau hơn hai tháng có mặt ở Pháp, Nguyễn Tất Thành viết tay hai lá đơn đề ngày 15-9-1911, có nội dung giống nhau; một gởi cho tổng thống Pháp, một gởi cho bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp, xin vào học École Coloniale (Trường Thuộc địa) ở Paris, nơi đào tạo những quan chức cho các nước thuộc địa Pháp. Đơn của Nguyễn Tất Thành bị người Pháp từ chối.

    Nguyễn Tất Thành tiếp tục đi tàu biển một thời gian. Sau đó, hắn cư trú ở Luân Đôn (London), thủ đô của Anh. Giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, tiếp xúc với nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Nhờ sự giới thiệu của ba người nầy, Thành bắt đầu làm quen với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ Pháp.

    Sau khi cả bốn người cùng kư bản “Revendications du peuple annamite”, ba người trước tránh mặt v́ lư do an ninh, Nguyễn Tất Thành thường đại diện nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc với báo giới và chính giới. Có thể do đó, dần dần Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của hắn. Trong suốt cuộc đời c̣n lại, Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Ái Quốc c̣n có cả vài chục tên khác nhau, cho đến khi hắn lấy tên cuối cùng là Hồ Chí Minh.

    Có một điểm đáng chú ư: Nguyễn Sinh Cung bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng tên Nguyễn Ái Quốc và kết thúc sự nghiệp chính trị bằng tên Hồ Chí Minh. Hai tên nầy đều do Nguyễn Sinh Cung chiếm dụng của người khác.

    Nguyên tại Nam Kinh (Trung Hoa), Hồ Học Lăm, một nhà cách mạng Việt Nam, đă lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lăm lấy bí danh là Hồ Chí Minh.(8) Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Trung Hoa lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Vơ Nguyên Giáp), Lư Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan)... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lăm. Hồ Học Lăm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lănh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lănh Hồ Chí Minh từ năm 1942.(9)

    Riêng danh xưng Hồ Chí Minh, Nguyễn Sinh Cung rất thích thú với tên nầy. Theo Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội, trong bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dă)", th́ hắn Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của hắn Nguyễn Sinh Nhậm, mà là con Hồ Sĩ Tạo. Trước khi đám cưới, bà vợ của hắn Nguyễn Sinh Nhậm đă có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Theo Trần Quốc Vượng, Hồ Sĩ Tạo thương đứa con rơi, mới gởi gắm Nguyễn Sinh Sắc vào học trương Quốc tử giám ở kinh đô Huế. Trần Quốc Vượng c̣n viết rằng: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đă lấy lại họ Hồ v́ nó biết hắn nội đích thực của ḿnh là Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là Nguyễn Sinh Nhậm." (10)

    3.- NGÀY SINH CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH

    Khi đến Pháp năm 1911, Nguyễn Sinh Cung dưới tên mới là Nguyễn Tất Thành, làm đơn xin vào học trường Thuộc Địa Paris. Trong đơn, Nguyễn Tất Thành tự khai là sinh năm 1892. (Xin xem tài liệu phía dưới.) Nay trong đơn vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, tự khai là sinh ngày 15-2-1895. Theo tài liệu của đảng CSVN, Hồ Chí Minh tức Nguyễn Sinh Cung lúc nhỏ, sinh ngày 19-5-1890. Ngày sinh nầy được đưa ra chính thức năm 1946, khi Hồ Chí Minh mới cầm quyền chưa được một năm.

    Nh́n vào ba ngày hay năm sinh do chính Nguyễn Sinh Cung, tức Nguyễn Tất Thành, rồi Nguyễn Ái Quấc, rồi Hồ Chí Minh, tự tay viết ra, rơ ràng hoàn toàn không giống nhau cả năm lẫn ngày tháng. Năm 1911, khi xin vào học trường Thuộc Địa, có thể lúc đó phải theo điều kiện tuổi tác ghi danh vào học, Nguyễn Tất Thành đề là sinh năm 1892, tức vừa trên 18 tuổi vào năm 1911. Năm 1922, khi xin vào hội Tam Điểm, không hiểu dựa vào đâu, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng hắn ta sinh năm 1895, tức 27 tuổi vào năm 1922.

    Chuyện ngày 19-5, sinh nhật Hồ Chí Minh là một thủ thuật chính trị. Nguyên sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, theo quyết định của tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945, quân đội Nhật bị giải giới bởi quân Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16 và bởi quân Anh ở Nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư nầy không nói đến ai sẽ cai trị đông Dương sau khi quân Nhật bị giải giới, nên Pháp liền lợi dụng kẻ hở nầy, trở lại đông Dương.

    Ở nam vĩ tuyến 16 (từ Tam Kỳ trở vào), Pháp theo quân Anh, đến Sài G̣n rồi dần dần tái chiếm miền Nam. Ở bắc vĩ tuyến 16, Pháp thương lượng với Trung Hoa, và đi đến hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, theo đó Trung Hoa chịu rút quân từ ngày 1 đến 15-3-1946, và chậm nhất là ngày 31-3-1946. Ngược lại, Pháp trả về cho Trung Hoa các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng đông, Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ Vân Nam, sửa đổi quy chế người Hoa ở đông Dương, miễn thuế người Hoa ở Hải Pḥng, và người Hoa chuyên chở hàng hóa ngang qua Bắc Việt sẽ khỏi phải chịu thuế.

    Sau hiệp ước nầy, sáng sớm ngày 6-3-1946, sư đoàn 9 bộ binh Pháp đến Hải Pḥng, dưới sự chỉ huy của trung tướng Jean Valluy. Túng thế, Hồ Chí Minh liền báo tin cho Pháp biết là hắn ta đồng ư kư hiệp ước với Pháp. Vào buổi chiều cùng ngày, tại số 38 đường Lư Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, vội vàng kư thỏa ước Sơ bộ với Pháp. Cùng kư bản văn nầy, ngoài Hồ Chí Minh, c̣n có Vũ Hồng Khanh (lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng), phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội của chính phủ. Về phía chính phủ Pháp, đại diện là Jean Sainteny.

    Trong khi đó, từ tháng 9-1945, quân đội Pháp theo quân Anh đến đông Dương, chiếm Nam Lào, nhưng không tiến lên phía Bắc, v́ vùng nầy do quân đội Trung Hoa giữ. Sau hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, quân Trung Hoa rời khỏi Lào ngày 12-3-1946. Pháp liền chiếm Vạn Tượng (Vientiane hay Viang Chan) ngày 23-4-1946.

    Giải quyết xong việc Trung Hoa chịu rút quân khỏi Việt Nam, từ ngày 14-5-1946, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại đông Dương, bắt đầu mở cuộc kinh lư khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 lần đầu tiên. D'Argenlieu đến Vạn Tượng ngày 17-5-1946, và dự tính sẽ đến Hà Nội vài ngày sau.

    Đô đốc D'Argenlieu là cao uỷ Pháp tại đông Dương, nghĩa là vừa đại diện nước Pháp, vừa được xem là nhà lănh đạo các nước đông Dương. Việt Nam mới kư thỏa ước Sơ bộ 6-3-1946 theo đó điều 1 ghi rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Hồ Chí Minh đón rước D'Argenlieu nghĩa là đón rước quốc trưởng đến thăm Hà Nội.

    Việc Hồ Chí Minh kư thỏa ước Sơ bộ với Pháp, chính thức hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với lời thề diệt Pháp của Hồ Chí Minh khi tŕnh diện chính phủ vào ngày 2-9-1945, gây sự bất b́nh trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Nay lại đón rước D'Argenlieu đến Hà Nội và phải theo đúng nghi thức quốc gia, ít nhất phải có treo cờ chào mừng. Chắc công điều nầy càng gây thêm bất b́nh nơi quần chúng. Tuy nhiên, nhà cầm quyền VM vẫn ra lệnh treo cờ trong ba ngày 18, 19 và 20-5-1946. Việt Minh cho biết treo cờ không phải để chào đón đô đốc D'Argenlieu, mà để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19-5. D'Argenlieu đến Hà Nội chiều ngày 18-5-1946. Hồ Chí Minh và D'Argenlieu gặp nhau hai lần trong hai ngày liên tiếp 19 và 20-5-1946, nhưng không đạt kết quả đáng kể.(11)

    Trước sự kiện nầy, có dư luận cho rằng Hồ Chí Minh lúng túng trong việc phải treo cờ đón D'Argenlieu cho đúng nghi thức, mới có sáng kiến đặt chuyện treo cờ để mừng sinh nhật, nhắm làm cho hắn ta và chính phủ của hắn ta khỏi mất thể diện, đồng thời làm cho dân chúng khỏi bất b́nh. Dư luận nầy có phần hữu lư ở chỗ trước đó, Hồ Chí Minh không bao giờ nói đến chuyện sinh nhật của ḿnh, nay tự nhiên bày ra chuyện mừng sinh nhật. Hơn nữa, có điểm đáng chú ư là trong đơn xin vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng hắn ta sinh ngày 15-2-1895; nay Hồ Chí Minh lại công bố sinh nhật của hắn ta là 19-5. Thế là nghĩa làm sao?

    *

    Tóm lại, ngày nay, không ai lấy làm lạ về việc Nguyễn Sinh Cung đă đổi nhiều tên, nhiều họ, nhiều năm sinh, tháng đẻ khác nhau, cho đến tên cuối cùng là Hồ Chí Minh với sinh nhật là ngày 19-5-1890. Điều đặc biệt là ngày chết của Hồ Chí Minh cũng không phải là một ngày. Người Việt Nam xem ngày chết rất quan trọng, thường tổ chức kỵ giỗ để tưởng nhớ người quá cố. Thế mà ngày chết của Hồ Chí Minh cũng được đảng Lao Động chính trị hóa, để phỉnh lừa dân chúng.

    Nhiều người cho rằng v́ hoạt động chính trị, Nguyễn Sinh Cung phải hành động như thế. Điều nầy chẳng có ǵ sai trái. Vấn đề là những hoạt động chính trị của Nguyễn Sinh Cung đă đem lại được ǵ cho đất nước Việt Nam?

    Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh nói rằng hắn tranh đấu để giải phóng dân tộc. Cái giá của việc giải phóng theo kiểu Hồ Chí Minh mà dân tộc Việt phải trả thật quá cao. Nếu chọn lựa đi một con đường khác, không phải là con đường cộng sản, th́ có thể tốt hơn. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam ra khỏi tay thực dân Pháp th́ rơi vào tay thực dân nội địa (autocolonisation) [chữ của nhà báo Pháp Jean Lacouture], tức đảng CSVN, c̣n ác độc hơn thực dân Pháp. Giải phóng là cởi bỏ xiềng xích thực dân chứ không phải thay đổi xiềng xích thực dân, và để tiến lên chứ không phải để đi xuống.

    Hồ Chí Minh nói rằng hắn ta chống Pháp để giành lại độc lập? Nước Việt Nam càng ngày càng nhượng bộ và lệ thuộc Trung Quốc. Hồ Chí Minh bảo rằng hắn ta tranh đấu cho tự do dân chủ? Dân chủ của Hồ Chí Minh là dân chủ theo kiểu “đảng cử dân bầu”. C̣n về tự do, sau năm 1954, khi các nhà trí thức, văn thi sĩ Bắc Việt yêu cầu trả văn học nghệ thuật lại cho văn nghệ sĩ, nghĩa là để cho văn nghệ sĩ được tự do sáng tác, th́ Hồ Chí Minh và đảng Lao Động trả lời bằng cách bắt bớ, giam cầm, đày đọa cho đến cuối đời hàng lọat trí thức, văn thi sĩ, mà rơ nét nhất là vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội năm 1956.

    Hồ Chí Minh cải cách ruộng đất, hứa hẹn để thăng tiến đời sống nhắn dân? Hơn hai trăm ngàn người chết v́ cải cách ruộng đất, toàn bộ đất đai của dân chúng do cha hắn để lại bị quốc hữu hóa vào tay nhà nước cộng sản. Hồ Chí Minh đánh Mỹ để cứu nước? Thật ra là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc... (12)

    Đó là những câu trả lời về mục đích cuộc đời chính trị của một nhân vật lịch sử thay tên đổi họ, như tắc kè thay màu da, chỉ để làm những việc hại dân, hại nước, nhất là du nhập và ứng dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam.

    TRẦN GIA PHỤNG
    (Toronto 21-6-2007)

    CHÚ THÍCH

    1. Tam Điểm: Các hội viên Franc-Maçonnerie khi viết thư cho nhau, thường gọi nhau là huynh đệ/anh em (frère), hay thầy (maưtre), thường viết tắt: F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm (điểm) như 3 đỉnh h́nh tam giác đều. V́ vậy, người ta gọi hội Franc-Maçonnerie là hội Tam Điểm. (Tập san Historia Spécial, Paris: số 48, tháng 7-8/ 1997, tr. 127.)

    2. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại 1892-1924, tập 1: 1892-1924, in lần thứ hai, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 224.

    3. Hội Tam Điểm gồm nhiều “obédiences”, xin tạm dịch là “phân bộ”. Mỗi obédience gồm nhiều “loges”, xin tạm dịch là “tổ”. Ở đây, Nguyễn Ái Quấc gia nhập vào tổ (loge) Fédération universelle thuộc obédience (phân bộ) GODF. GODF là viết tắt của chữ : Grand Orient de France.

    4. Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ' Indochine au Vietnam [Hồ chí Minh, từ đông Dương đến Việt Nam], Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tt. 44-45.

    5. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 374. Học bỗng lên tới 5,759.50 francs. Lúc đó, số tiền nầy khá lớn.

    6. Lê Thanh Cảnh, tạp chí Hoài niệm Quốc Học, Huế: 1956, tr. 37-39. hắn Lê Thanh Cảnh là bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung.

    7. Hồ Tá Khanh, Thông sử công ty Liên Thành, Paris: 1983, tr. 34.

    8. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, sđd. t. 168.

    9. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập 2, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993, tr. 281.

    10. Trần Quốc Vượng, Trong cơi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, tt. 256, 258.

    11. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu tập A 1939-1946, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1996, tt. 333-334.

    12. Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi kư chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.

    http://www.congdongnguoiviet.fr/TaiL...HoiTamDiem.htm

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 57
    Last Post: 08-12-2011, 09:43 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 11-10-2011, 01:24 AM
  3. Replies: 8
    Last Post: 20-07-2011, 04:10 AM
  4. Replies: 22
    Last Post: 05-02-2011, 05:45 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •