Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 41

Thread: Chính Đề Việt Nam by Ngô Đ́nh Nhu and his group

  1. #21
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo



    H́nh thức vật chất của làng.

    Trước hết, chúng ta sẽ không vội vă, như phần đông các sử gia và kinh tế gia của chúng ta, khen ngợi và hănh diện với tổ chức làng mạc của chúng ta, mà những người này xem là một sáng kiến kỳ đặc của dân tộc. Những người này thường ca tụng tính cách dân chủ trong sự tổ chức tự trị của làng và tính cách độc lập của làng đối với chính quyền trung ương Nhưng thật ra th́, bất cứ dưới triều đại nào của chúng ta, tùy lúc, sự kiểm soát của trung ương có thể, hoặc chặt chẽ, hoặc nới rộng, đối với làng mạc. Trong những thời kỳ mà sự kiểm soát của trung ương chặt chẽ đối với làng th́, công việc hành chính của làng do một quan viên của trung ương bổ nhậm phụ trách. Trong những thời kỳ mà sự tự trị của làng được rộng răi hơn, th́ công việc hành chính do người trong làng đảm trách. Điều thứ hai là tính cách dân chủ nhận xét ở trong sự tự trị của các làng chỉ là h́nh thức tập hợp xă hội thấp nhất của loài người, mà các bộ lạc nào cũng có.

    Chúng ta tự gạt bỏ các sự kiện trên đây ra một bên, và chỉ chú trọng đến h́nh thức vật chất trong sự tổ chức làng, để căn cứ trên đó mà đo tŕnh độ tổ chức hạ tầng cơ sở của chúng ta, trên phương diện nhân sinh, xă hội và văn hóa.

    Nhận xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng làng chúng ta ở miền Bắc được tổ chức một cách trù mật: nghĩa là, trong phạm vi lănh thổ của làng, vuông rào của làng xây trên một đất hẹp, lại gồm nhiều nóc gia và dân cư đông đúc. Lối đi và nhà cửa trong làng sắp xếp như trong một thành phố nho nhỏ, tất cả các cơ sở công cộng, trường, đ́nh, chùa, công sở, vân vân…, đều phục vụ toàn thể dân làng. Nếp sống tập thể giữa những người trong làng đó sẽ đương nhiên, và ư thức cộng đồng thành một tập quán của dân làng. Hai chữ “Làng tôi” khêu gợi một vũ trụ nho nhỏ, một tập thể trong đó có tôi.

    “Làng” là một đơn vị xă hội sau gia đ́nh, một đơn vị quốc pḥng, hành chánh của quốc gia, và một đơn vị kinh tế cho vùng. H́nh thức này là h́nh thức nguyên khởi của làng chúng ta, và chúng ta t́m thấy h́nh thức nguyên khởi này ở tất cả làng miền Bắc, Bắc miền Trung, đến Quảng B́nh và Quảng Trị.

    Các vùng đó gồm lănh thổ chúng ta khi mới lập quốc và phần đất đầu tiên chiếm được của Chàm, năm 1069, dưới thời nhà Lư.

    Từ phía Nam Quảng Trị đến B́nh Thuận, h́nh thức của làng bớt tính cách trù mật, nghĩa là ṿng rào rộng hơn và nhà trong làng thưa hơn. Sợi dây liên lạc giữa các người trong làng vẫn c̣n, nhưng đă giăn ra v́ sự chung đụng bớt đi khi con đường đất dài ra, và tinh thần tập thể, cũng v́ đó, mà bắt đầu nhường chỗ cho một lối sống riêng tư.

    Từ Thừa Thiên đến B́nh Thuận, vuông rào của làng càng xuống phía Nam th́ càng mở rộng, nhưng sự mở rộng không vượt quá một giới hạn. Do đó h́nh thức vẫn được tôn trọng.

    Các vùng này gồm các đất chiếm được của Chàm dưới triều Trần, và Nguyễn. Đối với dân làng, tính cách đơn vị xă hội sau gia đ́nh bắt đầu lỏng lẻo cũng như tính cách đơn vị quốc pḥng đối với quốc gia. Tính cách hành chánh c̣n nguyên vẹn.

    Nhưng bắt đầu từ B́nh Tuy hiện nay, đến miền Đông và các tỉnh Tiền Giang, th́ h́nh thức trù mật đă bể. Nhà cửa trong làng đă bắt đầu rải rác, cách nhau thật xa. Vuông rào của làng khi xưa không c̣n mà chỉ c̣n những vuông rào cho một xóm, gồm nhiều nhà của một gịng họ, hay những vuông rào cho từng nhà một.

    Càng đi sâu vào phía Nam, các nóc gia càng cách xa nhau và nhà cửa càng ở rải rác khắp nơi trong phần đất của làng. H́nh thức xưa không c̣n nữa và cùng với h́nh thức xưa nề nếp sống tập thể cũng không c̣n. Đối với dân làng, tính cách đơn vị xă hội sau gia đ́nh của làng không c̣n nữa.

    Đối với quốc gia, tính cách đơn vị quốc pḥng không c̣n nữa, mà chỉ c̣n tính cách đơn vị hành chánh. Các cơ sở công cộng không c̣n giúp ích cho toàn thể dân làng nữa v́ đường đất đă quá rộng.

    Sang miền Tây, các cánh đồng bao la của Hậu Giang hoàn toàn nuốt mất h́nh thức nguyên khởi của làng Việt Nam. Trên những khoảng rộng lớn, hay dọc theo bờ sông và bờ kinh, các nóc gia ở rải rác, hoặc gom lại từng khóm nhỏ nhỏ, năm ba cái nhà, và chạy dài đến mươi và vài mươi cây số ngàn. Hai chữ “Làng tôi” chỉ c̣n khêu gợi một tổ chức hành chánh có nhiều bức sách.

    Lư do của sự nở dần, đến vỡ tung ra, của h́nh thức vật chất của làng chúng ta, từ Bắc xuống Nam, thường được xem là v́, tại phía Bắc, đất hẹp và dân đông, phía Nam, đất rộng và thưa dân. Lư do này, một ḿnh không đủ để giải thích tất cả các sự kiện đă nhận thức trên kia, bới v́ có nhiều nơi đất hẹp, như Thừa Thiên, lại có những làng rộng hơn ở Thái B́nh, hay ở Quảng Nam, Quảng Ngăi, nơi mà đất lại rộng hơn. Và, nếu ở vùng đất hẹp không thể tổ chức làng rộng được th́ trái lại ở vùng đất rộng vẫn có thể chức làng trù mật được. Chắc chắn là đồng thời với lư do trên, một quan niệm sai lầm về sự tổ chức làng, của những người phụ trách công cuộc chiếm cứ các vùng đất mới, là một lư do rất nặng.

    Càng xa trung ương, h́nh thức nguyên khởi của làng và những hậu quả đắc lợi của h́nh thức đó, lại càng bị quên.

    Chỉ c̣n nhớ rằng làng th́ cố định, có chùa, có công sở, là đủ, mà quên rằng các cơ sở cộng cộng đó, chỉ phục vụ hiệu quả khi nào h́nh thức trù mật được tôn trọng.

    Hậu quả của h́nh thức vật chất.

    Nhưng dù lư do nào, th́, sự kiện thực tế đă như vậy, và mang theo nhiều hậu quả rất là bất lợi cho chúng ta ngày nay.

    Những hậu quả bất lợi về quốc pḥng, như chúng ta đă biết, là những hậu quả tai hại cấp kỳ nhất.

    Kế đó là những hậu quả về nhân sinh, về xă hội và về văn hóa và kinh tế, tai hại không kém, nhưng lâu ngày mới đến.

    Trước hết là, sống trong khuôn khổ một h́nh thức trù mật, tinh thần tập thể mới nảy nở được. H́nh thức trù mật mất đi, tinh thần tập thể cũng mất. Đó là một điều vô cùng tai hại, bởi v́ lúc nào quốc gia, một tập thể to lớn, vẫn c̣n và vẫn đ̣i hỏi ở người dân một ư thức tập thể mà họ đă mất.

    Kế đó, sống trù mật, người dân sẽ không cô lập, sẽ dựa vào tập thể mà phát triển cá nhân. Nhờ ở sự tương trợ giáo dục tự nhiên, kinh nghiệm của người trước truyền cho người sau, ít thất lạc trong một tập thể và hợp thành truyền thống của tập thể. Sống trù mật sự tiến hóa của cá nhân không bị gián đoạn.

    Sau hết, là sự liên lạc từ nhân dân lên chính quyền trung ương, cũng như từ chính quyền trung ương xuống nhân dân, sẽ thông suốt, dễ dàng, nếu nhân dân sống trong một h́nh thức trù mật. Các cơ sở công ích mang đến cho nhân dân những phương tiện kinh tế, xă hội hay văn hóa, để nâng cao đời sống, chỉ có thể tổ chức được trong h́nh thức sống trù mật. Và lẽ dĩ nhiên là nêu h́nh thức sống trù mật không có, th́ tất cả những hậu quả trên kia đều không có. Nghĩa là không h́nh thức trừ mật, người dân sẽ sống lẻ lọi, truyền thống của tập thể mất lần, cá nhân không phát triển, ư thức tập thể không c̣n. Chính quyền đến với người dân một cách gián đoạn và người dân cũng không biết đến chính quyền.

    Ngoài những dây liên lạc gia đ́nh ra, người dân sống cô lập không c̣n biết xă hội và quốc gia là ǵ.

    Những sự kiện tai hại trên đây, càng trở nên trầm trọng dưới thời Pháp thuộc, bởi v́ đời sống của nhân dân không phải là mối lo âu của người thống trị.

    T́nh trạng xă hội của người dân đă như vậy, tất nhiên ảnh hưởng nặng nề đến mức sản xuất kinh tế bởi v́ các kỹ thuật sản xuất, nhất là về nông nghiệp, lĩnh vực thiên sản chính của chúng ta, đă thô sơ, lại càng ngày càng suy đồi.

    V́ vậy mà chúng ta không lấy làm lạ, khi đọc những tờ tŕnh nghiên cứu của các chuyên viên về khả năng tăng gia sản xuất của chúng ta trong ngành nông nghiệp. Những người này ước lượng rằng, mức sản xuất ở miền Bắc có thể tăng lên ít nhất là năm mươi phần trăm, ở miền Trung ít nhất là một. trăm phần trăm, và ở miền Nam hai trăm phần trăm.

    Con số. sai biệt, giữa ba con số đánh giá khả năng tăng gia sản xuất của ba miền, chỉ do sự sai biệt giữa tŕnh độ thủ thuật sản xuất hiện tại ở ba miền.

    Những trang trên đây giúp cho chúng ta nh́n thấy rơ rằng sự chiếm cứ của chúng ta, đối với phía Nam miền Trung chưa hoàn bị, và đối với miền Nam hoàn loàn chưa rồi.

    Để bắt tay vào công cuộc phát triển, việc đầu tiên mà chúng ta phải thực hiện là hoàn tất công cuộc chiếm cứ nói trên, bằng cách tổ. chức lại, trên căn bản sống trù mật và tập thể, các cơ sở hạ tầng của chúng ta ở nông thôn.

    Như thế th́, việc tổ chức lại các làng mạc ở phía Nam miền Trung và ở miền Nam, không phải chỉ có tác dụng quân sự, đối với sự phá quấy của du kích quân miền Bắc, mà chính là để đặt nền tảng cho công cuộc phát triển dân tộc trên mọi lĩnh vực, nhân sinh, kinh tế và văn hóa.

    Đúng hơn nữa, hai tác dụng trên phải đi đôi với nhau. Nghĩa là, tác dụng quân sự, đối với sự phá quấy của du kích miền Bắc, sẽ đạt được dễ dàng hơn, nếu chúng ta đặt nó vào khuôn khổ bao quát của một công cuộc phát triển dân tộc rộng lớn. Lư do của sự kiện này là như sau đây:

    Cộng Sản, nói chung toàn bộ lư thuyết và phương pháp hành động, là một phương tiện tranh đấu đă khắc phục được sự tin tưởng của các nhà lănh đạo miền Bắc. Sự tin tưởng của họ bắt nguồn từ hai sự kiện. Trước hết là phương tiện đó đă tỏ ra có hiệu lực trong giai đoạn giải phóng quốc gia khỏi ách thực dân, bởi v́ đă mang đến cho chúng ta những đồng minh quốc tế trong cuộc tranh đấu lẻ loi của mỗi quốc gia, như chúng ta đă biết. Sự kiện thứ nh́ là gương phát triển của Nga Sô. Đối với hoàn cảnh của Việt Nam sự tin tưởng có thích nghi không, chúng ta đă đề cập đến trên đây và sau này sẽ trở lại.

    Dầu thế nào, do sự tin tưởng trên, các nhà lănh đạo miền Bắc đă áp dụng phương pháp Cộng Sản để thực hiện công cuộc phát triển, như chúng ta đă tŕnh bày ở phần hai, trong đó có cuộc xâm chiếm miền Nam. V́ vậy mà, biện pháp quân sự đối với họ chỉ là một phần trong một toàn bộ chương tŕnh. Do đó những hành động của họ có những khả năng lôi cuốn được quần chúng, mà riêng những biện pháp quân sự của họ, không làm sao có được. Nói một cách khác, biện pháp quân sự của họ không thể tách rời và đứng riêng một ḿnh, ngoài phạm vi công cuộc mà họ chủ trương.

    Như vậy, để chống lại những sự phá rối của du kích quân miền Bắc th́ biện pháp quân sự không thôi là không đủ. Ví dụ mà chúng ta có đánh bại họ về quân sự đi nữa, chúng ta cũng chưa thắng họ được, bởi v́ lực lượng chính yếu của họ không phải là quân lực, nhưng là một toàn bộ chương tŕnh.

    Và chúng ta đă biết, chương tŕnh đó không ǵ khác hơn là một công cuộc phát triển theo lối Cộng Sản.

    Cũng như chúng ta đă thấy trên kia, khi Nga Sô mở màn cho giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu với Tây phương th́ điều kiện trước tiên để bảo đảm thắng lợi là đưa cuộc tranh đấu của họ lên tầm quốc tế, bới v́ địch thủ là Tây phương, đă bủa giăng lưới thống trị trên khắp địa cầu. Trường hợp của chúng ta ngày nay trong công cuộc đánh dẹp du kích quân miền Bắc cũng tương tự như vậy. V́ miền Bắc đặt vấn đề, du kích quân phá rối tại miền Nam, trong khuôn khổ toàn quốc của một công cuộc phát triển theo lối Cộng Sản. Như vậy muốn đánh dẹp du kích quân, chúng ta phải đặt công cuộc đánh dẹp đó trong khuôn khổ toàn quốc của một công cuộc phát triển dân tộc theo lối Tự Do. Nghĩa là, những biện pháp của chúng ta dùng phải là những biện pháp không giới hạn trong lĩnh vực quân sự mà là những biện pháp thuộc tất cả các lĩnh vực gồm trong khuôn khổ của công cuộc phát triển dân tộc. Và chương tŕnh của chúng ta phải được quan niệm, không phải chỉ cho miền Nam, mà cho toàn quốc.

    Những cái vốn của lịch sử

    Ngoài hai vấn đề, “Sự liên lạc với Trung Hoa” và “Công cuộc Nam tiến của dân tộc” đương nhiên đè nặng trên cái vốn hiện tại của dân tộc, chúng ta đă thấy trong một đoạn trên đây, tám mươi năm thống trị của người Pháp đă để lại cho chúng ta một di sản mà ngày nay chúng ta c̣n phải mang những hậu quả rất là tai hại. Chỉ cần nhắc lại ba gánh nặng nhất mà thời kỳ Pháp thuộc đă lưu lại cho chúng ta.

    Tây phương hóa bắt buộc

    Trước hết là một công cuộc Tây phương hóa bắt buộc đối với chúng ta. Bắt buộc, bới v́ chúng ta đă không có ư Tây phương hóa, nhưng v́ sinh lực mạnh bạo của một nền văn minh đă chiến thắng văn minh chúng ta, làm cho chúng ta mất tin tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu thập nền văn minh mới. Kẻ thống trị không có quyền lợi ǵ để biết đến sự Tây phương hóa của lớp người bị trị.

    Vận mạng của chúng ta lại không phải do chúng ta nắm. V́ vậy mà công cuộc Tây phương hóa, mà chúng ta đă phải chịu nhận từ một thế kỷ nay, là một công cuộc Tây phương hóa bắt buộc, không mục đích, không được hướng dẫn. Dân chúng bị lôi cuốn vào một phong trào Tây phương hóa, mà không hiểu Tây phương hóa để làm ǵ, Tây phương hóa đến mức nào là đủ, và Tây phương hóa làm sao là đúng.

    Xă hội tan ră.

    T́nh trạng đó đă dẫn dắt đến sự tan ră của xă hội chúng ta. Các giá trị tiêu chuẩn cũ đă mất hết hiệu lực đối với tập thể mà giá trị tiêu chuẩn mới th́ không có. Do đó, tín hiệu tập hợp các phần tử trong xă hội đă mất. Đó là một điều vô cùng bất hạnh cho dân tộc trong giai đoạn này, v́ chính lúc này là lúc mà chúng ta cần phải thực hiện công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa. Một công cuộc như vậy đ̣i hỏi, như chúng ta đă biết, nhiều nỗ lực liên tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người. V́ vậy cho nên, sự có một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết, để toàn dân trông vào và tin tưởng, mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một hoàn cảnh khổ hạnh. Và chính vào một thời kỳ như vậy chúng ta lại mất các tín hiệu tập hợp.

    Giả sử chúng ta có một sự tin tưởng vào một nhân vật tượng trưng, như người Nhật tin vào Thiên Hoàng của họ, th́ sự tin tưởng đó thật là quí báu vô cùng. Cho nên, sự lỡ cơ hội phát triển lần đầu tiên, khi mà xă hội chúng ta chưa tan ră, là một điều hết sức tai hại. Ngày nay, chúng ta phải phát động công cuộc phát triển, từ một khởi điểm rất thấp, so với khởi điểm chúng ta đă có thể có được, nếu chúng ta nắm ngay cơ hội lần đầu tiên.

    Sự thiếu tín hiệu tập hợp tự nhiên cho dân tộc, đă và sẽ dẫn dắt các nhà lănh đạo chúng ta đến một hoàn cảnh phải xử dụng những tín hiệu tập hợp chiến lược và cố nhiên là giai đoạn. Nhưng đó là một sự thay thế bất đắc dĩ, bởi v́ những tín hiệu tập hợp giai đoạn, tự nó đă không bền, tất nhiên phải nhiều lần thay đổi với thời gian, và sẽ làm mất sự tin tưởng của nhân dân đối với người lănh đạo.

    Sự gián đoạn trong vấn đề lănh đạo quốc gia.

    Gánh nặng thứ ba, mà thời kỳ thống trị của đế quốc đă để lại cho chúng ta, là sự gián đoạn trong vấn đề lănh đạo quốc gia. Chúng ta đă thấy rằng chúng ta lâm vào một sự gián đoạn đến một tŕnh độ trầm trọng nhất. Sự chuyển quyền không thể thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật quốc gia và bí mật lănh đạo đều bị mất. Thuật lănh đạo không truyền lại được. Người lănh đạo không có đủ di sản dĩ văng không bảo tồn được, văn khố thất lạc và bị cướp bóc.

    Một trong các nguyên nhân chính yếu của sức mạnh của các cường quốc là một sự liên tục lănh đạo quốc gia trong nhiều thế hệ. Trong thời gian đó, kinh nghiệm lănh đạo chồng chất và lưu truyền cho các thế hệ. Chỉ tưởng đến cái hậu thuẫn kinh nghiệm súc tích hằng mấy thế kỷ của họ, chúng ta cũng khiếp, khi nh́n lại mấy tờ giấy kinh nghiệm làm hậu thuẫn cho chúng ta ngày nay. Quan niệm quét sạch tàn tích trước, để xây dựng tương lai là một quan niệm ấu trĩ của quần chúng, không được huấn luyện về ư thức chính trị.

    Không người lănh đạo nào, kể cả những người cách mạng cuồng nhiệt nhất, có quyền nuôi một ư tưởng như vậy. Bởi v́ không có một hành động nào mà sát hại một dân tộc bằng hành động quét sạch tàn tích trước để xây dựng tương lai, v́ như thế có nghĩa là không bao giờ chúng ta xây dựng được một kho tàng khinh nghiệm để làm hậu thuẫn cho sự lănh đạo quốc gia.

    Thêm vào các gánh nặng trên đây, mà đế quốc đă lưu lại cho chúng ta, sự thiểu người lănh đạo trong các ngành, như chúng ta đă biết, là một trở lực to tát cho công cuộc phát triển đang đợi chờ chúng ta.

    Vấn đề phân chia lănh thổ Chúng ta đă thấy, trong một đoạn trên, những điều bất lợi cho chúng ta, trong một công cuộc phát triển dân tộc, bới v́ nước Việt Nam là một nước nhỏ. Nay thay v́ một công cuộc phát triển thực hiện cho toàn quốc, t́nh trạng chia đôi đặt chúng ta vào hoàn cảnh phải quan niệm công cuộc phát triển cho từng phân nửa quốc gia. Như thế, việc chia đôi lănh thổ tự nó đă là một trở lực vật chất, cho công cuộc phát triển của chúng ta.

    Mâu thuẫn và cơ hội.

    Một nước nhỏ và yếu, như nước chúng ta, chỉ sống nhờ những mâu thuẫn giữa các nước lớn. Chính sự mâu thuẫn, giữa khối Cộng Sản và khối Tây phương, đă giúp cho các quốc gia bị đế quốc thống trị thâu hồi được độc lập và cũng nhờ các mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương hồi thế kỷ 19 mà nước Nhật đă thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc.

    Ngày nay, mâu thuẫn giữa khối Cộng Sản và khối Tự Do, cũng như mâu thuẫn giữa khối Nga Sô, khối Tây phương và khối Trung Cộng đang thành h́nh, hay là những mâu thuẫn giữa các quốc gia của khối Cộng Sản hay giữa các quốc gia của khối Tự Do, tất cả đều là những phương tiện giúp cho Việt Nam và các quốc gia, đồng thuyền với Việt Nam, thực hiện công cuộc phát triển của ḿnh.

    Mâu thuẫn càng nhiều, cơ hội càng thuận lợi; mâu thuẫn giảm đi, cơ hội trở nên khó khăn và mâu thuẫn mất đi, cơ hội cũng mất.

    Trong hai mươi năm, từ ngày đại thế chiến thứ hai chấm dứt, như chúng ta đă phân tích trong một đoạn trên, cơ hội đă đến cho các quốc gia như chúng ta để phát triển. Nhưng riêng đối với Việt Nam, v́ sự phân chia lănh thổ, cho nên, chẳng những chúng ta không khai thác được các mâu thuẫn để phát triển, mà chúng ta lại c̣n rơi vào cái thế tranh chấp giữa hai yếu tố của mâu thuẫn Tây phương và Nga Sô. Mặc dù cơ hội phát triển vẫn c̣n, nhưng vị trí của chúng ta không cho phép chúng ta nắm lấy cơ hội.

    Nếu lần này cơ hội lại mất như cách đây một trăm năm, thế hệ của chúng ta và nhất là các nhà lănh đạo đă v́ một tính toán sai lầm, trong một giai đoạn quyết định, tạo ra t́nh trạng phân chia lănh thổ, sẽ chịu sự nguyền rủa oán hận của các thế hệ sau này, cũng như chúng ta đă phê b́nh nghiêm khắc lớp người lănh đạo thời Nguyễn triều.

    Chúng ta đă ghi vào xương máu các hậu quả đau khổ của sự lỡ cơ hội lần thứ nhất, và chúng ta cũng có thể đoán biết những hậu quả tai hại gấp mấy lần hơn, của sự lỡ cơ hội này trong khi mà các dân tộc đồng thuyền với chúng ta đều nỗ lực nắm lấy cơ hội phát triển và nhiều dân tộc đă thật sự nắm lấy được.



    Còn tiếp

  2. #22
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo



    Hiện trạng tâm lư.

    Sự phân chia lănh thổ c̣n tạo ra một hiện trạng tâm lư, thuộc về t́nh cảm, ăn sâu và lan rộng trong quần chúng. Mỗi người Việt Nam ở phía Nam cũng như phía Bắc đều cảm thấy như đă bị cưỡng đoạt một phần di sản của tổ tiên. V́ tính cách sâu và rộng trong quần chúng của hiện tượng tâm lư trên, mà mọi cuộc vận động chính trị, ở phía Nam cũng như phía Bắc, đều t́m cách khai thác vấn đề thống nhất lănh thổ, cho chủ trương giai đoạn của ḿnh.

    Phân chia và phân tranh.

    Đứng trước sự phân chia lănh thổ, phần đông liên tưởng đến cuộc Nguyễn, Trịnh phân tranh hồi thế kỷ thứ 17, đến cuộc phân tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh hồi thế kỷ thứ 18 và đến cảnh điêu tàn của đất nước sau gần hai trăm năm nội loạn. Tuy nhiên, các cuộc phân tranh trước đây trong lịch sử và cuộc phân chia hiện tại khác nhau về bản chất của các nguyên nhân, về giai đoạn tiến hóa của xă hội Việt Nam và về tính chất của các hậu quả lưu lại cho các thế hệ sau.
    Trước hết, nguyên nhân các cuộc phân tranh trước đây đều do những sự tranh giành ảnh hưởng nội bộ giữa những nhà lănh đạo của chúng ta. Cuộc phân chia ngày nay là hiện tượng địa phương của sự tranh chấp giữa ba khối Tây phương, Nga Sô và Trung Cộng. Sở dĩ chúng ta phải gánh chịu hậu quả của một cuộc tranh chấp ngoại lai như vậy, là v́ điều kiện gian lao của cuộc tranh giành độc lập đă dẫn dắt một số nhà lănh đạo của chúng ta vào phe Đồng Minh với Nga Sô, và sau đó họ đă không đủ khéo léo để kịp thời rút ra khỏi cuộc Đồng Minh nói trên, khi cuộc Đồng Minh đó đă chấm dứt hiệu lực.
    Các cuộc phân tranh trước đây đă xảy ra trong một thời kỳ tiến hóa liên tục của xă hội Việt Nam. Nghĩa là, trước và sau các cuộc phân tranh trước đây, xă hội Việt Nam đều sống theo một loại giá trị tiêu chuẩn. V́ vậy, cuộc phân tranh sau khi chấm dứt, không lưu lại một sự gián đoạn nào trong đà tiến hóa của xă hội chúng ta.
    Cuộc phân chia ngày nay xảy ra trong một giai đoạn mà chúng ta đang cần đặt lại các giá trị tiêu chuẩn, cho sự tiến hóa của xă hội chúng ta. Trước sự phân chia, các giá trị tiêu chuẩn của xă hội cũ đă chết, mà các giá trị tiêu chuẩn mới th́ chưa có. Do đó, xă hội của chúng ta tan ră và con thuyền của chúng ta trôi giạt, không có định hướng. V́ vậy mà, như chúng ta đă biết, công cuộc phát triển dân tộc, trong cơ hội thứ hai này, sẽ diễn ra trong một hoàn cảnh vô cùng nghiêm khắc so với hoàn cảnh, trong đó công cuộc phát triển dân tộc có thể thực hiện được, nếu chúng ta đă nắm lấy được cơ hội thứ nhất.
    Nếu trước đây, chúng ta dưới thời nhà Nguyễn, đă nắm được cơ hội thứ nhất để phát triển dân tộc, như người Nhật, th́ ngoài ra sự thâu thập kỹ thuật Tây phương, chúng ta chỉ cần phải t́m một trạng thái thăng bằng mới để thâu nạp một số giá trị tiêu chuẩn mới dính liền với các kỹ thuật Tây phương, bởi v́ các giá trị tiêu chuẩn cũ của chúng ta vẫn c̣n đủ sinh lực.
    Nhưng trong hoàn cảnh của xă hội chúng ta ngày nay, một công cuộc phát triển dân tộc đương nhiên gồm một phần rất quan hệ, là đặt lại các giá trị tiêu chuẩn mới cho sự tiến hóa của dân tộc và chính trên lĩnh vực này, sự phân chia ngày nay mới lưu lại những hậu quả tai hại nhất cho các thế hệ tương lai.
    Dân tộc chúng ta ở vào một thời kỳ mà công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa là một vấn đề sống c̣n mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ được. Chúng ta đă dành rất nhiều trang cho vấn đề này cũng là v́ tính cách vô cùng thiết yếu của nó.
    Với sự phân chia ngày nay, chắc chắn là phía Nam sẽ phát triển theo lối Mỹ và phía Bắc sẽ phát triển theo lối Nga.
    Giả sử mà hai miền, mặc dầu chưa thực hiện rồi công cuộc phát triển, nhưng đều bước một bước dài trong công cuộc đó, th́ đương nhiên, nhân dân ở hai miền sẽ hưởng ứng với những tín hiệu tập hợp khác nhau, sẽ tin tưởng vào những giá trị tiêu chuẩn khác nhau và sẽ có những tập quán xă hội hoàn toàn khác nhau.
    Các sự kiện này không sao tránh được, bởi v́, miền Bắc, áp dụng phương pháp Cộng Sản trong công cuộc phát triển, sẽ tôn sùng, với mục đích huy động quần chúng, nhiều giá trị tiêu chuẩn chiến lược, giai đoạn, và đối chọi lại với các giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại. Chỉ khi nào mục đích phát triển đă đạt. như ở Nga Sô ngày nay, th́ những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn đó mới sẽ được thay đổi và nhường chỗ lại cho những giá trị tiêu chuẩn thích nghi với di sản văn minh nhân loại. Ví dụ cách đây hơn bốn mươi năm, lúc cách mạng Nga Sô đang cao trào, các nhà lănh đạo Nga Sô v́ lư do huy động nhân dân, hết sức khuyến khích ái t́nh tự do, phá hủy gia đ́nh, cực lực tiêu diệt quyền tư hữu, đả phá tôn giáo. Nhưng bốn mươi năm sau, các nhà lănh đạo Nga Sô, sau khi mục đích phát triển đă đạt, lần lần không làm sao không trở về với các giá trị tiêu chuẩn đă được chứng minh là những di sản của văn minh nhân loại: tôn trọng gia đ́nh, nh́n nhận quyền tư hữu, kính trọng tôn giáo.
    Trong khi đó, miền Nam, phát triển theo lối Mỹ, chắc chắn sẽ tôn trọng những giá trị tiêu chuẩn chống lại các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của miền Bắc.
    Trong hoàn cảnh như trên vừa tŕnh bày, trong thời gian đương phát triển cho hai miền, một sự thống nhất không thể nào thực hiện được mà không mang đến những trạng huống đau khổ cho toàn dân, bởi v́ một sự thống nhất như vậy sẽ tạo ra một số người thất cước là phân nửa dân tộc trong một thế hệ.
    Như vậy th́, vấn đề đă trở nên rơ, hoặc chúng ta phải thống nhất trước khi phát động công cuộc phát triển bằng cách Tây phương hóa, hoặc chúng ta chỉ có thể thống nhất sau khi mục đích phát triển đă đạt.
    Như vậy th́, để bên ngoài mọi lư do t́nh cảm và mọi hậu ư khai thác vấn đề thống nhất với mục đích chiến thuật chính trị, và chỉ nhắm vào vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng dân tộc, chúng ta phải có thái độ như thế nào trước sự phân chia lănh thổ?
    Để có đủ yếu tổ trả lời câu hỏi trên đây, trước hết chúng ta t́m xem nguyên nhân nào đă dẫn dắt đến t́nh trạng phân chia ngày nay. Tuy nhiên, trước khi có điều kiện trả lời đích xác chúng ta cũng có thể nhận xét rằng, miễn là công cuộc phát triển được bảo đảm, cái lợi cho dân tộc là thâu nhận những giá trị tiêu chuẩn có tính cách vĩnh viễn thay v́ những giá trị tiêu chuẩn giai đoạn và chiến lược.

    Nguyên nhân của sự phân chia lănh thổ.

    Từ ngày Việt Nam bị chia đôi, thời gian qua mới có mười năm. Thời giờ c̣n chưa đủ dài để cho các tài liệu lịch sử, vô tư xứng danh, có thể nổi lên trên khối tài liệu bị thiên kiến của người đương cuộc chi phối. Tuy nhiên, một số sự kiện lịch sử khắc tín cũng đă bắt đầu thành h́nh. Và chính chúng ta trong các trang trên cũng đă nh́n thấy và dẫn chứng một ít nhiều.
    Xét các biến cố, đă xảy ra, cho Việt Nam và cho các quốc gia đồng thuyền với chúng ta trước đây, từ năm 1945, chúng ta nhận thấy trước tiên, ảnh hưởng của hai lối đế quốc – lối đế quốc kiểu Anh và lối đế quốc kiểu Pháp – đến công cuộc tranh đấu giành độc lập của các nước bị thống trị và đến các biến chuyển chính trị trong các nước ấy, từ khi độc lập đă thâu hồi.

    Chính sách thuộc địa của Pháp.

    Chính sách thuộc địa của Pháp, chúng ta đă biết, không có phân minh giữa hai h́nh thức thuộc địa, thuộc địa di dân và thuộc địa khai thác.
    Đối với các thuộc địa khai thác, chính sách của người Anh rất rơ rệt. Họ nh́n xa và biết thế nào rồi cũng có ngày họ phải ra đi và trả độc lập lại cho người bổn xứ. V́ thế cho nên, chính phủ Anh đă dự trù sẵn cho những nơi đó một chương tŕnh gồm, vừa vấn đề đào tạo những người lănh đạo sẽ thay thế họ, vừa vấn đề chuyển quyền một cách ôn ḥa từ tay họ sang cho những người vừa thoát khỏi ách thống trị.
    Trong khi đó, ngay đối với các thuộc địa mà bản chất phải là một thuộc địa khai thác, người Pháp, v́ một quan điểm thiển cận, không hề dự liệu một chương tŕnh rút lui nào cả. Đến khi các biển chuyển chính trị đặt họ trước một t́nh thế phải thoái triệt và thừa nhận độc lập của các dân tộc bản xứ, thái độ của các chính phủ Pháp, v́ sự thiếu chính sách, lúc nào cũng là một sự dằng co giữa việc đi và việc ở.
    Nước Pháp đă phải trả bằng một giá rất đắt sự thiếu một chính sách dài hạn sáng suốt và một chương tŕnh hành động cương quyết lúc t́nh thế đ̣i hỏi.
    Các sự kiện trên cũng là nguyên nhân đă làm cho các cựu thuộc địa, như Việt Nam và Algérie, phải hy sinh nhiều xương máu và chịu đựng nhiều gian lao trong cuộc chiến đấu giành độc lập. Chúng ta không phủ nhận rằng một sự độc lập mua bằng nhiều hy sinh và nhiều gian lao, là một sự độc lập quí giá, khả dĩ nêu cao tính kiêu hùng của dân tộc.
    Nhưng sinh lực của cộng đồng là một của báu, lúc nào cũng thiết yếu cho sự phát triển và sự tiến hóa, nhà lănh đạo nào cũng phải tự đặt cho ḿnh một nghiêm luật phải bảo vệ và tiết kiệm, khi quyền lợi của cộng đồng bắt buộc phải sử dụng đến.
    Giả sử mà chúng ta đă giành được độc lập một cách ít hao tốn sinh lực của dân tộc, như trong trường hợp của các cựu thuộc địa Anh, th́ bao nhiêu gian lao và hy sinh mà chúng ta đă phải đổ vào cuộc kháng chiến, chúng ta đă có thể dành cho công cuộc phát triển, mà v́ sự sống c̣n của cộng đồng dân tộc, chúng ta phải thực hiện cho được bằng mọi cách. Độc lập không phải là mục đích. Phát triển dân tộc mới là mục đích.
    Các sử gia Tây phương sau này, sẽ vô cùng nghiêm khắc đối với nước Pháp, v́ sự thiếu chính sách của Pháp trong một giai đoạn quyết định đă làm giảm ưu thế của Tây phương trong cuộc tranh đấu vĩ đại giữa Tây phương và Nga Sô. Các sử gia Việt Nam sau này cũng sẽ vô cùng nghiêm khắc với Pháp, v́ sự thiếu chính sách của Pháp đă gây ra một cuộc chiến tranh tàn phá sinh lực của dân tộc Việt Nam.
    Các sử gia của Việt Nam sau này cũng sẽ vô cùng nghiêm khắc đối với số người lănh đạo đă không đủ sáng suốt nhận thức bản chất thực tế của cuộc tranh chấp vĩ đại giữa Tây phương và Nga Sô để khai thác mâu thuẫn, thâu phục được phương tiện độc lập cho chúng ta mà khỏi phải trả bằng một sự phí phạm sinh lực to tát, có thể tránh được.
    Chính hai loại sự kiện trên, chính sách thuộc địa thiển cận của Pháp và sự không thấu triệt vấn đề của một số nhà lănh đạo của chúng ta, chẳng những tạo cho chúng ta một cuộc tranh giành độc lập vô cùng tiêu hao, lại c̣n dẫn dắt đến t́nh trạng phân chia ngày nay, một trở lực vô cùng tai hại cho công cuộc phát triển dân tộc chúng ta.


    Còn tiếp

  3. #23
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo



    Chính sách Pháp dẫn dắt đến phân chia.


    Trong khuôn khổ sự tranh chấp vĩ đại giữa Nga Sô và Tây phương, liền sau khi Đại thế chiến thứ hai chấm dứt, người Anh nhận thức rằng trong cuộc diện của sự tranh đấu lúc bấy giờ, kẻ thù chính của Tây phương là Nga Sô và các Đồng Minh của họ. V́ vậy cho nên, thi hành một chương tŕnh đă dự trù từ lâu, người Anh cấp thời thực hiện sự giao hoàn độc lập lại cho các thuộc địa khai thác. Và trong các cuộc thương thuyết với các nhà lănh đạo bổn xứ, cũng như trong các chương tŕnh đào tạo người thay chân lâu nay, người Anh cương quyết loại bỏ ngoài ṿng các lănh tụ Cộng Sản. Thêm vào đó, các chương tŕnh viện trợ phát triển được thực hiện để hậu thuẫn cho chính sách biến các cựu thuộc địa thành những đồng minh của Tây phương trong cuộc tranh chấp với Nga Sô. Toàn bộ các sự kiện trên, như chúng ta đă biết, là cơ hội để cho các quốc gia trước đây bị đế quốc thống trị phát triển dân tộc.
    Mặc dầu là một phần tử quan trọng của xă hội Tây phương, nước Pháp v́ sự thiếu chính sách như trên đă nói, và v́ sự thăng trầm của chiến sự trong Đại thế chiến thứ hai, không có cái nh́n bao quát cần thiết và thích hợp với cuộc diện của sự tranh chấp vĩ đại giữa Nga và Tây phương.
    Trong các thuộc địa, người Pháp vẫn tiếp tục một chính sách đă áp dụng lâu nay, vừa không hợp thời vừa nhỏ nhen, mục đích bảo vệ những quyền lợi đă lỗi thời. Đi, ở lưỡng nan, người Pháp dùng thủ đoạn thông thường quân b́nh giữa các lực lượng cách mạng Quốc Gia và Cộng Sản, vừa nuôi dưỡng, vừa tiêu hao cả hai bên để thủ lợi. Điều bất ngờ cho người Pháp là khi thời cơ đến ở Việt Nam, sức quật cường của dân tộc mạnh cho đến đỗi tất cả đều đặt công cuộc kháng chiến chống Pháp lên trên mọi kỳ thị đảng phái. Nhờ các sự kiện đó, và nhờ sự tổ chức tinh vi và sự hiểu vấn đề, cả hai, đều thừa hưởng của Cộng Sản quốc tế, đảng Cộng Sản đă nắm được chính quyền ở Việt Nam.
    Chẳng những thế, người Pháp có một lư do khác để thúc đẩy cho cuộc kháng chiến của chúng ta rơi vào sự lănh đạo của Cộng Sản. Quốc gia kiệt quệ v́ chiến bại và sự chiếm đóng của Đức trong bốn năm, nước Pháp cần tiền để kiến thiết. Ngoài các số viện trợ trong khuôn khổ chương tŕnh Marshall mà chúng ta đă biết, nước Pháp đă giành trực tiếp hoặc gián tiếp vào sự tái thiết nội bộ, một số lớn viện trợ của Tây phương, nói là để chận đứng sự bành trướng của Cộng Sản ở Việt Nam. V́ vậy mà người Pháp cần duy tŕ chiến cuộc ở Đông Dương và đưa sự kháng chiến quốc gia rơi vào sự lănh đạo của Cộng Sản.
    Nếu chúng ta ư thức rằng, sau Đại thế chiến thứ hai, các biến chuyển chính trị trên thế giới, và tất nhiên là ở Việt Nam, đều bị động trong khuôn khổ cuộc tranh chấp vĩ đại giữa Nga Sô và Tây phương, th́ chúng ta thấy rằng, ngay từ lúc người Pháp thi hành các thủ đoạn chính trị của họ ở Việt Nam, mầm mống sự chia đôi đất nước của chúng ta đă không tránh được.
    Các mưu mô toan tính của Pháp không hoàn toàn kết quả, v́ Pháp không thể măi măi, vô t́nh hay cố ư, nhắm mắt trước cuộc diện sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương, và một ḿnh, đi ngược lại chính sách của Tây phương, chủ trương biến các tuộc địa cũ thành những Đồng Minh chống lại Nga Sô. Pháp đă phải rút khỏi bán đảo Đông Dương để cho Tây phương thi hành chính sách nói trên. Và chính Pháp, sau vụ Việt Nam và Algérie, cũng phải áp dụng chính sách đối phó với các thuộc địa c̣n lại để củng cố vị trí cho Tây phương.
    Chẳng riêng ǵ trong phạm vi vấn đề Việt Nam, mà trong tất cả các phạm vi khác, trong khuôn khổ sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương, hành động của Pháp lúc nào cũng mang nặng tinh thần thiếu đoàn kết với Tây phương.
    Nguyên nhân ở chỗ thảm trạng về chiến sự của Pháp trong Đại thế chiến thứ hai, đă tạo ra cho các nhà lănh đạo Pháp một tâm trạng tự ty mặc cảm và một sự di hận cay đắng đối với các Đồng Minh của họ trong khối Tây phương.
    Ở Việt Nam, tinh thần hậu thế chiến của nước Pháp đă lưu lại cho chúng ta những hậu quả vô cùng tai hại: chính tinh thần đó và một chính sách thuộc địa thiếu sáng suốt phải chịu trách nhiệm, như chúng ta vừa tŕnh bày, sự phân chia lănh thổ Việt Nam hiện nay.

    Đồng Minh với Cộng Sản.

    Như chúng ta đă biết, nước Pháp không quan niệm sẵn, ngay từ lúc chưa có sự thúc đẩy của các biến cố, một chính sách thuộc địa sáng suốt, nên khi t́nh thế đ̣i hỏi, không có một chương tŕnh hành động thích đáng. Nhưng giả sự, mặc dầu hoàn cảnh đó, nước Pháp ngay sau khi chính phủ Hồ Chí Minh đă thành lập, đă có điều kiện để thi hành một chính sách trả thuộc địa như người Anh và thành thật áp dụng một chính sách như vậy. Trong trường hợp đó, chính phủ Hồ Chí Minh mặc dầu tư cách lănh tụ Đông Dương Cộng Sản Đảng của người lănh đạo, đă có đủ khả năng và ư chí để đưa nước Việt Nam ra ngoài ṿng ảnh hưởng của hai khối, tránh cho dân tộc một cuộc chiến tranh tàn phá, và một sự chia đôi lănh thổ, vừa xúc động trên phương diện tâm lư và vừa di hại trên phương diện chính trị, và sau đó đứng trên vị trí toàn quốc, khai thác các mâu thuẫn để phát triển dân tộc không?

    Vấn đề chính cho dân tộc là vấn đề phát triển.

    Chính trị của một nước nhỏ, như nước chúng ta hoàn toàn bị động trong cái thế của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương.
    Như chúng ta đă biết, cũng v́ có sự tranh chấp này mà các nhà lănh đạo Á Đông đă đồng minh với Nga Sô để tranh giành độc lập cho dân tộc.
    Nhưng chúng ta cũng c̣n nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi v́ Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của lư tưởng cách mạng xă hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đă đạt. Sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đă thấy trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-mác Lê-nin v́ những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-mác Lê-Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đă đạt, th́ cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không c̣n hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không c̣n hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc.
    Nhiều nhà lănh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đă bị Đế quốc thống trị, đă đủ sáng suốt để nh́n thấu thâm ư chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản v́ lư do trên.
    Các nhà lănh đạo Cộng Sản của chúng ta đồng minh với Nga Sô v́ điều kiện gian lao của một cuộc tranh đấu giành độc lập gay go với người Pháp.
    Nhưng, họ chỉ có thể thoát ra ngoài ṿng ảnh hưởng của hai khối để lănh đạo công cuộc phát triển của dân tộc, như chúng ta nêu lên trong câu hỏi đầu mục này, nếu các điều kiện sau đây được họ nhận thức rơ rệt:
    1.- Bản chất thực tế của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương.
    2.- Thâm ư chiến lược của Nga Sô
    3.- Cuộc đồng minh với Nga Sô, đă hết hiệu lực đối với Nga Sô, khi mục đích phát triển của Nga Sô đă đạt.
    4.- Lư thuyết Các-mác Lê-nin là một phương tiện tranh đấu và phát triển của Nga trước đây, cũng như là một phương tiện tranh đấu và phát triển của Trung Cộng ngày nay.
    5.- Sự đồng minh với Cộng Sản phải được chấm dứt kịp thời khi nó không c̣n hiệu lực đối với dân tộc.
    6.- Đối với dân tộc Việt Nam, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.

    Sự đồng minh với Cộng Sản thúc đẩy phân chia.

    Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lănh đạo miền Bắc hiện nay đă nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thơ loại chính trị của miền Bắc c̣n đang ca tụng như là những chân lư những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đă bỏ. Như thế th́ có lẽ dân tộc chúng ta c̣n phải bất hạnh mục kích các nhà lănh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lư, một lư thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đă đạt.
    Như thế th́, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, th́ các nhà lănh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đă đưa chúng ta ra được ngoài ṿng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc.
    Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lănh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lănh thổ cũng không tránh được.
    Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lănh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lănh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối.
    Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lănh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lănh đạo miền Bắc.

    Các biến cố chính trị dẫn dắt đến sự phân chia


    Trong thực tế, sự phân chia đă nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dút sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nh́n nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đă được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đă bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ th́ thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết quả nhất.
    Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nh́n nhận Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ.
    Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lư ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đă biến thành những khí cụ của một tai họa.
    Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đă biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đ́nh chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đă bắt đầu hoạt động trở lại dưới các h́nh thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam.
    Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lănh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lănh đạo Nga.
    Sự phát triển của một khối to lớn như Trung Cộng là một sự đe dọa cho cả thế giới, dù mà các nhà lănh đạo Trung Cộng không nuôi dưỡng những tham vọng bành trướng như hiện nay. Bởi v́, sự phát triển của một khối gần tám trăm triệu dân, tự nó đă mang trong ḿnh một sự đe dọa xâm chiếm ghê gớm đối với các cộng đồng quốc gia khác. Và sự đe dọa bao giờ cũng gây phản ứng. V́ thế cho nên sự phát triển của Trung Cộng, ngoài trở lực đương nhiên và nội bộ của một công cuộc phát triển, c̣n phải gặp nhiều trở lực do các phản ứng bên ngoài gây ra.
    Trái lại, sự phát triển của một nước nhỏ như nước Việt Nam, sẽ không gặp phản ứng, v́ sẽ không là một mối đe dọa cho ai cả. Do đó, ngoài những cố gắng nội bộ mà một công cuộc phát triển đương nhiên sẽ đ̣i hỏi, các trở lực bên ngoài sẽ hầu như không có. Nếu cuộc phát triển của chúng ta, tự nó dễ thực hiện hơn cuộc phát triển của Trung Cộng, th́ sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào vận mạng của Trung Cộng, là một hành động di hại cho dân tộc, dù mà, đối với chúng ta, Trung Cộng có thật sự nuôi nhiều thiện chí.
    Nhưng chúng ta đă biết chính sách liên tục của các triều đại Trung Hoa đối với Việt Nam, căn cứ trên những lư do lịch sử và địa dư.
    Trở lại vấn đề phát triển của Trung Cộng. Các nhà lănh đạo Trung Cộng ư thức hoàn cảnh phát triển nghiêm khắc của quốc gia họ, nên đă dốc nhiều nỗ lực để vận động thành lập một mặt trận đồng minh rộng răi trong khắp thế giới làm hậu thuẫn cho chương tŕnh phát triển riêng của dân tộc Trung Hoa.
    Và trong tinh thần này, Trung Cộng đă viện trợ cho Bắc Việt. Tuy nhiên, vị trí địa dư của Bắc Việt c̣n là nguồn gốc của hai động cơ khác thúc đẩy sự viện trợ nói trên. Đồng bằng Bắc Việt và con sông Nhị Hà là con đường tháo ra biển của tất cả vùng Tây Nam nước Tàu. Với công cuộc phát triển đang thực hiện, nước Tàu của Mao Trạch Đông c̣n cần dùng con đường ra biển đó, hơn cả các triều đại trước đây của Trung Hoa. Viện trợ cho Bắc Việt, trên quan điểm đó, là để dành quyền sử dụng con đường ra biển lúc thời cơ đến.
    Trong khi ảnh hưởng của Tây phương c̣n ưu thế trên thế giới, viện trợ cho Bắc Việt cũng là một công tác pḥng thủ cho Trung Hoa, v́ con đường tháo ra biển cũng là con đường xâm nhập vào Trung Hoa của các đạo quân chinh phục.
    Dầu sao, sự Trung Cộng viện trợ cho Bắc Việt, không làm cho chúng ta quên rằng, trong thời kỳ mà xă hội Đông Á bị Tây phương bắt đầu tấn công, nhân cơ hội vua Tự Đức nhà Nguyễn phái sứ sang cầu viện, nhà Thanh, thay v́ cứu viện, đă thỏa thuận với. Pháp để chia đôi Việt Nam. Nước Tàu như chúng ta đă biết, giữ về phần ḿnh, tất cả các vùng thuộc đồng bằng sông Nhị Hà, nghĩa là con đường tháo ra biển của vùng Tây Nam Trung Hoa.


    Còn tiếp

  4. #24
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo



    Phân chia thật sự.

    Sự phân chia thật sự năm 1954, sở dĩ thực hiện được là bởi v́ hai bên, Tây phương và Cộng Sản đều t́m thấy ở giải pháp đó nhiều điều lợi cho riêng khối của ḿnh.
    Đối với Tây phương, Hội nghị Genève là một vận động triển kỳ để chỉnh đốn lại những lỗi lầm chính trị của Tây phương tại Việt Nam, do sự thiếu chính sách của Pháp đă gây ra. Kế hoạch của Tây phương là chặn đúng sự bành trướng của Cộng Sản xuống Đông Nam Á, để có thời gian mang áp dụng vào Việt Nam chính sách của Anh đối với các cựu thuộc địa. Do đó, đồng thời với Hiệp định Genève, Pháp bị đưa ra khỏi bán đảo Ấn Độ Chi Na. (Đông Dương)
    Đối với khối Cộng Sản, các biến cố chính trị sau đây, đă làm bối cảnh cho lập trường tại Hội nghị của Nga Sô và Trung Cộng.
    Năm 1953, Staline vừa từ trần, một cuộc khủng hoảng t́m người kế vị, xảy ra một cách ác liệt giữa các lănh tụ Nga Sô. Các cuộc thanh trừng đẫm máu vừa làm rung chuyển chính trường của Nga Sô, vừa bộc lộ nhược điểm của bộ máy lănh đạo theo kiểu Cộng Sản. T́nh h́nh bất ổn định trong nội bộ của Nga Sô, kéo dài trong nhiều năm, đă làm cho Trung Cộng trở thành một đồng minh quí giá, chẳng những đối với cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương, mà lại c̣n đối với cuộc tranh chấp giữa các phe trong nội bộ đảng Cộng Sản Nga. Vai tṛ của Trung Cộng đương nhiên, trở nên quan trọng ở Á châu và ở Hội nghị. Và lập trường của khối Cộng Sản tại Hội nghị có thể xem gần như là lập trường của Trung Cộng.
    Điều lợi thứ nhất cho Trung Cộng ở Hội nghị Genève là một thắng lợi ngoại giao bới v́ Hội nghị là cuộc dàn xếp quốc tê đầu tiên có Trung Cộng tham dự. Sự có mặt của Mỹ tại Hội nghị, đối với Trung Cộng, là một sự mặc nhiên thú nhận rằng, mặc dầu Mỹ chưa nh́n nhận Trung Cộng, Mỹ không thể phủ nhận sự có mặt của Trung Cộng trong các vấn đề Á châu và thế giới.
    Điều lợi thứ nh́ cho Trung Cộng là một thắng lợi về ranh giới và lănh thổ. Lúc đầu, phái đoàn Bắc Việt yêu sách lấy vĩ tuyến 13 làm ranh giới giữa hai miền. Hậu ư của phái đoàn Bắc Việt là thâu gồm các tỉnh B́nh Định và Quảng Ngăi, mà Cộng Sản đă kiểm soát từ trong nhiều năm. Nhưng về sau, dưới áp lực của Trung Cộng ranh giới đă lui lại đến vĩ tuyến 17. Giả sử có lui lại đến vĩ tuyến 19 như phái đoàn Pháp yêu cầu, Trung Cộng cũng bằng ḷng. Bởi v́, dù ranh giới có đặt ở vĩ tuyến 17 hay 19, th́ những tham vọng về đất đai của Trung Cộng đối với Việt Nam cũng đă thỏa măn.
    Như chúng ta đă biết, vùng đất thiết yếu cho nước Tàu là các vùng hai bên sông Nhị Hà, con đường tháo ra biển, thiên nhiên của vùng Tây Nam Trung Hoa. Với thỏa hiệp tại vĩ tuyến 17, th́ dù mà ảnh hưởng của Tây phương có c̣n ở miền Nam, sự lệ thuộc của chính phủ miền Bắc cũng đủ bảo đảm cho nhu cầu đất đai của Trung Cộng trong tương lai.
    Điều lợi thứ ba cho Trung Cộng là một sự kiện quốc pḥng. Ảnh hưởng của Tây phương tuy vẫn hùng mạnh ở Đông Nam Á, nhưng đă cách Trung Cộng bằng một quốc gia trái độn.
    Việc ấn định ranh giới ở vĩ tuyến 17, vừa xác nhận tham vọng đất đai, bất di bất dịch của Tàu đối với Việt Nam, vừa chứng minh sự lệ thuộc của chính phủ Bắc Việt đối với Trung Cộng.
    Và đồng thời, Hội nghị Genève lại là một sự kiện không thể bác bỏ, chứng tỏ rằng chính trị của một nước nhỏ như nước chúng ta hoàn toàn nằm trong một thế bị động bởi cuộc tranh chấp giữa Tây phương và Nga Sô.

    Thái độ

    Chúng ta vừa phân tích xong các nguyên nhân của sự phân chia lănh thổ ngày nay, và vừa duyệt lại các sự kiện dẫn dắt đến sự phận chia thật sự. Như thế, các yếu tố đă có, để chúng ta có thể loại bỏ bên ngoài tất cả mọi lư do tâm lư, và mọi ư định sử dụng t́nh trạng phân chia lănh thổ vào một cuộc vận động chính trị, hầu khách quan ấn định một thái độ lợi nhất cho dân tộc trước sự phân chia hiện tại.
    Như chúng ta đă biết, vấn đề thiết yếu mà dân tộc chúng ta cần phải giải quyết trong giai đoạn này là công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
    Dĩ nhiên để thực hiện công cuộc đó, trường hợp thích đáng nhất là thống nhất lănh thổ, và trên vị trí toàn quốc, khai thác mâu thuẫn giữa các khối để mang vào Việt Nam tư bản và kỹ thuật cần thiết cho nỗ lực phát triển. Nhưng v́ những lư do đă xét, trong các đoạn trên, chúng ta không ở vào trường hợp trên.
    Vậy th́, chúng ta phải nỗ lực thống nhất hai phần trước, rồi thực hiện công cuộc phát triển toàn quốc sau, hay thực hiện trước cuộc phát triển riêng cho hai phần và thống nhất sau?

    Thái độ thứ nhất

    Giả sử, chúng ta chọn thái độ trước.
    Sự phân chia lănh thổ Việt Nam như chúng ta đă biết, là hậu quả của một hiện tượng địa phương và quân sự của cuộc tranh chấp giữa Tây phương và Cộng Sản. Đă như thế th́, chúng ta đă không chủ động được sự phân chia, cũng như chúng ta sẽ không chủ động được sự thống nhất, ngày nào chúng ta chưa loại trừ được hiện tượng nói trên ra khỏi Việt Nam. Nhưng, nếu, trước khi hiện tượng đó thành h́nh, một sự lănh đạo sáng suốt có thể chủ động được sự ngăn cấm hiện tượng phát sinh, bởi v́ các yếu tố tạo ra hiện tượng chưa trực tiếp chi phối chính sự của chúng ta. Sau khi hiện tượng đă cụ thể hóa, chúng ta không c̣n chủ động được sự loại trừ hiện tượng nữa, bởi v́ các yếu tố nuôi dưỡng hiện tượng đă trực tiếp chi phối chính sự của chúng ta.
    Nhưng giả sử mà, mặc dầu hoàn cảnh nghiêm khắc nói trên, chúng ta v́ vận dụng hết nỗ lực trong một thời gian, cố nhiên là phải lâu dài, có thể thực hiện được thống nhất, th́ chẳng những sẽ tiêu hao sinh lực của dân tộc, đáng lẽ phải được dùng vào công cuộc phát triển, mà lại là cơ hội phát triển có thể không c̣n nữa. Nghĩa là chúng ta sẽ thống nhất mà không phát triển. Chúng ta đă biết sự lỡ cơ hội phát triển lần này sẽ di hại cho các thế hệ tương lai đến mức độ nào.
    Hơn nữa, v́ những lư do mà chúng ta đă biết, sự tồn tại của dân tộc cũng sẽ bị đe dọa. Và trong hiện t́nh chính trị, một sự thống nhất sẽ đương nhiên làm mất cơ hội phát triển.
    Giả sử, sự thống nhất do Bắc Việt thực hiện, th́ với sự chị phối nặng nề của Trung Cộng đối với Bắc Việt, sự phát triển dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ không thực hiện được v́ hai lư do.
    Công cuộc phát triển của nước Tàu, mục đích trên hết và trước hết của các nhà lănh đạo Trung Cộng, như chúng ta đă biết, là một công cuộc vô cùng khó khăn. Nếu Việt Nam dính liền vận mạng của dân tộc với Trung Cộng, th́ công cuộc phát triển của chúng ta cũng trở thành vô cùng khó khăn. Hơn nữa, nhu cầu của Việt Nam trong công cuộc phát triển sẽ đương nhiên ở vào hàng thứ yếu đối với nhu cầu phát triển của Trung Cộng. Và trên phương diện Tây phương hóa, chúng ta sẽ là một thứ học tṛ hạng ba, sẽ dẫm chân vào những lỗi lầm không tránh được của người học tṛ hạng nh́.
    Đó là trong trường hợp mà Trung Cộng chỉ có thiện chí đối với Việt Nam. Căn cứ trên một ngàn năm lịch sử bang giao giữa hai quốc gia, chúng ta có thể quả quyết rằng trường hợp này không bao giờ phát triển được, mà lại chúng ta sẽ tṛng vào cổ dân tộc cái ách nô lệ mà tổ tiên chúng ta, trong một ngàn năm đă đổ nhiều xương máu để loại trừ.
    Giả sử sự thống nhất do Nam Việt thực hiện, Việt Nam sẽ rơi vào sự chi phối của Tây phương. Các quốc gia Tây phương không có những nhu cầu phát triển. Tây phương lại đang theo đuổi một chính sách biến các cựu thuộc địa thành những đồng minh trong cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những phương tiện dồi dào được Tây phương sử dụng vào các chương tŕnh viện trợ mà chúng ta đều biết.
    Nhưng, mặc dù như vậy, chúng ta cũng phải ư thức rằng, nếu chúng ta lọt vào sự chi phối hoàn toàn của Tây phương, cơ hội phát triển cũng có thể mất, bởi v́ những mâu thuẫn phát sinh ra cơ hội sẽ mất đối với chúng ta.
    Như thế th́, v́ công cuộc phát triển của dân tộc bằng cách Tây phương hóa, mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ được, thái độ thứ nhất nói trên đây không thể chấp nhận được

    Thái độ thứ hai

    Giả sử chúng ta chọn thái độ thứ hai.
    Sau khi đă thừa nhận một t́nh trạng thực tế mà chúng ta không chủ động được, hai phần sẽ dốc hết nỗ lực của ḿnh để thực hiện riêng công cuộc phát triển cho phần, và bằng đường lối của ḿnh chủ trương. Cơ hội phát triển hiện nay vẫn c̣n v́ cuộc tranh chấp Tây phương và Nga Sô chưa chấm dút, thêm vào đó cuộc tranh chấp, Tây phương, Nga Sô và Trung Cộng vừa phát sinh.
    Hơn nữa, v́ hai bên Tây phương và Cộng Sản đều muốn chứng minh tính cách hiệu quả của phương pháp phát triển của ḿnh, hai phần Việt Nam sẽ đương nhiên được hưởng nhiều viện trợ kỹ thuật và tư bản.
    Tuy nhiên, thái độ này sẽ không tránh được hai khuyết điểm. Hai công cuộc phát triển kinh tế và kỹ thuật, quan niệm riêng cho hai miền, cho thích nghi với nhau trên lĩnh vực toàn quốc không? Công cuộc phát triển dân tộc gồm sự thâu nhận những giá trị tiêu chuẩn mới. Nếu hai phần phát triển theo hai phương pháp khác, cô nhiên các giá trị tiêu chuẩn cũng khác nhau. Như thế, sự phát triển thành công có là một trở lực cho sự thống nhất trong tương lai không?
    Khuyết điểm thứ nhất không quan hệ bởi v́ một chương tŕnh phát triển kinh tế có thể quan niệm vừa rộng cho nhiều xứ và vừa hẹp cho từng xứ. Và kinh tế và kỹ thuật mà hai phần đều thâu thập, cùng là kinh tế và kỹ thuật của Tây phương.
    Khuyết điểm thứ hai, liên quan đến lĩnh vực tinh thần của công cuộc phát triển, quan hệ hơn nhiều. Và có cơ biến thành một trở lực cho sự thống nhất dân tộc sau này hơn.
    Tuy nhiên, chúng ta đă chứng minh rằng một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa không làm mất bản chất dân tộc. Như thế, mặc dầu miền Nam phát triển theo kiểu Tây phương, và miền Bắc theo kiểu Cộng Sản, hai miền vẫn không mất bản chất dân tộc.
    Bài học của Nga Sô lại cho chúng ta thấy rằng, mặc dầu các giá trị tiêu chuẩn của Cộng Sản đối chọi với các giá trị tiêu chuẩn của Tây phương, nhưng các giá trị tiêu chuẩn của Cộng Sản là những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn có mục đích huy động quần chúng, hậu thuẫn cho chế độ độc tài của Đảng Cộng Sản, để thực hiện công cuộc phát triển.
    Một khi mục đích phát triển đă đạt, Nga Sô, chính v́ sự tồn tại của xă hội, đă bắt buộc phải thay thế những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn bằng những giá trị tiêu chuẩn thích nghi với di sản tinh thần của văn minh nhân loại.
    Đă như thế th́, một khi mục đích phát triển đă đạt, một điều chắc chắn là miền Bắc sẽ thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn và các giá trị tiêu chuẩn của hai miền sẽ không khác nhau. Chỉ có một điều là, sự thống nhất chỉ có thể thực hiện được khi nào mục đích phát triển đă đạt.
    Như thế th́ vấn đề đă sáng tỏ. V́ sự sống c̣n của dân tộc, thế hệ của chúng ta phải nắm cho được cơ hội hiện tại phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa. Trong hoàn cảnh chính trị hiện tại của quốc gia, chúng ta có thể nắm được cơ hội, nếu chúng ta loại bỏ mọi xúc động tâm lư và mọi toan tính lợi dụng chính trị ngắn hạn, can đảm nh́n thẳng vấn đề phân chia lănh thổ và nh́n nhận rằng phải tạm thời giữ nguyên t́nh trạng đến khi mục đích phát triển đă đạt riêng cho hai miền Nam và Bắc.

    Vai tṛ của Miền Nam

    Các đoạn phân tích trên đây c̣n giúp cho chúng ta nhận thức vai tṛ trọng yếu của Nam Việt trong giai đoạn hiện tại của lịch sử dân tộc.
    V́ lệ thuộc đối với một chủ nghĩa, mà cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử dụng như là một phương tiện chiến đấu khả dĩ làm cho dân tộc họ, các nhà lănh đạo Cộng Sản Việt Nam đă tạo thời cơ cho thực dân Pháp thực hiện được những thủ đoạn chính trị của họ, mà hậu quả đă đưa đến sự chia đôi lănh thổ ngày nay.
    Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lănh thổ đă tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mănh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Kư ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta c̣n ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.
    Các nhà lănh đạo miến Bắc, khi tự đặt ḿnh vào sự chi phối của Trung Cộng, đă đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại c̣n đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
    Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành h́nh, là v́ hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, th́ sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
    Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trưng Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ư thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ư định xâm chiếm miền Nam th́ họ vẫn c̣n chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay v́ chính sách sống chung ḥa b́nh của Nga Sô.
    V́ vậy cho nên, sự mất c̣n của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất c̣n trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy tŕ lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa.

    Những cái vốn khác: Vốn nhân lực.

    Trong một công cuộc phát triển dân tộc số lượng và phẩm lượng của nhân công đóng một vai tṛ quan trọng tương đương với tài nguyên của xứ sở. Dưới đây chúng ta sẽ t́m hiểu giá trị hiện hữu của vốn về nhân lực và vốn về tài nguyên của chúng ta. Chúng ta sẽ tự ư để một bên mọi chương tŕnh tài chính và kỹ thuật để sử dụng tài nguyên và nhân lực một cách hữu hiệu đến mức tối đa trong công cuộc phát triển. Các chương tŕnh như thế thuộc thẩm quyền các kinh tế gia.

    Khuôn khổ chính trị.

    Ngoài giá trị hiện hữu của vốn nhân lực và vốn tài nguyên, chúng ta cũng đề cập đến khuôn khổ chính trị, trong đó hai cái vốn trên sẽ được sử dụng một cách có lợi nhất cho dân tộc trong giai đoạn này. Khuôn khổ chính trị, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, sẽ quy định cách thức sử dụng hai cái vốn trên và ấn định giới hạn khai thác vốn nhân lực. Trong các nước chưa phát triển như chúng ta, ngoài cái vốn tài nguyên là một thứ vốn thụ động, nghĩa là tự nó không sinh lợi được cái vốn hoạt động duy nhất mà chúng ta có thể sử dụng được hết sức rộng răi là vốn nhân lực.
    Do đó, các kinh tế gia chỉ nh́n nhận vào mục đích trước mắt là khai thác đến tận cùng cái vốn duy nhất của chúng ta có thể sử dụng được trong công cuộc phát triển dân tộc, dễ bị cám dỗ bởi những phương pháp lănh đạo khả dĩ giúp cho họ huy động được mà không gặp trở lực cái vốn nhân lực đến mức tối đa. Phương pháp lănh đạo thích nghi với quan niệm trên đây là phương pháp độc tài đảng trị, ví dụ như của Cộng Sản hay của Đức Quốc Xă. Sự thành công của Nga Sô, và sự có thể thành công của Trung Cộng tăng nhiều uy tín cho phương pháp trên và nhiều nhà lănh đạo bị những phương pháp đó cám dỗ.



    Còn tiếp
    Last edited by longquan; 17-11-2011 at 11:05 AM.

  5. #25
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo



    Phương pháp độc tài đảng trị.

    Phương pháp độc tài Đảng trị dựa trên căn bản chặt hết các dây liên hệ của từng cá nhân bất cứ dưới h́nh thức gia đ́nh, xă hội, tôn giáo, và văn hóa, và thay thế vào đó bằng những dây liên hệ duy nhất với một đảng chính trị duy nhất, nắm chính quyền. Từ trên căn bản đó các biện pháp được quan niệm cho mọi lĩnh vực. Cái lợi của phương pháp trên là biến mỗi cá nhân thành ra một bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn của một bộ máy khổng lồ nhiều khả năng nhưng cũng dễ sử dụng trong tay người lănh đạo. V́ vậy, nhiều người lănh đạo, khi có một chương tŕnh vĩ đại cần phải thực hiện trong một thời gian ngắn, dễ bị cám dỗ bởi một phương pháp hấp dẫn như thế, và dễ quên rằng những phương tiện mà họ muốn sử dụng như vậy không phải là những phương tiện vô tri, nhưng là những người mà trách nhiệm của người lănh đạo là mưu hạnh phúc cho.

    Nhưng hiệu lực của phương pháp trên như thề nào, đối với công cuộc phát triển toàn diện bằng cách Tây phương hóa, mục đích mà, v́ sự sống c̣n của dân tộc, chúng ta phải đạt cho kỳ được.

    Một công cuộc phát triển bằng cách Tây phương hóa, như chúng ta đă biết, không phải chỉ giới hạn trong sự thâu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng c̣n bao gồm sự thâu nhận nhiều tiêu chuẩn giá trị mới. Như thế th́, công cuộc phát triển bằng cách Tây phương hóa sẽ đương nhiên dẫn dắt đến sự cần thiết phải t́m cho xă hội được phát triển một trạng thái điều ḥa mà trong đó các giá trị tiêu chuẩn mới sống chung với nhiều giá trị tiêu chuẩn cũ.

    Như thế th́, tiêu chuẩn thành công hay thất bại của một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa là sự kiện xă hội được phát triển có t́m được hay không một trạng thái điều ḥa mới để bảo đảm cho sự tiến bộ của xă hội trong tương lai.

    Một xă hội điển h́nh, đă phát triển bằng cách Tây phương hóa theo phương pháp độc tài Đảng trị Cộng Sản, là xă hội Nga Sô. Vậy xă hội Nga Sô đă thành công trong công cuộc phát triển dân tộc chưa? Nghĩa là xă hội Nga Sô đă t́m được trạng thái điều ḥa mới, khả dĩ bảo đảm sự tiến hóa trong tương lai chưa? Về vấn đề vô cùng quan trọng này, trong các đoạn trên, chúng ta nhận thấy hai sự kiện.

    Trước hết các giá trị tiêu chuẩn của Nga Sô, trong phạm vi lănh đạo, bất lực trong vấn đề bảo đảm một sự lănh đạo quốc gia liên tục, v́ không thực hiện được một sự chuyển quyền điều ḥa, mỗi khi phải thay đổi người lănh đạo.

    Sự kiện thứ hai là sự kiện Nga Sô, sau khi mục đích kỹ thuật của công cuộc phát triển đă đạt, đă phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của thuyết Các-Mác, bằng những giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đă thấy trong một đoạn ở trên. Chúng ta phải ư thức rằng một sự thay thế những giá trị tiêu chuẩn như vậy, đương nhiên, đả phá đến tận nền tảng chủ nghĩa Các-mác Lê-nin.

    Đă như thế th́, chắc chắn rằng không bao giờ các nhà lănh đạo Nga Sô chấp nhận một sự thay đổi giá trị tiêu chuẩn như trên, nếu đă không bị thực tế lịch sử dồn vào cái thế không làm sao không thay đổi được. Thực tế lịch sử đó là các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của thuyết Cộng Sản không thực hiện được một trạng thái điều ḥa mới khả dĩ bảo đảm sự tiến hóa của cộng đồng.

    Các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn đó, ví dụ, như chúng ta đă thấy, đề cao ái t́nh tự do, đả phá gia đ́nh, phủ nhận quyền tư hữu, bài trừ tôn giáo, vân vân..., đă nhân danh quyền lợi của cộng đồng mà bóp chết cá nhân, do đó đương nhiên tiêu diệt trạng thái thăng bằng động tiền căn bản trong một cộng đồng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Trạng thái thăng bằng động tiến mất, v́ hai lực lượng tương phản không c̣n để tạo ra một cuộc phối hợp sáng suốt. Sinh lực sáng tạo không có th́ sự tiến hóa trong tương lai của cộng đồng không được bảo đảm.

    Như thê th́, chính là một đe dọa đến sự tồn tại của xă hội Nga Sô, đă thúc đẩy các nhà lănh đạo Nga Sô phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của thuyết Cộng Sản.

    Và như thế th́ vần đề đă rơ, bài học của Nga Sô chứng minh rằng, phương pháp độc tài Đảng trị Cộng Sản không thệ bảo đảm được sự thành công của một công cuộc phát triển dân tộc toàn diện, bằng cách Tây phương hóa, như chúng ta đă định nghĩa.

    Nếu bây giờ, chúng ta lại giới hạn mục đích công cuộc phát triển, chỉ trong phạm vi một sự thâu thập kỹ thuật Tây phương, th́ phương pháp độc tài Đảng trị Cộng Sản, thật sự, có nhiều hiệu lực như các nhà lănh đạo đă bị phương pháp đó cám dỗ mong tưởng không?

    Tiêu chuẩn thành công hay thất bại của một công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương là, như chúng ta đă biết, sự thâu thập có hay không lên được đến mức độ chế ngự được khả năng sáng tạo kỹ thuật Tây phương.

    Theo tiêu chuẩn đó, các kiến thức hiện tại chưa cho phép chúng ta trả lởi đích xác câu hỏi trên, v́ kỹ thuật Tây phương vẫn c̣n đang ở trong thời kỳ phát triển hùng mạnh và các quốc gia ngoài Tây phương vẫn c̣n đang nỗ lực chế ngự các kỹ thuật đó cho kỳ được.

    Chúng ta chỉ có thể có hai nhận xét.

    Từ khi nước Anh mở màn cho công cuộc phát triển dân tộc đến nay, trong xă hội Tây phương nhiều quốc gia đă thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật của ḿnh. Sau Anh, nước Đức, nước Pháp, nước Mỹ, nước Ư và nhiều quốc gia nhỏ ở Bắc Âu, Tây Âu và Đông Âu đều lần lượt thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật. Các thuộc địa di dân của Tây phương như Úc châu, Tây Tây Lan và Nam Phi cũng có thể kể vào số các quốc gia trên. Trong tất cả các quốc gia trên, không có một quốc gia nào đă cần đến phương pháp độc tài đảng trị để thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật của ḿnh.

    Ngoài Tây phương, nước Nhật, nước Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đă thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật. Ấn Độ và Trung Hoa đang dồn nỗ lực vào công cuộc phát triển. Nghĩa là, ngoài Tây phương, nếu có quốc gia đă thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật bằng phương pháp độc tài đảng trị như Nga, th́ cũng có những quốc gia như Nhật đă thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật đến một tŕnh độ không kém, bằng một phương pháp không phải là phương pháp độc tài đảng trị.

    Như thế th́, trong xă hội Tây phương, không có một công cuộc phát triển kỹ thuật nào đă được thực hiện bằng phương pháp độc tài đảng trị. Ngoài xă hội tây phương, phương pháp độc tài đảng trị không giữ độc quyền thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật.

    Riêng đối với Việt Nam chúng ta, ngoài những sự kiện phân tích trên đây, chúng ta đă thấy rằng hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của chúng ta không cho phép chúng ta áp dung một phương pháp độc tài đảng trị trong công cuộc phát triển của chúng ta.

    Thăng bằng động tiến.


    Trong căn bản, chấp nhận áp dụng phương pháp độc tài đảng trị là đă lựa chọn con đường dễ nhất, giữa hai con đường. Việc lănh đạo một tập thể cũng phức tạp như là đời sống. Nếu đời sống nào cũng là một thăng bằng động tiến giữa lực lượng phá hoại và lực lượng kiến thiết, hay là một sự ḥa hợp giữa hai khí âm và dương, th́ vũ trụ cũng là một thăng bằng động tiến giữa những lực lượng có những ảnh hưởng trái ngược và chống đối nhau. Luật thăng bằng động tiến là một luật thiên nhiên của vũ trụ, áp dụng cho các hiện tượng trong thế giới minh mông và bao la của các tinh tú, cũng như cho các hiện tượng thiếu cực, và vô h́nh của các nguyên tử. Đời sống của nhân loại, trong mọi lĩnh vực và trong mọi giới hạn, đều do luật thăng bằng động tiên chi phối. V́ thế cho nên, sống hợp với vũ trụ là sống theo luật thăng bằng động tiến, nghĩa là trong mọi trường hợp, trước tiên, t́m cho được hai đối tượng nào phải chịu luật thăng bằng động tiến và sau đó con đường sống là nuôi dưỡng và phát triển sự thăng bằng đă t́m thấy. Ngược lại, con đường chết, không hợp với vũ trụ là phá hủy sự thăng bằng đó.

    Việc lănh đạo một tập thể là việc giữ thăng bằng giữa những khối của tập thể, bởi v́ quyền lợi của mỗi khối khác nhau, là việc giữ thăng bằng giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn của đời sống của các phần tử trong tập thể. Là việc giữ thăng bằng giữa sinh lực bành trướng của nội bộ và áp lực bên ngoài đưa vào. Nếu chúng ta lại nhớ rằng các thăng bằng nói trên không phải là thứ thăng bằng chết, thăng bằng tỉnh chỉ, mà là một thứ thăng bằng sống, thăng bằng động tiến, th́ chúng ta nhận thức rằng lúc nào người lănh đạo cũng phải hết sức linh động, để mỗi lúc, thay thế một trạng thái thăng bằng đă bị phá vỡ, bằng một trạng thái thăng bằng mới thích nghi với sự biến chuyển của t́nh thế. Và tất cả công tác trên lại phải được thi hành trong khuôn khổ một chương tŕnh đă hoạch định, và với một mục đích bất biến.

    Chúng ta có thể h́nh dung được một cách cụ thể công việc của người lănh đạo bằng h́nh ảnh rất thông thường của người cỡi xe đạp. Người cỡi xe đạp lúc nào cũng phải dời đổi vị trí của trọng tâm của toàn bộ hệ thống người và xe đạp, để duy tŕ một thăng bằng luôn luôn thay đổi tùy theo t́nh trạng của con đường. Sự thăng bằng của người cỡi xe đạp giữ được dễ dàng khi nào xe đạp tiến tơi. Người cỡi xe đạp là h́nh ảnh cụ thể rất trung thành của một trạng thái thăng bằng động tiến. Lúc nào xe đạp tiến là thăng bằng c̣n giữ được. Xe đạp ngừng, thăng bằng mất. Có tiến tới mới có thăng bằng, có thăng bằng mới có tiến. Đó là căn bản của một trạng thái thăng bằng động tiến.

    V́ những lư do trên mà chọn phương pháp độc tài đảng trị để lănh đạo, là đương nhiên không thừa nhận sự cần thiết phải duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến, giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn của đời sống của những phần tử của tập thể. Chọn như thế có nghĩa là, thay v́ cố gắng giữ thăng bằng giữa hai lực lượng tương phản, đă ngă hẳn về một lực lượng. Sự giữ thăng bằng động tiến bao giờ cũng khó hơn sự tự buông cho ngă về với một lực lượng.

    Cũng như giữ cho xe đạp vững và tiến tới bao giờ cũng khó hơn để cho xe đạp ngă hẳn về một bên và đứng lại. V́ vậy mà chọn phương pháp lănh đạo độc tài đảng trị với hy vọng thỏa măn nhu cầu dài hạn của tập thể bằng cách bóp nghẹt nhu cầu ngắn hạn của nhân dân là chọn một con đường dễ, sánh với con đường, trong đó lúc nào cũng phải giữ một thăng bằng động tiến giữa hai nhu cầu nói trên.

    Và đương nhiên con đường dễ không phải lúc nào cũng là con đường sống. Riêng hoàn cảnh của Việt Nam, như chúng ta đă thấy, con đường sống không phải là con đường dễ.

    Lư luận trên đây lại cho chúng ta thấy rơ rằng khuôn khổ chính trị trong đó việc sử dụng cái vốn nhân lực và tài nguyên rất đỗi quan trọng. V́ vậy sau này chúng ta sẽ trở lại vấn đề này một lần nữa một cách chi tiết hơn.

    Nhược điểm một: dân số ít.

    Cái vốn nhân lực của chúng ta cũng là đáng kể. Theo các con số đáng tin cậy nhất, miền Bắc hiện nay có 17 triệu dân và miền Nam 14 triệu. Hơn ba chục triệu dân là xấp sỉ dân số của Nhật lúc bắt đầu Tây phương hóa. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ 19, khi Nhật Bản mở cửa đón tiếp văn minh Tây phương, các lực lượng kinh tế trên thế giới, ví dụ, Anh, Pháp hay Đức đều có một dân số tương đương. Ngày nay t́nh thế đă khác. Sự nghiên cứu những phương pháp sản xuất kỹ thuật khả dĩ sinh lợi nhiều nhất, đồng thời với những kỹ thuật sản xuất càng ngày càng tinh vi, đă dẫn dắt đến việc tập trung các cơ sở kỹ nghệ lại thành những phương tiện sản xuất vĩ đại. Đồng thời, những khối kinh tế thích nghi với những phương tiện trên cũng bành trướng theo cùng một nhịp. Ngày nay những khối kinh tế kỹ nghệ sống mạnh được nhờ sản xuất nhiều và tiêu thụ nhiều phải là những khối to lớn như Mỹ, khối Nga hay khối Trung Cộng đang h́nh thành. Sự thật này hiển nhiên cho đến đỗi, ngay các khối kinh tế kỹ nghệ Tây Âu khác, đều đến một tŕnh độ phát triển đáng kính, muốn tồn tại cũng đang phải nỗ lực hợp nhất lại thành một khối một để đương đầu với các khối kinh tế khác trên thế giới.

    Trên đây lại là một sự kiện chỉ cho chúng ta thấy một lần nữa, tai hại của sự lỡ cơ hội của chúng ta, bởi v́ điều kiện phát triển lúc bấy giờ ít khắc nghiệt hơn này nay. Và nếu chúng ta lại lỡ cơ hội lần thứ hai này nữa th́ không cần phải nói, điều kiện phát triển sau này lại c̣n khắc nghiệt hơn nữa.

    Nhất là nếu Trung Cộng thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc của họ ngay trong cơ hội này, điều mà phần đông đều cho là rất có thể.

    Nhược điếm hai: thiếu tính khí

    Bản tính của người Việt Nam lại cần cù và chịu khó, và bẩm chất rất là thông minh. Sự khiếm khuyết về tính khí không phải là một trở lực bởi v́ đó là một đức tính mà giáo dục có thể đào tạo được, trong khi khiếu thông minh là một thiên tính. Sự khiếm khuyết về tính khí do nhiều nguyên nhân lịch sử gây ra, trong số đó có những yếu tố mà chúng ta đă nhắc đến trong đoạn trên đây về vấn đề Nam tiến của dân tộc.

    Ngoài ra, t́nh h́nh rối loạn ở nội bộ trong mấy thế kỷ liền là một trở lực vô cùng to tát cho sự phát triển của tính khí. Tiếp theo đó sự thống trị của Pháp, làm tan ră xă hội Việt Nam, càng thúc đẩy sự tiêu diệt tính khí của người Việt Nam. Bởi v́ tính khí xây dựng, trước hết, trên căn bản của một sự tin tưởng mănh liệt vào các giá trị tiêu chuẩn của xă hội. Các giá trị tiêu chuẩn bị mất, th́ tính khí cũng không c̣n.

    Trong đời sống của một tập thế, tính khí của mỗi cá nhân cần thiết cho tập thể hơn là các đức tính khác về lư trí kể cả bẩm chất thông minh. Nhưng chỉ có lối sống tập thể mới phát huy được tính khí, v́ thế cho nên, các môn thể thao tập thể đóng góp rất nhiều vào công cuộc đào tạo tính khí.

    Chúng ta càng nhận thấy sự cần thiết của tính khí đối với tập thể hơn cả các đức tính khác, khi chúng ta biết rằng các sử gia đều công nhận sự thành công của người Anh trong lịch sử là nhờ tính khí mà nền giáo dục đă hun đúc cho họ được đến một cao độ hiếm có, và được phổ cập rộng răi trong đại chúng.

    V́ thế cho nên, vấn để đào tạo tính khí là một nhiệm vụ vô cùng khẩn yếu cho công cuộc giáo dục của chúng ta lúc này. Trong công cuộc Tây phương hóa, sự thâu thập các kiến thức của văn minh Tây phương là một điểm quan trọng như thế nào chúng ta đă biết. Nếu phải cần một mức để so sánh, chúng ta có thể nói rằng nhiệm vụ đào tạo tính khí cho nhân dân lại c̣n quan trọng hơn nhiệm vụ truyền bá những kiến thức mới của Tây phương.

    Tuy nhiên, chúng ta không nên quên rằng một nhược điểm chính của cái vốn nhân lực chúng ta là sự thiếu kỹ thuật trong mọi lĩnh vực. Sở dĩ vấn đề trang bị về kỹ thuật không được đặc biệt đề cập đến trong đoạn này, là v́ công cuộc Tây phương hóa đương nhiên gồm sự trang bị về kỹ thuật đối với cái vốn nhân lực của chúng ta.

    Nhược điểm ba: vô tổ chức


    Nhược điểm thứ ba của cái vốn nhân lực của chúng ta là sự vô tổ chức.

    Như chúng ta đă thấy, ở trên, trong đoạn nói về hậu quả của cuộc Nam tiến của chúng ta, nhân dân Việt Nam, nhất là ở Nam miền Trung và miền Nam, thiếu tinh thần sống tập thể, bởi v́ tổ chức hạ tầng của chúng ta không có. Đó là một nhược điểm vô cùng tai hại bởi v́ tập thể quốc gia cần đ̣i hỏi ở người dân một tinh thần tập thể mà không ai hun đúc cho họ trong mấy thế kỷ.

    Chúng ta không bàn đến sự tổ chức quần chúng chặt chẽ, như một tổ chức quân đội, theo lối Cộng Sản. Mục đích của Cộng Sản vượt xa sự đưa quần chúng vào khuôn khổ một lối sống tập thể, bởi v́ Cộng Sản nhắm trước tiên mục tiêu chặt đứt hết dây liên hệ của người dân, trên các lĩnh vực gia đ́nh, xă hội và tôn giáo, thay thế vào đó bằng những dây liên hệ duy nhất của đảng, để biến người dân thành một bộ phận hoàn toàn dễ điều khiển của một bộ máy chung mà họ là những người sử dụng.

    Không nói chi đến h́nh thức tổ chức cực đoan đó, ngay đến h́nh thức tổ chức tôn trọng tự do cá nhân đến đỗi, nhiều người quen gọi nó là tự do phóng túng, của nhiều quốc gia Tây phương, chúng ta cũng không có. Ngoài một hệ thống hành chánh, thời kỳ thống trị của đế quốc Pháp đă để lại cho chúng ta một xă hội hoàn toàn vô tổ chức. Chính cái tổ chức, có vẻ chặt chẽ, của các làng mạc của chúng ta ở miền Bắc cũng bị lung lay đến tận gốc rễ. Ngoài tổ chức gia đ́nh ra, người dân Việt Nam, lúc bấy giờ, không c̣n biết một tổ chức xă hội hay chức nghiệp nào nữa. Song song với một xă hội vô tổ chức và rời rạc, một hệ thống hành chánh chuyên phục vụ quyền lợi của kẻ thống trị. Đó là một phác họa thô sơ nhưng xác đáng của xă hội chúng ta.

    Trong hoàn cảnh vô tổ chức như vậy, không có một công tác ǵ của tập thể có thể thực hiện được. Nếu ngày nay, chúng ta bắt tay vào một công cuộc vĩ đại, như công cuộc Tây phương hóa để phát triển dân tộc, chắc chắn chúng ta không thể làm ǵ được với t́nh trạng vô tổ chức đó. Và công việc đầu tiên mà chúng ta phải làm trước khi bắt tay vào công cuộc Tây phương hóa là tổ chức cái vốn nhân lực của chúng ta

    Tổ chức quần chúng.

    Vấn đề tổ chức quần chúng quan trọng đến mức quyết định sự thành công hay thất bại của chúng ta sau này.

    Bất cứ trong xă hội nào, Tự Do hay Cộng Sản, các tổ chức quần chúng đều có, và đương nhiên, đóng vai tṛ trung gian giữa chính quyền và các cá nhân. Không có tổ chức quần chúng, chính quyền không đi tới với nhân dân được.

    Không có tố chức quần chúng, nhân dân không làm sao bày tỏ ư kiến cho chính quyền. Các tổ chức quần chúng c̣n là những yếu tố quân b́nh giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn của các phần tử trong tập thể. Các tổ chức quần chúng ở xă hội Tự Do hay Cộng Sản đều có một vai tṛ như nhau, chỉ khác một điều là ở xă hội Tự Do các tổ chức quần chúng do nhân dân tổ chức và điều khiển, với sự kiểm soát của chính quyền, c̣n ở trong xă hội Cộng Sản các tổ chức quần chúng đều do chính quyền tổ chức và điều khiển.

    Trong trường hợp của chúng ta, trong khi quần chúng của chúng ta c̣n quen lối sống rời rạc và chưa có ư thức tập thể, sáng kiến hợp thành tổ chức chắc chắn không thể phát sinh từ trong nhân dân. Và kinh nghiệm tổ chức và điều khiển cũng không làm sao dồi dào được. Do đó, sự hướng dẫn của chính quyền rất cần thiết trong lúc đầu.

    Chúng ta cần ư thức rơ rằng, sự hướng đẫn tổ chức quần chúng, như chúng ta quan niệm, không thể là một sự xâm phạm tự do cá nhân. Trong một tập thể, phải có sự thăng bằng động tiến giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn của các phần tử của tập thể. Nếu xă hội Cộng Sản là một trạng thái, trong đó nhu cầu của cá nhân hoàn toàn bị hy sinh cho nhu cầu của tập thể, th́ trong xă hội chúng ta hiện nay, nhu cầu của tập thể hoàn toàn bị hy sinh cho nhu cầu của một số ít cá nhân. Trong hai trường hợp sự thăng bằng động tiến đều bị đổ vỡ, cho nên xă hội chúng ta hiện nay không tiến được, mà xă hội Cộng Sản tiến một cách miễn cưỡng.

    Ngoài ra, sự hướng dẫn của chúng ta không thể xem là một sự xâm phạm tự do cá nhân được. Bởi v́ mục đích của chúng ta, khuyến khích và hướng dẫn các tổ chức quần chúng, là đặt cho mỗi cá nhân thêm nhiều dây liên hệ xă hội, nghề nghiệp, văn hóa, kinh tế, nhờ đó mà quyền lợi của cá nhân được bảo đảm hơn từ trước tới nay, khi cá nhân chỉ có những sợi dây liên hệ gia đ́nh và quen thuộc. Trong khi mục đích của Cộng Sản là chặt hết các dây liên hệ và thay thế vào đó bằng dây liên hệ duy nhất giữa cá nhân và Đảng.



    Còn tiếp

  6. #26
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo


    Tính cách thiết yếu của các tổ chức quần chúng.

    Chúng ta cần phải nhấn mạnh đến tính cách cần thiết của tổ chức quần chúng. Trong một t́nh thế b́nh thường, các tổ chức quần chúng đă là những bộ phận thiết yếu cho sự điều ḥa đời sống của một quốc gia. Không có tổ chức quần chúng huyết mạch của quốc gia không chạy được từ trung ương xuống hạ tầng,và không trở về được từ hạ tầng đến trung ương. Nguồn sống bị chặn nghẹt.
    Trong những giai đoạn quyết định của một cộng đồng sự cần thiết của tổ chức quần chúng cho tập thể quốc gia lại tăng thêm bội phần. Không có tổ chức quần chúng việc lănh đạo quốc gia không làm sao thực hiện được. Nhân dân không biết hướng mà đi và người lănh đạo không làm sao hướng dẫn quần chúng được.
    Xưa kia, trong xă hội Việt Nam, các làng mạc tự trị là những tổ chức quần chúng có tính cách xă hội. Bộ máy hành chánh của triều đ́nh bao trùm lên trên các tổ chức quần chúng đó. Trong các vùng của lănh thổ Việt Nam, nơi nào mà tổ chức làng mạc đă lỏng lẻo, như phía Nam miền Trung và miền Nam, th́ nơi đó, tập thể quốc gia mất giá trị và biện pháp hành chánh mất hiệu quả. Như thế cũng đủ cho chúng ta nhận thấy tính cách cần thiết của các tổ chức quần chúng và sự vô hiệu lực, đối với quốc gia, của bộ máy hành chánh nếu không có tổ chức quần chúng.
    Sở dĩ chúng ta mất ư thức quần chúng và không quan niệm được tính cách cần thiết của sự tổ chức quần chúng trong đời sống của quốc gia, v́ trong gần một trăm năm, chúng ta đă sống trong chế độ thống trị của đế quốc, trong đó tổ chức quần chúng bị tuyệt đối cấm đoán. Đế quốc thống trị dân tộc chúng ta chớ không lănh đạo dân tộc chúng ta. Thực dân khai thác dân tộc bị trị, và không cần biết phải dẫn dắt dân tộc bị trị đi đường nào và đến mục đích ǵ. V́ thế cho nên, như chúng ta đă thấy, cuộc Tây phương hóa của chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc hoàn toàn không mục đích và không đường hướng dẫn. Chủ định đă như vậy, th́ nhà cầm quyền Pháp cần ǵ đến tổ chức quần chúng. Ngược lại họ cần phải cấm đoán mọi h́nh thức tổ chức quần chúng để giữ cho nhân dân sống rời rạc và không đoàn tụ được. Trong điều kiện đó, một bộ máy hành chánh, chuyên lo phục vụ quyền lợi cho kẻ thống trị, đủ để cho nhà cầm quyền Pháp cai trị xứ này. Nhiệm vụ của bộ máy hành chánh của Pháp, đối với dân chúng Việt Nam chỉ là bảo vệ cuộc trị an, để cho các quyền lợi kinh tế của Pháp được bảo đảm. V́ vậy cho nên, các tổ chức quần chúng đối với người Pháp, chẳng những không cần thiết lại c̣n là những tổ chức phá rối trị an.
    Như thế chúng ta đă thấy rơ v́ sao, dưới thời Pháp thuộc các tổ chức quần chúng không thể sinh sống được. Những người quen thuộc với nề nếp cai trị của Pháp, không quan niệm được rằng sự lănh đạo của một quốc gia không phải là giữ cho được một cuộc trị an. V́ nhiệm vụ của bộ máy lănh đạo quốc gia của chúng ta ngày nay nhất định không phải là nhiệm vụ của bộ máy cai trị của Pháp xưa kia. Chúng ta cần giải quyết những vấn đề của dân tộc mà người Pháp không cần biết đến. Chính v́ không nhận định được sự kiện này mà tất cả các chính phủ Việt Nam, do đế quốc Pháp thành lập, hoặc do đế quốc Pháp chi phối đều thất bại.
    Họ bị thất bại v́ họ tiếp tục công cuộc trị an của người Pháp, trong khi đó vấn đề chính là lănh đạo quốc gia, nghĩa là phải giải quyết các vấn đề của dân tộc trong giai đoạn này.
    Trong khi những chính phủ ấy lo công cuộc trị an, th́ nhân dân sẽ theo những người nào giải quyết được các vấn đề của dân tộc.
    Tóm lại, nếu ngày nay chúng ta sử dụng được một bộ máy hành chánh hoàn bị như bộ máy hành chánh của người Pháp trước đây, chúng ta cũng không giải quyết được vấn đề Việt Nam hiện nay, bởi v́ vấn đề hiện nay không phải là một vấn đề hành chánh và sự trị an, mà là một vấn đề to tát và quan hệ hơn nhiều: Vấn đề lănh đạo một dân tộc trong một giai đoạn quyết liệt. Nếu chúng ta không giải quyết được, th́ người khác sẽ thay chúng ta mà giải quyết.

    Tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng

    Các tổ chức quần chúng có phải là những tổ chức chính trị không?
    Tổ chức chính trị là tổ chức của một đảng chính trị tạo ra để qui tụ những người cùng một xu hướng chính trị và sẵn sàng góp sức tranh đấu cho xu hướng chính trị đó.
    Tổ chức quần chúng là một tổ chức gồm những người làm cùng một nghề, hoặc cùng làm việc chung tại một vị trí, hoặc những người cùng đeo đuổi một mục đích xă hội, văn hóa hay thể thao, hoặc những người cùng một quyền lợi kinh tế.
    Như vậy, tổ chức quần chúng không phải là một tổ chức chính trị. Tuy nhiên, một tổ chức quần chúng gồm những công dân của quốc gia, v́ thế, lúc có cơ hội, một tổ chức quần chúng vẫn có thể có thái độ chính trị và ảnh hưởngchính trị. Một tổ chức quần chúng không phải là một tổ chức chính trị. Ảnh hưởng chính trị của một tổ chức quần chúng quan trọng hay không quan trọng tùy thuộc sự tổ chức quần chúng có hàng ngũ chặt chẽ hay là không có và rộng lớn hay không. V́ ảnh hưởng chính trị đương nhiên phải có của các tổ chức quần chúng, mà có sự lầm lẫn vô t́nh hay cố ư giữa các tổ chức quần chúng và tổ chức chính tŕ. Sự lầm lẫn vô t́nh của người chỉ nh́n thấy ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng. Sự lầm lẫn cố ư của những người lợi dụng các tổ chức quần chúng để làm hậu thuẫn chính trị.
    Nhưng các tổ chức quần chúng, chỉ đóng được đúng vai tṛ chính của nó trong guồng máy quốc gia, khi nào giữ được bản chất không chính trị mặc dù vẫn có ảnh hưởng chính trị đương nhiên không thể tránh được.
    Trong t́nh trạng chiến tranh ngày nay, các vấn đề tổ chức quần chúng lại c̣n trở nên quan trọng hơn nữa. Bên nào tổ chức được quần chúng, bên đó sẽ thực hiện được chương tŕnh phát triển của ḿnh và sẽ nắm thắng lợi.

    Vốn về tài nguyên.

    Vốn về tài nguyên của chúng ta không thể nói là phong phú bởi v́ nhiều nhiên liệu quan trọng về kinh tế hay quốc pḥng chưa t́m thấy ở lănh thổ Việt Nam. Những nhiên liệu thuộc về năng lực thiết yếu cho kỹ nghệ như dầu hỏa và uranium chúng ta chưa có, than đá rất nhiều và thủy lực có thể khai thác được. Nhiều quặng mỏ ở miền Bắc đă t́m thấy hoặc đă khai thác và khoáng mạch chắc chắn c̣n nhiều trong dăy Trường Sơn nhưng sự truy tầm chưa được tổ chức có phương pháp.
    Gần năm ngàn cây số bờ biển, sông Cửu Long, sông Đồng Nai và hệ thống kinh rạch chi chít ở miền Nam chứa đựng một nguồn thủy lợi dồi dào chưa được khai thác đúng mức. Đồng bằng sông Nhị Hà và sông Cửu Long là những vùng đất ph́ nhiêu. Một kỹ thuật canh tác hợp lư có thể tăng gia mức sản xuất ít nhất lên đến hai trăm phần trăm. Những cánh đồng minh mông vùng cao nguyên có thể chỉnh đốn thành những vùng chăn nuôi đầy triển vọng.
    Các rừng, phía Bắc miền Bắc, dọc theo dăy Trường Sơn và các khu rừng già phía Đông miền Nam và các khu rừng ngập nước phía Tây tàng trữ những vốn thiên sản dồi dào, nếu được giữ ǵn và tu bổ.
    Các vùng đất đỏ và đất xám miền Nam và Cao nguyên miền Trung là những vùng đất ph́ nhiêu để trồng những loại cây kỹ nghệ. Một phần nhỏ đă được khai phá trồng cao su và vài loại khác. Nhưng phần lớn vẫn là cái vốn chưa xài tới.
    Bản kê khai sơ lược trên đây chỉ cho chúng ta thấy cái vốn to tát về tài nguyên c̣n đang nằm ngủ trong tay chúng ta.
    Để khai thác cái vốn đó, chúng ta chỉ có một cái vốn nhân lực gồm tám mươi lăm phần trăm là nông dân hoặc làm những nghề không rơ rệt, năm phần trăm là quân nhân, tám phần trăm là công nhân.
    Mức sống trung b́nh của số người làm thành cái vốn nhân lực trên đây rất thấp. Mức lợi tức ước lượng trung b́nh cho mỗi người, theo các tài liệu nghiên cứu đáng tin cậy nhất, lối 60 Mỹ kim một năm, lối 5.000 bạc Việt Nam. Để có thể so sánh chúng ta nên biết rằng lợi tức trung b́nh hằng năm của mỗi người dân Ân Độ là 57 Mỹ kim, Trung Hoa là 27 Mỹ kim, Nhật Bản là 100 Mỹ kim. Chúng ta lại biết rằng những quốc gia nào có một mức lợi trung b́nh cho mỗi người dân dưới 100 Mỹ kim kể là những quốc gia chưa có mở mang. Nếu mức lợi tức trung b́nh lên được 100 đến 300 Mỹ kim, th́ quốc gia được kể vào hạng kém mở mang. Từ 300 đến 500 Mỹ kim th́ kể là khá mở mang. Từ 500 đến 800 kể là đă mở mang và trên 800 th́ kể là mở mang đến cao độ. Trong các nước kể là mở mang đến cao độ có những nước Mỹ, Anh, Thụy Sĩ và một vài nước phía Bắc Âu châu.
    Những con số trên đây cho chúng ta thấy rằng mức sống của dân chúng Việt Nam rất là thấp. V́ vậy cho nên, xu hướng tự nhiên của người lănh đạo là khai thác cho đến mức cái vốn tài nguyên của chúng ta để nâng cao mức sống của nhân dân.
    Nhưng vấn đề phát triển dân tộc không thể theo một chiều hướng duy nhất thỏa măn nhu cầu ngắn hạn của các phần tử của tập thể. Chính trong vấn đề phát triển kinh tế này, hơn vấn đề nào hết, bởi v́ nó sẽ liên quan trực tiếp và nặng nề đến đời sống thường ngày của nhân dân, luật thăng bằng động tiến cần phải được tôn trọng. Điều cốt yếu là thực hiện được công cuộc phát triển mà không gây những thống khổ cho toàn dân trong nhiều thế hệ. Riêng về trường hợp của Việt Nam, v́ vị trí địa dư, v́ hoàn cảnh lịch sử và v́ mục tiêu của công cuộc phát triển mà chúng ta sẽ bàn đến với chi tiết ở đoạn sau, công cuộc phát triển có thể thực hiện được trong điều kiện thăng bằng kể trên.

    Nhu cầu dài hạn của tập thể.

    Vậy nhu cầu dài hạn của tập thể đ̣i hỏi những ǵ?
    Trong công cuộc phát triển dân tộc, khai triển kinh tế là một phần chính yếu. Và trong công cuộc khai triển kinh tế trang bị máy móc kỹ nghệ cho xứ sở là phần chính yếu.
    Sự thực hiện công cuộc trang bị kỹ nghệ của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong xă hội Tây phương cũng như ngoài xă hội Tây phương, kể cả nước Nga và nước Tàu, đều phải nhờ viện trợ ngoại quốc. Viện trợ kỹ thuật là một sự kiện đương nhiên, bởi v́ bước đầu của công cuộc phát triển là thâu thập kỹ thuật. Nhưng sự viện trợ tư bản cũng thiết yếu ngang hàng hay hơn sự viện trợ kỹ thuật. Sự viện trợ tư bản ngoại quốc có thể trực tiếp hay gián tiếp, dưới h́nh thức quà biếu hay dưới h́nh thức cho vay. Và tùy trường hợp và tùy cơ hội, khối viện trợ tư bản ngoại quốc nhiều hay ít.
    Nhưng trong trường hợp nào, viện trợ tư bản ngoại quốc cũng đóng vai tṛ trụ cốt. Và chưa có một trường hợp phát triển nào đă thực hiện được chỉ bằng sự nỗ lực thắt lưng buộc bụng của dân chúng trong quốc gia t́m phát triển.
    Tuy nhiên có những cơ hội thuận lợi cho các quốc gia cần trang bị kỹ nghệ, cũng như có những hoàn cảnh nghiêm khắc hơn. Trong trường hợp trên khối viện trợ tư bản ngoại quốc lên cao và đài thọ một tỷ lệ quan trọng các nhu cầu trang bị kỹ nghệ. Phần nhỏ c̣n lại sẽ do lợi tức của quốc gia liên hệ gánh chịu. Trong hoàn cảnh thuận lợi này, công cuộc trang bị kỹ nghệ không trở thành một cái gánh nặng gian lao và đau khổ cho dân chúng.
    Trong trường hợp thứ hai, khối viện trợ tư bản ngoại quốc không được dồi dào, và chỉ đài thọ được một tỷ lệ nhỏ của nhu cầu trang bị kỹ nghệ. Phần lớn c̣n lại phải do lợi tức của quốc gia liên hệ gánh chịu. Và trong hoàn cảnh nghiêm khắc đó, công cuộc trang bị kỹ nghệ trở thành một cái gánh đau khổ nặng nề cho dân chúng.
    Trong trường hợp phát triển thứ nhất có thể là trường hợp của một quốc gia nhỏ như quốc gia Việt Nam. Và trường hợp thứ hai là trường hợp đương nhiên của các khối dân to tát như khối dân Trung Cộng v́ hai lư do dưới đây.
    Sự phát triển của một nước nhỏ như quốc gia Việt Nam, không thể trở thành một sự đe dọa cho ai cả, và do đó, sẽ không tạo một phản ứng thù nghịch nào có thể gây trở lực cho công cuộc phát triển của chúng ta. Và một sự lănh đạo sáng suốt đủ tạo hoàn cảnh cho khối viện trợ tư bản ngoại quốc lên đến mức độ khả dĩ bảo đảm cho một công cuộc trang bị kỹ nghệ không đau khổ cho dân chúng. Trong khi đó, sự phát triển của một khối dân, như khối dân Trung Cộng, tự nó là một sự đe dọa cho tất cả thế giới, dầu mà các nhà lănh đạo Trung Cộng không có những tham vọng bành trướng như hiện nay. Và đương nhiên, những phản ứng thù nghịch sinh rạ khắp nơi và dựng lên vô số trở lực cho công cuộc phát triển. Và một sự lănh đạo sáng suốt nhiều lắm cũng chỉ làm cho thuyên giảm được các trở lực trên, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ tạo được hoàn cảnh để cho viện trợ tư bản ngoại quốc tăng gia. Và công cuộc trang bị kỹ nghệ nhất định sẽ vô cùng đau khổ cho toàn dân.
    Giả sử mà, sự đe dọa cho cả thế giới của sự phát triển của một khối dân số to tát như khối Trung Cộng, không có thật sự, th́ nhu cầu phát triển của khối đó cũng sẽ là vô bờ bến, không có viện trợ tư bản ngoại quốc nào thỏa măn cho nổi.
    Trong khi đó, nhu cầu phát triển của một quốc gia nhỏ, như quốc gia Việt Nam, trong hiện t́nh quốc tế thế giới, có thể do viện trợ tư bản ngoại quốc thỏa măn đến một tỷ lệ quan trọng.
    Hoàn cảnh phát triển của Việt Nam và của Trung Hoa khác nhau là như vậy. Trách nhiệm của người lănh đạo, là trong mọi công cuộc của dân tộc, t́m và tạo những yếu tố thuận lợi, không dẫn dắt đến sự tiêu hao sinh lực của cộng đồng. Trong cộng cuộc phát triển dân tộc, sự tiết kiệm sinh lực của cộng đồng v́ vận mạng của các thế hệ tương lai, lại trở thành khẩn thiết hơn nữa.
    Như thế th́, việc chấp nhận một khuôn khổ phát triển tiền chế theo lối Cộng Sản, bất kể hoàn cảnh đặc biệt của chúng ta, là một hành động thiếu sáng suốt. Và sự gắn liền vận mạng của Việt Nạm với vận mạng của Trung Cộng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, là một hành động di hại cho dân tộc.

    Đóng góp trang bị kỹ nghệ.

    Các con số dưới đây giúp cho chúng ta ư thức được số lượng của phần đóng góp của lợi tức quốc gia vào công cuộc trang bị kỹ nghệ cho từng quốc gia.
    Nước Anh là nước đầu tiên trên thế giới đă thực hiện công cuộc kỹ nghệ hóa. Nghĩa là lúc bấy giờ, nước Anh không có cần phải đương đầu với một sự cạnh tranh nào cả mà cũng phải, trong mười năm, truất trong tức lợi quốc gia hằng năm một số là mười bảy phần trăm, 17%, để bỏ vào vốn trang bị kỹ nghệ. Như vậy trong mười năm đầu, và sau đó bách phân lần lần giảm xuống. Nghĩa là đại cương trong mười năm, mỗi năm mỗi người dân có làm ra được 100 đồng chỉ c̣n tiền được riêng cho ḿnh 83 đồng.
    Nếu Mỹ ngày nay trở nên một khối kinh tế mạnh nhất thế giới, lúc bắt đầu kỹ nghệ hóa, đă phải mỗi năm truất mười lăm phần trăm, 15%, lợi tức quốc gia để sung vào quỹ kỹ nghệ hóa.
    Trong trường hợp tương tự, nước Pháp đă phải bỏ vào đến mười ba, 13, phần trăm. Nước Đức đi sau, sự cạnh tranh bắt đầu gay cấn, nên đă phải đóng vào quỹ kỹ nghệ hóa đến hai chục phần trăm, 20%, lợi tức quốc gia trong những năm quyết liệt nhất.
    Thời gian kỹ nghệ hóa càng dài th́ gánh nặng nhân dân phải đóng góp chia ra nhiều năm, có thể nhẹ đi nhưng không làm sao tránh được. Thời gian kỹ nghệ hóa càng ngắn sự đóng góp của nhân dân dồn lại ít năm, lại càng nặng nề hơn và đ̣i hỏi nhiều hy sinh to tát hơn. Nhật Bản khi kỹ nghệ hóa, trong hai mươi bốn năm đầu từ 1890 đến 1914, mỗi năm phải đóng góp 10 phần trăm lợi tức quốc gia vào quỹ trang bị kỹ nghệ; và hai mươi năm sau đó từ năm 1914 đến 1936, mỗi năm 18 phần trăm của lợi tức quốc gia.
    Nước Nga, muốn đi mau đă bắt buộc nhân dân phải đóng góp một cách bách phân lên tới 25 phần trăm, trong thời gian từ 1927 đến 1932 của kế hoạch ngũ niên đầu tiên, và sau cùng sự đóng góp lên đến 27 phần trăm. Sự cùng khốn của dân chúng Nga Sô lên đến tột độ. Và chỉ có một chính sách độc tài khốc liệt của Staline mới giữ cho dân chúng không nổi loạn và đánh đổ chế độ Cộng sản. Và to lớn, và hùng mạnh như nước Nga mà suưt một chút nữa chế độ độc tài Cộng Sản đă bị sụp đổ v́ dân chúng oán ghét nên trong Đệ Nhị đại chiến đă hướng về kẻ xâm lăng, người Đức, như là một người giải phóng. Chỉ sự vụng về, và chính sách kỳ thị chủng tộc, của Đức Quốc Xă đă đánh thức ḷng công phẫn của dân chúng Nga đối với các nước Tây Âu và đă cứu chế độ Cộng Sản khỏi phải bị tiêu diệt. Và chính tổ quốc của Cộng Sản đă được cứu thoát khỏi ngoại xâm không phải v́ lư thuyết Cộng Sản mà v́ tinh thần dân tộc của nhân dân Nga. Sự kiện này hàm nhiều ư nghĩa.
    Sau cùng là Trung Hoa, đang thực hiện công cuộc kỹ nghệ hóa bằng cách cưỡng bách dân chúng đóng góp vào quỹ trang bị kỹ nghệ 16 phần trăm của lợi tức cho năm đầu của kế hoạch ngũ niên thứ nhất, năm sau 18 phần trăm, và năm sau nữa 22 phần trăm. Và năm 1956 bách phân đă lên đến 25 phần trăm và từ năm 1957 hơn một phần ba của lợi tức quốc gia đă phải bỏ vào quỹ trang bị kỹ nghệ. V́ thế, nếu chúng ta nhớ rằng lợi tức của người Trung Hoa thấp vào bậc nhất thế giới, chúng ta quan niệm được nỗi cùng khốn của dân Tàu trong lúc này. Một mặt nhân lực bị huy động và khai thác triệt để; một mặt lợi tức làm ra một trăm đồng, phải truất ra 33 đồng khỏi quỹ tiêu thụ, nghĩa là làm việc phải nhiều hơn và ăn uống phải ít hơn. V́ thế cho nên, nếu không có một bộ máy độc tài Đảng trị tuyệt đối vô nhân đạo, không làm sao mà giữ nổi hơn 700 triệu dân không nỗi loạn lật đổ chế độ Cộng Sản được.

    Đường lối phát triển.

    Bách phân lợi tức quốc gia đóng góp mỗi năm vào quỹ trang bị kỹ nghệ, cũng như thời gian đóng góp đối với mỗi quốc gia mỗi khác. Điều này chứng minh rằng, mặc dầu tất cả các quốc gia đă phát triển hay đương t́m phát triển, đều theo đuổi một mục đích giống nhau: trang bị kỹ nghệ; nhưng v́ điều kiện lịch sử, vị trí địa dư, và t́nh trạng xă hội lúc bắt đầu công cuộc phát triển, đều mang những tính chất riêng biệt cho từng quốc gia, cho nên hoàn cảnh phát triển, cũng như điều kiện phát triển không làm sao giống nhau được. V́ thế, không có đường lối phát triển nào, gồm chương tŕnh và phương pháp, đă tỏ ra có hiệu lực cho một quốc gia, và trong một giai đoạn, có thể xuất cảng sang một quốc gia khác, trong một giai đoạn khác.
    Mỗi quốc gia chỉ có thể phát triển theo một đường lối được quan niệm riêng cho quốc gia đó, ấn định bởi điều kiện lịch sử, vị trí địa dư, và t́nh trạng xă hội đặc biệt cho quốc gia. Tinh thần của sự phát triển, mục đích của sự phát triển, và những thực hiện kỹ thuật của công cuộc phát triển, đều giống nhau cho các quốc gia, nhưng chương tŕnh phát triển, phương pháp phát triển và những mục tiêu giai đoạn của công cuộc phát triển không thể giống nhau được.
    Nhiệm vụ của các nhà lănh đạo là t́m cho được các yếu tố quy định đường lối phát triển thích nghi với dân tộc, thay v́ thừa nhận làm của ḿnh, một đường lối đă được nghiên cứu và được chứng minh là có hiệu lực riêng cho quốc gia, nhưng phương pháp lẫn chương tŕnh đều không thích hợp cho chúng ta.
    Đường lối phát triển cho Trung Cộng, không thể là đường lối phát triển của Nga Sô. Phong trào nhân dân công xă, mà Nga Sô đă đả kích từ lúc bắt đầu, mặc dầu thất bại đau đớn, vẫn là một bằng chứng hùng biện cho nỗ lực của các nhà lănh đạo Trung Cộng để t́m đường lối phát triển đặc biệt thích nghi với nước Tàu.
    Và chúng ta c̣n nhớ, ngay trong giai đoạn tranh giành độc lập lúc nào các nhà lănh đạo Ấn Độ cũng đủ sáng suốt nh́n thấy thâm ư chiến lược của Nga Sô, nên không bị ma lực của thuyết Cộng Sản, trong thời kỳ cực thịnh lôi cuốn.
    Và ngày nay, công cuộc phát triển của Ấn Độ cũng theo một đường lối riêng biệt, đă được ân định bởi những điều kiện nội bộ của dân tộc Ấn.
    Chủ trương một đường lối phát triển riêng cho dân tộc không có nghĩa là phủ nhận những kinh nghiệm phát triển của các quốc gia đă đi trước và phủ nhận những điều tương đồng trong công cuộc phát triển giữa nhiều quốc gia. Trái lại chỉ có sự nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển, ở mọi nơi, mới tạo đủ điều kiện cho các nhà lănh đạo một quốc gia, nắm vững các nguyên tắc chi phối sự phát triển để quan niệm một đường lối phát triển cho dân tộc, thích nghi với hoàn cảnh đặc biệt, do những thực tế lịch sử ấn định.


    Còn tiếp

  7. #27
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo


    Mục tiêu kinh tế

    Hoàn cảnh phát triển của một quốc gia là toàn bộ các điều kiện ấn định bởi giai đoạn lịch sử, t́nh h́nh chính trị, tŕnh độ xă hội, vị trí địa dư và tài nguyên kinh tế của quốc gia đó. Và chỉ trong sự tôn trọng toàn bộ các điều kiện ấy, công cuộc phát triển mới có thể thực hiện được. Như thế th́ hoàn cảnh phát triển chi phối nghiêm khắc, đường lối phát triển, nghĩa là chương tŕnh phát triển và phương pháp vận dụng nhân lực để thực hiện chương tŕnh phát triển. Và trong các mục tiêu kinh tế cần phải thực hiện cho từng giai đoạn, cũng như trong những thời gian hạn định cho các mục tiêu, sẽ thể hiện một cách rơ ràng những bức bách khắc nghiệt của hoàn cảnh phát triển. Mục tiêu càng cao, sự đóng góp của nhân dân càng nặng, thời gian càng ngắn, sự gian lao của nhân dân càng sâu đậm.
    Trong trường hợp phát triển của Trung Cộng mà chúng ta đă đề cập đến, sự đóng góp của nhân dân, càng năm càng lên cao, để thực hiện những mục tiêu vĩ đại, hy vọng đáp ứng nhu cầu vô tận do một hoàn cảnh phát triển vô cùng khắc nghiệt đ̣i hỏi.
    Trước hết, công cuộc phát triển của một khối gần tám trăm triệu dân, tự nó đă mang những trở lực vật chất kinh khủng, bởi v́ khối phương tiện nhân lực và tư bản cần được vận dụng vô cùng to tát.
    Sau đó, sự phát triển của một khối người gần bằng một phần tư nhân loại, là một sự cạnh tranh ghê gớm và một sự đe dọa an ninh chưa thấy trong lịch sử, cho tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả Nga Sô, dù mà các nhà lănh đạo Trung Cộng không biểu lộ, một cách hiển nhiên như hiện nay, những tham vọng xâm lăng đáng sợ. Do đó, sự phát triển của Trung Cộng đương nhiên sẽ tạo phản ứng thù nghịch của nhiều cường quốc kể cả Nga Sô. Và những phản ứng này sẽ biến thành những trở lực không vượt qua được, cho công cuộc phát triển.
    Giả sử mà, sự phát triển của Trung Cộng không tạo ra những phản ứng thù nghịch; và dù có những thiện chí muốn trợ lực công cuộc phát triển ấy, th́ cũng không có khối viện trợ nào trên thế giới có thể thỏa măn đến một bách phân đáng kể, các nhu cầu phát triển của khối người gần tám trăm triệu dân.
    Các nhà lănh đạo Trung Cộng, cố nhiên, ư thức sung măn các điều kiện khủng khiếp của hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của nước Tàu. V́ vậy cho nên, để t́m giải pháp cho vấn đề phát triển dân tộc, mà đương nhiên họ xem là chính yếu, họ đă thi hành hai loại chính sách, từ ngày nắm chính quyền. Loại thứ nhất gồm các biện pháp nội bộ nhằm thúc đẩy công cuộc phát triển thật nhanh chóng để kịp thời ứng phó với các phản ứng thù nghịch của các cường quốc. Loại thứ hai gồm các biện pháp ngoại giao, để như nước Nga khi xưa, t́m đồng minh hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của dân tộc.
    Các biện pháp nội bộ của các nhà lănh đạo Trung Cộng chú trọng đến hai điểm. Đặt những mục tiêu kinh tế vĩ đại cho hai khu vực, quốc pḥng và trang bị kỹ nghệ sản xuất, và bóp nghẹt khu vực tiêu thụ. Áp dụng một phương pháp độc tài, tàn nhẫn đến tột độ để huy động đến mức tối đa cái vốn nhân lực vô tận của Tàu, để thay thế cái vốn tư bản mà họ nghèo nàn.
    Trong lĩnh vực ngoại giao, các nhà lănh đạo Trung Cộng đă và đang thi hành ba chiến dịch. Trong chiến dịch thứ nhất, họ đă t́m khai thác mâu thuẫn giữa Tây phương và Nga Sô khi mâu thuẫn này c̣n khai thác được, để mang tư bản và kỹ thuật vào phục vụ chương tŕnh phát triển. Khi kế hoạch thanh toán mâu thuẫn của Tây phương, mà chúng ta đă biết, đă đưa mâu thuẫn trên vào t́nh trạng không c̣n khai thác được nữa, th́ các nhà lănh đạo Trung Cộng mở một chiến dịch thứ nh́, vận động thay chân Nga Sô, với mục đích thành lập một mặt trận làm hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của Tàu. Tác dụng và giá trị của mặt trận Cộng Sản để bảo vệ công cuộc phát triển của dân tộc Tàu ngày nay do Trung Cộng chủ trương, cũng giống như tác dụng và giá trị của mặt trận Cộng Sản để bảo vệ công cuộc phát triển của dân tộc Nga trước đây, do Nga Sô chủ trương.
    Chiến dịch ngoại giao thứ ba mà các nhà lănh đạo Trung Cộng đang thực hiện là chương tŕnh viện trợ cho các nước nhỏ đang t́m phát triển. Họ đă trích một bách phân không đáng kể, trong cái khối nhu cầu vĩ đại của quốc gia, để thỏa măn những nhu cầu phân bộ và đương nhiên nhỏ nhặt của các quốc gia nhỏ đang t́m phát triển với mục đích biến các quốc nhỏ này thành những Đồng Minh quốc tế hậu thuẫn cho công cuộc phát triển riêng của nước Tàu.
    Và ngay chính sách biểu lộ tham vọng xâm lăng cũng là một hành động có tính toán qui về mục đích trước và trên hết của Trung Cộng hiện nay: công cuộc phát triển dân tộc. Các trường hợp chiếm đóng Tây Tạng và Tân Cương và chi phối Bắc Hàn và Bắc Việt là những trường hợp đặc biệt, bởi v́ các vùng đất đai nói trên thuộc vào những vùng thiết yêu cho sự phát triển của Trung Hoa. Các cuộc gây hấn về ranh giới với Ấn Độ, Miến Điện và Nga Sô, có tác dụng, vừa gây uy tín của Trung Cộng đối với các đồng minh trong mặt trận do Trung Cộng chủ trương, vừa duy tŕ sự căng thẳng cần thiết trong nội bộ để dễ huy động nhân lực.
    Mặc dầu tất cả các nỗ lực phi thường trên đây, nhưng v́ một hoàn cảnh phát triển vô cùng khắc nghiệt, Trung Cộng c̣n cách mục đích rất xa. Và sự cho nổ bom nguyên tử, với một mục đích tuyên truyền hiển nhiên, vẫn chưa phải là một bảo đảm thành công cho công cuộc phát triển của Trung Cộng. Sự thất bại đau đớn của phong trào Nhân Dân Công Xă, khiến cho các mục tiêu kinh tế đă ấn định, thay v́ nhảy vượt bậc, đă thụt lùi lại nhiều năm, chứng tỏ sự vội vàng của các nhà lănh đạo Trung Cộng đang lo sợ phản ứng thù nghịch không tránh được của các cường quốc, trong đó có cả Nga Sô.

    Trường hợp Việt Nam.

    Tất cả các điều kiện khốc liệt đă khiến cho hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng. trở thành vô cùng khắc nghiệt, đều không có trong các điều kiện chi phối hoàn cảnh phát triển của Việt Nam.
    Trước hết, sự phát triển của một khối vừa hơn ba chục triệu, một phần hai mươi lăm của khối Trung Cộng, sẽ không là một sự cạnh tranh và một sự đe dọa cho ai cả. V́ thế cho nên, trong hiện t́nh thế giới, công cuộc phát triển của chúng ta sẽ không tạo cho chúng ta những phản ứng thù nghịch.
    Nhu cầu phát triển của chúng ta rất ít so với nhu cầu phát triển của Trung Cộng. V́ thế cho nên các khối viện trợ trên thế giới có thể thỏa măn nhu cầu phát triển của chúng ta đến một bách phân đáng kể hoặc rất cao. Và chúng ta có thể tin rằng, nếu đường lối chính trị của chúng ta đủ sáng suốt, th́ trong hai mươi năm đă qua, khai thác cơ hội thứ nh́, mà chúng ta đă đề cập đến nhiều lần, và với tất cả các viện trợ do mâu thuẫn giữa Tây phương và Nga Sô tạo nên, chúng ta đă đạt đa số mục tiêu phát triển rồi.
    Sự phát triển của khối ba chục triệu dân của chúng ta, nếu ở ngoài ṿng hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của Trung Cộng, không cần thúc đẩy, cũng có thể thực hiện được nhanh chóng hơn bội phần sự phát triển của Trung Cộng.
    Trong các điều kiện đó, nếu đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết, th́ không có một lư do nào có thể binh vực được sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng. Chỉ có một sự lệ thuộc về lư thuyết, mà thật ra cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử dụng như là một phương tiện, mới có thể mù quáng hy sinh quyền lợi của dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của dân tộc Trung Hoa. Các nhà lănh đạo Trung Cộng ư thức sung măn tâm lư đó ngày nay, cũng như các nhà lănh đạo Nga Sô ư thức sung măn tâm lư đó trước đây. V́ vậy cho nên, Trung Cộng nỗ lực vận động thay chân Nga, phất cờ Chủ Nghĩa Xă Hội, khai thác lư thuyết Các-mác Lê-nin, qui tụ những người dễ bị ma lực cám dỗ, với mục đích cuối cùng là hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của Hán Tộc. Cuộc vận động này vang dội trong tất cả các Đảng Cộng Sản trên thế giới.
    Mặc dầu hoàn cảnh phát triển của Việt Nam khác biệt rất rơ rệt hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng ngày nay, và do đó lại cũng khác biệt rất rơ rệt hoàn cảnh phát triển của Nga Sô trước đây, các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt vẫn cố sức mang cái áo đường lối phát triển của Cộng Sản để tṛng vào cho Việt Nam. Cũng như xưa kia, nhiều nhà lănh đạo Việt Nam khác đă cố sức tṛng vào thân thể Việt Nam cái áo Tam Dân Chủ Nghĩa mà Tôn Văn đă gia công nghiên cứu may cắt cho dân tộc của ông.
    Sau tám trăm năm đè nặng lên đời sống của dân tộc tâm lư thuộc quốc đối với Trung Hoa, mặc dầu bị gián đoạn trong gần một thế kỷ, vẫn c̣n sinh lực tiềm tàng trong cân năo của các nhà lănh đạo của chúng ta, và khiến cho họ dễ quên tham vọng đất đai bất di bất dịch của Trung Hoa đối với Việt Nam.

    Lại tâm lư thuộc quốc

    Tâm lư thuộc quốc bắt nguồn từ hai sự kiện. Tương quan lănh thổ và dân số giữa hai quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc của Việt Nam đối với văn hóa Tàu là một lư do khác. Tương quan lănh thổ và dân số là hai điều kiện vật chất hiển nhiên khó thay đổi được. Tuy nhiên, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay, sự bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa không c̣n nằm trong khuôn khổ xưa nữa và không c̣n là một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc gia.
    Trên lĩnh vực văn hóa, một dân tộc lớn hay nhỏ, do sự góp phần nhiều hay ít của dân tộc ấy vào di sản của văn minh nhân loại. Trong lịch sử cổ Hy Lạp, thành Athen nhỏ bé được tôn sùng là người hướng đạo của dân tộc Hy Lạp, v́ sự góp phần to tát vào di sản văn minh Hy Lạp. Điều kiện văn hóa này, chúng ta có thể chủ động được, miễn là công cuộc phát triển của dân tộc thực hiện được. Và thế hệ của chúng ta có thể có đủ điều kiện và hoàn cảnh để thực hiện ư chí của Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, tiêu diệt tâm lư thuộc quốc đă mấy ngàn năm bao trùm dân tộc và ám ảnh các thế hệ lănh đạo của chúng ta. Xem thế, chúng ta càng ư thức tính cách quan trọng của công cuộc phát triển dân tộc trong giai đoạn này.
    Sự lệ thuộc của Việt Nam đối với văn hóa Tàu đă như không c̣n nữa, từ khi chúng ta chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương. Trong t́nh thế hiện tại, tương lai sẽ càng ngày càng xác nhận sự kiện này, trừ ra khi nào chúng ta lại tự đặt chúng ta vào sự lệ thuộc văn hóa của Trung Cộng, như các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt đang làm.
    Trong t́nh thế hiện nay, chẳng những văn hóa của chúng ta không lệ thuộc văn hóa Tàu, mà lại văn hóa của chúng ta c̣n có cơ hội phát triển hơn bao giờ hết. Hiện nay Trung Hoa và Việt Nam, do các biến cố lịch sử vừa qua, đều nằm vào cùng một vị trí. Cả hai đều vừa thoát khỏi sự chi phối của thực dân, và đang nỗ lực Tây phương hóa để phát triển dân tộc. Các dị điểm và các đồng điểm giữa hai vị trí đă được chúng ta phân tích với chi tiết trong các đoạn trên. Và chúng ta cũng biết rằng công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa sẽ gồm sự thâu nhận nhiều giá trị tiêu chuẩn dính liền với kỹ thuật Tây phương. Do đó, xă hội Trung Hoa cũng như xă hội Việt Nam sẽ đương nhiên bị bắt buộc t́m một trạng thái điều ḥa mới giữa các giá trị tiêu chuẩn. Chúng ta đă thấy hoàn cảnh phát triển của chúng ta thuận lợi hơn hoàn cảnh phát triển của Trung Hoa. Trong một đoạn dưới đây chúng ta sẽ thấy rằng điều kiện ngôn ngữ của chúng ta cũng thuận lợi hơn của Trung Hoa. Như thế th́, nếu chúng ta thực hiện được công cuộc phát triển, sự lệ thuộc văn hóa của chúng ta đối với Trung Hoa không bao giờ tái diễn nữa.
    Tóm lại, nếu tương quan lănh thổ và dân số, giữa Việt Nam và Trung Hoa, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay, không c̣n cái tầm quan trọng của nó khi xưa nữa, và nếu sự lệ thuộc văn hóa đối với Trung Hoa cũng không c̣n nữa, th́ đương nhiên tâm lư thuộc quốc của chúng ta đối với Trung Hoa cũng sẽ bị tiêu diệt măi măi.
    Như thế th́, nếu chúng ta có một sự lănh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển dân tộc, th́ cơ hội, đương nhiên sẽ đến với chúng ta để giải quyết một vấn đề đă đặt ra cho dân tộc từ một ngàn năm nay, và hai lần Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đă cố t́m giải pháp: cởi bỏ cho dân tộc tâm lư thuộc quốc đối với Trưng Hoa.
    Tuy nhiên, các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt không tỏ ra ư thức tính cách quan trọng của cơ hội này.
    Trái lại, sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực của Trung Cộng vào trường hợp Việt Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đ̣i hỏi những phương tiện như vậy, làm sống lại tâm lư thuộc quốc, gần như đă chết trong một thế kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước Trung Hoa vĩ đại, lúc nào cũng xem Việt Nam là một Trung Hoa con con. Từ xưa, dưới sự chi phối của tâm lư thuộc quốc, nếu Trung Hoa diễn một tấn tuồng trên sân khấu trăm thước vuông, th́ Việt Nam cũng phải diễn cũng một tấn tuồng thúc lại cho vừa tầm, trên một sân khấu chỉ c̣n một thước vuông. Xưa kia, v́ nước Tàu có một ṭa Văn Miếu lớn, th́ Việt Nam cũng phải có một ṭa Văn Miếu nho nhỏ.
    Gần đây, v́ nước Tàu có sách lược Tam Dân Chủ Nghĩa rộng lớn, th́ Việt Nam cũng có sách lược Tam Dân Chủ Nghĩa nho nhỏ. Và ngày nay, v́ nước Tàu thi hành phương pháp độc tài Đảng trị kinh khủng một cách rộng lớn, th́ Bắc Việt cũng thi hành phương pháp độc tài Đảng trị kinh khủng một cách nho nhỏ.
    Hoàn cảnh phát triển của chúng ta không đ̣i hỏi những biện pháp dựa trên bạo lực, mà chỉ đ̣i hỏi một sự lănh đạo sáng suốt và khôn ngoan, để khai thác các loại mâu thuẫn, trên chính trường thế giới, với mục đích t́m vốn tư bản để thỏa măn nhu cầu phát triển.
    Nhưng, giả sử mà viện trợ ngoại quốc cho chúng ta, không lên đến một bách phân quan trọng của nhu cầu phát triển quốc gia, th́ chính trường hợp đó cũng chưa đủ để thuyết minh sự áp dụng vào Việt Nam, phương pháp huy động nhân lực thi hành ở Trung Cộng. Trong chương tŕnh phát triển của Trung Cộng, ưu tiên đặc biệt được dành cho khu vực kỹ nghệ quốc pḥng. Sau đó đến khu vực kỹ nghệ sản xuất. Khu vực tiêu thụ bị bóp nghẹt. Thứ tự ưu tiên trên phản ảnh mối lo âu của các nhà lănh đạo Trung Cộng, t́m cách ứng phó với các phản ứng thù nghịch. Và thứ tự ưu tiên trên đương nhiên đ̣i hỏi các biện pháp huy động nhân lực đă áp dụng.
    Sự phát triển của Việt Nam không gây phản ứng thù nghịch. Nhưng giả sử sự phát triển của chúng ta có gây phản ứng thù nghịch, th́ dù chúng ta có dồn hết nỗ lực của dân tộc vào khu vực quốc pḥng th́, như chúng ta đă biết, tất cả cố gắng quân sự của chúng ta cũng chưa đủ để bảo vệ độc lập và lănh thổ. Như thế th́, trong chương tŕnh phát triển của chúng ta, ưu tiên dành cho khu vực sản xuất và khu vực tiêu thụ. Một thứ tự ưu tiên như vậy không đ̣i hỏi các biện pháp huy động nhân lực của Trung Cộng.
    Nhưng dù là trong một hoàn cảnh phát triển thuận lợi, sự huy động nhân lực theo lối Cộng Sản, không phải là một yếu tố để thúc đẩy công cuộc phát triển chóng đến thành công sao? Trên quan điểm dài hạn của đời sống dân tộc, sinh lực dân tộc là một của báu, mà bất cứ nhà lănh đạo nào cũng phải đặt cho ḿnh nghiêm luật không được tiêu hao hay phí phạm, khi quyền lợi của cộng đồng bắt buộc phải dùng đến.
    Các nhà lănh đạo Trung Cộng sở dĩ phải chọn lựa phương pháp hành động như vậy, v́ họ bị sự chi phối của hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của nước Tàu. Việt Nam không ở vào trường hợp bắt buộc đó.
    Vả lại, các phương pháp huy động nhân lực theo Cộng Sản sẽ lưu lại cho dân tộc những hậu quả như thế nào?
    Chúng ta chỉ có thể nhận xét rằng, cho đến ngày nay, nghĩa là gần hai trăm năm sau, dân tộc Pháp c̣n mang chịu những hậu quả tai hại của cuộc Cách Mạng năm 1789, mặc dầu trên phương diện bạo tàn và đẫm máu, Cách Mạng 1789 của Pháp c̣n kém xa Cách Mạng của Nga Sô và Cách Mạng của Trung Cộng.
    Sau hết, giả sử, chúng ta bỏ qua hết tất cả lư do thuận hay không thuận, cứ thi hành triệt để các phương pháp huy động nhân lực của Cộng Sản để thực hiện công cuộc phát triển của dân tộc, th́ cái vốn nhân lực ba chục triệu của chúng ta cũng không đủ cung cấp thêm được bao nhiêu bách phân của khối nhu cầu phát triển của chúng ta.
    Từ hai mươi năm nay, cơ hội phát triển đă đến cho chúng ta. Nhưng chúng ta chưa nắm được. Từ mười năm nay, Bắc Việt chưa thực hiện được những mục tiêu phát triển đáng kể.
    Các thực hiện phát triển của Nam Việt đều bị du kích quân Bắc Việt phá hoại.
    Sau hai mươi năm, và sau khi tiêu hao bao nhiêu sinh lực của dân tộc, chúng ta đă đạt được kết quả kể trên. Như thế th́, các nhà lănh đạo của chúng ta có phải đă đi đúng đường hay không?



    Đón xem phần IV

  8. #28
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo




    Phần IV

    MỘT LẬP TRƯỜNG THÍCH HỢP VỚI CÁC NHẬN XÉT TRÊN





    Trong một phần trên chúng ta đă phân tích các sự kiện lịch sử để t́m hiểu vấn đề mà dân tộc chúng ta cần giải quyết trong giai đoạn này. Trong một phần khác, chúng ta đă kiểm điểm những cái vốn mà chúng ta có thể sử dụng được cũng như những món nợ mà chúng ta phải mang khi chúng ta nỗ lực giải quyết vấn đề đă nh́n thấy.
    Trong phần dưới đây, chúng ta sẽ làm một công việc hoàn toàn khác. Trong hai phần trên đây, chúng ta đă dựa trên những sự kiện lịch sử không ai phủ nhận được để phân tích các biến cố phức tạp hiện nay, mong soi thấu các đường canh và các sợi chỉ chính yếu đă dệt ra t́nh trạng hiện tại của dân tộc. Trong phần dưới đây, chúng ta lại điều hợp những tính chất mà chúng ta đă rút ra được từ trong khối sự kiện đă được phân tích, đối với mỗi lĩnh vực của dĩ văng dân tộc, để t́m xây dựng một đường lối hành động và một phương pháp giải quyết vấn đề mà chúng ta đă nh́n thấy.
    Nhiều khía cạnh của đường lối hành động và nhiều yếu tố của phương pháp giải quyết đă được đề cập đến rải rác trong nhiều đoạn suy luận trên.
    Dưới đây chúng ta cũng sẽ nhắc trở lại trong một cái nh́n tổng hợp để làm thành một toàn bộ chủ trương trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia.
    Chúng ta đang ở trong trường hợp của một người vừa xem xong một cuốn phim tả một phần dĩ văng của dân tộc trong đó những sự kiện bên ngoài và bên trong đều được phân tích với ít nhiều chi tiết. V́ thế cho nên khi phim ngừng lại ở h́nh chót, nghĩa là ở t́nh trạng hiện tại của quốc gia, chúng ta đă nhận thức được tất cả các nguyên nhân đă cấu tạo vấn đề hiện tại của dân tộc.
    Chúng ta có thể nghĩ rằng, t́m được nguyên nhân cố nhiên là giải quyết được vấn đề, cũng như nhà Y học t́m được căn bệnh, là chữa được bệnh.
    Nhưng bản chất của đời sông là phức tạp. Đời sống của quốc gia lại c̣n phức tạp hơn nữa, bởi v́ quốc gia hay bất cứ một tập thể nào, là trường hoạt động không phải của một người, hay của một nhóm người, mà là của toàn dân, là của tất cả các phần tử của tập thể. Do đó phản ứng của tập thể khó mà đoán được. V́ vậy mà nhiều nhà lănh đạo đă bị những biện pháp độc tài cám dỗ. Chúng ta không lựa con đường dễ đó bởi v́ chúng ta tin tưởng ở hai điều mà không ai có thể phủ nhận được.
    Sự hiểu biết của chúng ta về vấn đề dân tộc đă được đặt trên căn bản vững chắc của sự kiện lịch sử.
    Đời sống của một tập thể do định luật thăng bằng động tiến của vũ trụ chi phối. Thăng bằng động tiến giữa những yếu tố đối chọi nhau ngay trong nội bộ, thăng bằng động tiến giữa những quyền lợi của tập thể và quyền lợi của cá nhân, thăng bằng động tiến giữa những điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài.
    Trên căn bản khách quan đó, chúng ta sẽ t́m minh định một thái độ mà chúng ta tin rằng thích nghi nhất với vấn đề hiện tại cần phải được giải quyết của dân tộc. Một thái độ đối với vấn đề của một dân tộc, đương nhiên bao gồm đủ các lĩnh vực. Chúng ta lần lượt xem qua các lĩnh vực lănh đạo, quần chúng, kinh tế và quyền sở hữu, và văn hóa.

    Vấn đề lănh đạo

    Bộ máy lănh đạo của một quốc gia được ấn định bởi chính thể lựa chọn. Sự lựa chọn chính thể lại tùy thuộc ở quan niệm về vấn đề lănh đạo. Khối Cộng Sản và khối Tự Do, ngày nay khác nhau, trên phương diện h́nh thức, ở chỗ một bên chủ trương chính thể Độc tài đảng trị, một bên chính thể Dân chủ pháp trị. Nhưng, trong căn bản, sự khác nhau không phải về h́nh thức bên ngoài đó. Bởi v́ h́nh thức đó chỉ là biểu lộ bên ngoài của một sự khác nhau về quan niệm lănh đạo. Khối Tự Do quan niệm một sự lănh đạo căn cứ trên sự thuyết phục để hướng dẫn quần chúng. Khối Cộng Sản quan niệm một sự lănh đạo căn cứ trên sự cưỡng bách để hướng dẫn quần chúng. Khối thứ nhất chú trọng đến với trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi ngắn hạn của cá nhân trong tập thể và quyền lợi dài hạn của tập thể, bởi v́ lư do của đời sống là một sự việc của cá nhân mà điều kiện của đời sống, là một điều kiện tập thể. Khối thứ nh́ chỉ chú trọng đến quyền lợi dài hạn của tập thể bởi v́, trong một giai đoạn lịch sử, các nhà lănh đạo tin rằng sự sống c̣n của tập thể bị đe dọa và đ̣i hỏi sự hoàn toàn hy sinh các quyền lợi cá nhân cho tập thể. Một điều mà chúng ta nên ghi nhớ là sự lựa chọn quan niệm lănh đạo này hay quan niệm lănh đạo kia đều do những sự kiện lịch sử thực tế quyết định chớ không phải do những quan điểm triết lư trừu tượng.
    Trong một giai đoạn nào đó của lịch sử một dân tộc, sự thăng bằng động tiến giữa những quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể bị phá vỡ, bởi những yếu tố kích thích hoặc nội bộ hoặc bên ngoài đưa đến. Thăng bằng bị phá vỡ, đời sông của tập thể tiếp tục trên những căn bản giả tạo cho đến khi nào thăng bằng động tiến được tái lập.

    Quan niệm lănh đạo.

    Chúng ta đă biết là ngay trong những thời kỳ b́nh thường của cộng đồng, duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi ngắn hạn cá nhân của các phần tử của cộng đồng và quyền lợi dài hạn của cộng đồng, đă là một công việc rất khó khăn, đ̣i hỏi một sự lănh đạo nhiều sáng suốt, nhiều khéo léo và thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Sự phát triển của cộng đồng sẽ được bảo đảm nếu những nỗ lực duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến thành công.
    Trong những thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng, trạng thái thăng bằng động tiến chẳng những ở vào một trạng thái bấp bênh gia tăng mà lại c̣n bị đe dọa phá vỡ bởi những yếu tố khuynh đảo do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Sự tiến hóa của cộng đồng bị ngưng trệ. Nếu chúng ta lại lấy h́nh ảnh của hệ thống người cỡi xe đạp và xe đạp trên kia, th́ những thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng tương đương với những lúc mà tốc độ của hệ thống giảm đi v́ những lư do nội bộ của hệ thống: xe đạp bỗng ngừng hoặc người cỡi đă mệt mỏi, hay v́ những lư do bên ngoài: t́nh trạng của con đường hoặc sự lưu thông trở nên khó khăn. Dầu sao, v́ những lư do ngoài ư muốn của hệ thống, thăng bằng của hệ thống bị đe dọa và hệ thống sắp ngă.
    Các yếu tố khuynh đảo trạng thái thăng bằng động tiến có thể phát sinh từ trong nội bộ, ví dụ những cuộc xáo trộn mà Tây phương phải đương đầu, khi chính ḿnh vừa phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ.
    Các yếu tố khuynh đảo có thể từ bên ngoài đưa đến, ví dụ những cuộc ngoại xâm mà nước Tàu đă dành cho chúng ta trong tám thế kỷ liên tiếp. Nghĩa là từ ngày lập quốc, trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội chúng ta lúc nào cũng bị sự đe dọa phá vỡ bởi một cuộc xâm lăng của nước Tàu. Do đó, sự tiến hóa trong lịch sử đă qua, của dân tộc chúng ta không hùng mạnh và chưa được vượt lên đến tŕnh độ sáng tạo, góp phần vào văn minh nhân loại. Và t́nh trạng nặng nề ấy sẽ măi măi đè nặng và ḱm hăm sự phát triển của dân tộc cho tới ngày nào mà chúng ta, như Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đă nuôi ư chí, tiêu diệt được sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa.
    Các yếu tố khuynh đảo có thể đồng thời vừa từ bên ngoài đưa đến, vừa phát sinh từ trong nội bộ, ví dụ như cuộc tấn công của Tây phương vào các quốc gia của xă hội Đông Á bắt buộc các quốc gia này phải vừa đương đầu với Tây phương, vừa Tây phương hóa các cơ cấu xă hội của ḿnh.
    Đương nhiên là trường hợp thứ ba này là tŕnh độ trầm trọng nhất mà các cuộc khủng hoảng của một cộng đồng có thể đạt tới. Trong hoàn cảnh đó, sự duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến, hoặc sự tái lập một trạng thái thăng bằng động tiến đă bị phá vỡ, đ̣i hỏi một sự lănh đạo phi thường. Nếu một sự lănh đạo tương tự không có, cộng đồng bất hạnh, sẽ bị ngưng trệ trong sự tiến hóa, hoặc miễn cưỡng tiếp tục một sự tiến hóa phiến diện, chỉ chú trọng đến một vài khía cạnh của toàn bộ vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, nhưng đ̣i hỏi một sự tiêu hao vô bờ bến đối với sinh lực của cộng đồng, và lưu lại những hậu quả tai hại nặng nề cho nhiều thế hệ trong tương lai. Tất cả các cuộc cách mạng đẫm máu, kể cả cuộc cách mạng của Pháp năm 1789 và của Nga năm 1917, đều thuộc vào trạng thái thăng bằng động tiến được tái lập. Sau cách mạng 1789, măi cho đến sau chiến tranh Pháp-Đức năm 1870, nước Pháp mới tái lập được trạng thái thăng bằng động tiến đă mất. Sau cách mạng 1917, măi đến ngày nay, nước Nga vẫn chưa tái lập lại được trạng thái thăng bằng động tiến đă mất.
    Trong h́nh ảnh hệ thống người cỡi và xe đạp, sự trạng thái thăng bằng động tiến bị phá vỡ tương đương với sự mất thăng băng của người cỡi. Cộng đồng tiếp tục một sự tiến hóa miễn cưỡng trên những căn bản giả tạo, phí phạm nhiều sinh lực để thâu thập những thành quả phiến diện, cũng tương đương với người cỡi xe đạp gắng sức đẩy chiếc xe đạp không c̣n dùng được, để đưa toàn bộ hệ thống người và xe vượt một đoạn đường. Kết quả thâu thập được không tương đương với sự phí sức rất nhiều, bởi v́ một trạng thái thăng bằng sống đă được thay thế bằng một trạng thái thăng bằng chết.
    Nước Anh và nước Mỹ là những cộng đồng quốc gia điển h́nh, nhờ một sự lănh đạo sáng suốt, đă chiến thắng được những yếu tố khuynh đảo phát sinh từ nội bộ cũng như bên ngoài đưa vào, nhưng trong những thời kỳ khác nhau, và duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến cho xă hội trong nhiều thế kỷ. Nguồn gốc chính yếu của sức mạnh hiện tại của hai cường quốc trên là sự kiện đó.
    Nước Pháp và nước Đức là hai quốc gia khác, trong xă hội Tây phương, cũng đă phải đương đầu với những cuộc khủng hoảng đồng loại với những cuộc khủng hoảng của hai quốc gia Anh và Mỹ. Cả hai nước Pháp và Đức đều thắng được các yếu tố nội bộ mà không thắng được các yếu tố ngoại lai. Trạng thái thăng bằng động tiến bị phá vỡ trong một thời gian ngắn nhưng đă được tái lập. Tuy nhiên sự lănh đạo quốc gia vẫn c̣n chịu ảnh hưởng của một sự gián đoạn trầm trọng.
    Nước Nhật là một quốc gia điển h́nh, nhờ một sự lănh đạo phi thường, đă thắng được những yếu tố khuynh đảo vừa nội bộ vừa bên ngoài, cùng lúc tác động đồng thời, và duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến mặc dầu xă hội phải thay thế nhiều giá trị tiêu chuẩn.
    Nước Nga là một quốc gia ngoài xă hội Tây phương, đă phải ứng phó với một cuộc khủng hoảng đồng loại với cuộc khủng hoảng của Nhật. Nhưng các nhà lănh đạo Nga đă thắng được các yếu tố bên ngoài mà không thắng được các yếu tố nội bộ. V́ những biện pháp áp dụng để đương đầu với cuộc khủng hoảng đă phá vỡ trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội, và đặt ra những căn bản giả tạo cho một sự tiến hóa phiến diện. Và ngày nay, sau gần nửa thế kỷ chính quyền độc tài đảng trị khủng khiếp của Cộng Sản, trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội Nga vẫn chưa tái lập.
    Chúng ta đă thấy trong các giai đoạn trên, hai sự kiện chứng minh cho điều này. Trước hết là các nhà lănh đạo Nga Sô đang lần lần và một cách dè dặt thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược giai đoạn, và đương nhiên giả tạo bằng những giá trị chiến lược khác thích nghi với di sản tinh thần của văn minh nhân loại, mục đích để tái lập trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội, đă bị cách mạng phá vỡ. Sự kiện thứ hai là bộ máy lănh đạo của Nga Sô, căn cứ trên những tiêu chuẩn giả tạo của chế độ độc tài đảng trị, đương nhiên bất lực trong sự chuyển quyền điều ḥa mỗi khi cần phải thay đổi người lănh đạo.
    Như các đoạn trên đă tŕnh bày, cộng đồng quốc gia Việt Nam đang ở trong một thời kỳ khủng hoảng đồng loại với những khủng hoảng trước đây của Nhật và của Nga. Cuộc khủng hoảng của Việt Nam lại c̣n trầm trọng hơn v́ những yếu tố khuynh đảo nội bộ phát sinh từ thời gian gần một thế kỷ thuộc Pháp và những yếu tố khuynh đảo bên ngoài do cuộc tranh chấp giữa Tây phương và Cộng Sản đưa đến. V́ vậy cho nên, quan niệm lănh đạo dẫn dắt đến h́nh thức chính thể, rất quan trọng cho sự bảo vệ trạng thái thăng bằng động tiến cho cộng đồng trong những thời kỳ b́nh thường, càng trở nên vô cùng thiết yêu trong một thời kỳ khủng hoảng như của chúng ta hiện nay.
    Trong trường hợp Việt Nam, không thể đặt vấn đề quan niệm lănh đạo và chính thể mà không đề cập đến vấn đề Cộng Sản được, v́ chính là nhân danh quan niệm lănh đạo Cộng Sản mà cuộc tương tàn đă diễn ra trên mảnh đất này từ hai mươi năm nay.
    V́ những lư do nào mà có một số người lănh đạo chủ trương rằng quan niệm lănh đạo Cộng Sản thích nghi cho hoàn cảnh khủng hoảng của cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay?
    Trước hết chúng ta sẽ nhắc lại, trong một cái nh́n bao quát, những điều đă được rải rác tŕnh bày trong các phần trên, liên quan đến sự phát sinh của thuyết Cộng Sản ở Âu châu, đến các điều kiện đă biến một lư thuyết, do Tây phương tạo ra, thành một lợi khí của Nga Sô để chống lại Tây phương và đến hoàn cảnh lịch sử nhờ đó thuyết Cộng Sản được nhập cảng vào Á châu và vào Việt Nam. Sau đó, chúng ta sẽ nhắc lại những kết quả phân tích sự kiện lịch sử, cũng rải rác trong các phần trên, khả dĩ giúp cho chúng ta vượt trên các yếu tố phức tạp đă dệt thành hoàn cảnh hiện tại của Cộng đồng dân tộc, suy luận để nh́n thấy và t́m xem những lư do, đă khiến cho quan niệm lănh đạo Cộng Sản xâm nhập chính trường Việt Nam, có một giá trị như thế nào, đối với quyền lợi của dân tộc, trong một giai đoạn quyết định như giai đoạn này.

    Thuyết Cộng Sản phát sinh.

    Sau khi khoa học Tây phương đă phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ, th́ những lực lượng mới này đă làm cho hệ thống phân phối tài sản quốc gia của xă hội Tây phương đương thời, tổ chức trên căn bản thủ công nghệ và nông nghiệp, không c̣n hiệu lực nữa. V́ vậy cho nên những cuộc xáo trộn chấn động liên tiếp đă làm lung lay đến tận nền tảng các cơ cấu xă hội Tây phương. Các yếu tố khuynh đảo nội bộ phá hoại cơ thể và gây cho xă hội Tây phương một cơn bệnh trầm trọng.
    Nhiều giải pháp được đề nghị, trong đó giải pháp xây dựng trên một công tŕnh nghiên cứu thực tế lịch sử chính xác và phong phú, và được quần chúng hưởng ứng v́ đă phát sinh từ những căn bản quan sát thiết thực đối với t́nh trạng xă hội đương thời. Giải pháp này chủ trương thay đổi, bằng một cuộc cách mạng bạo động kiểu 1789 của Pháp, hoàn toàn các cơ cấu của xă hội cũ, tiếp nhận những giá trị tiêu chuẩn mới, để xây dựng một xă hội mới thích nghi với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, trong đó sự phân phối tài sản của cộng đồng sẽ được thực hiện một cách hợp lư. Những mục tiêu đề ra, đương nhiên có một mănh lực hấp dẫn cao độ đối với quần chúng, v́ hứa hẹn nhiều sự bảo đảm cho quyền lợi ngắn hạn của cá nhân.
    Tuy nhiên, các nhà lănh đạo Tây phương đă đủ sáng suốt để nh́n thấy rằng giải pháp Cộng Sản chỉ chú trọng đến các khuyết điểm cần chỉnh đốn của xă hội Tây phương lúc bấy giờ, và do đó đă phủ nhận các giá trị tiêu chuẩn đă trở thành di sản của văn minh nhân loại, và thay thế bằng những giá trị tiêu chuẩn giả tạo, kết quả của một công tŕnh suy luận lư thuyết, tuy có phong phú nhưng vẫn là của con người trong một thế hệ. V́ nhược điểm đó cho nên phương thuốc đề nghị để chữa bệnh cho xă hội Tây phương, thay v́ có hiệu lực của một linh dược, sẽ trở thành một độc dược chẳng những phá hoại nền tảng của xă hội c̣n hơn cả chứng bệnh lúc bấy giờ, mà lại c̣n có thể tiêu diệt tất cả di sản của văn minh nhân loại trong mấy ngh́n năm.
    V́ quyền lợi dài hạn của cộng đồng, các nhà lănh đạo Tây phương đă từ chối một phương thuốc độc hại, và vừa nỗ lực t́m những phương thuốc khác cho xă hội Tây phương, vừa chiến đấu ác liệt để loại trừ một độc dược đă lợi dụng một thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng, xâm nhập vào cơ thể xă hội. Và ngày nay, trong công cuộc này, sự thành công của Tây phương đă rơ rệt. Tây phương đă t́m được những phương pháp khả dĩ giúp cho xă hội thâu nhận được những lực lượng sản xuất mới mà vẫn duy tŕ được trạng thái thăng bằng động tiến. Và đương nhiên, khi xă hội đă lành mạnh, quần chúng Tây phương cũng không c̣n hưởng ứng thuyết Cộng Sản nữa, v́ nhu cầu không c̣n nữa, đối với một phương thuốc đă được đề nghị như là một linh dược, để trị một chứng bệnh đă lành. Sự phát triển hùng mạnh của xă hội Tây phương ngày nay là một bằng cớ hiển nhiên và hùng biện.

    Thuyết Cộng Sản biến thành lợi khí của nước Nga.

    Chúng ta c̣n nhớ rằng giữa Nga và Tây phương có một cuộc chiến đấu trường kỳ đă kéo dài từ nhiều thế kỷ. Và từ khi công cuộc Tây phương hóa nước Nga thành công, dưới thời Đại Đế Pierre cho đến phân nửa đầu của thế kỷ 19, thắng thế đă ngă về Nga. Và quân lực và ngoại giao của Nga đă nhiều lần đóng một vai tṛ quyết định trên chính trường Âu Châu. Nhưng cuộc cách mạng kỹ nghệ của Tây phương vào thời kỳ phân nửa sau của thế kỷ 19, đă đưa kỹ thuật của Tây phương vượt hẳn kỹ thuật của Nga và làm nghiêng cán cân lực lượng về Tây phương một lần nữa. Sự thua kém Tây phương về kỹ thuật càng rơ rệt, sau khi quân lực của Nga, năm 1905 bị thảm hại trước quân lực của Nhật, một quốc gia ngoài xă hội Tây phương vừa thực hiện xong giai đoạn đầu của công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
    Như thế, vào thời kỳ vài chục năm đầu của thế kỷ 20, vấn đề đặt ra cho các nhà lănh đạo Nga rất minh bạch. Những sự kiện lịch sử nghiêm khắc đặt các nhà lănh đạo này vào một t́nh thế bắt buộc họ phải tái bản công tŕnh Tây phương hóa nước Nga của Đại Đế Pierre để bảo đảm tương lai của dân tộc. Tuy nhiên, những kinh nghiệm đă qua trong cuộc chiến đấu trường kỳ với Tây phương, cũng như tŕnh độ phát triển đại quy mô của kỹ thuật Tây phương lúc bấy giờ, tất cả các yếu tố đó, đều đ̣i hỏi cho công cuộc Tây phương hóa kỳ này, ở các nhà lănh đạo, một kế hoạch toàn diện, đại quy mô, tương xứng với hoàn cảnh lịch sử và vị trí quốc tế của nước Nga, cũng như những phương tiện vĩ đại, để huy động toàn lực của dân tộc. Như thế, vấn đề đă rơ rệt, cuộc cách mạng năm 1917 của Nga biểu lộ ư chí của các nhà lănh đạo Nga, đạt một mục đích dân tộc: phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
    Sở dĩ mục đích thật sự và dân tộc của cuộc Cách mạng Nga năm 1917 bị hoàn toàn che lấp dưới cái áo quốc tế của cuộc cách mạng xă hội thế giới, mà các nhà lănh đạo Nga Sô tuyên bố chủ trương để đánh đổ Tư Bản Chủ Nghĩa, là v́, trong lần Tây phương hóa này, ngoài những kỹ thuật vật chất của Tây phương, nước Nga, với một thâm ư chiến lược vô cùng sắc bén, đă thâu nhận làm lợi khí tranh đấu một lư thuyết, sản phẩm tinh thần của Tây phương mà Tây phương đă từ bỏ: thuyết Cộng Sản. Ngày nay chúng ta cũng đang mục kích, Trung Cộng tái diễn tấn tuồng phất cờ cách mạng xă hội thế giới chống Đế quốc để tạo hoàn cảnh thuận lợi phục vụ công cuộc phát triển dân tộc riêng của nước Tàu.
    Chúng ta đă nhận định, trong một đoạn trên, những sự kiện nào đă dẫn dắt các nhà lănh đạo Nga Sô đến chỗ thâu nhận một chủ nghĩa, ngoại lai, như Chủ Nghĩa Cộng Sản, hoàn toàn chống lại truyền thống văn minh của dân tộc Nga.
    Trước hết, các nhà lănh đạo Nga Sô, ư thức hoàn cảnh nghiêm khắc của công cuộc phát triển của Nga. Công cuộc phát triển này, cũng như công cuộc phát triển của Trung Cộng ngày nay, đương nhiên sẽ gây ra nhiều phản ứng thù nghịch. V́ vậy cho nên sử dụng được những biện pháp huy động quần chúng đến mức tối đa, đối với họ là một nhu cầu thiết yếu. Quan niệm lănh đạo Độc tài đảng trị của thuyết Cộng Sản đáp ứng vào nhu cầu nói trên.
    Các cuộc xáo trộn xă hội, vào thời kỳ đó ở Tây phương, là những sự kiện tự nó hùng biện, chứng minh rằng xă hội Tây phương lúc bấy giờ, không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới. Xă hội Nga, vào cùng một thời kỳ, lại c̣n lạc hậu hơn xă hội Tây phương, th́ đương nhiên sẽ không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới mà công cuộc phát triển dân tộc bắt buộc sẽ thâu nhận. Như thế th́, tổ chức xă hội Nga theo kiểu mẫu xă hội mà thuyết Cộng Sản đề nghị chẳng những là có tác dụng thích nghi hóa xă hội này với các lực lượng sản xuất mới, mà lại c̣n là, trong con mắt các nhà lănh đạo Nga Sô, đi trước Tây phương một đoạn đường, nghĩa là đă thắng Tây phương trên phương diện tổ chức xă hội.
    Điều bất ngờ cho các nhà lănh đạo Cộng Sản ngày nay là, Tây phương lấy đức tính chính xác của kỹ thuật khoa học, thám cứu các biểu lộ, thực tế của đời sống, đă t́m được và thực hiện được một h́nh thức xă hội thích nghi với các lực lượng sản xuất mới. Trong khi đó, xă hội Nga Sô tổ chức theo kiểu mẫu của xă hội Cộng Sản, chỉ căn cứ trên kết quả suy luận lư thuyết của những bộ óc, tuy là khác thường, nhưng vẫn là của con người c̣n đang ṃ mẫm t́m trạng thái thăng bằng cần thiết cho cộng đồng. Sự kiện Nga Sô đang lần lần thay đổi các giá trị tiêu chuẩn càng xác nhận căn bản lư thuyết và giả tạo của kiểu mẫu xă hội Cộng Sản.
    Các cuộc xáo trộn xă hội ở Tây phương lúc bấy giờ c̣n bộc lộ ma lực hấp dẫn của thuyết Cộng Sản đối với quần chúng Tây phương. Các nhà lănh đạo cuộc cách mạng Nga Sô năm 1917 đương nhiên nh́n thấy thực trạng chính trị đó.
    Và trong khuôn khổ cuộc chiến đấu ác liệt giữa Nga và Tây phương, sự Nga thâu nhận lư thuyết Cộng Sản làm lư thuyết tranh đấu, đương nhiên sẽ biến quần chúng Tây phương thành những đồng minh cho Nga, nội tuyến ngay trong ḷng địch. Trong thực tể, các đảng Cộng Sản địa phương trong các quốc gia Tây phương, đều đă đóng, ít hay nhiều, vai tṛ đồng minh nội tuyến cho Nga Sô.
    Chúng ta vừa nhận xét các sự kiện phát sinh từ t́nh trạng nội bộ của Tây phương và của Nga, đă biến lư thuyết Cộng Sản của Tây phương, thành trong tay Nga Sô một thứ khí giới tinh thần sắc bén, hơn cả bất cứ thứ khí giới kỹ thuật tối tân nào của Tây phương đă phát minh, khả dĩ giúp cho Nga Sô tấn công hiệu quả Tây phương, vừa từ bên ngoài vào, vừa trong nội bộ phát ra.

    Thuyết Cộng Sản nhập cảng vào Á Châu và Việt Nam.

    Tuy nhiên, đối với nhà lănh đạo Nga Sô, thuyết Cộng Sản c̣n là một lợi khí tranh đấu, có một tác dụng không kém hiệu lực trong một phạm vi khác của cuộc tranh đấu vĩ đại giữa Nga Sô và Tây phương.
    Như chúng ta đă thấy trong một đoạn trên, khi giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu giữa Nga Sô và Tây phương mở màn, vị trí của Tây phương rất là hùng mạnh. Tây phương đă chinh phục gần hết thế giới, thuộc địa của Tây phương nằm khắp các lục địa và các đại dương. Quân lực của Tây phương trấn cứ các yếu điểm chiến lược trên địa cầu, kỹ thuật của Tây phương đă vượt đến một cao độ đáng sợ và khắc phục được một cái đà phát triển vừa vững chắc vừa nhiều sinh lực. Trước một địch thủ, mà khả năng và uy thế đă bao trùm thế giới, vượt xa khỏi địch thủ thời Đại Đế Pierre, đương nhiên các nhà lănh đạo Nga không thể mong chiến thắng bằng một chiến lược cổ truyền giới hạn trong phạm vi quốc gia. Nhu cầu chiến lược bắt buộc các nhà lănh đạo Nga Sô đưa khuôn khổ của cuộc chiến đấu lên đến ranh giới hoàn cầu, nếu họ muốn tránh cho Nga một cuộc bao vây ác nghiệt và một thảm bại ngay lúc chưa ra quân.
    V́ vậy cho nên, Nga Sô đă sử dụng lư thuyết Cộng Sản làm một tín hiệu tập hợp, khả dĩ qui tụ trong một mặt trận quốc tế, dưới sự lănh đạo của Nga Sô, tất cả các kẻ thù của Tây phương lúc bấy giờ trên thế giới, để làm hậu thuẫn cho Nga Sô. Trong cuộc chiến đấu vĩ đại chống Tây phương, mà mục đích vẫn là công cuộc phát triển cho dân tộc Nga.
    Chúng ta có thể so sánh những nỗ lực lúc bấy giờ của Nga Sô với những nỗ lực hiện tại của Trung Cộng, để thành lập một mặt trận quốc tế qui tụ các quốc gia chưa mở mang để hậu thuẫn cho công cuộc phát triển cho dân tộc Tàu.
    Tuy nhiên, mưu toan của Nga Sô để qui tụ các kẻ thù lúc bấy giờ của Tây phương là một việc. Nhưng sự hưởng ứng của các quốc gia đă bị Tây phương tấn công và biến làm thuộc địa hay bán thuộc địa là một việc khác. Vậy, v́ những lư do nào mà các nước này hưởng ứng lời kêu gọi và qui tụ dưới sự lănh đạo của Nga Sô?
    Lúc bấy giờ, đă từ hơn bốn trăm năm Tây phương đă tấn công hầu hết các quốc gia ngoài xă hội Tây phương và đă từ gần một trăm năm đă chinh phục hầu hết thế giới. Các quốc gia bị tấn công, sau khi đă hết sức ḿnh kháng chiến trong nhiều thế hệ, lần lần đă đi đến chỗ phải nh́n nhận tính cách vô hiệu quả của cuộc chiến đấu giữa những lực lượng vô cùng chênh lệch. Vận dụng toàn diện khả năng nghinh chiến của một quốc gia để chống lại một ké thù đă bao vây thế giới là một chiến cuộc không có hy vọng thành công. V́ thế cho nên, đối với các nhà lănh đạo của quốc gia đă bị chinh phục, lời kêu gọi đồng minh của Nga Sô có hiệu lực mở một lối đi cho một t́nh thế đă bế tắc. Đồng minh với Nga Sô là đưa cuộc chiến đấu giải thoát quốc gia lên cương vị một cuộc chiến đấu quốc tế có nhiều khả năng bảo đảm cho sự thành công.



    Còn tiếp

  9. #29
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo




    Tác dụng của lư thuyết Cộng Sản.


    Như thế th́, chính là điều kiện gian lao của một cuộc chiến đấu giành độc lập đă đưa một số các nhà lănh đạo các quốc gia Á châu bị Tây phương chinh phục, đến chỗ đồng minh với Cộng Sản. Và nhà lănh đạo Cộng Sản của Việt Nam cũng ở vào trường hợp đó.
    Tuy nhiên, có nhiều nhà lănh đạo Á châu mà quốc gia cũng đă bị Tây phương chinh phục, đă sáng suốt nh́n thấy, vừa thâm ư chiến lược của Nga Sô, vận dụng một mặt trận quốc tế để hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của dân tộc Nga, vừa những căn bản giả tạo của thuyết Cộng Sản, đă từ chối một sự đồng minh với Nga Sô trên nguyên tắc qui phục lư thuyết Cộng Sản. Cân nhắc lợi hại, các nhà lănh đạo này, đă quyết định chọn một con đường khác hơn con đường Cộng Sản, trong công cuộc tranh giành độc lập và sau đó trong công cuộc phát triển dân tộc. Các biến cố lịch sử sau Đại Thế Chiến thứ hai, mà chúng ta đă có nhắc đến, xác nhận quan điểm sáng suốt của những nhà lănh đạo như Gandhi và Nehru của Ấn Độ.
    Ấn Độ và nhiều quốc gia khác ở Á châu, và ngoài Á châu đă khai thác mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương để thâu hồi độc lập hoàn toàn, một cách không tiêu hao cho sinh lực dân tộc. Và chúng ta đă thấy một đoạn trên, rằng chính là sự đồng minh với Cộng Sản của một số nhà lănh đạo của chúng ta, đă làm cho công cuộc tranh giành độc lập của chúng ta trở thành vô cùng tiêu hao cho sinh lực của dân tộc. Những sự hy sinh cao cả của các phần tử của cộng đồng không bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được tính kiêu hùng của dân tộc trong các cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù.
    Tuy nhiên, các nhà lănh đạo lúc nào cũng phải tự đặt cho ḿnh nghiêm luật không bao giờ có quyền phí phạm sinh lực của cộng đồng, mỗi khi quyền lợi của cộng đồng bắt buộc phải sử dụng đến.
    Vả lại, độc lập vẫn chưa phải là mục đích. Và sinh lực của dân tộc c̣n cần thiết hơn bội phần cho công cuộc phát triển đang chờ đợi chúng ta. Và lư do thứ nh́ để cho các nhà lănh đạo các quốc gia Á châu thâu nhận thuyết Cộng Sản do Nga Sô chủ trương lại chính là công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa sau khi độc lập đă được thâu hồi.
    Thuyết Cộng Sản quả quyết rằng chỉ có phương pháp độc tài đảng trị mới có đủ khả năng huy động quần chúng để cung cấp những nỗ lực cần thiết cho một công cuộc phát triển cộng đồng. Và thuyết Cộng Sản cũng quả quyết rằng chỉ có xă hội tổ chức theo kiểu của thuyết Cộng Sản đề nghị mới thích nghi với các lực lượng sản xuất của kỹ nghệ. Vậy th́ mọi công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa phải áp dụng phương pháp độc tài Đảng trị và phải xây dựng xă hội theo kiểu mẫu Cộng Sản.
    Chúng ta đă phân tích, với chi tiết, tác dụng của thuyết Cộng Sản, trong giai đoạn chiến đấu giành độc lập đă qua, của chúng ta, đối với sự thống trị của đế quốc. Đối với sự chi phối và thống trị của nước Tàu, đă đè nặng lên đời sống của dân tộc trong hơn tám trăm năm, gián đoạn trong một trăm năm, ngày nay lại tái hiện và đe dọa hơn bao giờ, chúng ta cũng đă vạch rơ những hậu quả tai hại, mà sự qui phục thuyết Cộng Sản, của các nhà lănh đạo Bắc Việt, sẽ lưu lại cho thế hệ tương lai. Một điều mà chúng ta phải ghi nhớ, trong khuôn khổ của vấn đề quan trọng này, liên quan mật thiết đến vận mạng của dân tộc, là thâm ư chiến lược của Nga Sô trước đây và thâm ư chiến lược đồng loại của Trung Cộng ngày nay. Đối với hai quốc gia này, thuyết Cộng Sản và các mặt trận quốc tế phục vụ cho thuyết Cộng Sản, đều là những lợi khí sắc bén để phục vụ, trước hết và trên hết, mục đích phát triển dân tộc của hai nước.
    Trong phạm vi phát triển dân tộc, chúng ta đă thấy rằng nếu hoàn cảnh phát triển vô cùng nghiêm khắc của những quốc gia to lớn, như Nga và Tàu, thuyết minh cho một sự đổi những kết quả, mà phương pháp độc tài Đảng trị có thể mang đến trong hiện tại, với những hậu quả tai hại, chưa ai biết đến mức độ nào, mà chính phương pháp đó sẽ lưu lại cho nhiều thế hệ trong tương lai, th́ trái lại, một nước nhỏ như Việt Nam, có thể thực hiện được công cuộc phát triển của ḿnh bằng những phương pháp không tiêu hao sinh lực của dân tộc. Đă như thế th́, các nhà lănh đạo tranh đấu cho dân tộc, đương nhiên phải chọn đường lối dẫn đến mục đích mà không phí phạm sinh lực của cộng đồng.
    Sau hết, câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: xă hội tổ chức theo kiểu mẫu Cộng Sản có phải là xă hội thích nghi nhất với các lực lượng sản xuất mới do kỹ thuật khoa học phát minh không? Tôn trọng một thái độ mà chúng ta đă chấp nhận từ đầu, chúng ta sẽ tự ư không đi vào một cuộc tranh luận lư thuyết về tính cách thích nghi hay không thích nghi của xă hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất mới; Vả lại, thời gian hăy c̣n quá sớm để cho chúng ta có thể, căn cứ trên những sự kiện thực tế, phán đoán về tính cách thích nghi nói trên. Trong thế giới hiện nay, chưa có một xă hội nào, đă kỹ nghệ hóa được tổ chức theo kiểu mẫu Cộng Sản, để chúng ta có thể lấy đó làm tiêu chuẩn so sánh. Và kiểu mẫu này vẫn là một kết quả suy luận lư thuyết.
    Tuy nhiên, những nhận xét dưới đây, đối với các sự kiện thực tế mà chúng ta đang mục kích, có thể làm sáng tỏ vấn đề.
    Trong thế giới hiện tại, h́nh thức tổ chức xă hội gần nhất với kiểu mẫu của thuyết Cộng Sản, đương nhiên là h́nh thức tổ chức xă hội của Nga Sô. Chúng ta đă thấy trong nhiều đoạn trên, rằng bộ máy lănh đạo của Nga Sô vẫn bất lực trong việc chuyển quyền ôn ḥa mỗi khi cần phải thay đổi người lănh đạo. Sau gần nửa thế kỷ, những biện pháp độc tài vẫn c̣n cần thiết để duy tŕ trật tự chứng tỏ rằng trạng thái thăng bằng nội bộ vẫn chưa tái lập. Về phương diện xă hội, sự Nga Sô đang thay thế nhiều tiêu chuẩn giá trị bằng những tiêu chuẩn giá trị mà thuyết Cộng Sản đă loại bỏ, lại chứng tỏ rằng Nga Sô c̣n đang nỗ lực tái lập trạng thái thăng bằng nội bộ cần thiết cho sự phát triển của cộng đồng. Một mặt khác, sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn Cộng Sản, bằng những giá trị tiêu chuẩn được phục hồi, lại chứng tỏ tính cách lư thuyết của các căn bản của thuyết Cộng Sản. Tất cả các sự kiện trên lại chứng tỏ rằng xă hội Nga Sô hiện nay vẫn tiếp tục một t́nh trạng thăng bằng giả tạo.
    Trong khi đó, xă hội Tây phương, v́ bất lực trong công việc thâu nhận các lực lượng sản xuất mới, hồi thế kỷ 19, nên đă được đề nghị thay thế bằng xă hội Cộng Sản, chẳng những đă t́m được những phương pháp khả dĩ cho phép sự thâu nhận được lực lượng sản xuất mới, mà lại c̣n duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến cho cộng đồng. Và nhờ đó mà sự phát triển hùng mạnh vẫn được bảo đảm. H́nh thức xă hội Cộng Sản là một kết quả suy luận lư thuyết, khi được mang đưa áp dụng ở Nga Sô, đă chứng tỏ không thích nghi với thực tế, nên đă đặt các nhà lănh đạo Nga Sô ngày nay vào những lối bế tắc, lúng túng mà chúng ta đă biết. H́nh thức hiện nay của xă hội Tây phương là kết quả của một cuộc thám cứu, bằng lư trí chính xác của kỹ thuật khoa học Tây phương, những biểu lộ thực tế của đời sống. V́ thế cho nên h́nh thức xă hội này thích nghi với thực tề.
    Nhưng ngoài Tây phương, cũng có nhiều h́nh thức xă hội khác, không tổ chức theo kiểu mẫu Cộng Sản, vẫn thích nghi với những lực lượng sản xuất mới đă thâu nhận sau một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
    Sinh lực dồi dào của xă hội Nhật ngày nay là một bằng chứng hùng biện.
    Các sự kiện thực tế trên đây, tuy không trực tiếp liên quan đến tính cách thích nghi hay không của xă hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất mới, nhưng v́ những thực trạng mà nó phản ảnh, đă làm cho câu hỏi nêu lên trên đối với xă hội Cộng Sản trở thành vô ích.

    Phản tác dụng.


    Như thế th́, vấn đề đă rơ, trong trường hợp của cộng đồng quốc gia Việt Nam, những tác dụng mong mỏi ở thuyết Cộng Sản, khả dĩ thuyết minh cho sự qui phục của các nhà lănh đạo Bắc Việt, đối với lư thuyết này, trở thành vô hiệu lực. Ngược lại, như chúng ta đă thấy ở nhiều đoạn trên, một sự qui phục thuyết Cộng Sản sẽ mang đến nhiều phản tác dụng tai hại cho dân tộc.
    Tất cả các sự kiện mà chúng ta đă phân tích trong các trang của tập sách này, đều chứng minh rằng mục đích cuối cùng của mọi cuộc tranh đấu, là quyền lợi của dân tộc. Nga Sô cũng như Trung Cộng khi nỗ lực, lập những mặt trận quốc tế phục vụ cách mạng xă hội thế giới, đều có chủ định phục vụ trước hết và trên hết dân tộc Nga và dân tộc Tàu.
    Sự qui phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên, biến sự đe dọa, thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam, thành thực tế.
    Chúng ta đă biết chính sách xâm lăng của Trung Hoa đối với Việt Nam là một chính sách liên tục và bất biến của tất cả các chế độ của Trung Hoa v́ nó phát sinh từ một nhu cầu đất đai cần thiết cho sự phát triển của Trung Hoa. Mang phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản, cũng như phương pháp độc tài nào khác để lănh đạo quần chúng, th́ theo một cơ thức mà chúng ta đă biết, quần chúng sẽ phản ứng bằng cách hướng về bất cứ cá nhân hay tập thể nào phất cờ giải phóng để che đậy thâm ư xâm lăng của ḿnh. Trong điều kiện đó, các nhà lănh đạo Cộng Sản áp dụng phương pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam, sẽ đương nhiên tạo hoàn cảnh thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam lúc thời cơ đưa đến.
    Nói một cách khác, phương pháp lănh đạo độc tài Đảng trị sẽ suy nhược hóa sức đề kháng của dân tộc đối với kẻ xâm lăng. Hùng mạnh như nước Nga, mà trong trận chiến chống quân Đức, cũng đă suưt phải thảm bại, bởi v́ quần chúng phẫn uất với chế độ độc tài Đảng trị của Staline, đă nổi lên đồng minh với Đức. Chỉ có sự vụng về và chính sách kỳ thị chủng tộc của Đức quốc xă mới không khai thác được cơ hội trên, và cứu Nga Sô khỏi họa xâm lăng.
    Trong t́nh thế chính trị chúng ta đang mục kích, sự qui phục thuyết Cộng Sản của các nhà lănh đạo Bắc Việt, tự nó là một sự thần phục Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa. Và sự thống trị bằng lư thuyết của Trung Cộng đối với Bắc Việt ngày nay, nếu không có các trở lực quốc tế, sẽ bội phần ác nghiệt hơn các sự thống trị mà nước Tàu đă dành cho chúng ta từ gần một ngàn năm.
    Sự qui phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên gắn liền vận mạng công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta vào vận mạng công cuộc phát triển dân tộc của Trung Hoa. Chúng ta đă phân tích hoàn cảnh phát triển thuận lợi của Việt Nam.
    Vậy gắn liền công cuộc phát triển của Việt Nam vào công cuộc phát triển của Trung Cộng là bỏ một hoàn cảnh thuận lợi để đi rước một hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
    Mặc dầu các nỗ lực vĩ đại, cuộc phát triển của Trung Cộng khó mà thành công. Như vậy, gắn liền công cuộc phát triển của Việt Nam vào công cuộc phát triển của Trung Cộng có nghĩa là chúng ta tự ư bỏ công cuộc phát triển của chúng ta. Trong công cuộc phát triển bằng cách Tây phương hóa hiện nay mà các dân tộc đều nỗ lực thực hiện, chúng ta có những điều kiện vật chất lẫn tinh thần, để thành công hơn Trung Cộng, như chúng ta đă chứng minh trong một đoạn trên. Nếu chúng ta lại bỏ cơ hội này để thần phục Trung Cộng th́, một là chúng ta sẽ không phát triển được bởi v́ Trung Cộng không phát triển được, hai là Trung Cộng phát triển được, th́ chúng ta sẽ phát triển được đến mức hạng ba hay hạng nh́, v́ chúng ta học lại kỹ thuật của một người đi học kỹ thuật của Tây phương.
    Sau hết, trong hơn một ngàn năm từ ngày lập quốc, sự chi phối của Trung Hoa đối với Việt Nam nặng nề cho đến đỗi tâm lư thuộc quốc bao trùm mọi lĩnh vực đời sống của dân tộc. Tâm lư đó bắt nguồn từ hai sự kiện: tự ty mặc cảm đối với Trung Hoa vĩ đại, và sự lệ thuộc của chúng ta đối với văn hóa Tàu. T́nh thế ngày nay là một cơ hội duy nhất để cho chúng ta thực hiện ư chí, của Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, cởi cái ách tâm lư thuộc quốc cho dân tộc. Nếu chúng ta lỡ cơ hội, sự lệ thuộc của dân tộc đối với Trung Hoa sẽ kéo dài nhiều ngàn năm nữa và cái khối Trung Hoa vĩ đại, của các lănh tụ Cộng Sản, sẽ mang đến cho dân tộc cái họa diệt vong. Và sự qui phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên dọn đường cho dân tộc Việt Nam lệ thuộc văn hóa mới của Trung Cộng. Những lời ca tụng Trung Hoa vĩ đại của miền Bắc, những điệu nhạc âm thanh Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ ḥa b́nh, và những y phục theo Tàu, tất cả các sự kiện đó, đều là những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hóa càng ngày càng sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng, bởi v́ các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt đă chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng.
    Chỉ nghĩ đến cái viễn ảnh ngàn năm lệ thuộc Trung Cộng mà các nhà lănh đạo Cộng Sản miền Bắc đang sửa soạn cho dân tộc, chúng ta cũng phải khiếp đảm, thoáng nh́n vận mạng cực kỳ đen tối cho các thế hệ tương lai.
    Trong vấn đề quan niệm lănh đạo, chúng ta không thể dành cho quan niệm lănh đạo Cộng Sản, ít chỗ hơn như chúng ta vừa làm xong. Bởi v́, như chúng ta đều biết, hiện nay chủ nghĩa này đang hoành hành ở Á châu, để phục vụ sự phát triển của dân tộc Tàu, với một cường độ độc hại không kém ǵ cường độ độc hại của nó ở Âu châu, hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, để phục vụ cho sự phát triển của dân tộc Nga, và chính ở Việt Nam, v́ chủ nghĩa Cộng Sản hoạt động mà cuộc chiến đấu giành độc lập của chúng ta đă vô cùng tiêu hao sinh lực dân tộc, mà xảy ra t́nh trạng chia đôi đất nước, mà chiến tranh tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng ta từ hai mươi năm nay.
    Và khi nào như hiện nay, chúng ta đă nh́n thấy nguồn gốc của chủ nghĩa Cộng Sản, nh́n thấy những nguyên nhân sâu xa của sức mạnh của nó, nh́n thấy những điểm tựa trên đó nó đang lấy sinh lực ở Á châu, nh́n thấy lư do v́ sao nó đă bắt đầu suy nhược ở Tây phương và nh́n thấy những hậu quả tai hại nó sẽ mang đến cho dân tộc Việt Nam, th́ chúng ta mới nh́n thấy, một cách minh bạch, trách nhiệm của thế hệ chúng ta là phải vận dụng tất cả nỗ lực, mà chúng có thể cung cấp, để loại trừ độc dược đó ra ngoài cơ thể của cộng đồng dân tộc.

    Tư tưởng, phương pháp và h́nh thức.


    Loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản ra khỏi cơ thể của cộng đồng quốc gia, có nghĩa là loại trừ tư tưởng Cộng Sản, phương pháp Cộng Sản, và h́nh thức Cộng Sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống quốc gia. Đối với tư tưởng Cộng Sản, sự ngộ nhận khó có dịp xảy ra, bởi v́, chẳng những tư tưởng đó có đặc tính rất riêng biệt, mà lại ngôn ngữ dùng để diễn tả các tư tưởng cũng rất đặc biệt, cũng như lối biện luận rất đặc biệt của biện chứng pháp duy vật. Nhưng sự ngộ nhận thường xảy ra đối vớ các phương pháp Cộng Sản và h́nh thức Cộng Sản, v́ những nguyên nhân sau đây.
    Lư do sâu xa đă làm cho nược Nga thâu nhận thuyết Cộng Sản làm lợi khí tranh đấu như chúng ta đă biết, là ư chí thực hiện công cuộc phát triển dân tộc Nga bằng cách Tây phương hóa. V́ vậy cho nên tất cả kỹ thuật của Tây phương đều được Nga thâu nhận làm của ḿnh. Khoa học của Tây phương là khoa học của Nga, phương pháp khoa học của Tây phương, trong mọi lĩnh vực là phương pháp khoa học của Nga, trong mọi lĩnh vực. Nhiều lần, v́ tự ty mặc cảm đối với sự lệ thuộc kỹ thuật đó, Nga Sô, muốn biểu lộ sự độc lập của duy vật biện chứng pháp đối với lối suy luận “tư bản” của Tây phương, đă đưa ra những thuyết khoa học ly kỳ như thuyết Lisenko[1] trong ngành sinh học. Mặc dù đă cẩn thận, thay v́ một ngành như toán học trong đó sự sưu tầm đă bao quát, lựa chọn một ngành như sinh học trong đó sự khảo cứu c̣n thiếu sót, sự không thành thật của Lisenko lâu ngày cũng bộc lộ. Và sau khi mục đích phát triển kỹ thuật đă đạt, sau khi Nga Sô đă chứng minh khả năng thật sự của ḿnh về khoa học, tự ty mặc cảm không c̣n nữa, th́ chính các nhà bác học Nga Sô đă bác bỏ thuyết Lisenko. Khi c̣n ở trong một giai đoạn ấu trĩ của công cuộc Tây phương hóa, người Nhật cũng lầm những lỗi tương tự như Nga. Các sự kiện trên lại chứng minh tính cách quốc tế và nhân loại của khoa học.
    Nhưng cũng v́ các sự kiện đó mà có sự lầm lẫn giữa phương pháp Cộng Sản và phương pháp Tây phương, h́nh thức tổ chức Cộng Sản và h́nh thức tổ chức Tây phương. Ở Việt Nam, sự lầm lẫn c̣n trầm trọng hơn nữa, v́ một lư do lịch sử.
    Sau tám mươi năm bị loại ra khỏi các trách nhiệm lănh đạo quốc gia, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều người Việt Nam đă làm quen trở lại với các vấn đề lănh đạo, nhưng dưới sự chi phối của Đảng Cộng Sản. V́ vậy cho nên, tất cả các kỹ thuật trong mọi lĩnh vực, mà Cộng Sản học được của Tây phương và mang ra thực hành ở Việt Nam, đều bị ngộ nhận là sáng kiến độc quyền của Cộng Sản. Ví dụ, ngày nay, nhiều người vẫn xem lối làm việc tập thể hay công cuộc tổ chức quần chúng là những sáng kiến của Cộng Sản, và không biết rằng, thật ra, chính lối làm việc tập thể và sự tổ chức tinh vi trong mọi lĩnh vực của đời sống là nguồn gốc sinh lực của Tây phươ

    Bộ máy lănh đạo.

    Bộ máy lănh đạo của Cộng Sản tổ chức theo lối độc tài Đảng trị cũng là một bộ máy lănh đạo do Tây phương tạo ra đồng thời với thuyết Cộng Sản. Chỉ có khác ở chỗ Tây phương đă loại bỏ thuyết Cộng Sản đồng thời với phương pháp lănh đạo Cộng Sản.
    Đối với các quốc gia Cộng Sản, thâu nhận phương pháp lănh đạo Cộng Sản, là thực hiện một bộ phận, bộ phận của lĩnh vực lănh đạo trong công cuộc Tây phương hóa toàn diện, theo đường lối Cộng Sản.
    Nếu chúng ta loại trừ lư thuyết Cộng Sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống quốc gia, đương nhiên chúng ta cũng loại trừ phương pháp lănh đạo Cộng Sản.
    Nhưng công cuộc Tây phương hóa bộ máy lănh đạo của chúng ta vẫn là một phần thiết yếu trong công cuộc Tây phương hóa toàn diện mà chúng ta chủ trương.
    Như thế, bộ máy lănh đạo của quốc gia sẽ được chúng ta quan niệm như thế nào? Có phải chúng ta chỉ cần thâu nhận bộ máy lănh đạo của một quốc gia Tây phương là đủ không?
    Và, trong trường hợp đó, v́ lâu nay chúng ta rất quen thuộc với các kỹ thuật của người Pháp, th́ sự tiện lợi cho chúng ta trong lĩnh vực lănh đạo không phải là thâu nhận bộ máy lănh đạo của người Pháp sao? Nếu,v́ một lư do nào, chúng ta không thể tổ chức bộ máy lănh đạo của chúng ta theo kiểu bộ máy lănh đạo của người Pháp, th́ chúng ta có thể tổ chức bộ máy lănh đạo của chúng ta theo kiểu quân chủ lập hiến của người Anh hoặc theo kiểu Tổng thống chế của người Mỹ không?
    Thật ra vấn đề đặt ra cho chúng ta trong lĩnh vực lănh đạo không phải như vậy, và trong thực tế rất phức tạp hơn nhiều.
    Chúng ta c̣n nhớ, công cuộc Tây phương hóa, không đường hướng và không mục đích, dưới thời Pháp thuộc đă lưu lại cho dân tộc nhiều hậu quả tai hại. Trong công cuộc Tây phương hóa đó, không toàn diện và không đến mức độ đủ cao, chỉ có h́nh thức bề ngoài được chú trọng và các tinh túy đựng trong h́nh thức hoàn toàn không được biết đến.
    Trái lại, trong công cuộc Tây phương hóa có đường hướng, có mục đích mà chúng ta chủ trương, tuy tính cách đáng chú ư của h́nh thức không bị phủ nhận, nhưng chỉ có cái tinh túy đựng bên trong h́nh thức mới là quan trọng.
    Trong phạm vi của sự Tây phương hóa bộ máy lănh đạo của quốc gia, chúng ta sẽ t́m nhận thức các nguyên tắc ngự trị quan niệm lănh đạo của Tây phương. Sau đó chúng ta sẽ cụ thể hóa những nguyên tắc bằng một h́nh thức của bộ máy lănh đạo. Nhưng h́nh thức này, chẳng những phải thỏa măn các nguyên tắc căn bản nói trên, mà c̣n phải được kiến trúc bằng vật liệu địa phương và phải được thích nghi với hoàn cảnh địa phương.
    Dưới đây, chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết của một bản hiến pháp, thẩm quyền của các nhà soạn thảo hiến pháp.
    Tuy nhiên chúng ta sẽ nhận thức các nguyên tắc mà một bộ máy lănh đạo, vừa được Tây phương hóa, vừa được thích nghi hóa với hoàn cảnh địa phương của chúng ta, cần phải tôn trọng.
    Trong nhiều đoạn, ở rải rác trong các trang trên, mặc dầu không liên quan trực tiếp đến vấn đề bộ máy lănh đạo, nhưng v́ sự sáng tỏ của vấn đề tŕnh bày, chúng ta cũng đă đề cập đến những nguyên tắc mà một bộ máy lănh đạo, theo quan niệm của Tây phương, cần phải tôn trọng. Thừa hưởng văn minh cổ Hy Lạp và La Mă, sau hơn một ngàn năm kinh nghiệm với các vấn đề lănh đạo, đức tính chính xác về lư trí và minh bạch và ngăn nắp trong tổ chức của Tây phương, đă góp vào di sản văn minh nhân loại một h́nh thức của bộ máy lănh đạo, h́nh thức dân chủ Pháp trị, có nhiều khả năng duy tŕ và phát triển trạng thái thăng bằng động tiến của cộng đồng.
    H́nh thức của bộ máy lănh đạo, hiện nay của Tây phương, phải thỏa măn những điều kiện nhắc lại dưới đây:
    1.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự liên tục lănh đạo quốc gia.
    2.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự chuyển quyền một cách ḥa b́nh từ lớp người lănh đạo trước cho lớp người lănh đạo sau.
    3.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự thay đổi người lănh đạo.
    4.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự áp dụng nguyên tắc thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể.
    Ngoài bốn điều kiện trên, bảo đảm tinh thần trường cửu của bộ máy lănh đạo, ba điều kiện dưới đây bảo đảm sự điều hành thiết thực và ngắn hạn của bộ máy lănh đạo.
    5.- H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm một sự lănh đạo quốc gia mở rộng, mục đích đào tạo nhiều người lănh đạo.
    6.- H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm sự kiểm soát người cầm quyền.
    7.- H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm sự hữu hiệu của chính quyền



    Còn tiếp

  10. #30
    Member
    Join Date
    09-02-2011
    Posts
    670

    Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

    Tiếp theo




    Áp dụng vào Việt Nam.

    Chúng ta đă biết rằng nguồn gốc chính của sức mạnh của các cường quốc, như Anh hay Mỹ, là sự thành công của họ trong việc thực hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia trong nhiều thế kỷ. Tất cả các kinh nghiệm lănh đạo, trong nhiều thế hệ, c̣n giữ nguyên vẹn, kỹ thuật lănh đạo nhờ đó mà càng ngày càng tinh vi. Các bí mật quốc gia được truyền lại toàn vẹn, tất cả các kho tàng của dĩ văng được xếp vào văn khố và có người biết sử dụng văn khố. Ngày nay một nhà lănh đạo Anh đứng lên, đương nhiên sau lưng có một hậu thuẫn 400 năm dĩ văng, một di sản vô cùng quư báu tạo ra cho họ một sức mạnh phi thường. Bởi v́, với hậu thuẫn hiếm có đó, một nhà lănh đạo Anh có thể ứng phó và giải quyết những vấn đề vượt hẳn khả năng của những người, dầu tài ba đến đâu nhưng lại thiếu hậu thuẫn của dĩ văng.
    Muốn thực hiện được sự liên tục lănh đạo quốc gia nói trên, một bộ máy lănh đạo phải thỏa măn ba điều kiện.
    Trước hết phải chấp nhận nguyên tắc thay đổi người lănh đạo lúc cần, và cả lúc b́nh thường miễn là những thay đổi không quá nhặt trong thời gian để cho sự thay đổi không có thể biến thành hỗn loạn. Điều thứ hai, bộ máy lănh đạo phải được quan niệm như thế nào để cho sự chuyển quyền lúc nào cũng thực hiện được một cách b́nh thường trong êm ái và ḥa b́nh, giữa người lănh đạo măn nhiệm và người lănh đạo mới thọ nhiệm. Điều thứ ba, là bộ máy lănh đạo phải có một h́nh thức tổ chức vừa tượng trưng cho sự liên tục lănh đạo quốc gia, vừa thể hiện cho sự liên tục đó trong thực tế.
    Để thỏa măn điều kiện thứ ba, các chính thể trên thế giới áp dụng nhiều h́nh thức khác nhau nhưng chung qui thuộc về bốn loại. Ở Pháp, quốc trưởng là Tổng Thống tượng trưng cho sự liên tục lănh đạo quốc gia; Ở Mỹ, tổ chức Tối cao Pháp đ́nh; Ở Nga, Đảng Cộng Sản; Ở các nước quân chủ, có Vua và Hoàng Gia.
    Chức vụ Tổng Thống ở Pháp không hoàn toàn thỏa măn được sự tượng trưng cho sự liên tức lănh đạo quốc gia, bởi v́ óc sợ độc tài của người Pháp giới hạn nhiệm kỳ Tổng Thống là 5 năm hay 7 năm. Chẳng những thế, sự tranh chấp giữa các Đảng chính trị, mọc ra như nấm, thường tạo ra cho các cuộc bầu cử Tổng Thống một không khí trả giá, làm giảm uy nghiêm của người Quốc Trưởng.
    Các giới lănh đạo trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia phải có một tinh thần trách nhiệm và tự giác rất cao và một kinh nghiệm lănh đạo trưởng thành mới đưa một tổ chức như Tối Cao Pháp đ́nh ở Mỹ lên bằng một tượng trưng sự liên tục lănh đạo quốc gia.
    Trong các h́nh thức nêu ra trên đây, h́nh thức Đảng Cộng Sản ở Nga là một h́nh thức kém hơn cả, bởi v́, trong thực tế, Đảng Cộng Sản hoàn toàn thất bại trong việc thực hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia. Chế độ Cộng Sản không chấp nhận sự thay đổi lănh đạo và khi lănh đạo từ trần hay cần phải thay đổi sự tranh cướp chính quyền thường thường diễn ra một cách đẫm máu. Đây là một trong các nhược điểm của chế độ Cộng Sản.
    Cho đến ngày nay, h́nh thức thỏa măn nhất điều kiện bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia là h́nh thức Hoàng gia của các chế độ có vua như ở Anh và ở Nhật. V́ thế cho nên, sau khi chiến bại, mặc dù áp lực mạnh bạo và hành vi người chiến thắng của quân đội Mỹ đối với Thiên Hoàng, các nhà lănh đạo Nhật Bản, một lần nữa đă tỏ ra vô cùng sáng suốt, khi mang hết nỗ lực để bảo vệ Hoàng Gia Nhật. Hoàng Gia là biểu hiện cho sự liên tục lănh đạo quốc gia. Nhà Vua thể hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia và đóng vai tṛ người thác thụ các bí mật quốc gia.
    Nhân vấn đề này, một lần nữa, chúng ta lại nhận thức rằng sự lỡ cơ hội phát triển của chúng ta, thế kỷ vừa qua, đối với dân tộc chúng ta, là một tai hại vô cùng to tát. Nếu nhà Nguyễn đă thực hiện được công cuộc duy tân, như Vua Duy Tân đă có ư định th́ ngày nay, có lẽ, ngoài sự phát triển dân tộc đă thực hiện được, chúng ta đă thừa hưởng một chính thể có những nền tảng vững chắc vào bậc nhất trong thế giới.
    Trong bốn h́nh thức trên đây, không có h́nh thức nào áp đụng cho chúng ta được, v́ những lư do mà mọi người đều đoán biết. H́nh thức Đảng Cộng Sản không thể chấp nhận được v́ chúng ta đă đặt vấn đề tiên quyết loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản, và v́ h́nh thức đó không có khả năng thỏa măn điều kiện bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia. H́nh thức chức vụ Tổng Thống ở Pháp cũng không hoàn toàn bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia. Nhà Nguyễn đă bỏ lỡ cơ hội áp dụng h́nh thức Hoàng Gia. H́nh thức tối cao Pháp đ́nh ở Mỹ không thể áp dụng được v́ kinh nghiệm lănh đạo của chúng ta c̣n ấu trĩ, trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia. Chúng ta phải t́m một h́nh thức tương tự như h́nh thức thứ tư trên đây, nhưng để được thích nghi hóa với hoàn cảnh địa phương của chúng ta, không đ̣i hỏi một kinh nghiệm lănh đạo mà chúng ta c̣n thiếu, và một tinh thần trách nhiệm cao độ chỉ t́m được ở một số ít người.
    Chúng ta có thể đặt ra một Thượng hội đồng quốc gia, gồm những người có công trạng với tổ quốc và thấu triệt các vấn đề lănh đạo quốc gia, mà số lượng sẽ phù hợp với hoàn cảnh. Số người này sẽ được thay đổi một bách phân, trong một định kỳ, theo những thể thức thích nghi với điều kiện nội bộ của chính trường Việt Nam. Và trong một chu kỳ nhất định, Thượng hội đồng sẽ bầu một Quốc Trưởng, trong hay ở ngoài, hàng ngũ của ḿnh.
    Thượng hội đồng sẽ tượng trưng cho sự lănh đạo liên tục quốc gia, riêng biệt với nhiệm vụ Quốc Trưởng. Quốc Trưởng thể hiện cho sự liên tục đó trong thực tế và đồng thời là người thụ thác các bí mật quốc gia.
    Điều kiện thay đổi người lănh đạo có thể thực hiện được bằng cách giao quyền hành pháp cho một người Thủ Tướng, chọn trong những người lănh đạo của hai đảng chính trị sẽ nói đến dưới đây. Thủ Tướng sẽ do Quốc Trưởng bổ nhiệm với sự đồng ư của tổ chức tượng trưng cho sự lănh đạo liên tục của quốc gia. Để tránh các sự lạm dụng có thể xảy ra, các nhà soạn hiến pháp có thể đặt ra những cơ thức kiểm soát giản dị và hữu hiệu.

    Hai khuynh hướng

    Hai yếu tố chính, trong trạng thái thăng bằng động tiến của một quốc gia, là quyền lợi ngắn hạn của cá nhân của các phần tử trong tập thể và quyền lợi dài hạn của tập thể. Nếu chúng ta đặt nặng về quyền lợi cá nhân và bỏ quyền lợi của tập thể, tập thể suy đồi rồi quyền lợi cá nhân cũng mất, v́ không được bảo vệ bởi tập thể. Nhưng nếu chúng ta chỉ chú trọng đến quyền lợi tập thể và hy sinh tất cả quyền lợi của cá nhân, th́ các phần tử của tập thể không c̣n lư do sống nữa, và chính mục đích của tập thể, là bảo vệ đời sống cho cá nhân, cũng sẽ phá sản và do đó tập thể không c̣n lư do tồn tại nữa.
    V́ vậy cho nên, sự giữ một trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể là điều chính yếu trong sự lănh đạo quốc gia.
    Đă nhận thức như vậy rồi th́ biện pháp hữu hiệu để cụ thể hóa việc nuôi dưỡng trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể, là thu họp hai xu hướng tự nhiên phải có ở mỗi phần tử của tập thể vào hai nguồn tư tưởng chính trị. Một bên nặng v́ tập thể và một bên nặng về cá nhân. Trong thực tế hai Đảng chính trị tự đặt cho ḿnh, một bên, một mục đích bảo vệ quyền lợi tập thể, và một bên, mục đích bảo vệ quyền lợi cá nhân, thay nhau mà lănh đạo quốc gia dưới sự kiểm soát tương phản. Các nhà lănh đạo của hai đảng thay nhau nắm quyền hành pháp đương nhiên được quốc gia cung cấp phương tiện hoạt động và Đảng nắm quyền đối lập cũng phải được quốc gia cung cấp phương tiện hoạt động.
    Đại diện của hai đảng thi hành nhiệm vụ của ḿnh ở nghị trường. Và nhiệm vụ đó là lập pháp và kiểm soát hành pháp.
    Dưới các chế độ độc đảng, như các chế độ độc tài hay Cộng Sản, sự kiểm soát hành pháp hoặc không có hoặc thi hành một cách tương đối. Sở dĩ, dưới chế độ Cộng Sản sự tự phê b́nh và tự kiểm thảo đă được phát huy là v́ chế độ độc đảng của họ không chấp nhận một sự kiểm soát từ ngoài đưa đến, cho nên bắt buộc phải tổ chức một sự tự kiểm soát trong nội bộ. Nhưng một sự tự kiểm soát trong nội bộ không bao giờ chu đáo được, bởi v́, dầu mà các người tự phê b́nh, tự kiểm thảo trong nội bộ có đủ thành thật đi nữa, một điều rất ít có, th́ họ vẫn có thể thành thật mà lầm lẫn. Trong khi đó, một sự kiểm soát từ bên ngoài đưa đến, đương nhiên không mù quáng trước các lầm lẫn của đối phương.
    Nhiệm vụ lập pháp không thể hoàn toàn giao phó cho tổ chức nghị trường được. Trong tŕnh độ dân trí hiện nay của xă hội chúng ta, tính cách đại diện sâu rộng cho nhân dân không thích hợp với khả năng chuyên môn mà công cuộc lập pháp đ̣i hỏi. Nhiệm vụ lập pháp cần giao cho một tổ chức lập pháp chuyên môn, gồm những nhà luật học về hiến pháp và luật pháp. Tổ chức nghị trường có thể đề nghị dự án luật, phản đối hay chấp nhận dự án luật.
    Hai đảng chính trị có nhiệm vụ mở rộng vấn đề lănh đạo và đào tạo nhiều người lănh đạo.
    Dưới bộ máy lănh đạo, có bộ máy hành chính, bộ máy quân sự và bộ máy tổ chức quần chúng. Bộ máy lănh đạo là cái năo, bộ máy hành chính và bộ máy quân sự là chân tay, và bộ máy tổ chức quần chúng là cái vận tống để đưa bộ máy lănh đạo đến nhân dân và đưa nhân dân đến bộ máy lănh đạo.
    Như thế, xây dựng một bộ máy lănh đạo Tây phương hóa không phải là đặt ra những bộ phận hành pháp, lập pháp, tư pháp..., giống như những bộ phận tương tự nhận thấy ở các bộ máy lănh đạo của các nước Tây phương, hoặc dịch những danh từ của họ đă dùng để đặt cho các bộ phận của chúng ta đă tạo ra một cách miễn cưỡng. V́ như thể là chúng ta lại mắc vào cái bệnh h́nh thức. Bệnh h́nh thức ở đây cũng như ở các lĩnh vực khác của đời sống quốc gia, là di sản của thời kỳ Tây phương hóa không mục đích và không đường hướng thời Pháp thuộc.
    Xây dựng một bộ máy lănh đạo Tây phương hóa, là trước hết t́m hiểu bản chất của bộ máy đó, là phân tích các nguyên tắc ngự trị của bản chất đó, và nhận thức các h́nh thức dùng để cụ thể hóa các nguyên tắc trên.
    Sau đó, với những vật liệu địa phương, được sử dụng trong hoàn cảnh địa phương, chúng ta xây dựng một bộ máy lănh đạo thích nghi và hữu hiệu cho chúng ta, với những h́nh thức cố nhiên phải uốn nắn theo những điều kiện mà chúng ta đă nhận thức.
    Nói một cách khác, làm thế là chúng ta đă Tây phương hóa có đường hướng bộ máy lănh đạo của chúng ta. Sau khi phân tích và nhận thức các nguyên tắc ngự trị bộ máy lănh đạo Tây phương, chúng ta xây dựng với những vật liệu của dân tộc và được sử dụng trong hoàn cảnh hiện tại của dân tộc, một bộ máy lănh đạo thích nghi với hoàn cảnh của chúng ta nhưng vẫn tôn trọng những nguyên tắc ngự trị bộ máy lănh đạo của Tây phương. Những nguyên tắc đó không khác những nguyên tắc ngự trị khả năng sáng tạo khoa học mà chúng ta đă biết. Trong trường hợp này, là tính cách ngăn nắp của các bộ phận của bộ máy lănh đạo. Tính cách phân minh của sự phân chia trách nhiệm và quan niệm chính xác về sự liên hệ giữa các trách nhiệm.

    Kỷ luật quốc gia.

    Giả sử chúng ta có thành công trong công cuộc tổ chức bộ máy lănh đạo quốc gia, th́ sự thành công của bộ máy đó, trong công việc lănh đạo quốc gia, lại tùy thuộc ở yếu tố nhân sự. Bộ máy lănh đạo quốc gia sẽ thành công trong công việc lănh đạo quốc gia, nếu các nhân sự có trách nhiệm trong mỗi bộ phận của bộ máy, hiểu rơ phạm vi và giới hạn của trách nhiệm, quả quyết thi hành trách nhiệm và có đủ khả năng đảm đương trách nhiệm. Và nhân dân, mặc dù không ư thức một cách sung măn các vấn đề lănh đạo, nhưng cũng phải được trang bị đủ kiến thức để ư thức vấn đề cần phải giải quyết của dân tộc, và chấp nhận hay phản đối một sự lănh đạo có lợi hay có hại cho vấn đề này.
    Do đó, vấn đề tổ chức quần chúng là một vấn đề chính yếu trong đời sống quốc gia, như chúng ta sẽ thấy với chi tiết ở một đoạn dưới đây.
    Các yếu tố nhân sự kể trên đây thuộc vào một biểu lộ tinh thần chung: tinh thần kỷ luật quốc gia. Tinh thần kỷ luật là một sự kiện thiết yếu cho mọi tập thể. Có tập thể là có kỷ luật. Có kỷ luật tập thể mới tồn tại. Tập thể càng lớn, kỷ luật càng thiết yếu, càng phức tạp và vô h́nh. Tập thể quốc gia là một tập thể lớn nhất của một dân tộc v́ thế kỷ luật quốc gia thiết yếu nhất cho dân tộc.
    Có thể quan niệm kỷ luật quốc gia dưới hai h́nh thức, kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận, và kỷ luật quốc gia cưỡng bách. Nếu mỗi người của chúng ta ư thức được tính cách thiết yếu của kỷ luật quốc gia và tự qui phục kỷ luật đó, th́ chúng ta áp dụng một kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận. Dân tộc càng có tính khí, kỷ luật quốc gia càng được tự do ưng thuận. Nếu chúng ta không tự qui phục kỷ luật quốc gia, th́ sự sống c̣n của tập thể chúng ta sẽ bị cưỡng bách đặt ḿnh vào kỷ luật quốc gia....
    Tuy nhiên, vấn đề kỷ luật quốc gia, cũng như tất cả các vấn đề liên quan đời sống của một cộng đồng, vô cùng phức tạp. Từ thái độ cực đoan cưỡng bách của phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản đến thái độ cực đoan tự do đến hỗn loạn, c̣n có một loạt trạng thái thăng bằng, như một quang phổ, ḥa hợp tự do và cưỡng bách. Thả lỏng cho tự do hoành hành đến hỗn loạn, hay đặt thành nguyên tắc cực đoan cưỡng bách theo phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản, đều là những thái độ chọn một thăng bằng chết, là chọn một con đường dễ. Trong khi đó đời sống, cũng như việc lănh đạo quốc gia, trước hết là duy tŕ và phát triển một trạng thái thăng bằng động tiến giữa hai lực lượng tương phản.
    Trong trường hợp kỷ luật quốc gia, thực hiện trạng thái thăng bằng động tiến có nghĩa, cho các quốc gia ở trong khối tự do, là đặt nguyên tắc tôn trọng tự do nhưng chế ngự bằng một định phân cưỡng bách cần thiết để bồi dưỡng và phát triển thăng bằng. Định phân cưỡng bách lớn hay nhỏ tùy theo tŕnh độ tự giác của các phần tử trong tập thể đối với tính cách thiết yếu của kỷ luật cộng đồng; Nếu tŕnh độ tự giác cao, định phân cưỡng bách nhỏ, và nếu tŕnh độ tự giác thấp, quyền lợi của cộng đồng đ̣i hỏi một định phân cưỡng bách cao. Định luật của xă hội là như vậy: nếu tinh thần tự chủ cao, th́ tŕnh độ tự giác sẽ cao, phân định cưỡng bách sẽ thấp, và chế độ sẽ là một chế độ có nhiều tự do, và mỗi phần tử trong cộng đồng sẽ tự ḿnh làm chủ ḿnh. Nếu tinh thần tự chủ kém, tŕnh độ tự giác sẽ thấp, phân định cưỡng bách sẽ cao và chế độ sẽ là một chế độ từ do hạn chế, và mỗi phần tử trong cộng đồng sẽ nhường một phần lớn, quyền làm chủ ḿnh, cho cộng đồng.
    Nếu tŕnh độ tự giác vô cùng nghèo nàn, th́ thăng bằng sẽ bị phá vỡ, theo một trong hai cơ thức, tuy có khác nhau nhưng đương nhiên sẽ dẫn dắt đến cùng một kết quả.
    Nếu tŕnh độ tự giác vô cùng nghèo nàn, sự thực hiện một kỷ luật quốc gia, nhân danh quyền lợi của cộng đồng, sẽ đ̣i hỏi định phân cưỡng bách cao độ. Các nhà lănh đạo trong hoàn cảnh đó, dễ bị các phương pháp độc tài cám dỗ. Riêng đối với chúng ta, chúng ta đă biết một chế độ độc tài sẽ mở cửa cho ngoại xâm của Tàu và cho đời sống nô lệ trong nhiều thế hệ.
    Nên, trong trường hợp một tŕnh độ tự giác nghèo nàn, nhưng các nhà lănh đạo không v́ quyền lợi của cộng đồng mà đ̣i hỏi một định phân cưỡng bách cao độ, sự hỗn loạn sẽ hoành hành và đương nhiên cũng mở cửa cho ngoại xâm, bằng cách làm tan ră cộng đồng...
    Như thế vấn đề đă rơ. Nếu chúng ta muốn làm chủ chúng ta, nghĩa là làm chủ vận mạng quốc gia của chúng ta, chúng ta phải cố gắng tạo cho chúng ta một tŕnh độ tự giác cao đối với kỷ luật quốc gia. Nếu không người khác sẽ làm chủ vận mạng chúng ta.

    Bộ máy quần chúng.

    Như chúng ta đă thấy, trong một phần trên đây, một đặc tính của sự tan ră của xă hội chúng ta là sự mất tín hiệu tập hợp đối với các phần tử trong cộng đồng quốc gia.
    Ở trong một cộng đồng, tín hiệu tập hợp quan trọng ở chỗ, nếu có tín hiệu tập hợp, th́ sự huy động các phần tử của cộng đồng để theo đuổi một công cuộc chung mới có thể thực hiện được.
    Nước Nhật, khi bắt đầu công cuộc Tây phương hóa, lợi khí sắc bén nhất của họ là tổ chức xă hội c̣n nguyên vẹn, và sự tin tưởng vào Thiên Hoàng. Các nhà lănh đạo Nhật đă dùng sự tin tưởng vào Thiên Hoàng làm một tín hiệu tập hợp để huy động quần chúng thực hiện công cuộc phát triển dân tộc. Chúng ta đă biết sự thành công của họ. Giả sử chúng ta bắt đầu công cuộc Tây phương hóa đồng thời với Nhật, nghĩa là khi Tây phương mới tấn công, lúc mà xă hội chúng ta chưa bị tan ră, th́ chắc chắn những giá trị tiêu chuẩn lúc bấy giờ của xă hội có thể dùng làm những tín hiệu tập hợp rất hiệu quả. Và sự huy động toàn dân vào công cuộc phát triển dân tộc có nhiều ưu thế hơn ngày nay.
    Xă hội chúng ta ngày nay, sau thời Pháp thuộc, bị tan ră. Các tín hiệu tập hợp không c̣n. Các nhà lănh đạo, để qui tụ quần chúng, hoặc khai thác mê tín, ở đâu cũng có, của quần chúng, hoặc áp dụng một chính sách độc tài cưỡng bách.
    Khai thác mê tín, sẽ dẫn dắt đến một ngơ không lối thoát v́ hai lư do. Trước nhất, chính người lănh đạo cũng mê tín, th́ sẽ đưa đám người tin tưởng ở ḿnh vào những con đường phiêu lưu không thiết thực và nhất là không thích nghi với những vấn đề chính của dân tộc. Nếu người lănh đạo chính ḿnh không mê tín, nhưng đám người mê tín theo họ sẽ không sống trong thực tế nữa. Và nếu họ đă không sống trong thực tế, th́ không làm sao dẫn dắt đám người mê tín này vào con đường Tây phương hóa. Không làm sao mang các lư luận xác thực của khoa học thay thế vào các sự huyền bí và hoang đường trong năo của họ.
    Đối với một chính sách độc tài cưỡng bách, chúng ta đă biết hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của chúng ta không cho phép chúng ta áp dụng, nếu chúng ta không muốn đưa dân tộc trở vào ṿng nô lệ.
    Trong một xă hội mà tổ chức không bị tan ră, tín hiệu tập hợp c̣n giữ nguyên giá trị, các tổ chức quần chúng không thiết yếu cho công cuộc lănh đạo bằng trong một xă hội mà tín hiệu tập hợp không c̣n.
    Và xă hội của chúng ta ngày nay ở trong t́nh trạng thứ nh́, v́ thế cho nên tổ chức quần chúng đối với chúng ta vô cùng cần thiết.

    Xă hội không tổ chức.

    Chúng ta đă thấy, trong một đoạn trên, xă hội của chúng ta ngày nay hoàn toàn vô tổ chức. Sự vô tổ chức đă bắt đầu từ ngày, trong công cuộc Nam tiến, sự chiếm đóng các đất mới đă không được thi hành đúng theo nguyên tắc tổ chức hạ tầng của xă hội chúng ta, lúc nguyên khởi. Các làng mạc ở Nam miền Trung và miền Nam mất dần h́nh thức chặt chẽ và trù mật cần thiết cho một cuộc sống tập thể. V́ vậy cho nên, cùng với sự mất h́nh thức trù mật của hạ tầng, tổ chức xă hội hạ tầng cũng mất.
    Thời kỳ Pháp thống trị đă làm cho sự tan ră đó càng thêm trầm trọng. Đối với nơi nào mà các tổ chức hạ tầng đă hư hỏng th́ sự thống trị của Pháp càng làm cho sự hư hỏng tăng thêm nhiều lên. Bởi v́, như chúng ta đă biết, bản chất của nền cai trị thực dân là không thiết ǵ đến tương lai của dân bị trị. Nhiệm vụ của nó chỉ giữ trị an. Và v́ vậy cho nên tổ chức quần chúng của chúng ta đối với người Pháp, là không quan hệ, ngược lại, nó c̣n là một trở lực cho công cuộc trị an. Người Pháp chỉ chú trọng đến một bộ máy hành chính chuyên giữ trị an để phục vụ quyền lợi kinh tế của người thống trị. Và như vậy th́ sự giữ cho dân chúng sống rời rạc là một yếu tố quyết định cho sự thành công của chính sách thực dân.
    Đối với những vùng mà tổ chức hạ tầng của chúng ta c̣n tương đối chặt chẽ, như ở miền Trung và miền Bắc, th́ người Pháp cũng đă làm vỡ tung các tổ chức xă hội hạ tầng của chúng ta. Trước hết, họ đă mang vào nước chúng ta một hệ thống kinh tế, mà tầm hoạt động bao trùm hết lănh thổ Đông Dương thuộc quyền của họ, để thay thế một hệ thống kinh tế đặt trên căn bản tổ chức làng mạc xưa của chúng ta. Kế đó là sự đặt ra chính sách thuế vụ trực tiếp với người dân để thay thế cho chính sách thuế vụ cũ đặt qua trung gian làng mạc, kể như là những đơn vị xă hội, sau gia đ́nh.
    Dù mà các tổ chức hạ tầng của chúng ta có bền chặt đến đâu, những biện pháp trên cũng làm vỡ tung ra được.
    Hậu quả của những sự kiện trên, là sự vô tổ chức của xă hội chúng ta ngày nay. Nếu những tín hiệu tập hợp của chúng ta c̣n nguyên giá trị, th́ ảnh hưởng của sự vô tổ chức này sẽ bớt tai hại. Nhưng chính tín hiệu tập hợp của chúng ta lại cũng mất đi v́ thời gian thống trị của thực dân Pháp.
    V́ vậy cho nên, sự vô tổ chức ngày nay là một t́nh trạng không thể nào để vậy được nếu chúng ta muốn dẫn dắt cộng đồng dân tộc vào con đường thực hiện những công tŕnh vĩ đại như công cuộc phát triển mà chúng ta phải đạt cho kỳ được trong giai đoạn này .




    Còn tiếp

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 10:19 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 07:57 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2011, 12:24 PM
  4. Replies: 56
    Last Post: 03-10-2010, 06:05 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •