Page 4 of 9 FirstFirst 12345678 ... LastLast
Results 31 to 40 of 84

Thread: CÁI GIÁ CUẢ TỰ DO : NHỮNG CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU

  1. #31
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Khoảng 2 giờ sáng ghe ngừng, cặp vào một ghe khác nhỏ hơn. Họ nói đó là tàu đi biển.

    Tên chỉ huy lên cò súng, ra lệnh tất cả bỏ hành lý tại chỗ kể cả giày dép đang mang, xếp hàng một, lần lượt sang tàu.

    Tàu dài khoảng 14m, rộng 4m. Họ ghép thêm một căn gác lửng để chứa cho được nhiều người. Họ bắt chúng tôi ngồi xổm sát vào nhau. Một lớp trên gác, một lóp trên sàn tàu, hỏ đầy ba trăm người chúng tôi ra biển trên con tàu mong manh đó, không lương khô, không nước uống.

    Trên tàu có số thanh niên đi theo phân làm 3 tốp, chia nhau án ngữ lối ra mũi tàu. Tất cả chúng tôi thật sự đã bị nhốt kín trong khoảng tàu.

    Nhìn ra bên ngoài, chiếc ghe chài lớn gấp bốn lần chiếc ghe vượt biên, đèn điện sáng choang, đang quay mũi vào bờ. Thuyền chúng tôi nổ máy ra khơi, bắt đầu chuyến hải hành mà biên giới sanh tử mong manh như tơ tóc.

    Đất mũi lùi xa dần, những gì thân thiết nhất đã bỏ lại sau lưng. Tàu đi với tốc độ 20 dặm giờ.

    Cửa biển rộng thênh thang, trời nước mênh mông, tiếng máy tàu nổ nghe nhỏ mà vang thật xa. Cả tàu im lặng như nín thở.

    Tôi chợt bắt gặp cái cảm giác trong một đêm khuya khoắt của 5 năm về trước khi tôi cùng cả ngàn sĩ quan bạn ngồi trên những chiếc Molotova bít bùngm có bộ đội ghìm súng canh chừng, rời trường Nguyễn Bá Tòng (nơi tập trung) lên Trảng Lớn để cải tạo!

    Tiếng máy nổ trên biển, trong rừng, đồng vọng trong đêm nghe thật giống nhay, rờn rợn như đi vào cõi chết.

    Tàu đi vài giờ thì mắc cạn. Trai tráng nhảy xuống đẩy rồi đi tiếp.

    Bỗng: “Rầm!” một tiếng! Căn gác lửng chứa cả trăm người sập xuống làm bị thương một số và đè chết 2 em bé.

    Máu đã chảy. Nhiếu tiếng la thất thanh.

    Khủng khiếp quá! Tai nạn, chết chóc, thật sự đã đổ ập lên đầu chúng tôi rồi.

    Hoàn cảnh bắt mọi người phải xử trí nhanh. Không dừng lại để than khóc. Phải vượt sóng dành sự sống. Những tấm ván từ căn gác đó được dựng vào hai bên hông tàu thành hình chữ V như hai sườn núi. Giải quyết được một số chỗ ngồi nhưng lại gây khó thở cho số người ngồi bên dưới trên sàn tàu.

    Số phận chúng tôi đã bị kẻ cướp an bài. Phải ngồi yên tại chỗ. Nếu xê dịch tạo hỗn loạn tàu sẽ chìm xuống biển sâu. Nỗi hốt hoảng lắng xuống. Con tàu dập dềnh đi, với tốc độ lười biếng, mỏi mệt, ngược với sự nôn nóng của mọi người.

    “Đi thế này thì bao giờ mới tới hải phận quốc tế?” Người ta nhìn nhau chán nản.

    Đã gần trưa rồi, từ khi đi chưa có chút gì lót lòng. Nhiều người khát nước lả ra.

    Bỗng đàng xa có tàu đi tới. Tưởng là tàu ngoại quốc, nhiều người vẫy tay kêu cứu.

    Tàu lạ phăng phăng chạy về hướng chúng tôi. Hy vọng được cứu tắt ngấm khi một loạt đại liên nổ giòn thị uy, đảo một vòng quanh tàu chúng tôi rồi quăng dây kéo giữ lại.

    Mọi người kêu trời sửng sót. Đó là tàu tuần duyên của Việt Cộng. Tháp buồng lái được sơn lá cờ đỏ sao vàng thật lớn. Đỉnh tháp đặt một khẩu đại liên. Có khoảng bảy, tám quân nhân sắc phục võ trang. Dưới vành nón cối, vẻ mặt họ lạnh lùng.

    Một vài người nhanh trí liền nhảy qua tàu họ để thương lượng. Trong lúc đó mọi giấy tờ mang theo chúng tôi đều vo tròn ném xuống biển.

    Cái thủ tục “đầu tiên” đã được đặt ra. Hai cái nón lật ngửa được chuyền tay nhau. Vàng bạc, đôla góp vào rồi đem nạp.

    Chưa đủ! Một vòng góp thứ hai được mang sang. Hai người đại diện đã quay về. Tất cả chúng tôi hồi hộp đợi. Thình lình con tau đỏ nổ máy chạy xa bỏ chúng tôi lại trong nỗi mừng vừa trải cơn ác mộng. Niềm hy vọng lúc ra đi vẫn còn.

    Còn tiếp...

  2. #32
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tàu lại tiếp tục nhảy sóng. Tôi thở phào, siết chặt con tôi vào lòng, mừng thấy con còn khỏe.

    Mặt trời xuống sâu ở chân trời. Đêm đến thật nhanh. Hoàng hôn trên biển buồn nát ruột

    . Ngọn đèn điện treo giữa khoang tàu tỏa ánh sáng vàng vọt. Con người trở thành những bóng đen chập chờn. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh con tàu ma đang đi trên vùng biển chết.

    Hy vọng sống sót thật mong manh. Đói khát, ngột, lả, lo sợ, hốt hoảng, tinh thần suy sụp, đã có người mất trí, điên loạn.

    Những lời nói vô nghĩa thốt ra. Các bà níu nhau đòi nợ, đòi góp hụi, đòi chồng, đòi con. Người ta dẫm lên nhau. Có người cố lách hàng rào người để ra khỏi khoang thuyền nhưng bị đạp trở lại. Khoang tàu bấy giờ là một địa ngục.

    Dưới sâu của sàn tàu chắc đã có người chết ngộp hoặc đè lên nhau mà chết. Có những thanh niên lực lưỡng lách mình ra ngoài rồi nhảy xuống biển tự nhiên như đi tắm. Chua xót bi thảm quá! Họ đánh mất sinh mạng trong cơn mê sảng.

    22 năm trôi qua nhớ lại mà ngậm ngùi muốn khóc.

    Con trai tôi cũng bị khủng hoang tinh thần, nó vùng đứng lên vung tay nói thao thao bất tuyệt. Tôi hoảng hốt điếng người, ôm lấy con rồi van xin những thanh niên cho tôi đem con ra ngoài năm phút cho nó tỉnh.

    Họ cho, tôi kéo con tôi ra, một chân ôm cột neo thuyền, tay và chân kia quấn chặt lấy tay con tôi, sợ nó nhảy xuống biển. Chiếc lon Guigoz ở đâu lăn tới, tôi chộp lấy múc nước biển tưới lên người. Tôi nói cho con tôi nghe về mẹ và các chị nó ở nhà “đang cầu nguyện cho con và ba. Gắng lên nghe con!”.

    Từ đó đến sáng, tôi không còn biết gì thêm về cảnh điên loạn trong khoang tàu. Mặt trời đã lên, bình minh trên biển rạng rỡ vả êm ả.

    Những thanh niên không còn án ngữ khoang tàu. Họ khiêng các xác chết thả nhẹ xuống biển.

    Trong lúc đó có một thanh niên tên D. từ khoang tàu bước ra, mỉm cười, vươn vai rồi nhảy tòm xuống biển. Hoảng quá, chúng tôi chỉ kịp ném theo cho D. mấy cái can nhựa.

    Sát chỗ tôi ngồi có 5 xác chết, không biết họ đưa ra từ lúc nào. Ước lượng số người chết đã gần 40 người! Một số nữa còn đang thoi thóp.

    Tàu đi không gặp hải tặc, thời tiết tốt, chỉ vì điều kiện sống trên tàu quá tồi tệ, chở quá đông, chỉ một ngày trên biển mà số người chết nhiều đến như vậy.

    Tàu bắt đầu rộng và thoáng. Hải phận quốc tế có nhiều tàu đi lại. Chúng tôi vẫy gọi mà chẳng ai buồn nghe. Lúc 2 giờ chiều có chiếc máy bay từ đâu bay đến lượn nhiều vòng trên không rồi bay đi. Có nhiều hy vọng được cứu.

    Vài giờ sau, từ xa trực chỉ một con tàu đánh cá Thái Lan, tiến sát vào tàu chúng tôi rồi quăng dây kéo. Phong cách họ rất hải tặc: đóng khố, mình trần, tay cầm búa, nhưng họ có vẻ thân thiện, đến cứu hơn là đến cướp!

    Trong lúc đó, anh chàng D. cũng được một tàu khác vớt ở đâu đó, được một sà lan chở đến nhập bọn. Thật là một chuyện lạ!

    Tàu chúng tôi ép sát tàu đánh cá Thái, mọi người nhảy sang tìm thức ăn, nước uống, nói cười rôm rả, tàu đùa sóng rào rạt, nước biển và khói sóng sáng lên dưới ánh đèn, toàn cảnh linh hoạt lạ thường.

    Vừa chập choạng tối thì tàu chúng tôi được kéo đến gần một chiến hạm Mỹ đèn giăng sáng choang, thủy thủ đứng trên tàu nhìn xuống rất đông. “Sống rồi! Được cứu rồi!” mọi người hét lên mừng rỡ. (Sau này tôi biết được là phi cơ sau khi phát hiện tàu chúng tôi, họ đã điện về tòa đại sứ Mỹ ở Bangkok. Nơi đây thuê tàu Thái đi kéo, cùng lúc điện cho tuần dương hạm đón chúng tôi).

    Một chiếc thang sắt được thả xuống, hai thủy thủ Mỹ đứng ở cuối thang, dìu chúng tôi từng người lên chiến hạm. Họ đưa chúng tôi xuống sàn tàu bên dưới, trút bỏ quần áo, chỉ giữ lại tiền của, nữ trang. Tất cả được tắm rửa và nhận mỗi người một cái mền rồi lên boong tàu tập họp.

    Tuần dương hạm US ROBINSON 12 quá lớn. 262 người chúng tôi chiếm một diện tích lớn đủ rộng để nằm. Mỗi người được phát một phần ăn như đang picnic!

    Thoát chết, trước mặt là cuộc sống tự do, cái mà chúng tôi vừa đổi mạng sống để có được. Làm sao mà tả hết được nỗi vui trong lòng. Bộ chỉ huy tàu cần vài người lên may giúp áo quần cho hai em bé vì người trong gia đình cháu đã chết hết. Thì ra đó là hai cháu nhỏ nhất trong nhóm 9 người của anh Th. ..Tôi hết sức bàng hoàng, chợt nghĩ đến người đàn ông lái xe vespa, làm sao ông sống được khi biết tin buồn này.

    Còn tiếp...

  3. #33
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nghe nói ngay đêm tàu chúng tôi được vớt, đài VOA đi loan tin, và mãi tháng sau gia đình bên nhà mới biết ai còn, ai mất...Gần 40 người đã nằm lại dưới biển sâu, 262 người đã được cứu.

    Họ đang ở trên boong tàu, súng sính trong những bộ áo quần quá cỡ của thủy thủ trên tàu cho mặc tạm, trông thật ngộ nghĩnh.

    Về khuya, tất cả nằm la liệt. Tôi cũng thiếp đi.

    Khi tỉnh dậy nhìn quanh, tôi lặng người xúc động. Vây quanh chỗ chúng tôi nằm là những sĩ quan và thủy thủ. Họ đang ngồi canh thức, nhìn chúng tôi, vẻ mặt đăm chiêu, xót thương, pha lẫn chút kinh ngạc.

    Họ sợ chúng tôi mê sảng rồi nhảy xuống biển. Có tiếng la ú ớ, có kẻ đạp tung mền...là có anh hải quân chạy đến vực dậy, cho ướng nước rồi kéo chăn đắp lại.

    Cảnh tượng đó không có gì để kể cho dài, đơn sơ mà đầy ắp tình người, xúc động làm rơi nước mắt.

    Sáng hôm sau, vị thuyền trường cho biết là tất cả sẽ được gửi ở trại tị nạn Leamsing, Thái Lan 40 ngày, ở trại Galang, Indonesia 3 tháng, rồi đi định cư ở Mỹ. Vì tàu đang thực tập hành quân

    Chúng tôi được ở trên tàu 4 ngày, sống thật là thoải mái. Ngoại trừ đêm thứ hai sau đêm được vớt, cả tàu làm lễ thủy táng cho 3 người phụ nữ bị thương quá nặng không cứu được.

    Mọi người trên tàu đứng nghiêm, tiễn ba thuyền nhân đi vào lòng biển lạnh trong tiếng kèn buồn não ruột.

    Từ đó, 262 người chúng tôi trở thành cái tên gọi “Boat 262 P” của con tàu bất hạnh.

    Cái tên mãi mãi nằm sâu trong ký ức tôi, chập chờn những nét mặt u buồn lãng đãng như sương khói.

    Chiều ngày thứ tư, chúng tôi bùi ngùi từ giã con tàu cứu mạng, từ biệt những tấm lòng vàng. Đi chân đất đặt chân lên đất liền, chúng tôi bắt đầu cuộc sống của người tị nạn thất quốc, ở trong các trại tị nạn đúng theo lịch trình đã quy định.

    Đời sống ở các trại tị nạn lúc đó thật bình thường, được Cao Ủy Tị Nạn nuôi ăn, ngày hai buổi lo học Anh Văn làm vệ sinh trại giữ gìn sức khỏe.

    Ngày 27-4-1981, tất cả được định cư ở nhiều nước. Bố con tôi và một số nữa được định cư ở Mỹ.

    Giờ đây sau 22 năm ngồi ghi lại chuyến hải hàng tang tóc, tôi nhớ đến những người bạn đồng thuyền năm nào vừa mới quen đã mất.

    Ôi! Sinh mạng con người sao mà tiêu tan dễ dàng quá. Tôi nghĩ đến gần nửa triệu đồng bào vượt bên đã chết bằng đủ cách, đủ nghiệp. Chết phơi xác trong rừng sâu, chết âm thầm trên đảo vắng. Chết khô, chết rửa. Chết đói, chết khát. Chết vì điên. Chết vì bịnh. Chết vì bọn hải tặc man rợ, chết vì bọn tham vàng đẩy người ra biển. Chết vì bị bắn để phi tang, chết ngay trên cửa biền, trong lòng sông của đất nước mình.


    Và còn biết bao nhiêu cô gái đang bị bọn hải tặc nhốt trên hoang đảo, hoặc đang bị bọn buôn người đày ải. Thương quá! Đau đớn qua! Buồn nát ruột! Trên đường vượt biên, quả đã không có cái chết nào yên lành dành cho họ.

    Tôi lại nghĩ đến thân nhân của họ đang ở quê nhà. Người ra đi nếu rủi ro chết thì cũng đã xong, nhưng thân nhân họ ở bên hà thì đang nửa điên, nửa tỉnh. Họ là cha, là mẹ, là ông, là bà, là chồng, là vợ, là anh, chị, em, là con của những người đã oan thác. Họ là người đàn ông cưỡi xe Vespa tiễn con đi mà đứt từng đoạn ruột. Họ là 2 cháu bé 5 và 6 tuổi còn sống sót trong nhóm 9 người của anh Th...Hai cháu đã mất mẹ, mất em, mồ côi ngay trên biển, phải ở lại trên tàu Mỹ chờ kiếm người bảo trợ. Hai cháu đã bơ vơ, lạc loài trong nỗi mất mát tận cùng.

    Ở bên nhà, có ai đó thường ra đứng bên bờ Thái Bình Dương dõi mắt ra khơi...

    Bút mực nào tả cho hết những niềm đau dằng dặc đó. Cái giá của Tự Do thật sự đã quý hơn sinh mạng.

    Trang thảm sử của người vượt biên đã đóng lại nhưng ánh sáng của tự do luôn lấp lánh hào quang.

    Những ai đã từng là THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN xin hãy làm người giữ lửa.

    TÂM HỒNG

    http://saigontimesusa.com/bai/thuyen...ngnhanai.shtml

  4. #34
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    CÁI GIÁ CUẢ TỰ DO : GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO




    Thấm thoát mà đã gần 20 năm. Những người Việt định cư trên những đất nước thứ ba đến bây giờ đã yên ổn với cuộc sống mới.

    Là một thuyền nhân, tôi cũng như bao người khác, đã không khỏi nhiều lúc ngồi suy nghĩ thẩn thờ, nhớ về những kỷ niệm khó quên của một chuyến đi đầy cam go, đầy hãi hùng vượt đại dương.

    Nay ban tổ chức đã làm một việc rất ý nghĩa; để chúng tôi, những thuyền nhân có dịp ôn lại kỷ niệm; và ghi lại một đoạn đời, có thể gọi là một giai đoạn bi thương của lịch sử dân tộc Việt Nam, qua hàng hàng lớp lớp làn sóng người bất chấp hiểm nguy, xuống thuyền vượt biển Đông tránh nạn Cộng Sản sau 1975.

    Viết bài này, với hy vọng đóng góp một phần nhỏ nhoi, để cho thế hệ Việt Nam sau này biết được nhữ gì chúng tôi đã đi qua, để họ biết quí các giá trị tương lai, đã được những người đi trước đánh đổi bằng nước mắt, và hơn thế nữa: bằng máu.

    [B]Riêng những người chưa hiểu rõ chế độ Cộng Sản, sẽ thấy được thêm tội ác của họ đã gây ra cho dân tộc Việt Nam, vốn đã nhiều đau thương và bất hạnh.[/B

    ]Cuộc sống ngày đó rất khắc nghiệt. Mẹ tôi thường nói , bằng mọi giá phải cho tôi ra đi vì ba tôi là sĩ quan chế độ cũ; anh em tôi đương nhiên sẽ không vào được đại học, mà phải đi thanh niên xung phong hay đăng ký nghĩa vụ quân sự để bị đưa ra làm bia đỡ đạn trong cuôc xâm lăng Campuchia.

    Từ thành phố đến nông thôn, công an khu vực và bọn chỉ điểm ngày đêm rình rập như cú vọ, chỉ chực chụp lên đầu người dân những tội trạng vô lý.

    Thành phần trí thức và quân đội Việt Nam Cộng Hòa thì kéo lê xiềng xích trong hàng ngàn trại cải tạo mọc lê khắp mọi miền đất nước. Sài gòn như một người thiếu phụ với những giọt nước mắt sau tấm màn đen vô vọng.

    Những giọt nước mắt đã biến thành hy vọng khi biết bên kia bờ đại dương, các đất nước tự do đang chờ đón. Hy vọng đã nung nấu trong tim những người trẻ chúng tôi, chấp nhận hiểm nguy ra khơi chóng chọi với ba đào, nhất định phải vượt thoát khỏi cái đất nước tù tội.

    Còn tiếp...

  5. #35
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Sau nhiều lần vượt biên bị bắt ở khắp nơi: Vũng Tàu, Rạch Giá, Cần Thơ. Cuối cùng chúng tôi lại chuẩn bị ra biển

    . Chuyến đi này bắt đầu từ Ngọc Hà, một thôn nhỏ giữa Long Thành và Bà Rịa, trên đường ra Vũng Tàu.

    Năm đó là 1985, tôi được 18 tuổi. Nhiệm vụ của tôi là mang cái hải bàn trong cái giỏ lát đi xe đò cũng ít ai nghi. Đến nơi, tôi được sắp xếp dấu vào nhà một người quen.

    Suốt năm ngày nằm chờ, tôi được dặn không nên ra khỏi căn phòng, sợ dân làng và công an thấy lạ mặt sẽ tình nghi. Tôi chỉ nhìn được ra ngoài qua những kẻ hở trên vách lá dừa.

    Thôn này ở gần sông, dân cư sinh sống bằng nghề biển như đánh cá, đóng ghe, đan lưới... Đời sống họ thật lam lũ. Nhìn xa xa gần mé sông, có một chiếc tàu đang đóng, mũi tàu vươn lên ngạo nghễ, tôi tự nhủ không biết tàu mình đi có được như vậy không?

    Thế rồi đêm đó, chúng tôi được tin sẽ "đánh", có nghĩa là đi.

    Xăng dầu và lương thực đã được chuyển xuống ghe. Tôi chuẩn bị hết mấy món đồ mà mẹ tôi đã gói sẵn: thuốc say sóng, thuốc chống đói, phao cá nhân, một chiếc nhẫn hai chỉ may trong lai quần để lỡ bị bắt hoặc lọt sang trại tị nạn, có cái mà xoay sở hoặc đánh điện tín về nhà.

    Tôi chợt thấy thương mẹ tôi, đã lặn lội khắp hang cùng ngõ hẻm ở Sàigòn để tìm mua những thứ này, vốn được xem là đồ cấm. Bây giờ đã làm cha, tôi mới cảm nhận được cái khổ đau ngày nào mà mẹ tôi phải trải qua khi đưa đứa con trai lên đường, vào đại dương sóng gió để tìm tự do và tương lai, mà biết rằng chẳng bao giờ gặp lại được nhau.


    Hôm đó, là ngày 15 tháng 7, 1985. Gia đình tôi ở trọ cũng gởi ba đứa con đi chuyến đó nên họ làm bữa cơm cuối cùng tiễn chúng tôi.

    Bữa cơm này đúng ra nếu không được thịnh soạn thì cũng phải kha khá, vì những ngày sắp tới chúng tôi sẽ không còn cơ hội mà ăn uống đầy đủ để chống chọi với biển khơi, nhưng dọn ra vỏn vẹn chỉ một dĩa rau luộc, môt chém mắm và mấy trái cà pháo. Thế mới biết đời sống họ cơ cực đến đâu, trong khi nhà nước và bọn cán bộ thì mặc sức vơ vét và làm giàu.

    Ăn uống, từ biệt xong, khoảng 8 giờ, tôi được dẫn đi.

    Đi bộ rất lâu, băng qua các bờ ruộng, bờ lau trong đêm tối. Lâu lâu có tiếng chó sủa inh ỏi, chúng tôi phải ngồi xuống núp vào những cái mả đen ngòm.

    Nỗi sợ công an làm tôi quên hẳn cả sợ ma.

    Vừa đi, vừa chạy, rốt cuộc chúng tôi đến một bờ sông.

    Tôi được đưa đi bằng một chiếc xuồng nhỏ không máy. Người chèo thuyền ra hiệu bảo im lặng, rồi lặng lẽ chèo ra phía sông lớn. Thuyền đi cũng khá lâu, thinh lặng trong đêm để tránh trạm biên phòng.

    Những chiếc thuyền này, người việt biên thường gọi tiếng lóng là "tắc xi" hoặc "cá nhỏ" sẽ đưa người tới chỗ chuyển tiếp để lên "cá lớn" là tàu vượt biên.

    Thuyền đi qua những hàng đáy, là tiếng dân chài gọi những hàng cọc gỗ đóng ở cửa biển thành một hàng rào để bắt cá tôm. Tôi nghe gió biển lồng lộng và thấy nhiều thuyền bè đánh cá neo ở gần đó.

    Không khí trở nên hồi hộp vì biết đâu trên những tàu đó có công an phục kích.

    Lúc ấy khoảng 11 giờ đêm, người chèo thuyền chớp đèn pin về phía trước, chúng tôi hiểu đã ra đến điểm hẹn. Có ánh đèn trả lời.

    Ráng căng mắt ra, tôi thấy phía trước là một chiếc ghe gỗ chưa dài đến 10 thước. Tàu này đi được sao? Tôi tưởng tàu vượt đại dương phải lớn và chắc chắn ghê lắm, ai ngờ ...

    Bây giờ có sợ cũng đã trễ rồi, tôi cột cái giỏ vào người để rảnh tay leo qua ghe lớn. Đôi dép đã đứt khi lội qua mấy con mương trên bờ.

    Thế rồi " tắc-xi" cặp vào ghe lớn, sóng đập mạnh làm cả hai ghe đều chòng chành. Sau khi leo lên, tôi đưa mật mã, là một tấm hình nhỏ để cho người ta đem về, thì mẹ tôi mới giao cho hai cây vàng còn lại. Đưa mật mã xong, bụng tôi vẫn còn lo: lỡ chưa đi tới đâu mà bị bắt, thì ở nhà mình cũng đã giao hết tiền cho người ta.

    Còn tiếp...

  6. #36
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tôi bị thảy ngay xuống hầm. Thuyền nhỏ mà người rất đông. Sau này mới biết là có tất cả là 45 người trên chiếc thuyền dài 9m5 đó. Người ngồi như cá hộp, tối quá nên không nhận ra ai là ai, chỉ có mùi dầu xanh và mùi mồ hôi xông lên nồng nặc.

    Đến hơn nửa đêm, tàu nổ máy bắt đầu khởi hành. Tiếng máy nổ rất ồn nghe " bình... bình..." và chiếc ghe gỗ rung lên từng nhịp với tiếng máy cũ kỹ.

    Tôi thấy mừng vì tàu đã chạy, chứ ở đó quá lâu, công an ập đến thì hỏng.

    Ngồi dưới hầm quá ngột ngạt nhưng chúng tôi phải ráng chịu. Chạy một lát, tàu bỗng chạy chậm và dừng hẳn lại. Chúng tôi được dặn không ây tiếng ồn vì có công an biên phòng.

    Phía trên nghe tiếng chân người chạy qua chạy lại cùng với ánh đèn vàng quét sáng loáng ngang từng kẻ hở trên khoang tàu. Tim chúng tôi đập thình thịch, không ai dám thở mạnh, chỉ nghe tiếng thì thào cầu nguyện.

    Những đứa trẻ bị bố mẹ bịt chặt miệng, sợ để chúng khóc sẽ lộ ngay.

    Phía trên, tài công đang trình giấy phép đánh cá. Nếu có gì khả nghi, tụi công an đòi qua xét tàu thì kể như xong. Trình giấy tờ và vui vẻ hối lộ xong, chúng cho đi, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm.

    Tàu trực chỉ cửa Cần Giờ và hải đăng ra biển, sóng càng lúc càng lớn.

    Lúc này các cửa hầm được yêu cầu mở ra cho thoáng, tôi đứng dậy nghe gió lùa vào mặt mát rượi. Tôi muốn hít cho thật đầy buồng phổi, một cơn gió, một khoảng không gian cuối cùng của quê hương thân yêu.

    Nhìn lại, thấy tượng Chúa Giêsu đứng trên núi Bãi Sau Vũng Tàu, giang tay ra như che chở cho những người con quá bé nhỏ, quá tuyệt vọng, vì không chịu nổi cái ngục tù trên quê hương, phải ra đi tìm tự do.

    Tôi căng mắt ra nhìn cho rõ một lần cuối những dãy núi, những ánh đèn xa xa trong khi bình minh cũng vừa chợt ửng hồng ở chân trời phía trước mặt. Đó là quê hương tôi, thương biết mấy.

    Mảnh đất xa xa đó có mẹ tôi chắc đang thấp thỏm lo âu; có các em tôi bây giờ chắc đang còn say giấc ngủ. Bạn bè tôi, người con gái ngồ ngộ mới quen ở trường Nguyễn Thái Bình mà ra đi không dám nói lời chia tay. Biết đến bao giờ gặp lại.

    Chuyến đi này, ai biết chừng không là vĩnh biệt.

    Bạn thân tôi đó, thằng Thiện đô con ngày nào còn lọc cọc đạp xe một bọn đến trường, năm ngoái cũng ra đi. Nghe nói cả tàu bị mất tích, giờ này cũng chẳng có tin tức gì.

    Đi ngang nhà nó, giờ đây đã thấy hình nó trên bàn thờ, vẫn nụ cười hồn nhiên như không hề hay biết định mệnh đã mang nó đi khi còn quá trẻ.

    Trời đã sáng, con thuyền tiếp tục rẽ sóng. Xung quanh là biển nước mênh mông với những ngọn sóng bạc đầu cong cong như lưỡi hái của thần chết. Không còn thấy bến bờ đâu nữa. Biển tháng 7 quá dữ tợn, tôi nhắm cũng cấp 5 cấp 6 gì đó, nhờ vậy mà công an biên phòng ít dám ra ngoài mùa này, chỉ có con tàu chúng tôi một mình trong phong ba, hành trang chỉ có lòng can đảm và đức tin.

    Trong hầm tàu, nước biển đã tràn và cao hơn cổ chân. Mọi người đều ướt sũng, bị nước biển tạt vào từ bốn phía. Mùi ói mửa, mùi dầu gió, mùi hơi người quyện lại với nhau thành một mùi vô cùng khó chịu.

    Con tàu như con ngựa hoang, thỉnh thoảng bị sóng nhấc lên thật cao, rồi rớt xuống như xuống vực thẳm, tạo thành những âm thanh khô khốc y như va phải vào đá, tưởng chừng muốn vỡ đôi.

    Mỗi lần lên cao rồi rớt xuống như vậy, tiếng cầu xin lại nghe lớn hơn, " Giêsu Maria", "Nam Mô A Di Đà". Trẻ con khóc thét lên vì sợ, những người say sóng thì không còn biết gì nữa, kẻ còn tỉnh thì đầy vẻ lo âu: kiểu này va phải đá ngầm thì hết sống.

    Còn tiếp...

  7. #37
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ngày thứ hai, mọi người đều ngất ngư. Chủ tàu phát mỗi người một nắm cơm múi mè, nước uống phải rất dè sẻn vì đêm trước hai thùng nước phụ cột phía sau đã rơi xuống biển.

    Nước vào nhiều quá làm gạo và đồ khô bị sình lên, một số không ăn được. Đến chiều cơn giông lại nổi lên, trời càng ngày càng xám xịt, bỗng nghe tiếng la từ phòng lái:

    - Có tàu nhỏ rượt theo mình rồi đó nghe !

    - Chạy lẹ lên, mình tới hải phận quốc tế chưa vậy anh Bảo ?

    - Chắc tới rồi, không lẽ đây là tụi cướp Thái Lan.

    - Nguy rồi, chạy đi.

    Đàn bà con gái trong tàu không ai bảo ai, lấy dầu máy và những gì dơ dáy để bôi lên mặt, trông đen đúa xấu xí để tụi cướp tha cho khỏi hãm hiếp. Mẹ bôi cho con, họ vừa bôi vừa khóc

    . Ngồi cạnh tôi là một cô gái tên là Dung, trạc tuổi tôi 17, 18 gì đó và cũng ra đi một mình.

    Dung cũng bắt chước bôi dầu máy đầy mặt, vẻ lo sơ, chúng tôi vẫn không biết con tàu rượt theo là cướp Thái Lan hay cũng có thể là tàu quốc doanh Việt Nam, chỉ biết điềm dữ nhiều hơn lành, vì lúc đó trời gần tối và mưa gió mịt mù, ống nhòm cũng không dùng được.

    Tàu kia bắt đầu nổ súng, tiếng súng có lẽ là trung liên, bị át đi bởi tiếng máy tàu và tiếng sóng, chỉ nghe "lụp bụp" và tiếng đạn bay líu chíu trên đầu. Thuyền chúng tôi tắt hết đèn và tống hết ga, cuối cùng tối quá thì tàu kia mới bỏ cuộc.

    Dung là người duy nhất bị trúng đạn. Viên đạn xuyên từ vai tới ngực, máu ra lênh láng.

    Chúng tôi xé áo băng vết thương cho Dung, cả tàu không có thuốc gì cầm máu, chỉ biết rửa bằng nước biển.

    Tàu đi suốt đêm trong cơn bão, mọi người đều mệt lả nên cũng không giúp gì hơn được cho người bị thương.

    Ngày thứ ba thì bão dứt, song đến ngày thứ tư thì Dung không còn dậy được nữa vì đã mất máu quá nhiều. Tôi nghe tiếng những người đàn bà khóc sụt sùi thì biết Dung đã ra đi.

    Chúng tôi cầm tay nhau đọc kinh và tôi không dám nhìn khi người ta quấn nàng bằng chiếc mền rồi thả xuống biển.

    Dung ở lại đó mãi mãi, phần những người còn lại trên tàu, từ thể xác đến tinh thần gần như đã tê bại, vì biết đâu số phận mình rồi cũng như nàng, sẽ chết trên cái biển nước mênh mông này.

    Qua ngày thứ năm, lương thực trên tàu đã cạn, nước cũng còn rất ít, chỉ để ưu tiên cho con nít, đàn bà và những người đuối sức.

    Bỗng nhiên có một con chim bay lượn trên tàu, chúng tôi hy vọng: hay đã gần đến đất liền hoặc hòn đảo nào đây mà có chim bay ra. Suốt hai ngày thứ sáu và thứ bảy có một đàn cá heo bơi theo tàu, bay nhảy đùa giỡn.

    Tôi cảm thấy vui vì ít ra cũng có dấu hiệu của sự sống.

    Thế rồi sự sống đã đến khi sừng sững trước mặt chúng tôi có một chiếc tàu lớn. Mọi người nhốn nháo đứng dậy vẫy tay, la hét kêu cứu: "Được vớt rồi bà con ơi, sống rồi con ơi!''

    Vậy mà con tàu cứ tỉnh bơ rẽ sóng, nhiều người trên tàu lớn đổ xô ra xem, họ còn chụp hình chúng tôi nữa, rồi hững hờ đi luôn.

    Mọi người nằm bệt ra vì thất vọng.

    Suốt ngày thứ tám và thứ chín, chúng tôi gặp rất nhiều tàu ngoại quốc nhưng không tàu nào dừng lại, mà cũng chẳng thương tình cho chút đồ ăn nước uống. Nước và lương thực đều đã cạn, máy tàu cũng đã hư sau những lần xả hết ga đuổi theo các tàu lớn.

    Ngày thứ mười, tàu thả trôi, nước vào ngập cả khoang nhưng không ai còn có sức tát nữa. Đói và khát hoành hành, trẻ con khóc như ri, cha mẹ chúng phải cho chúng uống cả nước tiểu.

    Tôi và mấy người đàn ông không chịu nổi cái nóng và khát nên nhảy xuống biển ngâm mình, hy vọng cái mát sẽ làm dịu cái khát trong người. Mấy người bàn nhau:

    - Bây giờ mà gặp tàu lớn nữa, tôi sẽ nhảy xuống bơi liền đến, chắc họ thấy chết sẽ cứu. Chứ ở đây trước sau gì cũng chết đói thôi.

    Còn tiếp...

  8. #38
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chiều ngày thứ mười, tôi còn nhớ là ngày 25 tháng 7 năm 1985, đang nằm chờ chết thì tôi thấy xa xa, một con tàu hiện ra, ngày càng rõ và có vẻ đi về hướng chúng tôi.

    Khoảng nửa tiếng sau, nó ở trước mặt, thật hùng dũng với năm cái bình tròn khổng lồ màu vàng nổi lồ lộ trên biển xanh. Mọi người lúc ấy đã quá đuối và tuyệt vọng, không buồn kêu cứu nữa, chỉ nằm thoi thóp vì khát nước.

    Tôi thấy trên boong tàu lớn có một người đi ra. Tôi vươn sức tàn cầm cái áo vẫy liên hồi.

    Người đó kinh ngạc nhìn xuống, rồi chạy vào trong kêu thêm nhiều người nữa. Con tàu đi ngang để lại những đợt sóng khổng lồ muốn nhận chìm chiếc ghe bé nhỏ. Thế rồi phép lạ đã đến, tôi thấy trước tàu lớn không còn sóng chẻ ra nữa, hình như nó dừng lại.

    Hy vọng tràn trề. Có tàu vớt rồi sao? Có nước uống, có đồ ăn rồi sao?

    Con tàu mang cờ Panama, lớn kinh khủng, che mát cả một vùng biển.

    Đàn ông chúng tôi chỉ còn độc nhất chiếc quần xà lỏn, thân thể chỉ còn da bọc xương, vươn hết sức ra ma gào thét và đưa mấy đứa con nít ra cho họ thấy.

    Một chiếc cầu thang được hạ xuống, ba người mặc áo phao, trang bị súng ngắn cẩn thận bước xuống thang. Họ ra hiệu cho chúng tôi đến gần, nhưng chúng tôi làm dấu bảo rằng tàu không chạy được. Họ quăng dây kéo lại, hỏi bằng tiếng Anh.

    Với vốn liếng tiếng Anh chút đỉnh học ở Việt Nam, chưa bao giờ tôi thấy quý bằng lúc này.

    Họ hỏi chúng tôi có mấy người, từ đâu đến; rồi giới thiệu họ là người Mỹ, sẽ cứu chúng tôi.

    Nghe nói tàu Mỹ, cả ghe reo hò mừng rỡ; " Thoát rồi, thoát chết thật rồi bà con ơi!'', chứ gặp phải tàu Liên Xô thì chúng chở về Việt Nam thì toi mạng.

    Các thủy thủ thả thang dây xuống, nhưng nhiều người đứng dậy không nổi nên họ nhanh nhẩu ôm từng người dìu lên cái cáng rồi kéo lên tàu.

    Lên được trên tàu, nhìn lại chiếc ghe rách nát nhỏ như một hột đậu, chúng tôi vừa thương vừa sợ. Họ đánh đắm chiếc ghe, chắc là theo luật hàng hải.

    Nhìn chiếc tàu từ từ chìm xuống mà mọi người nghĩ rằng mình như đang còn ở trên đó.

    Chúng tôi đi thẳng từ địa ngục lên tới thiên đàng. Trong đời tôi chưa bao giờ mừng như vậy.

    Thủy thủ đoàn ân cần săn sóc, người yếu được đưa thẳng vào clinic, đầy đủ dụng cụ như bệnh viện để chuyền "serum" cho lại sức.

    Chúng tôi được chia hai, đàn ông đàn bà cho tắm rửa sạch sẽ bằng xà bông thơm.

    Sau đó được dẫn vào kho lựa quần áo mới tinh mặc vào, tuy rộng thùng thình nhưng sạch quá, thơm quá!

    Bác sĩ khám xong, chúng tôi ra dùng bữa tối.

    Cả tàu khoảng 20 thủy thủ, gồm 3 phụ nữ, xúm lại phục vụ những người khách đen đúa vì nắng biển, chỉ còn hai con mắt và hàm răng cười biết ơn.

    Cảm động quá, nhiều bà ôm chầm mấy cô Mỹ mà khóc tức tưởi.

    Ăn xong thuyền trưởng cho gọi tôi và một người nữa biết tiếng Anh lên văn phòng. Ông cho biết tàu này chở gas từ Nhật về.

    Ông ta rất hiểu hoàn cảnh của thuyền nhân Việt Nam nên đã hai lần ra tay cứu người tị nạn, tàu của chúng tôi là tàu thứ ba.Ông đã liên lạc với đất liền, và dự định sẽ đưa chúng tôi đến Singapore, nơi đó có trại tị nạn của Liên Hiệp Quốc.

    Chúng tôi quá mừng vì biết chắc mình đã "lọt", đêm đó tôi không ngủ được.

    Chỉ mới tối hôm qua đây, còn ngủ với cơn đói khát, thân tàn ma dại, cái chết rình rập; thế mà bây giờ đã giường êm nệm ấm, đồ ăn thức uống không thiếu thứ gì. Y như một giấc mơ kinh hoàng.

    Ngày hôm sau, mọi người được dẫn đi chơi khắp tàu. Đám con nít được cho kẹo sô-cô-la và uống Coca thỏa thích; Nhỏ đến lớn mới được uống Coca, đứa nào cũng chảy nước mắt và ợ lên rồn rột, làm mấy thủy thủ cười nắc nẻ.

    Họ vô cùng thân thiện, còn cho mỗi đứa trẻ ít tiền đô la Mỹ để khi lên đảo có cái mà dùng.

    Thế rồi chúng tôi đến Singapore. Thành phố từ xa trông rất đẹp, quá hiện đại.

    Chúng tôi đứng trên boong tàu mà miệng há hốc vì chưa bao giờ thấy cái gì đẹp như vậy.

    Rồi có phái đoàn từ trong trại ra, có cả một người Việt Nam tên là Dì Mười lên tàu đón chúng tôi.

    Chia tay với thủy thủ tàu Capricorn, ai cũng bùi ngùi. Sau khi lấy địa chỉ của họ bên Mỹ, chúng tôi hứa nếu qua được Mỹ sẽ tìm đến thăm. Mấy cô Mỹ ôm từng đứa con nít lên, không dấu được lệ.

    Xuống tàu nhỏ, cập bến rồi lên xe bus, chúng tôi ai cũng đi nghiêng ngửa vì đã lâu không lên đất liền, trông thật tội nghiệp và buồn cười.

    Xe chở qua các thành phố Singapore thật rộn rịp văn minh rồi về trại tị nạn trên đường Hawkins Road. Đồng bào Việt Nam trong trại ùa ra đón chúng tôi.

    Cuộc hành trình cuối cùng đã kết thúc. Tôi say sưa ôm lấy tự do.

    Chợt nhớ về Dung, người con gái ngồi bên tôi đã chết và được thủy táng lặng lẽ trên biển Đông, tôi không khỏi ngậm ngùi rơi nước mắt.

    Dung bây giờ đã về đâu, đã nằm trong bụng cá hay lẻ loi đi về một miền xa lạ nào.

    Tôi nhớ đến Thiện, người bạn của tôi và hàng ngàn người bất hạnh đã chết trên vùng biển đó.

    Hình như chính linh hồn họ đã dẫn đưa những con tàu của anh em đồng bào đến bến bờ bình yên.

    Cầu mong hương hồn của họ được về đến bến thanh bình và giấc mơ của họ cuối cùng cũng thành sự thật: TỰ DO


    LÊ ĐÌNH HÙNG

    http://saigontimesusa.com/bai/thuyen...tnuocmat.shtml

  9. #39
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Nghĩ đắt vô cùng giá của tự do !

    GALANG MỘT THỜI MỘT ĐỜI


    Như thói quen mỗi buổi sáng ở freeway trên con đường đến sở, tôi lơ đãng bật đài phát thanh để nghe cho đỡ đường dài. Bỗng nhiên, nghe đoạn phóng sự những người tị nạn về Galang thăm lại cảnh cũ xưa, tưởng như mình lạc vào một thế giới khác.

    Trước mặt, không thấy cảnh kẹt xe nữa. Suy nghĩ miên man, đi quá mấy exit mà không biết. Trong tâm, bùi ngùi cảm xúc.

    Hai mươi năm, qua thật mau. Một thời đã qua. Một đời tiếp nối. Tự nhiên, những người trăm năm cũ hiện về. Từ ký ức chẳng thể nào quên. Những ngày tháng ấy.



    Tôi vượt biển vào tháng tám năm 1980. Cũng đã đi nhiều lần, cũng lên “cá lớn, cá nhỏ” nhiều bận, bị lừa gạt, chạy xát bất xang bang nhiều phen, rốt cuộc đến được xứ sở tạm dung vào một ngày trăng tròn.

    Đến đảo Kuku, khi nơi đây dân tị nạn vừa chuyển tiếp từng đợt qua đảo lớn Galang nên chỗ này hoang vu lắm. Những dãy nhà dài bỏ không, cây cỏ xanh um. Ngôi chùa ở lưng đồi, trơ những hàng cột và những tấm bạt ni- lông rách bươm phần phật trong gió.

    Và nghĩa địa, nơi những người tị nạn sớm bỏ dương trần, những bia gỗ sắp hàng trong cái lạnh lùng hoang dã không sinh khí.

    Nhưng, phong cảnh đảo thì tuyệt đẹp. Đi sâu vào trong, có dòng suối, có những mỏm đá hữu tình. Bờ biển cát trắng, nước trong. Những ngày đầu, trăng sáng lồng lộng. Qua một hành trình mệt nhọc trên biển, bây giờ mới biết chắc mình còn sống. Lúc đầu, chân lơ lửng bềnh bồng như trên sóng. Mấy ngày sau, mới bình thường đi lại vững vàng trên mặt đất.

    Thời khắc mà nhìn biển với màu xanh mù mịt thăm thẳm đã qua. Nhớ lại cảm giác,trên hành trình, nhìn đại dương xanh biền biệt một màu, nhất là vào những buổi chiều tắt nắng sao cô đơn và phập phồng chi lạ.

    Biển với những tay sóng thịnh nộ như lúc nào cũng muốn ra oai vùi dập với con người và con thuyền gỗ nhỏ bé.

    Biết bao nhiêu người vùi mình dưới đáy đại dương.

    Biết bao nhiêu con thuyền vỡ tan trong giông bão.

    Đến lúc nhìn thấy những cánh chim sao ấm áp quá. Đất đã hiện ra, và cái sống đã như trở lại.

    Còn tiếp ...
    Last edited by Tigon; 11-11-2011 at 12:28 PM.

  10. #40
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Bây giờ, biển lại hiền hòa vỗ về bờ cát. Bây giờ, biển lại âm vang những khúc tình ca.

    Ngay cả khi trong những cơn mưa nhiệt đới, dù mù mịt ngoài khơi nhưng trong bờ nước ấm áp dễ chịu.

    Ngọn núi ở phía trong, với những đường mòn khuất khúc, với những khoảng rừng thưa, như hứa hẹn những không gian nào, nơi chốn nào cho tìm tòi khám phá.

    Hết rồi những ngày bị dòm ngó, bị đe dọa ở quê hương.

    Saigòn, có những lúc rưng rưng nhớ. Thành phố của những ngày mới lớn, của những mơ ước, của những nỗi niềm.

    Ở Kuku nửa tháng rồi có tàu lớn chở qua Galang, một cuộc sống khác bắt đầu, như ở một phố nhỏ nào lạ lẫm.

    Một con đường trải nhựa từ bến tàu đi vào trung tâm đảo. Những dãy nhà tôn hai bên, khu Galang I. Con đường đi qua tới cuối đảo là khu Galang II đang xây cất.

    Lúc ấy cả đảo có chừng gần hai chục ngàn thuyền nhân, có người di chuyển từ Mã Lai, Thái Lan hoặc Hồng Kông tới. Thuyền nhân Hồng Kông thì có bề ngoài bảnh bao hơn những nơi khác đến.

    Nhiều lần tôi ở trong những người đại diện trại đón tiếp và cũng nhiều lần được nghe những mẫu chuyện về đời thuyền nhân. Có những nghẹn ngào cố nén xúc động khi nhắc về những người đã khuất và những chuyện thương tâm. Biển đưa người đi nhưng biển cũng vô tình giết người.

    Ở đó, một cuộc sống tạm bợ lạ lùng bắt đầu. Cũng có các nơi phải đến: nơi cấp lương thực hai tuần một lần, nơi phát thư để mong có những liên hệ với thế giới bên ngoài, có văn phòng cao ủy để làm thủ tục định cư, có ban đại diện trại để lo những công tác công cộng.

    Nhìn bề ngoài thì như vậy, nhưng trong thâm tâm mỗi người tị nạn chất chứa đầy ắp những nỗi niềm.

    Cá nhân tôi, may mắn mọi chuyện trót lọt, không phải lo lắng đến chuyện đi Mỹ nên tâm tư thoải mái hơn. Dù rằng, vẫn nghĩ về quê hương với nỗi ngậm ngùi.

    Còn phần đông, với mọi người là cảnh huống nóng lòng chờ đợi ngày đi định cư. Những ngày ở đảo, dài theo chuỗi đợi chờ.

    Có nhiều người bị ở đây cả năm nên tinh thần khá sa sút.

    Những cái loa, báo tin mừng, tin buồn. Người đi vui vẻ. Người ở lại, lo lắng đợi chờ.

    Còn tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 8
    Last Post: 14-11-2011, 05:53 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 18-03-2011, 06:40 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 02-03-2011, 12:43 AM
  4. KHI NHỮNG SỰ THẬT ĐƯỢC PHƠI BÀY!
    By Kiêm Ái in forum Tin Việt Nam
    Replies: 34
    Last Post: 27-10-2010, 01:56 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 17-10-2010, 06:17 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •