Page 5 of 7 FirstFirst 1234567 LastLast
Results 41 to 50 of 65

Thread: Vụ án “buôn vua” Việt Nam - Hồ Chí Minh - P1

  1. #41
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 1
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P4




    Việc Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh tham dự vào những chuyện nổi dậy ở quê nhà như thế nào vẫn c̣n là điều chưa rơ ràng. Bằng chứng tố cáo họ cuối cùng không có sức thuyết phục v́ kẻ chỉ điểm đă mắc bệnh và bị câm. Sau khi được thả khỏi tù năm 1915, trợ cấp chính phủ cho Phan Chu Trinh bị cắt và ông buộc phải tự kiếm sống bằng nghề in tráng ảnh. Sự quấy rối thường xuyên của cảnh sát Pháp làm ông không mấy tin tưởng nữa vào tầng lớp lănh đạo của mẫu quốc [17]. Phan Văn Trường th́ bị bắt buộc làm việc cho quân đội với tư cách là một thông dịch viên tại kho vũ khí Toulouse và sau khi được giải ngũ năm 1918, ông bắt đầu hành nghề luật sư. Cho đến những năm cuối của cuộc chiến hai người đă thành lập nên một nhóm người Việt mới có tên là “Hội người Việt yêu nước”.

    Quan hệ của Nguyễn Ái Quốc đối với hai sỹ phu họ Phan là không rơ ràng dưới con mắt của những người ngoài cuộc. Người thanh niên với cái tên này chỉ đáng tuổi con của Phan Chu Trinh và chưa cho thấy chút phẩm chất học giả nào. So với Phan Văn Trường, anh chỉ như một người dân quê lên tỉnh. Do sự khác biệt như vậy nên sau này nhiều người sau này đă cho rằng thực chất Quốc chỉ là người đưa tin, mang thông điệp và đại diện cho hai nhà hoạt động chính trị nổi tiếng hơn kia mà thôi. Nhà trí thức theo phái Trostkit Hồ Hữu Tường trong hồi kư của ḿnh đă viết rằng, mọi ư tưởng của nhóm là do Phan Chu Trinh đưa ra, sau đó Phan Văn Trường và những người khác dịch sang tiếng Pháp, c̣n Quốc mang các bài viết đến các toà soạn báo. Mặc dù ông Tường không có liên hệ trực tiếp nào với nhóm trên [18], nhưng trong hồ sơ của pḥng nh́ Pháp cũng cho thấy một chỉ điểm người Việt có bí danh là “Chỉ điểm Jean” cũng có cùng kết luận như vậy trong một báo cáo của ḿnh lên thanh tra Arnoux vào năm 1919. “Chỉ điểm Jean” báo cáo Arnoux rằng Quốc “chẳng qua chỉ là kẻ cầm đầu bù nh́n thông minh được ngụy trang bằng những sự bí ẩn nhằm làm tăng vẻ khả kính. Nguyên nhân là hiện Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường đang bị theo dơi bởi pháp luật nên Quốc bây giờ được đóng vai lănh đạo” [19].

    Phần lớn những bản báo cáo của cảnh sát Pháp th́ lại nh́n nhận anh Quốc bí ẩn như là một người có tri thức và kinh nghiệm xă hội bên cạnh hai họ Phan chứ không phải là một chú bé ngây ngô. Vào cuối năm 1919, Chỉ huy quân đội Đông dương tại Pháp, Pierre Guesde, lại tin rằng Quốc thực sự là một nhà hoạt đống chính trị. Những bản báo cáo mà tướng Guesde có được từ những chỉ điểm của ông ta cho thấy Quốc là một người tích cực đấu tranh cho quyền con người ở Việt nam, một nhà hoạt động chính trị với tâm huyết bù vào khiếm khuyết v́ không được học hành đào tạo bài bản. Các bản báo cáo cho thấy Quốc thường xuyên liên hệ với các đại biểu theo chủ nghĩa dân tộc đến dự hội nghị hoà b́nh từ Ireland, Trung Quốc, và Triều Tiên. Các bản ghi báo cáo về những cuộc nói chuyện của Quốc với bạn bè trong hội người Việt cho thấy anh nhận thức được rất rơ những vấn đề mà dân tộc anh đang phải hứng chịu và nhận thức này chịu sự ảnh hưởng sâu sắc các quan điểm của Phan Chu Trinh. Lấy ví dụ vào tháng 12, chỉ điểm viên người Việt “Edouard”, có lẽ là một viên chức người Việt trong bộ thuộc địa đă gửi một bản tường tŕnh dài 11 trang về một buổi tối tại số 6 Villa des Gobelins. Phần đầu của bản báo cáo nói về cuộc nói chuyện với Nguyễn Ái Quốc về vấn chuyện toàn quyền Đông Dương mới trở về nước sau khi hết hạn nhiệm kỳ, Albert Sarraut, người sau này trở thành bộ trưởng bộ thuộc địa, và những kế hoạch cải tổ của ông ta.

    Edouard viết “Quốc gần như hoàn toàn tán đồng với các chính sách ở Đông Dương của toàn quyền Sarraut đặc biệt là việc thiết lập một hệ thống giáo dục kiểu Pháp và xây dựng hệ thống đường xe lửa giúp khai thác các khu rừng ở An Nam và Lào”. Anh ta viết tiếp những nhận định theo lời của Quốc:

    “Quốc nói ngài Albert Sarraut đă cho xây dựng một đại học và một trường trung học ở Hà nội, điều đó tốt nhưng mới chỉ là sự khởi đầu. Với 20 triệu dân ở Đông Dương chúng ta cần không phải là 1 trường trung học mà là 20 thậm chí 30 trường trung học. Người dân cần phải được giáo dục bắt buộc, bởi v́ chính họ tạo nên đông đảo tầng lớp quần chúng chứ không phải giới thượng lưu của xă hội ... nhiều người cứ vin cớ thiếu tiền bạc để giải thích về vấn đề phát triển giáo dục ở Đông Dương và họ sẽ c̣n sử dụng lư do này để chống lại toán quyền kế nhiệm tiếp tục công việc mà ngài Albert Sarraut đă bắt đầu“ [20]

    Khi Phan Chu Trinh đến và tham dự vào cuộc nói chuyện th́ ông và Edouard tiếp tục bàn luận về chính sách tương lai và những yêu sách người dân thuộc địa có thể đ̣i hỏi từ toàn quyền mới, Maurice Long. Nguyễn Ái Quốc xen ngang và cho rằng người dân thuộc địa lại sẽ chẳng bao giờ được ǵ nếu chỉ bằng cách đưa yêu sách và chờ sự nhân nhượng của thực dân Pháp, Quốc nói: “Tại sao 20 triệu đồng bào chúng ta lại không thể làm ǵ để buộc cho chính quyền thực dân phải trao trả lại nhân quyền? chúng ta đều là người cả vậy phải được đối xử b́nh đẳng? những kẻ không chịu đối xử b́nh đẳng với ta th́ phải coi chúng là kẻ thù“. Phan Chu Trinh quay ra quở lại Quốc v́ sự bộp chộp: “Thế anh muốn đồng bào của chúng ta không tấc sắt trong tay đối đầu lại với người Tây phương với vũ khí tối tân ư?“ ông hỏi tiếp “Tại sao cứ phải đẩy người dân chết một cách vô nghĩa mà chẳng thu được kết quả nào?“ [22]. Quan điểm đấu tranh bất bạo lực của Phan Chu Trinh rơ ràng đối nghịch với quan điểm bạo động của Phan Bội Châu, mà sau này Quốc đă tiếp thu, cũng như anh tiếp thu quan điểm của bậc tiền bối của ḿnh về việc phát triển kinh tế và giáo dục. Nhưng anh nhanh chóng rời bỏ quan điểm của Phan Chu Trinh về phương pháp yêu sách đ̣i nhân quyền trong hoà b́nh một cách “nhẹ nhàng, từ bước, và bền bỉ“ [23].

    Để có một bức tranh hoàn chỉnh và khách quan về con người mà sau này là Hồ Chí Minh tại thời điểm mới đến Paris, theo quan điểm của chúng tôi, chúng ta cần phải bắt đầu với các tài liệu và bằng chứng cung cấp bởi Pḥng Nh́ Pháp. Sau đó lần ngược trở lại những năm tháng trước từ khi anh rời Việt nam năm 1911 đến khi anh xuất hiện dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Sau khi cân nhắc các bằng chứng, chúng tôi cho rằng cho tới thời điểm năm 1919, ông Hồ đă là một nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm, và ông đă hoạt động tích cực trong khoảng thời gian đó chuẩn bị cho vai tṛ của ḿnh sau này trong công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Mặc dù rơ ràng, Phan Văn Trường là tác giả của bản tiếng Pháp bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới hội nghị hoà b́nh tại Paris, và là tác giả của phần lớn các bài báo kư tên Nguyễn Ái Quốc vào năm 1919 đó, th́ Hồ có lẽ cũng là một nhân tố tích cực trong việc thúc đẩy phong trào đ̣i nhân quyền cho nhân dân Đông Dương vào thời điểm tháng 6 đó tại Paris. Thực tế đó cũng là lời giải thích trong cuốn tự truyện của Hồ (lấy tên là Trần Dân Tiên –ND): tác giả nói chính ông là người đưa ra các ư tưởng cho bản yêu sách, nhưng Phan Văn Trường là người soạn bằng tiếng Pháp, bởi bản thân Hồ tại thời điểm đó không có khả năng viết tiếng Pháp một cách trôi trảy [24]. Người thanh niên trẻ tự xưng là Nguyễn Ái Quốc đă chứng tỏ các kỹ năng tổ chức chính trị đối với cộng đồng người Việt vượt lên trên cả chuyện viết tuyên ngôn hay thư ngỏ.

    Một trong những đầu mối của cho việc chứng minh kinh nghiệm chính trị của Hồ trước năm 1919 chính là việc anh đă từng có những liên hệ với đoàn Triều Tiên ở hội nghị hoà b́nh Paris. Chỉ điểm “Jean“ báo cáo rằng Quốc đă học được rất nhiều ư tưởng từ phong trào đ̣i độc lập của Triều Tiên[25]. Hội dân tộc Triều Tiên hoạt động ở Mỹ đă bắt đầu chiến dịch đấu tranh đ̣i độc lập từ Nhật bản gần như ngay khi tổng thống Mỹ Woodrow Wilson ra bản tuyên bố 14 điểm vào tháng giêng năm 1918. Lời kêu gọi trao trả độc lập cho họ từ Nhật bản được đưa ra vào ngày 12 tháng 5 năm 1919, chỉ khoảng một tháng trước khi bản yêu sách của nhân dân An Nam xuất hiện tại Paris. Một tờ báo Trung Quốc in ở Tianjin, tờ Yishibao, ra ngày 18 và 20 tháng 9 năm 1919 đăng bài phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc tại Paris, giải thích rằng Quốc đă trao đổi kinh nghiệm và ư tưởng với đoàn Triều Tiên trong một chuyến anh sang thăm nước Mỹ [26]. Tác giả của bài báo, có lẽ là một Người Hoa hay Triều Tiên sống tại Mỹ mô tả Quốc như một đại diện của Việt Nam tại hội nghị hào b́nh tại Paris. Trong phần giới thiệu bài báo viết:

    Phóng viên tại Mỹ qua lời giới thiệu của hai đại diện của chính phủ lâm thời Triều Tiên là Kin‐ Tchong‐Wen và Kim‐Koei‐Cho đă có cơ hội phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc tuổi khoảng 30 trông trẻ trung và mạnh bạo; Anh có thể nói được tiếng Anh, tiếng Pháp, và cả tiếng Hoa; anh đă gặp đại diện Kim của đoàn Triều Tiên trong thời gian anh ở Mỹ, anh đă nói về các vấn đề độc lập dân tộc và tin tưởng rằng t́nh h́nh của hai nước khác nhau và do đó có thể có những cách đi khác biệt của riêng ḿnh [27].

    Trong bài phỏng vấn này, Hồ Chí Minh đă cho thấy rơ việc đưa yêu sách ra hội nghị hoà b́nh chỉ là bước đi ban đầu, bản tóm tắt tiếng Pháp của cuộc phỏng vấn này cũng chỉ rơ:“Bản yêu sách của anh ta tại hội nghị rút cục đă thất bại xong anh ta vẫn tiếp tục trong nỗ lực của ḿnh để gặp gỡ nhiều nhân vật chính trị và đă gây được sự chú ư của một số“ [28]. Bản tóm tắt c̣n trích lời Nguyễn Ái Quốc: “bên cạnh việc đưa bản yêu sách ra các nghị viên, tôi c̣n tích cực vận động sự ủng hộ từ nhiều nơi. Đảng dân chủ xă hội không hài ḷng với các hành động của chính phủ và có ư định ủng hộ chúng tôi. Đó là hy vọng duy nhất chúng tôi có tại Pháp. Đối với sự vận động của chúng tôi với các đất nước khác th́ chính nước anh (nước Mỹ) là nơi ủng hộ chúng tôi nhiệt thành nhất...“ [29].

    Bộ phân SR của Pháp tại Bắc Kinh đă gửi bản dịch tiếng Pháp của bài phỏng vấn này về Paris kèm theo nhận xét sau:

    “Trong điểm 9 báo cáo hôm mùng 5 tháng 6 tôi đă lưu ư các ngài về tờ báo Trung Quốc Yi Che Pao (Yishibao), trong nhiều năm với nhiều bài đă vi phạm nghiêm trọng vào quyền lợi quốc gia của Pháp và của Đông Dương. Tháng tư vừa qua tờ báo này đă cho đăng một bản tuyên ngôn của người Việt. Quá đáng hơn nữa, trong khi các hoạt động phản kháng lại quân đội Nhật Bản gần đây tại Bắc Kinh do cuộc đàm phán về Tsing‐Tao gây ra, tờ báo này đă cho đăng nhiều bài báo kết tội Pháp đă bí mật cấu kết và thoả hiệp với Nhật trong thời gian chiến tranh...„ [30]

    Quan hệ của tờ báo Yishibao với pḥng trào yêu nước của người Việt có thể dễ dàng nhận thấy, nhất là bản thân Hoàng tử Cường Để từng đăng nhiều bài báo trên báo này với nội dung gần giống như bản yêu sách của dân An Nam kia. Các bản copy của các bài báo trên tờ này xuất hiện trên tường của các trại công nhân Trung Hoa ở Marseille tháng 6 năm 1919 [31]. Hồ nói với chỉ điểm Jean rằng anh đă bàn với đoàn đại diện Triều Tiên để gửi bản yêu sách của ḿnh (hay của Phan Văn Trường?) để đăng trên tờ báo ở Tianjin [32]. Dường như đă có sự phối hợp nào đó giữa những ǵ xảy ra ở Paris và những người theo phái của Cường Để, Phan Bội Châu ở Trung Quốc.

    Một trong những thách thức cần phải giải quyết đối với quan điểm nh́n nhận Hồ Chí Minh như một nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm năm 1919 là theo tŕnh tự thời gian của những năm đầu bôn ba hải ngoại của ông, th́ Hồ mới chỉ đến Paris vào năm 1917 và sống ở đó mà không gây nên sự chú ư nào của nhà chức trách cho đến khi xảy ra sự kiện tại hội nghị hoà b́nh quốc tế. Hồ trước đó hoàn toàn không có vai tṛ ǵ trong nhóm người Việt yêu nước ở Pháp. Thêm một lư do cho sự nghi ngờ về giả thuyết trên là các mối quan hệ của gia đ́nh ông Hồ và bản thân ông với Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đă không được làm rơ cho đến tận năm 1992. Với sự thiếu hụt thông tin và bối cảnh như vậy, thật khó tin là một anh phụ bếp, một người lao động chân tay như trong cách tuyền truyền của Đảng cộng sản về ông Hồ thời trai trẻ lại có thể nhanh chóng biến hoá thành người đại diện cho một phong trào yêu nước. Dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng cắt nghĩa điều này.

    Về vấn đề ngày tháng tới Paris của Quốc, có lẽ bằng chứng đáng tin cậy nhất chính là hồ sơ của cảnh sát Pháp, ở đó ghi nhận anh đến Paris vào tháng 6 năm 1919 từ London [33]. Thông tin trong hồ sơ cho biết Hồ đến Paris ngày 7 tháng 6 năm 1919 từ London, ban đầu anh ở số 10 rue de Stockholm sau đó là số 56 rue M. le Price, và tiếp theo là số 6 Villa des Gobelins. Nếu ước lượng trên báo chí Triều Tiên về cuộc gặp mặt của Hồ với đoàn đại diện Triều Tiên ở Mỹ là chính xác, th́ chắc chắn đó không phải là chuyến dừng chân tại nước Mỹ của Hồ ở New York khi anh c̣n là một phụ bếp. Thời điểm đó là vào tháng 12 năm 1912, khi anh viết thư cho toàn quyền ở Huế để t́m cách gửi tiền cho cha ḿnh. Mặc dù lá thư được dán tem gửi từ New York, Hồ lại ghi địa chỉ của ḿnh là địa chỉ bưu điện tại Le Havre và nhận ḿnh là một thuỷ thủ [34]. Tại thời điểm đó Quốc chưa có đủ thời gian học tiếng Anh, anh mới chỉ rời khỏi đất nước ḿnh có một năm rưỡi. Theo cách nh́n nhận của chúng tôi, thời điểm Quốc gặp đoàn đại diện của Triều Tiên ở Mỹ chỉ có thể là giữa năm 1917 và 1918, khi các nhóm Triều Tiên yêu nước hoạt động tích cực hơn tại Mỹ. Chưa có bằng chứng nào cho thấy Quốc sống ở Pháp trong thời gian này nhưng bản thân Quốc từng khai báo vởi Quốc Tế III là anh từng làm việc cho một gia đ́nh giầu có ở Brooklyn vào năm 1917 và 1918. Tài liệu trên của Quốc Tế III cũng ghi rơ là anh đến Pháp năm 1919. Thông tin này đáng khả nghi bởi trong cùng bản khai báo trên, những thông tin khác Quốc cung cấp về ḿnh cho Quốc Tế III đều là các thông tin giả mạo, ví dụ Quốc khai ḿnh sinh năm 1903 mẹ ḿnh chết năm 1910 [35]. Cũng có thể Quốc có đưa thông tin trên là phần sự thật để cải trang cho những thông tin giả mạo c̣n lại. Thông tin được đưa ra bởi nhà hoạt động cho hoà b́nh David Dellinger năm 1969 cũng cho thấy nhiều khả năng ông Hồ đến Mỹ sau năm 1916. Hồ Chí Minh đă nói với Delllinger rằng thời gian ở Mỹ, ông đă từng tham dự buổi diễn thuyết của Marcus Harvey ở Harlem [36]. Bản thân Harvey, người lănh đạo phong trào “trở về Phi Châu” cũng chỉ đến Mỹ từ năm 1916 từ Jamaica. Trong những năm 1917 và 1918, Harvey thường xuyên có các cuộc diễn thuyết về vấn đề chủng tộc tại Harlem, đặc biệt sau khi tổ chức Ku Klux Klan (3K ‐ tổ chức khủng bố phân biệt chủng tộc tại Mỹ ‐ ND) được thành lập năm 1915. Hồ Chí Minh năm 1924 đă viết một bài báo mô tả những cuộc hành h́nh người da đen của 3K tại miền nam nước Mỹ ‐ có thể những thông tin mà Hồ có là từ các buổi tham dự các cuộc diễn thuyết của Harvey [37].

    Nếu đúng như giả thuyết Hồ có mối liên hệ với nhóm yêu nước người Triều Tiên tại Mỹ năm 1917 hay 1918, th́ nó đưa đến câu hỏi: Liệu anh thanh niên này đă tham gia vào chính trị t́nh cờ trên con đường bôn ba du lịch ṿng quanh thế giới của ḿnh (với tư cách là thuỷ thủ, phụ bếp – ND)? Hay anh ra nước ngoài với mục đích t́m đường cứu nước? Vào thời điểm năm 1911 và 1917 liệu anh có phải là một thành phần tham dự trong pḥng trào hoạt động cách mạng đ̣i độc lập cho tổ quốc ḿnh? Đối với chính quyền Pháp, họ đă có câu trả lời vào năm 1920 khi cuối cùng họ đă t́m ra anh và chị của Quốc. Nhà chức trách cuối cùng đă phác thảo ra được chân dung của một người đáng ngờ do tiền sử gia đ́nh và các mối quan hệ của gia đ́nh anh ta.

    Cả anh và chị của Hồ Chí Minh đều đă từng bị kết án lao động khổ sai v́ tham gia pḥng trào đấu tranh khởi xuớng bởi Phan Bội Châu. Chị của ông nhớ lại là năm 1915 bà nhận được tin Hồ đang ở London. Anh trai Hồ th́ kể rằng Hồ đă từng nhập học ở Quốc Học Huế, nhưng sau đó bỏ học ngay sau khi cha họ mất chức quan huyện. Anh thanh niên Hồ (lúc đó là Nguyễn Tất Thành –ND) sau đó đă tới Phan Thiết, làm trợ giáo tại trường tư thục Dục Thanh, được lập nên bởi một ái hữu của Phan Chu Trinh [39]. Cả anh và chị của Hồ đều khai rằng Hồ có một vết sẹo ở tai do một tai nạn hồi nhỏ (vết sẹo phía trên tai trái của Hồ sau này trở thành một dấu hiệu chủ yếu để cảnh sát Pháp nhận dạng ông) [40].

    Sau khi t́m ra nhà hoạt động chính trị bí ẩn Hồ là thành viên của gia đ́nh Nguyễn Sinh Huy, người Pháp đă nhanh chóng xác định được các thông tin khác, các bản báo cáo về các thông tin liên quan đến Hồ trước năm 1919 đă cho thấy được sự biến chuyển trong con người này như thế nào. Cả Hồ và anh của ông đă bị Hiệu trưởng trường Quốc học Huế gọi lên khiển trách v́ thái độ thù nghịch với người Pháp trong thời gian diễn ra các sự kiện lôn xộn tại Huế (biểu t́nh của nông dân –ND) năm 1908 [41]. Điều này trùng khớp với thông tin cung cấp bởi chỉ điểm “Edouard”, người báo cáo với Pḥng Nh́ Pháp rằng Quốc từng ở Huế khi xảy ra sự kiện năm 1908 và Quốc tỏ thái độ không dung thứ với hành động của người Pháp trong sự kiện đó. “Anh ta nói rằng anh ta đă trực tiếp chứng kiến cảnh người dân Việt nam biểu t́nh với tay không trước toàn quyền tại Huế để phản đối việc lao động khổ sai cưỡng bức (đi sưu –ND) … và người Pháp đă xả súng bắn vào người dân để giải tán biểu t́nh” [42].

    Các bản báo cáo này cũng cho thấy sự ảnh hưởng đáng kể của sự nghiệp cụ thân sinh ra ông Hồ đến đến sự phát triển của Nguyễn Tất Thành / Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù ông Nguyễn Sinh Huy thi đỗ Phó Bảng năm 1901 cùng năm với Phan Chu Trinh, nhưng ông không có một sự liên hệ công khai nào với các phong trào cách mạng yêu nước dẫn đến những cuộc biểu t́nh đ̣i giảm tô, giảm thuế ở Trung kỳ năm 1908. Năm 1919, ông được bổ nhiệm làm chi huyện ở một huyện mới được khai khẩn ở tỉnh B́nh Định (huyện B́nh Khê –ND) [43]. Thế nhưng chỉ sau vài tháng làm quan, ông đă dính vào một vụ scandal. Ông bị buộc tội đă xử đánh đ̣n một nông dân mà sau đó người này đă chết, có lẽ là do trận đ̣n quá nặng. Năm 1910, Huy bị chính quyền tỉnh giáng 4 cấp, và gần như mất nguồn thu nhập từ lương bổng. Bản thân Huy cho rằng cái chết của người nông dân kia chẳng liên quan ǵ đến trận đ̣n phạt [44]. Nhưng Pḥng Nh́ Pháp tại Huế báo cáo rằng Huy phạm tội ngộ sát trong lúc đang say rượu [45]. Tháng giêng năm 1911, Huy xin phép để vào Sài G̣n‐Gia Định kiếm sống, nhưng cảnh sát Pháp từ chối v́ “nghi ngờ Huy có cảm t́nh và dính lứu với Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh”. Đại diện mật vụ Pháp ở Huế nhận xét: ” Con trai ông ta 2 năm trước đă đột ngột biến mất, có lẽ là đang ở miền nam, có thể Nguyễn Sinh Huy vào đó với mục đích là để t́m con và gặp Phan Chu Trinh chứ không phải đơn thuần là kiếm sống” [46]. Không đợi sự đồng ư của chính quyền, Huy tự t́m đến mối quan hệ với quan lại người Việt ở Huế và được cho đi nhờ bằng đường biển vào nam từ Đà Nẵng vào ngày 26 tháng 2. Toàn quyền ở Huế thông báo đă có thông tin cung cấp từ phía toà án rằng: ”Mục đích chuyến đi của ông ta (Huy) không rơ ràng, có người nói rằng mục đích chuyến đi của Huy là chuyển thông tin giúp một số bạn bè của con gái ông ta . Đáng ngờ hơn đó là thời điểm chuyến đi của Huy diễn ra ngay sau các chuyến đi của con gái ông ta, gọi là cô Bạch Liên, tới Huế và Quảng Ngăi, sau nhiều năm sống tại làng quê Kim Liên” [47].

    Liệu Nguyễn Sinh Huy có cảm t́nh hay dính lứu ǵ đến phong trào đ̣i cải tổ của Phan Chu Trinh hay phong trào bạo động của Phan Bội Châu hay không? đây là câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời. Mặc dù vậy chúng tôi có thể khẳng định, ông đă cố gắng giữ cho lư lịch của ban thân ḿnh hoàn toàn trong sạch trong mắt người Pháp cho tới thời điểm đó. Chúng ta cũng không thể biết rơ việc mất chức của ông ảnh hưởng đến con trai út của ông đến đâu. Mặc dù vậy, như Daniel Hemery đă chỉ ra việc mất chức này thu hẹp khả năng chọn lựa của Nguyễn Tất Thành, làm cho việc học hành trong một trường danh tiếng là Quốc học Huế của anh bị giang dở (do không có tiền đóng học –ND). Việc Nguyễn Tất Thành đến làm việc tại trường Dục Thanh, một ngôi trường được xây dựng theo khuyn hướng của Phan Chu Trinh, với việc giảng dạy kiến thức hiện đại bằng tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ, cho thấy có lẽ Nguyễn Tất Thành đă tham gia phong trào canh tân do họ Phan khởi xướng từ năm 1909. Chủ trường Dục Thanh thậm chí c̣n cho thành lập nhà máy sản xuất nước mắm, theo lời kêu gọi của Phan Chu Trinh về phát triển buôn bán và tham gia thương mại đối với người bản xứ. Bằng việc đến dậy trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành đă định hướng tương lai của ḿnh đi theo con đường của Phan Chu Trinh, lúc này đă bị trục xuất khỏi đất nước như một tội phạm quốc gia. Cha của anh, người đă chứng kiến sự bất lực và lạc hậu của các sỹ phu đào tạo theo nền giáo dục Trung Hoa dưới sự cai trị của Pháp như thế nào, có lẽ đă là người khuyến khích anh đi theo con đường đó.

    Vào đầu năm 1911, Thành đă vào tới Sài G̣n, và theo học một lớp đào tạo thợ cơ khí, theo lời kể của anh của anh [49]. Nếu những nghi ngờ của người Pháp là có cơ sở th́ có lẽ cha của Thành đă vào đến Sài g̣n vào tháng 3 và đă gặp Phan Chu Trinh trước khi họ Phan lên tầu sang Pháp vào cuối năm đó. Nhà trí thức mới được thả tù Phan Chu Trinh có thể mang thông tin về những sỹ phu bị giam cầm tại Poulo Condore, đặc biệt là nhóm sỹ phu gốc Nghệ An. Cả Daniel Hemery và Thu Trang Gaspard đều cho rằng Nguyễn Tất Thành và cha của anh đă gặp và bàn bạc với Phan Chu Trinh về kế hoạch đưa Thành ra nước ngoài học tập [50]. Tất Thành cuối cùng đă t́m được đường đến Châu Âu trên con tầu Latouche Treville, với công việc của một phụ bếp; sau khi cha anh bị băi chức anh không có hy vọng ǵ trong việc xin được tài trợ từ chính phủ cho chuyến sang châu Âu của ḿnh như đối với trường hợp của của Phan Chu Trinh. Mặc dù vậy không có lư do để tin rằng dự định đi Châu Âu của Thành chỉ là để làm phụ bếp hay lao động chân tay trên tầu vào những năm sau đó.

    Vào tháng 9 (năm 1911), hai tháng sau khi đến Marseille (vào tháng 7), Thành đă có một hành động rất giống với một người theo con đường của Phan Chu Trinh. Anh gửi một lá thư đến tổng thống Pháp xin được vào học trường thuộc địa, một nơi đào tạo quan lại, chức sắc cho chính quyền ở các thuộc địa. Anh viết: ”Tôi không có tiền bạc hay của cải ǵ và rất ham muốn được học hỏi. Tôi muốn trở thành người có ích cho nước Pháp và với Nhân dân ḿnh, muốn giúp đỡ người dân có được sự cai trị tốt”. Rơ ràng anh viết là thư này với sự giúp đỡ của một người rành tiếng Pháp [51]. Đối với một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Thế Anh, bức thư và lời lẽ trong đó có thể hiểu là đă bầy tỏ mong muốn của người viết được chở thành một quan lại phục vụ cho chính quyền thuộc địa, v́ quyền lợi của chính quyền thuộc địa [52]. Mặt khác cũng có thể hiểu nguyện vọng này nhất quán với chiến thuật mà Phan Chu Trinh thường khuyến khích các thanh niên, trí thức theo ḿnh, đó là “đấu tranh trong sự hợp tác”, trong đó kêu gọi thanh niên, trí thức Việt Nam hăy học tập truyền thống và văn hoá dân chủ của người Pháp để phục vụ cho quyền lợi của dân tộc ḿnh. Tại thời điểm đó Nguyễn Ái Quốc tương lai đă hy vọng rằng giới lănh đạo cao cấp nhất của Pháp sẽ đánh giá anh dựa trên tinh thần và phẩm chất mà anh có chứ không phải anh với tư cách là con của một quan lại mới bị cách chức. Nhưng yêu cầu của anh lại bị chuyển đến toàn quyền Huế, và ông này đă chỉ ra rằng anh đă không chịu tận dụng cơ hội để được học tập ở ngay chính bản xứ (ư nói anh Thành đă tự ư bỏ trường Quốc học Huế ‐ND) [53].

    Việc từ chối nhập học không làm tiêu tan khát vọng học hành của Hồ, nhưng làm thay đổi con đường để ông đạt được điều đó. Hiện chúng tôi cũng chưa biết rơ rằng ồng Hồ có tham gia một khoá học bài bản nào ở Anh hay không, hay ông học tiếng Anh và chính trị về thuộc địa thông qua tự học và trao đổi ngoài giảng đường. Việc phải kiếm sống trong hoàn cảnh trong tay không có ǵ có lẽ đă buộc anh phải tiếp tục cuộc phưu lưu trên biển trong vài năm sau đó. Tháng 11 năm 1911, anh t́m cách gửi tiền về cho cha của ḿnh từ Clayton [54]. Lá thư mà chúng tôi đề cập ở đoạn trước là lá thư gửi từ New York vào tháng 12 năm 1912. Bức thư đó anh gửi đến toàn quyền Pháp tại Huế giải thích rằng anh muốn gửi một phần lương hàng tháng của ḿnh cho cha nhưng hiện không biết ông đang ở đâu. Anh viết: ”Tôi không biết phải làm thế nào nữa, tôi chỉ hy vọng mong ngài giúp đỡ v́ ngài là người quan bảo hộ nhiệt thành với đất nước chúng tôi” [55]. Giọng điệu hạ ḿnh đối với người Pháp trong thư thể hiện thái độ khiêm nhường của một người theo khổng giáo đồng thời cũng có thể là sự khôn ngoan trong hành xử. Nếu đối chiếu với giọng điệu của anh đối với người Pháp trong các lá thư anh gửi cho Phan Chu Trinh sau đó th́ có thể cho rằng thái độ hạ ḿnh trên của anh là một sự giả vờ.

  2. #42
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 1
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P5


    Vào năm 1913 hoặc đầu năm 1914, Hồ Chí Minh dường như đă rời bỏ cuộc sống lang thang trên biển và quyết định định cư ở Anh. Anh kể lại trong một bức bưu thiếp gửi Phan Chu Trinh ở Paris là anh “đă t́m được chỗ để học ngôn ngữ đă làm việc cho người Tây Phương được một tháng rưỡi và luôn sử dụng ngôn ngữ của họ”. Anh viết tiếp: ”Sống ở đây cũng không khác mấy ở Pháp. Cháu hy vọng rằng trong khoảng 4 đến 5 tháng nữa khi cháu gặp chú (bác?) tiếng Anh của cháu sẽ khá hơn nhiều” [56]. Trong thư trên anh đề địa chỉ của ḿnh là khách sạn Drayton Court, West Ealing, tại điểm đường sắt sang phía Tây rời khỏi London. Có thể dễ dàng chấp nhận giả thuyết anh Thành đă làm việc như một phụ bếp trong cái khách sạn đường sắt này (mặc dù vậy hiện chưa có bằng chứng nào chứng tỏ anh từng làm phụ bếp cho đầu bếp nổi tiếng Escoffier ở khách sạn Carlton, như được kể trong cuốn sách của Trần Dân Tiên). Trong một bưu thiếp khác gửi cho Phan Chu Trinh, lần này đề địa chỉ gửi là Số 8 đường Stephen, Tottenham Court Road, London, anh chứng tỏ rằng ḿnh vẫn quan tâm và theo dơi đầy đủ các sự kiện diễn ra ở châu Á. Anh viết: ”Ngũ đại cường quốc đang tranh đấu. Chín nước đang có chiến tranh. Cháu tự nhiên nhớ lại điều cháu đă nói với bác mấy tháng trước về một cơn băo chính trị sắp đến. Số phận sẽ cho chúng ta chứng kiến nhiều điều bất ngờ nữa sắp tới và không ai biết ai sẽ thắng trong cuộc chiến này. Các nước trung lập chưa thể hiện thái độ c̣n các nước tham chiến th́ không đoán được dự định của họ. Trong bất kể trường hợp nào nếu một nước tham gia th́ họ sẽ buộc phải chọn một bên để tham gia. (….) Có lẽ chúng ta nên b́nh tĩnh chờ xem” [57]. Rơ ràng vào thời điểm Phan Chu Trinh bị bắt ở Paris năm 1914, tiếng Anh của Hồ Chí Minh đă đủ tốt và cho rằng anh đă có thể tự đưa ra những ư kiến của ḿnh về t́nh h́nh chính trị thế giới, theo cách nh́n nhận của riêng ḿnh từ London.

    Một phần của một bức thư khác mà Hồ Chí Minh gửi cho Phan Chu Trinh đă được nhân chứng trích dẫn trong phiên toà xét xử Phan Chu Trinh ở Paris. Nhân chứng Cao Đắc Minh nói rằng thư anh ta trích dẫn là một bức thư Nguyễn Tất Thành trả lời thư của Phan Chu Trinh. Dường như lá thư đó đă được gửi đi sau khi Phan Chu Trinh bị bắt. Nhân chứng khai rằng rằng trong bức thư Nguyễn Tất Thành đă cam kết với Phan Chu Trinh rằng “không chỉ sót thương cho những thống khổ của đồng bào ḿnh mà Thành nguyện sẽ đi theo và tiếp tục công việc của Phan Chu Trinh”[58].

    Trong quá tŕnh điều tra các mối liên hệ giữa những người Việt lưu vong và chính phủ Đức, cảnh sát Pháp đă phát hiện ra rằng, ngoài Tất Thành, c̣n có những người Việt nam yêu nước khác thuộc phái của Hoàng tử Cường Để cũng từng sống và học tập tại London. Một trong số đó là Joseph Thành, sau này được xác định là Lâm Văn Tú người Nam kỳ, đă đến Singapore từ Hồng Kông bằng đường biển để gặp hoàng tử Cường Để cùng với hai người Nam kỳ khác, những người sau này đều trở thành đặc phái viên đưa tin của Cường Để ở Châu Âu . Một trong hai người Nam kỳ này có tên là Trương Duy Toản từng là chủ biên một tạp chí có tinh thần dân tộc, “Lục tỉnh tân văn”. Người được cho là đă tháp tùng Phan Chu Trinh trong chuyến sang Paris [59]. C̣n người Nam kỳ c̣n lại là Đỗ Văn Y, một giáo viên ở Mỹ Tho, định cư ở Pháp và thường xuyên có mối liên hệ với Joseph Thành, trong thời gian Thành sống ở London. Chính quyền Pháp đă tịch thu được 4 bức thư của Joseph Thành gửi Đỗ Van Y năm 1914, hai trong số đó được gửi từ địa chỉ tại đường Gower [60]. Hai lá thư c̣n lại, một đề địa chỉ gửi đi từ Constantine Road tại Hampstead, London, và một đề địa chỉ gửi từ số 3 Conquest Road, Bedford. Những bức thư này cho thầy Joseph Thành đang đợi tiền gửi đến từ Cường Để. Như chúng ta đă biết chính Phan Văn Trường cũng từng bị nghi ngờ là đă tham dự vào các hoạt động bí mật này trong phiên toàn xử ông [61].

    Bị người Pháp thúc dục gửi gấp kết quả điều tra về chỗ ở và thông tin của Joseph Thành, bộ cư trú Anh quốc đă vội vàng thông báo cho Paris biết rằng Joseph Thành và Nguyễn Tất Thành là hai anh em tuổi khoảng 18,19 và rằng Tất Thành sống và học tại Bedford. Cả hai đă đăng kư vào học trường Bách Khoa Regent Street, và ở đó họ đă quen một người bạn Anh tên Gourd, người có cha mẹ hiện sống ở 12 Constantine Road. Bản báo cáo nói rằng “Tất Thành rất thân với một cô con gái nhà Gourd “và nhờ đó mà bà Gourd đă giúp anh vào học việc tại công ty Igranic Electric ở Bedford. Bản báo cáo kết luận: ”Vẻ bề ngoài chẳng có ǵ cho thấy họ tham dự vào một âm mưu hay tổ chức chính trị bí mật nào” [62]. Sau đó Pḥng Nh́ Pháp đă xác định rằng “anh em ruột” với Tất Thành hoá ra là họ Lâm, và rằng Lâm Văn Tú tức Joseph Thành đă quay trở lại Nam Kỳ [63]. Tại thời điểm đó chưa có mạng lưới chỉ điểm người Việt của Pḥng Nh́ Pháp ở London, do đó không rơ là bộ cư trú Anh có thực sự xác định đúng tên tuổi và các hoạt động của các thanh niên này hay không. Không có lư do ǵ để cho rằng việc bộ cư trú Anh nhầm lẫn Joseph Thành với Nguyễn Tất Thành là hai anh em v́ cùng có chung chữ Thành trong tên, v́ đó là tên riêng chứ không phải là họ. Nhưng dường như không thể có chuyện có 2 Tất Thành ở Anh tại thời điểm đó. Các mối quan hệ phức tạp này cho chúng ta sự nghi ngờ rằng Nguyễn Tất Thành là một thành viên của một nhóm ái hữu, một bản sao phương Tây của pḥng trào Đông Du [64]. Trong cuốn tự chuyện của ḿnh, Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) viết rằng một người đă thuật lại rằng anh cùng với Hồ Chí Minh đă tham gia một tổ chức người Việt bí mật tại Anh lúc đó là Hội Lao Động Hải Ngoại [65]. Trong thời gian Thành lênh đênh trên biển th́ ở nhà anh và chị của anh đă tham gia các phong trào cách mạng khởi xướng bởi Phan Bội Châu, điều đó đủ để anh trở thành một ứng cử viên cho vị trí làm phái viên của Cường Để. Liệu có phải là vào năm 1914

    Cường Để đă sử dụng số tiền quyên góp được từ Việt Nam (và có lẽ cả từ người Đức) để hỗ trợ cho các du sinh người Việt ở phương Tây? Liệu có phải là ngẫu nhiên mà Nguyễn Tất Thành xuất hiện gần như cùng thời điểm với sự xuất hiện của Joseph Thành và hoàng tử Cường Để tại London?

    Vào thời điểm cuối năm 1916, tự chuyện của Hồ Chí Minh viết rằng Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp để gặp Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường. Một cuộc khởi nghĩa nữa trong nước vừa bị dập tắt. Hoàng đế trẻ Duy tân đă bị lưu đầy ra đảo Réunion xa sôi. Hồ hỏi các đồng hương của ḿnh, viết trong cuốn tự chuyện bằng một ngôn ngữ đơn giản,”Vua Duy Tân đă đứng dậy khởi nghĩa, Nhân dân Thái Nguyên cũng thế, c̣n chúng ta phải làm ǵ?”. Tác giả (Trần Dân Tiên – ND) viết tiếp: ”Nhưng sau đó không ai biết anh Ba sẽ làm ǵ” [66]. Những năm cuối của cuộc đại chiến có lẽ là thời điểm thích hợp để các nhà yêu nước nói tiếng Anh của Á châu t́m cách liên hệ với Mỹ. Những nhà yêu nước người Hoa và cả Triều Tiên đă nhận được sự ủng hộ từ những người có tầm ảnh hưởng của nước Mỹ . Mặc dù vậy ngoài bằng chứng là bài trả lời phỏng vấn trên báo Yishibao nói trên, th́ chuyến đi của Hồ đến nước Mỹ năm 1917‐1918 vẫn chỉ là giả thuyết. Dấu hiệu tiếp theo về sự xuất hiện của Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc chính là tại Paris vào năm 1919.

    Việc t́m kiếm các bằng chứng, tài liệu trong tàng thư khổng lồ của Pháp có thể cho thấy con đường đến với chính trường Paris của người thanh niên xuất hiện với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Khi anh nói với chỉ điểm viên “Jean” vào tháng giêng năm 1920 rằng anh đă nghiên cứu kỹ chính sách thuộc địa của người Mỹ, người Anh, người Tây Ban Nha, anh nói với vẻ rất thành thực [67]. Quan hệ thân thiết của anh và Phan Chu Trinh cũng như Phan Văn Trường có lẽ đă có từ trước cuộc chiến thế giới lần thứ nhất. Có thể một lư do kéo họ dễ dàng đến gần nhau chính là v́ họ có cùng cảnh ngộ, cùng có anh, chị em, người thân đang phải nằm trong lao tù của Pháp hay đang bị lưu đầy biệt xứ. (Về mặt này có lẽ nhiều nhà nghiên cứu với quan điểm xem hai học Phan như những học giả khả kính , những nhà cách mạng ôn hoà đối nghịc với anh thanh niên non nớt Nguyễn Ái Quốc, đă bỏ qua). Mặc dù nhiều năm sau Phan Chu Trinh và Nguyễn Ái Quốc có nhiều mối bất hoà về quan điểm chính trị, nhưng họ vẫn luôn đối xử với nhau trong t́nh cảm tôn trọng và có trách nhiệm. Đối với Phan Văn Trường, mối quan hệ của họ trở nên rất tốt đẹp cho đến tận thời điểm họ chia tay năm 1923.

    Giải pháp cấp tiến (1920‐1923)

    Hội nghị hoà b́nh Paris kết thúc vào tháng giêng năm 1920, với sự ra đời của Liên đoàn các quốc gia. Nhưng đối với Hồ Chí Minh và đồng bào của ḿnh th́ hội nghị Paris kế thúc cũng là lúc kết thúc hy vọng của họ rằng các nước Dân Chủ phương tây sẽ công nhận quyền độc lập của Việt Nam. Chiến dịch vận động tại hội nghị hoà b́nh Paris thất bại cũng là lúc nhóm người Việt yêu nước bắt đầu tan đàn xẻ nghé. Từ năm 1920 kinh phí hoạt động bắt đầu suy giảm đáng kể. Đă có thời điểm Hồ phải sống dựa vào nguồn tài trợ của một người sống tại số 6 Villa des Gobelins có tên là Khánh Kỳ, người có một cửa hàng buôn bán giấy ảnh tại Rhineland (mà cảnh sát c̣n nghi ngờ ông có các hoạt động đầu tư tiền tệ). Cuối năm 1919, Phan Văn Trường mở văn pḥng luật tại Mayence và tham gia bào chữa cho các quân nhân người Việt và Pháp tại toà án quân sự. Ngoài ra ông cũng kiếm được tiền thông qua việc tham dự với tư cách là luật sư vào các vụ tranh chấp về thương mại giữa Pháp và Đức [68]. Phan Chu Trinh cũng đóng góp vào quỹ nhóm một phần thu nhập 30 francs /ngày của ông từ nghề in tráng ảnh [69]. Nhưng một nhân viên của bộ thuộc địa có tên là Phu Bay, có lẽ chính là chỉ điểm “Edouard”, đă báo cáo rằng vào thời điểm đó nhóm này thường mắc các bệnh như viêm phế quản, ho lao do “ họ không có điều kiện kinh tế cho một cuộc sống đầy đủ và khoẻ mạnh” [70]. Ông ta không xem nhóm này như một sự đe doạ nghiêm trọng đối với hoà b́nh, ổn định ở Đông Dương.

    Hồ Chí Minh thường xuyên phàn nàn với các chỉ điểm của Pḥng nh́ trong các cuộc trao đổi rằng, vào đầu những năm 20 của thế kỷ, hầu như không mấy ai biết về Đông Dương. Đối với những nhà hoạt động chính trị quốc tế mà anh tiếp xúc, người th́ không biết Đông Dương ở đâu, kẻ lại cho là một tỉnh nằm giữa Trung Quốc (China) và Ấn Độ (India). Anh nói với chỉ điểm Jean: ”Chúng ta phải làm ầm ĩ lên tư để người ta biết ḿnh là ai. Người ta biết nhiều đến Triều Tiên hơn chúng ta là v́ người Triều Tiên họ đă lên tiếng nhiều hơn chúng ta”. Mặc dù vậy anh cũng nói thêm rằng anh muốn đợi một thời gian để xem các chính sách mới của tân toàn quyền Maurice Long như thế nào [71]. Trong một cuộc gặp mặt quan trọng của những người trong phong trào hoà b́nh quốc tế tại Orient, trong đó có bài phát biểu và tham dự của phó tổng thư kư đảng dân chủ xă hội Marius Mautet và Giáo sư Félicien Challaye và đại diện của các nhóm yêu nước Triều Tiên và Trung Quốc, Quốc đă cố gắng nêu vấn đề về quyền tự do của người Việt Nam. Trong số 1000 người tham dự cuộc miting đó, mà trong đó phần lớn là người Trung Quốc, có cả thanh tra Pierre Arnoux. Ông ta kể lại rằng Quốc đă phát tán các bản copy của “bản yêu sách của nhân dân An Nam” đến các thành viên tham dự, tuy nhiên khi anh muốn phát biểu th́ chủ toạ đă không cho phép anh làm việc này. Arnoux viết: ”Thái độ và cách thức giành bằng được quyền phát biểu của Quốc làm nhiều người ủng hộ nhưng cũng nhiều người tham dự la ó chế riễu anh ta” [72]. Sau đó chính Hồ đă tổ chức một cuộc míting và anh phát biểu với tư cách là đại diện của “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam”. Bài phát biểu của anh có tựa đề là ”Cuộc cách mạng xă hội của nhân dân phương đông và yêu sách cho một nước An Nam cổ đại” đă thu hút được một đám đông khoảng 70 người, những người đă vỗ tay nhiệt thành cho bài phát biểu của anh khi nó kết thúc [73]. Mặc dù vậy, trong số người tham dự bài phát biểu của anh không có ai là người Việt, điều đó làm anh cảm thấy không muốn làm điều tương tự như vậy nữa sau này. Khi chỉ điểm Jean gợi ư cho Quốc rằng có thể v́ cái tên “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam” đă làm cho kiều bào ngại ngần không muốn tham dự, Hồ đă lên tiếng bảo vệ quan điểm và cách làm của ḿnh. Tất nhiên trong thực tế không tồn tại một nhóm nào có cái tên như vậy, nhưng Hồ nói với Jean: ”Chúng ta phải cố gắng hết sức và cũng phải dối trá một chút để gây sự chú ư” [74].

    Vào thời gian đó Hồ dành nhiều thời gian của ḿnh để đến đọc sách tại Bibliotheque St Geneviève gần Panthéon. Như một phần trong chiến dịch vận động chính trị của ḿnh Hồ muốn in một cuốn sách mà anh dự định đặt tên cho nó là Les Opprimés. Để làm cho cuốn sách có giá trị học thuật hơn Hồ quyết định sẽ trích dẫn các nghiên cứu và sách của các tác giả Pháp khác. Mật vụ Pháp đă t́m ra danh sách khoảng 13 tài liệu Hồ đă mượn và đọc trong đó có cả bài viết của Phan Chu Trinh tường tŕnh về các sự kiện diễn ra ở Trung kỳ năm 1908 và các tài liệu về chính sách tài chính, sưu thuế, cũng như về nông nghiệp mà người Pháp đưa ra [75]. Anh t́m cách kiếm tiền để in cuốn sách của ḿnh bằng cách t́m cách làm trợ lư thuê cho một người nào đó theo khuynh hướng dân chủ xă hội, cho đến tháng 9 anh vẫn hy vọng rằng Marcel Cachin làm việc ở tờ báo L’Humanité sẽ giúp đỡ để in cuốn sách này [76]. Thế nhưng các hoạt động chính trị của anh bị đột ngột dán đoạn từ tháng 8 khi anh phải vào viện v́ bị xưng tấy ở vai phải [77]. Không rơ đó có phải là triệu chứng cho thấy anh đă nhiễm bệnh lao hay không, nhưng năm sau anh đă bị cửa hiệu ảnh cho thôi việc v́ họ kết luận anh bị bệnh lao [78].

    Khi người Pháp đă chắc chắn rằng Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn Tất Thành, họ đă t́m ra được cách để kiểm soát anh. Tại Pháp, họ t́m cách ngăn cản anh tiếp xúc với những người Việt Nam khác, và cho tới mùa thu năm 1920, họ quyết định sẽ không cho anh rời khỏi nước Pháp. Chỉ huy sở pḥng nh́ Đông Dương tại Hà nội, René Robin đă ra lệnh không cấp chiếu khan (hộ chiếu) cho Hồ, ông gợi ư nhà cầm quyền tại Pháp vận động Việt kiều khuyên giải Hồ nên tự khai báo nhân thân thật của ḿnh và hứa sẽ cấp hộ chiếu và vé cho Hồ quay lại Việt Nam nếu Hồ chịu công khai thú nhận nhân thân thật của ḿnh và chứng minh điều đó. Tuy nhiên Hồ không chịu làm theo yêu cầu của cơ quan thẩm quyền của Pháp. Ngày 20 tháng 9 anh đă đến đồn cảnh sát để họ chụp ảnh và lấy lời khai, nhưng ngay sau đó anh đến thẳng Hội Nhân Quyền để phản ánh rằng anh đă bị cảnh sát quấy rối, vi phạm nhân quyền [79].

    Nhà cầm quyền Pháp ở Hà nội cũng tin rằng Hồ sẽ không dám quay trở lại Đông Dương v́ sợ bị phạt v́ tội đă vượt biên trái phép. Nhưng họ lại lo ngại rằng Hồ có thể đào tẩu sang một nước khác mà theo như M. Lacome viết trong thư gửi về Paris: ”Anh ta sẽ thoát hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của chúng ta, một người kiên định như thế hẳn sẽ c̣n làm chúng ta phải bất ngờ nhiều lần. Tốt nhất là cứ để anh ta cải trang như Nguyễn Ái Quốc hiện nay và theo dơi anh ta thật sát xao” [80]. Piere Guesde, tổng chỉ huy quân đội Đông dương tại Pháp, th́ muốn có biện pháp xử lư mạnh hơn đối với Hồ và các đồng chí của anh. Vào giữa năm 20, Guesde đă thu thập được đến 250 hồ sơ nghi vấn là người Việt, trong đó ông xem nhóm ở số 6 Villa Des Goblin là nhóm nguy hiểm nhất [81].

    Việc Guesde xem Hồ và nhóm của anh là các phần tử nguy hiểm nhất có vẻ hơi khó hiểu. Cơ quan mật vụ Pháp đă thành công trong việc cô lập anh, bản thân anh th́ vừa nghèo nàn lại bắt đầu ốm yếu bệnh tật (bệnh lao –ND). Lư do là v́ nhóm Việt nam này bắt đầu có mối liên hệ với cánh cực tả trong Đảng xă hội dân chủ Pháp. Tháng 11 năm 1920, Hồ và Trần Tiến Nam đă tham dự một buổi mítting do Đảng dân chủ xă hội Pháp tổ chức để kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 3 của Liên Xô. Vào ngày 3 tháng 11, Phan Chu Trinh, Hồ và 3 người khác đang sống ở Villa Des Goblin đă tham dự buổi mítting của “Hội đồng Quốc Tế III” được tổ chức bởi chi bộ 13 của Đảng cách mạng dân chủ xă hội. Vào ngày 19 cùng tháng, Hồ được mời đến tham dự một cuộc miting của cánh cực tả thuộc chi bộ 13 Liên đoàn cách mạng dân chủ xă hội. Tại cuộc gặp mặt này một buổi bỏ phiếu cho việc tham dự của liên đoàn vào Quốc Tế III tại Moscow được tiến hành [82]. Mật vụ Pháp không cho biết kết quả bỏ phiếu nhưng có lẽ Hồ đă có quyết định riêng cho ḿnh về vấn đề này từ khi anh c̣n ở trên tầu ngày 20 tháng 12 năm 1920 trên đường đến Tours để tham dự đại hội Đảng cách mạng dân chủ xă hội. Anh đại diện cho chi bộ 13, chi bộ cạnh đó và cả “nhóm xă hội dân chủ Đông Dương” [83]. Chính tại đại hội Tours, phần lớn các đoàn đại diện đều bỏ phiếu tán thành việc ra nhập Quốc Tế III cùng với những người Bolsevik Nga, và từ bỏ Quốc Tế II theo thiên hướng xă hội dân chủ mà những người cấp tiến đă cho rằng quá dân tộc sôvanh trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Việc tham dự đại hội Tours đă khiến cho Hồ trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp.

    Một bài báo Hồ viết đăng trên tờ L’Humanité trước khi đại hội Tours diễn ra cho thấy quan điểm của anh vào thời điểm này. (Có lẽ một lần nữa bài báo lại được viết dưới sự trợ giúp của Phan Văn Trường. Lư do là một người người bạn trong chi bộ 13 đă góp ư với Hồ rằng bản nháp bài báo của anh cần phải sửa nhiều sao cho văn phong kiểu cách hơn. Không rơ là bản chúng tôi t́m thấy trong tàng thư của Pháp là bản gốc hay bản đă được sửa chữa). Hồ đặt tên bài báo này là:

    ”Chính sách thuộc địa”. Bài báo này cho thầy Hồ đă nghiên cứu kỹ bản “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin, công bố tại đại hội Quốc Tế II diễn ra vào tháng 7 năm 1920 và in trên tờ L’Humanité vào ngày 16 và 17 tháng 7. Những phân tích trong bản luận cương của Lenin về bản chất chủ nghĩa đế quốc đă giúp Hồ có luận cứ cho sự căm thù chủ nghĩa thực dân.

    “Con bạch tuộc tư bản Tây phương đang vươn chiếc ṿi của nó ra khắp toàn cầu, châu Âu đă trở nên quá chật hẹp với nó, máu của những người vô sản Châu Âu không c̣n đủ cho nó hút. Tội ác của bọn tư bản Anh, Pháp, Đức đều như nhau cả, tồi tệ hơn cả tội ác của bọn tự bản khác bởi, đối với bọn này ít nhất chúng cũng không cố nguỵ trang cho ḿnh bằng những khẩu hiệu mỹ miều như là “thực hiện sứ mạng khai hoá thuộc địa”. Đằng sau lá cờ ba sọc với chiêu bài Tự Do‐B́nh Đẳng‐Bắc Ái, thực dân Pháp mang đến thuộc địa rượu, thuốc phiện, và nhà thổ cũng như mang đến cho người dân thuộc địa sự thống khổ, huỷ hoại, chết tróc và sự vơ vét để làm giầu cho mẫu quốc.

    Trước những tội ác như vậy của chủ nghĩa tư bản và đế quốc, Đảng dân chủ xă hội có chính sách thuộc địa thực sự dân chủ hơn không? không, thậm chí đảng c̣n chưa thèm hỗ trợ các cuộc cách mạng giành độc lập ở thuộc địa. Sự án binh bất động trước các vấn đề về thuộc địa này sẽ c̣n tiếp tục nếu chiến tranh của phe cực hữu không bóc trần sự dối trá và đạo đức giả của nền dân chủ tư sản và nếu như không có cuộc cách mạng bạo lực tháng 10 Nga đă khuấy động lên sức mạnh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới.

    Từ khi đại đa số thành viên của Đảng tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng Sản và từ khi Lenin tŕnh bày bài luận cương của ông về các vấn đề thuộc địa tại đại hội 2, các đồng chính chúng ta mới bắt đầu đề cập đến các vấn đề thuộc địa…” [84]

    Bài phát biểu của Hồ tại đại hội Tours có lời lẽ nhẹ nhàng hơn, song cũng nhận được những phê b́nh trong Đảng xă hội dân chủ. Khi phó chủ tịch đảng Jean Longuet đứng lến phản đối Hồ về việc phát biểu về vấn đề thuộc địa, Hồ đă đề nghị Jean không được ngắt lời. Mặc dù có sự phản đối nhưng rơ ràng bài phát biểu của Hồ vẫn tiếp tục với những lời lẽ mềm mỏng hơn so với bài báo của Hồ trên tờ L’Humanité nói trên. Khi kết thúc bài phát biểu ngắn của ḿnh, Hồ kêu gọi các đại biểu của đảng, cho dù là cảnh tả hay cánh hữu, hăy ủng hộ Đông Dương. Bài phát biểu của anh được hoan nghênh nhiệt liệt và giữa những tiếng vỗ tay có cả những tiếng hét: ”Đả đảo bọn thực dân cá mập!” [85]

    Bài phát biểu của Hồ không ấn tượng bằng bức ảnh chụp anh bởi một đại biểu. Bức ảnh chụp một thanh niên Việt nam với khuôn mặt mịn màng ăn mặc chỉnh tề như một cậu học sinh với comple và nơ thắt, giữa các đại biểu râu rậm, tóc mai người Pháp. Một tờ báo của cánh hữu th́ mô tả anh như anh hề hút khách ở rạp xiếc được giới thiệu trong đại hội Tours bởi Marcel Cachin. Nhưng bạn của Hồ, Paul Vaillant Couturier th́ lại mô tả lại sự kiện này như là: ”Bài phát biểu của anh đă nói lên một cách chính xác đến ngạc nhiên nỗi thống khổ của một quốc gia 20 triệu người” [86]. Trong những năm sau này, bản thân Hồ cũng luôn muốn giữ ḿnh ở một vị trí khiêm tốn trong các cuộc tranh luận mang tính học thuyết ở Quốc Tế III. Thế nhưng có vẻ những ǵ mà Hồ tự nhận là ḿnh không hiểu rơ về những vấn đề đang chia rẽ những người xâ hội dân chủ cấp tiến và phái trung dung khi ông đến dự đại hội Tours là không chính xác. Vào thời điểm Hồ tham dự đại hội Tours, anh đă có đến một năm rưỡi tham dự nhiều buổi miting và đọc nhiều bài báo của cánh tả tại Paris.

  3. #43
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 1
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P6



    Chính tại đại hội Tours, Hồ đă cho thấy sự gia nhập và trung thành của ḿnh với một phong trào mà ông đă theo đuổi đến trọn đời. Phong trào cộng sản thế giới sau đó đă trở thành ngôi nhà đồng thời cũng là người chủ thuê của Hồ. Vậy nhưng vào mùa đông năm 1921, pḥng trào cộng sản không thể giúp ǵ cho những vấn đề cá nhân của riêng anh. Từ ngày 14 tháng giêng đến ngày 5 tháng 3, Hồ phải ở trong bệnh viện Cochin (Nam kỳ) để chữa ung nhọt trên vai của ḿnh. Khi ra viện anh từ chối việc trả viện phí với lư do hiện anh đang thất nghiệp và không có thu nhập [87]. Tại số 6 Villa des Goblins lúc này, Phan Chu Trinh cũng đang bị trầm cảm nặng. Con trai duy nhất của ông, Dat, đă rời Pháp về Việt nam để chữa bệnh lao và đă không qua khỏi. Bạn bè của Trinh mô tả rằng sau cái chết của con trai Trinh không c̣n là ḿnh nữa [88]. Bản thân ông cũng không được phép trở lại Việt Nam cho đến năm 1925. Cũng tại thời điểm đó, nhiều người sống tại Villa des Goblins đă công khai tỏ ư khó chịu với chiều hướng cấp tiến ngày càng rơ nét của Nguyễn Ái Quốc. Một bản báo cáo của pḥng nh́ đă cho thấy Khánh Kỳ và Trần Tiến Nam đă phàn nàn rằng họ đă gặp rắc rối với cảnh sát chỉ v́ thái độ và cách hành xử cấp tiến của Quốc. Trần Tiến Nam th́ nói rằng chỉ có Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh và Vơ Văn Toàn c̣n ủng hộ các quan điểm của Quốc. Anh này cũng phàn nàn rằng không hiểu tại làm sao “họ lại có thể tin tưởng một người mà ngay cả tên và nguồn gốc lư lịch cũng không rơ ràng” [89]. Trong khi đó, Khánh Kỳ, người kiếm tiến chính của cả nhóm, th́ phàn nàn rằng ông không c̣n đủ tài chính để trả tiền thuê nhà cho cả nhóm v́ giá thuê nhà sau cuộc chiến đă bắt đầu leo thang [90]. Sau đó cả Hồ và Phan Chu Trinh phải t́m một chỗ khác để ở. Do đó Hồ buộc phải giảm bớt thời gian cho các hoạt động chính trị của ḿnh để kiếm sống. Vào tháng 7, Hồ chuyển qua sông Sen dọn đến khu Tây bắc Paris để ở trọ tại số 9 ngơ Compoint. Anh t́m được việc làm thợ tráng ảnh cho một hiệu ảnh ngay sát nhà trọ với mức lương 40 France một tuần, mức lương giành cho người học việc. Với cuộc sống tằn tiện của ḿnh, mức lương đó đủ để anh trả tiền trọ 40 France một tháng và mua thức ăn. Vào cuối tháng 7, pḥng nh́ Pháp báo cáo anh đang sống một cách lặng lẽ chỉ thỉnh thoảng đi thăm bạn bè tại Villa des Goblins” [91]

    Các bài báo của Hồ trong thời kỳ này chỉ nhận được sự thờ ơ từ phía những người bạn thuộc phe dân chủ xă hội. Cuốn sách của anh viết về chủ nghĩa thực dân của Pháp đă hoàn thành từ năm 1920 nhưng vẫn chưa có nơi nào nhận in. Marcel Cachin th́ từ chối khéo việc in cuốn sách trên tờ L’Humanité lấy lư do là số lượng báo bán ra đang bị giảm sau sự chia rẽ của đảng xă hội dân chủ tại đại hội Tours và do đó ông không thể trả trước Hồ tiền nhuận bút [92]. Mặc dù vậy Hồ vẫn có bài viết được đăng ở các báo khác. Một bài của anh đăng trên tờ báo hàng tháng Revue Communiste vào ngày 14 tháng 4 năm 1921, và một bài khác trên tờ L’Action Coloniale vào ngày 10 tháng 6. Ở bài thứ nhất, đăng tận trang thứ 133, vẫn là điệp khúc bấy lâu nay anh vẫn thường viết đó là về sự thật bại của các Đảng cộng sản trước vấn đề thuộc địa. Anh viết: ”sự lảng tránh này thật đáng ngạc nhiên, đặc biệt là khi không hề c̣n tranh căi về vấn đề này trong một Đảng đă thuần khiết …”. C̣n ở bài báo thứ 2, anh so sánh chính sách thuộc địa tương đối cởi mở của Nhật bản tại Triều Tiên và các chính sách của Pháp tại Đông Dương. Vào tháng 8 năm 1919, chính phủ thuộc Nhật đă ra sắc lệnh trao quyền tự trị cho thuộc địa của ḿnh và công nhận quyền b́nh đẳng của người dân thuộc địa với người Nhật. Anh viết: ”Thật ngạc nhiên rằng, trong khi đó, chính phủ Pháp vẫn ngây thơ tin rằng có thể có được sự ủng hộ của người dân thuộc địa tại Đông Dương chỉ bằng cách tiếp tục lừa bịp bằng những lời lẽ hoa mỹ….”.

    Vào mùa hè năm 1921, nhóm Người Việt yêu nước, chuẩn bị ră đám. Các chỉ điểm của thanh tra M. Devèze mật báo rằng tại số 6 Villa des Goblins thường xuyên xảy ra những cuộc tranh căi nảy lửa. Vào đầu tháng 7, Hồ đă có một cuộc tranh luận “dữ dội” với hai tiền bối họ Phan kéo dài từ 9 giờ tối cho đến đầu giờ sáng hôm sau [93]. Trong tháng 9 nhiều cuộc tranh luận tương tự đă nổ ra. Vào tháng 10, Phan Chu Trinh chuyển đến sống ở đường Pernéty. Thực sự đến giờ, chúng tôi cũng chưa biết rơ nội dung các cuộc tranh luận đó là ǵ và liệu đó có phải là những cuộc tranh luận do bất đồng về quan điểm chính trị. Việc họ chia tay nhau ra sống riêng và con đường chính trị tương lai của mỗi người có thể phần nào hỗ trợ cho giả thuyết rằng đó là các cuộc tranh luận chính trị. Nhưng khó có thể biết được liệu có đúng là v́ những cuộc tranh căi nảy lửa đó Hồ Chí Minh đă đoạn tuyệt với hai tiền bối họ Phan như giới học thuật lâu nay vẫn giả định hay không [94]. Mặc dù trong những lá thư mà Phan Chu Trinh gửi cho Hồ vào những năm 1922 và 1923 cho thấy rơ ông không tán thành việc Hồ theo chủ nghĩa Max nhưng ông vẫn luôn tỏ ra rất tôn trọng các quyết định của Hồ và luôn quan tâm đến các hoạt động chính trị của anh cũng như tham dự các buổi miting chính trị với anh. Dường như Phan Văn Trường th́ phê phán Phan Chu Trinh nặng nề hơn về thái độ có phần giao động của ông sau cái chết của con trai ḿnh [95]. Nhưng trong mắt pḥng nh́, Trường vẫn luôn bị xem là một nhà chính trị cực đoan. Vào cuối tháng 2 năm 1922, pḥng nh́ Pháp vẫn c̣n nghi ngờ rằng, Nguyễn Ái Quốc vẫn đang đóng vai tṛ đại diện cho Phan Văn Trường, người đứng sau lưng [96].

    Có lẽ những cuộc tranh căi này cũng liên quan đến lời mời tham gia công đoàn thuộc địa quốc tế từ một giảng viên tại Malagasy (trường ngôn ngữ) có cái tên rất kêu là Stéphany Oju Oti [97]. Stéphany từng tham gia làm báo Action Coloniale. Công đoàn tiến hành buổi miting ra mắt vào tháng 10 năm 1921 sau mấy tháng trời chuẩn bị. Số lượng lớn thành viên khác của liên đoàn ủng hộ Quốc Tế III và liên đoàn công khai mối liên hệ mật thiết của ḿnh với Đảng Cộng Sản Pháp. Tổ chức mời này đặt mục đích hoạt động là nghiên cứu các chính sách kinh tế và chính trị tại các nước thuộc địa và đồng thời cũng là một tổ chức tương thân tương ái. Hồ tham dự cuộc miting ra mắt này cùng với Phan Văn Trường và một người cháu họ mới chuyển tới ở tại số 6 Villa des Goblins. Tham dự buổi miting, như thường lệ, Hồ phát biểu một cách sôi nổi về chính quyền và chính sách thuộc địa của Pháp. (Pḥng nh́ có được báo cáo v́ có một chỉ điểm tham gia cuộc miting này, nhiều khả năng chỉ điểm viên này chính là Nguyễn Văn Ái, có mật danh là điệp viên Villier [98]). Hồ tham gia vào ban điều hành của công đoàn cùng với 6 người khác là luật sư, thương gia cỡ nhỏ đến từ Réunion, Dahomey, Goudeloupe, Antilles, Martinique và Guyana. Anh được giao tín nhiệm làm quản lư tài chính cho liên đoàn có nhiệm vụ thu hội phí mỗi kỳ 4 tháng. Anh đă giúp công đoàn mở được văn pḥng tại trung tâm khu Latin tại đường Marché des Patriarches, đồng thời giúp ra tờ báo của công đoàn Le Paria vào tháng 4 năm 1922 [99].

    Công đoàn thuộc địa quốc tế trở thành cơ sở hoạt động mới của Hồ thay cho nhóm Người việt

    yêu nước và tổ chức có lẽ là chưa bao giờ tồn tại “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam”. Như vậy là bên cạnh đảng cộng sản, Hồ đă có được sự ủng hộ của một tổ chức có đủ quyền quyền pháp lư và các hội viên đóng phí, cũng như một pḥng làm việc cho riêng ḿnh. Ban đầu Le Paria có 103 người đặt mua [100] và số lượng bản in nhanh chóng tắng lên đến 2000. (vào tháng 4 năm 1923 số lượng bản in của báo đă giảm xuống 1000 và số trang cũng bị giảm, đồng thời không có thu nhập nào từ quảng cáo [101]).

    Hồ cho rằng đă có 150 người đông dương đăng kư mua báo Le Paria nhưng thật ra số người này thuộc bộ phân SR (Service de Renseignements) tại Marseille [102]. Một vài số báo in roneo cũng đă được chuyển về Việt Nam và địa chỉ người đặt báo là hai thông dịch viên người Việt làm việc ở phủ toàn quyền tại Hà nội, mặc dù vậy Hồ nghi rằng hai người này thực chất làm việc cho pḥng nh́ Pháp [103]. Sau khi tờ Le Paria ra đời, Hồ có ít thời gian để làm việc tráng ảnh mà giành phần lớn thời gian để viết báo và hoạt động chính trị. Mặc dù chủ tiệm ảnh đă cảnh cáo Hồ, nhưng anh vẫn tham dự cuộc biểu t́nh ngày 1 tháng 5 và hệ quả là anh đă bị đuổi việc [104]. Sau đó anh có một thời gian kiếm sống bằng nghề sơn và trang trí cửa sổ, nhưng có lẽ nguồn thu nhập chính vẫn là từ làm việc cho tờ Le Paria. Nghiệp báo chí sau này đă trả thành nghề bên ngoài của anh trong suốt những năm tháng là nhân viên cộng sản bí mật của Quốc Tế III.

    Đến năm 1922 Nguyễn Ái Quốc đă trở thành một nhà báo cộng sản thực thụ, với đề tài chính là những vấn đề thuộc địa và sự độc lập của Đông Dương. Ông tham dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Pháp tại Marseille vào tháng 12, 1921 cũng như lần hai tại Paris vào tháng 10, 1922. Trong lần sau có lẽ ông đă được vị khách mời từ Moscow, Dmitry Manuilsky [105] để ư đến. Vào tháng 4 năm 1922 ông tham dự buổi họp của Hội Đồng Nghiên Cứu Thuộc Địa vừa thành lập bởi ĐCS Pháp trong hội nghị đầu [106]. Có thể trong thời gian này ông đă gầy dựng được mối giao hảo với các sinh viên hoạt động Trung Quốc ở Paris, nơi mà vào năm 1921, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu B́nh đă hợp tác một tờ báo tiếng Hoa mang tên Thanh Niên tại một chung cư gần Place dʹItalie, gần Villa des Goblins. Hồ được cho là đă giới thiệu một vài người Trung Quốc thông thạo tiếng Pháp vào ĐCS Pháp, trong đó có hai con trai của nhà lănh đạo ĐCS Trung Quốc Chen Duxiu [107]. Ta không biết được là vào thời điểm này Hồ có tham gia vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản hay không. Đến năm 1921 những người cộng sản Trung Quốc đă thiết lập liên lạc của họ với Berlin và Moscow. Trong phần đông trong số 2.000 sinh viên Trung Quốc tại Pháp tham gia vào những chương tŕnh thực tập, đa số sống tại các tỉnh hoặc trong các khu lao động ngoại ô Paris như Billancourt [108]. Trong khi đó Hồ đă tham gia quá sâu với những vấn đề thuộc địa và những hoạt động trong ĐCS Pháp.

    Khó mà đánh giá được hiệu lực tuyên truyền của Hồ. Có rất ít bằng chứng về việc tờ Người Cùng Khổ (Le Paria) đă lưu hành tại Việt Nam, đặc biệt là trước 1925. Việc truyền đạt quan điểm của ông đến đồng bào ḿnh ngày càng trở nên khó khăn. Số lính tráng và thợ thuyền người Việt tại Pháp đă đang vơi dần‐tính đến tháng 6 năm 1920 chỉ c̣n 19 ngh́n người Đông Dương, so với 60 ngh́n trong tháng 7 năm trước. Cho đến năm 1927 chỉ c̣n khoảng 2.670 người chính thức là cư dân tại Pháp [109]. Bộ Thuộc Địa và nhân viên mật thám của bộ này tại Marseille là Léon Josselme, đă trở nên lăo luyện trong việc chặn đứng thư từ đi bằng đường biển (mặc dù họ có thể bị qua mặt khi những thứ này được dấu bên trong sách vở b́nh thường). Độc giả của Hồ ngày càng giới hạn trong số những người Âu cánh tả và những đồng hương thuộc địa xa quê. Với ấn tượng về Albert Sarrat như là một Toàn Quyền cách tân, những người Pháp lẽ ra đă cảm thông với những vạch trần của Hồ cho rằng sự chỉ trích của ông đối với chính sách của Pháp là cường điệu. Vào tháng 11 năm 1921, cơ quan mật vụ t́m thấy trong pḥng của Hồ một lá thư (không đề ngày tháng) của một viên chức của Liên Đoàn Nhân Quyền (Human Rights League), Gabriel Seailles. Ông ta viết rằng đă nhận được bản ʺYêu sách của nhân dân An Namʺ mà Hồ đă gửi cho hội đồng trung ương của Liên Đoàn. Họ đă trả lời sau khi hội ư với văn pḥng của Sarraut. ʺHọ nói rằng ông đă không đề cập đến những cải tổ của Ngài Sarraut,ʺ Seailles viết.

    ʺChắc chắn là có một sự hiểu lầm ở đây. Những đề xướng của ông được tŕnh bày quá tổng quát.

    Tốt hơn là ông nên giải bày những khiếu nại của ḿnh một cách cụ thể.ʺ Dù sao, Seailles cho rằng việc cải tổ hệ thống công lư thuộc địa đă được tiến hành; quyền tự do báo chí đă được cho phép; tự do giáo dục là vấn đề đang quan tâm của chính toàn quyền Sarraut [110]. Trên thực tế những cách tân của Sarraut diễn tiến rất chậm, và những tự do mà người Việt được hưởng vẫn là những quyền lợi dành cho loại công dân hạng hai. Vào tháng 3 năm 1926 một bản yêu sách do Nguyễn An Ninh đưa ra tại Sài G̣n cũng đă nhắc lại một số điểm chính từ yêu sách của Hội Ái Quốc năm 1919 [111].

    Bản thân Phan Chu Trinh cũng nản ḷng v́ không thể quay về được Việt Nam. Vào đầu năm 1922 ông kết luận rằng đây là thời điểm Hồ Chí Minh nên trở về nước. Nhờ những người bạn trong Đảng Xă Hội, Trinh t́m được việc làm thợ chụp ảnh tại nhà Đấu Xảo Thuộc Địa ở Marseille. Nhưng lá thư Trinh gửi cho Hồ vào tháng 2, 1922 cho thấy rằng ông không có một ảo tưởng tốt đẹp ǵ vào thịnh t́nh của người Pháp đối với đất nước ông, hoặc khả năng thay đổi thời cuộc của ḿnh. Người sĩ phu già cho rằng kiến thức của Hồ sẽ phí hoài nếu ông ở lại Pháp. Thời điểm để đem những bài học về chủ nghĩa Marx‐Lenin về Việt Nam để thử nghiệm đă đến. Ông viết với một tinh thần hoà giải:

    V́ những bất đồng giữa hai chúng ta mà anh đă gọi tôi là một ʺhọc giả bảo thủ và lạc hậuʺ... Tôi không giận dữ tí ǵ về cái danh hiệu này, v́ tiếng Pháp của tôi quá tệ và tôi không hiểu được thấu đáng những ǵ đă làm được trên mảnh đất văn minh này. Tôi là con ngựa già mệt mỏi không c̣n nhấc nổi vó; anh là một con tuấn mă đang hăng máu... Tôi gửi lá thư này v́ hi vọng rằng anh sẽ lắng nghe và chuẩn bị cho kế hoạch vĩ đại của ḿnh. Từ Đông sang Tây, từ thời cổ chí kim, chưa ai hành động như anh, cứ nán lại nước ngoài viện cớ là đất nước ḿnh có quá nhiều cạm bẩy... Để thức tỉnh mọi người, để đồng bào ta đứng lên chống lại bọn xâm lược, điều rất cần thiết là ta phải có mặt ở đó... Bằng phương pháp của ḿnh anh đă gửi bài viết đến báo chí ở đây nhằm khuyến khích những đồng hương cống hiến sức lực và tinh thần của họ. Điều này thật vô ích v́ những đồng hương của chúng ta không đọc được tiếng Pháp hoặc ngay cả chữ quốc ngữ; họ không thể nào hiểu được những bài viết của anh! [112]

    Khó mà biết được rằng một người theo phong cách cũ như Phan Chu Trinh, ông vẫn viết lách bằng tiếng Hán, đă có những ảnh hưởng ǵ đến Hồ. Nhưng người ta có thể thấy rằng sau những phê b́nh trên, Hồ càng cố gắng hơn bao giờ hết để đem vấn đề thuộc địa đến trước công luận.

    Báo cáo của mật vụ trong năm 1922 miêu tả ông làm một người ʺkhông biết mệt mỏiʺ. ʺNguyễn Ái Quốc tham gia vào hoạt động tuyên truyền cộng sản trong giới người Việt tại Paris,ʺ Pierre Guesde viết tại Hà Nội vào tháng 7; ʺvà anh ta đă đem hết sức lực để tham gia những buổi hội họp tại thủ đô và những vùng ngoại ôʺ [113]. Guesde c̣n lưu ư rằng Hồ đă gia nhập vào hội Freemason (Một hội ái hữu bí mật, có thành viên trên khắp thế giới – ND). Ông liệt kê những cuộc họp mà Hồ đă tham gia trong tuần vừa qua:

    ‐Hai cuộc họp của Uỷ Ban Điều Hành của Đảng Xă Hội ‐ Cộng Sản;

    ‐Một buổi mít‐ting ủng hộ cuộc Cánh Mạng Nga do Đảng Cộng Sản tổ chức tại Bagnolet;

    ‐Hai cuộc họp của hội Club du Faubourg, Salle Printania, Ave. de Clichy;

    ‐Một buổi tối tại Hội Masonry (Freemason ‐ ND) tại 94 Ave. de Suffern.

    Bên cạnh đó, ông c̣n t́m đến một số toà soạn, đáng lưu ư là tờ LʹHumanité (Nhân Đạo), tờ

    Journal du Peuple và tờ La Bataille Syndicaliste.

    Không bao lâu sau đó, Hồ và các nhà hoạt động Việt Nam bắt đầu thẩm định phương cách tiếp xúc với những thành viên đồng hương b́nh dân. Những bài viết trên những tờ Người Cũng Khổ và Nhân Đạo có mục đích hội tụ sự chú ư của những người trí thức Việt Nam, nhưng Phan Chu Trinh đă đúng khi chỉ ra rằng chúng chỉ vói được đến một số nhỏ trong số những người có tiềm năng ủng hộ họ. Quan điểm vận động đại trà của Quốc tế Cộng Sản III (Commintern) và ĐCS Pháp cũng có thể đă ảnh hưởng những hoạt động của họ. Vào tháng 2 và tháng 5 năm 1923 thành phần cốt lơi của những nhà hoạt động người Việt bắt đầu thảo luận cương lĩnh mới. Đến cuối năm 1921 một trí thức trẻ người miền bắc là Nguyễn Thế Truyền đă tham gia cùng họ, Truyền nhanh chóng trở thành một trong những người hợp tác thân cận nhất của Hồ. Là con của một quan chức cấp huyện ở Nam Định, Truyền có bằng hoá học Pháp nhưng rơ ràng ông thiên về việc viết lách và báo chí hơn. Năm 1922 Truyền trở thành thành viên mới nhất của số 6 Villa des Gobelins và đến cuối năm đó bắt đầu làm việc cho tờ Người Cũng Khổ [114]



    Photo 005



    Vào tháng 2 năm 1923 Phan Văn Trường, Hồ và Trần Tiến Nam thảo luận việc tái tạo ʺHiệp Hội Huynh Đệʺ ngày xưa do Trường và Phan Chu Trinh khởi lập năm 1912. Mục đích là để lôi kéo những người lao động nghèo khổ Việt Nam tại Pháp, những người mà theo Trường là ʺlănh đồng lương tồi tệ, thiếu ăn, thiếu ở và đôi khi c̣n bị giới chủ miệt thị...ʺ [115]. Phan Văn Trường được khuyên là không nên giữ chức chủ tịch v́ quá khứ chính trị của ông có thể làm những thành viên mới e dè v́ sợ sẽ bị trả thù. Trên thực tế, trong một buổi họp tại Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế, Trường đă phát biểu về vấn đề Việt Nam, trong đó ông khẳng định ʺQuyền tự do và tự quyết chỉ hiện hữu một khi tất cả mọi người hiểu được sự cần thiết của chủ nghĩa cộng sản nhằm xoá bỏ chế độ người bóc lột người và đem đến b́nh đẳng trong quan hệ chủng tộcʺ [116]. Tại một cuộc họp vào tháng 4, Phan Chu Trinh được đề cử làm chủ tịch, nhưng Phan Văn Trường phản đối, một mực tuyên bố rằng ông không bao giờ làm việc chung với người đồng sự xưa của ḿnh [117]. Vấn đề nan giải này được giải quyết ra sao th́ không rơ.

    Vào tháng 5 Hồ đích thân đăng quảng cáo kêu gọi đặt mua tờ báo bằng tiếng quốc ngữ có tên là Việt Nam Hồn. Tờ quảng cáo của ông hứa hẹn ʺÁ Châu, Âu Châu, Ấn Độ và Mỹ Châu được tổng hợp trong một tờ báo. Phụ nữ và trẻ em cũng có thể hiểu được.ʺ Nó sẽ là tờ báo ʺbằng chính ngôn ngữ của chúng ta để đồng bào ta có thể đọc được.ʺ Số đầu tiên ra khoảng 100 ấn bản. Địa chỉ đặt báo được gửi tới số 3 rue du Marché des Patriarches, văn pḥng của tờ Người Cùng Khổ [118]. Đây có thể là dấu hiệu Hồ đă thật sự lắng nghe những phê b́nh của Phan Chu Trinh về phong cách viết báo chỉ cho giới trí thức của ḿnh. Dường như ông không c̣n thời gian dành cho dự án mới này. Vào ngày 13 tháng 6, 1923 ông đột ngột biến mất khỏi Paris, và măi đến mùa thu nhà cầm quyền Pháp mới thấy tên ông xuất hiện trên báo chí tại Moscow. Nguyễn Thế Truyền lên làm chủ bút tờ Việt Nam Hồn.

    Ta không biết được chuyến đi Moscow của Hồ được tổ chức ra sao và ai là kẻ chủ mưu. Giả thiết rằng ông được phát hiện bởi những người tuyển mộ cán bộ tài giỏi cho Quốc tế Cộng Sản III như Manuilsky tại đại hội ĐCS Pháp năm 1922 th́ cũng hợp lư. Nhưng không có vẻ việc Hồ đi Moscow như là một người được lựa chọn để phục vụ lâu dài trong Cộng Sản Quốc Tế III, như sẽ bàn đến trong chương sau. Cũng rất có thể là ông và các thành viên trong Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế muốn trực tiếp tiếp xúc với Quốc tế Cộng Sản III để nhằm thúc dục ĐCS Pháp quan tâm hơn đến những vấn đề thuộc địa. Cũng có thể chính Hồ đă khởi sự chuyến đi này nhằm t́m kiếm phương tiện để quay lại Đông Dương với hậu thuẫn của Quốc tế Cộng Sản III (chương kế sẽ phân tích những tiếp xúc ban đầu của Hồ với Quốc tế Cộng Sản III.) Nhưng có vẻ là những nhà ái quốc Việt Nam tại Pháp đă chuẩn bị phối hợp hành động cho một kế hoạch nào đó. Sở Liêm phóng Pháp được tin rằng Phan Chu Trinh đang t́m cách quay về Paris từ Castres, nơi ông đă dời đến sau khi đột ngột bỏ việc tại Nhà Đấu Xảo Thuộc Địa tại Marseille [119]. Trinh viết thư mượn Hồ 340 quan cho chi phí đi lại và ăn ở đến khi ông có thể t́m được việc làm tại Paris. Nhưng bản thân Hồ cũng không dư giả ǵ và chẳng có ai trong số những người Việt đồng hương sẵn sàng cho vay số tiền, v́ thế mà Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh đă bỏ lỡ cơ hội gặp nhau lần cuối [120].

    Việc Hồ rời khỏi Paris đă được chuẩn bị cẩn thận. Vào đầu tháng 6 ông bắn tin rằng sẽ đi nghỉ lễ khoảng 8 ngày tại vùng Savoie với hội Club du Faubourg. Ông tâm sự với người quản gia ở số 6 Villa des Gobelins rằng ông mơ ước được đi thăm vùng núi Thụy Sĩ, nhưng không muốn bị bẽ mặt nếu bị khước từ hộ chiếu. Rồi vào ngày 15 tháng 6 mật vụ ʺDésiréʺ báo cáo rằng ngày 13 Nguyễn Ái Quốc đă rời khỏi nhà mà không mang theo hành lư. Bạn bè ông nghĩ rằng kỳ nghỉ của ông sẽ ngắn ngủi. Công việc tại Công Đoàn Thuộc Địa được đặc trách bởi Monnerville người đảo Martinique (thuộc địa của Pháp tại vùng biển Caribe-ND). Trong cuộc họp sáu người của nhóm Người Cùng Khổ vào cuối tháng 6, không ai trong họ kể cả Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền t́nh nguyện xúc tiến việc in báo. ʺHọ quyết định hoăn lại đến khi Nguyễn Ái Quốc quay về,ʺ Désiré báo cáo [121]. Vào cuối mùa hè Phan Chu Trinh viết thư cho Nguyễn Văn Ái, tên thật của mật vụ de Villier, buộc tội hắn về việc Quốc mất tích. (Ái đă trở thành một thành viên quan trọng của nhóm Người Cùng Khổ, nhưng lốt mật vụ của hắn bị Trinh khám phá.)

    Cho dù Nguyễn Ái Quốc c̣n trẻ và thiếu chững chạc, điều này không quan trọng v́ anh ấy thực ḷng yêu nước. Anh ấy từ bỏ gia đ́nh lưu vong đến tận châu Âu và Mỹ, làm việc cật lực để học hỏi mà không một ai giúp đỡ... Dù anh ấy có lỗi lầm hay không, việc ấy không thành vấn đề, bởi v́ tất cả người Việt đều trân trọng tấm ḷng đầy nhiệt huyết của anh ấy... Ai muốn theo anh ấy th́ để họ theo, và ai không muốn th́ cũng để yên cho anh ấy làm công việc của ḿnh.

    Tại sao anh lại phản bội anh ấy bằng những hành động hèn hạ và nham hiểm của ḿnh? Anh ấy tin anh như anh em ruột... tại sao anh lại muốn gây khó khăn cho anh ấy? Tôi muốn anh nói sự thực, anh đă xúi giục anh ấy đi đâu? [122]

    Chính bản thân Albert Sarraut đă kư bức điện mật được gửi vào ngày 11 tháng 10, 1923 đến Thống Sứ Hà Nội để báo với ông này rằng đă t́m thấy dấu vết của Nguyễn Ái Quốc ở Moscow. Bloncourt, một đồng sự người Dahomey (thuộc địa của Pháp ở Tây Phi, giờ là Benin ‐ ND) đă giúp trả chi phí chuyến đi bằng quĩ của Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế, một mật vụ báo cáo [123]. Đến tháng 11 có tin đồn rằng Hồ sẽ sớm trở về Paris [124]. Phan Văn Trường đă sắp đặt để trở về Việt Nam vào giữa tháng 12 nhưng ông đă hoăn ngày đi v́ hi vọng rằng Hồ sẽ quay về với tin tức mới từ Moscow. Cuối cùng vào ngày 23 tháng 12, Trường không thể chờ đợi được nữa và đă khởi hành, đem theo một số ấn bản của tờ Người Cùng Khổ [125]. Hồ Chí Minh và hai chí sĩ họ Phan không bao giờ gặp lại nhau.

    Trong cuộc đời chính trị mới mà Moscow đă mở ra cho Hồ Chí Minh, ông vẫn giữ lại những yếu tố cơ bản đă giúp ông trong thời gian hoạt động tại Paris. Một trong số đó là cơ cấu Marxist‐ Leninist được xử dụng để ông công kích chủ nghĩa thuộc địa. Vấn đề này sẽ được bàn chi tiết ở chương sau. Nhưng ta nên nhớ rằng bên cạnh quan điểm cấp tiến mới mẻ ông vẫn mang đặc tính của tinh thần yêu nước và trách nhiệm của Khổng giáo, những đặc tính đă khiến thân phụ của ông chống đối người Pháp trước đây. Hồ đang bước vào môi trường chủ nghĩa quốc tế của Cộng Sản Quốc Tế III, nhưng ông vẫn bắt rễ vào truyền thống yêu nước của người Việt ‐ những t́nh cảm gia đ́nh và quê hương mà trước đây chúng đă nối kết ông với Phan Chu Trinh, Cường Để và Phan Bội Châu tại Trung Quốc, và có lẻ tới cả thân phụ ông, người mà giờ đây đă trở nên lập dị, lang thang từ ngôi chùa này đến ngôi chùa khác ở xứ Nam Kỳ [126]. Khi rời khỏi Paris, mối quan hệ của ông với những người cánh tả như Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đă trở nên chặt chẽ hơn bao giờ, và ông đă dựa trên những quan hệ đó khi trở thành phái viên của Quốc tế Cộng Sản III tại Quảng Đông sau này.

    Có phải Hồ Chí Minh vào năm 1923 là một nhân vật đă có quan điểm chính trị rơ ràng hay không? Tôi muốn đưa ra lập luận rằng có rất nhiều dấu hiệu cho thấy rằng quan điểm của ông về thế giới đă h́nh thành từ những ǵ ông đă trăi qua với người Pháp từ thuở thiếu thời, từ thất bại của ông tại Hội Nghị Hoà B́nh Paris, và từ những hiểu biết trước đó của ông về những quan điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc. Và ông cũng đă bắt đầu bày tỏ sự uyển chuyển trong đường lối của một nhà chính trị thực dụng. Mặc dù ông đă gia nhập hội Freemason với mục đích nới rộng giao tiếp với những tầng lớp thế lực trong xă hội Pháp, sau này ông đă chấp hành nghị quyết từ Đại Hội lần 4 của Quốc tế Cộng Sản III là các đảng viên phải cắt đứt liên hệ với hội Freemason cũng như Liên Đoàn Nhân Quyền Pháp [127]. Việc thiếu tính kiên định về lư tưởng mà một số người có thể cho là xảo quyệt là một đặc điểm đă giúp Nguyễn Ái Quốc / Hồ Chí Minh sống sót trong những năm tháng ở Quốc tế Cộng Sản.



    CHƯƠNG 2:

    THÀNH VIÊN QUỐC TẾ CỘNG SẢN (1923‐4)

    Những tiếp xúc đầu tiên tại Moscow

    Hồ Chí Minh đến Petrograd (giờ lại là St. Petersburg) bằng đường thuỷ vào ngày 30 tháng 6 năm 1923 từ Cảng North Sea của Hamburg. Mạng lưới Quốc tế Cộng Sản (QTCS) tại Berlin cung cấp cho ông giấy thông hành Nga với cái tên là Chen Vang [1]. Ông đến Nga vào đúng thời điểm mà những ảo tưởng cách mạng của những người lănh đạo Bolshevik đă chấm dứt. Nền kinh tế bị kềm toả bởi đấu tranh cộng sản đă đă dẫn đến việc chống đối của nông dân ở khắp nơi trong năm 1921; mọi nỗ lực nhằm kích động một cuộc cách mạng tại những quốc gia phát triển tại châu Âu đều bị thất bại. Khi một cố gắng để tiến hành cuộc cách mạng lần thứ hai tại Đức xảy ra vào tháng 10 năm 1923, chỉ vài tháng sau khi Hồ đến Moscow, nó đă được tầng lớp lao động Đức hưởng ứng một cách lạnh nhạt. Lời hứa hẹn sôi nổi của Trotsky năm 1919, rằng ʺThời điểm của nền chuyên chế vô sản tại châu Âuʺ sẽ là thời điểm giành tự do cho ʺnhững nô lệ thuộc địa tại châu Phi và châu Áʺ [2], nghe có vẻ trống rỗng đối những nhà hoạt động thuộc địa đă hết kiên nhẫn vào cuối năm 1923. Ngoài ra, Lenin, nhà lănh đạo tối cao của cuộc Cách Mạng Tháng Mười, đang nằm liệt giường v́ một cơn đau tim vào tháng 12 1922. Vào thời điểm Hồ đặt chân đến thủ đô cộng sản này, những lư thuyết căn bản về thế giới đại đồng đang bị xét lại và một cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ lănh đạo vừa mới bắt đầu. Thời gian từ cuối cuộc Nội Chiến năm 1921 cho đến khi Stalin củng cố quyền lực năm 1929 đă trở thành khoảng thời gian mà Stephen Cohen (nhà Nga học người Mỹ ‐ ND) gọi là ʺthời điểm gây tranh luận nhiều nhất trong lịch sử đảngʺ [3].

  4. #44
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 1
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P7




    Nguyên nhân chính thức mà Hồ được mời đến Nga là Hội Nghị Nông Dân Quốc Tế lần thứ nhất, được khai mạc tại cung Andreyev trong điện Kremlin ngày 10 tháng 10, 1923. Hội nghị đánh dấu sự ra đời của ʺNông Dân Quốc Tế ʺ hay c̣n gọi là Krestintern, một tổ chức nhằm tập trung những người lănh đạo của các nông hội thiên tả từ châu Âu, châu Á và Mỹ. Nó được thiết lập như một tổ chức hợp pháp bao gồm những thành phần không cộng sản, nhưng sự liên hệ giữa nó và Moscow chẳng bao giờ được che đậy. Trong danh sách của những diễn giả đến tỏ lời chào mừng và đoàn kết trong ngày thứ hai của đại hội có một người tên là ʺMiguel‐al‐Kvakʺ đến từ Đông Dương [4] (tên Việt khi chuyển sang tiếng Nga thường nghe không chính xác lắm, nhưng trong trường hợp này th́ lại hay). Hồ không muốn phí thời gian với những lời chúc tụng xă giao: ông đi thẳng vào vấn đề với một giới thiệu ngắn về t́nh trạng của nông dân ở những thuộc địa Pháp. ʺCác bạn là những nông dân từ châu Âu và châu Mỹ. Các bạn bị bóc lột như những nông dân,ʺ ông nói với các đại biểu, ʺNhưng những người như chúng tôi ở những thuộc địa Pháp bị bóc lột gấp đôi, như những nông dân và như những dân tộc bị chinh phục,ʺ ông nói.

    ʺMột người chủ da trắng có thể đến yêu cầu chính phủ, và những làng mạc liền bị sung công, làng mạc mà cha ông chúng tôi và cả chúng tôi đang sinh sống và trồng trọt” [5] Ông muốn bảo đảm rằng nghị quyết chống chiến tranh được thông qua bởi Đại Hội phải đề cập đến vấn đề áp bức thuộc địa, bằng cách đưa ra một điều khoản bổ xung trong đó nói lên ʺtầng lớp nông dân của các thuộc địa là thành phần rất quan trọng trong những vấn đề về chiến tranh và hoà b́nhʺ [6]. Tại cuộc họp tiền hội nghị, Hồ được bầu vào Đoàn Chủ Tịch của Nông Dân Quốc Tế gồm mười một thành viên, cùng với một người Nhật tên Ken Hayasho [7].

    Việc thành lập Nông Dân Quốc Tế phản ánh sự chuyển hướng thoả hiệp với giai cấp nông dân Nga, cũng là vấn đề then chốt trong Chính Sách Kinh Tế Mới của Lenin. Được viết vào tháng 3, 1923, Chính Sách Kinh Tế Mới thay thế việc trưng thu lúa gạo bằng chính sách thuế nhẹ và cuối cùng sẽ hoàn chỉnh việc quay lại thể chế tư bản thị trường cho những ngành nông nghiệp, thương nghiệp và tiểu công nghiệp. Đến tháng 8 năm 1923 chính sách đă thành công đến nỗi Moscow đă tổ chức một cuộc triển lăm nông nghiệp rầm rộ nhằm chứng tỏ nền kinh tế nước nhà đă được tái ổn định. Những lănh đạo thiên tả nước ngoài đến xem triển lăm được mời ở lại để dự hội nghị nông dân.

    Sự ra đời của Nông Dân Quốc Tế c̣n là kết quả trực tiếp của quá tŕnh chuyển hoá của chính sách mặt trận thống nhất của QTCS. Việc tái xác nhận liên hiệp công‐nông tại Nga mà Chính Sách Kinh Tế Mới đă đưa ra tín hiệu được kèm theo bởi những thay đổi dần trong thái độ của những người Bolshevik đối với những đồng minh quốc tế. Không có hi vọng ǵ từ giai cấp công nhân ở châu Âu. Người Nga đang thúc dục QTCS thừa nhận ʺgiai cấp nông dân thế giớiʺ như là những đồng chí trong hành tŕnh tiến đến chủ nghĩa xă hội. Tại đại hội Đảng Bolshevik lần thứ

    12 vào tháng 4 năm 1923, Bukharin đưa ra quan điểm rằng nông dân tại các nước thuộc địa là

    ʺkho dự trữ khổng lồ cho lực lượng cách mạngʺ [8]. QTCS đă thành lập Uỷ Ban Nông Nghiệp vào năm 1923, sau đại hội lần 4 vào cuối năm 1922. Nhiệm vụ của Uỷ ban là ʺtheo dơi và củng cố châm ngôn của chính thể công nông trong trong các đảng pháiʺ [9]. Châm ngôn này biểu hiện việc những người Bolshevik đă chấp nhận thực tế: trong một thế giới đầy thù địch, nước Nga Xă Hội Chủ Nghĩa cần nhiều đồng minh hơn là chỉ một giai cấp vô sản của tư bản phương Tây. Mặc dù công nhân vẫn được hiểu theo định nghĩa kinh điển của Marx là lực lượng tiên phong của cách mạng, nhưng cũng có thể sửa đổi huấn điều của Marx để kêu gọi ʺNông dân và công nhân toàn thế giớiʺ đoàn kết lại [10]. Ủy Ban Nông Nghiệp của QTCS tổ chức Hội Nghị Nông Dân Quốc Tế vào tháng 10 dẫn đến việc Hồ Chí Minh đến Moscow.

    Hồ Chí Minh dự tính ở Nga trong ba tháng. ʺV́ lư do này hay lư do khác, ngày trở về của tôi cứ bị dời từ tuần này đến tuần khác, tháng này đến tháng khác,ʺ Ông viết trong một lá thư gửi cho một người đồng chí [11]. Mục đích chính của ông khi đến Moscow dường như là để kêu gọi mọi người quan tâm đến khiếm khuyết của Hội Đồng Nghiên Cứu Thuộc Địa của ĐCS Pháp mà sau này trở thành Ủy Ban Thuộc Địa của đảng. Trên thực tế vào tháng 7 năm 1923 ông đă đưa ra một báo cáo chi tiết về những nhược điểm này đến Ủy Ban Đông Dương của Cục Đông Phương thuộc QTCS, điều này tôi sẽ bàn thêm ở dưới [12]. Bao gồm Grigory Voitinsky, Voja Vujovic và Boris Souvarine, Ủy Ban Đông Dương có vẻ như là cơ quan hợp lư nhất để giải quyết những vấn đề của mảnh đất thuộc địa láng giềng với Java [13]. Voitinsky đă giúp thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1920 [14] và trở thành đại diện của QTCS tại Thượng Hải vào tháng 4 1924 [15]. Cũng như Mikhail Borodin, ông đă sống lưu vong mấy năm ở Mỹ. Hồ giữ mối liên hệ khắn khít với Voitinsky ít nhất là đến năm 1927, khi cả hai phải rời Trung Quốc.



    Photo 007



    Từ những liên lạc với QTCS ở Moscow, rơ ràng là khi vừa đặt chân đến thủ đô nước Nga ông đă yêu cầu được giúp đỡ để quay về lại Đông Dương qua ngơ Trung Quốc. Trong một lá thư đầy bực dọc gửi cho một ʺcamaradesʺ (đồng chí ‐ ND) vô danh vào tháng 3 năm 1924 (ngày tháng đề trong thư không rơ, nhưng hàm ư của ông về chín tháng tại Nga cho thấy nó được viết vào khoảng tháng 3), ông viết: ʺKhi đến Moscow, họ đă đồng ư là sau khi ở đây ba tháng, tôi sẽ đi Trung Quốc để bắt liên lạc với những người trong nước ḿnh. Giờ tôi ở đây đă qua chín tháng và đă chờ đợi suốt sáu tháng mà quyết định về chuyến đi của tôi vẫn chưa có. Tôi cảm thấy thật vô ích khi thảo luận ở đây về những phong trào cách mạng quốc gia mới hay cũ, về sự tồn tại hay không của những đảng công nhân, hay về những tổ chức hoạt động bí mật khác, bởi v́ tôi không có ư định tŕnh bày một luận án ǵ cho đồng chí cả; tôi chỉ muốn đồng chí cảm thấy việc cần thiết phải nghiên cứu MỌI THỨ một cách chính đáng, và nếu KHÔNG CÓ G̀, th́ hăy tạo ra MỘT CÁI G̀ (chữ in lớn trong bản gốc).ʺ Cùng với bốn mục tiêu của chuyến đi ông c̣n liệt kê ʺđể thiết lập liên hệ giữa Đông Dương và Quốc Tếʺ, và ʺđể tổ chức cơ sơ thu thập thông tin và tuyên truyềnʺ. Ông yêu cầu một ngân sách khoảng 100 Đô‐la Mỹ mỗi tháng cho phí tổn đi lại, liên lạc, mua sách báo, ăn ở; ngoài ra ông c̣n yêu cầu chi phí cho chuyến đi từ Nga về Trung Quốc [16]. Phải đến Đại Hội QTCS lần thứ 5 vào tháng 5 năm 1924 mới có quyết định chắc chắn để gửi Hồ đi Quảng Châu [17]. Có vài lư do v́ sao QTCS và Cục Đông Phương lại chậm trễ trong việc giao phó một công việc cụ thể cho Hồ. Trước tiên, kế hoạch giúp đỡ của Nga cho Tôn Dật Tiên chỉ mới vừa h́nh thành sau khi Mikhail Borodin đến Quảng Châu vào mùa thu năm 1923. Những sĩ quan giảng dạy cho quân đội Quốc Dân Đảng đă chưa đến Quảng Châu cho tới tháng 6, 7 và tháng 10 năm 1924 [18]. Hơn nữa, khi việc chuẩn bị cho Đại Hội lần 5 bắt đầu, những người lănh đạo QTCS rơ ràng là đang bận rộn với hậu quả của cuộc nổi dậy không thành tại Đức, và lẽ đương nhiên, việc này cấp bách hơn nhiều so với vấn đề Đông Dương. Cũng có thể là những quan chức trong QTCS muốn giữ Hồ lại Moscow để đánh giá Hồ và để điều tra những quan hệ chính trị của ông.

    Việc triển khai chính sách đối với những nước thuộc địa của Quốc tế Cộng Sản

    Đến khi Hồ đặt chân đến Nga, Quốc tế Cộng Sản đă phát triển từ một liên hiệp lỏng lẽo của những đại diện của các đảng cộng sản và đảng cánh tả thành một bộ máy quyền lực bền vững tại Moscow, ngày càng ảnh hưởng bởi những thay đổi chính trị trong nội bộ nước Nga. Bắt đầu từ Đại Hội 4 (5 tháng 11 đến 5 tháng 12, 1922), Ủy Ban Trung Ương QTCS được bầu chọn bởi những đại biểu thay v́ những đảng thành viên. Mục đích là để biến QTCS trở thành một ʺđảng thực sự tập trung, đoàn kếtʺ [19]. Khi mới thành lập vào năm 1919, những thành viên người Nga đă không lũng đoạn mấy trong những quyết định của đảng, mặc dù trong số 52 đại biểu có mặt trong đại hội, chỉ có bảy người là ngoài nước Nga. Ba thành viên xă hội người châu Á sống tại Nga tham gia Đại Hội 1 là: Liu Shaozhou và Zhang Yongkui thuộc Liên Hiệp Công Nhân Trung Quốc, và một người Triều Tiên được biết như Đồng chí Kain đại diện cho Liên Đoàn Công Nhân Triều Tiên [20]. Cũng có một nhóm đại diện cho những khu vực Trung Á thuộc đế chế Nga Hoàng trước đây. Bukharin chỉ ra trong một bài viết trên báo Sự Thật (Prava ‐ ND) rằng ủng hộ những thuộc địa bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng của họ là một trong những điều nổi bật của chủ nghĩa cộng sản mới hay Quốc Tế III so với chủ nghĩa dân chủ xă hội hay Quốc Tế II.

    ʺKhông phải t́nh cờ mà trong ḱ đại hội đầu tiên của QTCS chúng ta được nghe phát biểu bằng tiếng Hoa,ʺ ông viết [21]. Nhưng rồi ba đại biểu đông Á, đều sống tại Nga, chỉ được quyền bầu dưới dạng tham vấn, trong khi cả nhómʺLiên Hiệp Các Dân Tộc Phương Đông tại Ngaʺ chỉ được bầu chung một phiếu [22]. Vị thế thấp bé của những người châu Á tại đại hội 1919 phản ánh quan điểm rằng cuộc cách mạng tại châu Âu là không thể tránh khỏi và v́ thế nó quan trọng hơn cuộc đấu tranh giải phóng của các thuộc địa. Như Trosky đă nói trong bản Tuyên Ngôn QTCS, đề cập đến ʺgiai cấp vô sản trên toàn thế giớiʺ, ʺviệc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể xảy ra cùng lúc với việc giải phóng giai cấp công nhân bên trong các nước đế quốc. Tầng lớp công nhân và nông dân, không những tại Annam, Algeria và Bengal, mà c̣n tại Persia và Armenia, sẽ có được cơ hội giành độc lập chỉ khi nào giai cấp công nhân tại Anh và Pháp hạ bệ Lloyd George và Clemenceau (Thủ tướng Anh và Pháp ‐ ND) và giành chính quyền về tay của họʺ [23].

    Cương lĩnh đầu tiên cho cái mà QTCS gọi là ʺnhững nước thuộc địa và bán thuộc địaʺ đă được vạch ra vào Đại Hội 2 năm 1920. Cương lĩnh này do Lenin soạn thảo, đă trở thành Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa (Hồ đă đọc bản thảo đầu trên tờ Nhân Đạo vào tháng 7 năm 1920]. Nó được tranh căi sôi nổi tại uỷ ban thuộc địa tại Đại Hội và cuối cùng đă được thông qua, với rất nhiều chỉnh đổi, như là cương lĩnh chính thức của QTCS. V́ cương lĩnh này bao gồm những vấn đề chính trị trọng yếu của sự nghiệp cộng sản của Hồ Chí Minh, nên việc phân tích tranh luận nảy sinh trong QTCS là rất cần thiết. Sự tranh chấp này đă lặp lại trong nhiều giai đoạn dưới những h́nh thức khác nhau trong những đảng cộng sản châu Á ít nhất là đến thập niên 70.

    Con người Lenin khi thảo Luận Cương đă cẩn tắc hơn Lenin vào năm 1917. Mặc dù cương lĩnh của ông không phải là những hướng dẫn chính xác nhất nhưng nó vẫn là nguồn gốc của lư thuyết về mặt trận thống nhất đă được thực hành một cách thành công bởi những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam vào thời điểm Chiến Tranh Thế Giới thứ II bắt đầu. Chính v́ sau khi đọc Luận Cương vào mùa hè 1920 trên tờ Nhân Đạo, Hồ Chí Minh cho rằng ḿnh đă trở thành một người Leninist chính thống [24]. Khi nó được công bố với những sửa đổi sau cuộc tranh luận tại Ủy Ban Thuộc Địa của Đại Hội, kèm theo những điều khoản hơi mâu thuẫn của Mahendra Nath Roy thuộc đảng cộng sản Ấn Độ, nó đă để nhiều chỗ trống để có thể hiểu theo những cách khác nhau. Nhưng nó vẫn được xem là một yếu tố quan trọng của lư luận Marxist‐ Leninist trong suốt nhiều năm. Mặc dù một cương lĩnh mới, cấp tiến hơn về những nước thuộc địa được Otto Kuusinen đưa ra tại Đại Hội 6 QTCS vào năm 1928, ông vẫn muốn cho rằng cương lĩnh của ḿnh là sản phẩm của Luận Cương Lenin 1920 mà ông cho là vẫn có đầy đủ giá trị của ʺnhững đường lối của các đảng cộng sảnʺ [25].

    Luận cương của Lenin đưa ra tầm quan trọng của các nước thuộc địa trong bối cảnh của cách mạng toàn cầu. Chúng là khai triển hợp lư của ông về những phân tích về chủ nghĩa tư bản trên thế giới trong cuốn Về Chủ Nghĩa Tư Bản, xuất bản năm 1917. Lenin lư luận rằng, là nguồn tài nguyên của nguyên liệu thô và sức lao động rẻ tiền, những nước thuộc địa rất quan trọng đối với quyền lực của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nếu giai cấp công nhân phương Tây liên minh với những dân tộc bị áp bức tại các thuộc địa để giúp họ giành độc lập, Lenin lập luận, họ sẽ đánh một đ̣n chí mạng vào kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản.

    Khía cạnh quan trọng thứ hai của Luận Cương là trong giai đoạn đầu, giai đoạn tư sản dân tộc của cuộc cách mạng thuộc địa, những người cộng sản phải bắt tay với những đảng phái quốc gia, v́ giai cấp vô sản thuộc địa không đủ lớn mạnh để đơn phương tiến hành cách mạng. Chỉ sau khi cách mạng tư sản đă đạt được mục đích của nó ‐ giành độc lập quốc gia và chấm dứt chế độ phong kiến ở nông thôn ‐ th́ cuộc cách mạng xă hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lănh đạo mới có thể bắt đầu. Lenin cho rằng nếu giai cấp công nhân tại những thuộc địa vừa được giải phóng được các quốc gia cộng sản phát triển giúp đỡ, họ có thể bỏ qua thời kỳ chủ nghĩa tư bản và tiến thẳng lên chủ nghĩa xă hội. Điều này có vẻ như một lập lại của lư thuyết ʺcon đường riêngʺ của những người theo phái Dân Tuư tại Nga.

    Những đại biểu châu Á lẫn châu Âu có vẻ không quán triệt lắm với quan điểm rằng cộng sản cần liên minh với tư sản dân tộc trong các phong trào giành độc lập. Những người dân chủ xă hội thuộc Quốc Tế II được cho là những nhà cải cách không đáng tin cậy, luôn sẵn sàng thoả hiệp với giai cấp tư bản cầm quyền. Việc họ ủng hộ các chính sách chủ chiến của các chính phủ trong trong Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất bị những người xă hội cấp tiến thành lập Quốc Tế III cho là đă phản bội tinh thần quốc tế. Cuối cùng các đại biểu đă thuyết phục Lenin sửa đổi cụm từ ʺnhững phong trào tư sản dân tộcʺ thành ʺnhững phong trào cách mạngʺ [26]. Có những đoạn văn được chêm vào phiên bản hoàn tất của Luận Cương để giảm nhẹ chiến lược mặt trận thống nhất để vừa ḷng các đại biểu. Ví dụ như trong điều khoản 11a kêu gọi các đảng cộng sản ʺủng hộ bằng hành độngʺ phong trào cách mạng giải phóng trong ʺnhững đất nước có những đặc tính lạc hậu, phong kiến, địa chủ hoặc địa chủ‐nông dânʺ, một điều kiện đă được thêm vào: ʺH́nh thức ủng hộ phải được thảo luận trước với Đảng Cộng Sản của đất nước ấy, nếu đảng ấy hiện hữuʺ [27]. Nhưng nó vẫn không che đậy được thực tế là Lenin chấp nhận việc các đảng viên cộng sản có thể phân tán tạm thời trong cuộc đấu tranh giai cấp theo học thuyết Marxist tại những đất nước ʺlạc hậuʺ này. Thành viên cộng sản người Hà Lan ʺMaringʺ (Henk Sneevliet) trở thành công cụ để thuyết phục các đại biểu. Kinh nghiệm tổ chức của ông tại Java trong thời kỳ Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất, khi những người xă hội cấp tiến hợp tác với đảng quốc gia Sarekat Islam để chống lại Hà Lan, đă trở thành kiểu mẫu cho chiến lược của QTCS tại Trung Quốc. Phương pháp của ông vô cùng thực dụng: Các lực lượng tư sản và cộng sản phải hợp tác với nhau trong các nước thuộc địa, v́ những người cộng sản không đáng kể mấy nếu đứng một ḿnh [28].

    Bản Bổ Sung cho Luận Cương về Các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa do M.N. Roy (thuộc Ấn Độ ‐ ND) soạn cũng được thông qua bởi Ủy Ban Thuộc Địa tại Đại Hội 2 dưới dạng bổ túc. Việc nhấn mạnh sự khác biệt giữa giai cấp tư sản thuộc địa và công nhân trong Luận Cương của Roy rơ ràng là đă mâu thuẫn với lư luận của Lenin. Lenin bỏ lửng ư tưởng của ḿnh trong một phạm vi nhất định để mọi người có thể hiểu theo cách riêng v́ không muốn phật ḷng một đồng minh quí báu từ mảnh đất thuộc địa lớn nhất của Anh Quốc. Sự khác biệt của Roy so với đường lối của Lenin được thể hiện rơ trong điều khoản 7: ʺTrong các quốc gia độc lập hiện hữu hai phong trào dị biệt ngày càng cách xa nhau. Một bên là phong trào tư sản‐dân chủ quốc gia, với phương tŕnh chính trị độc lập dưới sự lănh đạo của giai cấp tiểu tư sản, và bên kia là khối hành động của tầng lớp nông dân và công nhân nghèo khổ bị bỏ rơi nhằm giải phóng họ khỏi mọi áp bức. Tầng lớp thứ nhất luôn cố gắng kiềm chế tầng lớp sau và thường thành công trong một mức độ nào đó. Nhưng Quốc tế Cộng Sản và các đảng phái liên minh phải đấu tranh chống lại việc này và giúp nâng cao ư thức giai cấp cho khối quần chúng của giai cấp công nhân thuộc địa.ʺ Trong những phiên bản khác của bài viết có một đoạn được thêm vào như là một thoả hiệp: ʺTrong bước tiến đầu tiên của cuộc cách mạng thuộc địa ‐ lật đổ chế độ tư bản ngoại quốc ‐ việc hợp tác với những phần tử cách mạng tư sản dân tộc là hữu íchʺ [29].

    Maring, chủ tịch Ủy Ban Thuộc Địa tại Đại Hội, đă t́m cách xoa dịu được mối mâu thuẫn có thể thấy là rất hiển nhiên này. Ông lập luận rằng cả hai Luận Cương của Lenin và Roy đều ʺmang cùng một ư nghĩaʺ: ʺVấn đề là việc t́m ra phương cách đúng đắn trong mối quan hệ giữa hai phong trào cách mạng quốc gia và xă hội trong những nước lạc hậu và thuộc địa. Trên thực tế vấn đề này không hề tồn tại. Việc quan trọng là ta phải hợp tác với những lực lượng cách mạng quốc gia, và chúng ta chỉ làm phân nửa công việc nếu chúng ta phản đối phong trào này và tỏ ra là những nhà Marxist giáo điềuʺ [30]. Con người thực dụng Maring đă bỏ qua những trở ngại hiển nhiên trong giải pháp của ḿnh. Allen Whiting (Giáo Sư Chính Trị Học người Mỹ ‐ ND) chỉ ra rằng sự thoả hiệp này chỉ là một giải pháp mong manh mà sau này đă phá huỷ mặt trận thống nhất tại Trung Quốc: ʺNhững từ chương phức tạp của những giải pháp đa dạng đă phục vụ như một thứ b́nh phong tạm bợ, che đậy mối mâu thuẫn giữa những chiến lược cách mạng của Lenin và mối thù của những người châu Á đối với những kẻ bóc lột họ. Nếu mâu thuẫn này không được giải quyết, chiến lược ʺmặt trận thống nhấtʺ ở Trung Quốc không những chỉ đối diện với sự nghi ngờ từ cánh Hữu mà c̣n cả thái độ mơ hồ của cánh Tảʺ [31]. Điều không tránh khỏi là những mặt trận thống nhất dựa trên Luận Cương của Lenin chỉ là một hiện tượng nhất thời. Chúng không xoá bỏ được những dị biệt về tư tưởng giữa những người cho rằng sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản là một quá tŕnh hữu cơ cần có đủ thời gian để hoàn tất và những người như Lenin vào năm 1917, muốn đẩy nhanh việc thay đổi bằng bạo lực.

    Vị trí của Hồ Chí Minh tại Quốc tế Cộng Sản

    Mặc dù Quốc tế Cộng Sản đă tăng cường mối quan tâm đến giai cấp nông dân, khi Hồ Chí Minh đến Moscow tháng 7 năm 1923, báo cáo của ông về các hoạt động phản đế tại Pháp đă phê phán nặng nề cơ quan này.Trong khi những người Cộng Hoà Trung Quốc đang được các nhà ngoại giao và đặc sứ của Nga ve văn, mảnh đất thuộc địa Pháp xa xôi rơ ràng là không thu hút được mối quan tâm của Nga. Cuối cùng chuyến đi của Hồ trở về châu Á do QTCS bảo trợ trở thành hiện thực có thể là v́ nó nằm trong chương tŕnh hổ trợ của Nga dành cho Cộng Hoà Trung Hoa. Về mọi phương diện, khi đến Moscow Hồ vẫn hành xử như một đại diện của Công Đoàn Thuộc Địa ở Paris, và có thể đă soạn bản báo cáo chung với những đồng nghiệp trong Công Đoàn. Ông than phiền rằng Luận Cương về Các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa đă dấy lên mối trông chờ trong các thuộc địa rằng QTCS sẽ giúp giải phóng họ. Nhưng cho đến nay những Luận Cương này chỉ là ʺvật trang hoàng trên giấyʺ, ông viết. Mặt khác Luận Cương cũng đă làm cho những nhà nước thống trị tăng cường nỗ lực trong chính sách tuyên truyền ngu dân và đàn áp trong khi đó lại không có được bất cứ hành động nào từ các ĐCS Pháp và Anh [32], ông cho biết.Những cơ hội để giúp đỡ các phong trào thuộc địa như vụ đ́nh công tại Martinique và cuộc khởi nghĩa ở Dahomey đă bị bỏ lỡ, ông nói. ʺThật là mỉa mai và buồn thay cho những người anh em bất hạnh Dahomey của tôi, trong bóng tối của những nhà tù văn minh, khi phải đọc mục thứ 8 của bản 21

    Điều Kiện (để tham gia QTCS), trong đó nói rằng ʹmỗi đảng bộ có nhiệm vụ thi hành hệ thống tuyên truyền cho lực lượng trong nước ḿnh chống lại sự đàn áp dân chúng thuộc địa; và phải ủng hộ phong trào giải phóng trong các thuộc địa bằng lời nói và việc làm.”

    Cái chết của Lenin trong tháng Giêng lạnh giá năm 1924 đă mở ra một thời kỳ mới của việc đấu tranh bè phái trong nội bộ QTCS. Hoà chung ḍng người đứng đợi hàng giờ dưới trời đông để viếng nhà lănh đạo tối cao vừa qua đời, mũi và các ngón tay của Hồ bị lở loét v́ cóng [33]. Việc bày tỏ ḷng thành này đă giúp cho tương lai chính trị của Hồ. Trong những tháng năm kế ông đă t́m cách để tránh bị nhận diện là thuộc hạ của Leon Trotsky lúc ảnh hưởng của ông này tại Kremlin đă bắt đầu đi xuống và Lenin rút khỏi hoạt động chính trường. Có rất nhiều người đỡ đầu và đồng chí của Hồ trong ĐCS Pháp đă bị truất phế, trong đó có Boris Sourarine thuộc Ủy Ban Thuộc Địa của QTCS và Jacques Doriot, sau này trở thành người bảo trợ cho Hồ khi Hồ vận hành Ủy Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp. Hồ đă có được bài học đáng giá về cách sống c̣n trong chính trường vào mùa thu đầu tiên ở Moscow, khi ông chứng kiến chiến dịch chính trị thành công cuối cùng của Trosky ‐ cuộc vận động cho phong trào Dân Chủ Công Nhân.

    Trotsky bắt đầu khởi xướng vấn đề dân chủ trong đảng khi quyền lực tối cao của ông đă yếu đi. Trong lá thư gửi cho Ủy Ban Trung Ương ngày 8 tháng 10, 1923 ông lên án việc bổ nhiệm những chức bí thư từ phía trên. Ư kiến của ông được sự tán đồng của bốn mươi sáu đảng viên tên tuổi, họ đă cùng viết thư cho Ủy Ban Trung Ương ủng hộ đề xướng của ông. Đối diện với sự ủng hộ rộng khắp cho quan điểm này, bộ tam tối cao gồm Grigory Zinoviev, Leve Kamenev và Josef Stalin cho phép việc thành lập một uỷ ban về vấn đề dân chủ công nhân. Trotsky là một trong những tác giả soạn thảo nghị quyết chính thức, được đăng trên báo Sự Thật ngày 7 tháng 12,

    1923. Nghị quyết kêu gọi chấm dứt việc ʺquan liêu hoáʺ nội bộ đảng, cho phép tự do thảo luận và bầu cử các chức vụ lănh đạo một cách công khai [34].

    Trong khi đó Trotsky lại bị cô lập trong Bộ Chính Trị. Phong trào ʺDân Chủ Công Nhânʺ đă không đạt được điều ǵ ngoài bản nghị quyết (cho đến khi Stalin cảm thấy đúng lúc để xử dụng cho việc bầu cử các chức bí thư); đến khi Đại Hội Lần 5 QTCS được tổ chức vào tháng 6 1924, Trotsky đă trở thành một kẻ vô danh. Mặc dù ông vẫn được bầu vào Chủ Tịch Đoàn (nhưng chỉ là một ứng cử viên b́nh thường) và đă đưa ra bản tuyên ngôn hùng hồn trong bài ʺKỷ Niệm Mười Năm Chiến Tranh Thế Giới Bùng Nổʺ [35], con người có công thành lập QTCS này hầu như không xuất hiện trong suốt kỳ Đại Hội. Boris Sourvarine, người đóng vai tṛ trọng yếu trong việc xuất bản tờ Con Đường Mới (The New Course ‐ ND) cho phong trào dân chủ công nhân bằng tiếng Pháp, đă bị đẩy ra khỏi ĐCS Pháp khi Đại Hội bế mạc. H́nh như vào thời điểm này Hồ đă học được tài tránh né những cuộc tranh luận mang tính học thuyết, Ruth Fischer, một đảng viên cộng sản người Đức nhớ lại khoảng thời gian làm việc tại QTCS. Bà kể với Jean Lacouture (nhà sử học người Pháp ‐ ND) rằng Hồ ʺhướng nhiều về hành động hơn là bàn thảo lư luận. Ông luôn là người thiên về kinh nghiệmʺ [36]. Dù vậy những hồi ức của Fisher cũng như của các cựu thành viên QTCS đă khác viết về Hồ sau khi ông đă nắm quyền lực cần nên nghiên cứu một cách cẩn trọng. Trong cuốn Từ Lenin đến Mao (Von Lenin Zu Mao‐ND), Fisher viết rằng Hồ đến Moscow vào năm 1922 để tham dự Đại Hội 4 QTCS. V́ không có bất cứ tài liệu hoặc bằng chứng củng cố cho việc này, chúng ta có thể cho rằng Fisher đă dùng dữ liệu không chính xác [37]. Dù trong bất cứ trường hợp nào, ta vẫn biết rằng ngay từ năm 1924 Hồ đă biết được rằng nếu đứng không đúng chỗ trong trận chiến tư tưởng có nghĩa là không những sự nghiệp cộng sản của ông sẽ bị chấm dứt mà hy vọng giành được sự ủng hộ cho nền độc lập của Việt Nam cũng tiêu tan. Tính kín đáo có sẵn của ông có lẽ đă giúp ông che đậy những suy nghĩ thật của ḿnh về những vấn đề không liên quan trực tiếp đến Việt Nam.

    Phản ứng của Hồ đối với những cạm bẫy chính trị trong nội bộ QTCS là giữ ḿnh kín đáo và tiếp tục hướng tới mục tiêu đă được hoạch định cẩn thận của ḿnh. Ông tập trung nỗ lực của ḿnh để thúc dục QTCS có hành động mạnh mẽ hơn đối với những vấn đề thuộc địa. Vào tháng 2 và lần nữa vào tháng 3 năm 1924 ông viết thư yêu cầu được gặp Zinoviev. Vào năm 1920 Zinoviev đă trở thành chủ tịch ʺTiểu Vụʺ của Ban Chấp Hành QTCS (Hồ đă ngưng làm việc tại các cơ quan của QTCS v́ mũi và những ngón tay bị loét cóng) [38]. Zinoviev đă chuyển những yêu cầu của Hồ đến lănh đạo mới của Cục Đông Phương, Fyodor Petrov (F.F. Raskolnikov) thay thế Karl Rakek vào ngày 8 tháng 3, 1924 [39]. (Radek bị đem làm vật tế thần cho sự thất bại của cuộc cách mạng tại Đức, nhưng trở lại để đứng đầu Học Viện Tôn Dật Tiên cho đến năm 1927). Vào ngày 20 tháng 5, 1924 Hồ gửi một bản đề nghị dài ba trang đánh máy cho Petrov. Bản đề nghị vạch nền tảng cho một Liên Minh Cộng Sản Á Châu. Sự yếu kém của nhân dân phương đông, ông viết, là do họ bị cô lập với nhau.

    ʺThật có ích khi những người An Nam học hỏi phương pháp tổ chức của những người anh em Ấn chống lại đế quốc Anh,ʺ ông viết một cách hào hứng, ʺhoặc cách thức của giai cấp công nhân Nhật đoàn kết chống chủ nghĩa tư bản, hoặc sự hi sinh cao cả của nhân dân Ai Cập nhằm đ̣i hỏi tự do. Người dân phương đông nh́n chung rất t́nh cảm; đối với họ, một ví dụ điển h́nh có giá trị hơn cả trăm bài diễn thuyết.ʺ Hồ đề nghị trường Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông, nơi học sinh của 62 dân tộc châu Á đang nghiên cứu, nên trở thành cơ sở để tạo dựng Liên Minh. Ông nôn nóng muốn tổ chức một uỷ ban dự bị trước khi Đại Hội QTCS sắp xảy ra vào tháng 6 [40].

    Sáng kiến của Hồ dường như không được ai thực hiện, cho đến khi chính ông giúp thành lập Liên Hiệp các Dân Tộc bị Áp Bức vào năm 1925 lúc ông đến Quảng Châu [41]. QTCS nghĩ rằng cơ cấu của họ tại Moscow đă đủ để giúp các nước châu Á liên lạc với nhau. V́ thế những người cộng sản Việt Nam lại không có một đảng Cộng Sản cho riêng ḿnh. Điều này đặt họ vào vị thế lúng túng, phải đi t́m sự giúp đỡ từ nhiều hướng. Những người Việt tại Pháp th́ tham gia ĐCS Pháp; trong khi đó cộng sản Pháp lại cho rằng những người cộng sản Việt Nam đang t́m hướng đi đến Ủy Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp mặc dù uỷ ban này chỉ làm việc lấy lệ. Trong cơ cấu hành chính quan liêu của QTCS, từ 1923 đến 1926 Đông Dương trực thuộc trong bộ phận rất mơ hồ là ʺPhân Bộ Trung Đôngʺ thuộc Cục Đông Phương trong đó bao gồm cả Ấn Độ và Nam Dương. Khi phong trào cộng sản Việt Nam đă phát triển, sự lẫn lộn vẫn c̣n tiếp diễn trong việc ai là người chịu trách nhiệm hướng dẫn phong trào. Trên thực tế, sự lớn mạnh của cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn 1923‐1927 có lẽ là nguồn động viên lớn nhất cho phong trào cộng sản phôi thai tại Việt Nam cũng như những phong trào cộng sản khác trên khắp vùng đông nam châu Á. Một số người Việt lưu vong tại Trung Quốc đă trở thành đảng viên ĐCS Trung Quốc trước khi ĐCS Việt Nam được thành lập.

  5. #45
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 2
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ



    Ta có thể đoán rằng những cuộc tiếp xúc không chính thức giữa các nhân viên QTCS và sinh viên của Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông (c̣n có tên là ĐH Stalin) ở Moscow đă trở thành
    một diễn đàn trao đổi tư tưởng và tin tức. Nhưng ngoại trừ Hồ ra, không có người Việt Nam nào có cơ hội theo học tại đây trước năm 1925 hoặc 1926, khi những sinh viên Đông Dương đầu tiên được gửi qua từ Paris chính thức theo học [42]. Thành lập vào năm 1921 với mục đích đào tạo những thành viên cộng sản cốt cán, cho đến năm 1924 trường này giảng dạy những người Á châu nằm trong lănh thổ của liên bang Sô Viết và con số học sinh nước ngoài theo học ngày càng đông. Danh sách của sinh viên đến từ miền đông và nam Á năm ấy có 56 sinh viên Triều Tiên, 109 sinh viên Trung Quốc, 6 sinh viên Mă Lai hoặc Nam Dương và 16 sinh viên Mông Cổ [43]. Không có tài liệu chính thức về việc Hồ Chí Minh nghiên cứu tại đây trước năm 1936, mặc dù tác giả người Nga tên Yevgeny Kobelev trích dẫn từ một bài phỏng vấn Hồ ngày 15 tháng 3 năm 1924 trong tờ báo cộng sản Ư LʹUnità, trong đó Hồ đề cập đến việc nghiên cứu của ḿnh tại trường này [44]. M.N.Roy cũng xác nhận rằng Hồ đă theo học tại trường [45]. V́ Hồ đến Moscow với tư cách chính thức qua Nông Dân Quốc Tế, rất có thể ông đă học những lớp về vận động nông dân khi mới đến đây.

    Hồ Chí Minh được phép làm việc như một ʺnhân viên không biên chếʺ cho các cơ quan QTCS vào tháng 4 năm 1924 [46]. Một trong những nhiệm vụ chính của ông tại Moscow là soạn thảo báo cáo về Việt Nam và viết bài cho báo chí cộng sản. Có thể là ông đă sửa lại những bản thảo đă viết khi c̣n ở Pháp, đă được xuất bản dưới cái tên Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp bởi Nghiệp Đoàn Lao Động tại Paris năm 1925. Bản thảo đánh máy bằng tiếng Pháp từ bản tài liệu của Hồ về vấn đề Đông Dương nằm trong văn khố của QTCS, nhưng không có bằng chứng là nó đă được xuất bản. Bản tài liệu bao gồm một giới thiệu ngắn về lich sử và địa lư Việt Nam và những phần nói về việc trưng thu đất đai của người Việt một cách vô nhân đạo của nhà cầm quyền Pháp [47]. Một thành quả báo chí của Hồ tại Moscow là bài báo ʺLenin và Nhân Dân Phương Đôngʺ viết năm 1924. Ông đă viết một bài dài 8 trang phân tích quan điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc và phong trào giải phóng thuộc địa. Bài viết này có giá trị hơn là bài viết tương tự nhưng đầy cảm xúc ca tụng được in với cùng đầu đề trên tờ Sự Thật số 27 tháng 1, 1924 sau khi Lenin qua đời. Bài viết sau đă phản ánh trung thực nỗi ray rứt của Hồ trong giai đoạn này của đời ḿnh ʺQuá quen với việc bị đối xử như những người lạc hậu và thấp hènʺ, ông viết, ʺhọ (người dân Á châu) đă thấy Lenin như hiện thân của t́nh huynh đệ quốc tế. (...) họ sùng kính ông với với ḷng thành của con cái đối với cha mẹʺ [48]. Luận Cương của Lenin và những hứa hẹn của QTCS với dân tộc thuộc địa có lẽ là những dấu hiệu đầu tiên mà Hồ t́m được về việc phương Tây thật sự quan tâm đến vấn đề áp bức của người Pháp.

    Đại Hội Quốc tế Cộng Sản lần 5

    Khi Đại Hội 5 Quốc tế Cộng Sản khai mạc tại Moscow vào tháng 6 1924, Hồ cảm thấy cần giữ nguyên áp lực với những người cộng sản tây Âu để họ quan tâm nhiều hơn nữa đến các thuộc địa của ḿnh. Cả ba lần phát biểu của Hồ tại Đại Hội chủ yếu tập trung vào việc yêu cầu có nhiều hành động hơn đối với những vấn đề thuộc địa. Rơ ràng là Hồ vẫn c̣n nguyên t́nh yêu nước và tinh thần kiên quyết của những tháng ngày ở Paris. Nhưng ông vẫn chỉ là một đại biểu với lá phiếu tham vấn [49]. Chỉ vừa tṛn 30 tuổi, ông đă không ngần ngại lên lớp giới lănh đạo của cộng sản thế giới về những thiếu sót của họ ‐ ông luôn xen vào những cuộc tranh luận kéo dài về những vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ông đă rất gay gắt với các đảng cộng sản Pháp và Anh: ʺTất cả những ǵ mà đảng chúng ta đă làm trong lĩnh vực này là con số không. Tại xứ Tây Phi thuộc Pháp chính sách quân dịch được thực hiện bởi những biện pháp cưỡng chế không thể tưởng tượng, mà báo chí chúng ta chẳng đả động ǵ đến. Chính quyền thuộc địa tại Đông Dương đă trở thành những kẻ buôn nô lệ, chuyên bán dân bản xứ Bắc Kỳ cho những chủ đồn điền ở quần đảo Thái B́nh Dương; họ đă tăng hạn quân dịch của dân bản xứ từ hai năm lên bốn năm; họ đă trao phần lớn thuộc địa cho tập đoàn cá mập... và báo chí chúng ta vẫn một mực lặng imʺ [50]. Ông đề nghị một số biện pháp có thể áp dụng lập tức như: một diễn đàn về thuộc địa trên báo Nhân Đạo, tăng cường việc tuyên truyền và kết nạp thành viên thuộc địa, bảo trợ các sinh viên thuộc địa tại Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông ở Moscow, tổ chức thành phần công nhân thuộc địa tại Pháp, và bắt buộc các đảng viên quan tâm đến những vấn đề thuộc địa [51].

    Việc tham gia lần cuối cùng của Hồ vào cuộc tranh luận về vấn đề nông dân rơ ràng là đă được ông tính toán kỹ lưỡng. Ông phát biểu với tư cách là một chuyên viên về nông dân thuộc địa Pháp chứ không chỉ riêng về Đông Dương. Những nghiên cứu và bài vở của ông và đồng nghiệp từ tờ báo Người Cùng Khổ có thể là cơ sở cho bài phát biểu. Ông đă không bỏ phí thời gian với những lời chính trị sáo rỗng như tỉ lệ phần trăm của bần nông, trung nông, phú nông và địa chủ. Theo ông 95% dân số thuộc địa Pháp đang bị ʺbóc lột hoàn toànʺ [52]. Việc trưng thu đất đai của tư bản Pháp là nguồn gốc của sự bóc lột ấy. Ông nói tại Việt Nam ʺKhi người Pháp đánh chiếm vùng đất này, chiến tranh đă đẩy nông dân ra khỏi làng quê của ḿnh. Kết quả là khi họ quay về quê quán, đất đai của họ đă bị chiếm dụng bởi các chủ đồn điền theo gót đội quân chiến thắng. Chúng đă chuyển nhượng đất đai mà dân bản xứ đă sinh sống và lao động suốt mấy thế kỷ quaʺ

    [53]. Ông đă vẽ lên một bức tranh đen tối của việc hành hạ, mà tồi tệ nhất là những nông dân vùng châu Phi xích đạo, nơi mà ʺngười già, phụ nữ và trẻ em bị giam giữ, hành hạ, tra tấn, bỏ đói, đoạ đày và đôi khi giết chếtʺ [54]. Hồ so sánh việc giải phóng người dân khỏi ách thuộc địa cũng giống như cách mạng vô sản: ʺNhiệm vụ của Quốc tế Cộng Sản là giúp đỡ tổ chức thành phần nông dân đáng thương này. Nhiệm vụ của họ là vạch ra con đường đến cách mạng vô sản và giải phóngʺ [55]. Ta tự hỏi rằng những kỷ niệm của ông ở Trung phần Việt Nam năm 1908 đă ảnh hưởng nhiều như thế nào đến cái nh́n của ông về sự áp bức của người Pháp‐ những bất công mà ông đă chứng kiến khi c̣n là một thiếu niên chắc chắn đă thúc đẩy ông như thời ông c̣n ở Paris. Trên thực tế, trong báo cáo cho Quốc Tế Nông Dân vào tháng 7 năm 1924 về giới vô sản Việt Nam, ông đă đề cập đến ʺsự áp bức dă man và đẫm máuʺ của người Pháp năm 1908 [56]. Thời điểm cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản hay mối quan hệ công nông đối với ông không quá quan trọng vào năm 1924.

    Mặc dù Đại Hội 5 đă đánh dấu sự xuất hiện chính thức của Hồ trong chính trường QTCS, bản thân nó không phải là một diễn đàn quan trọng để thảo luận về các vấn đề thuộc địa. Sự cách biệt ngày càng lớn giữa Trotsky và bộ ba lănh đạo tại Nga, cùng với thời kỳ hậu tử của cuộc cách mạng Đức bị thất bại năm 1923, đă che phủ mọi chủ đề khác. Với mối nguy hiểm ngày càng lớn của việc chia rẽ trong nội bộ CSQT, mọi quan tâm đều chú trọng vào vấn đề ʺkỷ luật Bolshevikʺ. Câu khẩu hiệu ʺBolshevik hoáʺ xuất hiện lần đầu tiên tại đại hội này ‐ những đảng thành viên của QTCS bắt buộc phải trở thành những đảng có kỷ luật, ʺkhông cho phép chia rẽ, nhiều khuynh hướng hay bè pháiʺ [57]. Chúng phải được tái cơ cấu theo mô h́nh của đảng Bolshevik Nga. Những thành phần chủ chốt của các đảng thành viên trong QTCS không những phải báo cáo với lănh đạo của đảng ḿnh mà c̣n cả với Ban Chấp Hành QTCS. Ban Chấp Hành sẽ có trách nhiệm hiệu đính cương lĩnh của các đảng cũng như tất cả các tài liệu hoạt động khác.

    Những dấu hiệu chia rẽ trong nội bộ đảng cộng sản Nga đă xuất hiện trong cuộc thảo luận về sách lược của mặt trận thống nhất, một thảo luận mà Zinoviev gọi là ʺvấn đề gây tranh căi nhất trong hàng ngũ chúng taʺ [59]. Chính Zinoviev đă đánh giá rất thấp sách lược và nguồn gốc của nó, nhưng ông vẫn chắc chắn rằng nó sẽ tồn tại trong đường lối của QTCS cũng như của đảng CS Nga. ʺSách lược của Mặt Trận Thống Nhất vẫn đúng đắn,ʺ ông nói thẳng thừng. Nhưng ông lại bổ sung một điều khoản về ʺvấn đề phải đặt ra một cách vững chắc, cá biệt cho mỗi quốc gia, phù hợp với những điều kiện thuận lợi.ʺ Ông nhấn mạnh rằng sách lược đang đưa nước Nga trở lại t́nh trạng kinh tế tương đối ổn định là một sự lùi bước:

    Nh́n lại quăng đường đă qua, chúng ta có thể thấy rằng với tổng thể Quốc tế Cộng Sản trong giai đoạn 1921‐1922, những sách lược về mặt trận thống nhất có nghĩa là việc nhận thức rằng chúng ta vẫn chưa chiếm được đa số tầng lớp lao động; thứ hai, phong trào dân chủ xă hội vẫn c̣n rất mạnh; thứ ba, chúng ta vẫn c̣n trong vị thế pḥng thủ và kẻ thù vẫn đang tấn công... thứ tư, cuộc đấu tranh quyết định vẫn chưa là ưu tiên hàng đầu. V́ thế chúng ta phải thúc đẩy khẩu hiệu:

    ʺHướng tới quần chúng!ʺ và kế đến là những sách lược của mặt trận thống nhất...

    Đối với những đảng CS châu Âu, Đại Hội 5 đă thiết lập một hướng đi về phía tả. Karl Radek, người cố vấn của đảng CS Đức đă bị đổ lỗi cho sự thất bại của cuộc khởi nghĩa năm 1923. Cả ông ta và một cách gián tiếp, Trotsky bị phê b́nh là đă hiểu lầm sách lược của mặt trận thống nhất như là ʺmột liên hiệp hữu cơ với phong trào dân chủ xă hộiʺ [60]. Nhưng cũng nên lưu ư rằng, theo Radek và lănh đạo ĐCS Đức Brandler, liên hiệp này đă được phê chuẩn bởi QTCS vào năm 1923 [61]. Việc QTCS và giới lănh đạo Nga một mực đổ lỗi cho những người thực hiện chính sách tại địa phương đă là điềm báo trước cho những ǵ sẽ xảy ra sau đổ vỡ của mặt trận thống nhất tại Trung Quốc. Điều nên lưu ư nữa là Trotsky không bao giờ là người ủng hộ cho việc hợp tác với tầng lớp dân chủ xă hội. Trong bản ʺTuyên Ngôn của Đại Hội Năm QTCS Kỷ Niệm Mười Năm Chiến Tranh Thế Giới Bùng Nổ,ʺ ông lên án những thành viên dân chủ xă hội Đức v́ vai tṛ của họ trong sự thất bại của cuộc khởi nghĩa 1923: ʺRơ ràng là trong những thời khắc quan trọng, thời khắc giữa sự sống và cái chết của giai cấp tư sản, khi tương lai của giai cấp lao động đang bị đe doạ, những kẻ dân chủ xă hội đă hiểm ác phá hoại mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân, dẫn đến sự lưỡng lự trong hàng ngũ công nhân, làm ngă ḷng và cô lập đảng cộng sản, và trở thành kẻ cầm trịch cho bọn tư bản phản độngʺ [62]. Trong vài năm sau quan điểm này đă được củng cố vững chắc trong tư tưởng của QTCS và được Stalin truyền bá rộng răi trong những năm 1928‐1929.

    Nhận định của đại biểu người Pháp Albert Treint về mặt trận thống nhất đă tóm tắt quan điểm đang thịnh hành trong đại hội: ʺMặt trận thống nhất là một sách lược nhằm huy động quần chúng cách mạng và không phải là một tổ chức liên minh với những người cầm đầu dân chủ xă hội . (...) Những chính quyền Lao Động và Cánh Tả tạo ra bởi nền dân chủ tư sản t́m được sự hưởng ứng từ bên trong những đảng phái của chúng ta... đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư sản hơn bao giờ hết là đồng nghĩa với đấu tranh chống lại dân chủ xă hội bên ngoài, cũng như đấu tranh chống lại thành phần hữu khuynh bên trong QTCS.ʺ Trong bài diễn văn bế mạc đại hội, ông nói:ʺĐồng thời chúng ta cũng: Chống lại sự xóa bỏ việc Bolshevik hoá ĐCS Nga; Ủng hộ việc Bolshevik hoá các đảng anh em, ủng hộ việc nhận thức rằng Quốc tế Cộng Sản, trong tinh thần Lenin, phải trở thành một đảng Bolshevik quốc tếʺ [63].

    Dmitry Manuisky, một thành viên nói tiếng Pháp của QTCS từ Ukraine, người được cho là xướng ngôn viên cho quan điểm của Stalin, đă giới thiệu trước Đại Hội sách lược mặt trận thống nhất cho các thuộc địa. Ông nêu lên việc ĐCS Trung Quốc đă phê phán các thành viên đảng này tham gia vào Quốc Dân Đảng là ʺphản bội giai cấpʺ. Ông thừa nhận rằng những người cộng sản phải khéo léo giữa việc lợi dụng những sách lược của mặt trận thống nhất đang ʺcách mạng hoá các nước phương Đông,ʺ và việc mất đi đặc điểm riêng biệt của giai cấp họ. Ông công khai tự hỏi rằng những người cộng sản châu Á có nên ʺkhông những hợp tác với các đảng tiểu tư sản mà c̣n đi đầu trong việc tập hợp họ lại trong những quốc gia lạc hậuʺ [64]. Căn cứ vào một bức thư ông viết vào năm 1925 từ Quảng Đông, Hồ Chí Minh không hề băn khoăn về sách lược hợp tác và trà trộn này. Ở phần tái bút của bức thư, viết cho các đại diện Pháp tại QTCS, ông yêu cầu họ liên lạc với Ủy Ban Nghiên Cứu Thuộc Địa của ĐCS Pháp tại Paris để t́m hiểu xem Nguyễn Thế Truyền có gia nhập ĐCS hay không. Nếu có, Hồ yêu cầu họ ra lệnh cho Truyền ʺgia nhập Nhóm Lập Hiến vừa thành lập tại Paris để lũng đoạn nhóm này (pour la noyauter)ʺ [65].

    Dù sao trên tổng thể Manuilsky đă cẩn thận không đi quá xa khi xác nhận sách lược của mặt trận thống nhất. Phần lớn những phát biểu của ông nhắm vào những vấn đề tự quyết của các quốc gia vùng Balkan và trung Âu. Tính hiệu quả của ông chắc chắn đă giảm thiểu v́ việc M.N.Roy bị truất phế. Từ năm 1920 Roy đă công khai bất đồng với đánh giá của những đảng viên Sô Viết về phong trào dân tộc tại các nước thuộc địa. Roy cho rằng QTCS nên quan tâm hơn nữa đến tầng lớp công nhân cách mạng và đặc biệt là giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa [66]. Khi ông trở thành thành viên với lá phiếu chính thức của Ban Chấp Hành QTCS, ư kiến của ông đă có nhiều trọng lượng hơn. Phát biểu của Hồ trong cuộc tranh luận mà tôi đă trích dẫn ở trên, nằm trong phiên họp thứ 22, sau phát biểu của Roy và Katayama. Rơ ràng là Hồ ủng hộ chủ trương về thuộc địa của QTCS, nhưng lại không trực tiếp đối phó với vấn đề đầy tranh căi của mặt trận thống nhất. Ông chia xẻ với Roy niềm tin rằng cách mạng châu Âu phải dựa trên sự tiến bộ của phong trào giải phóng tại các nước thuộc địa, và có vẻ sẵn sàng đưa ra một thảo luận về phương cách quảng bá quan điểm này. Mục tiêu của ông là sự tŕ trệ của ĐCS Pháp. Ông c̣n đi xa hơn trong việc cảnh báo rằng dân chúng thuộc địa đang ʺhướng về những tổ chức dân chủ cấp tiến như Liên Đoàn Nhân Quyền... v́ những thành phần này đă cố gắng đại diện hoặc ít ra là đă cho thấy họ đă làm một cái ǵ đấy cho người dânʺ [67].

  6. #46
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 2
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P2


    Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh c̣n tham gia vào Đại Hội 3 Công Đoàn Quốc Tế Đỏ (Red International of Trade Unions, c̣n gọi là Profintern, thành lập năm 1921). Một lần nữa, tư tưởng chủ đạo của ông vẫn là t́nh cảnh khốn cùng của đất nước ḿnh và sự mong mỏi những đồng chí người Pháp ủng hộ những người anh em lầm than tại các vùng thuộc địa. Trong bản báo cáo dài năm trang của ông trước Đại Hội, ông đưa ra t́nh h́nh lực lượng công nhân trưởng thành tại Việt Nam đang chờ đợi để được tổ chức. ʺCó những công ty với con số thợ thuyền rất cao,ʺ ông nói: 3.000 người tại một nhà máy sợi ở Bắc Kỳ, 4.000 người tại các mỏ than ở Vịnh Hạ Long; 8.000 công nhân hoả xa và 30.000 công nhân tại nhà máy Xi Măng Portland. Những công nhân này làm việc trong t́nh trạng vô cùng khốn khó, theo lời Hồ, từ 12 đến 14 tiếng một ngày, và c̣n hơn thế nữa tại các đồn điền. Không có vấn đề về hưu trí hoặc bảo hiểm tai nạn lao động; công nhân không được phép đ́nh công [68]. Tồi tệ hơn nữa là tại Việt Nam đang tồn tại ba loại h́nh lao động mà Hồ gọi là ʺba loại h́nh nô lệʺ [69]. Đầu tiên là những tù khổ sai được các nhà máy hoặc đồn điền vay mượn ‐ họ làm việc trong khi trên người phải đeo gông xiềng. Kế đến là những người đủ tuổi để làm phu tạp dịch ʺcỏ vêʺ (corvée ‐ lao động công ích ‐ ND) ‐ từ 18 đến 60 tuổi. Con số nhất định cho những ngày lao động công ích thực sự chỉ nằm trên lư thuyết, Hồ nói; ʺTrên thực tế nó là vô thời hạn. Khi một con kênh cần đào hoặc một đoạn đường cần đắp hoặc sửa,ʺ ông giải thích, ʺth́ lại có một cuộc tổng huy động kéo dài đến vài thángʺ. Loại h́nh thứ ba là những người phu được chiêu mộ để đưa sang làm việc tại những thuộc địa của Pháp ở vùng đảo Thái B́nh Dương, nơi mà theo lời Hồ, họ bị bán cho các chủ đồn điền và xí nghiệp người Âu.

    T́nh trạng của công nhân vô cùng tồi tệ, nhưng không hẳn là vô vọng, Hồ phát biểu trước Đại Hội: ʺVới sự trợ giúp của các tổ chức cách mạng mà chủ yếu là Công Đoàn Quốc Tế, chúng ta có thể phá tan gông xiềng áp bức của chủ nghĩa tư bản.ʺ Nhưng những người đồng chí Pháp phải có ʺnhiệm vụ thiết thực để giúp đỡ một cách hiệu quả và thực tế chứ không chỉ bằng lời nói mà thôiʺ. Hồ thảo ra một văn bản chính thức, kêu gọi các công đoàn Pháp ủng hộ quyền được thành lập hội đoàn của dân bản xứ và đề nghị phân công ít nhất là hai cán bộ tổ chức đến Đông Dương [70]. Reynauld, đại biểu Pháp tỏ vẻ tán thành những đề nghị trên nhưng không đưa ra một hậu thuẫn chính thức đối với kiến nghị của Hồ v́ công đoàn của ông không đủ tài chánh để đưa cán bộ tổ chức sang Việt Nam [71].

    Quốc tế Cộng Sản và Mặt Trận Thống Nhất ở Trung Quốc

    Sự do dự của Quốc tế Cộng Sản đang tách xa ra khỏi cái gọi là ʺmặt trận thống nhất thượng tầngʺ được cấu thành bởi những thương lượng giữa tầng lớp lănh đạo đảng, và nghiêng về ʺmặt trận thống nhất hạ tầngʺ, tạo ra bởi việc kêu gọi sự ủng hộ những cương lĩnh và hành động của ĐCS từ các thành phần công nhân không cộng sản và nông dân. Thật mỉa mai là đúng vào thời điểm này, ĐCS và nhà nước Nga đang thực hiện Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin bằng cách giúp tổ chức một mặt trận thống nhất hoàn toàn thượng tầng giữa những người quốc gia Trung Quốc trong Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc. Chính sách này có lẽ đă không được đệ tŕnh để thảo luận tại QTCS; Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ‐ ND) chỉ ra rằng đây là một ʺchính sách đa tầngʺ bao gồm ĐCS và các cơ quan chính phủ Nga [72]. Dù những thảo luận trong QTCS ít nhiều cũng được in ra toàn bộ, nhưng chắc hẳn là v́ lư do chính trị nên những chính sách về Trung Quốc đă không được thảo luận công khai. Bộ Ngoại Giao Nga không muốn công khai hoá vai tṛ cố vấn của Borodin cho Tôn Dật Tiên, v́ ngại rằng nó sẽ làm lệch hướng quá tŕnh b́nh thường hoá quan hệ với các nền dân chủ phương Tây. (Những tài liệu của Nga vừa được bạch hoá gần đây cho thấy Borodin là viên chức chính thức trong phái bộ của Bộ Ngoại Giao Nga tại Bắc Kinh. Leo Karakhan đă cân nhắc việc rút Borodin vào cuối năm 1923 v́ sợ rằng sự công khai của Tôn Dật Tiên về vai tṛ cố vấn của Borodin sẽ mang tai tiếng cho Bộ Ngoại Giao [73])

    Cơ cấu tổ chức của QTCS về nhiệm vụ hành động ở phương Đông đă liên tục thay đổi từ năm 1919 trở đi. Để tránh nhầm lẫn về khu vực và nhiệm vụ của những văn pḥng và ban bí thư của các cục Đông Phương và Viễn Đông, tôi sẽ giải thích vắn tắt về những thay đổi này cho đến thời điểm 1924. Một Phân Cục Đông Phương của QTCS được thành lập vào tháng 12, 1919 theo quyết định của Ban Chấp Hành, nhưng nó đă gặt hái được những ǵ th́ không rơ [74]. Vào tháng 7 năm 1920 một phân cục Nhân Dân Phương Đông được thành lập, trực thuộc Phân Bộ Siberian của ĐCS Nga ở Irkutsk, trong khi đó một Phân Bộ Đông Phương của của Ban Chấp Hành QTCS ra đời vào tháng 5 năm 1920 tại Vladivostok [75]. Rồi vào tháng Giêng năm 1921 một bước mới được thực hiện để liên kết các cơ quan có trách nhiệm về vùng Viễn Đông thuộc ĐCS Nga và QTCS. Phân cục Nhân Dân Phương Đông tại Irkutsk được đổi thành ʺĐại diện của QTCS tại Viễn Đông dưới h́nh thức Ban Bí Thưʺ. Đến tháng 3 năm 1921 có sáu mươi tám nhân viên tại ban này, trong đó có nhà lănh đạo tương lai của Mông Cổ là Choibalsan [76]. Cho đến cuối năm 1921 ban bí thư có bốn bộ phận: Mông Cổ ‐ Tây Tạng, Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật [77].

    Nhưng tại Đại Hội 4 vào tháng 12 1922 một bản báo cáo cho thấy rằng bộ phận phía Đông làm việc không theo một chương tŕnh cụ thể nào và ʺhoàn toàn vô tổ chứcʺ [78]. V́ thế mà một chỉ thị tái tổ chức lại được ban hành. Một cơ cấu hợp nhất được thành lập và cũng lại mang tên Cục Đông Phương và Karl Radek được bổ nhiệm là người đứng đầu vào tháng 5 1923. Phụ tá của ông là Grigory Voitinsky. Ba phân bộ được thành lập trực thuộc Cục Đông Phương là: Phân Bộ Cận Đông, gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Syria, Palestine, Morocco, Tunisia, Algeria và Persia; Phân Bộ Trung Đông gồm Ấn Độ thuộc Anh, Đông Dương và Nam Dương; và Phân Bộ Viễn Đông gồm Nhật, Triều Tiên, Trung Quốc và Mông Cổ [79]. Sự lưỡng lự và cũng có lẽ là tranh chấp quyền lực làm thay đổi nhanh chóng việc quản lư các hoạt động của Phân Bộ Viễn Đông. Ngay sau Đại Hội 4, vào tháng 12 năm 1922, Ủy Ban Vladivostok của Cục Đông Phương QTCS được thành lập, bao gồm Voitinsky, Sen Katayama và Maring. Nhưng đến tháng Giêng năm tới, Pḥng Tổ Chức của Ban Chấp Hành QTCS đề xuất việc thiết lập một Ban Bí Thư Viễn Đông để báo cáo trực tiếp với Ban Chấp Hành QTCS mà không lệ thuộc vào Cục Đông Phương. Văn pḥng Ban Bí Thư Viễn Đông có quyền lực rộng hơn Ủy Ban Vladivostok, bị chính thức đào thải và tháng 6 1923. Ban Bí Thư mới cũng nắm quyền quản lư nhân viên Ủy Ban này:Voitinsky, Katayama và Maring. Mặc dù ban bí thư này rơ ràng là trực thuộc Moscow, Voitinsky và Maring giành phần lớn thời gian làm việc tại Trung Quốc [80]. Có thể hiểu rằng sự thay đổi hệ thống điều hành đuợc Bộ Chính Trị ĐCS Nga cho là cần thiết v́ đến năm 1923 họ đă quyết định quan tâm cặn kẽ hơn về việc Nga và QTCS hỗ trợ Trung Quốc. Điển h́nh như vào năm 1923 Bộ Chính Trị và có lẽ là chính Stalin đă chọn Mikhail Borodin nắm việc giúp đỡ Tôn Dật Tiên [81]. Ngay cả vào thời của Lenin, Ban Chấp Hành QTCS đă bị những thành viên thuộc ĐCS Nga lũng đoạn [82].

    QTCS bắt đầu tham gia vào việc cố vấn cho phong trào cộng sản Trung Quốc vào mùa xuân năm 1920, khi Voitinsky lần đầu tiên đến Thượng Hải để giúp Trần Độc Tú (Chen Duxiu ‐ ND) soạn thảo Cương Lĩnh Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào tháng 10 năm ấy [83]. Maring và một phái viên khác của QTCS là Nikolsky có mặt tại Đại Hội thứ nhất ĐCS Trung Quốc vào tháng 7 1921 ‐ báo cáo của Maring cho thấy rằng ông đă đưa ra vấn đề liên minh giữa cộng sản và Quốc Dân Đảng trong chuyến đi đầu tiên của ḿnh, nhưng đă bị đại hội bác bỏ [83]. V́ thế mà những chủ trương ủng hộ việc liên minh với các phong trào dân tộc tại các quốc gia tiền tư bản vẫn chỉ là một tuyên ngôn mà không có một kết quả thực tiễn nào. Vào tháng 8 1922, Maring đă thuyết phục được 5 lănh đạo tối cao của ĐCS TQ chấp thuận một chính sách gọi là ʺKhối chính trị bên trongʺ [85]. chính sách này kêu gọi tất cả các đảng viên ĐCS TQ tham gia vào Quốc Dân Đảng trong khi vẫn giữ nguyên cơ cấu và mục tiêu của ĐCS.

    Vào năm 1923, nước Nga Sô Viết non trẻ đă bắt đầu vạch ra một cương lĩnh hành động để hỗ trợ chính quyền cộng hoà của Tôn Dật Tiên ở miền nam Trung Quốc. Chủ trương này được phát triển từ những mục tiêu đối ngoại của Nga ‐ t́m kiếm đồng minh và an vị bờ cơi ‐ chúng được theo đuổi với một tốc độ nhanh hơn là những thành viên QTCS muốn. Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ‐ ND) chỉ ra rằng QTCS không trực tiếp liên quan đến những thương lượng ngoại giao dẫn đến sự thoả thuận giữa Adolf Joffe và Tôn Dật Tiên vào tháng Giêng 1923 [86]. Thoả Thuận Joffe‐Tôn đă chứng nhận sự trợ giúp của Moscow cũng như sự chấp nhận có điều kiện của Tôn. Sau đó th́ không những chỉ có QTCS cung cấp cố vấn cho Trung Quốc, mà c̣n có cả cố vấn từ Ủy Ban Trung Ương Đảng Bolshevik Nga, Học Viện Hồng Quân, Công Đoàn Quốc Tế và Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế. Sau khi Hồ chí Minh đến Quảng Châu th́ Nông Dân Quốc Tế cũng có đại diện tại đây.

    Nhiệm vụ của QTCS ở Trung Quốc giống như là một chi nhánh của lănh sự Nga mà trong đó những quyết định cuối cùng đều trực thuộc sự độc quyền của Stalin và Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga. Những chỉ thị của QTCS với ĐCS Trung Quốc cho đến giữa năm 1923 cho thấy một biện pháp cẩn trọng đối với những chủ đích của Tôn. Ví dụ như chỉ thị tháng 5 1923 của Ban Chấp Hành QTCS gửi đến Đại Hội 3 ĐCS Trung Quốc yêu cầu rằng đảng này ʺphải cố gắng thiết lập một liên minh công nôngʺ; nhưng chỉ thị này lại tiếp tục, ʺkhông cần phải nói ra rằng quyền lănh đạo phải thuộc về đảng của giai cấp công nhân... Để củng cố ĐCS, biến nó thành đảng của đại đa số giai cấp vô sản, tạo ra những lực lượng của giai cấp công nhân trong các liên minh ‐ đây là nhiệm vụ hàng đầu của các đảng viên cộng sản...ʺ [87]. Nhưng việc tái tổ chức của các cơ quan đặc trách vùng Viễn Đông của QTCS có thể xem là bằng chứng là những cố vấn của QTCS sẽ làm việc sát cánh với Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga để thành lập mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng. Như đă nói ở trên, vào tháng Giêng năm 1923, cùng thời gian bản Thoả Thuận Joffe‐Tôn được kư, th́ Ban Bí Thư vùng Viễn Đông trực thuộc Ban Chấp Hành QTCS cũng được thành lập. Khi Đại Hội 3 ĐCS Trung Quốc chính thức thông qua chính sách Khối Chính Trị bên trong vào tháng 5 1923, hậu trường đă được sắp xếp cho để Mikhail Borodin bắt đầu nhiệm vụ của ḿnh tại Quảng Châu. Borodin (Mikhail Grusenberg),một một phái viên dày dạn của QTCS, ông đă ở Mỹ 11 năm để dạy tiếng Anh cho dân nhập cư cũng như tổ chức những người xă hội gốc Nga. Borodin rời Bắc Kinh đến Quảng Châu vào tháng 9 1923.

    Nhiệm vụ của Hồ tại Quảng Châu

    Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh cuối cùng đă thuyết phục được Cục Đông Phương thực hiện kế hoạch đi Trung Quốc của ông. Nhiệm vụ của ông h́nh như không được định nghĩa một cách rơ ràng. Dù vậy, khó mà tin được rằng những người lănh đạo QTCS đă không quan tâm đến yêu cầu của ông. Những tóm lược về các sự kiện trong lá thư viết ngày 9 tháng 9 năm 1924 cho thấy rơ là ông rời khỏi Moscow với rất ít hậu thuẫn:

    Sau Đại Hội 5, Cục Đông Phương thông báo cho tôi rằng: 1) họ sẽ giới thiệu tôi với Quốc Dân Đảng và tôi sẽ phải làm việc cho họ v́ ngoài chi phí cho chuyến đi, Cục đă không có một trợ giúp tài chính nào khác; 2) tôi đến đấy với tư cách cá nhân chứ không phải làm một phái viên của QTCS; 3) tôi không có bất cứ liên hệ ǵ với đảng chúng ta [có lẽ ông ám chỉ ĐCS Pháp v́ ông vẫn là một đảng viên của nó) khi đến Trung Quốc.

    Mặc dù những điều kiện trên có vẻ khó khăn nhưng tôi vẫn chấp nhận chúng để được đi khỏi nơi đây. Để bù đắp cho điều kiện 2 và 3, tôi đă yêu cầu đảng ḿnh gửi cho tôi một ủy nhiệm thư đến ĐCS Trung Quốc, yêu cầu họ giúp tôi làm việc. V́ thế khó khăn trên đă được giải quyết [88].

    Dù vậy chuyến đi của ông vẫn bị dời lại, lần này là do cuộc nội chiến vừa nổ ra tại Trung Quốc.

    ʺQuốc Dân Đảng vẫn chưa trả lời bức thư của Cục Đông Phương. Và ngày khởi hành của tôi lại bị dời lại vô hạn địnhʺ [89], ông viết. Những khó khăn này đă không xảy ra, ông tiếp tục, nếu không v́ trở ngại tài chính. Ông đề nghị QTCS nên đơn giản là chu cấp tiền để ông sống ở Trung Quốc v́ ông vẫn đang được họ chu cấp tiền chỉ để ʺngồi chơi không ở Moscowʺ.

    Vào ngày 19 tháng 9 Hồ viết thư cho Albert Treint, một đảng viên của ĐCS Pháp đă trở thành viên tối cao của QTCS từ Đại Hội 5. Ông là thành viên chính thức của Ban Chấp Hành QTCS cũng như Ban Bí Thư. Trong bức thư Hồ nói rơ khó khăn của ḿnh trong vấn đề mưu sinh tại Quảng Châu. ʺViệc kiếm sống không là một khó khăn với tôi, ngay cả ở một nước mà tôi chỉ biết ngôn ngữ viết chứ không biết ngôn ngữ nói,ʺ ông giải thích. ʺNhưng trong trường hợp của tôi th́ có vài trở ngại,ʺ ông bổ sung. Trước hết, ông than phiền rằng ông phải sống bất hợp pháp trong một thành phố ʺđầy rẫy mật vụ Phápʺ. Thứ hai, ông ʺphải được hoàn toàn tự do để làm những ǵ ḿnh muốn như nghiên cứu t́nh h́nh, gặp gỡ mọi người và tổ chức một cái ǵ đóʺ. Ông thỉnh cầu Treint lần cuối cùng là nên tŕnh bày trường hợp của ông cho Ban Chấp Hành QTCS [90]. Treint đă tŕnh bày với Ban Bí Thư QTCS, cơ quan có thẩm quyền để ra quyết định nhanh chóng, ông kêu gọi Ban Bí Thư yêu cầu Cục Đông Phương xét lại đề nghị trợ giúp tài chánh cho Hồ:

    ʺTrong khi thực dân Pháp đang dùng Đông Dương làm bàn đạp để bắt đầu can thiệp vào Trung Quốc th́ đây không phải là lúc để Cục Đông Phương cắt giảm nỗ lực tại Đông Dương nếu họ có một chút ư thức chính trịʺ [91].

    Rơ ràng là lời kêu gọi của Treint đă thành công, v́ cuối cùng Hồ Chí Minh đă đến được Quảng Châu khoảng ngày 11 tháng 11 1924. Khi ông báo cho một người bạn tại QTCS về chuyến đi của ḿnh, ông nói là ông đang trọ tại nhà Đồng chí Borodin với hai hoặc ba đồng chí người Trung Quốc khác. Ông cho biết địa chỉ của ḿnh là Lou, thuộc Văn Pḥng ROSTA, Quảng Châu, Trung Quốc [92]. Trong khoảng thời gian giữa 22 tháng 9 đến khi Hồ đến Quảng Châu, ai đó đă sắp xếp cho ông làm công việc thông dịch cho ROSTA, Cơ Quan Điện Báo Nga, tiền thân của thông tấn xă Tass. V́ Borodin đă đi Trung Quốc vào mùa thu 1924, việc này không thể là do ông sắp đặt. Rất có khả năng là do công can thiệp của Voitinsky mà Hồ t́m được nơi ở lư tưởng này tại Quảng Châu. Voitinsky lúc ấy đă quay lại Moscow và quay lại Trung Quốc vào tháng 11

    1924[93]. Thư từ trong văn khố QTCS cho thấy ông có một đặc vụ hoặc chỉ điểm tại Bắc Kinh tên là Sam Slepak, người này làm việc tại ROSTA trong năm 1923. V́ Slepark là Phó Cục Đông Phương vào năm 1922, ta có thể cho rằng một nhân viên thường trực của QTCS và ROSTA đă được dùng như là vỏ bọc cho hoạt động của QTCS [94]. Việc Hồ có báo cáo trực tiếp với Voitinsky khi ông hoạt động tại Trung Quốc hay không th́ không rơ, nhưng Voitinsky rất có thể là người thu nhận những báo cáo viết bằng tiếng Anh của Hồ từ Quảng Châu (Cả hai Voitinsky và Slepak, cũng như Borodin, đều thông thạo tiếng Anh, một lợi thế quan trọng để hoạt động tại Trung Quốc). Trong khi công việc thông dịch và thông tín viên của Hồ đủ để ông chi tiêu hàng ngày nhưng nó không tạo dựng cho ông được một vỏ bọc như là một phóng viên thực thụ. Trong lá thư đầu tiên gửi cho Nông Dân Quốc Tế, ông yêu cầu họ tiếp tục giữ tên ông trong danh sách Chủ tịch đoàn hoặc nếu họ quyết định rút tên ông ra th́ nên đưa ra lư do rằng ông bị bệnh ‐ ông không muốn mọi người biết việc ông đă đến Quảng Châu v́ ông đang sống bất hợp pháp tại đây [95].

    Tóm lại, ta có thể khẳng định một cách chắc chắn là Hồ Chí Minh không được gửi đến Quảng Châu như một phụ tá trực tiếp hoặc thư kư cho Borodin như trong những giả thiết trước đây [96]. Dù vậy, vị thế và quan hệ của ông trong QTCS giai đoạn 1923‐4 vẫn là một bí ẩn. Có rất ít cơ sở trong văn khố của QTCS về việc Hồ là một thành viên tên tuổi trong giai tầng lănh đạo ngang hàng với Manuilsky, hoặc được ai đó đỡ đầu [97]. M.N.Roy, một nhân vật đầy ấn tượng nói được nhiều thứ tiếng người gốc Brahman Bengal đă nổi lên trong chính trường của QTCS giai đoạn từ năm 1920, chính là đại biểu kỳ cựu cho các vấn đề thuộc địa tại Đại Hội 5 QTCS. Điều rơ rệt là Hồ thích hợp với chủ trương mặt trận thống nhất cho các thuộc địa hơn là Roy, và v́ thế đă được Manuilsky khuyến khích ông lên tiếng tại Đại Hội. Nhưng không như Roy và những người gốc Á khác hoạt động trong QTCS trong năm 1924, Hồ không hề đại diện cho một đảng cộng sản châu Á nào cả. Cả hai Semaun của Nam Dương và Sen Katayama của Nhật được đề cử vào Ban Chấp Hành QTCS năm 1924 có thể là v́ họ đại diện cho những phong trào cộng sản tương đối lớn mạnh.

    Hơn nữa, sự đồng cảm Hồ đối với quan điểm của Manuilsky không đồng nghĩa với những đặc ân. Trong một lá thư gửi Petrov, lănh đạo Cục Đông Phương, Hồ than phiền về giá tiền thuê nhà mà ông phải trả cho những tiện nghi tồi tệ tại Khách sạn Lux chật chội. ʺTrong những tháng Chạp, tháng Giêng và tháng Hai,ʺ ông viết, ʺTôi ở pḥng 176, luôn có 4 hay 5 người ở chung. Ban ngày th́ không ngớt ồn ào làm cản trở công việc của tôi. Ban đêm tôi lại bị rận cắn không thể nghỉ ngơi được.ʺ Từ tháng 3, ông được chuyển sang một căn pḥng đơn, ông nói. ʺVới diện tích chật chội và đồ đạc giản đơn trong pḥng tôi so với những pḥng lớn hơn, thoải mái hơn, nhiều đèn, điện thoại, pḥng tắm, tủ quần áo, sofa, vân vân... với giá phải chăng th́ số tiền họ bắt tôi phải trả th́ thật kinh khủng” [98] Với giọng điệu của kẻ bị sỉ nhục ‐ H́nh như ông cảm thấy rằng ḿnh bị đối xử tệ hơn những người châu Âu hoặc có tầm cở như Roy.

    Ấn tượng trong những thư từ liên lạc của Hồ Chí Minh trong suốt 14 tháng sống tại Nga là nỗi bực tức về sự bất động của QTCS. Điều này có thể phản ánh thực tế của QTCS là chính nó cũng không có được một đường lối chắc chắn hoặc v́ việc đấu tranh bè phái giữa Trotsky và Zinoview đă thu hút mọi quan tâm của giới lănh đạo. Vị thế đảng viên của Hồ trong ĐCS Pháp có thể đă làm cho t́nh huống của ông thêm phức tạp ‐ Ảnh hưởng của Trotsky đối với ĐCS Pháp cũng đáng kể và đến tháng Giêng năm 1923 ông vẫn c̣n giao chức cố vấn của QTCS cho ĐCS Pháp, với Jaques Doriot là người phụ tá [99]. Trong băi ḿn chính trị này, Hồ Chí Minh có vẻ như đă học được cách ứng xử với những cấp quyền thế để theo đuổi những mục đích của ḿnh. Phong cách của ông khác biệt hẳn với Roy ‐ Sở trường của Roy là tranh luận lư thuyết, và đến năm 1929 ông đă bị đẩy ra khỏi QTCS. Hồ thấy có thể quảng bá kế hoạch của ḿnh với Albert Treint, một người cánh tả theo phe Zinoviev, mặc dù Hồ không hoàn toàn đồng ư với với mọi quan điểm của Treint. Khi đến Quảng Châu, Hồ đă viết thư cho một đồng nghiệp tại Moscow rằng Treint đă ʺđấu tranh hết ḿnhʺ để ông đến được Trung Quốc [100]. Dấu hiệu đầu tiên về vị thế chính trị không hoàn toàn vững chắc của Hồ trong QTCS chỉ xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và 1928, khi ông bắt đầu chuẩn bị quay lại châu Á. Đến cuối năm 1927 Albert Treint bị trục xuất khỏi ĐCS Pháp và những ai tỏ rơ ngọn nguồn về sự thất bại của chính sách của Stalin về mặt trận thống nhất tại Trung Quốc đều bị đặt dưới tầm nghi vấn.

  7. #47
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 2
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P3


    CHƯƠNG 3:

    THỜI GIAN TẠI QUẢNG CHÂU VÀ NHỮNG HỆ QUẢ (1924‐8)

    Mặc dù Hồ Chí Minh không nói được tiếng Quảng Châu nhưng khi đặt chân đến bến cảng nhiệt đới này ông vẫn có cảm giác của một chuyến hồi hương sau bao cách trở. Quảng Châu là một tiền đồn cho những chiến sĩ Việt Nam tự do từ khi triều đại Măn Châu sụp đổ vào năm 1911. Nhưng những hy vọng ban đầu của người Việt về hậu thuẫn của cộng hoà Trung Hoa trong việc giúp đỡ tiền bạc và vũ khí cho cuộc khởi nghĩa chống Pháp đă nhanh chóng tiêu tan. Việc tăng cường đàn áp của Pháp tại Việt Nam trong giai đoạn Chiến Tranh Thế Giới thứ I cộng với ảnh hưởng mờ nhạt của Tôn Dật Tiên tại Trung Quốc dẫn đến những thất vọng đắng cay của người cầm đầu phong trào chống Pháp Phan Bội Châu. Những hoạt động phá hoại với mục đích kêu gọi sự quan tâm của chính phủ Tôn Dật Tiên cũng như chính phủ Đức trong thời kỳ chiến tranh đă làm mất đi một số thành viên trung thành của Quang Phục Hội [1]. Sau vụ đặt bom giết hai đại tá Pháp tại một khách sạn Hà Nội tháng 4 năm 1913, bảy người đă bị xử tử h́nh và 57 người khác bị cầm tù, trong đó có hai người em của Phan Văn Trường [2]. Bản thân Phan Bội Châu cũng bị giam tại một nhà tù Trung Quốc trong những năm 1914‐17, sau đó ông ẩn dật tại Hàng Châu và kiếm sống bằng cách viết bài cho tờ báo Quân Sự [3].

    Hồ Chí Minh xuất hiện trong bối cảnh ấy vào tháng 11 1924, vào lúc sự hỗ trợ quân sự của Nga tại Quảng Châu đang đến mức tối đa với khoảng 50 giảng viên [4]. Chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên từ cảng Vladivostok đến Quảng Châu vào ngày 8 tháng 10 [5]. Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng đă được chính thức hoá trong Đại Hội Quốc Dân Đảng lần

    1 vào tháng Giêng 1924, khi việc thành lập trường quân sự Hoàng Phố trên sông Châu Giang được phê chuẩn. Cũng thời gian đó ba đảng viên cộng sản cũng được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Đảng, trong khi đó 6 đảng viên cộng sản khác, trong đó có Mao Trạch Đông cũng là những thành viên ứng cử [6]. Thời gian Hồ sống tại Trung Quốc cho đến tháng 5 1927, trùng hợp với thời điểm thành công chính trị của chính phủ tại Quảng Châu. Ông đă tận dụng được khoảng thời gian đầy lợi thế của mặt trận thống nhất, thời gian mà những người lưu vong Việt Nam tại Trung Quốc có thể tự do hấp thụ những bài học và ư tưởng mới từ những cố vấn người Nga, từ những vấn đề quân sự đến lư luận chính trị và phương pháp tổ chức. Khí thế sôi sục tại Trung Quốc đă giúp dấy lên một làn sóng hoạt động chính trị mới tại Việt Nam, nơi cũng đă cung cấp những thành viên mới cho lực lượng nổi dậy trong tương lai ở miền nam Trung Quốc. Điểm chính của chương này sẽ là việc Hồ đă lợi dụng những bối cảnh trên như thế nào để tạo dựng mầm mống cho đảng cộng sản Việt Nam.

    Dù thế, thật quá đơn giản nếu cho rằng những năm tháng của Hồ tại Quảng Châu chỉ là một kẻ truyền giáo từ Moscow đến để cải đạo mọi người qua chủ nghĩa cộng sản. Mặt trận thống nhất cũng là một kinh nghiệm đáng học cho ông cũng như những người Việt Nam khác đă sống qua giai đoạn này. Hồ đến vào thời điểm cao trào của khởi nghĩa nông dân tại tỉnh Quảng Châu mà ông có nhiệm vụ phân tích và cổ vũ dưới danh nghĩa của Nông Dân Quốc Tế. Đây là lần đầu tiên ông tiếp xúc với giai cấp nông dân châu Á kể từ thuở thiếu thời tại Trung phần Việt Nam, và chắc chắc là nó đă đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá tŕnh chuyển biến của ông từ một tuyên truyền viên để trở thành một nhà tổ chức cách mạng thực thụ. Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng lại là một hiện tượng chính trị phức tạp hiếm thấy mà một thời gian sau nó vẫn bị đem ra tái thẩm định và phê phán. Cuối cùng khi mặt trận này tan vỡ vào năm 1927, đấu đá nội bộ trở thành một phần trong cuộc đấu tranh gay gắt cho linh hồn của phong trào cộng sản thế giới. Sự tan ră của mặt trận thống nhất trở thành khuôn mẫu cho những người cộng sản với những mục đích khác nhau ‐ cả hai trào lưu Stalinist và Trotskyist đều dùng nó để chứng minh rằng không bao giờ tin vào những đồng minh tư sản. Hồ Chí Minh và những đồng hương trải qua thời kỳ hỗn loạn này đă không hoàn toàn rút ra bài học giống nhau. Cụ thể là những học viên Việt Nam sống tại Trung Quốc trong giai đoạn tan ră của mặt trận thống nhất đă trở thành những người cực đoan nhất trong giai tầng chính trị Việt Nam. Phần cuối của chương này sẽ phân tích những hệ quả này và vị trí của phong trào cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1928.

    Có ba nguồn tài liệu chính về giai đoạn này trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh, mỗi tài liệu phản ảnh một quan điểm khác nhau về những hoạt động của ông. Trước hết là những báo cáo và thư từ của ông gửi đến các cơ quan của QTCS có trách nhiệm giám sát những hoạt động của ông về việc kết nạp những cán bộ khung cho mạng lưới cộng sản Việt Nam. Kế đến là những thư từ của ông gửi cho Nông Dân Quốc Tế, trong đó cho thấy ông đă tích cực tham gia vào phong trào nông dân tại Quảng Đông, đặc biệt là trong năm 1925. Nguồn tài liệu thứ ba là tàng thư Pháp, cụ thể là những báo cáo của điệp viên Sở Liêm Phóng có tên là Lâm Đức Thụ (c̣n có tên là Nguyễn Công Viễn, Nguyễn Chí Viễn hoặc Hoàng Chấn Đông).

    Là một trong những phụ tá chủ lực của Phan Bội Châu, từng tốt nghiệp Học Viện Quân Sự Bắc Kinh, Lâm Đức Thụ (c̣n gọi là điệp viên Pinot) đă sớm trở thành một thành viên trong nhóm bí mật của Hồ. Là con trai của Nguyễn Hữu Đàn, một một đồng học với cha của Hồ tại Trường Quốc Tử Giám ở Huế [7]. Những báo cáo của Thụ gửi cho Sở Liêm Phóng đôi khi bao gồm những nhận định sâu sắc về phương pháp hoạt động của Hồ, nhưng phần đông thường là những tường thuật từ những tin đồn gián tiếp, giống như những mật vụ khác của Sở Liêm Phóng đă từng làm. Việc này chỉ có thể giải thích là do Thụ không lọt sâu vào được hàng ngũ tin cẩn của Hồ ‐ nhưng cũng có thể là do Thụ đă không báo cáo tất cả với Sở Liêm Phóng. Những cộng tác viên của Thụ, trong đó có cả hai đồng minh gần gũi nhất với Hồ là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, đều tin rằng Lâm Đức Thụ chỉ truyền đạt những thông tin vô bổ cho người Pháp để nhận tiền thưởng đem giúp cho tổ chức[8].

    Công bằng mà nói, rơ ràng là Sở Liêm Phóng cũng đă gặt hái được nhiều thành quả từ sự hợp tác của Lâm Đức Thụ. Rơ ràng là ông là một điệp viên vô cùng quí giá ít nhất là cho đến năm

    1929. Ông rất tự tin về giá trị của ḿnh nên đă liên tục yêu cầu tăng tiền thưởng. Ví dụ như vào tháng Chạp năm 1926, ông than phiền rằng tiền lương của ḿnh bị chậm trễ ʺvà hơn thế nữaʺ, ông viết, ʺtôi chẳng nhận được toàn bộ số tiền c̣n thiếu và những chi phí liên lạc đang làm tôi phá sản” [9] Là một thợ chụp ảnh tại Quảng Châu, ông đă chụp h́nh rất nhiều thành viên vừa tham gia vào nhóm hoạt động của Hồ Chí Minh [10]. Những bức ảnh này đă được người Pháp sử dụng trong giai đoạn 1930‐1 để nhận diện những nghi can cộng sản. Dù vậy, đến tận cuối năm 1929 những người cộng sản miền nam Trung Quốc mới vỡ lẽ rằng ḷng trung thành của Thụ chỉ dành cho người Pháp [11]. Vào đầu năm 1925, Thụ đă t́m cách đánh động người Pháp rằng Hồ Chí Minh đă đến Trung Quốc dưới bí danh Lư Thụy [12]. Mọi cố gắng của Hồ nhằm giữ bí mật về sự hiện hữu của ông đối với người Pháp đă trở nên vô ích.

    Bước đầu tổ chức

    Hồ thông báo việc ông đến Quảng Châu cho những đồng sự cộng sản trong một số thư từ đề ngày 12 tháng 11 năm 1924. Ông bảo rằng ông đă đến nơi một ngày trước đó [13], mặc dù trong thư ông lại viết như ông đă chứng kiến rất nhiều sự kiện xảy ra tại Trung Quốc lúc bấy giờ. Một trong những lá thư có nội dung tường thuật trực tiếp việc bà Fanya Borodin, vợ của Mikhail Brorodin, đă tổ chức phong trào phụ nữ Trung Quốc ra sao [14]. Có thể ông đă đi xa lên đến Thượng Hải với Voitinsky, người đă từ Moscow quay lại Trung Quốc vào tháng 11. Dù ǵ đi nữa, ông đă mau chóng tiếp cận và tổ chức liên lạc với Cơ quan ROSTA, nơi chu cấp nguồn thu nhập của ông trong thời gian sống tại Quảng Châu. Vấn đề quan tâm cấp bách nhất trong thủ đô nước cộng hoà Trung Hoa lúc ấy là chuyến đi của Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh, vị tổng thống Quốc Dân Đảng hy vọng có thể thương lượng về một hoà hoăn chính trị với các lănh chúa phía bắc [15]. Hồ viết bằng tiếng Anh với lối hành văn súc tích thường lệ cho một người bạn vô danh ở QTCS: ʺTôi vẫn chưa gặp gỡ ai cả. Mọi người ở đây đều bận rộn về chuyến du hành lên phương Bắc của Bác sĩ Tônʺ [16]. Trong bức thư gửi cho Tomas Dombal, tổng bí thư Nông Dân Quốc Tế người Ba Lan, ông xin lỗi v́ đă không thông báo cho những uỷ viên ban chấp hành về chuyến đi Trung Quốc của ông. ʺQuyết định cho chuyến đi từ Moscow của tôi đă được đưa ra rất đột ngột và tôi đă không có thời gian báo cho ông biết,ʺ ông viết bằng tiếng Pháp. Sau đó ông tường thuật việc những nông dân cùng khổ được tổ chức ra sao dưới ʺsự bảo hộ của Quốc Dân Đảng, nhưng lại ở dưới sự chỉ đạo của những người cộng sản. Đây là cơ hội tuyệt vời cho việc tuyên truyền của chúng taʺ [17].

    Hồ đă giả danh một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng có tên là Loo Shing Yan để viết bài tường thuật về phong trào phụ nữ. Ông gửi kèm với một lá thư giới thiệu cho một tờ báo‐thư phụ nữ [18]. ʺKhi tôi c̣n làm việc tại QTCSʺ, ông viết, ʺTôi rất hân hạnh được hợp tác với quí báo. Hiện nay tôi mong muốn được tiếp tục hợp tác. Nhưng v́ tôi đang hoạt động bất hợp pháp tại đây nên tôi sẽ gửi những bài báo dưới dạng ʺnhững lá thư từ Trung Quốcʺ, và sẽ kư tên của một phụ nữ. Tôi cho rằng việc này sẽ giúp chúng giữ được tính nguyên thuỷ và đa dạng, và đồng thời cũng để bảo đảm bí mật cho tôi.ʺ Ngay khi Hồ nhận nhiệm vụ là một thông dịch viên và tuyên truyền viên cho ROSTA chắn hẳn là ông đă t́m cách liên lạc với những người Việt lưu vong sống rải rác ở miền nam Trung Quốc. Vào cuối năm 1924 những người này dường như không có một tổ chức chặt chẽ nào. Họ đă được thu nhập vào những học viện hoặc quân đội địa phương, cụ thể là quân đội Vân Nam của tướng Yang Ximin, đang chia sẻ quyền lực tại tỉnh Quảng Đông cho đến giữa năm 1925. Một số khác như thủ lĩnh phiến quân người Việt gốc Hoa là Tam Kam Say, một thổ phỉ, kết giao với bọn buôn thuốc phiện và trộm trâu ở vùng biên giới. Ngay cả trước khi Hồ đến Trung Quốc, vị thế của Phan Bội Châu trong thành phần lưu vong người Việt cũng đă trở nên mờ nhạt hơn thời kỳ trước chiến tranh. Trong khoảng thời gian 1923, một số trong họ bắt đầu gây dựng một tổ chức mới lấy tên là Tâm Tâm Xă và không mời Phan Bội Châu tham gia. Thanh danh của ông đă bị hoen ố bởi luận thuyết về sự hợp tác Pháp‐Việt mà ông đă viết theo chỉ thị của Phan Bá Ngọc, một người lưu vong và bị t́nh nghi là chỉ điểm cho Pháp. Phan Bá Ngọc là con trai của thủ lĩnh dân tộc Phan Đ́nh Phùng người Nghệ Tĩnh, Ngọc bị thuyết phục bởi những hứa hẹn cải cách của Toàn Quyền Sarraut[19]. Ông đă bị ám sát với tội danh phản bội bởi Lê Hồng Sơn vào năm 1922 theo lệnh của Cường Để [20].

    Tâm Tâm Xă bắt đầu khôi phục lại một số mạng lưới quyên góp trong nước của Phan Bội Châu, và vào tháng 6 1924 họ đă thực hiện một vụ đánh bom nhằm vào Toàn Quyền Pháp Merlin đang đi qua Quảng Châu [21]. Trong khi tài liệu của Hà Nội và hồi kư của Phan Bội Châu đều không nhấn mạnh việc này, Lê Hồng Sơn sau này đă khai nhận với Sở Liêm Phóng Pháp về vai tṛ lănh đạo của Nguyễn Hải Thần trong vụ mưu sát. Nguyễn Hải Thần là một người quốc gia gốc miền bắc đă tham gia phong trào Phan Bội Châu năm 1905 và là một du sinh tại Nhật. Chuyện kể rằng ông đă t́m gặp một kẻ phản loạn người Hoa là sĩ quan trong quân đội Vân Nam đang đồn trú tại Quảng Châu, người này đă giúp ông chế tạo hai chiếc cặp đựng bom. Một chiếc được đặt tại khu tô giới Pháp là Sa Diện bởi một người lưu vong tên là Phạm Hồng Thái giả dạng một nhiếp ảnh viên. Quả bom nổ giết chết ba khách người Pháp nhưng không trúng Merlin [22]. Phạm Hồng Thái chạy trốn và bị chết đuối trên sông Châu Giang và trở thành một anh hùng dân tộc. Điều cay đắng là vào thời điểm vinh quang này của những người Việt quốc gia, được xem như là màn khởi đầu cho trận chiến mới chống lại người Pháp, cũng là thời điểm mà Lâm Đức Thụ vừa chiếm được ḷng tin của Liêm Phóng Pháp. Những đồng chí của ông cho rằng chính ông đă báo trước với người Pháp về vụ đánh bom và cũng đă giao nộp chiếp cặp đựng bom thứ hai cho họ để lấy thưởng [23].

    Việc ám sát Merlin dường như đă giúp Phan Bội Châu gia tăng sinh lực. Ông đến Quảng Châu vào cuối mùa hè, vài tháng trước khi Hồ đến, để hội ư với những người lưu vong Việt Nam và để tiếp xúc những cố vấn Nga vừa được cài đặt tại Học Viện Quân Sự Hoàng Phố [24]. Vào thời điểm ấy có lẽ ông đă giúp một số môn đệ trẻ của ḿnh được thu nhận vào trường này nhờ sự tận tâm từ văn pḥng của một lănh đạo Quốc Dân Đảng là Liêu Trọng Khải (Liao Zhongkai ‐ND) [25]. Ông cũng bàn thảo với các đồng hương lưu vong về việc đổi Quang Phục Hội trở thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Họ đă thành lập một số uỷ ban, dựa trên cơ cấu tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, theo trong hồi kư của ông [26]. Nhưng đến tháng 11 1924 Phan lại quay về Hàng Châu và ở lại đấy cho đến tháng 6 năm sau.

    Trong số những học viên người Việt theo học tại Học Viện Hoàng Phố vào mùa thu 1924 có Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong và Lê Quảng Đạt, đều là người Nghệ An [27]. Nhưng một số học viên theo học tại Hoàng Phố khoảng giữa năm 1925 là những học viên thuộc quân đội Vân Nam trong năm 1924, có lẽ dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Hải Thần. Những người này gồm có: Hoàng Lương, Lưu Bích, Ngô Chính Quốc, và Liêu Khắc Thanh, theo báo cáo của Lâm Đức Thụ. Cùng với Nguyễn Hải Thần, những người lưu vong lớn tuổi khác như Đinh Tế Dân và Đặng Sư Mặc đă làm đến chức sĩ quan quân đội Vân Nam. Cũng nên nhớ rằng cho đến mùa thu 1924, Hoàng Phố chỉ vừa mở cửa được vài tháng và vẫn c̣n trong giai đoạn tổ chức. Vào tháng 10 1924, Ủy Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc nói rơ rằng họ đă không vừa ḷng mấy với cung cách làm việc của học viện. Họ báo cáo với Borodin rằng những kẻ phiến loạn đang cầm đầu học viện và một số trung đoàn kiểu mẫu vừa thành lập đă ʺnằm trong tay những người nàyʺ. ʺHọ đang sử dụng tiền bạc của ông để làm những việc quái quỉ ǵ không ai biết,ʺ họ viết trong thư [29]. V́ thế rất khó mà biết được chất lượng về quân sự và chính trị mà những học viên người Việt thuộc những khoá đầu tiên đă học được.

    Hồ Chí Minh đến Quảng Châu vào một thời điểm thuận lợi, khi người Việt vừa nhận ra được tiềm năng của phái đoàn cố vấn Nga nhưng lại chưa quyết định được sẽ phải làm ǵ sau vụ đánh bom ám sát Toàn Quyền Merlin. Phan Bội Châu đang ở Hàng Châu, quá xa để đóng vai tṛ quyết định về những công tác hàng ngày ngay cả nếu những người lưu vong trẻ sẵn ḷng để ông tham gia vào những thảo luận của họ. Là một thành viên trong phái đoàn cố vấn Nga và là người từng sống tại nhà của Borodin, Hồ có được lợi thế trong việc t́m kiếm hậu thuẫn cho tổ chức của những người quốc gia mà sau này đă tiếp thu những đường lối tổ chức chính trị Leninist của ông. Nhưng t́m được hỗ trợ tài chính từ phái đoàn Nga th́ không dễ dàng như người ta nghĩ. Hơn nữa, t́nh h́nh nội bộ của những người Việt lưu vong cũng lỏng lẽo hơn là mọi người vẫn nghĩ. Trong thời gian từ tháng 12 đến tháng 9 1925 Hồ đă triệu tập được một số thanh niên cốt cán cho tổ chức cộng sản nguyên thuỷ, đa số trong họ vẫn giữ ḷng trung thành cho đến khi ông rời khỏi Quảng Châu vào năm 1927. Nhưng quá tŕnh này, được nh́n theo một góc độ khác như là một thắng lợi của học thuyết Marxist‐Leninist và phương pháp tổ chức cũng như tài vận động của Hồ cùng với giả thiết về sự phản bội của Phan Bội Châu, vẫn cần nên nghiên cứu kỹ hơn là những tài liệu mà sử sách cộng sản Việt Nam muốn chúng ta tin vào.

    Trên lư luận của những người chống cộng về việc Hồ Chí Minh nắm quyền lănh đạo tại Quảng Châu, th́ ông đă chỉ điểm cho người Pháp bắt Phan Bội Châu nhằm mục đích thanh toán đối thủ thật sự của ḿnh. Chuyện kể rằng Hồ đă mật báo cho cảnh sát Pháp về những hoạt động của Phan và đă lừa ông đến một địa chỉ thuộc tô giới quốc tế tại Thượng Hải, và vị chí sĩ yêu nước này đă bị bắt tại đây [30]. Ngoài lư do trừ khử đối thủ, một nguyên nhân khác giải thích cho hành động của Hồ là ông muốn lĩnh số tiền thưởng mà người Pháp đă treo giải cho cái đầu của Phan Bội Châu. Người ta cũng cho rằng Hồ đă tính toán rằng việc bắt giữ Phan sẽ gây nên những phản đối tại Việt Nam và do đó sẽ thúc đẩy phong trào kháng Pháp [31].

    Nhưng căn cứ theo báo cáo của Lâm Đức Thụ th́ dường như Hồ không dính líu đến việc chỉ điểm Phan cho Sở Liêm Phóng. Những báo cáo này nêu rơ rằng Thụ đă thông báo với người Pháp từ lâu về những hoạt động của Phan, ít nhất là từ năm 1924 [32]. V́ thế khi người Pháp quyết định đă đến lúc bắt Phan, họ không gặp mấy khó khăn trong việc t́m kiếm dấu vết của ông. Ông đă bị bắt vào tháng 7 1925 (có thể là không phải vào tháng 6 như đa số giả thiết dựa trên những hồi ức của Phan) và bị gửi trả về Hà Nội. (Lâm Đức Thụ báo cáo rằng Phan dự định đến Quảng Châu vào cuối tháng 7 1925; lúc ấy ông vẫn chưa bị bắt, căn cứ theo báo cáo này vào cuối tháng 6, 1925 [33]). Vào tháng 11 1925, ông bị tuyên án khổ sai chung thân. Chiến dịch phản đối bản án của ông đă biến thành hàng loạt những cuộc băi khoá và biểu t́nh trên toàn quốc mà kết quả là đă thúc đẩy nhiều sinh viên dấn thân vào con đường hoạt động bí mật. Trên thực tế, phiên toà xử Phan Bội Châu đă giúp quảng bá phong trào kháng chiến tại Trung Quốc, căn cứ theo lời khai của một nhà hoạt động bị bắt năm 1931.

    Người thanh niên 20 tuổi Trần Văn Thanh khai rằng, ʺvụ án Phan Bội Châu đă mở ra cho mọi người thấy sự hiện hữu của những nhà cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc, đặc biệt là tại Quảng Châu. Học sinh chúng tôi không bàn ǵ ngoài chuyện 5 ngh́n binh lính của quân đội Hoàng Phốʺ [34]. Đến tháng Chạp 1925 viên Toàn Quyền mới là Alexander Varenne đă phải nhượng bộ giảm bản án của Phan xuống thành quản thúc tại gia chung thân. Nhưng thật khó mà tin rằng Hồ đă có thể tiên liệu trước hệ quả của việc Phan bị bắt để lợi dụng nó một cách tài t́nh như người ta đă cáo buộc ông [35].

    Hơn nữa, thật khó để nh́n ra v́ sao Hồ lại muốn trừ khử Phan, v́ trong những bức thư của ḿnh ông cho rằng ḿnh đă có nhiều thành công trong việc thuyết phục những ʺphần tử ưu tú nhấtʺ trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng nghe theo quan điểm của ḿnh. Văn khố Pháp có lưu giữ một lá thư của Phan Bội Châu gửi cho Hồ vào đầu năm 1925, cho thấy vị sĩ phu già không nghĩ rằng ông và Hồ là đối thủ của nhau, ông c̣n cho là Hồ sẽ bảo đảm cho công cuộc đấu tranh chống Pháp được liên tục đến thế hệ sau. ʺNgoài cháu, c̣n ai có thể tin được để gánh vác trọng trách thay thế ta?ʺ Ông hỏi. ʺTa rời tổ quốc khi đă gần tứ tuần,ʺ Phan viết, ʺvà ta không thể giũ bỏ được những ǵ ta đă học ‐ v́ thế mà ư tưởng hiện tại của ta cũng không khác ǵ ngày xưa. Cháu đă học xa hiểu rộng và đă đi qua nhiều nơi hơn Bác ‐ mười lần, trăm lần hơn. Tư tưởng và kế hoạch của cháu đều hơn hẳn của ta ‐ cháu có thể chia xẻ một vài công tác với ta được không?ʺ ông hỏi, dường như với một chút mỉa mai. Phan Bội Châu cũng là bạn cùng huyện của thân phụ của Hồ ở Nghệ An, con rể của Phan là Vương Thúc Oánh cũng là người cùng làng với thân phụ của Hồ. Cả hai anh chị của Hồ đều chịu án khổ sai v́ đă ủng hộ những đồng chí của Phan. Hồ Chí Minh chắc hẳn dùng Phan Bội Châu như một bù nh́n cho phong trào của ḿnh miễn là Phan không có hành động ngăn cản kế hoạch của ông.

    Không phải là không có vấn đề cạnh tranh trong nội bộ người Việt ở miền nam Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần (c̣n có tên là Vũ Hải Thụ, Nguyễn Cẩm Giang), chẳng bao lâu đă không có cảm t́nh với Lư Thụy, và đến đầu năm 1927 đă tổ chức một nhóm kháng Pháp riêng. Ông và Hồ đă trở thành đối thủ cho đến năm 1946. Nhưng trong những tháng đầu sôi nổi của thể chế cộng hoà tại Quảng Châu, khi mặt trận thống nhất được xem là giải pháp cho cả hai phe quốc gia và cộng sản, sự khác biệt trong xu hướng chính trị của họ chưa là trở ngại cho sự hợp tác của hai bên. Hồ Chí Minh biết cách vận dụng thế lực chính trị đồng thời nhượng bộ cho những người lưu vong khác nắm giữ những chức vụ quan trọng trong các tổ chức mà ông thành lập. Việc quân đội Vân Nam bị đánh bại vào giữa năm 1925 cũng góp phần tích cực cho ông, như ta thấy, bằng cách sử dụng trường Hoàng Phố như là nguồn tiếp liệu chính trong việc đào tạo và cung cấp việc làm cho những người Việt lưu vong. Nh́n chung, những bằng chứng do báo cáo của Lâm Đức Thụ cung cấp cũng như những báo cáo của Hồ đến QTCS đă giúp rút ra kết luận rằng những người quốc gia Việt Nam và những người cộng sản nguyên thuỷ đă chưa thiết lập được những tổ chức với đường lối rơ rệt trong lần đầu Hồ đến Trung Quốc. Những người lưu vong như Lê Hồng Sơn và Trương Văn Lềnh, hai phụ tá tin cẩn nhất của Hồ, đă giữ quan hệ chặt chẽ với cả hai phía ít nhất là cho đến năm 1928. Thật sai lầm nếu cho rằng những người lưu vong Việt Nam đă có một quan điểm rơ ràng về sự trợ giúp của cộng sản đối với phong trào độc lập của họ trong những năm 1924 và 1925. Một khi Hồ vẫn c̣n những đóng góp tích cực cho những phương cách tổ chức và tiềm năng hậu thuẫn về tài chính th́ ông vẫn có lợi thế hơn những thủ lĩnh lớn tuổi đă bị bỏ rơi bởi người Nhật. Nhưng khi QTCS trở nên chậm chạp trong việc đáp ứng những yêu cầu trợ giúp của ông, Hồ lo lắng rằng ḿnh sẽ mất đi ảnh hưởng đối với những người quốc gia. Tôi sẽ phân tích những bằng chứng liên quan đến vấn đề này ở dưới.

    Vào ngày 18 tháng Chạp 1924, Hồ viết thư cho Chủ Tịch Đoàn QTCS báo rằng ông đă đến Quảng Châu vào giữa tháng ấy. (Không thể giải thích được sự khác biệt về ngày đến của ông trong thư và việc trước đây ông nói là đă đến vào ngày 11 tháng 11. Có lẽ là ông chỉ đơn giản làm theo thói quen nhỏ giọt sự thật với những đối tượng khác nhau). Trong phần tái bút của lá thư ông báo cho QTCS biết rằng ông đă lấy tên Trung Quốc là ʺLư Thụyʺ. Về phần ḿnh, Hồ Chí Minh đă đánh bóng sự khôn khéo của ông trong việc nối kết với các phần tử Việt Nam lưu vong.

    ʺTôi đă gặp một số nhà cách mạng quốc gia người Việtʺ, ông viết, ʺtrong số họ có một người đà rời Việt Nam ba mươi năm nay và trong thời gian ấy đă tổ chức được một số cuộc nổi dậy chống Pháp... Mục đích duy nhất của người này là trả thù cho tổ quốc và gia đ́nh đă bị sát hại bởi người Pháp. Ông ta không biết ǵ về chính trị và càng không biết tí ǵ về công tác tổ chức quần chúng. Trong những cuộc mạn đàm, tôi đă nêu lên việc cần thiết của việc tổ chức cũng như sự vô ích của những cuộc khởi nghĩa thiếu tổ chức. Và ông ta đă nghe theoʺ [37]. Nếu ta cho đoạn văn trên phóng đại khoảng 10 năm về chuyện nhân vật này rời khỏi Việt Nam th́ đúng là Hồ đang nói về Phan Bội Châu. Nhưng căn cứ theo những thư từ của Phan từ đầu năm 1925, th́ dường như hai người chưa gặp nhau [38]. Một khả năng khác về danh tánh của nhân vật lưu vong trên là Nguyễn Hải Thần hoặc Hồ Học Lăm, cũng là người đồng hương Nghệ An như Phan Bội Châu, cha và anh của ông đều bị Pháp giết hại. Nhưng Lăm, bác của Hồ Tùng Mậu, vẫn đang ở Hàng Châu trong thời kỳ mặt trận thống nhất. Báo cáo của Pháp về tiểu sử chính trị của Hồ Chí Minh vào năm 1933 cho thấy Nguyễn Hải Thần là người phù hợp nhất với miêu tả ở trên. Báo cáo này có nói rằng khi Hồ đến Quảng Châu, ông đă ʺkhéo léo tham khảo Nguyễn Cẩm Giang, lúc đấy đang là người nắm quyền lănh đạo các đồng hương của ḿnhʺ [39]. Bản báo cáo nói rằng với sự trợ giúp của Nguyễn Cẩm Giang, Hồ đă gây dựng nên một tổ chức mới, nhưng sau đó bất đồng ngày càng lớn giữa hai người và Giang đă thành lập một tổ chức riêng với không quá 30 thành viên. Sự chia rẽ này trùng hợp với tường thuật trong báo cáo của Lâm Đức Thụ về mối quan hệ giữa Hồ và Nguyễn Hải Thần. Nguyễn Hải Thần, c̣n có tên là Nguyễn Cẩm Giang, có vẻ là người kế nghiệp cho Phan Bội Châu cho đến khi Hồ Chí Minh xuất hiện trong chính trường [40].

    Trong lá thư viết ngày 18 tháng Chạp Hồ liệt kê những công tác mà ông và người đồng hương trên đă cùng nhau thực hiện. Họ đă vạch ra một biểu đồ tổ chức. Người đồng hương lập ra một danh sách của mười người Việt Nam đă cộng tác với ông trong quá khứ; và Hồ đă chọn ra năm người từ năm tỉnh khác nhau để đem đến Quảng Châu. Ông dự định hướng dẫn họ rồi gửi họ về lại Đông Dương sau ba tháng đào tạo, sau đó một nhóm khác sẽ thay thế. Đây cũng là sơ đồ hoạt động của tổ chức tương lai mang tên Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, thường gọi tắt là Thanh Niên Hội. Nhưng Hồ chưa nói ǵ về cái tên này cả, và trong hai lá thư vào tháng Giêng và tháng 2 1925 ông gọi tổ chức của ḿnh là Việt Nam Quốc Dân Đảng (xin xem phía dưới). Để đưa được nhóm người đầu tiên đến Quảng Châu, ông cần khoảng 150 đồng [chắc hẳn là đô‐la Mỹ) c̣n lại từ chi phí di chuyển từ Moscow. ʺNhưng sau đó th́ sao?ʺ ông hỏi thẳng thừng. ʺTôi chỉ làm việc vài giờ một ngày tại ROSTA, nhưng lương của tôi không đủ để tôi trang trải cho các ʺhọc tṛʺ, và sau khi họ đến Quảng Châu, có khả năng là tôi sẽ dành hết hoặc phần lớn thời gian cho việc đào tạo; t́nh trạng tài chính của tôi sẽ trở nên vô vọng. V́ thế tôi yêu cầu các đồng chí làm ơn ra lệnh cho các đại diện tại Quảng Châu cũng nên giúp đỡ những người Đông Dươngʺ [41].

    Đến ngày 5 tháng Giêng 1925 Hồ đă có thể báo cáo: ʺĐông Dương Quốc Dân Đảng đă được thành lập vào ngày 3 tháng này, khởi đầu với 3 đảng viên.ʺ Ông viết bằng tiếng Anh, v́ thế rất có thể là ông viết cho Voitinsky vốn thông thạo Anh ngữ. ʺMột đảng viên sẽ được điều về Annam (Trung Kỳ ‐ ND) và Lào. Một người khác (chưa là đảng viên) sẽ được gửi đến Tonkin (Bắc Kỳ ‐ ND) để đưa năm người khác qua Quảng Châu học công tác tổ chức... Trong lúc ấy, tôi cầu xin đồng chí hăy ra lệnh cho các đồng chí Nga ở đây cũng nên có trách nhiệm với những vấn đề Đông Dương bởi v́ một ḿnh tôi sẽ chẳng làm được ǵ nhiềuʺ [42]. Khi ông viết thư cho Chủ Tịch Đoàn QTCS vào ngày 10 tháng Giêng, lần này bằng tiếng Pháp, ông đă có thể thông báo rằng Quốc Dân Đảng vừa kết nạp thêm thành viên thứ tư. Nhưng ông than phiền rằng ông đă phải vay tiền từ ROSTA để trang trải cho chi phí đi lại của các phái viên [43].

    Vào ngày 19 tháng 2 1925 Hồ lại viết cho Chủ Tịch Đoàn QTCS cho biết về những tiến triển vừa đạt được. Lần này ông báo cáo rằng tổ chức bí mật của ông hiện có chín thành viên, hai người trong số đó đă được gửi về Việt Nam; ba người khác đang chiến đấu trong quân đội Tôn Dật Tiên, ông nói, và một người nữa đang thực hiện ʺnhiệm vụ quân sự cho Quốc Dân Đảngʺ. Trong chín thành viên này, năm người cũng là đối tượng đảng của Đảng Cộng Sản (Trung Quốc) [43]. Hồ cố gắng hạn chế đề cập đến tên tuổi của những người này trong thư từ của ông, nhưng chúng ta cũng biết từ tài liệu của Việt Nam năm người ấy chính là Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và Lâm Đức Thụ; Lê Quảng Đạt, một trong những học viên đầu tiên tại Hoàng Phố, có lẽ là người thứ năm [45]. Tất cả đều xuất xứ từ Nghệ An ngoại trừ Lâm Đức Thụ người gốc Thái B́nh. Nguyễn Hải Thần dường như đă đứng bên ngoài nhóm cốt cán của Thanh Niên Hội, có lẽ v́ tư cách sĩ quan của ông trong quân đội Vân Nam. Đến tháng 2 Hồ có vẻ đă thành công trong việc kết nối cơ cấu hiện tại của Tâm Tâm Xă và từ đó sử dụng mạng lưới cũ của Phan Bội Châu: ông báo cáo rằng tổ chức của ḿnh đă có một cơ sở vững chắc tại Xiêm để đưa đón người trong và ngoài nước. ʺCó năm mươi nông dân rất đoàn kết và từ lâu nay họ đă phụ giúp những công tác này,ʺ ông viết.

    Khi Hồ chiếm được ḷng tin của những đồng hương, những hoạch định của ông càng mang nhiều tham vọng. Trong lá thư đề ngày 19 tháng 2 ông ước lượng những công việc cần hoàn tất trong 1925 sẽ tốn khoảng 5.000 đô‐la. Ông cần tiền để thiết lập cơ sở tại Quảng Châu cũng như những cơ sở thông tin tại Quảng Tây; tại vùng cực nam của Quảng Đông; tại Bangkok; tại đoạn cuối của tuyến đường hoả xa Bangkok ‐ Tich‐kho (Udon Thani?), nơi mà theo lời ông chỉ cần hai mươi ngày đi bộ từ Lacfach; và cuối cùng là tại Lachfach (Thakhek?), phía tả ngạn sông Mekong (trên đất Lào), cách Trung Kỳ khoảng mười lăm ngày đi bộ. Ông cũng dự định gửi người về Việt Nam để thâu thập và truyền bá tin tức và cho một số khác làm việc trên những tàu thuyền giữa Trung Quốc và Đông Dương. Cuối thư ông đă đính kèm một bản đồ Đông Dương vẽ rất rơ ràng với những cơ sở trên được đánh dấu.

    Nhưng trong một bản ghi nhớ không đề ngày với đầu đề ʺVấn Đề Đông Dươngʺ, h́nh như đă được viết trong những tháng cuối năm 1925, ông vẫn không chắc chắn lắm về viễn cảnh của tổ chức. V́ nó được viết bằng tiếng Anh, có thể là lại để gửi cho Voitinsky. Trong điểm thứ 4 của bản ghi nhớ, cũng nhằm mục đích xin thêm tiền, ông giải thích: ʺNếu không có sự giúp đỡ và cố vấn của các đồng chí Nga, tôi sẽ gặp khó khăn để tránh mắc phải sai lầm. Nhưng tôi sẽ chẳng được ǵ cả nếu không có lệnh của đồng chí. Và họ cũng chẳng làm được ǵ cho tôi với hai bàn tay trắng” [46]. Điểm chính của lời yêu cầu là Hồ cần một điều ǵ để cho các đồng hương của ḿnh thấy được bằng chứng chắc chắn về sự trợ giúp của người Nga, từ đó ông có thể giữ được uy tín của ḿnh. Trong điểm 1 ông viết:ʺNếu đồng chí đồng ư tôi sẽ gửi ngay lập tức một hoặc hai học viên, điều này sẽ cho phép tôi thực hiện tốt công tác tuyên truyền, để có thể chứng minh được những ǵ Cách Mạng Nga có thể đem lại cho nhân dân thuộc địa. Điều này cũng cho phép tôi ‐ từ giờ đến tháng 8 ‐ chiếm được ḷng tin của những phần tử tốt trong Đông Dương Quốc Dân Đảng.ʺ

  8. #48
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 2
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P4


    Báo cáo của Sở Liêm Phóng đă giúp hoàn chỉnh một số chi tiết không rơ ràng về hoạt động của Lư Thụy trong những tháng đầu năm 1925. Vào ngày 4 tháng 3 Lâm Đức Thụ báo với đại diện người Pháp: ʺLư Thụy và Nguyễn Hải Thần đang ráo riết làm việc để thành lập một tổ chức mà tôi đă đề cập trong phần phụ chú của báo cáo số 121. Phan Bội Châu không biết ǵ về những hoạt động này của họʺ [47]. Tên của tổ chức này không được nói đến trong báo cáo hoặc trong bản tóm tắt của Pháp về những hoạt động của Lư Thụy trong việc kết nạp thành viên từ trong nước. Đây dường như là nỗ lực đầu tiên để phát triển một tổ chức được biết đến như Thanh Niên Hội. Bản báo cáo tháng 3 về những hoạt động của Lư Thụy, rơ ràng là đă căn cứ vào nguồn tin của Lâm Đức Thụ, đă do đích thân Toàn Quyền Merlin kư. Ông ghi chú rằng phương pháp chiêu mộ thành viên đă đánh vào tâm lư của người Việt bằng cách yêu cầu thành viên mới phải tuyên thệ trung thành với ʺđảngʺ mới, nhưng nó cũng tránh xa những ʺmỹ từ sáo rỗngʺ của những nhà cách mạng Việt Nam cũ. ʺKhông hề thấy nhắc đến những phương pháp cực đoan,ʺ Merlin viết.

    ʺTa có thể thấy rằng Lư Thụy xem đó là bước quan trọng đầu tiên để đưa những thành viên vào những tổ chức có kỷ luật, từ đó sẽ tuân theo mệnh lệnh một cách mù quángʺ [48]. Merlin vô cùng ấn tượng bởi tầm ảnh hưởng của những người ʺBolshevikʺ và phương pháp của họ. Phân tích của ông về đường lối tổ chức cũng hệt như chính Hồ viết: ʺNhững người quốc gia đă tạo ra vài cuộc tấn công: họ luôn thiếu đoàn kết và vẫn chưa thể chiếm được cảm t́nh của đại đa số quần chúng.ʺ Ông thấy rằng đường lối chống Pháp kiểu mới có thể làm tổn thương đến việc gây ảnh hưởng đến người Pháp ʺnếu để nó phát triển một cách tự doʺ. Nhưng ông đă đề ra một số biện pháp ngăn chận, ông trấn an người lănh đạo của ḿnh ở Paris.

    Đến đầu tháng 3 Lư Thụy đă thuyết phục được những người lưu vong đóng góp nguyệt liễm cho quỹ tuyên truyền. Lư Thụy đóng mỗi tháng 200 đô‐la, Nguyễn Hải Thần 300, Đinh Tế Dân 100 và Lâm Đức Thụ 50 đô‐la (có thể Thụ đă báo cáo phần đóng góp của ḿnh ít đi). Theo lời Thụ th́ Hồ mỗi tháng lĩnh được khoảng 300 đến 400 đô‐la tiền lương từ công việc dịch thuật của ḿnh [49]. Thụ báo cáo vào tháng 3 rằng Nguyễn Hải Thần và Lư Thụy đă thoả thuận thiếp lập một mối quan hệ làm việc chung. Ông giải thích:ʺMỗi người vẫn giữ quyền tự do hoạt động. Nguyễn Hải Thần tiếp tục cổ xuư cho phương pháp khủng bố và Lư Thụy th́ thực hiện công tác tuyên truyền cộng sản. V́ cả hai đều theo đuổi một mục đích, họ giúp đỡ lẫn nhau khi có dịpʺ [50].

    Dù vậy, công tác tuyển người từ trong nước có vẻ bị chậm trễ trong khi chính quyền cộng hoà Trung Hoa đang củng cố quyền lực trong nửa năm đầu của 1925. Những thành viên Việt Nam duy nhất được kết nạp từ trong nước chỉ là năm hoặc sáu người đến để tham gia các khoá học tại Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân, và con rể của Phan Bội Châu là Vương Thúc Oánh cũng nằm trong số đó. Để hiểu được quá tŕnh phát triển của những tổ chức cách mạng Việt Nam, ta nên lưu ư đến những sự kiện nổi bật của quá tŕnh củng cố quyền lực này. Số phận của những người Việt Nam lưu vong phụ thuộc vào cơ cấu quyền lực địa phương tại Quảng Châu và cả t́nh trạng của liên minh Quốc Dân Đảng ‐ ĐCS Trung Quốc nói chung. Như ta đă thấy, rất nhiều người trong số họ đang phục vụ trong hàng ngũ quân đội Trung Quốc. Hồ Chí Minh, cũng như một số người Việt khác, chỉ có thể dành một phần thời gian của ḿnh cho những vấn đề Việt Nam. Theo báo cáo của Lâm Đức Thụ vào cuối năm 1925, Hồ làm việc mười sáu giờ mỗi ngày, dịch bài cho ROSTA, báo cáo về phong trào nông dân cho Nông Dân Quốc Tế, và tổ chức các cơ sở mà sau này trở thành hạt nhân của đảng cộng sản Việt Nam [51].

    Từ tháng 2 đến tháng 5 1925 những học viên Hoàng Phố và quân đội Quảng Châu tham gia chiến dịch tấn công lănh chúa Trần Quưnh Minh (Chen Jiongmin ‐ ND) tại khu vực sông Đông Giang, Quảng Đông. Là một môi giới quyền lực địa phương tại Quảng Đông, Tướng Trần đang đe doạ tái chiếm Quảng Châu trong khi Tôn Dật Tiên vẫn ở Bắc Kinh với sức khoẻ đang suy sụp. Khi Tôn qua đời vào tháng 3, việc tranh giành để kế nghiệp ông vẫn tiếp tục. Quân đội Hoàng Phố bao vây Trần nhờ sự ủng hộ của những dân quân nông dân, những người này thực hiện công tác phá hoại cũng như cung cấp tin tức và tuyên truyền [52]. Ba người trong số chín thành viên thuộc tổ chức bí mật của Hồ cũng tham gia chiến đấu như Hồ đă báo cáo trong lá thư ngày 19 tháng 2. Lê Hồng Sơn phục vụ dưới quyền chỉ huy của Chu Ân Lai (Zhou Enlai ‐ ND), chính uỷ Tập Đoàn Quân số 1 [53]. Rồi vào tháng 5 những tướng lĩnh của quân đội Vân Nam và Quảng Tây trước đây đă tham gia Quốc Dân Đảng là Yang Ximin và Lau Tchauwan [Liu Chenhuan) nổi loạn chống lại lănh đạo nền cộng hoà. Những người lính Hoàng Phố vừa qua thử thách lại một lần nữa ra quân và đánh bại lực lượng nổi loạn. Sự kiện này đă dọn đường cho việc thành lập một chính phủ Quốc Dân Đảng độc lập tại Quảng Châu do Hồ Hán Dân (Hu Hanmin ‐ ND) đứng đầu vào cuối tháng 6 1925. Thành công chính trị của mặt trận thống nhất giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc giờ đă lên đến đỉnh điểm. Sự chuyển giao quyền lực chính trị tại địa phương đă đánh dấu một thời kỳ mới trong tổ chức của người Việt. Trước hết sự thất trận của quân đội Vân Nam làm cho Nguyễn Hải Thần mất đi chỗ dựa quyền lực. Lâm Đức Thụ đă báo cáo ngày 15 tháng 6 rằng: ʺHải Thần đă bị đánh bại. Ông ta không c̣n một người lính nào cả. Ông ta quay lại Quảng Châu nhưng vẫn chưa dám xuất hiện... ông ta đă cạn kiệt nguồn lực và có vẻ rất buồn.ʺ Những học viên trong đoàn quân của ông đang đợi để ʺsát nhập vào đội quân Quảng Châu theo đề nghị của Lư Thụyʺ [54]. Như đă nói ở trên, một số họ đă theo học tại trường Hoàng Phố. Tham gia đội ngũ học viên mới có hai người từ Nghệ An, cựu học sinh từ trường vơ bị sĩ quan của Tập Đoàn Quân Quảng Tây: Trương Văn Lềnh và Lê Như Vọng (Lê Thiết Hùng) [55].

    Với quyền lực đă được củng cố tại Quảng Đông, mặt trận thống nhất tăng cường quan tâm đến phong trào nông dân và việc tổ chức công nhân. Phong trào đ́nh công ngày 30 tháng 5 tại Thượng Hải (Shanghai ‐ ND) được nhanh chóng hưởng ứng bởi cuộc đ́nh công tại Hương Cảng (Hongkong ‐ ND) và phong trào tẩy chay hàng hoá Anh tại Quảng Đông. Phong trào ở Hưong Cảng được bắt đầu bằng một cuộc tổng đ́nh công chống lại các công ty ngoại quốc vào ngày 21 tháng 5 ‐ cùng ngày đó Hồ Chí Minh đă cho ra số đầu tiên của Thanh Niên, tuần báo này đă tiếp tục xuất hiện cho đến tháng 5 1930. (Số đầu tiên có 60 ấn bản chỉ có hai bài báo; đến tháng 10, 80 ấn bản được phân phối ở Xiêm, Quảng Tây, Vân Nam, Hàng Châu và Quảng Đông [56]) Vào ngày 30 tháng 5 Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức ra đời: nó là một tổ chức của những người hoạt động chống thuộc địa gồm Việt Nam, Triều Tiên và Ấn Độ cùng với những người bảo trợ Trung Quốc. Liêu Trọng Khải (Liao Zhongkai ‐ ND), tân thống đốc Quảng Châu và người đứng đầu phái tả trong Quốc Dân Đảng làm chủ tịch hội, một người Triều Tiên và Lâm Đức Thụ làm phó chủ tịch. Lư Thụy quản lư ban bí thư và tài chính của phân bộ Việt Nam. Hội này là một cơ cấu mới mà trong đó Hồ Chí Minh sẽ tạo ra một tổ chức cách mạng mở rộng cho người Việt tại Quảng Châu.

    Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức (LHCDTBAB) thực hiện hai mục tiêu của Hồ. Mục đích chính của nó là chứng tỏ sự hậu thuẫn của nhân dân châu Á đối với cuộc cách mạng Trung Quốc, bắt đầu là việc tẩy chay mậu dịch với người Anh tại Hương Cảng. Những truyền đơn thành lập Hội do Hồ viết bằng tiếng Hoa đă phản ánh rất rơ [57]. Ngoài ra phân bộ Việt Nam trong Hội cũng hoạt động như một tổ chức cơ bản để kết nạp và đào tạo những người Việt chống Pháp trong giai đoạn 1925. Thành viên của Hội, trong đó có Nguyễn Hải Thần, là những người đă phát hành tờ báo Thanh Niên. Mặc dù tháng 5 1925 thường được xem là ngày thành lập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, nhưng theo những bằng chứng có được, hội này đă không chính thức xuất hiện như một đảng chính trị thật sự cho đến khoảng năm 1926. Nó vẫn chưa có một cương lĩnh chính trị và điều lệ chính thức cho đến đầu năm 1927. Có thể Thanh Niên Hội được thành lập trước như một tổ chức cho lớp trẻ trong Hội LHCDTBAB và đảm đương vai tṛ tuyên truyền của Hội, theo Lâm Đức Thụ [58]. Một tài liệu lịch sử gần đây của Hà Nội về những năm tháng của Hồ tại Quảng Châu vẫn cho rằng tên chính thức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội được đưa ra vào cuối năm 1925. Tài liệu trích dẫn những hồi kư của Vương Thúc Oánh trong đó ông cho rằng một tổ chức có tên là Thanh Niên Cộng Sản Đoàn được thành lập tại Quảng Châu, nhưng cái tên Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Hội là do chính ông và Lê Duy Điếm nghĩ ra khi Điếm quay về từ Quảng Châu vào cuối năm 1925 [59].

    Một bản tóm tắt của người Pháp về những báo cáo của Lâm Đức Thụ vào ngày 22 tháng 7 1925 nêu rơ thế lực mới của Hồ từ giữa 1925: ʺNguyễn Ái Quốc đă quyết định nắm quyền lănh đạo của nhóm cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu. Trong khi vẫn làm nhiệm vụ dịch thuật cho bộ phận thông tin của lănh sự quán Sô Viết, ông ta đă làm việc không mệt mỏi để sửa soạn cho cuộc cách mạng tại Đông Dương. Là thủ quỹ của tổ chức cách mạng Việt Nam, người sáng lập, chủ bút kiêm in ấn của tờ Thanh Niên, người tổ chức của Hội LHCDTBAB tại Quảng Châu, hội viên của tất cả các nghiệp đoàn lao động và tổ chức cách mạng ở Quảng Châu, ông ta tham dự hầu hết các buổi họp tại Vườn Hoa Công Cộng và Đại Học Quảng Châu; ông gặp gỡ những vị chủ nhà danh tiếng tại nhà máy Xi Măng Quảng Châu như Liêu Trọng Khải, Sie Yng Pak và Hồ Hán Dân. Nguyễn Ái Quốc đă t́m thấy một môi trường hoàn toàn thích hợp cho ḿnh tại Quảng Châuʺ [60].

    Vào cuối tháng 9 Lâm Đức Thụ mật báo với Sở Liêm Phóng rằng Hồ, Nguyễn Hải Thần, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và ông tại một cuộc họp của phân bộ Việt Nam đă quyết định tái tổ chức những người cách mạng Việt Nam ở Quảng Tây và nối lại liên lạc với những người kháng chiến ở Bắc Kỳ (Tonkin ‐ ND). Hồ Tùng Mậu lĩnh nhiệm vụ trên tại Quảng Tây trong khi Nguyễn Hải Thần sẽ đi Bắc Kỳ. Thụ viết: ʺNguyễn Ái Quốc tin rằng chúng tôi cần phải tái tổ chức những nhóm cách mạng trong nước dựa theo những cơ sở tại Quảng Châu... những phần tử đáng nghi sẽ bị thẳng tay trục xuất như đă làm tại Quảng Châuʺ [61].

    Lê Hồng Sơn kể lại trong lời khai với Sở Liêm Phóng năm 1933 rằng trong khoảng mùa hè 1925, một nhóm 15 người Việt Nam đă được Hồ Tùng Mậu đưa đến Quảng Châu. Một số trong họ có lẽ đă được Nguyễn Hải Thần và Lâm Đức Thụ chiêu mộ. Vào mùa thu, Lê Hồng Phong, hiện là một sĩ quan trong quân đội Quảng Châu, lấy ngày phép để đưa 7 người trong nhóm quay lại biên giới Việt Nam qua hướng Nam Ninh và Long Châu. Tại biên giới ông giao nhiệm vụ lại cho một người buôn lậu Trung Quốc, người này dẫn họ về đến Bắc Kỳ. Trong số 7 người này có Xuân (Nguyễn Công Thu, em trai Lâm Đức Thụ, sau này trở thành tuyên truyền viên cho Thanh Niên Hội tại Quảng Châu), Hoàng Lùn (Lê Hữu Lập) từ Thanh Hoá, Lê Duy Dung từ Nghệ An, và Nhân (Nguyễn Ngọc Ba) cũng từ Nghệ An [62]. Vương Thúc Oánh, con rể của Phan Bội Châu, người đă tạo dựng được một mạng lưới đưa người Việt sang Trung Quốc, đă được kết nạp vào trong nhóm ṇng cốt của Thanh Niên Hội vào đầu năm [63]. Những học viên này đă tạo thành một phần của khoá huấn luyện chính thức đầu tiên của Thanh Niên Hội mà Hồ đă nhắc đến trong thư gửi cho QTCS vào tháng 6 1926 bao gồm 10 người [64].

    Nhưng khủng hoảng chính trị đă làm gián đoạn những kế hoạch đưa các nhóm học viên sang Quảng Châu. Bản chất hiếu chiến ngày càng tăng của Quốc Dân Đảng ở Quảng Đông, cùng với việc tẩy chay mậu dịch với Anh đă thúc đẩy việc thành lập một liên minh quyền lực mới tại miền nam Trung Quốc giữa những phần tử cánh hữu trong Quốc Dân Đảng và những thế lực đế quốc. Một trong những dấu hiệu về sự tan ră của khối đoàn kết quốc gia là vụ Liêu Trọng Khải bị ám sát vào tháng 8. Những học viên quân sự Hoàng Phố một lần nữa lại gồng ḿnh chờ chiến cuộc mới sắp nổ ra, theo lời Lê Hồng Phong từ học viện Hoàng Phố viết cho những đồng hương trong thành phố [65]. Dù vậy, một thoả hiệp chính trị cũng đă được đưa ra trong đó bắt buộc Hồ Hán Dân, bị t́nh nghi là chủ mưu trong vụ ám sát, phải lưu vong sang châu Âu. Nhân vật cánh tả Uông Tinh Vệ (Wang Jingwei ‐ ND) sẽ nắm quyền lănh đạo chính phủ, trong khi đó Tưởng Giới Thạch (Chiang Kaishek ‐ ND) trở thành Tổng Tư Lệnh của Tập Đoàn Quân thứ 1 Quốc Dân Đảng đồng thời kiêm chức giám đốc Học Viện Hoàng Phố [66]. Việc đưa Uông Tinh Vệ làm người kế nhiệm Tôn Dật Tiên đă được hoàn toàn nhất trí tại Đại Hội Quốc Dân Đảng Toàn Quốc lần 2 vào tháng Giêng 1926. Đại Hội xác nhận sức mạnh của mặt trận thống nhất cũng như sự liên minh của nó với nước Nga Sô Viết [67]. Nhưng cái chết của Liêu Trọng Khải đă làm mất đi sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng đối với phong trào nông dân tại Quảng Đông và có lẽ cũng là một thất bại tạm thời cho những kế hoạch của Hồ Chí Minh. Đến giữa năm 1925, ông đă tham gia rất nhiều việc của Nông Dân Quốc Tế, nhưng đến mùa xuân năm sau mối quan tâm của QTCS lại chuyển sang những hướng khác. Khoá đào tạo thứ hai của Thanh Niên Hội cuối cùng cũng đă khai mạc vào mùa thu 1926, trong khi mặt trận thống nhất chuyển hướng chú ư đến chiến dịch Bắc Phạt (Northern Expedition ‐ ND). Trước khi phân tích những hậu quả gián tiếp đến Thanh Niên Hội lúc ấy, ta cần nên nh́n lại phong trào nông dân và những lực lượng chính trị phía sau đă ảnh hưởng đến nó như thế nào.

    Phong trào nông dân Quảng Đông

    Vào giữa tháng 2 1925 và tháng 3 1926, v́ nhiệm vụ của ḿnh trong Nông Dân Quốc Tế, Hồ bị cuốn vào một trong những phong trào ồn ào nhất của mặt trận thống nhất: phong trào nông dân Quảng Đông. Công tác tổ chức nông dân tại tỉnh Quảng Đông đă bắt đầu ngay sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc thành lập, chủ yếu là do sự phát động của Bành Bái (Peng Pai ‐ ND), con của một địa chủ giàu có từng du học ở Nhật. Ông đă thành lập các trường học và tổ chức nông dân trong những năm 1922 và 1923 nhưng bị thất bại trong việc bảo vệ chúng khỏi tầng lớp địa chủ giàu có [68]. Nhưng vào mùa xuân 1925, cán cân quyền lực đă xoay chiều trong những vùng nông thôn ở miền đông Quảng Châu khi binh sĩ Quốc Dân Đảng, vừa được huấn luyện và trang bị, đă đánh tan lực lượng của lănh chúa Trần Quưnh Minh. Những nông hội do Bành Bái thành lập đă trở thành những tổ chức được chính phủ công nhận và được bảo đảm quyền lợi cũng như vị trí trong phong trào mặt trận thống nhất. Họ cũng nắm được quyền tổ chức quân đội riêng để tự vệ chống lại lực lượng Dân Quân (mintuan ‐ ND) của những lănh chúa mà trên thực tế là những đội quân của tầng lớp thống trị.

    Những lực lượng quân sự nông dân tại hai huyện Hải Phong (Haifeng ‐ ND) và Lục Phong (Lufeng ‐ ND) trong khu vực sông Đông Giang được thành lập từ những lớp đào tạo của Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân ở Quảng Châu. Học viện được Bành Bái thành lập vào tháng 8 1924. Ông đích thân giảng dạy hầu hết những khoá đầu tiên và kiến thiết một chương tŕnh có thực hành mỗi tuần tại các làng xă. Fernando Galbiati (nhà sử học ‐ ND) viết rằng trong khoá đào tạo thứ 2, 3, và 4 tại Học viện, ʺyếu tố quân sựʺ không ngừng được tăng cường. Khoá đào tạo thứ 3, h́nh như bao gồm vài người Việt, kéo dài từ ngày 1 tháng Giêng đến ngày 3 tháng

    4 1925. Lấy theo khuôn mẫu tổ chức của một đại đội quân sự và được huấn luyện về thăm ḍ và tuyên truyền [69]. Lớp đào tạo thứ 4 bắt đầu ngày 30 tháng 4 nhưng bị gián đoạn v́ vụ nổi loạn tại Quảng Châu của những tướng lĩnh trong quân đội Vân Nam và Quảng Tây. Theo Galbiati, những học viên đă phân tán về vùng quê đến khi Học viện mở cửa lại vào tháng 7. Năm thanh niên Việt Nam đang theo học khoá này được cho là đă chuyển sang Đại Học Quảng Châu vào cùng tháng đó [70]. Khi chỉ có 50 học viên quay lại sau khi khoá học bị gián đoạn, Galbiati tin rằng những học viên mới người Việt đă được thế vào[71]. Nhóm này tốt nghiệp vào tháng 9 - 1925. Việc đào tạo của Học viện có thể là nguồn gốc của những đội vũ trang tuyên truyền do Việt Minh thành lập vào năm 1945. Những chủ đề trong khóa học rất thực tế ‐ chúng bao gồm việc viết bài tuyên truyền và tổ chức Nông Hội cũng như cách chiếm cảm t́nh của nông dân bằng cách sử dụng ngôn ngữ địa phương đồng thời ăn mặc và sinh hoạt như những nông dân [72]. Khoá đào tạo thứ 5 tại Học viện do Mao Trạch Đông (Mao Zedong ‐ ND) giảng dạy có 43 học viên từ Hồ Nam [73]. (Mặc dù Mao được cho là đă có công sáng lập Học viện, ông chỉ trở thành hiệu trưởng vào mùa xuân 1926).

    Vai tṛ của Nông Dân Quốc Tế trong việc chỉ đạo phong trào nông dân th́ không rơ ràng lắm. Những cố vấn người Nga giảng dạy tại Học viện về kỹ thuật do thám và làm việc dưới quyền của Borodin như là những cố vấn đặc biệt trong Bộ Nông Dân của Quốc Dân Đảng có thể không có quan hệ với Nông Dân Quốc Tế [74]. Một trong những người này là S.N. Belenky, được biết trong QTCS là ʺVolinʺ, cũng là một phóng viên của ROSTA, có lẽ ông là người điều hành trực tiếp của Hồ Chí Minh [75]. Trong giai đoạn đầu tổ chức, bản thân Borodin dường như đă nhúng tay rất sâu trong việc cố vấn về vấn đề giảm thiểu ruộng tá điền và vấn đề phân phối đất [76]. V́ thế Hồ Chí Minh, người đại diện Á châu duy nhất trong Nông Dân Quốc Tế (và thông dịch viên tiếng Pháp và tiếng Anh], đă có thể theo dơi và tham gia phong trào nông dân Quảng Đông một cách sát sao. Ông gửi cho Nông Dân Quốc Tế tại Pháp một báo cáo về những trở ngại chính trong giai cấp nông dân Trung Quốc. Họ nhận được báo cáo này vào ngày 2 tháng 3 1925. Bên cạnh mật độ dân số quá cao, nông cụ thô sơ và thiên tai tàn phá, ông c̣n đưa ra những khó khăn chủ yếu khác như sự tham tàn của giai cấp địa chủ và nạn xâm lăng của tư bản ngoại quốc. Không rơ là Hồ chỉ đơn giản là phiên dịch bản báo cáo này từ người khác hay đă tự tay soạn thảo nó. Ông chỉ đề cập một cách vắn tắt ở phần cuối của báo cáo rằng tầng lớp nông dân đang thành lập các nông hội dưới sự ủng hộ của giai cấp công nhân và chính phủ miền nam Trung Quốc. Những tổ chức sau đây sẽ bị trục xuất ra khỏi các nông hội, ông viết: địa chủ với hơn 100 mẫu đất[77]; những kẻ cho vay nặng lăi; những chức sắc của các tôn giáo; những ai có quan hệ với đế quốc; dân cờ bạc và dân hút thuốc phiện [78].

    Vào tháng 8 1925 Nông Dân Quốc Tế gửi Hồ năm ngh́n rúp (rubles ‐ khoảng 2.500 Đô‐la lúc ấy) qua tài khoản của Borodin tại Ngân Hàng Viễn Đông. Họ chỉ thị Hồ dùng số tiền này để (1( in bích chương cách mạng và tài liệu về những vấn đề nông dân; (2) gửi đại diện đến các tỉnh khác để thành lập các hội liên hiệp nông dân; (3) gửi một đồng chí đáng tin cậy người Trung Quốc đến Moscow để làm việc trong Nông Dân Quốc Tế; và (4) cung cấp đều đặn tin tức và tài liệu về phong trào nông dân Trung Quốc đến Moscow. Cuối cùng là những bản báo cáo lưỡng nguyệt [79]. Hồ hồi âm bằng tiếng Anh vào ngày 17 tháng 10 rằng ông đă nhận được tất cả thư từ của Nông Dân Quốc Tế từ tháng 8 đến tháng 9 (gồm 11 lá thư tất cả, đa số chúng không nằm trong hồ sơ của Nông Dân Quốc Tế với những trả lời của Hồ) vào cùng ngày 14 tháng 10 1925. Ông hứa sẽ thực hiện hầu hết các chỉ thị của họ. Nhưng ông từ chối gửi một đồng chí đến Moscow,

    ʺv́ tất cả các đồng chí hiện giờ đều đang cần ở đây, và không ai trong số họ biết ngoại ngữ.ʺ Ông cũng yêu cầu họ chấm dứt gửi tài liệu bằng tiếng Đức, v́ không có ai để dịch chúng [80].

    Ngày 5 tháng 11 1925 Hồ gửi cho Nông Dân Quốc Tế kết quả thăm ḍ trong các liên hiệp nông dân trong 7 huyện của tỉnh Quảng Đông [81]. Trong bản tóm tắt kết quả, ông viết rằng nông dân ʺđồng t́nh với cương lĩnh của Đảng Cộng Sản khi họ không c̣n lo sợ về vấn đề ʺxă hội hoá phụ nữʺ và họ sẵn sàng hi sinh để bảo vệ giai cấp của ḿnh hoặc ủng hộ chính quyền cách mạngʺ [82]. Có lẽ tiếng Quảng Đông của ông lúc ấy không lưu loát để có thể tham gia trực tiếp vào công việc thống kê; ông đă gửi các báo cáo đến Nông Dân Quốc Tế bằng tiếng Anh. Một lá thư khác viết vào ngày 3 tháng Chạp cho thấy rằng Hồ chủ yếu chỉ chuyển thông tin từ những người tổ chức chứ không tự tay thu thập chúng. Hồ giải thích rằng những đồng chí Trung Quốc đă khuyên ông không nên có quan hệ chính thức với Ban Chấp Hành Quốc Dân Đảng trong tư cách đại diện của Nông Dân Quốc Tế, điều mà trước đây Nông Dân Quốc Tế đă khuyến khích. Ông viết: ʺnhững đồng chí của chúng tôi cho rằng việc ấy không cần thiết, v́ tôi có thể thu thập mọi thông tin liên quan đến vấn đề nông dân qua các đồng chí trong Đảng Cộng Sản. (Mặc dù vị chủ tịch Hội Đồng Nông Dân Sự Vụ là một người Quốc Dân Đảng, mọi công tác ‐ tổ chức cũng như tuyên truyền ‐ đều được thực hiện bởi các đồng chí của ta [83]).

    Sáng sớm ngày 20 tháng 3 1926 Tưởng Giới Thạch đưa quân đánh úp các chính uỷ cộng sản tại Hoàng Phố, bắt giữ khoảng 50 người [84]. Các cố vấn Nga tại Quảng Châu đều bị quản thúc tại gia. Để đối phó với cuộc đảo chánh, Borodin đă ngầm thoả hiệp với những đ̣i hỏi của Ban Chấp Hành Quốc Dân Đảng, trong cuộc họp vào tháng 5 đă đưa ra những yêu sách nhằm giới hạn vai tṛ của cộng sản trong cơ chế Quốc Dân Đảng. Kể từ đấy, những đảng viên cộng sản chỉ được phép chiếm một phần ba tổng số thành viên của đảng uỷ Quốc Dân Đảng, đồng thời đảng viên cộng sản không được đứng đầu các bộ trong chính phủ [85]. Mặc dù mặt trận thống nhất vẫn tiếp tục với hậu thuẫn của người Nga cho đến mùa hè 1927, sự kiện ngày 20 tháng 3 đă đánh dấu buổi đầu thoái trào của phong trào nông dân tại Quảng Đông, cho đến khi Sô Viết Hải‐Lục Phong được thành lập vào cuối năm 1927. Theo báo cáo của Hồ Chí Minh với Nông Dân Quốc Tế vào tháng 6 năm 1927 th́ Quốc Dân Đảng đă ngưng giúp đỡ các nông hội khi họ đă thu thập được Quảng Đông dưới trướng của ḿnh [86]. Các lực lượng quân sự của nông dân không đủ mạnh để chống lại lực lượng dân quân địa chủ nếu không có sự giúp đỡ của quân đội Quốc Dân Đảng[87]. Sau này Hồ Chí Minh cho rằng người Anh và người Pháp đă giúp trang bị cho những lực lượng dân quân địa chủ này [88]. Vào mùa xuân 1926, khi kế hoạch Bắc Phạt đang được soạn thảo, Mao Trạch Đông nắm quyền lănh đạo Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân và mặt trận thống nhất bắt đầu lưu tâm đến tầng lớp nông dân tại Hồ Nam và Hồ Bắc.

    Đến tháng 3 năm 1926 Nông Dân Quốc Tế th́nh ĺnh ngừng quan tâm đến những công việc của Hồ Chí Minh. Ông viết cho họ một thư ngắn bằng tiếng Pháp vào ngày 8 tháng 3 năm 1926 hỏi họ v́ sao những lá thư ông gửi cho họ đều không được trả lời, và v́ sao họ không gửi tiếp những tài liệu tuyên truyền [89]. Ông cũng đă chuyển thư từ của họ đến Java, Manila, Ấn Độ và những nơi khác. Một phần nguyên do nằm trong thư trả lời không đề ngày của họ, họ trả lời rằng đă nhận được thư của ông. Nhưng v́ họ bắt đầu trả lời với một thành viên mới trong Ban Bí Thư, đồng chí Hồ Hán Dân, về t́nh h́nh nông dân tại các tỉnh Sơn Đông và Vân Nam [90]. Th́ ra là Hồ Hán Dân đă đến Moscow sau khi bị trục xuất khỏi Quảng Châu và đă được bầu vào hàng ngũ lănh đạo của Nông Dân Quốc Tế. Tại Đại Hội 6 của Ban Chấp Hành QTCS vào tháng 3 1926 ông được mời làm thành viên danh dự [91]. Liên minh Stalin‐Bukharin tại Moscow đoan chắc rằng Quốc Dân Đảng, lực lượng cách mạng ṇng cốt tại châu Á, đă là nguyên nhân của nhiều sự kiện khó lường [92]. (Bukharin đă cách chức lănh đạo QTCS của nhân vật cánh tả Zinoviev vào tháng 10 / 1926). Người bị cho là có trách nhiệm trong cái chết Liêu Trọng Khải, người bảo vệ phong trào nông dân Quảng Đông, bổng chốc trở thành đại diện chính của Nông Dân Quốc Tế ở Trung Quốc. Hồ Chí Minh lúc này bị cho là quá gần gũi với những người cộng sản hoặc đơn giản là không c̣n quan trọng để làm việc nữa. Sau tháng 3 1926, không có tài liệu về việc liên lạc giữa Hồ và Nông Dân Quốc Tế cho đế khi ông quay lại Moscow vào tháng 6 / 1927.

  9. #49
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 2
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P5


    Sự phát triển của Thanh Niên

    Trông chờ khởi nghĩa. T́nh h́nh tiến triển trong việc kết nối với quốc nội của Hồ Chí Minh chắc hẳn đă bị chậm lại v́ căng thẳng chính trị bên trong chính quyền Quảng Châu cũng như những khó khăn tài chính của ông. Đến tháng 4 1926, mặc dù Lâm Đức Thụ báo cáo rằng đă có 30 thanh niên Việt Nam đang nghiên cứu chính trị và khoa học quân sự tại Đại Học Quảng Châu và Học Viện Quân Sự Hoàng Phố, đă không có một dấu hiệu của nhóm học viên thứ hai của Thanh Niên Hội [93]. Đội ngũ cốt cán của Thanh Niên tạm thời giải tán: Lê Hồng Sơn trở thành phái viên chính trị cho Tướng Trương Phát Khuê (Zhang Fakui ‐ ND) tại đảo Hải Nam. Vào tháng 6 Hồ Tùng Mậu đi với một đồng chí mang tên ʺông Sáuʺ (Lưu Hồng Khải hoặc Vơ Tùng) đến Xiêm với hi vọng tổ chức một hội tương tế [94]. Lê Hồng Phong, Tu Rue và Đặng Tu My không bao lâu đă đi Moscow để học thêm về quân sự [95]. Trong lúc đó, mối giao hảo giữa Hồ và Nguyễn Hải Thần đang bị đổ vỡ. Vào tháng 4 1926 Thần bị Lâm Đức Thụ cáo buộc là đă lạm dụng ngân quỹ của phân bộ Việt Nam trong Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức [96]. Hội LHCDTBAB vừa tái tổ chức trong tháng 3, có lẽ v́ cái chết của Liêu Trọng Khải và hành động của Tưởng Giới Thạch nhằm giới hạn quyền lực của những người cộng sản. Một bài viết trong báo chí Trung Quốc về việc tái tổ chức có đề cập đến việc hội này đang bắt đầu một đợt kết nạp thành viên mới [97]. Sở Liêm Phóng chuyển tin tức này cùng với một phụ chú đến cho Văn Pḥng Quản Lư Địa Phương, văn pḥng này cho rằng việc những người Đông Dương đến Quảng Châu ʺcó thể không liên quanʺ đến việc tái tổ chức của Hội LHCDTBAB. Những người lưu vong mới này có thể nằm trong số 30 người Việt đang theo học tại Hoàng Phố.

    Lâm Đức Thụ báo với Sở Liêm Phóng rằng Nguyễn Hải Thần đang hiềm tị về ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong tổ chức những người cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu. ʺNguyễn Ái Quốc đang chuẩn bị cho cuộc cách mạng một cách có phương pháp. Ông ta chỉ ra tay khi thời điểm chín muồi. Nguyễn Hải Thần lại theo đuổi phương pháp bạo động. Ông ta muốn thực hiện nó ngay lập tức,ʺ người chỉ điểm này nói [98]. Trong một buổi báo cáo khác, Lâm Đức Thụ phân tích rơ hơn về con người Hồ Chí Minh: ʺNguyễn Ái Quốc vẫn c̣n dính líu đến Cơ Quan Thông Tin của USSR. Ông ta không tiết lộ là ḿnh làm ǵ ở đó... ông ta vô cùng đa nghi và chỉ hé lộ với bạn bè những ǵ cần thiết nhất...Hầu hết những ǵ ông làm đều theo tư tưởng của ông. Những người như Hồng Sơn đề nghị ông ta mua một mảnh đất ở Hải Nam để mở trường, nhưng ông ta bảo rằng ông sẽ chẳng bao giờ bỏ tiền ra mua đất và v́ nguyên thuỷ đất đai là của mọi người nên nó nên để cho mọi người sử dụng một cách tự doʺ [99].

    Cả nhóm Việt kiều tại Quảng Châu và những người ái quốc trong nước đều có một trông đợi là ʺLư Thụyʺ sẽ sớm phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Đến cuối tháng 3 1926 phản kháng chính trị tại Việt Nam đă đạt lên mức cao nhất kể từ phong trào chống thuế năm 1908. Cái chết của nhà cải cách Phan Chu Trinh, người đă từng d́u dắt Hồ Chí Minh, vào ngày 23 tháng 3 đă dẫn đến một đám tang khổng lồ trên toàn cơi Việt Nam. Những lănh đạo sinh viên giúp tổ chức những cuộc tuần hành cho đám tang và lễ tưởng niệm đă bị đuổi học trên khắp đất nước ‐ đối với mọi người đây là cơ hội mà chính quyền thuộc địa Pháp đă vô t́nh đẩy họ vào con đường hoạt động bất hợp pháp. Nhà báo cách tân và chống Pháp Nguyễn An Ninh bị bắt ngày 24 tháng 3. Nối tiếp cuộc biểu t́nh của quần chúng chống lại bản án của Phan Bội Châu vào cuối năm

    1925, đám tang Phan Chu Trinh và việc Nguyễn An Ninh bị bắt giữ đă tạo thành một bầu không khí sôi sục.

    Trong lúc đó tại Quảng Châu người Nga và Tưởng Giới Thạch đă quyết định dẹp qua mọi khác biệt để cùng nhau tiến hành chiến dịch ʺBắc Phạtʺ nhằm nới rộng biên giới của chính phủ quốc dân đến phía bắc của sông Dương Tử (Yangtze ‐ ND). Một số những người kháng chiến người Việt tin tưởng rằng đây là thời điểm để họ tấn công vào vùng biên giới Đông Dương. Người Pháp bắt đầu nhận tin tức mật báo về những kế hoạch hành động quân sự tại vùng biên giới Hoa‐Việt trong tháng 7 1926, vào lúc chiến dịch Bắc Phạt của Tưởng Giới Thạch vừa mới bắt đầu. Ngày 13 tháng 7 một bác sĩ và cũng là lănh sự của Pháp tại Bắc Hải (Pakhoi ‐ ND) đă gửi cho Toàn Quyền tại Hà Nội một bức điện với nội dung như sau:

    Một nhà cách mạng Việt Nam có tên là L.Soui ‐ Lư Thụy, bí danh Nguyễn Ái Quốc, hiện là tuỳ viên quân sự của chính phủ Quảng Châu, người này đă tốt nghiệp học viện quân sự ở Moscow, nghe nói đă được chính quyền Quảng Châu bí mật hứa hẹn là sẽ trang bị 1.000 súng trường Nga để thực hiện một tấn công bất ngờ ở biên giới Bắc Kỳ, trong vùng Móng Cái. Người Việt Nam này được cho là đă gửi mật phái viên đến vùng Vạn Sơn (khu vực Nà Lương), nơi đó họ sẽ cung cấp súng cho bọn thổ phỉ [100]

    Một mật thám khác với bí danh ʺKonstantinʺ, đă báo cáo về Tam Kam Say, người đă cầm đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang năm 1918, cũng sẵn sàng tấn công Ḥn Gai, một thị trấn phía bắc Việt Nam. Cùng lúc ấy Konstantin đă báo tin rằng Paul Monin, một luật sư Pháp hoạt động chống chính sách thuộc địa ở Sài G̣n, đă đến Quảng Châu để đề nghị người Nga hỗ trợ một cuộc nổi dậy (những tài liệu khác của Pháp cho rằng cuộc gặp gỡ này vào khoảng cuối tháng 2 đến 30 tháng 5 1926 [101]). Kế hoạch tấn công như sau: ba ngh́n lính Trung Quốc do 100 người An Nam dẫn đường sẽ đi thuyền từ Bắc Hải và đổ bộ lên một cảng thuộc Trung Quốc trên bờ biển Nam An Nam. Konstantin, h́nh như không đột nhập vào được hàng ngũ thân cận của Hồ, cho rằng kế hoạch tấn công đă được Hồ đồng ư [102]. Nhưng trong một báo cáo khác, chắc chắn là của Lâm Đức Thụ, cho thấy rằng Hồ không tin tưởng vào sự đánh giá của Monin và đă từ chối ủng hộ kế hoạch của ông ta [103]. Việc Monin làm việc với đồng nghiệp của Hồ tại Paris là Phan Văn Trường và rất được tầng lớp chống đối tại Sài G̣n nể trọng vẫn không đủ để thuyết phục Hồ đi theo hướng của ông.

    Theo mọi nguyên tắc cũ của tầng lớp phản đế người Việt th́ đây là thời điểm chín muồi cho hành động quân sự. Những truyền thống nổi dậy này dường như đă cổ vũ cho việc tạo dựng một huyền thoại về Lư Thụy như là một vị tổng tư lệnh. Nhưng những ǵ Hồ đang thực sự xây dựng th́ không có ǵ ngoại trừ những hạt nhân c̣n rất nhỏ bé của đảng cộng sản Việt Nam tương lai. Sở Liêm Phóng tin rằng vào năm 1926 ông đă từ chối một đề nghị giúp đỡ rất lớn của những người Sô Viết để phát động một cuộc tấn công vũ trang, v́ ông xét thấy những người khởi nghĩa Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng [104]. Trên thực tế, kế hoạch xây dựng một phong trào độc lập do cộng sản lănh đạo của ông chỉ mới vừa khởi sự.

    Chi bộ Nam Kỳ ‐ Cam Bốt của Uỷ Ban Nam Dương. Rất có thể là một số tổ chức tại Việt Nam đang chuẩn bị những cuộc khởi nghĩa bạo lực chống lại quyền lực của người Pháp trong năm 1926. (Quan niệm về cuộc khởi nghĩa không tránh khỏi cũng xuất hiện trong những nhóm cánh tả ở Indonesia trong mùa hè năm đó ‐ nhưng cuộc nổi dậy ở đó chỉ chính thức bắt đầu vào tháng 11 [105]). Việc thiết lập một chi bộ của ĐCS Trung Quốc bắt đầu vào năm 1926 có thể là một nguyên nhân dẫn đến bức tranh khó hiểu này. Vào tháng 2 1927 t́nh báo Pháp nhận được báo cáo từ một nguồn tin được cho là ʺdigne de foiʺ (đáng tin cậy ‐ ND) trong đó nói rằng chi bộ ʺNam Kỳ ‐ Cam Bốtʺ của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương thuộc ĐCS Trung Quốc có căn cứ tại Nam Dương (Nanyang ‐ ND), Singapore ‐ đă bước vào hoạt động và đang bắt đầu tổ chức tại Bắc Kỳ. Chi Uỷ Nam Dương hay là Uỷ Ban Lâm Thời đă được những Hoa kiều thành lập vào năm 1926 như là một bộ phận của ĐCS Trung Quốc; nó được tin rằng đă có thành viên tại những thuộc địa của Anh, Hoà Lan, Pháp cũng như ở Xiêm và Miến Điện [106]. Nguồn tin của người Pháp đă căn cứ trên một báo cáo của ʺSamoyanʺ (có lẽ là Semaun) định tŕnh bày tại Đại Hội Mở Rộng của Ban Chấp Hành QTCS. Semaun được nhận diện là phái viên cho Đông Dương, Nam Dương và Quần đảo Mă Lai [107]. Tôi đă không t́m được bằng chứng vững chắc về mẫu tin này trong hồ sơ của Ban Bí Thư Cục Đông Phương hoặc của Đại Hội Mở Rộng lần 7 Ban Chấp Hành QTCS được tổ

    chức vào tháng 11 1926, thời gian thích hợp nhất của bản báo cáo này. (Trong giai đoạn 1930‐1 có vài tài liệu về tổ chức ʺNam Kỳ ‐ Cam Bốtʺ trong văn khố QTCS). Dù thế, một báo cáo tóm tắt của Sở Liêm Phóng về những diễn biến chính trị ở Đông Dương trong năm 1926 và đầu năm 1927 cho thấy đă có rất nhiều công đoàn công nhân gốc Hoa hoạt động tại miền nam Việt Nam và đă có quan hệ với Quảng Châu [108]. Cũng trong thời gian ấy, những tổ chức bạo lực bí mật đang được sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng ở Sài G̣n [109]. Là thành phần của mặt trận thống nhất, những công đoàn và tổ chức này có thể đă bao gồm những người cộng sản ṇng cốt. Đến giữa năm 1927 những người gốc Hoa tại Nam Việt Nam đă giúp đưa những thành viên mới người Việt tham gia các lớp đào tạo ở Quảng Châu dưới vỏ bọc Quốc Dân Đảng [110].

    Semaun nói rằng ĐCS Trung Quốc đang hoạt động trong năm huyện của Đông Dương thuộc Pháp (có lẽ là năm khu vực trong Liên Hiệp Đông Dương) và đảng cộng sản Nam Kỳ ʺlà một tổ chức năng hoạt nhất đang dẫn đầu một phong trào mạnh mẽ trong quần chúng bản xứ.ʺ Một sơ đồ đính kèm trong bản báo cáo cho thấy những có những chi bộ Nam Kỳ tại Sài G̣n, Chợ Lớn, Trà Vinh, Sa Đéc, Cà Mau và Thủ Dầu Một. Những chi bộ tại Cambodia đặt tại Kompong Cham, Cratie và Kampot với một chi uỷ gồm 50 thành viên tại Phnom Penh. Một hội nghị bao gồm đại biểu từ Hải Pḥng, Hà Nội và Lao Cai dự định tổ chức vào tháng 2 1927 tại Hải Pḥng. Những đại biểu này h́nh như là người gốc Hoa, ví dụ như một người tên ʺMông Vĩnh Hộiʺ, được xem là một nhà cách mạng nổi bật nhất ở miền Bắc (Việt Nam). Semaun cũng đề cập đến một tổ chức cách mạng địa phương do người bản xứ thành lập tại Vinh‐na Tinh (sic) vào tháng 5 1926, nhưng vẫn chưa thực sự thành h́nh. Có lẽ ông đang muốn nói về những nổ lực kết nạp thành viên ban đầu của Thanh Niên Hội hoặc của Cách Mạng Đảng sẽ đề cập ở dưới. Có thể hiểu rằng những người quốc gia Việt Nam có liên hệ với tổ chức Nam Kỳ ‐ Cambodia là những người hoạt động mạnh mẽ nhất để khởi xướng khởi nghĩa vũ trang trong thời gian 1926. Kế hoạch của Monin có thể là một phối hợp với những phần tử trong nhóm này ‐ Những người Hoa tại Trà Vinh có tiếng là đă đóng góp rất nhiều trong công việc báo chí của ông [111]. Ngoài ra c̣n có một tổ chức tại Bắc Ninh do Trần Huy Liệu của Việt Nam Dân Quốc, đảng này đang dự định khởi nghĩa vào cuối năm 1926 (kế hoạch của họ bị lộ v́ bom tự chế của họ đă nổ sớm [112]). Đến cuối năm 1927 họ đă trở thành một trong những thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng [113].

    Khoá đào tạo thứ hai và thứ ba của Thanh Niên. Không thể xác định sự liên hệ, nếu có, của Hồ Chí Minh và Thanh Niên Hội với ĐCS/Quốc Dân Đảng Trung Quốc bên trong Việt Nam. Dù thế, hồ sơ lưu trữ của QTCS và tài liệu của Pháp cho thấy Hồ đă cố gắng tránh xa những cuộc mạo hiểm vũ trang. Sau khoảng một năm dài không liên lạc với Cục Đông Phương , vào ngày 3 tháng 6-1926 Hồ đă viết thư cho QTCS báo rằng công việc của ông tiến triển rất chậm v́ thiếu tài chính [114]. Ông đă phải xoay trở bằng tiền lương của ḿnh và một số đồng chí khác cùng với một số trợ cấp từ người Nga. Một nguồn tài chính khác của Thanh Niên có thể là từ Nông Dân Quốc Tế cung cấp qua Borodin cho những công tác của Hồ trong phong trào nông dân. Số tiền này ít nhất đă trợ giúp cho các học viên đang theo học tại Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân [115]. Vào thời điểm này có thể Hồ cũng đă nhận được quyên góp từ những người yêu nước giàu có ở miền nam Việt Nam. Một ghi chú của Sở Liêm Phóng ngày 12 tháng 8 / 1927 viết rằng Diệp Văn Kỳ, một chủ báo tại Sài G̣n và cũng là học tṛ của thân phụ Hồ Chí Minh, đă thường xuyên gửi tiền đến một trung gian tại Quảng Châu mỗi khi Hồ Chí Minh yêu cầu ông đóng góp [116]. Sớm hơn nữa là trong năm 1925 Lâm Đức Thụ báo cáo rằng Hồ đă nghĩ đến việc t́m đến người bạn cũ ở Paris là Khánh Kư (Nguyễn Đ́nh Khánh‐ND), giờ là một nhà nhiếp ảnh tại Sài G̣n để xin tiền. Hồ cũng đề cập đến Bùi Quang Chiêu, nhà lănh đạo giàu có của Đảng Lập Hiến, như là một người bảo trợ đầy tiềm năng [117]. Nếu nguồn tài chính từ miền nam đă thực sự lưu chuyển vào năm 1926, rơ ràng là Hồ nghĩ rằng không dại ǵ tiết lộ điều ấy cho người Nga biết.

    Hồ tường thuật trong báo cáo tháng 6 1926 rằng kể từ khi đặt chân đến Quảng Châu, ông đă thực hiện được những việc sau cho phong trào cách mạng Đông Dương: (1) thành lập một hội bí mật; (2) thành lập một tổ chức nông hội của những người Việt sống tại Xiêm; (3) lựa chọn một nhóm ʺtiên phongʺ từ con em của nông dân và công nhân (một số trong họ đến từ Xiêm) để đào tạo tại Quảng Châu; (4) tổ chức một nhóm phụ nữ cách mạng gồm 12 người; và (5) thành lập một lớp tuyên truyền ở Quảng Châu cho những học viên được bí mật đưa sang từ Việt Nam và Xiêm. Đến lúc này, lịch sử của Thanh Niên Hội mà ta đă biết được từ những hồi kư của các nhân vật người Việt khác nhau đă trùng với những ǵ chúng ta rút ra từ báo cáo của Hồ [118]. Hồ gửi báo cáo này khi ông chuẩn bị cho nhóm học viên thứ hai đến Quảng Châu cho khoá đào tạo bắt đầu vào tháng 9 1926. Khoá thứ nhất, Hồ báo cáo, có 10 học viên và ông hy vọng sẽ có khoảng 30 người đến học khoá thứ hai.

    Những người tham dự khoá học thứ hai của Thanh Niên Hội rời Việt Nam để đi Quảng Châu trong tháng 7 và 8 1926. Có ít nhất 3 người trong số họ xuất thân từ một tổ chức chính trị thành lập tại Vinh do những cựu binh của thời kỳ 1907‐8 từng bị giam cầm tại Côn Đảo (Poulo Condor

    ‐ ND). Khi vừa thành lập vào năm 1925, nhóm này lấy tên là Phục Quốc, dựa trên tổ chức của Phan Bội Châu. Được đổi thành Việt Nam Cách Mạng Đảng vào năm 1926, rồi thành Tân Việt vào năm 1928. Tổ chức này, bắt nguồn từ vùng quê của Hồ, bao gồm đa phần là những trí thức Nho học và giáo viên trẻ, đă cung cấp những nhân vật lănh đạo quan trọng nhất cho đảng cộng sản trong những ngày đầu thành lập. Lănh tụ chính thức đầu tiên khi đảng cộng sản thành lập vào năm 1930 là Trần Phú, một giáo viên và là một trong những thành viên sớm nhất của Phục Quốc. Một thành viên kỳ cựu khác là Hà Huy Tập, một giáo viên từ Hà Tĩnh, đă trở thành người đứng đầu không chính thức của đảng trong thời gian 1935 đến tháng 3 1938. Tại sao các thành viên Phục Quốc được chọn lựa vào đội ngũ thân tín nhất của Thanh Niên là một câu hỏi lư thú. Đó là sự tổng hợp của quan hệ gia đ́nh thân cận, với cả hai nền học vấn Nho và Pháp, cùng với tâm lư bất măn đối với chế độ thuộc địa làm họ trở thành những thành viên giá trị của Hồ. Ví dụ như Trần Phú, xuất thân từ một gia đ́nh đă chịu nhiều đau khổ dưới sự cai trị của Pháp. Ông là con của một vị quan mà khi đang tại chức tại Quảng Ngăi vào năm 1908 đă tự sát thay v́ bắt buộc nông dân địa phương hợp tác với lính Pháp ruồng bố những người chống thuế [119]. Những thành viên trẻ hơn của Phục Quốc là những thanh niên bất măn từ những vùng quê nghèo khổ, đă sẵn sàng đón nhận những tư tưởng cách mạng mà Hồ mang đến. Không c̣n nghi ngờ ǵ về ưu thế của những thành viên Thanh Niên kỳ cựu xuất thân từ phía bắc của miền trung Việt Nam, kể cả uỷ ban trung ương từ Quảng Châu, đă tạo thành một tổ chức giống như là một hội đồng hương.

    Những thành viên mới được Lê Duy Điếm đưa đến Quảng Châu. Lê Duy Điếm là bạn học cũ của Trần Phú, xuất thân từ Hà Tĩnh. Vào nửa cuối năm 1925, ông được Đảng Phục Quốc giao cho nhiệm vụ liên lạc với những người Việt tại Quảng Châu để bàn về phối hợp hành động. Trước khi quay lại Vinh ông đă gia nhập Thanh Niên Hội [120]. Việc này cũng xảy ra với hầu hết các thành viên của Phục Quốc/Cách Mạng Đảng sau khi qua Quảng Châu: Trần Phú và học tṛ của ḿnh là Nguyễn Ngọc Ba quay về sau ba tháng học tập và đă trở thành thành viên của Thanh Niên. (Như ta đă thấy ở trên, Lê Hồng Sơn đă đưa Nguyễn Ngọc Ba sang học khoá thứ nhất; có lẽ ông đă tham dự cả hai khoá học). Trong chuyện do Phan Trọng Quảng kể về chuyến đi, có những người khác từ miền trung Việt Nam bao gồm Nguyễn Văn Lợi, Lê Mạnh Trinh, Trần Văn Đắc, Nguyễn Văn Khang và Quảng. Hai thành viên của Phục Quốc là Tôn Quang Phiệt và Hoàng Văn Tùng đă không đến được Quảng Châu v́ họ đă bị bắt khi bị tuột lại phía sau tại biên giới. Măi cho đến tháng 9, sau khi đă di chuyển bằng đường thuỷ, xe lửa và đi bộ với nhiều tuần lễ chờ đợi ở mỗi trạm, cả nhóm đă đến được trụ sở của Thanh Niên tại Quảng Châu. Ở đó họ đă gặp những học viên đến từ Bắc Kỳ và Xiêm. Tất cả có khoảng 20 học viên đă đến Quảng Châu, trong đó có cả vị thủ tướng tương lai là Phạm Văn Đồng, ông bị bệnh và phải tham gia khoá học sau [121].

    Những bài giảng căn bản với những chủ đề bao gồm từ sự tiến hoá của loài người, địa lư thế giới và lịch sử Việt Nam đến lư luận Marxist‐Leninist, Thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên và thuyết đấu tranh bất bạo động của Gandhi do Hồ Chí Minh đứng lớp. Những giảng viên bên ngoài đôi khi cũng được thỉnh giảng. Phan Trọng Quảng nhớ có cả Chu Ân Lai, Bành Bái và Hà Hương Ngưng (He Xiangning ‐ ND), vợ goá của Liêu Trọng Khải. Borodin và một phụ nữ Nga cũng đến thuyết giảng. Vào lúc bế mạc của khoá giảng vào tháng 11, Phan Trọng Quảng kể rằng có năm học viên được bí mật chọn để kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên Cộng Sản Đoàn. Năm người này là Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng B́nh và bản thân Phan Trọng Quảng, tất cả họ đều là người Trung Kỳ.

    Khoá đào tạo thứ 3 bắt đầu vào cuối năm 1926 và chấm dứt sau Tết Nguyên Đán 1927. Hoàng Văn Hoan, một thành viên khác từ Nghệ An sau này đă trở thành nhân vật quan trọng trong đảng cộng sản, đă viết trong hồi kư của ḿnh rằng đă có thêm 20 học viên mới, một số trong họ vừa tham gia vụ băi khoá tại Nam Định [122]. Trong nhóm miền bắc này có Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính, và Nguyễn Đức Cảnh sau này đă trở thành những người đứng đầu của Thanh Niên Hội tại Bắc Kỳ [123]. (Hoan không nhắc đến số học sinh từ trường Bảo Hộ Lycée, c̣n có tên là Trường Bưởi ở Hà Nội. Đỗ Ngọc Du và một số sau này là học viên của Thanh Niên đă bị đuổi khỏi trường này vào năm 1926 [124]). Trong những giảng viên Hoan có kể đến Bành Bái và Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi ‐ ND), chuyên giảng về phong trào công nhân. Thường th́ Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn hoặc Lâm Đức Thụ thông dịch cho những giảng viên Trung Quốc, nhưng Hồ Chí Minh có thể thay thế hẳn nếu họ vắng mặt, Hoan kể [125]. Ông cũng nhớ lại những vai diễn trong các vở kịch. Hồ, được những học viên biết đến với cái tên là Vương, thường đóng vai công nhân hoặc nông dân [126]. Hoan không đề cập đến bao nhiêu học viên đă được kết nạp vào đội ngũ cốt cán của tổ chức cộng sản, nhưng nếu con số này cũng ít như ở khoá học trước th́ số thành viên cộng sản trong Thanh Niên Hội vẫn c̣n rất nhỏ. Huỳnh Kim Khánh (nhà sử học ‐ND) cho biết con số vào khoảng 24 thành viên của Thanh Niên Cộng Sản tính đến tháng 5 1929, nhưng con số này rơ ràng là chỉ đề cập đến số thành viên đang sống tại Trung Quốc lúc ấy [127].

    Tổng số bao nhiêu người Việt đă kinh qua trường đào tạo của Thanh Niên th́ khó mà xác định được. Tôi chỉ đă t́m thấy bằng chứng chắc chắn của 3 đợt học viên chính thức; một nhóm thứ 4 đang sắp xếp tại Quảng Châu vào tháng 3 1927 nhưng bị gián đoạn v́ cuộc đảo chính tháng 4 [128]. Hồ báo cáo với QTCS khi ông quay lại Moscow vào tháng 6 1927 rằng 75 thanh niên Việt Nam đă được đào tạo tại ʺtrường tuyên truyềnʺ của ông ở Quảng Châu [129]. Hồi kư của một người Việt viết năm 1992 lại cho rằng có đến 10 khoá học với tổng cộng khoảng 250 ‐ 300 học viên [130]. Một bài viết của cùng tác giả trên vào năm 1990, đă trích dẫn một tài liệu từ Viện Lịch Sử Quảng Đông rằng có tổng cộng trên 300 người Việt đă tham gia vào những hoạt động cách mạng khác nhau tại Quảng Đông từ 1924 đến 1927 [131]. Con số này bao gồm cả những người không gia nhập đảng cộng sản. Con số này cũng có thể bao gồm những học sinh theo học các khoá học chính thức vào cuối năm 1927 đến 1928, sau khi Hồ đă rời khỏi Trung Quốc. Hơn nữa, có thể nó phản ánh thực tế là những lớp đào tạo trên có nhiều cấp bậc và độ dài khác nhau. Ví dụ như chúng ta không biết được đă có những lớp dành riêng cho phụ nữ hoặc những người ʺtiên phongʺ mà Hồ đă kết nạp hay không, hoặc là cho những công nhân có học vấn thấp như Nguyễn Lương Bằng. Những nhà sử học Hà Nội dạo gần đây đă cẩn trọng hơn trong việc nâng cao tổng số học viên của Thanh Niên. Họ không thể xác nhận được con số 75 người mà Hồ Chí Minh đưa ra trong tháng 4 1927, ngay cả nếu tính luôn những học viên được biết là đă theo học các lớp sau 1927 [132].

    Rơ ràng là nhóm Việt kiều đông nhất đă theo học tại Học Viện Hoàng Phố, đến đầu năm 1927 đă có 53 học viên người Việt [133]. (Vào thời điểm này, một bộ phận dạy tiếng Việt đă được thành lập tại Hoàng Phố ‐ trước 1927, những người Việt theo học như người Trung Quốc [134]) Nhưng chúng ta không biết bao nhiêu trong bọn họ đă học được đầy đủ các lớp của Thanh Niên. Như Lâm Đức Thụ đă chỉ ra, ʺNguyễn Ái Quốc chỉ thâu nhận những học viên thận trọng nhất và chỉ giảng dạy đầy đủ cho những ai dám hy sinh cho lư tưởng cách mạng” [135] Dường như những học viên miền Bắc theo học những lớp đào tạo của ông đă không trở thành đảng viên cộng sản nhiều như những người Trung Kỳ, có thể v́ họ được thâu nhận bởi Nguyễn Hải Thần hoặc Lâm Đức Thụ.

    Một số giáo án của Thanh Niên được in trong tập Đường Kách Mệnh năm 1927, có thể là do Hồ thu thập trong thời gian ở Nga, và có nội dung tương tự như những bài giảng chính trị của các chính uỷ cộng sản tại Học Viện Hoàng Phố trước khi họ bị loại khỏi trường vào tháng 3 1926. Tập tài liệu này trở thành thánh kinh của những thành viên cộng sản trẻ trong giai đoạn 1926 và 1927, Hà Huy Tập đă viết vào năm 1932. ʺHầu như chúng tôi đă học thuộc ḷng,ʺ ông kể [136].

    Nó bao gồm những định nghĩa về các h́nh thức cách mạng, những phong trào quốc tế, công đoàn, nông hội và hợp tác xă. Nó thấm nhuần khái niệm về hai giai đoạn cách mạng như đă vạch ra trong Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin. Tập tài liệu đă định nghĩa hai giai đoạn cách mạng này là cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Trong khi cách mạng dân tộc không đề cập đến vấn đề phân biệt giai cấp, cách mạng thế giới sẽ do giai cấp nông dân và công nhân lănh đạo và sẽ dẹp bỏ chủ nghĩa tư bản trên thế giới [137]. Đến năm 1932 th́ khái niệm hai giai đoạn cách mạng đă bị Quốc tế Cộng Sản loại bỏ và Hà Huy Tập cũng đă viết bài lên án tính ngây thơ và khó hiểu của cương lĩnh Thanh Niên. Cụ thể là ông đă phê phán lư luận cho rằng: ʺtrong giai đoạn đấu tranh phản đế, ta phải liên kết với mọi tầng lớpʺ. ʺLư luận kiểu này chẳng có ǵ quan trọng hơn là sự thoả hiệp giai cấp...ʺ, ông nói [138].

    Đến tháng 2 1927 công việc tuyển người và đào tạo của Hồ cuối cùng đă có tiến bộ. Thành công của Hồ trong việc chuyển hoá những đảng viên Tâm Tâm Xă đă được dùng làm kiểu mẫu trong quan hệ của ông với Phục Quốc/Cách Mạng Đảng. Bước kế đến là tạo cho Thanh Niên một chỗ dựa chính thức, đó là đạt được sự công nhận từ QTCS, soạn thảo cương lĩnh và t́m kiếm nguồn tài trợ vững vàng. Việc đoàn đại biểu của QTCS đến Quảng Châu vào tháng 2 1927 đă tạo cho Hồ những cơ hội mà ông đang t́m kiếm. Jacques Doriot, một nhà hoạt động về phong trào thanh niên cộng sản mà Hồ đă gặp tại Đại Hội 6 ở Moscow, có mặt trong đoàn cùng với Tom Mann từ Anh Quốc và Earl Browder người Mỹ. Doriot cũng đă trở thành chủ tịch Phân Bộ Thuộc Địa của ĐCS Pháp và cũng là nghị viên Quốc Hội Pháp. Với vai tṛ là tuyên truyền viên và thông dịch viên, Hồ đă theo phái đoàn thăm viếng Quảng Châu và chiếm được sự ủng hộ của Doriot về những công tác của ông về Việt Nam [139]. Vai tṛ của Doriot rơ ràng là đă có liên quan đến việc QTCS quyết định thành lập một ban bí thư mới cho Pháp, các thuộc địa của Pháp, Bỉ, Ư và Thụy Sĩ vào tháng 3 1926. Vào thời điểm ấy, nhiệm vụ chủ yếu của việc xây dựng phong trào cộng sản tại Đông Dương đă được chính thức giao cho ĐCS Pháp [140]. Vào ngày 3 tháng 3 1927 Doriot, Hồ (kư tên là Lee) và Volin đại diện cho nhóm cố vấn Nga, đă thảo ra một bản ghi nhớ trong đó đồng ư cho ʺLeeʺ đệ tŕnh một yêu cầu ngân sách cho QTCS, trong khi đó Doriot sẽ thảo Luận Cương cho Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đảng cùng với nghị quyết hoạch định những công việc tương lai của tổ chức này [141].

    Doriot đă báo cáo trong một bức thư giải thích cho Cục Đông Phương rằng Thanh Niên Hội đă tạo dựng được những chi bộ trên khắp Việt Nam: một tổ tại nam Kỳ, hai tại Trung Kỳ, sáu tại Bắc Kỳ và bốn tại Xiêm. ʺChắc chắn là họ vẫn c̣n nhiều yếu kém,ʺ ông viết: ʺtrước hết là họ không có một cương lĩnh chính thức, thứ hai là khuynh hướng nổi bật của âm mưu bè phái. Hoạt động của họ giống như là một hội kín hơn là một tổ chức quần chúng cách mạng. Ví dụ như hầu hết những thành viên của họ đều nằm tại Quảng Châu. Điều này cho thấy mối liên hệ giữa họ với nhân dân vẫn c̣n yếu. Dù vậyʺ, ông tiếp tục, ʺmột số đầu mối đă được thiết lập và đă có những cố gắng trong việc xây dựng một tổ chức rộng lớn hơn nhằm vào học sinh, thương nhân và nông dânʺ [142]. Doriot giải thích rằng nghị quyết của ông về hoạt động đảng đă đưa ra những điểm sau: (1) sự cần thiết phải chuyển hoá hội kín thành tổ chức rộng răi; (2) mở rộng tổ chức đến số đông quần chúng trong nước; (3) tham gia nhiều hơn nữa với t́nh h́nh chính trị Việt Nam; và (4) thành lập các công đoàn công nhân, nông hội, hội sinh viên cũng như các hiệp hội cho các thành phần dân chúng khác [143].

    Luận cương của Doriot ‐ dưới dạng một lá thư gửi cho ʺThanh Niên Cách Mạng Đông Dươngʺ ‐ cho thấy rơ là ông nh́n Thanh Niên Hội như là một đảng quốc gia với những mục đích tương tự như của Trung Quốc Quốc Dân Đảng: ʺNhân dân Đông Dương ‐ như tổ chức các bạn đă tuyên bố ‐ chỉ có thể đi theo con đường duy nhất nếu họ muốn thay đổi t́nh h́nh: đó là con đường đấu tranh giành độc lậpʺ [144]. Ông nhấn mạnh rằng giai cấp nông dân và công nhân là những lực lượng tiên yếu trong cuộc đấu tranh này. Nhưng ông cũng đă ủng hộ mạnh mẽ cho việc thành lập một mặt trận thống nhất: ʺĐừng quên rằng dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, tất cả mọi người (công nhân, nông dân, tiểu thương và trí thức), ngoại từ một số rất nhỏ của thành phần đầu cơ trục lợi, đều có quyền lợi trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Đừng nên bỏ qua một nỗ lực nào để kêu gọi và tổ chức họ từng ngày trong cuộc tranh đấu này. Đừng nên từ chối bất cứ sự hợp tác nào của họʺ[145]. Trong suốt bài viết, ông không hề nhắc đến chủ thuyết cộng sản mặc dù đă dẫn ra ví dụ về cuộc cách mạng Nga như là một kiểu mẫu của phong trào phản đế v́ nó đă giải phóng nhân dân bị áp bức ra khỏi sự thống trị của Sa Hoàng [146]. Việc QTCS mong muốn uốn nắn Thanh Niên Hội thành một đảng quốc gia cũng đă được nhấn mạnh bằng báo cáo ngày 17 tháng 3 1927 của Lâm Đức Thụ: ʺGần đây những người cách mạng Pháp và Trung Quốc đă bắt đầu khuyến khích ʺles amisʺ (những người bạn ‐ ND) thành lập một đảng tương tự như đảng quốc gia Trung Quốc, với cương lĩnh, chính sách với những bộ phận tuyên truyền và thông tin rộng khắp. Những quy chế của đảng sẽ được soạn thảo sớmʺ [147].

    Hồ đệ tŕnh ngân sách của năm cho QTCS với tổng số là 40.000 đồng tiền Trung Quốc. Một nửa số tiền này sẽ dùng để trang trải chi phí đi lại và đào tạo tại Quảng Châu cho 100 học viên tương lai. Ngoài ra ông c̣n yêu cầu 1.500 đồng cho 10 tuyên truyền viên làm việc toàn thời gian trong một năm. Chi phí xuất bản, thông tin, thành lập một cửa tiệm nhỏ để làm vỏ bọc cho việc liên lạc chiếm hết 8.500 đồng. Chi phí vận chuyển 100 học viên khác đến học tại Hoàng Phố tốn khoảng 5.000 đồng nữa. Theo giải thích của Hồ trong ghi chú đính kèm th́ Hoàng Phố đă hứa đào tạo 100 người này nếu chi phí đi lại của họ được lo liệu [148]. 5.000 đồng c̣n lại được dự trữ cho những trường hợp bệnh tật hoặc cấp bách.

    Đến tháng 3 1927, với sự hỗ trợ của Doriot và hai nhóm học viên mới đă được đưa về Việt Nam, tổ chức của Hồ Chí Minh xem ra đă có thể tự phát triển. Đă có những thương lượng để chính thức liên kết với đảng Phục Quốc tại trung phần Việt Nam, đảng này từ giữa năm 1926 đă đổi tên thành Cách Mạng Đảng. Hai nguồn tài liệu về việc thương lượng đă mâu thuẫn với nhau về việc này có được theo đuổi thật ḷng hay không. Hà Huy Tập đă viết vào năm 1932 ở Moscow rằng Lê Duy Điếm quay về Việt Nam vào tháng 3 / 1927 với chỉ thị từ Quảng Châu để chuẩn bị cho việc hợp nhất. Điếm tham dự các cuộc họp địa phương của hai đảng tại miền bắc và trung Việt Nam và sau đó là một hội nghị hợp nhất toàn quốc tại Huế vào tháng 7. Tập viết rằng lần đầu tiên cả hai đảng đă nhận được cương lĩnh và quy chế trên giấy tờ, trong đó bao gồm những qui chế cho các công đoàn, nông hội, hội sinh viên và những hiệp hội khác [149]. Tiến triển của những sự kiện có thể là hệ quả hợp lư của việc Doriot đến thăm Quảng Châu. Nhưng mọi việc không trôi chảy như Hồ hy vọng. Theo Hà Huy Tập, hai đảng đă quyết định chấp nhận danh xưng của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, vẫn được biết đến như Thanh Niên hoặc VNTNCMĐCH. Hai tổ chức sẽ thực hiện việc thống nhất từ trên xuống, hợp nhất tất cả những tổ đảng dưới một uỷ ban trung ương lâm thời. Các chi uỷ lâm thời cũng đă được thành lập tại miền bắc và miền trung, việc c̣n lại là thành lập một chi uỷ lâm thời Nam Kỳ. Nhưng những thành viên của Thanh Niên từ miền Nam, v́ không tham dự được hội nghị toàn quốc ở Huế, đă không chịu thừa nhận quyết định của hội nghị tháng 7. Đến thời điểm sau tháng 7 1927, Hà Huy Tập viết rằng miền nam đă có số thành viên Thanh Niên đông nhất trong cả nước. Đây là một thay đổi lớn so với t́nh trạng đầu năm 1927, khi Doriot báo cáo là chỉ có một chi bộ Thanh Niên thành lập tại Nam Kỳ, và đă cho thấy nỗ lực xây dựng tổ chức này thành một đảng quần chúng. Tập tự nhận rằng sau khi bị đuổi việc dạy học ở Vinh, ông đă vào Sài G̣n vào tháng 3 - 1927 để khởi sự những công tác chính trị như tổ chức các lớp học buổi tối cho công nhân [150].
    Last edited by alamit; 12-02-2013 at 12:30 PM.

  10. #50
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 2
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P6


    Một nhóm khoảng 10 người lưu vong từ Nam Kỳ hoặc Trung Kỳ, chủ yếu là dân lao động, đă đến Quảng Châu vào tháng 5 hoặc đầu tháng 6 1927, theo lời của Lâm Đức Thụ [151] Nhóm này có lẽ bao gồm Tôn Đức Thắng, một nhà tổ chức công đoàn và chủ tịch tương lai của Bắc Việt Nam. Ông đă từ Quảng Châu về Nam Kỳ vào khoảng nửa sau năm ấy [152]. Như ta đă thấy, cũng có một nhóm 9 người miền nam được sự bảo trợ của Quốc Dân Đảng đă đến Quảng Châu vào tháng 7. Sự phát triển của Thanh Niên tại miền nam có lẽ là do phối hợp của tổ chức Nam Kỳ ‐ Cam Bốt trực thuộc ĐCS Trung Quốc. Tài liệu của Việt Nam cho rằng Tôn Đức Thắng đă làm công tác tổ chức công nhân Sài G̣n từ 1925, v́ thế rất có thể là ông đă làm việc với uỷ ban nội thành của Trung Quốc này [153].

    Một bằng chứng khác cho thấy Thanh Niên đă có nỗ lực trong việc cắm rễ vào miền nam Việt Nam vào năm 1927. Hà Huy Giáp, em của Hà Huy Tập, nhớ lại trong hồi kư của ḿnh rằng ông đă dời vào Sài G̣n vào năm 1926 để t́m đường đi Pháp. Nhưng vào đầu năm 1927, Nguyễn Văn Lợi và Phan Trọng B́nh, hai thành viên của Thanh Niên Cộng Sản từ khoá đào tạo thứ hai về đến Sài G̣n và đă thuyết phục ông ở lại làm việc cho Thanh Niên. Hai học viên từ Quảng Châu này lưu lại miền nam và làm nghề giáo [154]. Giáp cũng cho thấy mối quan hệ rất quan trọng giữa những nhà hoạt động miền nam và miền trung:ông cho rằng Nguyễn An Ninh bị giam tại Sài G̣n vào năm 1926 cùng với Tú Kiên, một trong những tù nhân Côn Đảo đă tham gia vào âm mưu thành lập đảng Phục Quốc năm 1818. Giáp kể rằng cả hai người đều theo đuổi những tư tưởng của Hồ Chí Minh. Theo lời Giáp th́ Nguyễn An Ninh đă bàn giao ʺnhiệm vụʺ lại cho Tú Kiên v́ Tú Kiên ra tù trước. Tú Kiên ra lại Vinh và được Lê Huân, một bạn tù Côn Đảo ngày xưa, chính thức kết nạp vào Cách Mạng Đảng. Sau đó ông quay lại miền nam, với bề ngoài là t́m kiếm thêm thành viên cho Cách Mạng Đảng, nhưng có thể đă bí mật làm việc cho Thanh Niên [155]. Một ghi chú của Sở Liêm Phóng vào tháng 5 1928 đă nói về Tú Kiên (Nguyễn Đ́nh Kiên) như là một liên lạc viên cho người Việt tại Quảng Châu và Sài G̣n [156]. Khi ông bị bắt lại vào năm 1929, người Pháp đă t́m thấy h́nh của Marx và Lenin trong nhà ông.

    Những cuộc hợp nhất đảng phái khác có thể đă được khởi sự từ tháng 3 theo đề nghị của Doriot nhằm tăng số lượng thành viên của Thanh Niên ‐ Ví dụ như một số thành viên của ʺĐảng Thanh Niênʺ (c̣n có tên là Jeune Annam (Thanh Niên An Nam ‐ ND)) thành lập vào tháng 3 1926, đă trở thành chi nhánh của Thanh Niên. (Hai tên đảng giống nhau chỉ là do t́nh cờ). Vào giữa năm 1926 Hồ Chí Minh đă gửi một báo cáo đầy lạc quan đến QTCS về nhóm Jeune Annam này v́ nó đă rất thân cận với Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, và cả hai người đều đă từng làm việc tại Paris trong Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế [157]. Sự liên hệ của họ với Thanh Niên, có lẽ là qua ĐCS Pháp th́ cần phải t́m hiểu thêm. Nh́n chung, chúng ta không biết được nhiều về sự thật của những tiếp xúc giữa Quảng Châu và những nhà cách mạng miền nam trong giai đoạn này. Nhưng điều chắc chắn là đến giữa năm 1927 những nhà hoạt động từ Trung phần Việt Nam đă bắt đầu xây dựng những tổ chức có liên hệ chính thức với những nhân tố đă có sẵn trong mạng lưới quen biết cá nhân.

    Kế hoạch hợp nhất với Thanh Niên vào tháng 7 / 1927 đă gây nên những xáo trộn trong Cách Mạng Đảng: theo Hà Huy Tập th́ măi đến tháng 7 / 1928 nó vẫn duy tŕ cái tên Thanh Niên cùng với những quy chế và phương pháp tổ chức [158]. Theo quan điểm của ông th́ hai đảng này không mâu thuẫn về nguyên tắc, nhưng bị tŕ trệ v́ những dị biệt cá nhân khi đề cập đến những vấn đề tổ chức.

    Một cái nh́n phức tạp hơn về mối quan hệ giữa hai đảng đă được đề cập đến trong hồi kư của Hoàng Đức Thi, một thành viên Cách Mạng Đảng, do Sở Liêm Phóng phát hành vào năm 1933. Ông thừa nhận rằng trong năm 1927, đảng ông đă tiếp thu phương pháp tổ chức kiểu chi bộ theo kiểu mẫu của Thanh Niên, và họ giả vờ như hai đảng đă hoà nhập dưới sự lănh đạo của uỷ ban trung ương Thanh Niên tại Quảng Châu [159]. Ông giải thích hành vi lập lờ này là nhằm lôi kéo lại những thành viên đă sang học ở Trung Quốc. Nhưng ta có thể ngầm hiểu ông không muốn nói thật về giai đoạn đầy hiểm nguy này trong quá khứ chính trị của ḿnh. Năm 1933 người bạn cũ của ông là Trần Phú đă trong tù tại Sài G̣n, và bản thân Hà Huy Tập một thành viên quan trọng của Cách Mạng Đảng từ năm 1927, đang trên đường trở về từ Moscow và trở thành một thế lực mạnh mẽ trong hàng ngũ lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong khi Hoàng Đức Thi không hoàn toàn chấp nhận việc kết hợp hai đảng nhưng sự tồn tại của nó là có thật. Theo Thi th́ sự đổ vỡ của những thảo luận cho việc hợp nhất là do lỗi của các thành viên Thanh Niên v́ họ đă phản đối việc hợp nhất những chi bộ địa phương với miền trung và miền bắc[160]. Cả ông và Hà Huy Tập đều đồng ư rằng Vương Thúc Oánh đă đóng vai tṛ chính trong sự đổ vỡ này.

    T́nh trạng phức tạp này cũng có thể là do Hồ Chí Minh ưa chuộng chiến lược nắm giữ phong trào từ bên trong. Hà Huy Tập đă kể lại cái mà ông gọi là ʺnhững ví dụ điển h́nhʺ của việc hợp tác giữa hai đảng: ʺĐồng chí H. của Thanh Niên cũng là phó bí thư của uỷ ban trung ương Cách Mạng Đảng; đồng chí Nguyễn Sĩ Sách, một đại diện trung gian của uỷ ban trung ương Cách Mạng Đảng, cũng là thành viên của chi bộ Thanh Niên tại Trung Kỳ” [161] Tập không cho biết là bản thân ông có là thành viên lưỡng đảng hay không, mặc dù ông đă nói rơ rằng ông là một người cộng sản (ông cũng ở chung nhà với ʺmột vài thành viên của Chi Uỷ Nam Kỳ của Thanh Niênʺ]. Hồi kư của Hoàng Đức Thi xác nhận là tuy rằng những học viên Thanh Niên không có liên hệ trước đây với Cách Mạng Đảng nhưng họ đă ʺxin được phục vụʺ cho đảng này sau khi từ Quảng Châu trở về [162]. Ta có thể hiểu rằng họ đă làm theo chỉ thị của giới lănh đạo Thanh Niên ở Trung Quốc.

    Sự tan ră của Mặt Trận Thống Nhất

    Tiến tŕnh của công tác tổ chức mà Doriot khi sang thăm đă tŕnh bày cho Thanh Niên đă bị giảm thiểu vào thời gian thương lượng hợp nhất với Cách Mạng Đảng bị thất bại. Vừa lúc công cuộc xây dựng đảng và vận động hậu thuẫn từ CSQT của Hồ Chí Minh đang bắt đầu cho kết quả th́ mặt trận thống nhất tại Quảng Châu th́nh ĺnh tan ră. Cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch ngày 12 tháng 4 1927 đă phá vỡ phong trào công nhân cánh tả tại đây và đẩy ĐCS Trung Quốc vào hoạt động bí mật. Những diễn biến tương tự cũng đă xảy ra tại các thành phố của Trung Hoa Dân Quốc ‐ việc bắt bớ hàng loạt và hành h́nh những nhà hoạt động công đoàn đă bắt đầu khoảng ngày 14 tháng 4 tại Quảng Châu. Lúc ấy Hồ Chí Minh hoặc đă chạy lên miền bắc hoặc đang trú ẩn tại lănh sự quán Nga. Ông giải thích với QTCS sau khi quay lại Moscow rằng người Nga duy nhất c̣n lại Quảng Châu ʺđă không giúp đỡ hoặc cố vấn được ǵ cho chúng tôi, hay ít ra là tiếp tục trả lương thông dịch cho tôi v́ tôi hoàn toàn không thể t́m được việc làm... Tôi không c̣n cách nào khác là để ḿnh bị bắt hoặc tiếp tục công tác tại Xiêm sau khi quay lại Moscowʺ [163]. Mật thám Constantin báo cáo rằng Hồ và những người cộng sản Việt Nam khác đă bị các thành viên của nhóm yêu nước đối lập tại Quảng Châu tố giác. Nhóm này do Tam Kam Say (Dam Giam Tay) [164] đứng đầu, có sự tham gia của Nguyễn Hải Thần, là một tổ chức có tư tưởng cách mạng dân tộc thuần tuư tại Quảng Châu. Hai đồng chí của Lư Thụy đă bị bắt giữ, cùng với bốn hoặc năm người Việt khác vừa từ Bắc Kỳ đến, theo báo cáo của Konstantin. Lâm Đức Thụ đă phải liều thân đứng ra để bị bắt chung với Hồ Tùng Mậu nhằm che dấu vỏ bọc mật thám của ḿnh. Ông viết cho liên lạc viên Sở Liêm Phóng vào ngày 13 tháng 5 1927 rằng ông đă bị giam từ ngày 15 tháng 4. ʺSự hiện diện của Hồ Tùng Mậu là một cản trở trong việc viết và chuyển thư từ của tôi,ʺ ông giải thích. ʺNgài có hiểu được ḷng tôi không, thưa Ngài? Vào lúc này tôi vẫn chưa manh động v́ tôi luôn đặt ḷng tin vững chắc của ḿnh vào Ngài.ʺ Đến giữa tháng 6 họ đă được trả tự do, và Lâm Đức Thụ lại tiếp tục công việc mật báo về những nhà cách mạng [165].

    Mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần trở nên xấu hẳn khi căng thẳng trong mặt trận thống nhất ngày càng tăng. Nguyễn Hải Thần trở nên gần gũi hơn với nhóm kháng chiến đối lập, những người này chú trọng hơn về hành động quân sự hơn là Hồ. Như Lâm Đức Thụ đă tường thuật Tam Kam Say và Phạm Nam Sơn ʺrất chuyên nghiệp trong việc tiêu thụ tiền giả và buôn lậu thuốc phiện và đă lợi dụng Nguyễn Hải Thần để thành lập đảng nàyʺ [166]. Lâm Đức Thụ báo cáo vào cuối tháng Giêng rằng Nguyễn Hải Thần đang thảo luận với Tam Kam Say và những thành phần khác để thành lập một đảng mới [167]. Đến tháng 3 Thụ báo cáo rằng Lư Thụy đă chấm dứt việc tham khảo ư kiến với Hải Thần [168]. Lâm Đức Thụ cũng nói rằng việc điều hành những vấn đề liên quan đế tài chính một cách quá bí mật của Hồ đă đánh mất ḷng tính nhiệm của những đồng chí khác: ʺHầu như mọi chi phí của tập thể đều do Lư Thụy thanh toán theo một phương pháp rất tài t́nh: ông đưa tiền cho Hồng Sơn hoặc Tùng Mậu để họ chi trả bằng ngân khoản của ḿnh... Cách này làm cho những người Trung Kỳ tin cậy lẫn nhau và không tin tưởng vào những đồng hương đến từ những vùng khác trong khối Liên Hiệp Đông Dương, và việc không tin tưởng nhau này đă đẩy Hải Thần và Phạm Nam Sơn thành lập tổ chức riêng của họ.ʺ (tiền này là từ chính phủ Quảng Châu chi trả, Thụ viết, dưới sự yêu cầu một tuỳ viên Nga [169]).

    Dù thế hai nhóm này vẫn tiếp tục hợp tác trong khuôn khổ của Học Viện Hoàng Phố. Đến tháng 2 1927 Thụ cho rằng đă có 53 người Việt theo học tại Hoàng Phố kể từ tháng 12 năm trước.

    Những học viên tốt nghiệp trong đó có Lê Hồng Sơn và Lê Như Vọng (Lê Thiết Hùng) được chọn để hướng dẫn các học viên người Việt mới, và một bộ phận đặc biệt dạy tiếng Việt đă được lập riêng cho họ [170]. Sự thật là Thanh Niên vẫn c̣n bám lại tại Quảng Châu sau cuộc đảo chính tháng 4 bằng cách giữ ǵn quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc không cộng sản bao gồm những người cánh tả trong Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Trường hợp những thành viên như Trương Văn Lềnh, ông trà trộn hoàn toàn vào tổ chức đối lập, theo mật báo của Lâm Đức Thụ cho Sở Liêm Phóng vào ngày 8 tháng 4 [171]. Trương Văn Lềnh đă t́m cách giữ được việc làm trong chính quyền Quảng Châu, đầu tiên là một cai đội và sau đó là đại đội trưởng cảnh sát đến cuối tháng 10 1927. Sau đó ông phục vụ trong quân đội của tướng Quốc Dân Đảng Tương Phát Khuệ[172] Sự nghiệp chính trị của Lê Hồng Sơn th́ cũng dính dáng một phần đến Trương Phát Khuê ‐ ông làm việc dưới quyền của Trương từ 1926 khi đóng quân tại đảo Hải Nam.

    Tung tích của Hồ Chí Minh vào giai đoạn ấy là nguồn gốc của những đồn đăi ít nhất là cho đến tháng 12 1927. Có thể ông đă chỉ thị cho Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu để họ đưa ra những tin tức sai lạc trong cộng đồng Việt kiều. Ví dụ như Konstantin đă báo cáo vào ngày 1 tháng 5 rằng Lư Thụy đă bị bắt cùng với những thành viên khác của Thanh Niên. Sau đó Lâm Đức thụ lại báo rằng ông đă trốn đi Hán Khẩu (Hankou ‐ ND) [173] và cuối năm đó gia nhập quân đội của Diệp Đĩnh (Ye Ting ‐ ND) tại Sán Đầu (Swatow hay Shantou ‐ ND) [174]. Một thiếu nữ người Quảng Châu mà Hồ đă ʺcướiʺ vào tháng 10 1926 tên là Tuyết Minh, đă không được cho biết ông đă đi đâu [175]. Theo báo cáo của chính Hồ với QTCS về hành tung của ḿnh th́ chúng ta biết được ông đă rời Quảng Châu và trực chỉ đến Thượng Hải. Có lẽ ông đă đi qua ngơ Hán Khẩu, nơi có cuộc họp của Nghiệp Đoàn Thái B́nh Dương vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6. Nhưng ông không hề đề cập đến việc này. Ông đă đi đường biển từ Thượng Hải đến Vladivostok cùng với Jacques Doriot và đến Moscow vào khoảng tháng 6 [176]. Tại Vladivostok ông gặp Voitinsky, ông này đă t́m cách thuyết phục Hồ quay lại Thượng Hải để hoạt động cùng những người Pháp và người Việt tại đó. Nhưng Hồ dường như đă quyết định yêu cầu thêm ngân sách để tiếp tục mở các lớp đào tạo chính trị tại Xiêm. Tại Moscow ông chỉ có một tiếp xúc ngắn ngủi với những người Việt tại Đại Học Lao Động Phương Đông, những người này đă thành lập một chi bộ cộng sản với 5 thành viên. Họ là ʺFon‐Shonʺ (Nguyễn Thế Rục, một người miền bắc họ hàng với Nguyễn Thế Truyền]; ʺLe‐manʺ (Ngô Đức Tŕ, con của học giả và cựu tù nhân chính trị Ngô Đức Kế người Hà Tĩnh]; ʺJia‐oʺ (Bùi Công Trừng, một kư giả và nhà hoạt động trẻ từ miền trung Việt Nam, trước đây tham gia hội Jeune Annam tại Sài G̣n]; ʺMin‐Khanʺ (Bùi Lâm, một thuỷ thủ và thợ in từ Hải Pḥng, thành viên ĐCS Pháp tại Paris); và ʺLequyʺ (Trần Phú), người được bầu làm bí thư chi bộ [177]. Trong một mẫu thư ngắn Hồ chỉ thị cho chi bộ cộng sản này phải học tập chính trị tốt. Vào ngày 25 tháng 6 ông cũng đă gửi báo cáo cho Nông Dân Quốc Tế về phong trào nông dân tại Quảng Đông [178]. Sau một thời gian nằm viện để điều trị bệnh lao, vào tháng 11 ông được gửi về Paris với những chỉ thị mới của QTCS [179].

    Những thành viên c̣n lại của phái bộ Borodin rời khỏi nơi trú nạn ở Trung Quốc vào tháng 7 1927 sau khi cố gắng tập hợp một mặt trận thống nhất với những người cánh tả trong Quốc Dân Đảng bị thất bại. Một lần nửa ảo tưởng thoả hiệp với lănh đạo Quốc Dân Đảng là Uông Tinh Vệ đă tan biến, và ĐCS Trung Quốc phải tự t́m ra sách lược mới để bảo toàn những thành quả có được từ những năm tháng trong mặt trận thống nhất. Sau 3 năm phục vụ trong hàng ngũ quân đội do Quốc Dân Đảng chỉ huy, những người cộng sản Trung Quốc giờ đây phải tự huy động lực lượng chiến đấu riêng trong ṿng chỉ vài tháng. Stalin và QTCS th́nh ĺnh thay đổi chính sách vào tháng 7, sau khi những người đầu tiên trốn thoát cuộc đảo chính tháng 4 về đến Moscow báo cáo (trong số đó có một nhân vật tên ʺFreyerʺ đă đệ tŕnh một báo cáo dài cho Nông Dân Quốc Tế về Phong Trào Nông Dân cũng như về Hồ Chí Minh [180]). Trong một nghị quyết ra ngày 14 tháng 7, Ban Chấp Hành QTCS tuyên bố, ʺVai tṛ cách mạng của chính quyền Vũ Hán (Wuhan ‐ ND) đă chấm dứt; nó đang trở thành một lực lượng phản cách mạng. Đây là một đặc điểm mới mà tầng lớp lănh đạo của ĐCS Trung Quốc cần nên quan tâm rơ ràng và đầy đủ.ʺ Dù thế những đảng viên cộng sản vẫn được khuyên là nên lưu lại trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng để thiết lập chiến lược của một mặt trận thống nhất từ ʺdưới lênʺ: để ʺtăng cường hoạt động trong khối quần chúng vô sản... xây dựng các tổ chức công nhân... củng cố công đoàn... giúp quần chúng lao động sẵn sàng có hành động quyết định... phát triển cách mạng ruộng đất... vũ trang cho giai cấp công nhân và nông dân... tổ chức một cuộc đấu tranh cân sức với những thành phần phá hoại đảngʺ [181].

    Kể từ sau vụ tàn sát chống cộng do Quốc Dân Đảng phát động vào tháng 4, lănh đạo ĐCS Trung Quốc cuối cùng đă phản công. Cố gắng đầu tiên của họ nhằm giành lại quyền lực từ phe Quốc Dân Đảng ʺphản độngʺ xảy ra vào ngày 1 tháng 8, khi hai tướng Diệp Tĩnh (Ye Ting ‐ ND) và Hạ Long (He Long ‐ ND) khởi quân tại Nam Xương (Nan Chang ‐ ND), thủ phủ của Giang Tây (Jiang Xi ‐ ND). Chu Ân Lai chính là nhân vật chủ chốt trong cuộc khởi nghĩa Nam Xương. Sự kiện này đă tạo dựng nền móng cho Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc, theo các nhà sử học của ĐCS Trung Quốc, bắt đầu thời kỳ lănh đạo quân đội độc lập của những người cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dập tắt trong ṿng 3 ngày, khi tướng Trương Phát Khuê mà những người cộng sản nghĩ là đồng minh của họ, đă tấn công quân nổi loạn bằng lực lượng của ḿnh. Quần chúng nông dân đă không đến tiếp ứng cho những người cộng sản đang bị bao vây và họ bắt buộc phải rút về phía nam thành phố Sán Đầu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông. Nơi đó họ đă t́m cách dựng lên một thủ đô mới để rồi bị đánh bại vào đầu tháng 10. Trong lúc đó Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc họp vào ngày 7 tháng 8 tại Hán Khẩu, trong dịp ấy lănh đạo đảng Trần Độc Tú đă bị lên án là kẻ ʺthoả hiệp cánh hữuʺ, ông đă trở thành vật tế thần cho sự thất bại của mặt trận thống nhất. Hội nghị tuyên bố chính sách mới về cách mạng ruộng đất và vũ trang chống lại Quốc Dân Đảng. Giới lănh đạo lâm thời ʺquyết định biến công tác huy động nông dân cho cuộc khởi nghĩa Trung Thu là nhiệm vụ trọng tâm của Đảngʺ [182]. Besso Lomidadze, đại diện mới của QTCS, đă đóng vai tṛ chủ động trong việc h́nh thành quyết định trên. Dù thế, măi cho đến ngày 19 tháng 9 Bộ Chính Trị Uỷ Ban Trung Ương mới quyết định sẽ không c̣n làm ra vẻ chiến đấu dưới ngọn cờ của Quốc Dân Đảng Cánh Tả. Từ đó về sau ĐCS Trung Quốc đă chiến đấu cho quyền lực sô viết dưới ngọn hồng kỳ của họ [183]. Trong một cuộc họp vào tháng 11 / 1927 của Bộ Chính Trị Lâm Thời ĐCS Trung Quốc, những người cộng sản đă xác nhận con đường tả khuynh của ḿnh, lần nữa dưới ảnh hưởng của Lominadze. Mặc dù số lượng thành viên của họ đă giảm thiểu một cách đáng kể từ tháng 4, họ vẫn quyết định rằng ʺt́nh h́nh cách mạngʺ vẫn đang ở điểm cao và chiến lược kháng chiến vũ trang vẫn nên tiếp tục [184].

    Những người cộng sản Việt Nam tham gia lực lượng Quốc Dân Đảng chắc hẳn đă lâm vào t́nh huống khó xử ‐ có thể là vào năm 1927 họ đă không có đủ thời gian để t́m được một lựa chọn rơ rệt là nên chiến đấu dưới ngọn cờ cộng sản hay dưới quyền chỉ huy của nhân vật khó hiểu Trương Phát Khuê. Dù sao chúng ta đă biết được từ những báo cáo của Lâm Đức Thụ rằng một trong những người hùng của nhóm Việt Nam là Lê Hồng Sơn cùng một số thành viên Thanh Niên khác vẫn c̣n liên hệ với Trương Phát Khuê măi cho đến tháng 11 1927. Lâm Đức Thụ báo cho Sở Liêm Phóng ngày 13 tháng 11 rằng vẫn c̣n ʺmột số đông đảng viên cộng sảnʺ nằm trong quân đội của Trương Phát Khuê, trong đó có cả Lê Quảng Đạt và Trương Văn Lềnh. Đạt lănh lương 200 đồng Đông Dương (Piastre ‐ ND) và Lềnh 150 đồng mỗi tháng [185]. Tại Quảng Châu, việc thanh trừng cộng sản đang được tiến hành bởi Tướng Lư Tế Thâm (Li Ji Shen ‐ ND), người mà theo báo cáo của Hồ Chí Minh gửi cho Nông Dân Quốc Tế, đă chống phá dữ dội các tổ chức nông dân địa phương [186]. V́ thế khi quân đội Trương Phát Khuê tổ chức đảo chính tướng Lư vào ngày 17 tháng 11, thành phần lănh đạo Thanh Niên đă cảm thấy vô cùng nhẹ nhơm. ʺ...những thành viên trong nhóm Tùng Mậu rất vui mừng v́ việc những đồng chí của họ trở lại sẽ giúp họ t́m được việc làm và hậu thuẫn dễ dàng hơn...,ʺ Lâm Đức Thụ phán đoán về vụ đảo chính [187].

    Trong giai đoạn thay đổi chính trị này, những người Việt vẫn tiếp tục đến học tập tại Quảng Châu. Họ bao gồm một số người từ Bắc Kỳ sau này trở thành lănh đạo của một nhóm cấp tiến ly khai khỏi tổ chức Thanh Niên vào năm 1929: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đ́nh Cửu và Nguyễn Hội [188]. Thật vô cùng khó khăn để ta biết sự thật ngoại trừ phán đoán về việc họ đă chịu ảnh hưởng chính trị từ đâu sau tháng 4 1927 v́ t́nh h́nh chính trị trong Thanh Niên cũng như tại Quảng Đông trở nên rất phức tạp. Có những sự việc dường như mâu thuẫn nhau. Trong nội bộ Thanh Niên đă có những nỗ lực hoà giải với những tổ chức quốc gia đối lập, trong khi đó trong ĐCS Trung Quốc lại có khuynh hướng khởi nghĩa. Trong khi đó, những thành viên c̣n lại của Thanh Niên tại Quảng Châu đă bắt đầu t́m cách phối hợp việc kết nối lại với Nguyễn Hải Thần đang bị bỏ rơi trong mùa thu năm 1927. Lâm Đức Thụ đă báo cáo hai cuộc họp ngày 18 và 24 tháng 10 nhằm thống nhất hai đảng. ʺNgày Chủ nhật hôm qua,ʺ ông viết ʺNgô Thanh và Đinh Tế Dân đă gặp Tùng Mậu, Văn Lềnh và Quảng Đạt tại công viên. Họ đă thảo luận sự cần thiết phải chấm dứt những xung đột giữa hai bên.ʺ Tùng Mậu cho rằng họ đă giải quyết được những bất đồng [189]. Tiểu sử của Nguyễn Đức Cảnh nói rằng trong tháng 9 1927 ông đă đến Quảng Châu để gặp Uỷ Ban Trung Ương của Thanh Niên Hội để phối hợp hoạt động giữa hai phong trào. Là người quê Thái B́nh, sinh năm 1908, Cảnh bị đuổi học tại Nam Định vào năm 1926 v́ đă tổ chức băi khoá. Ông là thành viên của Nam Đồng Thư Xă, hội này vào tháng 12 1927 đă chuyển thành Việt Nam Quốc Dân Đảng [190]. Cũng như những học viên trước đó, ông đă đầu quân vào Thanh Niên sau khi tham gia các khoá học dựa trên cương lĩnh của Hồ Chí Minh. Trịnh Đ́nh Cửu và Nguyễn Hội cũng có thể đang ở Quảng Châu cùng lúc với Nguyễn Đức Cảnh. Tiểu sử chính thức của Ngô Gia Tự viết rằng ông cũng ở Quảng Châu giữa năm 1927. Ta không biết được là ông có theo dơi cuộc đảo chính tháng 4 hay không.

    Những học viên người Việt cũng đă biết được những sự kiện xảy ra tại hai huyện Hải Phong và Lục Phong phía đông Quảng Châu. Một số quân lính rút lui từ Nam Xương về Sán Đầu đă tái hợp tại các huyện này, nơi xảy ra những thắng lợi đầu tiên của phong trào nông dân Quảng Đông. Những người lính này bắt đầu nổi dậy vào ngày 25 tháng 10 để thành lập Sô Viết. Sau cuộc tấn công tàn bạo của quân đội Lư Tế Thâm, những người nông dân và lănh đạo cộng sản của tỉnh này h́nh như đang muốn trả thù. Chính quyền cách mạng lâm thời được thiết lập tại Hải Phong và Lục Phong ʺhoàn toàn thuộc cộng sản và vũ trang đầy đủʺ, Fernando Galbiati viết[191]. Ông đă trích dẫn một lá thư của Tỉnh Uỷ Quảng Đông trong đó viết rằng ʺviệc tiêu diệt bọn địa chủ phải được tiếp tục cho đến khi không c̣n tên nào. (...) Để chứng tỏ vấn đề đánh chiếm Hải‐Lục‐Phong không phải là mong manh như ngôi nhà trên cát” [192] Như Galbiati chỉ ra, phong trào Sô Viết Hải‐Lục‐Phong đă được quản chế chắc chắn, được điều khiển bởi ʺmột tiểu tổ trung ương, mệnh lệnh của nó được thực hiện bởi những thành viên của Nông Hộiʺ. Những người trong ĐCS Trung Quốc vẫn giữ bí mật tối trọng và chỉ được biết đến trong Sô Viết như là những ʺzuzhiʺ (cơ cấu ‐ ND) [193].

    Sự ra đời của Sô Viết nông dân Hải‐Lục‐Phong đă khích lệ hàng ngũ lănh đạo ĐCS Trung Quốc tổ chức một cuộc nổi dậy tại Quảng Châu. Nguyên nhân tiên khởi chính là sự cạnh tranh giữa Trương Phát Khuê và Lư Tế Thâm, v́ thế vào ngày 26 tháng 11 những người cộng sản Quảng Châu đă nhận định rằng sự tranh chấp giữa các tướng quân phiệt đă tạo ra một cơ hội thuận lợi để tổ chức khởi nghĩa. Ngày hành động được quyết định là 13 tháng 12. Nhân vật cộng sản người Đức là Heinz Neumann, người chuyển giao các chỉ thị của Stalin tại Quảng Châu, đă ra quyết định cuối cùng cho việc khởi nghĩa, có lẽ là v́ áp lực của Stalin đă muốn có một thắng lợi ở Trung Quốc nhân dịp Đại Hội thứ 15 của Đảng Cộng Sản Sô Viết. Cuộc khởi nghĩa ba ngày đă bị đè bẹp bởi những lănh binh Quốc Dân Đảng vừa lên kết lại với nhau, một lần nữa đă gây ra hậu quả là sự trả thù dă man đối với những người cộng sản và dân lao động đă tham gia khởi nghĩa. Nó đă trở thành một huyền thoại động viên cho ĐCS Trung Quốc, cho dù nó không được chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như đă thiếu sự hỗ trợ của tầng lớp lao động. Nhưng nó đă ảnh hưởng như thế nào đến những người cộng sản Việt Nam đang ở tại Quảng Châu hoặc đang theo học tại Học Viện Hoàng Phố?

    Theo tài liệu sử chính thức của ĐCS Việt Nam th́ những thành viên của Thanh Niên Hội đă tham gia vào cuộc nổi dậy và có 24 người bị bắt [194]. Những người trong hàng ngũ học viên sĩ quan tại Hoàng Phố rất có thể đă tham gia, v́ đây là lực lượng quân sự duy nhất lúc ấy có thể bảo vệ các công xă. Một người Việt là Phùng Chí Kiên được kể là đă rút về Sô Viết Hải‐Lục‐ Phong sau khi cuộc nổi dậy bất thành, và trở thành chỉ huy một đơn vị vũ trang cộng sản [195]. Nhưng theo lời khai của một người cộng sản miền nam quen biết Phùng Chí Kiên ở Trung Quốc th́ sau khi tham gia khởi nghĩa Quảng Châu, ông đă trở về lại Hoàng Phố đến khi bị bắt đi tù vào đầu năm 1929. Chỉ sau khi ra tù vào mùa thu 1929 Kiên mới tham gia ĐCS Trung Quốc và gia nhập Hồng Quân tại Đông Khu (Dong Kiang ‐ ND), Quảng Đông với chức đại đội trưởng [196]. Một học viên sĩ quan Hoàng Phố khác bị bắt sau khởi nghĩa là Trần Văn Cung (Quốc Anh), người này vào năm 1929 đă cầm đầu một tổ chức ly khai khỏi Thanh Niên [197]. Một nguồn tin tại Hà Nội cho biết rằng Trương Văn Lềnh là một trong trong những lănh đạo công xă, sau đó đă thay đổi tên họ và quân phục để trà trộn vào quân đội quốc dân [198]. Cũng rất có thể là ông đă tham gia quân đội Trương Phát Khuê ở ngoại ô Quảng Châu. Không may là báo cáo của Lâm Đức Thụ đă không đề cập đến những ǵ đă xảy ra. Nhưng vào tháng 5 1928 ông đă báo rằng 24 người Việt Nam vẫn đang học tập hoặc giảng dạy tại Hoàng Phố. Trong số đó có Lê Duy Nghĩa (Lê Duy Điếm) và Mạnh Văn Liễu (một bí danh khác của Phùng Chí Kiên). Những thành viên Thanh Niên bị bắt trong thời gian khởi nghĩa đă được thả vào ngày 13 tháng 5, đa số đều trong t́nh trạng sức khoẻ kém [199]. Tài liệu lịch sử công xă cho biết rằng một học viên sĩ quan người Việt tên Đỗ Huy Liêm đă chết trong cuộc nổi dậy [200]; nhưng thực ra ông đă lưu lại Hoàng Phố cho đến cuối năm 1928 và quay lại làm việc tại Thanh Niên rồi cho Đông Dương Cộng Sản Đảng tại Bắc Kỳ cho đến khi ông bị bắt vào năm 1930 [201]. Dù thế, đối với những thành viên và học viên mới, công xă và phong trào Sô Viết Hải‐Lục‐Phong là một kinh nghiệm mới mẻ cho họ. Vào lúc này, ĐCS Trung Quốc đang trên con đường khởi nghĩa: việc thành lập các Sô Viết tại thành phố và nông thôn là nhiệm vụ ưu tiên hành đầu. Nhưng ngược lại với tiêu chuẩn của Hà Nội về h́nh ảnh của năm 1928, Thanh Niên đă t́m cách tiếp tục hoạt động và đào tạo quân sự cho đến cuối năm, khi làn sóng đàn áp phong trào cộng sản lần thứ hai bắt đầu.

    Đến cuối năm 1927, cộng sản Việt Nam đă chia làm hai luồng tư tưởng trong nhóm Việt kiều tại Trung Quốc. Một nhánh tiếp thu chủ thuyết mặt trận thống nhất của những năm trước, trong khi nhánh kia lĩnh hội chiến lược vũ trang mới của ĐCS Trung Quốc. V́ đă không c̣n cơ cấu của QTCS tại Quảng Châu vào cuối năm 1927 nên những người Việt đă không c̣n nguồn chỉ thị hoặc tư tưởng chủ đạo nào khác ngoài ĐCS Trung Quốc. V́ Hồ Chí Minh đă rời khỏi Trung Quốc nên ông không bắt buộc phải theo bên nào. Sau chuyến trở về Moscow ông rút vào hoạt động bí mật và có vẻ đă đứng ngoài những tranh chấp đă chia rẽ phong trào cộng sản Việt Nam vào năm 1929. Mặc dù người Pháp tiếp tục nhận được tin tức về những kế hoạch nổi dậy trong suốt năm 1927 nhưng dường như Hồ đă không dính dáng ǵ đến những kế hoạch này. Ông vẫn giữ nguyên là một nhà tổ chức thận trọng và kiên nhẫn bất chấp kết quả đầy bạo lực của cuộc thử nghiệm về phong trào thống nhất. Khi Grigory Voitinsky đề nghị tại Vladivostok rằng ông nên quay về Thượng Hải để làm việc với những toán quân Việt Nam th́ ông đă từ chối. ʺChúng tôi có nên tập hợp vài người lính Việt Nam ở Thượng Hải (những người này đă nói với tôi rằng họ đang tính quay về tổ quốc), và huỷ bỏ những công việc vừa được bắt đầu tại Đông Dương?ʺ ông đă hỏi trong một báo cáo gửi cho Moscow. Ông đề nghị được chuyển công tác đến Xiêm để:

    ʺlàm việc hay đúng hơn là tiếp tục công việc về Đông Dương ‐ cho dù kết quả sẽ xa vời và ít hiển thị hơn ‐ th́ vẫn quan trọng hơn bởi v́ những đồng chí khác có thể thay thế tôi ở Thượng Hải, nhưng ở Xiêm th́ không thể. Và v́ tin tức từ những phản ứng của người Trung Quốc đang được thực dân Pháp loan truyền rộng răi, đă gieo thêm những bi quan cho người Việt, và nếu chúng ta ngưng hoạt động bây giờ th́ những ǵ chúng ta đă làm được trong ba năm qua sẽ mất cả, và sẽ rất khó khăn để làm lại từ đầu, trên tinh thần của những người Việt th́ họ đă bị thất vọng vài lần rồiʺ [202].

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Vụ án “buôn vua” Việt Nam - Hồ Chí Minh - Phần 1
    By alamit in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 3
    Last Post: 08-08-2012, 10:27 AM
  2. Hồ Chí Minh & vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp
    By Thương Dân in forum Hồ Chí Minh
    Replies: 0
    Last Post: 21-02-2011, 04:31 PM
  3. Replies: 22
    Last Post: 05-02-2011, 05:45 AM
  4. Replies: 4
    Last Post: 15-11-2010, 02:28 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •