Page 6 of 7 FirstFirst ... 234567 LastLast
Results 51 to 60 of 65

Thread: Vụ án “buôn vua” Việt Nam - Hồ Chí Minh - P1

  1. #51
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 3
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ


    CHƯƠNG 4:
    TỪ CON ĐƯỜNG CŨ ĐẾN HÀNH TR̀NH MỚI
    (1927‐9)
    Những di chuyển của Hồ Chí Minh
    Khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Quảng Châu vào tháng 4 / 1927, ông qua Thượng Hải và Vladivostok để

    đến Moscow. Tại Moscow, như ta đă thấy, ông đă t́m kiếm hậu thuẫn để đến cơ sở mới tại Xiêm nhằm tiếp tục công việc mà ông đă bắt đầu tại Quảng Châu. Một phần của mùa hè năm ấy ông phải nằm viện ở Crimean để điều trị bệnh lao. Tháng 9 / 1927 QTCS soạn thảo chỉ thị cho những công tác tương lai của ông và gửi ông đi Paris vào tháng 11 để phối hợp chương tŕnh của ông với Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp [1]. Mặc dù giờ đây ĐCS Pháp có trách nhiệm nuôi dưỡng phong trào cộng sản tại Đông Dương nhưng trên thực tế th́ các đảng viên ĐCS Pháp hoạt động dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Moscow.

    Mặc dù QTCS đă không c̣n ảo tưởng về Quốc Dân Đảng, những chỉ thị để Hồ đem đến Paris vẫn phản ánh chiến lược mặt trận thống nhất với các lực lượng quốc gia. Bản chỉ thị dài hai trang (đề ngày 12 tháng 9 / 1927) chỉ định ʺAKʺ (Ai Kvak, theo cách phát âm của Nga) phải giúp kích hoạt ʺnhững nhà cách mạng dân tộc trong số những người Đông Dương lưu vong (trước tiên tại Paris rồi toàn nước Pháp) bằng cách thiết lập một đội ngũ cộng sản cốt cán trong những phần tử này... ʺ Rồi ông phải thành lập những liên hệ với Đông Dương với mục đích chuyển giao những hoạt động cách mạng vào quốc nội. Trong lúc ấy, nhằm hợp tác với ĐCS Pháp, ông được chỉ thị soạn thảo một cương lĩnh hành động cho phong trào cách mạng dân tộc tại Đông Dương. Sau tài liệu này được thông qua bởi Ban Chấp Hành QTCS, ông sẽ phát hành nó ở Đông Dương và ʺnghiên cứu khả năng để tăng cường những hoạt động cách mạng tại quốc gia lân cận như Xiêmʺ [2]. Đông Dương Cộng Sản Đảng ʺcần bắt đầu vận hành trong một tương lai gầnʺ và sẽ dựa vào ʺnhững tổ chức cách mạng dân tộc cành nhiều càng tốt với điều kiện những người thiên tả trong các tổ chức này giữ được quyền tự do phê phán tuyệt đối.ʺ Khẩu hiệu chính trị cơ bản của phong trào cách mạng được định nghĩa như sau: (1) độc lập; (2) đánh đuổi các lực lượng chiếm đóng; và (3) triệu tập Uỷ Ban Lập Pháp và tạo ra chính quyền cách mạng dân chủ, bảo đảm việc phân phát toàn bộ đất đai cho nông dân, dùng chính sách thống nhất các giai cấp để ủng hộ quyền lợi của người lao động, cương quyết bảo vệ nền độc lập của nước nhà chống lại mọi tấn công của đế quốc tham tàn.ʺ Điểm cuối cùng của chỉ thị ra ngày 12 tháng 9 lưu ư rằng QTCS sẽ theo đuổi nỗ lực tạo dựng những liên lạc với Đông Dương qua ngơ Trung Quốc [3].

    V́ một số lư do Hồ đă không thực hiện hết những chỉ thị của QTCS tại Pháp, ông báo cáo lại với Moscow. Chiến dịch ruồng bố những hoạt động cộng sản tại Paris đă xảy ra cùng lúc với khủng hoảng chính trị trong nội bộ ĐCS Pháp, có lẽ việc này có liên quan đến phong trào thanh trừng các phần tử Trotskyist đang xảy ra tại Liên Bang Sô Viết để hướng tới Đại Hội Đảng 15 vào tháng 12. Cùng thời gian ấy Jacques Doriot, người bảo trợ của Hồ tại Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp, đă bị bắt giam tại Pháp. Hồ viết rằng những thành viên c̣n lại của Uỷ Ban đă tránh những tiếp xúc riêng với ông. Ư ông muốn nói đến trong báo cáo là việc ʺthiếu linh độngʺ trong hoạt động của Uỷ Ban có thể đă làm nó tê liệt về mặt chính trị. ʺTrong suốt một tháng rưỡi có mặt tại Paris,ʺ ông giải thích, ʺtrong khi Đồng Chí Doriot đang ở tù, tôi đă không có được bất kỳ một cơ hội nào để thảo luận một cách nghiêm túc với các đồng chí khác. Đă vài lần tôi đă đề nghị những địa chỉ chính xác để có thể liên lạc với họ khi tôi quay lại phương Đông, nhưng đồng chí có trách nhiệm đă không cho tôi biếtʺ [4], Hồ đă không đề cập đến những liên lạc giữa ông và những người Việt khác tại Paris, nhưng chúng ta tự hỏi là không biết ông có t́m cách gặp lại Nguyễn Thế Truyền không. Ít nhất là cho đến năm 1926, Truyền vẫn là đầu mối tiếp xúc chính giữa những người Việt cánh tả tại Paris và Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp. Chính ông là người đă sắp xếp để gửi những người Việt Nam, trong đó có một số họ hàng của ḿnh, đi Moscow học tập[5]. Vào đầu năm 1927, sau sự sụp đổ của Công Đoàn Thuộc Địa vào năm 1926, Truyền đă thành lập một tổ chức mới mang tên An Nam Độc Lập Đảng [6]. Việc ra đời của đảng dân tộc vào năm 1927 th́ thường được xem như là bước khởi đầu cho việc phân chia giữa những người Việt quốc gia và thân cộng sản. Nhưng hiện tại đă có những bằng chứng rằng Truyền đă đi theo một chính sách dành cho các nước thuộc địa được QTCS chấp nhận, có thể nó được thực sự củng cố trong thời gian Bukharin c̣n nắm quyền trong Ban Chấp Hành QTCS. Chỉ thị của Jaques Doriot nhằm biến Thanh Niên trở thành một đảng quốc gia đại chúng là một ví dụ cho chính sách này; Chỉ thị tháng 9 của Hồ Chí Minh cũng là một dấu hiệu của việc các nhóm cộng sản thuộc địa được phép tồn tại bên trong những đảng cách mạng quốc gia. Ngay cả đến mùa đông năm 1929, những thành viên của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp vẫn c̣n tiếp tục thi hành chính sách này tại Algeria bằng cách tạo dựng một đảng dân tộc Algeria tên Ngôi Sao Bắc Phi (LʹÉtoile Nord‐africanine ‐ ND) [7].

    An Nam Độc Lập Đảng có liên hệ mật thiết với chi nhánh ở Pháp do QTCS lănh đạo mang tên Liên Đoàn Phản Đế. Nhóm này đă tổ chức đại hội đầu tiên vào tháng 2 / 1927. Trong một bản báo cáo của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp gửi cho QTCS vào tháng 3 / 1927, tác giả báo cáo có nhắc đến việc An Nam Độc Lập Đảng đang tạo dựng các chi bộ tại miền nam nước Pháp và dự định tổ chức đại hội vào mùa hè. ʺChúng tôi sẽ tham gia vào các cuộc họp của nhóm này tại Paris nhằm giúp đỡ những hoạt động của họ một cách thực tế hơn,ʺ bản báo cáo viết [8]. Truyền, cùng với hai nhà hoạt động khác từ Việt Nam là nhà báo Trịnh Hưng Ngẫu thuộc đảng Jeune Annam và Dương Văn Giáo thuộc đảng Lập Hiến ‐ đă tiến hành một cuộc hành tŕnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp vào tháng 10, trong đó họ kịch liệt lên án chính sách và thể chế của Pháp. Sở Liêm Phóng cho rằng những cuộc hội họp trên được tổ chức với sự đồng loă của ĐCS Pháp [9].

    Nhưng cũng như Hồ, có lẽ Truyền cũng thấy được rằng làm việc với ĐCS Pháp trở nên khó khăn hơn nhiều sau khi Doriot bị bắt. Truyền trở về Việt Nam vào tháng 12. Đến mùa hè 1928 chính sách của QTCS về hoạt động của các nước thuộc địa càng trở nên phức tạp, nhưng măi cho đến giữa năm 1929 QTCS mới dứt khoát thay đổi quan điểm của ḿnh trong việc hợp tác với những người quốc gia phi cộng sản tại các nước thuộc địa.

    Vào tháng 12 1927 Hồ chuyển từ Paris đến Brussels để tham dự một hội nghị, ông cho biết. Nhưng đó không phải, khác với mọi người thường viết, là Đại Hội lần 1 của Liên Đoàn Phản Đế v́ nó đă xảy ra vào tháng 2 trước [10]. Có thể là ông đă tham dự một cuộc họp nội bộ của Ban Chấp Hành Liên Đoàn được tổ chức vào ngày 9 tháng 12 ở Brussels [11]. Từ trung tuần tháng 12 đến tháng 5 1928 ông ở tại Berlin để chờ đợi tiền và chỉ thị từ QTCS cho chuyến trở về châu Á của ḿnh. Ông nhận 18 đồng Mark (mệnh giá tiền Đức ‐ ND) mỗi tuần từ tổ chức Trợ Giúp Đỏ (Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS ‐ tương tự như Hội Chữ Thập Đỏ ‐ ND) để trang trải chi phí thường nhật nhưng không đủ để sống qua ngày, ông nói [12]. Trong thời gian bị bắt buộc ở đây, ông đă viết hồi kư về phong trào nông dân Quảng Châu, trong đó miêu tả Bành Bái như một vị anh hùng. Bài viết dài 120 trang, không mang tính chính trị và thống kê, chỉ quan tâm đến cuộc sống nông dân, ông giải thích. Nông Dân Quốc Tế đă từ chối nhận trách nhiệm hiệu đính cần thiết để xuất bản, nhưng một số tài liệu của Hồ đă lọt ra và được xuất bản [13]. Việc ông đă có những tiếp xúc nào với cộng đồng người Hoa tại Berlin th́ không được rơ. Nhưng không có ǵ ngạc nhiên nếu ông đă trao đổi quan điểm với những người có liên hệ với Liên Đoàn Phản Đế vốn đă có cơ sở tại Berlin. Vợ của Tôn Dật Tiên là Tống Khánh Linh (Song Qing Ling ‐ ND) đă đến Berlin vào cuối năm 1927 và dường như đă ở đấy cho đến cuối năm 1928 để thành lập một ʺĐệ Tam Đảngʺ cho Trung Quốc [14]. Trong lá thư đề ngày 21 tháng 5 gửi cho Moscow, Hồ thông báo cho các đầu mối rằng ông sẽ liên lạc với họ qua Comade Chutto, một người Ấn làm việc trong Liên Đoàn Phản Đế [15]. V́ thế có vẻ Liên Đoàn đă là một đầu mối tiếp xúc quan trọng của ông tại Berlin.

    Trong mùa đông ấy, QTCS đang bận tâm với những vấn đề c̣n quan trọng hơn là về Hồ Chí Minh và chương tŕnh di chuyển của ông. Leon Trotsky và 148 thành viên của nhóm Đối Lập của ông đă bị trục xuất ra khỏi Moscow vào cuối tháng Giêng, sau Đại Hội thứ 15 của ĐCS Liên Xô. Trong trọn tháng 2 QTCS đang bận rộn với Hội Nghị Toàn Thể lần 9 của Ban Chấp Hành. Sau khi ra tù, trên đường tham dự Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS, Jaques Doriot ghé qua Berlin và đă hứa sẽ giải quyết ʺtrở ngạiʺ của Hồ. Nhưng măi cho đến trung tuần tháng 4 Hồ vẫn không nhận được tin tức ǵ từ Moscow lẫn Doriot [16]. Nông Dân Quốc Tế cũng chẳng giúp được ǵ. Hồ đă yêu cầu họ giúp cho 500 Đô‐la và một ʺkế hoạch tổ chức thiết thực để tôi có thể hoạt động một cách hữu ích” [17] Dombal không những từ chối cung cấp ngân quĩ mà c̣n nói rằng ông biết quá ít về t́nh h́nh nông dân ở Đông Dương để đưa ra một kế hoạch tổ chức chắn chắn. Ông khuyên Hồ nên dùng kinh nhiệm của ḿnh về phong trào nông dân Trung Quốc để bắt đầu những bước căn bản để xây dựng những liên hiệp nông dân [18]. Vào ngày 12 tháng 4 Hồ viết thư cho Jules Humbert‐Droz, một người cộng sản gốc Thụy Sĩ trong Ban Bí Thư QTCS, ban này chịu trách nhiệm về những vấn đề của những thuộc địa Pháp. Thư nói ʺđồng chí có thể mường tượng được t́nh trạng thể xác cũng như tinh thần của tôi lúc này: biết được c̣n rất nhiều việc phải làm nhưng lại không làm được ǵ cả, lo nghĩ, thiếu tiền, sống ngày qua ngày trong t́nh trạng bị ép buộc phải bất động, vân vânʺ [19]. Cuối cùng Humbert‐Droz đă bảo Hồ (bằng 2 mẫu ghi chú ngắn đề ngày 28 tháng 4) rằng quyết định về việc chi trả cho chuyến đi và ba tháng đầu làm việc đă được chấp nhận: ʺSố tiền chúng tôi gửi trong tương lai sẽ tuỳ thuộc vào tin tức từ đồng chí. Tôi nghĩ tốt hơn là đồng chí nên t́m cách tự lực cánh sinh hơn là chờ đợi giúp đỡʺ[20].

    Trong sự tiễn đưa thờ ơ ấy, Hồ Chí Minh đă quay lại châu Á vào cuối tháng 5, từ Thụy Sĩ sang Ư, và từ đó đi đường thuỷ đến Băng Cốc. Lúc ấy chắc hẳn ông đă biết được việc đàn áp phái Đối Lập Trotsky do Stalin khởi xướng bên trong ĐCS Liên Xô cũng như những khuynh hướng khác chống lại chính sách của Stalin bên trong QTCS. Ta có thể giả định rằng ông cũng đă được đọc những tài liệu của Đại Hội Toàn Thể thứ 9 Ban Chấp Hành QTCS được tổ chức vào tháng 2 1928, trong đó có một số nghị quyết về Trung Quốc. Những nghị quyết này đă nói rơ người Nga nghĩ rằng đă đến lúc các đồng chí Trung Quốc nên cẩn trọng hơn, nên dừng lại sau cố gắng khởi nghĩa đầy liều lĩnh vào cuối năm 1927 (dĩ nhiên là nó đă tiến hành dưới sự chỉ đạo của đại diện của QTCS là Lominadze và Neuman.) Hiện trạng của cách mạng Trung Quốc được cho là không mang đặc tính xă hội hoặc ʺcố địnhʺ như Lominadze đă nhận định một cách sai lầm, mà vẫn đang nằm trong giai đoạn ʺdân chủ tư sảnʺ. Đường hướng chiến lược cơ bản của ĐCS Trung Quốc là ʺsẵn sàng dùng bạo lực để dấy lên những làn sóng cách mạng mớiʺ. Nhưng nhiệm vụ hiện tại vẫn là ʺnắm được quần chúng công nhân và nông dân, giáo dục chính trị cho họ, tập hợp họ đi theo đảng và tuyên ngôn của đảng.ʺ Mặc dù một ʺnhiệm vụ chiến lược cấp báchʺ đă được giải thích như ʺtổ chức và hành động qua khởi nghĩa quần chúng vũ trang,ʺ lực lượng tiên phong của giai cấp công nông vẫn không được tách rời khỏi quần chúng và không được ʺxem nhẹ những cuộc nổi dậyʺ [21]. V́ phong trào cách mạng Việt Nam chưa được phát triển như của Trung Quốc, có thể Hồ Chí Minh đă hiểu những nghị quyết hơi mâu thuẫn này như là như một xác nhận cho những chính sách riêng của ḿnh: đào tạo và tổ chức chính trị một cách thận trọng.

    Điều quan trọng mà ta nên lưu ư là Đại Hội 6 QTCS bắt đầu trong tháng 7 1928, lúc Hồ vẫn c̣n lênh đênh trên biển. Có thể ông đă không biết đến những tin tức chi tiết về kết quả của đại hội cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả những bằng chứng có được, dường như ông đă đi châu Á với hành trang không có ǵ ngoài những chỉ thị trong tháng 9 1927 để thực hiện công tác của ḿnh.

    Đại Hội Quốc tế Cộng Sản lần 6

    Đến mùa hè 1928 việc đấu tố chống lại phái Trotskist đă làm xáo trộn QTCS và ĐCS Pháp. Nhưng một cuộc thanh trừng đẫm máu khác lại vừa bắt đầu. Trên thực tế, đến khi Đại Hội 15 ĐCS Liên Xô diễn ra vào cuối năm 1927, những người theo Stalin đă bắt đầu chỉ trích Bukharin là đă không quan tâm đến ʺnhững đe doạ của cánh hữuʺ trong QTCS [22]. Nhưng Stalin vẫn chưa sẵn sàng thanh toán những đồng minh cánh hữu của ḿnh. Hai hệ thống điều hành chính sách đang h́nh thành tại Nga với Stalin đang tăng cường hoạt động thông qua những thành viên do ông chỉ định và những tổ chức như đoàn Komsomol để thi hành việc thu thập ngũ cốc cũng như những chính sách khác [23]. Đại Hội 6 QTCS, một hội nghị kéo dài từ ngày 12 tháng 7 măi đến 1 tháng 9, đă phản ánh t́nh trạng hai hệ thống này. Đây là lúc bắt đầu cho sự chuyển đổi phương hướng của QTCS, một quá tŕnh kéo dài trọn một năm cho đến Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào tháng 7 / 1929. Người ta thường cho rằng Cương Lĩnh và Luận Cương của Đại Hội 6 QTCS đă đánh dấu một thời kỳ mới cho phong trào cộng sản Việt Nam. Nhưng thật khó để thiết lập một mối liên hệ trực tiếp về nguyên nhân và hệ quả giữa Moscow và những sự kiện tại Việt Nam cho đến mùa thu năm 1929, hoặc ngay cả những chính sách cho những quốc gia thuộc địa thực sự là ǵ.

    Vào mùa hè 1928 những người lănh đạo ĐCS Trung Quốc đă tập trung tại Moscow, nơi Đại Hội 6 ĐCS Trung Quốc đang nhóm họp từ ngày 18 tháng 6 đến 11 tháng 7, trước thềm Đại Hội QTCS. Đại hội này được tổ chức dưới sự bảo trợ của Bukharin và đă thông qua những chính sách ôn hoà hơn để Trung Quốc tŕnh bày trước Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9. Nhưng tính chất lưỡng hệ trong các chính sách của QTCS vào thời điểm này đă được phản ánh trong nghị quyết Đại Hội, đa số đều mang tính mập mờ và đôi khi mâu thuẫn. Bukharin cổ xuư cho một liên minh phản đế nhưng xem nhẹ thành phần tiểu tư sản. Khẩu hiệu: ʺchiến thắng mở màn tại một hay nhiều tỉnhʺ đă trở thành cái mà Trương Quốc Đào (Zhang Guo Tao ‐ ND) gọi là ʺthần dượcʺ (panacea ‐ ND), một cách biện hộ cho chủ nghĩa manh động vào cuối năm 1927 mà không phải nói rằng cuộc cách mạng Trung Quốc đang ở lúc ʺcao tràoʺ [24]. Đại Hội đă bầu chọn một Bộ Chính Trị mới, dẫn đầu bởi Hướng Trung Phát (Xiang Zhong Fa ‐ ND). Những thành viên khác là Hạ Tế An (Qu Qiu Bai ‐ ND), Chu Ân Lai, Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm (Cai Hesen ‐ ND), Lư Lập Tam (Li Li San ‐ ND), Hạng Anh (Xiang Ying ‐ ND). Ba thành viên của bộ chính trị mới đă quay về lại Trung Quốc trước Đại Hội QTCS là Hướng Trung Phát, Thái Hoà Sâm và Lư Lập Tam, những người này theo lời Trương Quốc Đào là có nhiệm vụ tổ chức đảng[25]. Những ảnh hưởng cá nhân của những nhà lănh đạo ĐCS Trung Quốc vừa quay về lại Thượng Hải vào tháng 7 hoặc tháng 8 1928, sau khi đại hội đảng của họ kết thúc và trước khi đại hội QTCS bắt đầu, có thể lúc đầu đă có nhiều tác động đến những người cộng sản Việt Nam hơn là bản thân Đại Hội 6 QTCS.

    Mặc dù Đại Hội 6 QTCS thường được xem là một sự kiện quyết định mà từ đó đă cho ra những từ ngữ như ʺhành tŕnh mớiʺ và ʺvô sản hoáʺ, thực ra nó chỉ là bước đầu của việc chuyển hướng tổ chức. Bukharin, vẫn là Tổng Bí Thư của QTCS, đă chiếm độc quyền trong việc soạn thảo và thông qua bản ʺCương Lĩnh Chung của Đệ Tam Quốc Tếʺ. Nhưng vị thế của ông đă bị yếu đi v́ sự lũng đoạn của Stalin trong ĐCS Liên Xô ‐ đến tháng 12 1928 ông đă từ chức trong QTCS mặc dù chưa chính thức bị cách quyền cho đến tháng 6 1929. Với vị thế của Bukharin trong QTCS, những đồng minh ʺcánh hữuʺ của ông trong các đảng châu Âu như Jules Humbert‐Droz vẫn giữ được ảnh hưởng cho đến mùa đông [26]. V́ thế đến mùa hè 1928, QTCS vẫn phần nào hậu thuẫn cho chính sách hợp tác với tầng lớp dân chủ xă hội cánh tả và thiếu nhất trí trong việc phân tích một cách đúng đắn hiện trạng của chủ nghĩa tư bản thế giới. Đoàn đại biểu Liên Xô mà chủ yếu là những người theo Stalin, đă không hài ḷng với ʺĐề Cươngʺcủa Bukharin, và ʺđă hiệu chỉnh nó nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng quốc tế của những kế hoạch kinh tế Sô Viết và những mâu thuẫn của sự ổn định tư bản cũng như tăng cường việc tấn công vào những người dân chủ xă hội cánh tảʺ [27]. Dù vậy giọng điệu tận thế miêu tả ʺGiai Đoạn Thứ Baʺ về diễn biến của chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh cũng không được mạnh mẽ mấy khi nó được đưa ra trong Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào năm 1929. Tại Đại Hội 6, Bukharin đă miêu tả Giai Đoạn Thứ Ba như một ʺổn định của chủ nghĩa tư bảnʺ mà cuối cùng sẽ trở thành một khủng hoảng mới của chủ nghĩa này [28]. Đến mùa hè 1929, Otto Kuusinen đă báo cáo lên Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 rằng ʺhiện đă hoàn toàn thống nhất trong việc nhận định về Giai Đoạn Thứ Ba như là một thời kỳ tan ră của sự ổn định của chủ nghĩa tư bản và hơn nữa ‐ cũng là giai đoạn chín muồi của một cao trào cách mạng mớiʺ [29]

    Kuusinen, một nhà cộng sản lăo thành người Phần Lan, là người đứng đầu Uỷ Ban Thuộc Địa tại Đại Hội và được giao trách nhiệm lănh đạo Ban Bí Thư Cục Đông Phương khi Đại Hội bế mạc. Ông đă trở thành một trong những người điều hành của QTCS ở phương Đông. Nhưng chính Cương Lĩnh Chung của Bukharin là văn bản súc tích nhất về chính sách của Đệ Tam Quốc Tế đối với các nước thuộc địa. Cương lĩnh đă liệt kê tám nhiệm vụ chính:

    (1) Lật đổ chủ nghĩa tư bản ngoại bang, chế độ phong kiến và tầng lớp địa chủ;

    (2) Thành lập nền chuyên chính dân chủ của giai cấp công nông trên nền tảng của chính quyền Sô Viết;

    (3) Tiến tới độc lập nước nhà và thống nhất chính trị; (4) Huỷ bỏ nợ quốc gia;

    (5) Quốc hữu hoá những cơ sở kinh doanh lớn của giai cấp tư bản (trong những ngành công nghiệp, giao thông, ngân hàng, vân vân);

    (6) Sung công tài sản của những đại địa chủ, nhà thờ và tu viện, quốc hữu hoá toàn thể đất đai;

    (7) Thực hiện chính sách ngày làm tám tiếng; và

    (8) Thành lập quân đội cách mạng công nông [30]

    Trong nội bộ Uỷ Ban Thuộc Địa, cố gắng của Kuusinen nhằm thiết lập một chính sách chi tiết hơn cho ʺnhững nước thuộc địa và bán thuộc địaʺ đă gặp phải một chống đối khá mạnh. Các đại biểu không hiểu được cách thức phân chia các nước thuộc địa ra 4 thành phần khác nhau của ông cũng như sự thiếu rơ ràng về chiến lược đối với những nước lạc hậu hơn [31]. (Việc phân loại này đă bị huỷ bỏ trong văn bản chính thức của luận cương). Trong bài phát biểu bế mạc của ḿnh vào ngày 21 tháng 8, Kuusinen đă thú nhận rằng trong Luận Cương của ḿnh, đoạn nói về ʺnhững tiến triển phi tư bản cho những nước thuộc địa lạc hậuʺ đă thiếu những luận chứng cần thiết. (ông cũng nhắc là Luận Cương 1920 của Lenin cũng thiếu luận chứng về phần này). Ông đề nghị vào thời điểm này, thời điểm của ʺhướng đi riêngʺ đến chủ nghĩa cộng sản, nên được sự quan tâm đặc biệt từ uỷ ban soạn thảo, uỷ ban này vẫn chưa bắt đầu làm việc [32]. Trong những nhận xét về hoạt động của uỷ ban soạn thảo, ông có nhắc đến bản Luận Cương trong phần đề cập đến những vấn đề chiến lược hiện nay chỉ được áp dụng cho một nhóm các nước thuộc địa sau: Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập và Nam Dương ‐ ʺchắc chắn là những quốc gia thuộc địa quan trọng nhấtʺ, theo như ông nói [33].

    Luận Cương cho các Quốc Gia Thuộc Địa và Bán Thuộc Địa đă không được xuất bản trên tờ

    Inprecor (viết tắt của International Press Correspondence, một tạp chí cộng sản đa ngôn ngữ của QTCS ‐ ND) vào cuối năm 1928, không như những nghị quyết và luận cương khác của Đại Hội; cuối cùng nó được in thành tập sách mỏng với 96 trang bằng tiếng Nga đề năm 1928 nhưng không rơ chính xác là khi nào [34]. Trong văn bản chính thức, luận cương giữ nguyên quan điểm rằng chủ nghĩa tư bản là một lực lượng rệu ră, không có một vai tṛ tiến bộ trong tương lai, ngay cả trong những nước thuộc địa. Một bài viết ngắn với quan điểm đối lập của đoàn đại biểu Anh gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa đă được xuất bản vào ngày 27 tháng 12 1928 [35]. Thành viên người Ư Angelo Tasca (Serra], người đứng đầu Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Roman trong một thời gian ngắn tại Đại Hội 6 cũng không mấy hài ḷng. Ông đă viết cho Kuusinen vào tháng Giêng 1929 than phiền về Luận Cương. ʺChúng không hoàn toàn là một luận cương chính trị hay là một cương lĩnh hành động, trong cả hai trường hợp chúng đều không đầy đủ. Tôi không biết là ĐCS Pháp đă can dự nhiều vào việc soạn thảo hay không...ʺ [36]. Đến tháng 7 Tasca liền bị đưa ra khỏi hàng ngũ lănh đạo của QTCS. Jacques Doriot, người khởi xướng mặt trận thống nhất tại Việt Nam, để giữ được chức vụ của ḿnh trong ĐCS Pháp, đă phải công khai từ bỏ quan điểm của ḿnh về việc hợp tác với phái dân chủ xă hội [37]. Khó khăn trong việc t́m ra ư kiến thống nhất về đường hướng đúng đắn cho các quốc gia thuộc địa là dấu hiệu cho t́nh trạng tồi tệ chung của guồng máy QTCS trong giai đoạn cuối năm 1928. Vào tháng 11 Andres Nin, một đảng viên cộng sản Tây Ban Nha, đă bộc lộ trong một mẫu thư gửi cho Trotsky: ʺT́nh trạng QTCS đang vô cùng lộn xộn. Chẳng có việc ǵ hoàn tất. Mọi người đều ngóng chờ kết quả của trận đấu đá giữa Stalin và cánh hữu. Một sự băng hoại hoàn toàn,ʺ ông than phiền [38].

    Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Đại Hội 6 gồm ba người do ĐCS Pháp lựa chọn từ những nhà hoạt động ở Paris. Một trong ba người ấy là Nguyễn Thế Vinh, họ hàng với Nguyễn Thế Truyền. Ông đă theo học tại Moscow từ tháng 9 1926 đến tháng 11 1927 nhưng đă rời khỏi đây v́ lí do sức khoẻ [39]. Người thứ hai là một một thuỷ thủ Bắc Kỳ có gọi là ʺBanʺ, người này không lâu sau Đại Hội đă rời bỏ đảng [40]. Người thứ ba là Nguyễn Văn Tạo, một người miền Nam và là thành viên của ĐCS Pháp, ông đă thành lập một tổ chức cộng sản người Việt tại Paris vào tháng 4/1928 [41]. Ông đă đọc một bài diễn văn gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa vào ngày 17 tháng 8 với bí danh là ʺAnʺ [42]. Phân tích của ông về chủ nghĩa thực dân Pháp cũng gần giống với quan điểm của Kuusinen về sự phát triển của hệ thống thuộc địa tại Ấn Độ: ngành tiểu công nghiệp của Việt Nam đă bị phá huỷ bởi sự cạnh tranh giữa các công ty nằm trong tay của tư sản bản xứ và đế quốc; những người thợ thủ công đang gia nhập giai cấp vô sản trên đà lớn mạnh; sản lượng nông nghiệp bị đ́nh trệ. Báo cáo của ông không hề nhắc đến việc đào tạo những nhà hoạt động người Việt tại Quảng Châu hoặc việc thành lập Thanh Niên Hội. V́ lư do này nên rất có thể Hồ Chí Minh đă không phải là người soạn thảo bài phát biểu của Tạo, theo phỏng đoán của Sở Liêm Phóng sau này. Một nhóm khác bao gồm những người Việt tương đối kinh nghiệm tại Nga trong thời gian giữa năm 1928 trong đó có Trần Phú, Ngô Đức Tŕ và Lê Hồng Phong. H́nh như họ chỉ tham gia Đại Hội với tư cách quan sát viên. Ta không rơ lư do tại sao họ không được là thành viên của đoàn đại biểu chính thức. Hai trong số ba đại biểu từ Paris h́nh như đă trở thành những người ʺkhông được chào đónʺ (nguyên văn Latin: Peronae Non Gratae ‐ ND). Sau đó vào năm 1930, một lá thư đầy bất b́nh của một nhà hoạt động người Việt có trụ sở tại Paris được gửi đến Ban Bí Thư Đông Phương có nhắc đến việc một đại biểu của đoàn Việt Nam tại đại hội đă phê phán hoạt động của Uỷ Ban Thuộc Địa trong ĐCS Pháp, hai đại biểu (có lẻ là Nguyễn Thế Vinh và Ban) đă được đưa vé tàu quay về Pháp ngay ngày hôm sau [44]. Vào tháng 9 1928 một quá tŕnh tái tổ chức trong QTCS lại một lần nữa chuyển giao phần trách nhiệm Đông Dương lại cho Phân Bộ Trung Đông, một chi nhánh của Đông Phương Cục bao gồm cả Ấn Độ và Nam Dương. [45] V́ thế, dù ĐCS Pháp và Uỷ Ban Thuộc Địa của đảng này vẫn tiếp tục được cho là có trách nhiệm trong phong trào Việt Nam, trên lư thuyết th́ nguồn hướng dẫn tư tưởng chính thống giờ đây đă thuộc về Ban Bí Thư Cục Đông Phương do Kuusinen đứng đầu.

    Tại Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đă có dịp công bố một cách có hệ thống hơn về những chiến lược trong buổi khai mạc đại hội vào ngày 3 tháng 7 1929. Stalin, người chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá nội bộ của ĐCS Liên Xô, đang dùng QTCS để biểu lộ phong cách lănh đạo mới của ḿnh. Trong báo cáo này mà sau đó đă được in với đầu đề T́nh H́nh Quốc Tế và Những Nhiệm Vụ của Quốc tế Cộng Sản, Kuusinen kêu gọi các đảng cộng sản nên trở thành ʺhoá chất tinh khiếtʺ, để sẵn sàng cho ʺtrận chiến quyết định quyền lựcʺ. [46] ʺNếu không gột rửa ḿnh khỏi những phần tử cơ hội cũng như vượt qua được mong muốn hàn gắn quan hệ với chúng, các đảng cộng sản sẽ không thể đạt được thành công để tiến đến giải quyết những khó khăn mới, lớn dậy từ sự tôi luyện của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại mới của phong trào công nhân,ʺ ông tuyên bố [47]. Thành viên của bất cứ đảng cộng sản nào không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ bị khai trừ [48]. Giờ th́ không c̣n những lập lờ về chiến lược của mặt trận thống nhất ‐ M.N. Roy, thành viên cộng sản người Ấn, người tin tưởng vào một mặt trận thống nhất với những người Ấn Độ quốc gia, đă bị lên án [49]. Trong phần kết luận đầy phấn khích, Kuusinen tuyên bố rằng ʺCon đường hiện tại của Quốc tế Cộng Sản là một con đường mới, nhưng nó cũng là con đường cũ. Ba phần tư thế kỷ trước, Marx đă tuyên khởi khẩu hiệu hiện thời của chúng ta ʺGiai cấp chống lại giai cấpʺ trong lời hiệu triệu cho cuộc cách mạng đấu tranh giai cấp của ông. Đây là hướng đi mới của chúng taʺ [50].

    Đại Hội Mở Rộng lần thứ 10 đă không chú ư nhiều đến việc điều chỉnh chi tiết hơn về những hướng dẫn cho các quốc gia thuộc địa đang trong những hoàn cảnh phát triển khác nhau. Cách mạng thế giới, một cuộc cách mạng thuần tuư cộng sản, đă được xem như như là một lực lượng khổng lồ đang chiến đấu cho giai cấp vô sản trên toàn địa cầu. Kuusinen đă hưng phấn tột bật trong khả năng hùng biện của ḿnh:ʺNh́n lại những cuộc đấu tranh toàn cục đă xảy ra trong một thời gian ngắn kể từ Hội Nghị Thế Giới lần 6, ta có thể nói rằng: đội quân thế giới của những chiến sĩ giai cấp tích cực đang phát triển nhanh chóng. Những người thợ mỏ ở vùng Ruhr (một khu vực ở Đức ‐ ND) và Scotland, những người thợ dệt ở Balan và Pháp, những chiến sĩ tại pḥng tuyến Berlin, những người biểu t́nh và đ́nh công ở Bombay, những phu đồn điền ở Columbia, những người khởi nghĩa da đen ở Congo, những nông dân đang đ́nh công tại Czechoslovakia và Balan, những công nhân cách mạng và du kích bần nông tại Trung Quốc, những nhà tranh đấu người Ma Rốc và hàng trăm ngh́n người khác ‐ đây là một đạo quân tích cực khổng lồʺ [51]. Thảo luận của Kuusinen về đấu tranh quần chúng là dấu hiệu của những ǵ sẽ xảy ra tại Việt Nam trong vài năm tới. ʺTrong giai đoạn hiện tại, điểm xuất phát của đấu tranh quần chúng là những quyền lợi tiên khởi và thường nhật của nhân dânʺ, ông nói. ʺChúng ta phải lưu ư điều này trong những chiến lược của ḿnh. Nhưng cuộc đấu tranh hiện nay không chỉ giới hạn trong những đ̣i hỏi cấp bách và cục bộ này ‐ nó có chiều hướng mạnh mẽ và rơ ràng để đi xa hơn nữa [52].

  2. #52
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 3
    Bà Sophie Quinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P2


    Tại Xiêm

    Hồ Chí Minh đặt chân đến Xiêm vào lúc QTCS đang bắt đầu chuyển sang các chính sách có tính chất giai cấp mạnh mẽ hơn vào mùa hè 1928. V́ ông không có bất cứ báo cáo nào gửi cho QTCS trong khoảng 16 tháng ở Xiêm, từ tháng 7 1928 đến tháng 11 1929, chúng ta nắm được thông tin trong giai đoạn này nhờ vào một số hồi kư của những đảng viên cộng sản ḱ cựu và trong cuốn sách của Trần Dân Tiên, được cho là tự truyện của Hồ. H́nh ảnh của một nhà chính trị lưu vong bị quên lăng rút ra từ những lá thư của ông đă biến thành một nhà hiền triết khổ hạnh bí mật, băng rừng đến từng bản làng. Mặc dù lúc ấy ông độ khoảng 35 ‐ 36 tuổi nhưng trong sách Trần Dân Tiên ông được gọi là ʺông già Chínʺ và luôn đi trước cảnh sát một bước. Tiên đă viết rằng có lúc Hồ phải gia nhập một tu viện Phật Giáo để tránh sự truy lùng của mật thám Pháp [53]. Việc này hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng nó đă không được nói đến trong bất cứ hồi kư của người Việt nào đề cập về thời gian Hồ ở Xiêm.

    Việc thiếu tài liệu thông tin trong thời gian này thật vô cùng thất vọng, v́ người ta cho rằng Hồ Chí Minh đă hoạt động nhiều hơn là chỉ thành lập các hội tương tế, đóng vai già làng hoặc dựng trường học. Âm vọng về những thay đổi trong đường lối của QTCS đă lan đến Trung Quốc, Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á vào mùa thu 1928, nhưng chúng ta không biết ǵ nhiều từ những hồi kư có được rằng nó đă có ảnh hưởng ra sao đến miền Bắc Thái Lan. Những người biết được danh tính thật của ông th́ chỉ có vài học viên Thanh Niên mà ông đào tạo tại Quảng Châu và Cao Hoài Nghĩa, một cựu thuỷ thủ và cũng có lẽ là một thành viên trong nhóm của Hồ tại Quảng Châu. [54] Đến năm 1929 tin đồn lan đến châu Âu rằng ông đă bị bắt [55]. Thành phần lănh đạo của Thanh Niên tại Quảng Châu cho là ông vẫn c̣n ở Moscow [56]. Không rơ việc này đơn giản chỉ là thói quen giữ bí mật tài t́nh của ông hay v́ một lư do đặc biệt nào đó mà ông phải nằm im chờ đợi. Ta có thể đoán rằng ông đang đợi chờ cho những đợt cuồng phong chống những người Trotskyist lắng xuống. (Mặc dù khó có thể cho ông là một phần tử Trotskyist, nhưng trong nội bộ ĐCS Pháp, ông đă từng tiếp xúc với Doriot, người được cho là thân Trotskyist). Cũng có thể ông sợ bị tố giác bởi những người Việt không theo cộng sản mà ông đă có liên hệ khi c̣n ở miền nam Trung Quốc; hoặc có thể ông đang nghi ngờ Lâm Đức Thụ là một chỉ điểm của Pháp.

    Đi bộ từ thị trấn trung tâm Phichit, Hồ đến Udon, một trong những tâm điểm của cộng đồng người Việt hải ngoại, vào tháng 8 1928, theo hồi kư của Hoàng Văn Hoan [57]. Căn cứ vào những ǵ rút ra được từ hồi Kư của Hoan và những người khác trong thời điểm này, Hồ Chí Minh đă hoạt động rất cẩn trọng, thu thập tin tức về t́nh h́nh địa phương, giúp tổ chức và xây dựng trường lớp đào tạo thanh niên Việt Nam tại một ngôi làng ngoại ô Udon [58]. Hoan viết rằng sau khi ở lại Udon, Hồ chuyển đến Nakhon Phanom bên ḍng Mekong [59]. Vơ Mai, một thành viên của Thanh Niên vùng Nghệ An, trong năm 1931 đă khai với người thẩm cung ḿnh rằng ông đă đưa tám học viên từ Vinh đến Lakhon (tên cũ của vùng Nakhon Phanom] vào tháng 10 1928. Ông ở lại với họ trong khoá học dài 3 tháng rồi dẫn họ về lại Vinh vào thánh 12. Lời khai của Vơ Mai không nhắc đến sự hiện diện của Hồ Chí Minh tại Xiêm, nhưng thời điểm của nó cho thấy chuyến đi có thể có liên hệ với việc Hồ có mặt tại đây. Vơ Mai, một liên lạc viên đă làm việc chung với Thanh Niên Kỳ Bộ tại Trung Phần Việt Nam, có thể đă đem sang nhiều tin tức quan trọng về t́nh h́nh trong nước [60].

    Phương cách tổ chức phong trào tại nông thôn của Hồ làm ta liên tưởng đến phương pháp của Bành Bái tại Quảng Đông trong thời kỳ mặt trận thống nhất với Quốc Dân Đảng. Đến khi Hồ đặt chân đến Xiêm, những phương pháp này đă được đưa vào thực hành bởi những thành viên Thanh Niên như Hoàng Văn Hoan, người đă đến miền bắc Xiêm vào tháng 6 1928. Trọng tâm của phong trào là những trường ʺcấp tiếnʺ mà các nhà hoạt động đă thành lập tại các vùng nông thôn. Trong những trường này các học viên trẻ được tiếp cận với những ư tưởng chính trị hiện đại và rèn luyện thân thể, ngoài ra họ c̣n tự sản xuất lương thực và nếu dư thừa th́ dùng để trả lương cho giáo viên. Vào tháng 2 1930, khi Hồ báo cáo những hoạt động của ḿnh cho QTCS, ông cho biết Thanh Niên đă thành lập được 3 trường đào tạo và đang xây dựng ngôi trường thứ tư [61] Trong cùng bản báo cáo, ông đă giải thích rằng những người Việt cư ngụ tại Xiêm là những ʺnông dân tự do, thợ thủ công, tiểu thương, họ có thể được đưa vào những hội ʺái hữuʺ với những tư tưởng yêu nước và phản đếʺ [62]. Ông đề nghị những nhà hoạt động Việt Nam nên đổi tên tờ báo địa phương của họ từ ʺĐồng Thanhʺ sang ʺThân Áiʺ, với hàm ư hướng về một h́nh thức tổ chức rộng mở hơn [63]. Dường như không có giai cấp bần cố nông trong thành phần người Việt tại Xiêm để ông quan tâm. Vào cuối năm 1929, việc nhấn mạnh ʺtư tưởng yêu nướcʺ bị cho là thành phần cách tân nguy hiểm. Nhưng có lẽ Hồ đă không được thông báo về việc thay đổi xu hướng trong phong trào cộng sản thế giới cho đến mùa hè 1929, khi hai đại biểu người Việt ở Xiêm trở về từ Hội Nghị Thanh Niên lần thứ nhất được tổ chức tại Hồng Kông vào tháng 5.

    Những hồi kư có được th́ thiếu những chi tiết về hoạt động của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1928 đến tháng 11 1929, khi ông rời Xiêm đi Hồng Kông. Vơ Mai đă không báo cáo thêm những chuyến đi vượt Lào qua Xiêm sau tháng 12 1928. Hoàng Văn Hoan cho chúng ta biết rằng Hồ đang bận rộn với việc chuyển ngữ những luận thuyết cộng sản từ tiếng Hoa sang tiếng Việt dễ hiểu và họ thường làm việc chung trong công tác dịch thuật này. Nhưng ông viết những việc này đă xảy ra vào cuối của năm 1928. Tại Sakho, Hồ được cho là đă soạn thảo một bản trường ca về Trần Hưng Đạo, một anh hùng dân tộc của thế kỷ 13 mà người Việt địa phương tôn thờ như thần thánh. Hồi kư của Đặng Văn Cáp cho biết rằng Hồ lúc đó đă học được nghề thuốc Đông y để giúp chữa bệnh cho dân địa phương [64]. (Có lẽ ông đă t́m cách chữa chạy chứng lao phổi của ḿnh, v́ sau này ông có kể với một đồng nghiệp người Việt tại Hồng Kông là ông đă bị bệnh hơn một năm ở Thái Lan, và đă ʺkhông thể làm được bất cứ việc ǵʺ [65]) Hồ đă báo cáo với QTCS là ông đă qua Lào một thời gian ngắn để gặp gỡ những Việt kiều nhưng đă hai lần từ bỏ việc vượt biên sang Việt Nam v́ mật độ cảnh sát quá nhiều tại biên giới [66]. Theo Lê Mạnh Trinh, vào khoảng tháng 6 1929 ông đă sang Bangkok để thăm hỏi một số nhà ʺcựu cách mạngʺ [67]

    Một số sử gia người Việt tin rằng Hồ đă nối lại liên lạc với thân phụ của ông trong những năm 1928 và 1929 qua sự môi giới của người vợ goá của Lương Ngọc Can, người này có nhà ở Phnom Penh và làm công tác liên lạc giữa cộng sản và những người Việt quốc gia [68]. Từ mùa xuân 1928 cho đến khi ông qua đời vào tháng 11 1929, Nguyễn Sinh Huy (tức Nguyễn Sinh Sắc) sống tại làng Hoà An gần Cao Lănh, tỉnh Sa Đéc. Người Pháp tin rằng Huy đi lại như một thầy thuốc Đông y lưu động để giữ liên lạc với những cơ sở hoạt động ở miền Nam. Tuy nhiên đă không có bằng chứng về những tiếp xúc trực tiếp giữa hai cha con, mặc dù Huy thường xuyên viết thư cho vợ goá của Can vào mùa xuân 1928 với hy vọng là bà có tin tức ǵ đặc biệt cho ông [69]. Khi ông c̣n làm việc tại Xiêm, Hồ được cho rằng đă gửi hai người gốc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đang sống tại Xiêm sang công tác ở Cambodia [70]. Rất có thể là Hồ không những đă liên lạc với thân phụ ḿnh qua ngơ Phnom Penh mà c̣n với những thành viên Thanh Niên đang thành lập một ngôi trường cấp tiến tại thị trấn Sa Đéc. Những người này bao gồm Châu Văn Liêm, Hà Huy Giáp và Phạm Văn Đồng, theo lời Trần Văn Diep, một học viên Quảng Châu người gốc Cần Thơ đang giảng dạy tại đó [71]. Đa số những người nhóm này trở thành thành viên của thành phần cộng sản trung thành với nhóm lănh đạo Quảng Châu và Hồ Chí Minh, đó là An Nam Cộng Sản Đảng, vào mùa thu năm 1929.

    Sự phát triển của Thanh Niên

    Trong khi Hồ Chí Minh đang âm thầm hoạt động tại Xiêm và trong khi QTCS đang chỉnh đốn hướng đi tại Moscow, phong trào cách mạng ở miền Nam Trung Quốc và Việt Nam đang tự ḿnh tiến triển. Trong khoảng cuối năm 1928 một nhóm khoảng 24 người Việt Nam đang giảng dạy và học tập tại Hoàng Phố ‐ những người đă từng bị bắt giữ vào tháng 12 1927 và đă được thả tự do [72]. Cho đến giữa năm 1928 những Kỳ Bộ của Thanh Niên đă được thiết lập trên cả ba miền Việt Nam [73]. Vào tháng 2, Tổng Bộ Quảng Châu đề cử các thành viên sau cho Kỳ Bộ Trung Kỳ: Vương Thúc Oánh, Nguyễn Thiệu và Nguyễn Sĩ Sách. Vào tháng 6, lănh đạo Quảng Châu bổ nhiệm Lê Văn Phát đứng đầu Kỳ Bộ Nam Kỳ, lúc này gồm có Nguyễn Kim Cương, Châu Văn Liêm và có thể cả Ngô Thiêm [74]. Phát là một thầy thuốc nam gốc Bến Tre vừa về từ Quảng Châu, nơi ông đă bị giam giữ sau khởi nghĩa tháng Chạp. Kỳ Bộ Bắc Kỳ được thành lập vào tháng 7 1928, bao gồm Dương Hạc Đính, Trịnh Đ́nh Cửu và có thể cả Nguyễn Danh Đới,[75] dưới quyền lănh đạo của Trần Văn Cung, khi ông này quay về từ Quảng Châu vào đầu năm 1929. Thông tin t́m thấy trong văn khố Pháp về những hoạt động của giới lănh đạo Thanh Niên tại Quảng Châu trong thời kỳ này th́ tương đối ít nên không thể biết chắc được ai là người đóng vai tṛ chủ đạo trong việc phân nhiệm các thành viên về các Kỳ Bộ tại Việt Nam.

    Vào tháng 6 1928, nỗ lực cuối cùng nhằm thống nhất Cách Mạng Đảng với Thanh Niên bị thất bại. Sau đó Cách Mạng Đảng đă tổ chức đại hội ở Huế, tại đây đảng này đă đổi tên thành Tân Việt. Những lănh đạo được bầu ra tại Đại Hội là Phan Đăng Lưu, Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn) và Nguyễn Chí Diểu mà sau này đă trở thành những lănh đạo của đảng cộng sản tại Trung Kỳ trong thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ vào cuối thập niên 30 [76]. Vơ Nguyên Giáp, một học sinh trường Quốc Học Huế, cũng có thể đă tham gia trong Đại Hội. Đảng Tân Việt, cũng như Thanh Niên và Việt Nam Quốc Dân Đảng, đă bắt đầu tổ chức vận động phụ nữ trong thời gian này. Nguyễn Thị Minh Khai, một học sinh từ Vinh, đă được bầu làm lănh đạo của phân hội phụ nữ. Sau này bà cho biết vào năm 1928, phân hội của bà có 50 thành viên trong đó có một tiểu tổ 20 người tại nhà máy diêm ở Vinh và một tiểu tổ khác với 15 người tại một xưởng gỗ [77]. Việc tổ chức công đoàn cũng được phát triển mạnh tại Đông Dương vào năm 1928 [78]. Hà Huy Tập đă viết rằng một cuộc băi công đă tổ chức thành công tại đồn điền mía Phú Mỹ ở Bà Rịa vào tháng 6 và tháng 7. Chính bản thân ông đă đi làm phu đồn điền vào tháng 9 1928. Ông nhớ lại cuộc đ́nh công vào tháng 8 của công nhân hoả xa Biên Hoà và đ́nh công khác tại nhà máy dầu Nhà Bè. Ông cho rằng những hoạt động này là do những người cộng sản (ông không nêu tên) tổ chức[79].

    Vào ngày 28 và 29 tháng 9 1928 Kỳ Bộ Bắc Kỳ của Thanh Niên được cho là đă họp mặt gần Hà Nội để thảo luận phương hướng nhằm ʺvô sản hoáʺ đảng. Theo một nguồn tài liệu của Việt Nam, cuộc họp này, đôi khi được cho là một đại hội, đă được tổ chức tại nhà riêng của Ngô Gia Tự tại làng Liên Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh [80]. Nó được biết như là ʺHội Nghị Tái Tổ Chứcʺ, tài liệu cho biết. Kỳ Bộ đă nhận thấy thành viên của họ đa số là học sinh và giáo viên và thống nhất rằng trong tương lai nền tảng của phong trào sẽ phải là giai cấp lao động. Họ quyết định tăng cường công tác tuyên truyền trong hàng ngũ công nhân mỏ và các xí nghiệp; gửi thành viên đến làm việc trong các khu mỏ, nhà máy và đồn điền, và dùng ʺmọi phương tiện hợp pháp để tổ chức quần chúng một cách rộng răiʺ [81]. Hai thành viên của Thanh Niên là Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh được phân công tổ chức tuyên truyền trong hàng ngũ công nhân. Họ cũng có nhiệm vụ trông coi việc chuyển hoá thành phần học sinh tiểu tư sản và con em của giới trí thức đang chiếm đại đa số trong Thanh Niên sang thành phần vô sản. Những thành viên Thanh Niên nào không thay đổi theo đ̣i hỏi mới sẽ bị đào thải khỏi tổ chức. Thành phần này bao gồm những thành viên tư sản được ʺnuông chiềuʺ, những người không có phong thái cách mạng, không chịu được gian khổ và thiếu đạo đức. Vào tháng 3 1929 Kỳ Bộ Bắc Kỳ theo đuổi con đường tả khuynh bằng cách thành lập một cuộc họp mà họ gọi là tổ chức cộng sản đầu tiên tại Việt Nam. Những người tham dự cuộc họp tại số 5‐D đường Hàm Long, Hà Nội gồm có Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh và Trần Văn Cung (Quốc Anh) từ Nghệ An, người này như ta đă biết, vào đầu năm 1929 đă từ Quảng Châu về lại Bắc Kỳ để nắm Kỳ Bộ [82]. Đây chính là nhóm người ở lại Quảng Châu sau khi Hồ Chí Minh đă đi khỏi nơi này trong thời kỳ khởi nghĩa 1927. Trần Văn Cung được cho là đă tham gia trong cuộc Khởi Nghĩa Quảng Châu [83]. Những hoạt động của họ từ tháng 9 năm 1928 đến cuối năm 1929 cho thấy họ đă mất tin tưởng vào giới lănh đạo của Thanh Niên ở Quảng Châu. Câu hỏi đặt ra là họ đang theo đuổi tư tưởng nào trong giai đoạn này. Mặc dù cuộc họp vào tháng 9 1928 có thể là một phản ứng đối với Đại Hội 6 QTCS, nhưng có lẻ quá sớm để họ nhận thức thấu đáo cương lĩnh của Đại Hội, nhất là vẫn không có một sự nhất trí về việc áp dụng cương lĩnh như thế nào trong những nước thuộc địa.

    Tin tức về những sự kiện trong năm 1928 ở Moscow‐Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9 và Đại Hội 6 của ĐCS Trung Quốc và QTCS trong mùa hè‐có thể đă lọt về đến châu Á vào mùa thu năm đó. Những báo cáo không chính thức của những người Việt tại Moscow và của Nguyễn Văn Tạo tại Paris có thể đă đánh động Thanh Niên rằng sẽ có những thay đổi sắp đến. Nhưng chắc hẳn những chỉ thị cụ thể cho Đông Dương của QTCS đă không đến được các nhà cách mạng Việt Nam trước mùa xuân mà vào mùa thu năm 1929. Lúc đó th́ Luận Cương về Các Quốc Gia Thuộc Địa và Bán Thuộc Địa của Kuusinen chắc hẳn đă được in ra bằng tiếng Nga, và ʺCương Lĩnh Chungʺ của Bukharin có thể đă được biết đến qua tờ Inprecor và những tờ báo cộng sản khác. Nhưng ta cần nên nhớ rằng, dù vậy bản thảo Luận Cương của Kuusinen măi đến ngày 4 tháng 10 1928 mới được in trên Inprecor; bài phát biểu của ʺAnʺ về Việt Nam đến 25 tháng 10 mới xuất hiện trên báo này. ĐCS Pháp đă không bắt đầu thực thi chính sách ʺCon Đường Mớiʺ cho đến sau Đại Hội 6 của đảng này, được tổ chức vào tháng 4 1929. Trong một bài báo ngày 21 tháng 4 / 1929 trên tờ Nhân Đạo, Maurice Thorez đă viết rằng đảng này đang bước vào ʺmột giai đoạn chấn chỉnh mang tính quyết địnhʺ và một cuộc đấu tranh quan trọng chống lại ʺchủ nghĩa cơ hộiʺ.

    Sự phát triển của lực lượng cánh tả Trung Quốc

    Từ những hồ sơ lưu trữ của QTCS về Trung Quốc ta có thể thấy trong suốt năm 1928 Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc muốn theo đuổi một chính sách vũ trang mạnh mẽ hơn của QTCS trong hiện t́nh cách mạng Trung Quốc. Ví dụ như một tuyên bố vào tháng 5 1928 của Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc đă phê phán Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9 vào tháng 2 năm ấy. Tuyên bố nhấn mạnh rằng ʺcao trào cách mạngʺ vẫn đang tiếp diễn và nghị quyết của QTCS đă ʺđề cập quá ít về sự thiếu sót của viễn cảnh cho sự ổn định kinh tế và chính trị của giai cấp thống trịʺ ở Trung Quốc [84]. Cục Viễn Đông thuộc Ban Chấp Hành QTCS, được thành lập ở Thượng Hải vào năm 1926 để hướng dẫn những đảng cộng sản châu Á, đă thuyên giảm xuống c̣n một nhóm cốt cán ít ỏi trong thời kỳ này và đă không nắm lại vai tṛ chỉ đạo hoàn toàn cho đến mùa xuân 1929 [85]. Đại diện của Cục Thông Tin Quốc Tế (Otdel Mezhdunarodnoi Svyazy hay OMS) thuộc QTCS là A.E. Albrecht (Abramovich), lănh hai trách nhiệm: phân bổ ngân sách và đại diện chính trị trong thời kỳ gián đoạn này. Vào thượng tuần tháng 6 1928, từ Thượng Hải Albrecht đă viết thư cho Moscow than phiền về ʺtính manh độngʺ trong ĐCS Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển đến các vùng nông thôn. Ở miền nam các tỉnh Hồ Nam, Sơn Tây và phía bắc Quảng Đông, quân đội vẫn tiếp tục giao tranh. Nhưng nó đă xa rời quần chúng và hành xử như ʺmột nhóm thổ phỉʺ. Albrecht quy trách nhiệm cho đồng nghiệp của ḿnh, một đại diện QTCS tên Mitkevich (c̣n có tên là Olga), là đă gieo rắc tinh thần manh động trong ĐCS Trung Quốc[86]. Nhưng bản thân Mitkevich cũng đă phê phán những hành động thái quá của Sô Viết Hải‐Lục‐Phong: ví dụ như mệnh lệnh bắt tất cả nhà cửa phải được sơn đỏ, và ʺchủ trương tàn phá các huyện lỵ (là trung tâm quyền lực của giới địa chủ và quư tộc)ʺ [87].

    Mặc dù Albrecht báo cáo việc người Nhật can thiệp vào Tế Nam (Jinan ‐ ND) đă dẫn đến việc ʺđẩy mạnh phong trào quần chúng tại thành thịʺ, nhưng trọng tâm của ĐCS Trung Quốc đă hướng về vùng nông thôn. Các toán quân cộng sản do Chu Đức (Zhang De ‐ ND) và Trần Nghị (Chen Yi ‐ ND) chỉ huy đă kết hợp với lực lượng của Mao Trạch Đông tại vùng biên giới Hồ Nam ‐ Giang Tây vào tháng 4 1928 để tạo thành một vùng cơ sở nông thôn. Sau thất bại của Sô Viết Hải‐Lục‐Phong vào tháng 3, một số người tham gia đă rút vào vùng núi non phía đông Quảng Đông, trong khi một số khác có thể đă quay về Quảng Châu và hoà nhập với quân đội Quốc Dân Đảng. Những người c̣n lại hoà chung với làn sóng tị nạn đang dồn lên trong năm 1927 hướng về những cộng đồng người Hoa ở Nam Dương [88]. Làn sóng của tầng lớp lao động Trung Quốc đổ về khu vực Đông Nam Á rơ ràng là đă thúc đẩy việc thành lập Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương và từ đấy đă củng cố ảnh hưởng của uỷ ban này đối với phong trào cộng sản Việt Nam. Bộ Ngoại Giao Pháp đă báo cáo rằng cho đến năm 1927 tại Sài G̣n, Chợ Lớn và Phnom Penh đă có một ʺcon số đáng kể của người Hoaʺ trong thành phần cu‐li và phu bến tàu. Tại Bắc Kỳ người Hoa có mặt rất đông ở ʺmột số các vựa mỏʺ [89].

    Những người tị nạn trong đó bao gồm cả những người cộng sản lẩn trốn, đă được lôi cuốn vào cộng đồng lưu vong được tổ chức chặt chẽ ở nơi mà Quốc Dân Đảng đă có cơ sở vững vàng. Báo cáo của Pháp về vấn đề người nhập ć cho biết rằng ʺnhững người Trung Quốc tại Đông Dương đều nhận là có liên hệ với tổ chức dân tộc Quốc Dân Đảng... Họ đă bị bắt buộc tham gia, và họ không dám cưỡng lại quyền lực của các ʺHội Đồngʺ v́ chúng đều trực thuộc dưới quyền của một Tổng Đoàn thuộc Quốc Dân Đảngʺ [90]. Ta không rơ những cơ cấu cộng sản vào năm 1928 đă ẩn ḿnh ra sao trong ḷng tổ chức Quốc Dân Đảng. Tại Quảng Châu, như ta đă thấy, một số thành viên cộng sản người Việt vẫn nằm trong cơ cấu của Quốc Dân Đảng cho đến cuối năm ấy để tiếp tục những lớp tập huấn bí mật của ḿnh cũng như để mưu sinh. Tại những nước thuộc địa Đông Nam Á, họ cũng phải làm như thế đơn giản là để sống c̣n. Ví dụ như tại Singapore, thành phần cánh tả chịu ảnh hưởng của cộng sản (được biết đến như là phong trào Main School) đă kiểm soát 21 trong số 29 chi bộ Quốc Dân Đảng vào tháng 4 / 1928 [91]. Nhưng Uỷ BAn Nam Dương có lẽ đă thiết lập một cơ chế mặt trận mới trong năm ấy nhằm giữ nguyên tổ chức, như tôi sẽ phân tích thêm ở dưới.

    Trong khoảng giữa năm 1928 và 1929 không khí trí thức cánh tả tại Trung Quốc đang chịu ảnh hưởng từ nỗ lực chấn hưng khối Quốc Dân Đảng tả khuynh, không phụ thuộc vào QTCS. Vào tháng 5 1929 Hội Đồng Chí Tái Tổ Chức được thành lập. Cụm từ ʺtái tổ chứcʺ hàm ư về tinh thần của phong trào tái tổ chức Quốc Dân Đảng trong năm 1924, được thực hiện dưới ảnh hưởng của Borodin. Nguyên nhân tiên khởi kích động việc thành lập tổ chức này chính là việc Nhật chiếm đóng Tế Nam trong tỉnh Sơn Đông trong cùng tháng ấy [92]. Nhưng theo quan điểm của So Waichor, thành phần Quốc Dân Đảng cánh tả không bằng ḷng về việc Tưởng Giới Thạch đă lơ là những nguyên tắc cơ bản của họ: phản đế và cải cách điền địa [93]. Cái lư tưởng mà Hội Đồng Chí đại diện từ 1928 đến khi nó sụp đổ vào năm 1931 là để ʺnhắm vào sự đồng t́nh của ʺgiai cấp bị bóc lộtʺ ở Trung Quốc, bao gồm nhiều thành phần xă hội như giới trung thương và tiểu thương, giới nông dân ‐ từ tiểu địa chủ đến lao công nông trại, giai cấp lao động, giai cấp tiểu tư sản, trí thức và thanh niênʺ [94].

    Ảnh hưởng trí thức của nhà lănh đạo Hội Đồng Chí là Trần Công Bác (Chen Kungpo ‐ ND) đă vượt ra ngoài phạm vi Quốc Dân Đảng. Ông là một học giả được đào tạo tại Mỹ và một cựu đảng viên ĐCS Trung Quốc từng giữ nhiều chứ vụ quan trọng trong thời kỳ mặt trận thống nhất[95]. Tạp chí Cách Mạng B́nh Luận (Ko Ming Pʹing Lun ‐ ND) do ông xuất bản từ đầu năm 1928 đến khi bị Tưởng Giới Thạch đóng cửa vào tháng 9 là một tờ báo có chiều hướng Marxist. Những người viết bài cho tạp chí đại diện cho phái cực tả của Quốc Dân Đảng và có cả những người ʺbạn đồng hànhʺ cộng sản [96]. Một trong những tư tưởng do Trần Công Bác cổ xuư trong tạp chí và những bài viết khác là ʺCuộc Cách Mạng Dân Tộc Trung Quốc có liên hệ chặt chẻ với cuộc cách mạng phản đế toàn cầuʺ. Ông tin rằng Quốc Dân Đảng nên nhận lấy nhiệm vụ lănh đạo cuộc cách mạng dân tộc của nhân dân thuộc địa Đông phương, từ đó thúc đẩy cách mạng thế giới [97]. Về vấn đề này ông khuyến khích việc thành lập một tổ chức ʺQuốc Tế Phương Đôngʺ hoặc một ʺTam Dân Quốc Tếʺ nhằm cân bằng thế lực với cả Hội Liên Hiệp Quốc Gia và Đệ Tam Quốc Tế ở Moscow. So Waichor đoan chắc rằng chủ thuyết phản đế của Trần Công Bác ʺđă gieo mầm tư tưởng về vấn đề này trong những người cánh Tả.ʺ

    Việc thành lập một hội phản đế mới tại Thượng Hải vào tháng 7 hoặc tháng 8 ʺLiên Hiệp các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bứcʺ có thể là kết quả hoạt động của Hội Đồng Chí (c̣n được gọi là ʺTái Tổ Chứcʺ) trong Quốc Dân Đảng [99]. Liên Minh này sẽ đóng vai tṛ chủ chốt trong trong phong trào cánh tả ở Nam Dương trong giai đoạn từ 1929 đến đầu 1930. Sự ra đời của nó có thể đă tạo điều kiện cho nỗ lực của Hội Đồng Chí trong việc thành lập các chi nhánh hải ngoại tại Hồng Kông, Nhật, Việt Nam và Singapore [100]. Nhưng Liên Hiệp này dường như chỉ để dùng làm một vỏ ngoài hợp pháp cho những hoạt động cộng sản. Việc này có vẻ như đă lỗi thời ‐ giống như một sự tiếp tục của mặt trận thống nhất giữa Quốc Dân Đảng ‐ ĐCS Trung Quốc ‐ có lẽ đă liên hệ đến chủ trương của Willy Munzenberg trong Liên Hiệp Phản Đế ở Berlin. Tại Đại Hội 6 QTCS ông đă lên tiếng về sự cần thiết của việc giữ vững ảnh hưởng cộng sản trong hàng loạt những tổ chức phi cộng sản khác [101]. Cho đến tháng 4 1929 Phu nhân Tôn Dật Tiên, nằm trong phong trào ʺĐệ Tam Đảngʺ, vẫn được mang chức vụ Chủ Tịch Danh Dự trong tờ báo của Hội Liên Hiệp [102]. Trong một lá thư viết vào tháng 3 1930, Cục Viễn Đông đă khen ngợi ĐCS Trung Quốc về sự ʺthành thạo trong việc sử dụng những khả năng hợp pháp và bán hợp phápʺ, trong đó bao gồm Liên Hiệp Phản Đế và ʺLiên Hiệp Tự Doʺ [103].

    Một báo cáo của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương (cho Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc) viết vào ngày 19 tháng 7 1928 đă phản ánh tầm quan trọng của phong trào phản đế trong giai đoạn này. Nó cũng đề cập đến việc đ̣i hỏi phải có một cuộc ʺđấu tranh không khoan nhượngʺ trong các tổ chức hàng đầu của Uỷ Ban [104]. Bản báo cáo cũng tường thuật một hội nghị toàn thể mở rộng bắt đầu vào ngày 2 tháng 7 1928. Hội nghị này bao gồm những đại biểu từ Bonero, ʺTiểu Tổ Thuỷ Thủ Đặc Biệtʺ, những tổ công nhân cao su, Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản và Liên Đoàn Phản Đế [105]. Uỷ Ban Quảng Đông đă không gửi đại biểu tham dự; và cũng không thấy nhắc đến những đại biểu của chi bộ Nam Kỳ ‐ Cam Bốt. Đại Hội Toàn Thể tuyên bố rằng tổ chức đảng của vùng Quần Đảo Mă Lai (một cách gọi khác của người Nga cho vùng Nam Dương) phải được tái tổ chức; mọi thành phần ʺphá hoại, thoái hoá và do dựʺ sẽ bị đào thải. Chỉ có ʺnhững đồng chí cương quyết, trung thực và quên ḿnhʺ sẽ được đề bạt; những người xuất thân thành phần công nông được đưa thẳng lên hàng ngũ lănh đạo. Hội Nghị đă dành ngày 3 tháng 8 cho những khoá giảng về phản đế, và nó đă được nhấn mạnh một cách đặc biệt trong chương tŕnh đại hội. Các học viên được chỉ thị ʺđến với nông dânʺ và tổ chức ʺmột đội ngũ quần chúng rộng răiʺ để ʺtự nổi dậyʺ tham gia phong trào chống Nhật. Nhưng những hoạt động trên không được nhân danh Uỷ Ban Nam Dương. Báo cáo nói rằng ʺhiện tại chúng tôi không có khả năng lănh đạo phong trào quần chúng một cách công khai dưới danh nghĩa đảng cộng sảnʺ. V́ thế phong trào ngày 3 tháng 8 đă được lănh đạo một cách bí mật, nhân danh những tổ chức quần chúng như Hiệp Hội Kháng Nhật, Hiệp Hội Hoa Kiều Cứu Quốc, Hiệp Hội Tẩy Chay Hàng Hoá Nhật, vân vân [107].

  3. #53
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 3
    Bà SophieQuinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P3



    Điều lư thú là thời điểm của Hội Nghị toàn thể mà trong đó sắc lệnh tái tổ chức Uỷ BAn Nam Dương được ban hành lại rất gần với thời điểm của ʺHội Nghị Tái Tổ Chứcʺ của Kỳ Uỷ Bắc Kỳ của Thanh Niên vào tháng 9. Liệu chi bộ Nam Kỳ‐Cam Bốt của Uỷ BAn Nam Dương đă nhận chỉ thị về việc cần phải ʺtái tổ chứcʺ sau hội nghị toàn thể tháng 7? Liệu có những liên hệ ǵ giữa những nhà hoạt động người Hoa tại Sài G̣n hoặc Bắc Kỳ và những thành viên người Việt trong Thanh Niên? Rất có khả năng những tổ chức cộng sản Nghiệp Đoàn Thuỷ Thủ, Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, Ban Bí Thư Nghiệp Đoàn Thái B́nh Dương, hoặc những phần tử cộng sản trong Liên Đoàn Phản Đế đă cung cấp cơ cấu tổ chức để liên lạc và truyền đạt những giúp đỡ về chính trị. Ta có thể đoán ít nhất là động lực thúc đẩy Thanh Niên và chú trọng việc tổ chức tầng lớp vô sản đă được chuyển tải từ ĐCS Trung Quốc, có lẽ là qua ngơ Uỷ BAn Nam Dương mà không phải trực tiếp từ Moscow hoặc từ Hồ Chí Minh đang ở Xiêm. Uỷ Ban Trung Ương của Thanh Niên tại Quảng Đông h́nh như không liên quan đến việc này ‐ theo như những sự kiện trong năm 1929 cho thấy.

    Khi Lư Lập Tam (Li Li San ‐ ND) từ Moscow quay về vào cuối mùa hè hoặc đầu mùa thu 1928, ông đă nhanh chóng khuyến khích xu hướng thiên tả bên trong ĐCS Trung Quốc với phương pháp tạm thời đưa những người cộng sản Trung Quốc vào một mặt trận thống nhất hạ tầng với những thành phần cánh tả của Quốc Dân Đảng. Đây là một khía cạnh trong chính sách của Lư Lập Tam đă không được phản ánh trong tài liệu chính thức của ĐCS Trung Quốc. Nhưng tài liệu của QTCS về ĐCS Trung Quốc đă cung cấp những bằng chứng về khía cạnh đă không được công nhận này trong phong cách lănh đạo của Lư Lập Tam. Khía cạnh này theo tôi đă có ảnh hưởng đến hướng đi của những sự kiện tại Việt Nam trong năm 1929 và đầu năm 1930. Khi Lư quay về lại Thượng Hải, ông chỉ là một thành viên dự khuyết của Bộ Chính Trị và Uỷ Ban Thường Trực [108]. Nhưng với tư cách là người đứng đầu Pḥng Tổ Chức, ông đă sớm trở thành người lănh đạo tối cao trong những khu vực thành thị. Rất có thể là Lư Lập Tam đă đưa ảnh hưởng của ḿnh vào trong Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương. Là lănh đạo của Tổng Liên Đoàn Lao Động tại Thượng Hải trong thời kỳ hoàng kim của nó vào năm 1925, và cũng là thành viên trong Ban Bí Thư Thường Trực của Nghiệp Đoàn Thái B́nh Dương, có thể ông đă là một nhân vật quen thuộc đối với những người hoạt động công đoàn đă nhập cư đến những bến cảng ở Đông Nam Á từ năm 1926 đến 1928 [109]. Ông mang những quan điểm thiên tả của Uỷ Ban Chấp Hành của Phân Bộ Quảng Đông mà ông đă là thành viên sau khi trốn khỏi Thượng Hải vào cuối năm 1925 [110]. Sau thất bại của Công Xă Quảng Châu ông được đề cử để đứng đầu Tỉnh Uỷ Quảng Đông; không rơ là ông đă giữ chức vụ này bao lâu [111]. Cảnh sát Singapore sau này đă lưu ư rằng đă có một ʺsự tăng cường mạnh mẽ trong việc tuyên truyềnʺ từ Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đến Mă Lai trong năm 1928 và 1929. Họ cho là việc phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Mă Lai là do phong trào tuyên truyền này [112]. Việc Lư Lập Tam quay về Thượng Hải vào nửa cuối năm 1928 cho thấy đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tăng cường tuyên truyền trên.

    Một trong những hành động đầu tiên của Lư Lập Tam khi quay về Thượng Hải là trục xuất Thái Hoà Sâm (Cai Hesen ‐ ND) ra khỏi thành phần lănh đạo, một hành động mà QTCS cho là để bác bỏ những kết quả của Đại Hội 6 ĐCS Trung Quốc. QTCS đă hy vọng việc bảo đảm được sự đoàn kết trong thành phần lănh đạo ĐCS Trung Quốc bằng cách đưa những đại biểu từ nhiều tầng lớp khác nhau vào Bộ Chính Trị, một lá thư của Vladimir Kuchumov thuộc Cục Viễn Đông gửi vào tháng 12 1928 cho Stalin, Molotov, Bukharin và Pyatnitsky đă giải thích như thế. Nhưng việc Thái bị trục xuất được xem là một bước lùi lại thời kỳ cực tả trước Đại Hội 6. Lá thư của Kuchumov đă đề cập đến thông tư (không có số) của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc bàn về những vấn đề tổ chức trong đó đă lên án đường hướng ôn hoà của Chi Uỷ Thượng Hải, khác hẳn với đường hướng cực đoan của Tỉnh Uỷ Quảng Đông. Lá thư của Kuchumov do đó đă phê phán Hướng Trung Phát (Xiang Zhong Fa ‐ ND) và Lư Lập Tam đă không tổ chức được quần chúng và không phát huy khẩu hiệu ʺĐoàn kết với giai cấp Tiểu Tư Sảnʺ. Phương cách khắc phục những sai lầm chính trị này là gửi đến một nhóm đại diện cho Ban Chấp Hành QTCS để làm việc với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Điểm cuối cùng trong lá thư của Kuchumov là đề xuất việc tái thiết lập Phân Bộ Viễn Đông để lănh đạo các tổ chức tại Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên, Philippines và Đông Dương [113].

    Phân Bộ Viễn Đông mới đă bắt đầu hoạt động tại Thượng Hải vào hạ tuần tháng 3 1929 [114]. Nó bao gồm một người Ba Lan tên là Ignaty Lyubinetski‐Kylski, c̣n có tên là ʺOstenʺ, và một người Đức thuộc cả hai cánh tả và hữu của ĐCS Đức trong những năm 20. Người này tên là Gerhard Eisler, anh của Ruth Fischer, được biết đến với tên ʺRobertsʺ. Những người khác đóng cơ sở tại Thượng Hải là đại diện của Công Đoàn Quốc Tế Đỏ (Profintern‐ND) là George Hardy và một người khác tên là G.M. Bespalov, phái viên của Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản là Willy hoặc ʺYoungʺ. Jakov Rudnik, người đứng đầu những hoạt động của Cục Thông Tin Quốc Tế đă quay lại Thượng Hải vào mùa xuân 1930 với bí danh Milaire Noulens cùng với một số người khác[115]. Osten/Rylski và Robers/Eisler là những báo cáo viên chính trị chủ chốt cho đến khi Pavel Mif xuất hiện vào tháng 9 1930, trong khi đó những thành viên khác trong Phân Bộ Viễn Đông có ít trách nhiệm hơn, ví dụ như là những công tác về công đoàn, hoặc trong trường hợp của Rudnik là lo về tài chánh và hậu cần cho Phân Bộ. Những người cộng sản biết được, theo lời Trương Quốc Đào (Zhang Guo Tao ‐ND), rằng Kylski và Eisler đă có ʺnhưng sai lầm hữu khuynhʺ trong quá khứ. (Trương đă nhầm lẫn tên của họ là Thalheimer và Brandler). V́ lư do này, ông cho rằng, họ không được xem như những những người uỷ quyền đáng tin cậy dưới quan điểm của một QTCS đă được Stalin hoá [116].

    Mùa hè 1929 đă đem đến những tiến triển mới hứa hẹn một ʺcao trào cách mạngʺ xa vời mà những người Trung Quốc hằng trông đợi mà giờ đây sắp sửa xảy ra. Như ta đă thấy, Đại Hội Toàn Thể QTCS lần thứ 10 vào tháng 7 đă quyết định ʺPhương Hướng Mớiʺ và việc đấu tranh giai cấp là những chính sách chủ đạo trong phong trào cộng sản quốc tế. (Một lá thư của QTCS gửi cho ĐCS Trung Quốc vào mùa hè năm ấy thông báo cho ĐCS Trung Quốc biết rằng những người trung nông không c̣n được xem như là đồng minh trong cuộc đấu tranh chống giai cấp địa chủ [117]). Cùng lúc ấy, phong trào chống đối vũ trang của một liên minh lỏng lẻo gồm những địa chủ và sứ quân chống lại Quốc Dân Đảng đang dâng cao ở Nam Kinh. Kuusinen đă phê b́nh ĐCS Trung Quốc trong một hội nghị của Ban Bí Thư Chính Trị thuộc Ban Chấp Hành QTCS vào tháng hai rằng ʺRất nhiều đồng chí Trung Quốc chỉ chú trọng vào mục tiêu trước mắt,, làm như họ đang ngồi bên cửa sổ chờ đợi một phép màu cách mạng th́nh ĺnh xuất hiện. Phép màu này phải xuất hiện ra sao th́ không rơ ràng mấy.... Họ bàn về cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và tổ chức Quảng Tây và bảo rằng nhờ nó mà cao trào cách mạng đang đến gần” [118] Dù vậy, v́ QTCS không ngừng nhấn mạnh sự cần thiết cảnh giác chống lại ʺchủ nghĩa cơ hội hữu khuynhʺ và ʺchủ nghĩa thoả hiệpʺ, ĐCS Trung Quốc dường như đă quyết định rằng việc nhen nhóm lại ʺchiến tranh quân phiệtʺ đă mở ra cho họ cơ hội để đẩy mạnh những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Stalin cũng đă đẩy mạnh mối căng thẳng trong nội bộ QTCS bằng cách liên tục đưa ra những cảnh báo về một cuộc chiến tranh của đế quốc chống lại nước Nga Sô Viết, có lẽ để kêu ủng hộ cho những chính sách kinh tế táo bạo của ḿnh. Ông đă sử dụng mối mâu thuẩn đang căng thẳng tại tuyến đường sắt Trung Quốc Đông Phương (đoạn nối dài của tuyến đường sắt nổi tiếng Trans‐Siberian, là nguyên nhân của chiến tranh Nga‐Nhật và Trung‐Nhật ‐ ND) để đưa ra quan điểm rằng một trong những nhiệm vụ của cộng sản thế giới là bảo vệ Liên Bang Sô Viết.

    Khi những người trong Hội Tái Tổ Chức tham gia vào việc điều phối cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền Nam Kinh vào giữa năm 1929, ĐCS Trung Quốc đă chủ tâm ủng hộ họ. Trong số những người quân phiệt đă thách thức giới lănh đạo Quốc Dân Đảng gồm có Trương Phát Khuê (Zhang Fakui ‐ ND) ở Hồ Bái, Lư Tôn Nhân (Li Zong Ren ‐ ND) và Du B́nh Bá (Yu Zuobo ‐ ND) ở Quảng Tây [119]. Trần Công Bác chuyển đến Hồng Kông vào tháng 6 1929 để chỉ huy chiến dịch vũ trang, được gọi là ʺPhong Trào Vệ Đảng Cứu Quốcʺ [120]. Có lúc dường như nó đă có cơ hội chấm dứt quyền lực của Tưởng Giới Thạch. Hai thành viên cộng sản, Đặng Tiểu B́nh (Deng Xiao Ping ‐ ND) và Trương Vân Dật (Zhang Yun Yi ‐ ND) người gốc Hải Nam đă được điều từ Thượng Hải đến Quảng Tây để trà trộn vào ʺPhong Trào Cứu Quốcʺ, Đặng đến vào khoảng giữa năm 1929 và Trương vào khoảng đầu năm 1928. Đặng kể lại với Edgar Snow (nhà báo Mỹ ‐ ND) vào năm 1936 rằng ông đă đến Quảng Tây qua ngă Hải Pḥng, Việt Nam v́ ngă Quảng Châu quá mạo hiểm. Ông kể rằng đă liên lạc với những phiến quân người Việt, những người đă phát động cuộc ʺkhởi nghĩa Công‐Nông vào năm 1930ʺ [121]. Không chắc hẳn như lời của Uli Franz (nhà sử học Đức ‐ ND) rằng Đặng đă tham khảo với Hồ Chí Minh tại Thượng Hải về con đường nào tốt nhất để đi Quảng Tây. Nhưng rơ ràng là Đặng đă dùng những cơ sở người Việt để giúp ông di chuyển từ Hải Pḥng bằng tàu hoả để đến biên giới Quảng Tây, từ đó ông đi theo con đường của những thành viên Thanh Niên đến Long Châu rồi từ đó đi Nam Kinh [122].

    Sau Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10, Phân Bộ Viễn Đông tại Thượng Hải‐bao gồm những nhân viên ʺhữu khuynhʺ cũ ‐ đă đưa ra quan điểm bằng cách thông qua một nghị quyết biểu lộ sự ủng hộ tuyệt đối của họ đối với chính sách ʺPhương Hướng Mớiʺ. Tài liệu này được viết vào tháng 10 1929, trong đó tuyên bố rằng Phân Bộ Viễn Đông sẵn sàng chiến đấu chống lại ʺnhững đe doạ mang tính cơ hội và dao động trong ĐCS Trung Quốcʺ. Bản nghị quyết cũng đă phê phán ĐCS Trung Quốc chỉ có ʺmột lớp mỏng của thành phần công nhân và tiếp xúc với một số tổ chức quốc gia cách tânʺ. Tỉnh Uỷ Quảng Tây đă thương lượng với Tướng Du B́nh Bá về hoạt động trong đội quân của ông ta, và gửi điện đến những tổ chức địa phương kêu gọi một chiến dịch rộng lớn ủng hộ khối Trương Phát Khuê ‐ Du B́nh Bá, bản nghị quyết cho biết. Một số đảng viên đă từ chối thành lập những công đoàn đỏ trong những hăng xưởng đă có những công đoàn vàng hoặc trực thuộc chính phủ tồn tại [123].

    Nghị quyết này của Phân Bộ Viễn Đông đă tạo ra phản ứng đầy giận dữ từ Bộ Chính Trị Trung Quốc. Trong những cuộc họp với Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 12 1929, những người Trung Quốc, do Chu Ân Lai, Lư Lập Tam và Hướng Trung Phát đại diện, đă không thừa nhận việc bị cáo buộc là có những ʺsai lầm hữu khuynhʺ. Tại cuộc họp ngày 10 tháng 12 Rylski đă phê b́nh ĐCS Trung Quốc về việc đă hợp tác với thành phần trung nông và những người ʺquốc gia cách tânʺ tại Quảng Tây [124]. Ông thừa nhận là khi những mâu thuẫn xảy ra tại tuyến đường sắt Đông Phương, ʺchúng tôi đă thảo luận về chiến tranh du kích với các đồng chí và đă đưa ra những đề xuất rất vững chắc mà các đồng chí cũng đă chấp nhận. Chúng tôi đă đề nghị các đồng chí nên tổ chức, mở rộng và kích hoạt những cuộc chiến tranh du kích...ʺ [125]. Nhưng với nỗ lực nhằm tránh liên hệ trách nhiệm v́ những sai lầm của ĐCS Trung Quốc, ông đă bổ xung rằng đề nghị này đă đi kèm với những chỉ thị giáo dục quần chúng mà ĐCS Trung Quốc đă không chịu áp dụng [126]. Lư Lập Tam phản biện lại lời chỉ trích này tại cuộc họp thứ hai (13 tháng 12], ông nói rằng Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc luôn đấu tranh chống lại mối đe doạ hữu khuynh, rằng họ đă chiến đấu những khuynh hướng thiên hữu bằng những phương pháp như hợp pháp hoá phong trào, phát triển hoà b́nh và đánh giá nghiêm khắc tầng lớp tư sản. Ông cũng chỉ ra rằng Uỷ Ban Trung Ương cũng đă phê phán những người ʺTái Tổ Chứcʺ tại Quảng Tây: ʺCó thể có những đồng chí hoạt động trong quân đội đă không hiểu rơ t́nh h́nh tại Quảng Tây. Nhưng không nên liên hệ những sai lầm của họ với Uỷ Ban Trung Ương và Đặc Uỷ Quảng Tâyʺ [127].

    Cuối cùng sau một thuyết tŕnh dài của Eisler vào ngày 17 tháng 12, cả hai phía đă đồng ư đệ tŕnh những bất đồng của họ lên Moscow để thỉnh cầu quyết định tối hậu về chính sách. ʺKhi chưa có được nghị quyết về vấn đề này, chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục những hoạt động thường nhật như trước đâyʺ, Hướng Trung Phát kết luận. ʺNếu ĐCS Trung Quốc phạm sai lầm, Phân Bộ Viễn Đông sẽ chấn chỉnh họ và ngược lại, nếu Phân Bộ sai phạm, chúng tôi sẽ phải đấu tranh phản đối họ. Ngoài việc gửi điện, chúng tôi đề nghị gửi một đồng chí Trung Quốc đến Moscow” [128] Kết cục này đă làm cho Phân Bộ Viễn Đông không có một quyền lực thật sự nào trong mắt của ĐCS Trung Quốc cho đến khi Moscow đưa ra quyết định cuối cùng. Dường như từ cuối tháng 12

    1929, Lư Lập Tam và người của ông đă cho thấy họ càng trở nên độc lập trong việc giải thích những chính sách của QTCS. Dù thế, họ lại không muốn mất đi số tiền viện trợ từ QTCS mà trong năm 1929 đă lên đến hơn 200 ngh́n đô‐la cũng như số tiền 16.408 đô‐la dành cho Đoàn Thanh Niên Cộng Sản [129]. Vào tháng 2 1930 Chu Ân Lai bắt đầu đi Moscow để hội ư. Ông đến Moscow vào tháng 4 sau khi đi qua Berlin [130]. Rylski cũng quay lại Moscow trong khoảng thời gian ấy.

    Sự rạn nứt của Thanh Niên

    Giai đoạn của việc Lư Lập Tam t́m cách nắm giữ quyền lực trong cơ cấu của ĐCS Trung Quốc xảy ra cùng lúc với sự rạn nứt đang lớn dần trong Thanh Niên Hội. Như đă nhắc đến ở trên, bắt đầu từ tháng 9 1928, chi bộ phía bắc của Thanh Niên đă bắt đầu một chiến dịch ʺvô sản hoáʺ chính ḿnh. Vào tháng 3 1929 họ đă thành lập một nhóm cộng sản ở Hà Nội. Khi Phân Bộ Viễn Đông đang tự thiết lập ở Thượng Hải, tầng lớp lănh đạo của Thanh Niên đă triệu tập một hội nghị toàn quốc ở Hồng Kông (họ đă phải rời Quảng Châu vào đầu năm 1929, khi Hồ Tùng Mậu và một nhóm học viên người Việt ở Hoàng Phố bị bắt). Khi đại hội khai mạc vào tháng 5, chiều hướng thiên tả đă được khẳng định rơ ràng. Đă không có những bất đồng lớn giữa các đại biểu về sự cần thiết để thành lập một đảng cộng sản theo khuôn khổ Bolshevik, dựa trên tinh thần của Đại Hội QTCS lần 6. Nhưng trong những cuộc họp tiền đại hội, đoàn đại biểu từ phía bắc đă tạo ra mối chia rẽ khi họ đ̣i hỏi phải thành lập đảng cộng sản ngay lập tức. Ba nhân vật bất đồng này là Trần Văn Cung, Nguyễn Tuấn và Ngô Gia Tự đă sớm rút khỏi đại hội trong khi những người lănh đạo từ Trung Quốc là Lâm Đức Thụ và Lê Hồng Sơn đă không chịu thay đổi quan điểm của họ rằng Việt Nam chưa sẵn sàng bước khỏi giai đoạn chuẩn bị cho việc thành lập đảng [131]. Nhưng theo tài liệu của Sở Liêm Phóng th́ Lê Hồng Sơn đă tham khảo ư kiến về cương lĩnh mới với ĐCS Trung Quốc tại Hồng Kông và v́ thế ông có cơ sở để cho rằng ḿnh đă đi đúng hướng [132]. Những đại biểu từ các phân bộ miền trung, miền nam và Xiêm của Thanh Niên lưu lại Hồng Kông cho đến cuối tháng 5 để hoàn thành bộ ʺtiểu cương lĩnhʺ khổng lồ bao gồm những h́nh thức kỷ luật trong đó có năm vi phạm dẫn đến án tử h́nh. Cương lĩnh đặc biệt thừa nhận những văn bản của Đại Hội QTCS lần 6 và tuyên bố chấm dứt mọi liên hệ với Quốc Dân Đảng Trung Quốc, giờ đă bị họ cho là đảng của ʺphong kiến, địa chủ và đế quốcʺ [133]. Một Uỷ Ban Trù Bị được thành lập để bắt đầu việc thiết lập đảng cộng sản. Hồ Chí Minh bị đánh rơi khỏi hàng ngũ lănh đạo v́ ông đang ở quá xa; theo lời Lâm Đức Thụ th́ đă có những tin đồn rằng ông đang bị ốm nặng tại Đức [134].

    Câu hỏi tại sao những người lănh đạo Thanh Niên ở phía bắc lại có thái độ chống đối với Uỷ Ban Trung Ương của Thanh Niên tại Trung Quốc có lẽ không có câu trả lời đơn giản. Tuổi trẻ cao ngạo có lẽ là một phần nguyên nhân, cộng với ước mong hợp lư là đem giới lănh đạo cộng sản đến gần với những thành viên trong nước. Đến khi Đại Hội tiến hành ra vào tháng 5, nhóm phía bắc có thể đă có một vài phản đối chắc chắn đối với giới lănh đạo tại Quảng Châu/Hồng Kông. Ví dụ rơ ràng nhất là sự hiện diện của Lâm Đức Thụ, ngay cả vào năm 1929, Thụ đă bị những nhà cách mạng, đặc biệt là Nguyễn Hải Thần nghi ngờ là mật thám của Pháp [135]. Thụ c̣n biết đến như là một người có lối sống suy đồi và chính ông đă báo cáo với Sở Liêm Phóng rằng ḿnh đă ʺbị những đồng chí phê phán mạnh bạo trong suốt cả năm.ʺ V́ thế ông đă yêu cầu không nhận lănh một chức vụ lănh đạo nào, và đă trấn an Sở Liêm Phóng rằng việc này sẽ ʺlàm cho công tác của tôi dễ dàng hơnʺ [136]. (công tác của ông có lẽ liên quan đến việc tạo ra sự hiểu lầm giữa những nhóm cách mạng). Một nguyên nhân khác của sự xích mích trên là ưu thế của những người có gốc gác từ những tỉnh miền trung như Nghệ An và Hà Tĩnh trong hàng ngũ lănh đạo tại Hồng Kông. Liên quan đến mối căng thẳng vùng miền này có thể là sự khác nhau của hai nhóm trong phương pháp đào tạo và tổ chức. Nhóm Trung Quốc bao gồm các thành viên đă qua huấn luyện quân sự, một số trong họ đă từng là giảng viên tại Hoàng Phố. Những người này gồm có Trương Văn Lềnh, Lê Quảng Đạt, Lê Duy Điếm và Lê Hồng Sơn. Họ cũng có nguồn gốc từ nông thôn. Lê Hồng Sơn từng là tuyên truyền viên cho Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế trong tầng lớp nông dân tại Đảo Hải Nam; Hồ Tùng Mậu đă giúp tổ chức những hiệp hội tương ái tại những vùng thôn quê ở Xiêm. Trong khi đó, những thành viên Bắc Kỳ của Thanh Niên ngày càng tập trung vào việc tổ chức tại những khu vực thành thị. Hoạt động của họ tại bến cảng Hải Pḥng và những khu mỏ Cẩm Phả, Uông Bí và Mạo Khê, nơi có mật độ người lao động gốc Hoa cao, có lẽ đă giúp họ liên lạc với những người tổ chức công đoàn thuộc Liên Đoàn Lao Động Nam Dương và Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc. Những căng thẳng này cũng có thể đă xuất hiện tại Nam Kỳ. Sự tranh đua giữa Tôn Đức Thắng, một lănh tụ công nhân tại Sài G̣n, và Lê Văn Phát đă dẫn đến việc Phát bị Thanh Niên ám sát vào tháng 12 1928, có thể được bắt nguồn từ những xung đột thành thị và nông thôn. Chúng ta có thể thấy được những khác biệt này đă tạo thành mảnh đất màu mỡ để cho Sở Liêm Phóng gieo rắc những hạt giống kích động tranh chấp.

    Thời điểm từ tháng 6 1929 đến tháng 2 1930 là thời điểm nguy kịch của những người cộng sản Việt Nam. Thành phần ly khai tại Bắc Kỳ đă thành lập một đảng cộng sản riêng vào tháng 6 gọi là Đông Dương Cộng Sản Đảng và đă nhanh chóng điều động phái viên đến những vùng khác trong nước. V́ họ nắm quyền tại chi bộ phía bắc của Thanh Niên nên những thành viên miền bắc dù muốn hay không cũng đă tự động gia nhập đảng mới. Họ cũng đă xâm nhập vào miền trung và miền nam. Trong cả hai vùng này hàng ngũ lănh đạo của Thanh Niên đă bị một làn sóng bắt bớ tấn công vào cuối năm 1929. Vào tháng 7 toàn bộ chi uỷ của miền trung đă bị bắt, trong đó có Nguyễn Sĩ Sách vừa mới trở về từ hội nghị của Thanh Niên và Vương Thúc Oánh, Trần Văn Cung cũng bị bắt. Vơ Mai trốn lên vùng thượng du Nghệ Tĩnh [137]. (Hồ Chí Minh và Trần Phú đều bị xử tử vắng mặt tại một phiên toà ở Vinh vào tháng 10 1929). Cũng vào tháng 7 người Pháp bắt đầu bắt giữ những nhà hoạt động mà tên tuổi được t́m ra từ cuộc điều tra về cái chết của Lê Văn Phát, c̣n gọi là vụ án đường Barbier. Những người này gồm có Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng và Nguyễn Kim Cương [138]. Những nhà tổ chức khác bị buộc phải rút về vùng nông thôn như Đồng Tháp [139]. Cùng lúc đó, đảng Tân Việt (Cách Mạng Đảng cũ) đă bị tê liệt v́ những người lănh đạo tại miền trung và Sài G̣n đă bị bắt giữ. Việc họ cư ngụ chung với những lănh đạo Thanh Niên đă dẫn đến việc khám phá ra những tài liệu của Đảng do Hà Huy Tập soạn thảo khi vụ án mạng đường Barbier được phanh phui (Hà Huy Tập và hai thành viên Tân Việt khác là Trần Ngọc Danh và Trần Phạm Ho đă trốn đi Thượng Hải sau khi cơ quan trung ương của Việt Tân bị khám phá vào tháng 12 / 1928 [140]). Tại Vinh, Nguyễn Thị Minh Khai báo cáo rằng chỉ c̣n những nhóm công nhân và phụ nữ vẫn c̣n đứng vững [141]. Những vụ bắt bớ này chắc chắn đă tạo ra lợi thế cho Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) v́ họ mặc nhiên đă trở thành một tổ chức với những người đứng đầu có kinh nghiệm nhất tại Việt Nam.

    Không bao lâu sau khi ĐDCSĐ h́nh thành, Ngô Gia Tự được phái đi Sài G̣n để thành lập cơ sở trong tầng lớp cu‐li tại Chợ Lớn và bắt đầu tạo ra một Tổng Liên Đoàn Lao Động. Những người tổ chức công đoàn của Thanh Niên không gia nhập ĐDCSĐ không bao lâu sau cũng đă thành lập một Tổng Liên Đoàn Lao Động riêng cho ḿnh [142].

    Trước mối đe doạ bị mất tất cả các thành viên, Uỷ Ban Trung Ương Thanh Niên tại Hồng Kông bắt buộc phải từ bỏ quan điểm của ḿnh về việc thành lập đảng cộng sản. Đến cuối tháng 8 /1929, ngay sau khi Hồ Tùng Mậu và khoảng 20 cựu học viên Hoàng Phố vừa được phóng thích, họ đă quyết định thành lập An Nam Cộng Sản Đảng. Họ đă viết trong một văn thư dài đầy tính tự vệ cho các thành viên (có thể được viết vào trung tuần tháng 10, v́ văn thư có đề cập đến một lá thư gửi cho ĐDCSĐ vào ngày 4 tháng 10): ʺUỷ Ban Trù Bị đă phù hợp với t́nh h́nh trước đây, nhưng giờ đây Uỷ Ban này đă không c̣n đáp ứng được những đ̣i hỏi hiện tại” [143] Một phần của trở ngại này là đă có nhiều thành viên trong Uỷ Ban bị bắt giữ trên đường quay về Việt Nam sau kỳ Đại Hội vào tháng 5, bản văn thư giải thích. Thanh Niên Hội đă bị giải tán và giờ đây chỉ có vài nhóm c̣n lại tại Xiêm và Nam Kỳ. Một tiểu tổ của An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ) đă được thành lập tại Hồng Kông với nhiệm vụ thành lập một đảng thực thụ, ʺnhư chúng tôi đă lưu ư, ĐDCSĐ không phải là một đảng thực sựʺ, bức thư nói. Đảng mới do Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Quảng Đạt và Lê Duy Điếm lănh đạo, tuyên bố rằng ANCSĐ hoàn toàn chấp thuận cương lĩnh của đảng đối phương. Họ than phiền rằng ĐDCSĐ đă bắt đầu tổ chức từ trên xuống trước khi thành lập các chi bộ tại các khu lao động hoặc trong ḷng quần chúng. Một phê phán khác là ĐDCSĐ đang thành lập các nhóm của những người ʺĐỏʺ, những người này được kêu gọi hoạt động với quần chúng và đóng Đảng phí hàng tháng mà không thực sự phải trở thành đảng viên. Do đó, những người ʺĐỏʺ bị bắt buộc phải hoàn toàn chấp hành mệnh lệnh và quyết định của đảng ‐ điều này đi ngược lại với nguyên tắc dân chủ tập trung, lá thư nói. (Những người đứng đầu ANCSĐ căn cứ vào những hiểu biết của họ về phương pháp hoạt động của ĐDCSĐ dựa theo một bức thư đề ngày 4 tháng 10 1929 của ĐDCSĐ gửi cho ĐCS Trung Quốc, cũng như trên tờ báo Cờ Đỏ của ĐDCSĐ số ra ngày 26 tháng 9 [145]). Ngoài ra c̣n có một than phiền khác nữa là, căn cứ theo một thành viên ẩn danh của ĐDCSĐ, đảng này ʺđă dẫn dắt quần chúng phá hoại các đền chùaʺ [146].

    Có lẽ sai lầm tệ hại nhất của ĐDCSĐ là việc đảng này đă hoạt động để ʺnhằm lật đổ Thanh Niên và Tân Việt, trong khi đó lại đề xướng việc hợp tác với Việt Nam Quốc Dân Đảng ḥng thúc đẩy việc phát triển của đảngʺ. Bản văn thư cho rằng, thực chất ĐDCSĐ đă giúp đỡ Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) bằng cách thay đổi cương lĩnh của ḿnh và giới thiệu những người cộng sản vào VNQDĐ [147]. Việc đưa những người cộng sản vào VNQDĐ đă gợi lại sách lược của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1926‐7 đối với Cách Mạng Đảng/Tân Việt. Có thể đây là một sự lập lại của liên minh hiển nhiên đă tồn tại trong giai đoạn 1928‐9 giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng cánh Tả. Quan hệ thân thiện giữa ĐDCSĐ và VNQDĐ cũng là dấu hiệu cho thấy hiện tượng tị hiềm vùng miền giữa khu vực miền trung và miền bắc. Trong khi giới lănh đạo của Thanh Niên đă khéo léo trà trộn và hợp nhất với Đảng Tân Việt là một tổ chức có gốc gác từ miền trung Việt Nam th́ ĐDCSĐ lại muốn thành lập một mặt trận chung với một đảng phi cộng sản có nguồn gốc từ phía bắc. Lănh đạo của ĐDCSĐ vào ngày 4 tháng 10 đă viết thư cho ANCSĐ rằng đảng của họ tin rằng ʺhọ có thể hợp tác với VNQDĐ trong hoàn cảnh hiện tại... Nhưng sự hợp tác này chỉ xảy ra nếu Quốc Dân Đảng không phản đối những hoạt động tuyên truyền và tổ chức của ĐDCSĐ ngay bên trong đảng của họ (có nghĩa là ĐDCSĐ sẽ bí mật điều khiển nó[148]). Và rồi trong một lá thư của Uỷ Ban Trung Ương ĐDCSĐ gửi cho Ngô Gia Tự đề ngày 7 tháng 1 1930, tác giả bức thư lưu ư rằng để đối diện với VNQDĐ, ĐDCSĐ sẽ tiếp tục t́m các phương hướng trà trộn nhằm thành lập một Sô Viết, từ đó sẽ ʺkết hợp với quần chúng của ta để tạo ra một Sô Viết thực thụʺ [149].

    Con số thành viên của hai nhóm cộng sản đang tranh đua th́ khác nhau, nhưng ĐDCSĐ tự nhận rằng đến 5 tháng 12 1929 họ đă kết nạp được 60 thành viên ở Nam Kỳ, và khoảng 40 hoặc 20 ở Trung Kỳ (báo cáo viên không nhớ được chính xác [150]). Hà Huy Giáp đă viết trong hồi kư của ḿnh rằng có 800 thành viên Thanh Niên ở miền nam vào mùa thu 1929 [151]. Nhưng ANCSĐ chỉ thu nhận khoảng 50 người từ nhóm này trong giữa mùa thu, theo lời của Dương Hạc Đính, một chỉ điểm của Sở Liêm Phóng. Ông là một học viên trước đây của Thanh Niên và cho đến tháng 5 1929 là thành viên của thành phần ly khai Bắc Kỳ. Nhưng ông lại đầu quân cho nhóm lănh đạo Thanh Niên ở Trung Quốc sau đại hội và vào tháng 9 đă được gửi đi Sài G̣n để thành lập một uỷ ban lâm thời cho ANCSĐ. (Việc này xảy ra sau việc bắt giữ hầu hết các thành viên của uỷ ban trù bị vào tháng 7). Cùng với Hoàng Tuyên (Trần Văn Minh), một cựu học viên Hoàng Phố từ Nam Kỳ, Nguyễn Ngọc Ba, Đỗ Lương và Nguyễn Văn Ngọc, ông đă thành lập một danh sách các thành viên Thanh Niên trong vùng Sài G̣n ‐ Gia Định và một danh sách khác cho vùng Mỹ Tho và Cần Thơ để kết nạp họ vào đảng mới. Hai bản danh sách này tổng cộng được khoảng 50 người, Đính cho biết [152].

    Yếu tố đầu tiên từ bên ngoài thúc đẩy việc hợp nhất của hai đảng cộng sản đă đến từ một kiểm soát viên người Trung Quốc thuộc Phân Bộ Viễn Đông ở Thượng Hải. Ông đến Hồng Kông vào tháng 11 và đang trên đường đến Singapore. Như Hồ Tùng Mậu đă viết cho ĐDCSĐ vào ngày 14 tháng 11, một quyết định đă được đưa ra ở Thượng Hải để thành lập một ban bí thư cho Liên Hiệp Cộng Sản các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức. Nhiệm vụ của Liên Hiệp này là ʺđể trực tiếp chỉ đạo tổ chức các nước Mă Lai Á, Java, Burma, Xiêm và An Nam nhằm thành lập các đảng cộng sản càng nhanh càng tốt.ʺ Phiên họp khai mạc của tổ chức này sẽ được bắt đầu trong ṿng hai tháng, với sự tham dự của các đại biểu từ các nước. ʺNhưng tốt hơn là chúng ta nên hoàn tất việc thống nhất trước khi gửi đại biểu đến,ʺ Hồ Tùng Mậu viết [153]. Ban bí thư của Liên Hiệp sẽ đặt tại Singapore và dường như là một hiện thân của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương. Dấu hiệu về tầm quan trọng của vai tṛ ĐCS Trung Quốc đối với phong trào cộng sản Việt Nam vào cuối năm 1929 có thể t́m được trong nhận định của Sở Liêm Phóng về một trong những thư từ trao đổi giữa hai thành phần trong tháng 11. Sở Liêm Phóng nhận định rằng ĐDCSĐ tại Sài G̣n đang gửi tài liệu tuyên truyền bằng tiếng Hoa cho thành viên của họ tại Bắc Kỳ, một dấu hiệu cho thấy phía Nam vẫn là trung tâm hoạt động của Uỷ BAn Nam Dương tại Việt Nam [154]. Những người Việt tại Hồng Kông đă đặt vấn đề về việc phải hoạt động trong quyền hạn của Singapore, theo lời kể của Dương Hạc Đính. Đại diện của Trung Quốc khuyên họ nên cho Phân Bộ Viễn Đông biết suy nghĩ của ḿnh và đồng thời khuyến khích họ nên gửi đại biểu từ mỗi đảng đến Singapore sau này. Do đó Lê Quảng Đạt đă được phái đến Thượng HảI để nói chuyện với ʺmột số thành viên Trung Quốc tại Phân Bộ Viễn Đôngʺ [155].

    Điều quan trọng là vào thời điểm này những thành viên châu Âu của Phân Bộ Viễn Đông dường như đang cổ động cho vai tṛ của cộng sản Trung Quốc tại Đông Nam Á. Nhiệm vụ của kiểm soát viên người Trung Quốc đề cập ở trên có thể là kết quả từ yêu cầu của Liên Đoàn Phản Đế ở Berlin rằng Phân Bộ Viễn Đông nên tập hợp một đoàn đại biểu để đến Hội Nghị Thanh Niên Phản Đế đang dự định tổ chức tại Frankfurt trước khi Đại Hội Thế Giới lần 2 của Hội Liên Hiệp Phản Đế, dự định tổ chức vào tháng 7 1929. Phân Bộ Viễn Đông gửi thư cho Berlin vào tháng 5

    1929 bảo rằng họ không có địa chỉ của những tổ chức thanh niên ở Triều Tiên, Nam Dương, Đông Dương hoặc Mă Lai Á. ʺKhả năng c̣n lại là làm việc thông qua các tổ chức của Trung Quốc ở các nước ấy,ʺ lá thư nói. Họ quyết định rằng ʺphải gửi một đồng chí đến những địa điểm trên để truyền đạt chỉ thị và đề xuất nhằm xây dựng một tổ chức phản đế trẻ bao gồm những thanh niên bản xứ và Trung Quốc.ʺ Nỗ lực của Phân Bộ Viễn Đông rơ ràng là đă quá trễ để gửi các đại biểu đến Berlin, nhưng theo lời giải thích của họ, phái viên của họ sẽ giúp họ ʺcó khả năng t́m hiểu trực tiếp những điều kiện tại những nơi này và để bắt đầu các bước thành lập những tổ chức dân tộcʺ [156].

  4. #54
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 3
    Bà SophieQuinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P4




    Vào tháng 1 1930 Rylski báo cáo rằng Phân Bộ Viễn Đông đang thiếu hụt thành viên để thực hiện những chuyến công tác theo yêu cầu trong khu vực. Sự tiện lợi của những người Trung Quốc bị giới hạn v́ họ thường bị từ chối nhập cảnh vào các nước Đông Nam Á hoặc bị bắt giữ khi vừa đến đích [157]. Dù vậy dường như đă không c̣n khả năng nào khác ngoại trừ việc trông đợi vào những thành viên Trung Quốc này. Tại Moscow, QTCS cũng đă đi đến kết luận như trên. Phân Bộ Trung Á vừa được tái lập, có trách nhiệm tại Burma, Ấn Độ, Nam Dương và Đông Dương, đă tổ chức một cuộc họp vào ngày 12 tháng 11 để thảo luận về việc tái thiết Đảng Cộng Sản Đông Dương. V́ những thành viên Nam Dương đă bị phân tán bởi nhà cầm quyền Hà Lan sau cuộc khởi nghĩa 1926, một đề nghị được đưa ra là tận dụng ʺtổ chức cộng sản người Hoa đang tồn tại ở Singapore, các tiểu bang Mă Lai và Nam Dương có quan hệ với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc bất chấp sự yếu kém về số lượng và tư tưởngʺ, bản nghị định viết, ʺtổ chức này có liên hệ với những công nhân người Hoa và địa phương và đang lănh đạo một số nghiệp đoàn trực thuộc Hội Đồng Nghiệp Đoàn của Quần Đảo Mă Lai... Tạm thời tổ chức này có thể được dùng làm cơ sở để phát triển hoạt động tại Nam Dương” [158] QTCS dường như đă không hiểu rơ truyền thống của người Trung Quốc về khái niệm ʺNam Hảiʺ, một khu vực đang chịu ảnh hưởng thống trị của Trung Quốc. Những thành viên châu Âu tại Phân Bộ Viễn Đông cho rằng Singapore là trung điểm liên lạc giữa các khu vực đang chịu sự điều phối của Phân Bộ Trung Á thuộc QTCS bao gồm từ Ấn Độ đến Nam Dương, và nếu cần thiết, cả Đông Dương nữa. Kuusinen xem Ấn Độ và Nam Dương là những mục tiêu chính cho hoạt động của QTCS trong khu vực, như ta đă thấy; hai thuộc địa này sẽ là điểm đến chính thức của hai kiểm soát viên người Pháp của QTCS, được gửi đến Đông Nam Á trong năm 1930 và 1931.

    Người đầu tiên là một đại diện có tên là ʺThibaultʺ, vào tháng 8 1929 ông đang ở Bỉ để làm giấy tờ giả. Trong khi đang đợi tin tức và tiền từ Moscow, ông đă báo cáo rằng ông đang thu thập tài liệu về Nam Dương, khu vực Ấn thuộc Hà Lan và quần đảo Philippines. Ông yêu cầu gửi gấp những quyết định mới nhất về công tác của ông, kể cả tài liệu từ Liên Đoàn Phản Đế [159]. Tập hợp các nguồn dữ liệu lại với nhau, ta có thể đoán được rằng nhân vật này là Jean Crémet, một thành viên cộng sản người Pháp mà từ lâu nay bị cho là đă mất tích tại Trung Quốc vào đầu năm 1930 (Vào những năm 1960, ông tái xuất hiện ở Bỉ) [160]. Joseph Ducroux, được Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế phái đến châu Á vào năm 1931 có nhắc đến trong hồi kư của ḿnh rằng Cục Thông Tin Quốc Tế đă yêu cầu ông t́m Crémet ở Thượng Hải và Hồng Kông v́ QTCS đă không nhận được tin của ông đă hơn một năm [161]. Ducroux nhớ lại là Crémet đă di chuyển bằng một hộ chiếu Bỉ dưới tên là Walloon. Ducroux từng làm việc cho Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế tại Moscow từ 1928 đến 1930 như là một chuyên gia về Ấn Độ và trong mùa đông 1929‐30 được phân công chuyển những ʺtrợ giúp về chính trị, vật chất và tinh thầnʺ đến cho ĐCS Ấn. Cả hai đại diện người Pháp này đều thất bại trong nhiệm vụ của họ:Thibault đă không qua khỏi Bắc Kỳ trước khi biến mất vào tháng 2 1930, và Ducroux, sau khi đi qua Việt Nam, đă bị bắt tại Singapore vào năm 1930 trước khi đến được Ấn Độ. Việc Thibault/Crémet mất tích dường như đă tạo ra những bối rối trong quá tŕnh thống nhất của hai tổ chức cộng sản Việt Nam, như sẽ được phân tích ở chương kế tiếp.



    CHƯƠNG 5:

    CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930‐1)

    Việc trở về của những học viên Quốc tế Cộng Sản

    Vào cuối năm 1929 phong trào cộng sản Việt Nam bao gồm hai đảng đối lập đang tranh giành thành viên. Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) đă tiến xa hơn khi thông báo rằng nếu Hồ Chí Minh quay lại, ông chỉ được đối xử như một đảng viên b́nh thường [1]. Những cựu lănh đạo của Thanh Niên tại Hồng Kông đang đấu tranh để thống nhất hai nhóm cộng sản với điều kiện việc này không có nghĩa là một thất bại hoàn toàn đối với An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ). Họ đă sắp sửa gửi Lê Duy Điếm đi Moscow để t́m Hồ Chí Minh khi người đại diện môi giới là Cao Hoài Nghĩa thố lộ rằng ông đă gặp Hồ tại Xiêm. Ông chỉ bị thuyết phục tiết lộ nơi ẩn náu của Hồ khi nhận ra rằng sự chia rẽ trong hàng ngũ Thanh Niên đă trở nên quá trầm trọng [2]. Cuối cùng th́ Trương Văn Lềnh, một trong những thành viên kiên trung c̣n lại của Thanh Niên, đă đi t́m Hồ vào tháng 10 để thuyết phục ông quay lại miền nam Trung Quốc [3].

    Cùng lúc đó tại Moscow QTCS đang bắt đầu ra quyết định đă quá chậm trễ về phong trào cộng sản taị Ấn Độ, Nam Dương và Đông Dương. Trần Phú và Ngô Đức Tŕ vừa hoàn tất chương tŕnh học tập tại Đại Học Stalin (Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông ‐ ND), đang chuẩn bị qua Pháp để về Việt Nam. Một chương tŕnh ngắn gọn về ʺChỉ thị về những hoạt động tại Đông Dươngʺ được soạn thảo tại Moscow vào ngày 27 tháng 10 1929,[4] đây là nghị quyết về việc thành lập một Đảng Cộng Sản Đông Dương [5]. Hôm sau Trần Phú tham gia một ngày thảo luận do Kuusinen chỉ đạo về cương lĩnh tương lai của ĐCS Ấn [6]. Đây chắc chắn là cách để giúp ông chuẩn bị đối phó với những lư thuyết và thực hành đầy gai góc mà ông sẽ phải gặp tại Việt Nam. Cẩn trọng là tinh thần chủ đạo trong các chỉ thị về Đông Dương. ʺPhương hướng chungʺ là thành lập những tổ chức cộng sản rồi tiến tới hợp nhất chúng lại thành một đảng. Hai người Việt Nam vừa rời Đại Học Stalin sẽ thu thập tin tức về phong trào nông dân và những cuộc băi công xảy ra trong năm trước; họ sẽ thiết lập các mối liên lạc với những phần tử vô sản và bần nông trong những đảng phái quốc gia và ʺkích động sự khác biệtʺ trong ḷng các đảng phái này nhằm lôi kéo các thành viên vô sản tham gia các nhóm cộng sản. Nhiệm vụ khác nữa là thành lập các nghiệp đoàn lao động mới hoặc cũ, các hội tương tế (họ được khuyến khích tận dụng truyền thống này của người Việt và người Hoa để xây dựng các tổ chức trên]. Điểm 15 của bản chỉ thị là

    lời cảnh báo chống lại sự nhầm lẫn giữa ʺnhững phần tử của chúng ta và Đảng Độc Lập của cựu thành viên cộng sản Nguyễn Thế Truyềnʺ. Mặt khác, hai học viên từ Moscow này sẽ phải phát triển quan hệ với những tổ chức cộng sản Trung Quốc đang có mặt tại Đông Dương và tận dụng những kinh nghiệm của họ. Điểm 17 yêu cầu thu tập dữ liệu về chính trị và kinh tế để chuẩn bị cho bộ ʺLuận Cươngʺ về Đông Dương.

    Trần Phú và Ngô Đức Tŕ trên giả thiết là sẽ quay về Việt Nam với vai tṛ như nhau. Một bổ xung trong những chỉ thị cho họ về ʺNhững vấn đề kỹ thuậtʺ xác định rằng ʺhai đồng chí Việt Nam rời khỏi Đại Học phải được xem như là những phần tử tiên phong cho hoạt động của chúng ta tại Đông Dươngʺ [7]. Nhưng Trần Phú, một người đă từng là lănh tụ của nhóm người Việt tại Đại Học Stalin, th́ được xem là người nổi bật hơn, có lẽ v́ ông không có t́ vết ǵ v́ đă không dính líu đến Nguyễn Thế Truyền (không như Ngô Đức Tŕ, đă biết Nguyễn Thế Truyền trong thời gian ở Paris]. Trong khi cả hai đang chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh, họ được giới thiệu đến nhân vật có bí danh ʺThibaultʺ, đại diện của QTCS đang sắp đi châu Á qua ngỏ Siberia. Thibault/Crémet đă sắp xếp một cuộc gặp riêng với Trần Phú tại Hồng Kông trong khoảng giữa ngày 1 và 15 tháng 1 1930, hoặc nếu như cuộc gặp này không thành, họ sẽ gặp nhau tại Hải Pḥng trong hai tuần lễ đầu của tháng 2 [8].

    Ngoài những nghị quyết và chỉ thị mà Thibault có nhiệm vụ cung cấp cho họ, QTCS c̣n trang bị cho hai người một bộ hướng dẫn chi tiết hơn. Nó bao gồm một tập tài liệu dài 48 trang có tựa đề Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương, được soạn thảo vào tháng 10 và 11. Trên thực tế đây là một văn bản phê b́nh những nghị quyết của Đại Hội Tháng 5 1929 của Thanh Niên. Khi Trần Phú và Ngô Đức Tŕ đến Leningrad vào ngày 11 tháng 11 1929, họ được báo rằng họ sẽ nhận tiền ở Berlin và Paris; nghị quyết và thư hướng dẫn thành lập đảng cộng sản cũng sẽ được gửi cho họ từ châu Âu. Sau khi đi bằng đường thuỷ đến Hamburg, họ đến Berlin theo đường tàu hoả, ở đó họ đă nhận được một ʺcuốn tiểu thuyết đóng b́a đẹp đẽʺ. Họ được lệnh không được bóc trang b́a ra trước khi đến Sài G̣n, ở đó họ sẽ tách những trang tài liệu do QTCS giấu kín bên trong [9].

    Chỉ thị Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương, một tài liệu đặc trưng của QTCS lúc ấy, trong đó đă cố gắng phối hợp những yếu tố trong bản Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin với những nghị quyết cấp tiến hơn từ Đại Hội 6 QTCS và Đại Hội Toàn Thể 10 của Ban Chấp Hành QTCS [10]. Phong trào cách mạng Đông Dương vẫn là

    ʺmột cuộc đấu tranh với những tàn dư của phong kiến và cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp v́ nền độc lập dân tộcʺ [11]. Nhưng giờ đây đảng cộng sản phải là ʺmột thành quả của cuộc đấu tranh giai cấpʺ chứ không phải là một kết quả từ những nhóm đào tạo chính trị [12]. Cương lĩnh của Thanh Niên bị phê phán v́ đă vạch ra tiến tŕnh của từng chặng đường cách mạng để dẫn đến đấu tranh vũ trang. Bản chỉ thị nói rằng ʺkhông thể nào xây dựng tŕnh tự hoặc thời gian cho những giai đoạn phát triển cách mạngʺ. Phải dùng sự ʺPhân tích vững chắc cho phong trào trong mỗi giai đoạnʺ để hướng dẫn hành động. Đánh giá quá cao t́nh h́nh có thể dẫn đến ʺchủ nghĩa mạo hiểm và chủ nghĩa manh độngʺ [13]. Sự thăng hoa của phong trào Đông Dương đă xảy ra trong thời gian khi sự đột phá của phong trào cách mạng thế giới đang bắt đầu ‐ việc này bắt buộc những người cộng sản Đông Dương không những phải tự hướng ḿnh đến sự phát triển từng bước của phong trào mà c̣n ʺhướng đến khả năng và sự chắc chắn của những cuộc đấu tranh trong phạm vi rộng và những sự kiện đang diễn biến nhanhʺ [14].

    ʺSai lầm chủ yếu của những quyết định của Thanh Niên là chúng đă không chứa đựng tính chính xác cần thiết về tầm quan trọng của các giai cấp và vai tṛ của chúngʺ [15]. QTCS nhận định. Giai cấp tiểu tư sản không c̣n được xem là thành phần của ʺlực lượng tiên tiếnʺ của cuộc cách mạng như cương lĩnh của Thanh Niên đă khẳng định. Họ có thể được sử dụng trong quá tŕnh đấu tranh phản đế và cách mạng ruộng đất, nhưng chỉ dưới sự lănh đạo của giai cấp vô sản. Lực lượng thực sự thúc đẩy cho quá tŕnh cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân; thành phần cách mạng chủ yếu của nông dân là tầng lớp bần nông ‐ những nông dân không có đất sở hữu một ít ruộng đất [16]. Những gian hệ với những tổ chức hợp pháp và đảng phái khác giờ đây được định nghĩa là chỉ mang tính lợi dụng. Đảng phải ʺnới rộng, sử dụng và dẫn dắt cuộc đấu tranh phản đế của giai tầng tiểu tư sản, kể cả sinh viên [17]. Văn bản cũng khẳng định

    ʺViệc thành lập những tổ chức cộng sản bất hợp pháp nhưng vững mạnh, những tổ chức đă nhuần nhuyễn trong việc sử dụng những vũ khí đấu tranh đa dạng để đưa ra những ảnh hưởng hợp pháp hoặc bán hợp pháp ‐ việc này phải là cơ sở của hoạt động đảng trong hoàn cảnh hiện thời của Đông Dươngʺ [18]. Hoạt động trong những vùng nông thôn cũng không được lơ là. Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của đảng là phát triển phong trào nông dân chống lại địa chủ:

    ʺđảng cộng sản phải phát động, chuẩn bị và lănh đạo cuộc đấu tranh của nông dân chống lại chế độ tá điền, chống lại việc bóc lột ruộng đất, thuế má, lĩnh canh, vân vân. Chúng ta phải nhắm vào việc phát triển từ những cá nhân bộc phát thành một phong trào nông dân rộng khắp chống lại địa chủ và đế quốcʺ [19]. Nhưng ʺtrọng tâm của đảng và hoạt động quần chúng vẫn phải nhắm vào các xí nghiệp, mỏ than, hoả xa, đồn điền, vân vân” [20] Những chỉ thị trên đă gây áp lực rất lớn đến những nhà hoạt động Việt Nam để khởi động một cuộc đấu tranh bạo lực nhưng lại khẳng định rơ ràng rằng những sai lầm về việc phân tích hiện t́nh cách mạng tại địa phương sẽ là lỗi của họ.

    Măi cho đến ngày 8 tháng 2 1930 Trần Phú và Ngô Đức Tŕ mới đến được Sài G̣n với những chỉ thị của họ. Họ bị cầm chân tại Paris v́ những khó khăn trong việc thu thập hộ chiếu giả. Mặc dù QTCS thường được cho là có một cơ sở làm hộ chiếu giả tại Berlin, nhưng h́nh như nó vẫn chưa bước vào hoạt động trong năm 1929 hoặc 1930. Đối với hai người Việt Nam hồi hương và hai người Pháp được QTCS gửi đến Đông Nam Á trong thời gian 1929‐31, việc t́m được những giấy căn cước giả là một trở ngại tương đối lớn. Trần Phú và Ngô Đức Tŕ đă nghe theo lời khuyên của người bạn học cũ tại Moscow là Bùi Lâm và đă di chuyển một cách bí mật. Mỗi người đă trả

    1.500 franc cho một thuỷ thủ Trung Quốc để trốn lên chiếc tàu Porthos cho cuộc hành tŕnh đến Sài G̣n. Việc khởi hành chậm trễ của họ có nghĩa là Trần Phú đă không đến được Hồng Kông vào khoảng giữa tháng 2. V́ thế ông đă bị trễ cả hai cuộc hẹn với Thibault, chưa kể cả việc tham dự hội nghị thống nhất hai đảng [21].

    Thông tin về phương pháp và thời gian của việc chuyển giao những chỉ thị của QTCS đến Việt Nam và Hồng Kông vẫn c̣n là vấn đề nhạy cảm đối với những người cộng sản Việt Nam hiện nay v́ họ vẫn khẳng định rằng Hồ Chí Minh chính là người đă thống nhất đảng. Ngày tháng đề trong phiên bản tiếng Nga của tài liệu dài 48 trang này đề ngày 23 tháng 11 1929 (việc Trần Phú và Ngô Đức Tŕ có nhận được phiên bản hoàn tất của những chỉ thị này hay không th́ không rơ]. Tài liệu này h́nh như đă được biết đến như là ʺnhững chỉ thị tháng Chạpʺ về việc thống nhất đảng [22]. Những giải thích hiện tại cho rằng đây chính là nguồn tài liệu của lănh đạo QTCS về vấn đề thống nhất đảng [23]. Nhưng từ năm 1970 phiên bản tiếng Việt của tài liệu đă được trích dẫn để làm cơ sở cho giả thiết rằng Hồ chính là người thống nhất đảng lại đề ngày 27 tháng 10 6 1929. (Phiên bản này của tài liệu không thể t́m được trong văn khố của QTCS). Với đầu đề ʺVề Vấn Đề Lập Đảng Cộng Sản Đông Dươngʺ, tài liệu này nhấn mạnh vai tṛ của ʺđại diện QTCSʺ trong việc thành lập một đảng cộng sản [24]. Dù vậy, dựa trên cơ sở của những phê b́nh trong giai đoạn 1930‐31 về vai tṛ của ông trong việc hợp nhất đảng, cũng như dựa trên những khai báo của Ngô Đức Tŕ sau này, dường như Hồ đă không hề được đọc những ʺchỉ thị tháng Chạpʺ hoặc những tài liệu được in trong Văn Kiện Đảng khi ông hợp nhất hai đảng cộng sản vào đầu năm 1930.

    Quá tŕnh hợp nhất

    Hồ Chí Minh đă đến Hồng Kông trước Trần Phú gần hai tháng [25]. Mặc dù ông đă báo cáo với QTCS rằng ông đến Trung Quốc vào ngày 23 tháng 12 [26], một chỉ điểm của Sở Liêm Phóng cho rằng đă phát hiện ʺLư Thụyʺ trên chuyến tàu hoả đi Cửu Long (Kowloon ‐ ND) trước ngày 15 tháng 12 [27]. Tại Hồng Kông Hồ nhận ra rằng phong trào cộng sản Việt Nam đang nhận chỉ thị từ một đại diện Trung Quốc của Phân Bộ Viễn Đông. Ngoài ra, Thibault, được giao nhiệm vụ hướng dẫn phong trào cộng sản Việt Nam, đă đến Hồng Kông sau Hồ không bao lâu. Dường như ông chính là vị đại diện vô danh của QTCS ʺcó nhiệm vụ kiểm tra tất cả các tổ chức cộng sản trong vùng Viễn Đôngʺ, người được cho là đă xuất hiện tại Hồng Kông vào hạ tuần tháng 12-1929. Căn cứ theo báo cáo của Sở Liêm Phóng, kiểm soát viên này đă lập lại những thông tin từ người đồng nghiệp Trung Quốc, rằng hướng hoạt động của những người cộng sản Việt Nam tạm thời đang nằm trong tay của ĐCS Trung Quốc [28]. Phân Bộ Viễn Đông đă báo cáo vào ngày 3 tháng 3 1930 rằng ʺJaquesʺ, ʺnhân vật người Phápʺ đă đi Hồng Kông vào cuối tháng 12; sau khi liên lạc được ở đó và có lẽ đă đi lại một vài nơi, ông sẽ phải quay lại Thượng Hải vào cuối tháng 2. ʺNhưng v́ báo cáo từ Hồng Kông chỉ đă nhận được vào cuối tháng 1, trong đó ông viết rằng ông dự định đi Đông Dương, chúng tôi đă không nhận được thêm tin tức ǵ từ ông ta,ʺ họ đă báo cáo [29]. Trong những thư từ trước đó, Phân Bộ Viễn Đông đă ám chỉ ông là ʺđồng chí phụ trách Nam Dươngʺ [30]. Điều kỳ lạ là đại diện người Pháp này dường như đă không hề gặp Hồ tại Hồng Kông.

    Tại Hồng Kông Hồ nhanh chóng chấm dứt t́nh trạng mà ông cho là ʺtṛ tranh chấp trẻ conʺ, mặc dù giờ đây ông cũng đă trở thành một phát ngôn viên cho QTCS trong số những người tự cho là có quyền điều khiển phong trào cách mạng Việt Nam. Báo cáo của Dương Hạc Đính với Sở Liêm Phóng vào năm 1930 cho thấy rằng Hồ đă không chấp nhận việc giải tán Thanh Niên [31]. Hội này vẫn nên được giữ lại sau khi đảng cộng sản được thành lập, ʺít nhất là trong thời gian đầuʺ.

    Sự phản đối này nhấn mạnh quan điểm của Hồ về Thanh Niên như là một mặt trận chính trị hữu ích và có thể là nguyên nhân v́ sao các thành viên Thanh Niên vẫn tiếp tục phát hành tờ báo Thanh Niên của ḿnh cho đến tháng 5 / 1930 [32], bên cạnh tờ báo mang tên ʺĐỏʺcủa An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ) ra đời vào ngày 1 tháng 9 1929 [33]. Báo cáo của Đính đă củng cố giả thiết rằng Hồ đă quá lạc hậu đối với t́nh h́nh chính trị đang phát tiển nhanh chóng. ʺChúng tôi đă báo cáo với Hồ mọi chuyện đă xảy ra trong và ngoài nướcʺ, ông cho biết. Hai ngày sau khi đến nơi, Hồ đă viết thư cho lănh đạo của Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) để giải thích nhiệm vụ của ông từ QTCS là nhằm thành lập một đảng cộng sản cho Việt Nam. Từ cơ sở này, Hồ đă đưa ra quyền hạn của ḿnh từ chỉ thị mà ông có được trước khi đi Xiêm. Dường như ông đă linh tính rằng ông phải hành động gấp mà không phải chờ đợi cập nhật từ những chỉ thị mới. Ông yêu cầu Đông Dương Cộng Sản Đảng phải gửi hai đại biểu đến gặp ông tại Hồng Kông. (Đến cuối tháng 12 đă có hai đại diện của ANCSĐ có mặt tại Hồng Kông, đó là Nguyễn Thiệu, bí danh là Nghĩa đang lẫn trốn cảnh sát Pháp, và Châu Văn Liêm, người được chi bộ Sài G̣n gửi đến để tham dự hội nghị sắp tới ở Singapore [34]). Hồ cũng đă viết thư cho Phân Bộ Viễn Đông để thông báo sự có mặt của ông tại Hồng Kông và đệ tŕnh cho họ những đề xuất của ḿnh. Theo lời Dương Hạc Đính, Hồ đă yêu cầu cung cấp lương tháng cho ông khoảng 240 ‐ 300 đồng Trung Quốc, được trả qua tài khoản của Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc [35]. H́nh như ông đă ra vẻ biểu dương quyền lực trước những đồng chí của ḿnh. V́ cuối tháng 2 1930 ông đă viết thư cho đại diện QTCS để t́m hiểu rơ ràng hơn nhiệm vụ của ḿnh: ʺHiện nay tôi không biết được chính xác vị thế của ḿnh là ǵ... tôi là đảng viên của ĐCS Pháp hay ĐCS Việt Nam?ʺ Ông c̣n hỏi: ʺNhiệm vụ mà QTCS đă giao cho tôi đă bị huỷ bỏ rồi chăng? Nếu không th́ tôi có phải là nhân viên của Phân Bộ Viễn Đông hay không?ʺ Ông yêu cầu Ban Chấp Hành QTCS đưa ra quyết định về việc này [36].

    Quá tŕnh được biết như là ʺHội Nghị Hợp Nhấtʺ đă tiến hành trong khoảng thời gian từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 1930. Trong bản báo cáo cho QTCS (bằng tiếng Anh) đề ngày 18 tháng 2 1930, Hồ đă tường thuật hoạt động của ḿnh với giọng văn súc tích quen thuộc: ʺTôi đă kêu gọi đại diện của hai thành phần (Dongzuong(sic) và Annam). Chúng tôi đă gặp vào ngày 6 tháng 1. Là đại diện của QTCS với đầy đủ quyền hạn để quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào Cách Mạng tại Đông Dương, tôi đă chỉ ra việc họ đă phạm sai lầm ở đâu và họ cần phải làm ǵ. Họ đă đồng ư thống nhất thành một đảng. Chúng tôi đă cùng nhau chỉnh sửa cương lĩnh và chiến lược theo đúng hướng của QTCSʺ [37]. Ông lưu ư rằng sẽ thành lập một Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương bao gồm 7 uỷ viên chính thức và 7 uỷ viên dự bị. Những đại biểu đă về lại Việt Nam vào ngày 8 tháng 2, ông cho biết [38]. Hồ cũng gửi cho Phân Bộ Viễn Đông bản dịch tiếng Anh của ʺLời kêu gọi công, nông, binh, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức và các Đồng chíʺ, tuyên bố việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Bản kêu gọi dự định sẽ được phân phát vào khoảng ngày 20 tháng 3, vào lúc Uỷ Ban Trung Ương sẽ được thành lập [39].

    Trong vấn đề vị thế của Việt Nam trong hệ thống giai tầng cộng sản, dường như Hồ đă có một thoả hiệp ngoại giao. Ông giải thích rằng: ʺBộ phận Singapore đă viết thư cho chúng tôi rằng ANCSĐ sẽ nằm dưới sự chỉ đạo của Singapore. Nhưng căn cứ theo hiện trạng địa lư (Nga ‐ Trung Quốc ‐ An Nam) cũng như hiện trạng chính trị (Đảng vững mạnh hơn, công nghiệp tiến triển tại Bắc Kỳ hơn là ở Nam Kỳ)) ‐ Tôi đề nghị rằng ANCSĐ nên được chỉ đạo từ Thượng Hải qua ngỏ Hồng Kông. Dù thế, ANCSĐ vẫn nên giữ liên lạc chặt chẻ với Singapore. V́ lư do trên, tôi yêu cầu ĐCS Trung Quốc gửi một lá thư giới thiệu để chúng tôi có thể điều một đồng chí An Nam đến làm việc với Singaporeʺ [40]. Hồ v́ thế đă gửi tín hiệu rằng ông sẵn sàng hợp tác với liên hiệp mới đang được thành lập tại Singapore, nhưng đảng cộng sản Việt Nam sẽ liên hệ trực tiếp với QTCS thông qua Phân Bộ Viễn Đông. Việc ông muốn hoạt động qua ngỏ Thượng Hải không nên hiểu là thân Trung Quốc mà chính là một phản ứng không chịu thần phục ĐCS Trung Quốc. Đảng mới được đặt tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong khi đó Hồ thường gọi nó là Đảng Cộng Sản An Nam (Annam Communist Party ‐ ND) khi ông viết bằng tiếng Anh.

    Tài liệu chính thức của Hà Nội về hội nghị này được lấy ra từ tường thuật của Nguyễn Thiệu, một đại biểu của ANCSĐ [41]. Hai đại biểu của thành phần ĐDCSĐ là Nguyễn Đức Cảnh và Trịnh Đ́nh Cửu, cả hai đều xuất thân từ tổ chức ĐDCSĐ nguyên thuỷ. Một lá thư của ĐDCSĐ gửi cho các thành viên ngày 7 tháng 1 cho thấy rằng hai đại biểu được QTCS triệu tập sẽ đi Hồng Kông trong khoảng 17 hoặc 18 tháng 1 [42]. Do đó có thể Hồ Chí Minh đă dùng ngày tháng âm lịch khi viết báo cáo cho QTCS rằng hội nghị được bắt đầu vào ngày 6 tháng 1 ‐ tức là ngày 4 tháng 2 dương lịch [43]. Một khả năng nữa là hội nghị đă diễn ra trong hai hoặc ba giai đoạn với phiên họp tiền hội nghị được tổ chức vào ngày 6 tháng 1, theo sau là cuộc hội ư giữa Phân Bộ Viễn Đông và các thành viên của ĐDCSĐ từ Bắc Kỳ, và một phiên họp cuối cùng từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2. Để làm cho bức tranh vốn đă khó hiểu càng thêm phức tạp, theo tài liệu của Trung Quốc về Hội Nghị Hợp Nhất th́ Hồ Chí Minh đă không có mặt khi hội nghị khai mạc v́ nó quá ʺrộng lớnʺ (hàm ư là quá công khai), nhưng nó đă được diễn ra dưới sự ʺchỉ đạo trực tiếpʺ của Hồ [44]. Thật khó mà biết được lời tường thuật này đang nói về cuộc họp nào. Dù sao, những tài liệu khác về hội nghị đều cho thấy đây là một cuộc họp đầy thân mật.

    Ngày tháng chính xác của Hội Nghị Hợp Nhất đă không quá là quan trọng nếu như nó không là dấu hiệu của những tranh chấp vẫn đang tiếp diễn trong hàng ngũ lănh đạo đảng. Điều này được t́m thấy trong văn khố của Pháp và thậm chí trong bài viết thứ hai của Nguyễn Thiệu về sự kiện thành lập đảng [45]. Và v́ thế việc lẫn lộn ngày tháng đă củng cố cho ấn tượng rằng vẫn c̣n những xung đột trong giới lănh đạo của ĐCS Việt Nam sau ngày 8 tháng 2 1930. Cuối cùng Hội Nghị cũng đă tạo ra được khuôn khổ để thống nhất các thành phần Việt Nam đang đối chọi nhau, nhưng không thực sự có nghĩa là nó đă hoàn thành quá tŕnh này. Cương lĩnh vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo cho đảng mới cũng không khác biệt với cương lĩnh 8 điều về các nước thuộc địa mà Bukharin đă đưa ra tại Đại Hội 6 QTCS. Rơ ràng là Hồ vẫn chưa từ bỏ chiến lược mặt trận thống nhất v́ ông đă không lên án toàn bộ giai cấp tư sản. Cương lĩnh của ông kêu gọi ʺlật đổ thực dân Pháp, chế độ phong kiến và những thành phần tư sản phản cách mạngʺ; một nền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam; một chính quyền công‐nông‐binh; tịch thu toàn bộ ngân hàng và những phương tiện sản xuất khỏi bàn tay của bọn đế quốc; quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và ruộng đất tư hữu của đế quốc và tư sản phản cách mạng để chia cho nông dân nghèo; một chế độ làm việc ngày tám tiếng; huỷ bỏ nợ quốc gia, sưu thuế cá nhân và miễn thuế cho dân nghèo; tôn trọng quyền tự do dân sự; mở mang giáo dục xă hội; thực hiện nam nữ b́nh đẳng[46]. Chính sách trưng thu ruộng đất có vẻ đă giống hệt chính sách do Uỷ Ban Điền Địa Trung Ương của Quốc Dân Đảng Trung Quốc đưa ra tại những cuộc họp ngày 19 tháng 4 và 6 tháng 5 1927 [47]. V́ thế bản cương lĩnh nói chung đă không thể được chấp nhận đối với QTCS thời kỳ sau Hội Nghị Toàn Thể lần thứ 10 và đă có rất ít điểm tương đồng so với chỉ thị do Moscow soạn thảo vào mùa thu trước. Nó sẽ được thay thế bởi một chính cương mới và một bộ luận cương dài tại đại hội toàn thể lần thứ nhất của đảng vào tháng 10 1930. Sự kiện này đáng dấu một giai đoạn thực sự trung thành của đảng đối với đường lối hiện tại của QTCS được thay đổi từ giữa mùa hè 1928 đến giữa năm 1929.

    Bất chấp quyền lực rơ ràng của Hồ, thành phần ĐDCSĐ dường như đă đóng vai tṛ chủ đạo trong ĐCS Việt Nam trong những tháng đầu sau khi hợp nhất [48]. Ngô gia Tự vẫn giữ vai tṛ then chốt trong cơ cấu của Đảng tại Sài G̣n. Ông giữ chức vụ đứng đầu Chấp Uỷ của Uỷ Ban Lâm Thời ở phía nam cho đến khi ông bị bắt vào cuối tháng 5 1930. Hai thành viên ĐDCSĐ tại hội nghị hợp nhất được giao nhiệm vụ hoạt động tại miền Bắc và Trung Việt Nam [49]. Một xu hướng liên hiệp dường như đă tồn tại trong tổ chức đảng trong nửa đầu năm 1930: Nguyễn Văn Lợi, người được các thành viên c̣n lại của đảng Tân Việt bầu vào Chấp Uỷ Uỷ Ban Lâm Thời phía nam, sau này đă khai với Sở Liêm Phóng rằng ʺTrung Ương Thường Vụʺ, họp mặt thường xuyên tại miền nam và miền trung, đă được trao quyền để thực hiện những quyết định tại Nam Kỳ [50]. Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương thành lập vào đầu tháng 3 bao gồm năm thành viên của ĐDCSĐ, trong khi đó chỉ có một thành viên của ANCSĐ và một từ đảng Tân Việt cũ. Nhưng những uỷ viên chính thức của Uỷ Ban Trung Ương đă không thể gặp nhau. Những thành viên của Trung Ương Thường Vụ đóng tại phía bắc gồm toàn những đảng viên của ĐDCSĐ: Trịnh Đ́nh Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân Lan [51]. Một số đảng viên của đảng mới có thể đă nghi ngờ việc cần thiết phải hợp nhất. Ví dụ như Nguyễn Đức Cảnh, được cho là đă từ chối chức vụ trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương v́ ông muốn tiếp tục hoạt động trong Ban Chấp Hành của Tổng Liên Đoàn Lao Động Bắc Kỳ, cơ quan này có thể là một chi nhánh của Liên Hiệp các Công Đoàn Lao Động Nam Dương [52]. Nh́n chung, ta có ấn tượng rằng những cơ cấu uỷ ban khác nhau đă được dùng trong quá tŕnh tranh giành quyền lực.

    Cuộc khởi nghĩa đầu năm

    Những biến động đầu tiên của cuộc khởi nghĩa vào năm 1930 đă ở trong giai đoạn chuẩn bị cuối cùng vào thời gian ĐCS Việt Nam thành lập. Không có dấu hiệu là QTCS đă biết trước những biến động này, nhưng ĐCS Trung Quốc và những người Việt dường như đang hoạt động với một lịch tŕnh chung. Cuộc băi công tại đồn điền cao su Phú Riềng phía tây Nam Kỳ từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 trên thực tế có thể đă là một phần của cuộc ʺTổng tấn công Tếtʺ 1930. Một trong những người tổ chức là Trần Tử B́nh, thành viên của ĐDCSĐ đă nói đến trong cuốn hồi kư ʺĐất Đỏʺ của ḿnh rằng cuộc đ́nh công thực ra đă xảy ra vào ngày 30 tháng 1 tức là mồng một tết Nguyên Đán, khi 5.000 công nhân tập trung tại dinh thự của viên quản lư đồn điền để xem múa lân và đưa ra yêu sách đ̣i hỏi điều kiện làm việc tốt hơn [53]. Dường như cuộc đ́nh công này hoàn toàn do ĐDCSĐ phát động với sự chỉ đạo của Ngô Gia Tự từ Sài G̣n và những nhà hoạt động khác từ Bắc Kỳ, nơi lực lượng lao động đă được tổ chửc.

    Vào ngày 2 tháng 2 Sô Viết Long Châu (Loung Zhou ‐ ND) và Quân Đội Hồng Quân số 8 của Trung Quốc đă được thành lập tại tỉnh Quảng Tây, phía bắc biên giới Việt Nam. Căn cứ theo tài liệu chính thức của ĐCS Trung Quốc, phong trào Sô Viết bao trùm tám quận chung quanh B́nh Hương (Ping Xiang ‐ ND) và Long Châu và đă đứng vững trong khoảng sáu tháng. Nó được cho là đă xuất phát từ cuộc nổi dậy của binh lính Quốc Dân Đảng tại Nam Ninh (Nan Ning ‐ ND) và đă đi theo tổ chức của Đặng Tiểu B́nh (Deng Xiaoping ‐ ND) đang có cơ sở cách mạng tại Bách Sắc (Bose hoặc Pai‐se ‐ ND) vào tháng 12. Cuộc khởi nghĩa Long Châu do một người cộng sản là Yu Zouyu, là sĩ quan trong lực lượng của sứ quân Lư Minh Thụy (Li Mingrui‐ND) đóng tại Nam Ninh.

  5. #55
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 3
    Bà SophieQuinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P5



    Không có bằng chứng trực tiếp về vai tṛ của Việt Nam trong việc thành lập Sô Viết, nhưng sẽ không có ǵ ngạc nhiên nếu những người cộng sản Việt Nam đang định cư tại Quảng Tây tham gia phong trào. Đây là một khu vực mà người Pháp cho là nằm trong vùng ảnh hưởng của họ, và trên thực tế việc đem máy bay thả bom đă giúp nhanh chóng phá huỷ phong trào Sô Viết này. Có một số thành viên cộng sản người Việt sống tại Long Châu, trong đó có hai nhân viên lái xe của vị tỉnh trưởng, Lê Quảng Đạt đă khai với người Pháp sau này [55]. Lê Hồng Sơn được cho là đă nhận được sự ủng hộ của vị tỉnh trưởng này là Yu Zuobo, anh em họ hàng với Yu Zouyu và là một trong những sứ quân mà ĐCS Trung Quốc đang hợp tác vào năm 1929 [56]. Hồ Chí Minh đă viết trong báo cáo ngày 18 tháng 2 1930 rằng năm ʺđồng chíʺ người Việt đang hoạt động tại Quảng Tây vừa mới bị bắt [57]. Trong cùng bản báo cáo ông nói rằng ʺphân bộ phản đếʺ của đảng cộng sản vừa thành lập phải ʺlàm việc hết ḿnh để mở rộng ảnh hưởng của Sô Viết Quảng Tâyʺ [58]. Ấn bản cuối cùng của tờ Thanh Niên vào tháng 5 đă nhận định rằng ʺchúng ta phải phản đối việc đế quốc Pháp đưa quân đến biên giới Việt‐Trung nhằm lật đổ chính quyền Sô Viết Long Châuʺ [59]. Bất chấp những dị biệt về nhận thức chính trị và thành phần người Việt tham gia thành lập Sô Viết, ĐCS Việt Nam đă hậu thuẫn phong trào này.

    Cuộc khởi nghĩa bất thành tại Yên Bái được chuẩn bị từ tháng 9 1929 đến tháng 1 1930, mặc dù là do Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tổ chức, nhưng có thể đă có liên hệ với những nổi dậy trong dịp đầu năm. Được dự định là một cuộc ʺtổng tấn côngʺ đánh chiếm các thị trấn lớn và các cơ sở quân sự của Pháp [60], cuộc khởi nghĩa đă có thể là một cách đánh lạc hướng quân Pháp từ Long Châu. Như ta đă thấy, thành phần ĐDCSĐ đă tuyên bố chủ tâm hợp tác với VNQDĐ từ ngày 7 tháng 1 1930. Trong lá thư ngày 18 tháng 2 Hồ Chí Minh cũng đă báo với Phân Bộ Viễn Đông rằng ʺcánh tảʺ của VNQDĐ ʺđang có quan hệ mật thiết với chúng tôi;ʺ cũng cùng lúc đó ông lưu ư rằng thành phần thiên hữu của đảng này đang mang khuynh hướng manh động [61]. Một yếu tố chủ chốt trong cuộc nổi dậy đă không được đưa ra kịp thời đó là việc tổ chức một cuộc tấn công từ Vân Nam xuống vùng thung lũng sông Hồng. (Vào năm 1930 lănh sự quán Pháp tại Vân Nam đă báo với người Anh rằng trong số những thành viên của VNQDĐ trong tỉnh đă có ʺmột số lớn thành phần cộng sản mà giờ đây đang ở tại học viện quân sự Trung Quốcʺ[62]). Một tổ chức tại Ma Cao có tên là ʺHội Đồng Chấp Hành của Hiệp Hội Binh Lính và Thuỷ Thủ Cách Mạngʺ đă nhanh chóng xuất bản một tập tài liệu ủng hộ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Tại Hồng Kông người Pháp đă tịch thu những truyền đơn (đề ngày 17 tháng 2 / 1930) kêu gọi thuỷ thủ của chiến hạm Waldeck Rousseau ủng hộ ʺcuộc khởi nghĩa cách mạng của người Việt Namʺ. Người Việt đă ʺanh dũng đứng lên tại Hà Nội, Yên Bái và Hồng Hoa[sic], vân vân..., khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam cần được giới lao động Pháp hậu thuẫn và giúp đỡʺ [63]. Người Pháp cho rằng tài liệu này có liên quan đến tổ chức Thanh Niên, nhưng cũng có thể là do thành phần ĐDCSĐ hoặc VNQDĐ viết ra. Khởi nghĩa Yên Bái sau này đă bị những người cộng sản Việt Nam phê phán, nhưng nó vẫn được xem như là một cuộc đứng lên đầy anh dũng và đă châm ng̣i cách mạng trong năm 1930. Người Pháp đáp trả lại cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ này bằng cách phá huỷ toàn bộ những ngôi làng đă ủng hộ những quân nổi dậy. Việc đàn áp này có thể đă làm suy yếu việc phát triển hoạt động của cộng sản trong vùng nông thôn Bắc Kỳ vào cuối năm 1930.

    Những nhiệm vụ mới

    Ngày 13 tháng 2 Hồ Chí Minh rời Hồng Kông đi Thượng Hải, ở đây ông đă viết một báo cáo tiếng Anh bằng tay về những ǵ ông đă làm từ khi đến Xiêm năm 1928. Bản báo cáo cho thấy ông đang bận tâm về những quan hệ với ĐCS Trung Quốc. Ông không những nói về quan hệ với bộ phận Singapore mà c̣n đề cập đến việc ông yêu cầu ĐCS Trung Quốc một bức thư gửi cho ʺmột số đồng chí lănh đạo (Trung Quốc) ở Xiêm để những thành viên An Nam tại nước này có thể làm việc với các thành viên của Ch. [sic]ʺ Ông c̣n nói rằng ông đă yêu cầu ĐCS Trung Quốc ʺgửi vài đồng chí chỉ huyʺ đến Sài G̣n, nơi mà ông bảo rằng đă có khoảng 200 thành viên Trung Quốc nhưng họ lại thiếu một người có khả năng lănh đạo. Ông đề nghị rằng nên thành lập một hội đồng bao gồm một hay vài đại diện của mỗi bên để điều phối hoạt động liên quan đến những quyền lợi của quần chúng Trung Quốc và An Nam [64]. Vào lúc đó, ông đang dự định đi Vladivostok để gặp người liên lạc không rơ danh tính. Báo cáo của ông (đề ngày 18 tháng 1) cho thấy rằng ông đă chưa gặp Trần Phú. Ông viết rằng ông đă không nhận được tin tức từ người Pháp và ʺhai đồng chí An Namʺ vào thời điểm trên. Tôi đă không t́m ra được bằng chứng rằng ông đă thực sự đi Vladivostok sau khi viết bản báo cáo này.

    Vladivostok đă trở thành địa điểm cho trường đào tạo ngắn ngày được thành lập cho những đảng viên ĐCS Trung Quốc cập nhật kiến thức và phương pháp hoạt động cộng sản. Vào tháng 5 1929 Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đă đề nghị thành lập những cơ sở đào tạo này v́ họ không có đủ thành viên hoặc công nhân để đào tạo tại Moscow như QTCS mong muốn. Trung Quốc xem đây là nơi để phát triển những ʺthành phần trí thức và nông dân đă có kinh nghiệm quân sự trong những lực lượng hồng quân đă tan ră sau thất bại của Sô Viết Hải‐Lục‐Phong [65]. Một vài người Việt biết nói tiếng Hoa như Lê Quảng Đạt, Hồ Tùng Mậu và vợ của ông là Lư Phương Thuận được cho là đă đến đây năm 1930 để tham dự một khoá đào tạo tuyên truyền dài ba tháng [66]. Năm 1930 Nghiệp Đoàn Thái B́nh Dương cũng có một văn pḥng bí thư thường trực tại đây [67]. Nhưng Hồ Chí Minh chắc hẳn đă được miễn tham dự khoá đào tạo và đă bị ngăn cản không cho đi Vladivostok v́ Phân Bộ Viễn Đông đang cần ông làm việc tại Thượng Hải. Họ báo cáo vào ngày 3 tháng 3 rằng Hồ đă xuất hiện ʺtrong vài ngày trước đâyʺ. Họ giải thích ʺChúng tôi gửi kèm theo bản báo cáo của ông ấy trong đó đề cập mọi việc mà ông ấy đă báo cáo bằng miệng với chúng tôi. Chúng tôi quyết định sử dụng ông ấy trong vài nhiệm vụ liên quan đến công tác tổ chức và tiếp tục hoạt động trong nước.ʺ Lư do mà ông được giao phó nhiệm vụ đặc biệt này có thể là v́ việc mất tích của Thibault. Hơn nữa, cả Kylski, người đă khởi hành đi Moscow, và Eisler đều không nói được tiếng Trung Quốc. Do đó Hồ có thể làm công việc của một người thông dịch trung gian đang rất cần và cũng là nguồn thông tin về chính trị của Trung Quốc. Phân Bộ Viễn Đông đă không nhắc đến trong bức thư rằng Hồ đă được đề bạt vào chức vụ đứng đầu Phân Bộ Miền Nam (không biết chắc rằng ông đă thực sự mang chức vụ này hay không], hoặc ông đă được phái sang tham dự hội nghị ĐCS Mă Lai được tổ chức vào trung tuần tháng 4 tại Singapore. Họ ghi chú rằng một thành viên người Trung Quốc sẽ tham dự hội nghị này với ʺnhững chỉ thị từ chúng tôiʺ [68]. Chỉ cho đến tháng 5 họ mới tiết lộ rằng họ đă gửi Hồ đi Singapore để tham dự hội nghị ĐCS Mă Lai.

    Hồ quay lại Hồng Kông vào giữa tháng 3, rốt cuộc ông đă tiếp xúc với trước tiên là Trần Phú rồi Ngô Đức Tŕ. Sau một thời gian ngắn đặt chân đến Sài G̣n, Trần Phú đă đi trước đến Hồng Kông để gặp Thibault. Tŕ đợi ở Sài G̣n trong ba tuần lễ mà vẫn không thấy tin tức nên đă quyết định đáp tàu đi Hồng Kông để t́m Trần Phú. Nhưng trước khi khởi hành ông đă gặp Bùi Lâm, một bạn học tại Moscow vừa về từ Paris vào ngày 9 tháng 3. Bùi Lâm mang theo một tập hướng dẫn có tên Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương đă được dịch sang tiếng Pháp tại Paris (Tŕ không giải thích rằng đây có phải là phiên bản của lá thư mà ông mang từ Berlin hay không, hoặc là bản bổ xung hay là một bộ hướng dẫn hoàn tất hơn]. Vào đầu tháng 3 Tŕ đáp tàu thuỷ đi Hồng Kông và cuối cùng đă t́m ra Trần Phú tại hội YMCA (Young Menʹs Christian Association, một hội từ thiện Thiên Chúa Giáo thành lập năm 1844 tại Anh ‐ ND). Trần Phú đă trễ cuộc hẹn với Thibault và đă không thể đi Hải Pḥng v́ người Pháp đang tăng cường bố ráp sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Ông vẫn chưa gặp Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ quay lại Thượng Hải vào tháng 3. Ông kể với Tŕ về cuộc gặp gỡ giữa ông với Hồ và những tin tức về việc thống nhất đảng cộng sản vào tháng 1. ʺChúng tôi chẳng có ǵ để làm ngoại trừ phải quay về và bắt đầu hoạt động v́ Hồ đă nắm trách nhiệm liên lạc với QTCS,ʺ Tŕ đă khai với người Pháp [69].

    Sau này Hồ đă gặp Tŕ và giải thích: ʺVào cuối năm 1927 tôi đă nhận được lệnh từ QTCS để tuyên truyền về việc thành lập một đảng cộng sản tại Đông Dương. Tôi đă bị bệnh ở Xiêm hơn một năm và đă không thực hiện được điều ǵ.ʺ Rồi Hồ đă tường thuật việc hợp nhất đảng và nói rằng Phân Bộ Viễn Đông đă phê chuẩn. ʺSau khi hợp nhấtʺ, ông kết luận, ʺtoàn bộ những đảng viên cộng sản Trung Quốc sẽ tham gia ĐCS Đông Dươngʺ [70]. Vào thời điểm này, Hồ đă có đủ quyền hành để ra lệnh cho Ngô Đức Tŕ quay lại Sài G̣n và Trần Phú được điều đi Hà Nội. Lời khai báo của Tŕ đă không cho thấy được điều ǵ hơn về những chỉ thị hoặc kế hoạch của Hồ.

    Về lại đến Sài G̣n vào đầu tháng 4 1930 [71], Ngô Đức Tŕ được đưa đi gặp Ngô Gia Tự. Tự phân công ông vào công tác tuyên truyền nhưng đă không giao cho ông một công việc cụ thể nào. Tự cho biết rằng hiện giờ ʺchúng tôi vẫn c̣n quá bận rộn với một số công việc chưa hoàn tấtʺ. Sau đó Tŕ được đưa đến Chợ Lớn và ở trong một ngôi nhà được dùng làm văn pḥng của chi bộ cộng sản nhà máy điện Chợ Lớn. Ông đă không được mời tham gia các cuộc họp chi bộ, và cũng chẳng được giao cho nhiệm vụ ǵ ngoài việc chuyển ngữ bản ʺNghị Quyếtʺ mà ông mang theo từ Berlin và lá thư do Bùi Lâm mang về. Cho đến cuối tháng 4, Tŕ được bảo rằng ông sẽ phải soạn thảo tài liệu tuyên truyền cho một cuộc đ́nh công ở các thị trấn và thôn quê. Nhưng chỉ sau cuộc đ́nh công 1 tháng 5 (May Day, ngày Quốc Tế Lao Động ‐ ND) tại nhà máy điện và một lần di chuyển cơ sở, ông mới được giao phụ trách tờ báo Cờ Đỏ. Chỉ sau khi Ngô Gia Tự bị bắt vào cuối tháng 5 Ngô Đức Tŕ mới được mời tham gia vào Xứ Uỷ Nam Kỳ và sau đó là Uỷ Ban Trung Ương.

    Vai tṛ quan trọng mà Ngô Gia Tự được giao phó đă được nhấn mạnh trong lời tường thuật của Nguyễn Nghĩa (Nguyễn Thiệu) từ phần hai của hồi kư của ông về quá tŕnh hợp nhất. Hồi kư của Nghĩa giải thích rằng hai tổ chức cộng sản ở phía nam đă chọn ra hai công nhân để làm việc trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương là Sáu (Hoàng Quốc Việt) và Lộ (Phạm Hữu Lầu) [72]. Nhưng ông lại kể rằng Ngô Gia Tự, người được chọn đứng đầu Xứ Uỷ Nam Kỳ là người nắm quyền quyết định mọi việc. Chính Ngô Gia Tự là người đă giao nhiệm vụ hoạt động tại cách tỉnh cho Nghĩa và Châu Văn Liêm, hai đại diện từ Hội Nghị Hợp Nhất do Hồ Chí Minh gửi đến để đảm trách việc thành lập đảng tại miền nam, dưới danh nghĩa của QTCS [73]. V́ thế, cũng như tại Trung Quốc, trên thực tế quyền hạn của QTCS dường như đă yếu hơn so với giả thuyết của những quan chức QTCS tại Moscow.

    Hồi kư của Nguyễn Nghĩa cũng chỉ ra những khó khăn trong việc hoà nhập những đảng viên Trung Quốc vào đảng cộng sản Việt Nam. Nghĩa chỉ ra rằng tổ chức người Hoa tại Nam Kỳ lớn hơn cả những thành phần cộng sản người Việt ở đây, bao gồm nhiều nhà hoạt động đầy kinh nghiệm đă trốn khỏi Quảng Đông sau Công Xă Quảng Châu. Họ không phấn khởi mấy về việc chỉ định thành viên tham gia vào Uỷ Ban Trung Ương của ĐCS Việt Nam v́ một số lư do:họ cho rằng những người Trung Quốc không có giấy tờ hợp pháp, không quen thuộc với hiện t́nh chính trị, hoặc không biết nói tiếng Việt. Họ chỉ muốn đưa người vào Xứ Uỷ Nam Kỳ [74]. Cuối cùng, theo một tài liệu của Hà Nội th́ đă có hai thành viên Trung Quốc được lựa chọn để đưa vào Uỷ Ban Trung Ương: Lưu Lập Đạo (A Lầu) và A Duyên (Duy) [75].

    Không có ǵ ngạc nhiên khi người Trung Quốc đă chần chừ trong việc tham gia vào đảng mới v́ đảng này không phải là chi nhánh của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Theo báo cáo của Ngô Đức Tŕ với người Pháp th́ căng thẳng về hướng phụ thuộc của đảng mới vẫn tiếp tục cho đến mùa xuân. Ông biết được từ Ngô Gia Tự rằng một đại diện Trung Quốc từ Phân Bộ Viễn Đông đă quá cảnh Sài G̣n trên đường từ Thượng Hải đi Singapore. Đại diện này đă cho thấy ông không hài ḷng về liên hệ trực tiếp của ĐCS Việt Nam với Phân Bộ Viễn Đông, và đă nhận định rằng những người cộng sản Đông Dương phải trực thuộc ʺBan Bí Thư của Liên Đoàn Cộng Sản Nam Dươngʺ (hàm ư là Liên Đoàn tại Singapore]. Sở Liêm Phóng cho rằng vào tháng 4 đă có một cuộc họp tại Sài G̣n với ʺmột kiểm soát viên Trung Quốc từ Phân Bộ Viễn Đôngʺ đến từ Xiêm và người này đă không biết được rằng ʺPhân Bộ Viễn Đông đă thông qua tư cách độc lập của ĐCS Việt Namʺ. Ông đă triệu tập một cuộc họp vào ngày 19 tháng 4 nhằm liên kết những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam [76]. ĐCS Trung Quốc v́ vậy đă không hài ḷng về việc mất đi quyền lực đối với một đảng cộng sản tại vùng Đông Nam châu Á.

    Cao trào cách mạng tại Trung Quốc và Nam Dương

    Trong khi những người cộng sản Việt Nam đang thành lập cơ chế mới, Lư Lập Tam cũng đang thúc đẩy ĐCS Trung Quốc tiến đến đỉnh điểm của một làn sóng cách mạng mới. Ngày 26 thán 2-1930 ông đưa ra Thông Tư số 70, được cho là ʺphương thức đầu tiên và rơ ràng, minh bạch nhất của ʺĐường Lối Lư Lập Tamʺ trong tương laiʺ[77] Thông tư này cho rằng trong khi ʺlàn sóng cách mạng mới đang tiến triểnʺ và khi ʺcuộc chiến tranh sứ quânʺ đang tiếp tục lan rộng, mục tiêu cơ bản của việc phát triển một ʺcao trào cách mạngʺ đang được h́nh thành. Lư cho rằng ʺcuộc đấu tranh quần chúng trên toàn quốcʺ đang phát triển đều khắp và công tác tổ chức đảng tại thành thị đang hồi phục sau giai đoạn thoái trào 1927. Chiến lược của ông là ʺtập trung và tấn côngʺ để giành chiến thắng ban đầu tại một hay nhiều tỉnh. Việc này có thể đạt được bằng cách tổ chức ʺmột cuộc tổng đ́nh công trong toàn nghành nghềʺ, hậu thuẫn và thâm nhập cuộc đấu tranh ruộng đất của nông dân, và phát động binh biến trong hàng ngũ quân đội của các lănh chúa. Lư cũng đă kèm theo một cảnh báo chống lại những kẻ ʺcánh hữu và xét lạiʺ, những người này, ông cảnh cáo, sẽ phê phán ʺchủ trương của đảng là manh độngʺ [78].

    Đầu tháng 3 Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc tổ chức hội nghị tại Thượng Hải để tránh những mật thám Nam Kinh và những người ʺTái Tổ Chứcʺ ở Hồng Kông [79]. Trong khoảng thời gian ấy, một ʺuỷ ban hành độngʺ tại Thượng Hải do phụ tá của Lư Lập Tam là Lư Duy Hán (Li Wei Han ‐ ND) thành lập để t́m cách vô hiệu hoá sự ngoan cố của bộ phận Giang Tô (Jiang Su ‐ ND) [80]. Vào ngày 15 tháng 3 Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương cũng đă tổ chức cuộc họp, chắc hẳn là ở Thượng Hải, cũng như cuộc họp của Liên Hiệp các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức cũng xảy ra tại Thượng Hải vào cùng thời gian và rất nhiều những đại biểu đă tham dự cả hai cuộc họp. Tại hội nghị này một nghị quyết ủng hộ Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành Trung Ương QTCS lần thứ 10 được thông qua. Nghị quyết này nhấn mạnh ḷng trung thành của ĐCS Trung Quốc đối với đường lối của QTCS và cũng phần nào là một phản hồi những phê b́nh từ Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 10 1929. Nghị quyết viết: ʺUỷ Ban Trung Ương nhận định rằng đường lối và nghị quyết của Hội Nghị Toàn Thể [QTCS lần thứ 10) đă đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của cấp lănh đạo Cách Mạng tại Trung Quốc và Nam Dương, và đặc biệt là hiện t́nh của cuộc đấu tranh với chủ trương khuynh tả, xét lại, thoả hiệp và cơ hội... ʺ[81] Nghị quyết của chi bộ Nam Dương đă phản đối phê b́nh của Trần Độc Tú và những người ʺcho rằng cuộc đấu tranh hiện tại của quần chúng Trung Quốc là ʺđối lập với cao trào cách mạngʺ [82]. Tài liệu khẳng định: ʺViệc chuyển hoá từ một cuộc tổng băi công của công nhân tại Nam Dương sang thành một cuộc tấn công chính trị là một vấn đề cấp bách cho phong trào công nhân hiện nayʺ [83]. Cuộc họp này có thể là cơ hội để những người ủng hộ Lư Lập Tam truyền bá chính sách mới của ông.

    Một báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy rằng một ngày sau khi nghị quyết trên được thông qua, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản đă tổ chức một cuộc họp tại Thượng Hải [84]. Báo cáo này cho thấy sự can thiệp ngày càng nhiều của ĐCS Trung Quốc vào công việc của những đảng châu Á khác. Tại cuộc họp này thành viên người Đài Loan là Lee Nan Mow thông báo rằng: theo chỉ thị từ Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc, Đoàn Thanh Niên đă được giao nhiệm vụ hỗ trợ phong trào cách mạng tại vùng đảo Đông Ấn, Đông Dương và Triều Tiên ʺbằng mọi phương tiện có thểʺ. Những thành viên người Ấn và Triều Tiên cho biết rằng mặc dù phong trào cách mạng của họ đang tiến triển gần đây, nhưng sẽ vô cùng khó khăn để tiếp tục nếu không có sự hỗ trợ của ʺđảng anh em Trung Quốc vĩ đạiʺ. Cuộc họp đồng ư gửi yêu cầu lên Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đề nghị gửi những tuyên truyền viên Trung Quốc trẻ tuổi và những đảng viên cách mạng đến các nước đang gặp khó khăn, những người này sẽ được chu cấp vũ khí, tài chính và tài liệu tuyên truyền. Điểm hẹn của những người Đông Dương sẽ là Quảng Châu. Vào lúc bế mạc, vị chủ tịch thông báo rằng ʺvăn pḥng địa phương của Quốc Dân Đảng đă hứa giúp đỡ phong trào cách mạng tại vùng đảo Đông Ấn, Đông Dương và Triều Tiên và không phụ thuộc vào chính sách của Chính Phủ Trung Ương.ʺ Đây có lẽ là dấu hiệu về việc thành phần cánh tả của Quốc Dân Đảng vẫn ít nhiều hợp tác với ĐCS Trung Quốc trong giai đoạn mùa xuân năm 1930.

  6. #56
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 3
    Bà SopheQuinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P6




    Mặc dù những thảo luận từ tài liệu của Sở Liêm Phóng đă không liên hệ trực tiếp đến Ban Bí Thư của Liên Đoàn Cộng Sản của Các Dân Tộc bị Áp Bức Đông Nam Á nhưng báo cáo của họ đă đưa ra những trích dẫn rằng cuộc họp của Đoàn Thanh Niên Cộng sản đă xác nhận sự hiện hữu của ban bí thư trên. Hội nghị này cũng có thể là một cuộc họp của Liên Đoàn Phản Đế thuộc Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, được thành lập như là vỏ bọc cho những hoạt động ʺhợp pháp và bán hợp phápʺ của họ. Phân Bộ Viễn Đông đă chú thích trong bức thư vào tháng 5 1930 rằng bắt đầu từ năm 1930 đă có đến ba Liên Đoàn Phản Đế khác nhau tại Trung Quốc ‐ ʺLiên Đoàn mạnh nhất và phổ biến nhấtʺ là của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, bức thư nhận định. (Họ nhận xét rằng một trong ba tổ chức này, Liên Đoàn ʺViễn Đôngʺ ‐ do ĐCS Trung Quốc thành lập ‐ đă được thu nhỏ v́ nó chẳng qua chỉ là ʺmột dụng cụʺ). Phân Bộ Viễn Đông muốn khuyến khích ĐCS Trung Quốc làm việc với tổ chức mà họ gọi là ʺLiên Đoàn Phản Đế Trung Quốcʺ đóng tại Thiên Tân (Tian Jin ‐ ND) [85]. Phía sau sự nhận định ôn hoà dường như ẩn giấu một diễn biến đầy kịch tính, nhưng qua những tài liệu của người Pháp ta có thể t́m được vài dấu vết của những ǵ đă xảy ra.

    Ấn bản cuối cùng của tờ báo Thanh Niên phát hành tháng 5 1930 tường thuật rằng đă có một Liên Đoàn Phản Đế mới của phương Đông đang bắt đầu ʺlên án những dối trá và thủ đoạn của Quốc Dân Đảng Trung Quốcʺ. Hội nghị đầu tiên của Liên Đoàn vào tháng 4 1930 có những đại diện từ Ấn Độ, Triều Tiên, Java, Đài Loan, Đông Dương, Trung Quốc và những quốc gia phương đông khác tham dự. Bản tường thuật đề cập đến việc ra đời vào năm 1928 của Liên Hiệp các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức như là ʺmột sự ngụy biện nhằm tách rời các phong trào cách mạng châu Á khỏi QTCSʺ [86]. Có thể là Hồ Chí Minh đă tham dự hội nghị tháng 4 này. Trong giai đoạn này, những học giả Nga tin rằng Phân Bộ Viễn Đông đang gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin về những ǵ đang xảy ra trong nội bộ của ĐCS Trung Quốc; cũng cùng lúc ấy, họ cho rằng sự e ngại bị qui chụp cho những sai lầm thiên hữu đă làm cho cách nhân viên của Phân Bộ Viễn Đông ʺcực kỳ cẩn trọngʺ trong việc báo cáo hoặc phê b́nh những biểu hiện mà họ cho là thiên tả trong chính sách của ĐCS Trung Quốc [87]. Đây có thể là nguyên nhân v́ sao các nhân viên của Phân Bộ Viễn Đông đă không nỗ lực mấy trong việc kêu gọi ĐCS Trung Quốc chấm dứt hoặc cắt đứt liên hệ của ḿnh khỏi một trong những Liên Đoàn Phản Đế trên, tức là Liên Đoàn được thành lập vào khoảng tháng 7 ‐ 8 1928. Như chúng ta đă thấy, nguồn gốc của tổ chức này dường như là một h́nh thức hợp tác giữa phong trào Quốc Dân Đảng cánh Tả và ĐCS Trung Quốc.

    Những báo cáo của Sở Liêm Phóng từ mùa xuân 1930 th́ bị lẫn lộn và đôi khi mâu thuẫn nhau. Một mặt, vào tháng 3 một mật thám của họ tại Hồng Kông là Neron đă báo cáo rằng Nguyễn Ái Quốc đă mất khá nhiều ảnh hưởng đối với QTCS sau khi Stalin củng cố quyền lực [88]. Nhưng vào tháng 9 1930 Sở Liêm Phóng lại đưa ra một nhận định mới. Đến lúc đó họ đă đi đến kết luận Hồ/Quốc chính là người đại diện của QTCS đă xuất hiện vào tháng 12 1929 với đủ quyền hành để ʺkiểm tra... những tổ chức cộng sản tại khu vực Viễn Đôngʺ [89]. Sự thay đổi quan điểm về vai tṛ của Hồ có thể đă phản ánh từ quyết định của Phân Bộ Viễn Đông nhằm tham gia tích cực hơn trong việc đối chọi lại ảnh hưởng của Lư Lập Tam. Trên thực tế, dường như Hồ Chí Minh đă đảm trách thêm những nhiệm vụ mà lúc đầu được giao cho Thibault, kiểm soát viên của QTCS (người đă được đề cập ở trên và được Phân Bộ Viễn Đông gọi là ʺngười đồng chí đến hỗ trợ Nam Dươngʺ), khi người này đă không quay về lại Thượng Hải từ chuyến đi đến Đông Dương. Theo tài liệu của Nga, quyền lực của Hồ dường như đă bị Phân Bộ Viễn Đông ở Thượng Hải phân tán trong khoảng tháng 3 và 4 1930 và có lẽ đă không được nhiều như quyền hạn mà Thibault được giao phó.

    Đến tháng 4 1930 quan hệ giữa Phân Bộ Viễn Đông và Lư Lập Tam đă đến hồi căng thẳng nhất. Ngày 17 tháng 4 Lư viết thư cho Chu Ân Lai và Cù Thu Bạch (Qu Qiubai ‐ ND) (đang ở Moscow) đề nghị QTCS tái tổ chức Phân Bộ Viễn Đông. Ông cho rằng những sai lầm của Phân Bộ Viễn Đông là ʺnguy hiểm, mang đặc điểm hữu khuynhʺ và họ đang trong t́nh trạng ʺkhông có tư cách lănh đạo chính trịʺ [90]. Rơ ràng là Lư đă tin rằng ông sẽ được hậu thuẫn từ Stalin hoặc Mif trong mối bất hoà này. Trong khi Moscow chần chừ không đưa ra dấu hiệu rơ ràng về thái độ của ḿnh đối với Phân Bộ Viễn Đông, Lư đă tiến hành những kế hoạch cho cuộc tổng khởi nghĩa. Chính trong hoàn cảnh này Phân Bộ Viễn Đông đă quyết định sử dụng Hồ Chí Minh như là một phái viên bí mật tại Xiêm và Mă Lai để giúp đỡ những người cộng sản địa phương thành lập những đảng mới. Sự vội vă thành lập những tổ chức để thay thế những chi nhánh trực thuộc Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương có thể phần nào là do mong muốn của Phân Bộ Viễn Đông nhằm giới hạn ảnh hưởng của Lư Lập Tam và Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc [91]. Chỉ sau khi mọi việc đă xong th́ Eisler và Bespalov mới thông báo cho Ban Bí Thư Cục Đông Phương trong một lá thư đề ngày 18 tháng 5 1930 rằng họ đă gửi Hồ đi Singapore để tham dự Đại Hội ĐCS Mă Lai, và cũng giao cho ông nhiệm vụ tuyển chọn đại diện Mă Lai gửi đi tham dự Đại Hội Công Đoàn Quốc Tế Đỏ lần thứ 5 sắp đến tại Moscow. Họ cũng báo cáo trong cùng bức thư rằng họ vẫn chưa t́m ra phái viên người Pháp vừa đi Đông Dương, mặc dù họ những người cộng sản Việt Nam đang đi t́m dấu tích của ông [92]. Bức thư không hề đề cập đến vai tṛ của Hồ tại Xiêm.

    Khó mà xác định được chính xác ngày tháng đi lại của Hồ. Cho đến nay Hoàng Văn Hoan vẫn là nguồn tài liệu chủ yếu về giai đoạn này trong sự nghiệp của Hồ, Hoan cho rằng Hồ đến Bangkok vào khoảng cuối tháng 2 1930. Theo lời Hoan th́ sau khi thảo luận với những đồng chí Trung Quốc tại Bangkok, ông đến Udon để giải thích về chính sách của QTCS cho những Việt kiều tại đây. Với sự ra đời của ĐCS Xiêm, những người cộng sản Việt Nam được cho là sẽ gia nhập đảng này thay v́ tham gia vào ĐCS Việt Nam. Nguyên tắc này cũng được áp dụng với những Hoa kiều tại Xiêm. Hoan nói rằng sau cuộc họp tại Udon, Hồ quay về lại Bangkok để giám sát việc thành lập ĐCS Xiêm vào ngày 20 tháng 4 [93].

    Nhưng một báo cáo của ĐCS Xiêm gửi đến Moscow vào năm 1935 lại đưa ra một tŕnh tự khác hẳn [94]. Tài liệu này nói rằng vào tháng 6 1930 Ban Bí Thư Cục Đông Phương đă gửi một đại diện đến Xiêm để thuyết phục Đảng Uỷ Xiêm (bao gồm toàn thành viên người Trung Quốc) cùng với những người Việt tại vùng đông bắc nước này thành lập một ĐCS. Nhà cầm quyền Anh đă giữ được một giấy thông hành có h́nh của Hồ, mang tên Sung Man Sho khi họ bắt giữ ông vào tháng 5 1931. Thông hành này có giá trị 6 tháng, do Tổng Lănh Sự Trung Hoa Dân Quốc tại Eo Biển Malacca cấp ngày 28 tháng 4 1930. Thông hành viết rằng ông là công dân của Trung Hoa Dân Quốc đi làm việc tại Xiêm [95]. Điều này cho thấy Hồ đă đi Bangkok vào cuối tháng 5, sau khi tham dự Đại Hội Đại Biểu lần 3 của Uỷ Ban Lâm Thời Mă Lai tại Singapore. Nhưng măi cho đến tháng 9 1930, khi Hồ quay lại Hồng Kông th́ quá tŕnh hợp nhất của ĐCS Xiêm mới hoàn thành với hai đảng viên người Việt nằm trong Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Xiêm. V́ thế Hồ Chí Minh có thể đă đến Xiêm vào tháng 4 1930, như Hoàng Văn Hoan đă nói, nhưng nếu như thế th́ chuyến đi của ông đă không trùng hợp với thời điểm hợp nhất của ĐCS Xiêm.

    Đại Hội Đại Biểu lần 3 của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương được tổ chức cùng dịp kỷ niệm ngày 1 tháng 5 ở Singapore. Nhưng theo một bức thư gửi cho ʺEnglish Kompartyʺ tại London lại viết rằng tại buổi họp ngày 29 tháng 4 nhằm chuẩn bị cho ngày Lao Động Quốc Tế, cả 11 đại biểu tham dự đều bị bắt, trong đó có cả bí thư đảng, bí thư Liên Đoàn Lao Động và một thành viên của Uỷ Ban Trung Ương. Bức thư này nói rằng vào ngày 21 tháng 5 ʺHội Nghị được triệu tậpʺ, và ĐCS Mă Lai được thành lập vào ngày 24 tháng 5 [96]. Cuộc họp có 11 đại biểu tham dự không kể những thành viên của Uỷ Ban Trung Ương và đại diện của Phân Bộ Viễn Đông. Bản tường tŕnh hội nghị mà có lẽ là do Hồ Chí Minh soạn thảo [97] cho thấy rằng Phân Bộ Viễn Đông hiện đang kiềm chế ảnh hưởng của Lư Lập Tam và Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc tại Nam Dương. Bản báo cáo này lên án Uỷ BAn Nam Dương về sai lầm manh động và thái độ vô trách nhiệm đối với những kế hoạch nổi dậy.

    Sau khi liệt kê ʺMười Yêu Cầu Lớn cho Cách Mạng Mă Laiʺ, bản báo cáo đưa ra một danh sách dài về ʺNhững Sai Lầm và Bài Học về những Công Tác đă quaʺ. Sai lầm trước tiên là ʺthực hiện một cuộc cách mạng Trung Quốc tại Mă Laiʺ: ʺCông tác đă được thực hiện theo cùng đường lối của ĐCS Trung Quốc, xa rời cuộc sống thực tế tại Mă Lai, và đă bỏ qua những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Mă Laiʺ. Đảng cũng đă lơ là trong công tác đối với nông dân và binh lính. Báo cáo tiếp tục: ʺViệc phát triển tổ chức đă không những hướng về nhân dân Trung Quốc mà c̣n hướng về chỉ một thành phần của nhân dân Trung Quốc (những người gốc Quảng Châu, Quảng Đông]...ʺ Dưới tiêu đề ʺSai lầm manh độngʺ, bản báo cáo đă dẫn ra một loạt sai lầm trong đó có ʺra lệnh và ép buộc đ́nh côngʺ; ʺbất chấp cuộc nổi dậy và khủng bố cá nhân (ĐCS Mă Lai đă tham dự vào việc cưỡng ép những công nhân đ́nh công xem việc nổi dậy là một tṛ đùa‐một lỗi lầm không thể bỏ qua]ʺ; ʺĐào thải các xí nghiệp và tịch thâu tài sản của các chủ xí nghiệpʺ; và ʺđưa ra khẩu hiệu ʺnắm lấy quyền lực và thành lập công xăʺʺ. Tác giả đă mở rộng điểm cuối cùng: ʺTrong khi ĐCS Mă Lai vẫn đang trong thời kỳ đầu thành lập, thiếu quần chúng chung quanh đảng, nếu chúng ta đưa ra khẩu hiệu: chiếm lấy quyền lực và thành lập Sô Viết th́ việc này sẽ làm ta lơ là thực lực của địch, đánh giá quá cao thực lực của ḿnh và bỏ rơi công tác chung của Đảng là chiếm lấy quần chúng, tổ chức quần chúng và cuối cùng là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang” [98] Điểm cuối cùng đă chỉ ra ʺmối liên hệ giữa ĐCS Mă Lai và các đảng anh emʺ. Điều này chỉ ra thực tế là ĐCS Trung Quốc không có độc quyền chỉ dẫn ĐCS Mă Lai: ʺĐCS Mă Lai, bên cạnh việc chịu sự điều phối của QTCS, hy vọng rằng các ĐCS Trung Quốc, Anh, Hà Lan và Pháp thường xuyên giúp đỡ và hướng dẫn kinh nghiệm” [99] Tờ báo Police Journal (Tạp Chí Cảnh Sát ‐ ND) của Eo Biển Malacca sau này đă viết rằng tài liệu tuyên truyền và hướng dẫn từ ʺTrung Ươngʺ tại Thượng Hải đă giảm thiểu vào giữa năm 1930, sau Đại Hội Đại Biểu lần 3 [100].

    Làn sóng cách mạng tại Việt Nam

    Báo cáo của Phân Bộ Viễn Đông ngày 25 tháng 6 cho biết họ vừa được tin Hồ Chí Minh sẽ đến Thượng Hải vào những ngày tới (họ nhẹ ḷng v́ ông đă không bị bắt tại cuộc ruồng bố tại Singapore vào cuối tháng 4 khi họ nghe tin này qua báo chí Singapore [101] ). Chắc hẳn ông đă quay lại Hồng Kông vào trung tuần tháng 6. Và ông cũng đă mất đi cơ hội chứng kiến làn sóng đấu tranh đầu tiên của ĐCS Việt Nam trong năm 1930: hàng loạt những cuộc đ́nh công và biểu t́nh trong cả ba miền Việt Nam bắt đầu từ tháng 4 và đă dẫn đến hậu quả là rất nhiều người bị bắt giữ vào đầu tháng 5. Như chúng ta cũng đă thấy tại Nam Kỳ, những hành động này, ít nhất là tại các khu thành thị, đa phần được tổ chức bởi thành phần ĐDCSĐ c̣n lại trước Đại Hội Hợp Nhất. Cả Ngô Gia Tự và Dương Hạc Đính đều bị bắt tại Sài G̣n vào cuối tháng 5. Trước ngày Quốc Tế Lao Động 1 tháng 5 Hoàng Quốc Việt đă bị bắt tại Hải Pḥng khi ông đến đây để hội ư với Trần Phú. Nhiều ṇng cốt của phong trào lao động phía bắc cũng đă vào tù cùng ông sau ngày 1 tháng 5 [102].

    Tổn thất của phong trào tại thành thị đă làm cho những người cộng sản Việt Nam tái chú tâm vào phong trào tại vùng nông thôn. Điều mỉa mai là ngay sau khi Hồ đưa ra hành loạt chỉ trích đối với ĐCS Mă Lai, một nhóm người trong Uỷ Ban Chấp Hành Lâm Thời Trung Ương tại Hà Nội đă quyết định tiến hành nổi dậy tại Nghệ An và Hà Tĩnh, hai tỉnh thường được gọi chung là ʺNghệ Tĩnhʺ. Tại một cuộc họp tại Hài Nội (theo tài liệu là vào tháng 6), Trần Phú, Nguyễn Thế Rục, Trần Văn Lân, Trịnh Đ́nh Cửu và Nguyễn Phong Sắc (ba người cuối cùng từ thành phần ĐDCSĐ nguyên thuỷ) đă đi đến quyết định trên [103]. Nguyễn Phong Sắc, một cựu giáo viên của trường Thanh Long ở Hà Nội là một thành viên cốt cán được giao nhiệm vụ lănh đạo Xứ Uỷ Trung Kỳ. (Đồng đội của ông từ đảng Tân Việt cũ là Lê Măo đă ở lại Nghệ An khi cuộc họp xảy ra). Những người tham dự đă cử Nguyễn Đức Cảnh ở Hải Pḥng làm việc với Nguyễn Phong Sắc để phát động phong trào Nghệ Tĩnh. V́ thế những thành viên chủ chốt hướng dẫn phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh là những người miền bắc tương đối có học thức từng ở trong tầng phần lănh đạo của ĐDCSĐ. Trong những nằm 1950 và 1960, chính quyền Việt Nam đă ca ngợi vai tṛ của Lê Viết Thuật, một công nhân người Bến Thuỷ đă trở thành người đứng đầu của Xứ Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4 1931 [104]. Nhưng đến năm 1957 nhà sử học của Hà Nội là Trần Huy Liệu đă cho rằng Nguyễn Đức Cảnh chính là người trực tiếp lănh đạo Sô Viết Nghệ Tĩnh [105]. Trần Phú, một người thấm nhuần quan điểm cấp tiến của QTCS về ʺGiai Đoạn Thứ 3ʺ, có thể đă được những đồng chí của ḿnh vốn có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong nước thuyết phục rằng thời điểm hành động đă chín muồi. Nhưng cũng phải công nhận rằng chúng ta hiểu biết rất ít về quyền hạn cũng như vị trí thực sự của ông trong đảng vào giai đoạn này. Cuộc họp đă đưa ra lời kêu gọi các tầng lớp công nông binh ở Nghệ An tiếp tục cuộc kháng chiến và chuẩn bị đối phó với sự đàn áp của đế quốc ‐ một do dự nhỏ nhất cũng tương đương với việc tiếp tay cho đế quốc tiêu diệt ḿnh, lời hiệu triệu viết [106].

    Hồ Chí Minh dường như lúc này đă đạt được quyền hạn cao nhất của ḿnh trong QTCS, ông đă quay về lại Hồng Kông để đối phó với t́nh h́nh hiện đă vượt khỏi tầm ảnh hưởng của ḿnh. Mặc dù Huỳnh Kim Khánh (nhà sử học ‐ ND) đoán rằng Hồ có thể đă ʺđóng vai tṛ quan yếu trong việc khởi xướng và chỉ đạo phong trào công xă nàyʺ, cơ sở cho quan điểm này là việc quy nhận đầy nghi ngờ trong việc Hồ là tác giả của tài liệu về kháng chiến nông dân đă được thảo luận trong phần Giới Thiệu của cuốn sách này [107]. Những thư từ và báo cáo của Hồ trong thời kỳ 1930‐1 có chứa một chỉ thị về công tác hoạt động quân sự. Nhưng nội dung và văn phong của tài liệu viết năm 1928 về hoạt động vũ trang trong tầng lớp nông dân th́ rất khác biệt so với tài liệu của Hồ viết năm 1930. Tài liệu 1930 là một bài viết tay dài 6 trang dường như đă lùi thời điểm Hồ quay lại Hồng Kông và Thượng Hải vào tháng 6 v́ nó đă đề cập đến một cuộc biểu t́nh tại Chợ Lớn, sự kiện này có thể đă xảy ra trong hoặc sau mùa xuân 1930 [108]. Với tựa đề đơn giản là ʺQuân Sựʺ, tài liệu này (phiên bản tiếng Anh) là một cố gắng để quân b́nh hiện tượng quá trú trọng đến những vấn đề quân sự và việc lơ là chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp đến [109]. Ông khẳng định rơ rằng: ʺCông tác quân sự của đảng bao gồm: huấn luyện quân sự cho đảng viên; phát động tuyên truyền trong hàng ngũ quân đội; thành lập lực lượng công nông tự vệ.ʺ Ông lưu tâm phần lớn vào công tác ʺphát động tuyên truyền trong quân độiʺ. Những người lính bản xứ là những người bị bắt lính từ làng quê và không nên xem họ là ʺlũ chó sănʺ của đế quốc, ông nói. Tại một cuộc biểu t́nh tại Chợ Lớn, ông đă chỉ ra rằng những người nông dân mắc phải sai lầm là đă lăng mạ binh lính thay v́ nên ʺ tuyên truyền cho họʺ. Trong công tác phát động tuyên truyền, ông nói ʺđảng phải nên tuyên truyền cương lĩnh ʺCách mạng tư sản dân tộcʺ với những binh lính, và tận dụng ḷng yêu nước để hướng họ đi theo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nông dân cũng như nh́n nhận vai tṛ lănh đạo của đảng.ʺ

    Đến tháng 6, Eisler đang bị cô lập tại Thượng Hải đă thất bại trong việc dung hoà những chính sách của Lư Lập Tam mặc dù trên thực tế những cuộc biểu t́nh ngày 1 tháng 5 đă dẫn đến một số lớn đảng viên bị bắt [110]. Hồ Chí Minh có thể đă lâm vào hoàn cảnh tương tự đối với đảng của ḿnh v́ ông không quyền biểu quyết trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương. Dù thế, là một người Bolshevik chân chính, ông đă phải chấp hành quyết định của đảng là phát triển phong trào công nông Nghệ An. Một bức thư đề ngày 9 tháng 6 gửi đến những người Việt đang chiến đấu trong lực lượng Hồng Quân Trung Quốc, yêu cầu họ quay về ʺMặt trận An Namʺ, có thể là đă do ông viết. ʺCông việc của cách mạng Việt Nam giờ đây là công việc của chúng taʺ, lá thư viết, ʺcông việc tại Trung Quốc không phải là nhiệm vụ của chúng tạʺ[111] Nhưng trong cùng lúc ấy Lư Lập Tam đang hối thúc QTCS gửi những thành viên ngoại quốc từ ʺAnh, Pháp, Nhật, Ấn và Đông Dươngʺ đến để thực hiện công tác tuyên truyền tại Trung Quốc cùng với những thuỷ thủ ngoại quốc đang đóng tại đây. Ông nhấn mạnh rằng họ phải làm việc dưới sự chỉ đạo của ĐCS Trung Quốc [112]. V́ thế đến tháng 6 một số đảng viên người Việt đă được bổ sung vào công việc tuyên truyền quân sự tại Thượng Hải. Người tổ chức của ĐDCSĐ từ Bắc Kỳ là Đỗ Ngọc Du, bí danh Phiếm Chu, nói rằng Hồ đă ra lệnh cho ông đến làm việc tại Thượng Hải vào cuối tháng 3, sau khi ông trốn khỏi Hà Nội. Sau này ông đă khai với Sở Liêm Phóng rằng ông bắt đầu biên tập các bài viết nhắm vào quân đội Pháp sau ngày 14 tháng 6 1930. Một người Việt khác là Lưu Quốc Long có nhiệm vụ in ấn và phát hành những bản tin và bài viết. Tờ báo tiếng Pháp mang tên Quân Đội (LʹArmée ‐ ND) bắt đầu xuất bản một tháng hai kỳ [113]. Một tờ báo tiếng Việt tên Giác Ngộ do Lê Quảng Đạt (c̣n có tên Hoàng Cao], vợ của ông là Lư Phương Đức và Nguyễn Lương Bằng đảm trách. Lê Quảng Đạt có nhiệm vụ liên lạc giữa Phân Bộ Viễn Đông và Hồng Kông cũng như thu xếp đi lại cho những người Việt Nam đến Moscow và trở về [114].

    Báo cáo của người Pháp cho biết thời gian từ ngày 1 tháng 5 đến 30 tháng 8 1930 là giai đoạn biểu t́nh bất bạo động tại Việt Nam [115]. Trên thực tế đă có hai quá tŕnh đang tiến hành vào tháng 6 1930: một là việc thành lập cơ chế đảng dẫn đến việc lựa chọn đại biểu tham dự đại hội toàn thể sắp tổ chức vào mùa thu; thứ hai, như đă nói ở trên, là việc chuẩn bị cho làn sóng hành động trực tiếp lần hai tập trung vào phía bắc Trung Kỳ. Thật khó mà biết được hai quá tŕnh này được điều phối chặt chẽ như thế nào. Về công tác tổ chức đảng, lời khai của Ngô Đức Tŕ đă dựng lên một bức tranh (thiếu hai miền c̣n lại của Việt Nam) về quá tŕnh tái tổ chức đang diễn ra tại miền nam sau khi Ngô Gia Tự bị bắt. Căn cứ trên lời khai của Tŕ, vai tṛ lănh đạo của Ngô Gia Tự đă không làm vừa ḷng những đảng viên địa phương. ʺKể từ khi ĐDCSĐ và Ban Chấp Hành Lâm Thời thành lập mọi công tác đều do các thành viên của uỷ ban này quyết định mà không thông qua các thành viên của các chi bộ,ʺ ông giải thích. Ông bổ sung rằng: ʺKhông hề có báo cáo về công việc của các chi bộ và điều này đă gây ra vài bất măn.ʺ Những cuộc biểu t́nh vào tháng 5 và đầu tháng 6 tại Sa Đéc, Vĩnh Long, Đức Hoà và Chợ Lớn thuộc Gia Định đă dẫn đến nhiều thành viên bị bắt giữ và cái chết của Châu Văn Liêm‐sự kiện này cũng có thể đă làm cho đảng bộ phía nam tái thẩm định chiến lược của ḿnh [116]. Vào khoảng ngày 18 tháng 6-1930 một cuộc họp của Ban Chấp Hành Lâm Thời Nam Kỳ được tiến hành với đại biểu từ các địa phương được mời đến để cho biết ư kiến. Ngô Đức Tŕ đă cùng Ung Văn Khiêm (Huân) và Nguyễn Văn Sơn (Dũng) gia nhập Uỷ Ban trước khi hội nghị khai mạc [117]. Sau đó ông cũng tham gia vào Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương. Tŕ khai trong suốt mùa hè ʺmột số đồng chí đă muốn phát động các cuộc nổi dậy và thực hiện hoạt động khủng bố.ʺ Ban Chấp Hành Lâm Thời đă phải triệu tập các chi uỷ lâm thời để yêu cầu họ huỷ bỏ những kế hoạc trên. Ban Chấp Hành đă chỉ thị các tỉnh uỷ phải giải thích cho quần chúng biết rằng chủ trương ám sát mâu thuẫn với nguyên tắc chủ đạo của chủ nghĩa cộng sản [118]. Có lẽ trong thú nhận này, Ngô Đức Tŕ đă t́m cách rũ bỏ trách nhiệm về trách nhiệm về ḿnh cho những bạo lực trong những năm 1930‐1, nhưng một báo cáo năm 1931 mà ông gửi đến Moscow cho thấy rằng ông đă đánh giá thấp những kết quả hoạt động của đảng (xem chú thích 149).

    Tại miền Bắc và Trung Việt Nam, dường như đảng đă có một phương hướng khác. Trên nguyên tắc Trần Phú đă nắm giữ nhiều quyền hạn trong cơ cấu đảng khi ông tham gia Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương vào mùa hè, sau khi Nguyễn Hội bị bắt. Khi Trịnh Đ́nh Cửu rời bỏ chức vụ trong Uỷ Ban Thường Vụ để gia nhập Xứ Uỷ Bắc Kỳ, Trần Phú cũng đă đảm đương chức vụ cũ của Cửu [119]. Nhưng trên thực tế, đảng uỷ phía bắc đă hoạt động tương đối độc lập, theo những báo cáo sau này của QTCS. Ví dụ như trong một lá thư không đề ngày được viết sau ngày 4 tháng 4 1931, Phân Bộ Viễn Đông đă chỉ thị rằng ʺvấn đề chủ trương phân lập cần phải được xoá sạchʺ [120]. (Những chủ trương này dường như đă xuất hiện vào mùa thu trước, như sẽ thảo luận dưới đây). Sau khi Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương được đổi thành một tổ chức của các đảng cộng sản của các nước, Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đă không giữ vai tṛ trực tiếp chính thức tại Đông Nam Á. Cho đến nay ta hoàn toàn không thể biết được chương tŕnh hành động của Lư Lập Tam về ʺcao trào cách mạngʺ cho Trung Quốc đă có ảnh hưởng như thế nào đế những sự kiện xảy ra tại Việt Nam. Nhưng có dấu hiệu cho thấy rằng đă có sự tương quan nào đấy giữa những thời điểm chuẩn bị và hành động trên cả hai quốc gia.

    Tại Trung Quốc việc chuẩn bị của Lư cho những khởi nghĩa vũ trang trong tháng 8 và 9 1930 đă được tiến hành từ hàng loạt các hội nghị được tổ chức từ đầu tháng 6 đến ngày 6 tháng 8. Vào ngày 11 tháng 6 Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc đă thông qua một nghị quyết kêu gọi Liên Bang Sô Viết và ʺquần chúng lao động thế giớiʺ ủng hộ cuộc cách mạng Trung Quốc. Họ tuyên bố rất rơ rằng cách mạng Trung Quốc đă trở thành trọng tâm của cách mạng thế giới [121]. Đạo Quân số 3 của ĐCS đă thực hiện thành công một cuộc tấn công chớp nhoáng tại Trường Sa (Chang Sha

    ‐ ND) vào ngày 28 tháng 7. Vào ngày 6 tháng 8 ʺUỷ Ban Hành Động Trung Ươngʺ của Lư Lập Tam kêu gọi tổ chức cách mạng và nổi dậy ngay lập tức tại Vũ Hán (Wu Han ‐ ND), Bắc Kinh, Thiên Tân (Tian Jin ‐ ND), Cáp Nhĩ Tân (Harbin ‐ ND) và các thành phố khác (Phân Bộ Viễn Đông đă trả lời bằng một bức điện tín yêu cầu ʺtriệu tập ngay lập tứcʺ Lư Lập Tam về Moscow [122] ). Một cuộc tấn công thứ hai vào Trường Sa được tiến hành giữa ngày 24 tháng 8 và 12 tháng 9. Trong thời gian này Moscow đă giữ một thái độ không dứt khoát đối với những hành động của Lư, để mặc Phân Bộ Viễn Đông tiếp tục những nỗ lực của ḿnh nhằm kiềm chế đường hướng phiêu lưu của Lư. Một trong những đại diện mới của Phân Bộ Viễn Đông là vị đại biểu của Công Đoàn Quốc Tế Đỏ S.Stoyar, c̣n biết đến dưới những bí danh ʺJackʺ hoặc ʺLeonʺ, đă viết cho lănh đạo Công Đoàn là Lozovsky vào ngày 5 tháng 8 yêu cầu hậu thuẫn Eisler. Ông than phiền rằng Lư Lập Tam đang huy động tất cả các thành viên ṇng cốt chống lại QTCS [123]. Điều lư thú là cao trào cách mạng mà Lư đang phát động đă xảy ra cùng lúc với cuộc nội chiến toàn cục bên trong Quốc Dân Đảng Trung Quốc diễn ra từ ngày 5 tháng 4 đến đầu tháng 11 [124]. Trần Công Bác và những người ʺTái Tổ Chứcʺ với căn cứ mới tại Bắc Kinh đă đóng vai tṛ chính yếu trong cuộc xung đột này. Rất có thể là Lư Lập Tam đang trông chờ vào chiến thắng tất yếu của họ.

    Tại Việt Nam, theo sau cuộc họp tháng 6 của Ban Chấp Hành Lâm Thời tại Hà Nội, các tỉnh uỷ Nghệ An và Hà Tĩnh đă được thành lập vào tháng 7. Tại Nghệ An chi bộ đảng được thành lập đến cấp xă [125]. Làn sóng hoạt động thứ hai tại Nghệ Tĩnh đă dẫn đến sự tan ră của chính quyền địa phương và dựng nên Sô Viết đă bắt đầu vào ngày 29 tháng 8 và đạt đến đỉnh cao vào ngày 11 ‐ 12 tháng 9 (vào ngày 12 tháng 9 nông dân các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn và Tân An cũng đă biểu t́nh [126]). Ở một số nơi, huyện đường bị đốt trụi và quan nha đă giao nộp ấn triện cho dân làng; những hương chức xă hoặc là theo quân khởi nghĩa hoặc bị giết [127]. Quân Pháp đă ném bom vào đoàn biểu t́nh đang đổ về Vinh vào ngày 12 tháng 9 làm chết trên 120 người. Trần Huy Liệu giải thích rằng ngày hôm ấy đă có phối hợp các cuộc biểu t́nh trên khắp vài huyện. Những sự kiện này được nhắc đến tuần tự trong các báo cáo của Pháp cũng như của Trần Huy Liệu [128]. Điều đáng lưu ư là ngày 12 tháng 9 sau này đă được kỷ niệm như là ngày thành lập phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh và cũng được ĐCS Trung Quốc tưởng nhớ như là ngày kỷ niệm của cuộc Khởi Nghĩa Trung Thu 1927 [129].

    Không c̣n nghi ngờ ǵ về việc những nông dân địa phương, bị đè nặng bởi quá nhiều loại sưu thuế, đă rất hăng hái đấu tranh chống lại người Pháp và quan lại địa phương. Nhưng luận điểm cho rằng hành động của họ đă phát sinh hoặc bị lôi kéo bởi một số kẻ kích động th́ khó mà chấp nhận được, căn cứ theo quan điểm kế hoạch do ĐCS Việt Nam thực hiện cũng như hướng dẫn kích động mà những người cộng sản đă nhận được từ Moscow. James Scott (giáo sư khoa học chính trị Yale ‐ ND) cho rằng ʺtrong khi đảng có thể đă giúp kết nối những cuộc biểu t́nh ban đầu, nhưng họ đă không cần phải chỉ ra những đối tượng làm nông dân căm phẫn” [130] Nhưng chính những chiến lược mà ông đề cập đến đă dấy lên từ ʺnhững đau khổ tột cùng của những nông dân miền quêʺ ‐ những đ̣i hỏi chấm dứt sưu thuế (hoặc hoăn trả thuế) và ʺchính sách thâu tô của những địa chủ các vựa lúaʺ ‐ là những điều mà những nhà tổ chức phong trào nông dân đă thụ huấn từ Học Viện Nông Dân Bành Bái từ những năm 1920. Những hoạt động tháng 9 tại Nghệ Tĩnh, thường là đốt huyện đường và tiêu huỷ sổ sách về điền địa và sưu thuế, đă được tiếp thu từ những phương pháp được sử dụng trong phong trào Sô Viết Hải‐Lục‐Phong [131]. Ta có thể kết luận rằng thay v́ đi theo phong trào nông dân, những người cộng sản đă tạo ra những phương pháp tổ chức phù hợp với t́nh h́nh địa phương, ít nhất là trong một thời gian ngắn[132]. Ta cũng có thể kết luận rằng những hành động của Lư Lập Tam ở Trung Quốc đă phần nào tác động đến các sự kiện tại Nghệ Tĩnh. Khởi nghĩa Nghệ Tĩnh cũng có thể đă xảy ra dưới một t́nh trạng không có sự liên quan của QTCS hoặc đă đi ngoài mong muốn của ĐCS Trung Quốc nhằm thúc đẩy bước tiến của cách mạng Trung Quốc và thế giới. Dù thế, nó đă không thể xảy tra với t́nh trạng như thế nếu không có sự lănh đạo của những người cộng sản. Nó đă không thể xảy ra vào thời điểm ấy nếu không có một chương tŕnh hành động nào đấy.

  7. #57
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ


    Hội Nghị Trung Ương tháng 10 và việc Trần Phú củng cố quyền lực
    Đảng Cộng Sản vừa thành lập của Việt Nam đă không thể hợp nhất hàng ngũ lănh đạo trên toàn quốc măi cho đến hội nghị Uỷ Ban Trung Ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông vào tháng 10 - 1930.

    Trong thời gian giữa chuyến đi Thượng Hải vào tháng 6 đến hội nghị tháng 10, Hồ Chí Minh dường như đă định vị công việc của ḿnh như là một trung gian giữa các đảng Mă Lai, Xiêm và Việt Nam. Trong giai đoạn từ 23 tháng 7 đến 2 tháng 9, ông nói rằng đă gửi cho Phân Bộ Viễn Đông sáu bức thư. Trong số này, chỉ có bức thư ngày 2 tháng 9 là nằm trong văn khố của QTCS. Trong thư ông đă giải thích rằng vào ngày 13 tháng 8 ông đă bị một cơn lao phổi, một thứ bệnh mà ông tường thuật là ʺđau phổi và nôn ra máu, vô cùng yếu đuối và mệt mỏiʺ [133]. Ông cũng liệt kê những chi tiết hoạch định sẽ được đưa ra trong cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương sắp đến: ʺ(a) Tự phê b́nh những việc đă qua; (b) dự định tiếp tục hoạt động cho đến khi hội nghị; (c) chuẩn bị cho hội nghị; và (d) chuẩn bị gửi học viên.ʺ Rơ ràng là ông đă không nhận thấy trước rằng hội nghị tháng 10 sẽ liên quan đến sự chuyển hướng quan trọng của đảng. Trong cùng bức thư ông có nhắc đến việc ḿnh vừa hoàn thành công việc ʺb́nh dân hoáʺ một cuốn sách mang tên Nhật Kư Ch́m Tàu. Ông nói ḿnh phải bỏ ra 8 ngày để viết và gần một tháng để in được 20 ấn bản [134]. Đây là một chuyện ngụ ngôn về ba thuỷ thủ, một người Pháp, một người Phi và một người Việt bị đắm thuyền và được một chiếc tàu Sô Viết cứu sống. Họ được đưa đến Moscow và được chăm lo sức khoẻ, được đào tạo tại một học viện cộng sản và đối xử đàng hoàng, không như trước đây khi họ c̣n là lao công của Pháp. Người thuỷ thủ Việt Nam ấn tượng với ʺsức hút mạnh mẽ kỳ lạʺ của học thuyết về chủ nghĩa thực dân của Lenin ʺvề những người đă bị tước đoạt tổ quốcʺ [135]. Việc Hồ bỏ cả tháng để soạn thảo cuốn sách này có lẽ ngoài ḷng tự hào của một nhà văn, ông đang muốn bày tỏ ḷng trung thành của ḿnh đối với Moscow vào thời điểm mà ĐCS Trung Quốc đang đi theo con đường mà người Nga cho là chống đối lại QTCS.



    Dù sao Hồ vẫn giữ được mối quan hệ có lẽ là tốt đẹp với ĐCS Trung Quốc. Ông đă báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông vào ngày 22 tháng 9 rằng ông đă thỉnh ư kiến của Phân Bộ Miền Nam Trung Quốc về việc ĐCS Việt Nam nên lựa chọn chiến lược nào để đối phó với ʺcuộc khủng bố Trắngʺ, một biện pháp đàn áp mà người Pháp đang sử dụng chống lại nông dân Nghệ An. Ông đă báo cáo rằng vào ngày 19 tháng 9, ba thành viên của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Việt Nam đă đến Hồng Kông tham dự hội nghị Uỷ Ban Trung Ương và đă tŕnh một báo cáo về những sự kiện tại Việt Nam. V́ thời gian để hội ư với Phân Bộ Viễn Đông kéo dài quá lâu (một bức thư ʺnhanhʺ từ Thượng Hải đến Hồng Kông lúc ấy phải mất 15 ngày mới đến][136], các thành viên Uỷ Ban Trung Ương và Hồ đă thảo luận với những người Trung Quốc để quyết định những bước tới của ĐCS Việt Nam. Bản tường thuật mang tính ngoại giao của Hồ về cuộc thảo luận này nói rằng Trung Quốc đồng ư với quyết định của ĐCS Việt Nam về việc quyên góp tiền bạc cho các nạn nhân và tổ chức một phong trào phản đối trên toàn quốc. Cả nhóm cũng đă quyết định bắt đầu thổ chức lực lượng ʺnông dân tự vệʺ, củng cố hoạt động của đảng trong hàng ngũ công nhân và tuyên truyền đối với binh lính [137].

    Ngô Đức Tŕ đă đưa ra nhiều chi tiết hơn về việc gặp gỡ hai thành viên Trung Quốc từ Phân Bộ Miền Nam mà ông nói là bao gồm Hồ, Hồ Tùng Mậu, Trương Văn Lềnh, người bạn trong Uỷ Ban Trung Ương của ông là ʺSáuʺ (Nguyễn Trọng Nhă, c̣n có tên là Nguyễn Trọng Nhât, một cựu sinh viên từ Hà Tĩnh [138]) và ông. (Những thành viên khác của Uỷ Ban Trung Ương đă chưa đến hội nghị). Những người Trung Quốc cho rằng những cuộc biểu t́nh đánh dấu bước khởi đầu của ʺphong trào nổi dậyʺ là một điều tốt. Nhưng Hồ Tùng Mậu đă trả lời rằng việc nổi dậy đang đem đến ʺnhiều thất bại hơn thành côngʺ, mặc dù không có tổn thất ǵ khi tiếp tục những cuộc biểu t́nh. Hồ tin rằng không thể nào tổ chức được một cuộc tổng khởi nghĩa, nhưng ở các làng xă nông dân có thể dựng lên công xă và thực hiện chính sách phân chia ruộng đất. Ngô Đức Tŕ cho rằng ông là người phản đối quyết liệt nhất chủ trương nổi dậy tại Nghệ Tĩnh.

    ʺPhong trào cách mạng chỉ vừa mới thành h́nh... chủ trương nổi dậy là sai lầm; nó sẽ không mang lại giá trị ǵ cho phong trào cách mạng ngoại trừ bom đạn và thất bại. ĐCS Trung Quốc kêu gọi khởi nghĩa, nhưng... những ǵ có thể ở Trung Quốc không hẳn luôn có thể tại Đông Dương. Việc thành lập Sô Viết và phân chia ruộng đất mà không có hậu thuẫn của một cuộc nổi dậy th́ không thể nào thực hiện được,ʺ Tŕ khai là đă phát biểu như thế. Trong số những người Việt, chỉ có ʺSáuʺ là hoàn toàn đồng ư với những người Trung Quốc [139].

    Đại biểu người Hoa của Uỷ Ban Trung Ương từ Sài G̣n là A Lầu đă không tham gia vào cuộc thảo luận. Nhưng có thể ông đă đóng góp trong phần báo cáo của đảng về Nam Kỳ ‐ Cam Bốt mà Hồ đă gửi cho Phân Bộ Viễn Đông vào ngày 22 tháng 9. Vào thời điểm này ĐCS Trung Quốc ở miền nam có vẽ đă chính thức hợp nhất với người Việt. (Nhưng trong năm 1931 một báo cáo từ Sài G̣n lại một lần nữa đề cập rằng chi bộ Nam Kỳ ‐ Cam Bốt là một thành phần hoàn toàn riêng biệt với ĐDCSĐ [140]). Tại Campuchia, đảng đă có 120 thành viên người Trung Quốc và 4 người Việt, với 300 thành viên Trung Quốc trong các nghiệp đoàn lao động. Tại Nam Kỳ đảng cho thấy sự lớn mạnh với 70 thành viên Trung Quốc và 400 người Việt, tăng 350 người Việt kể từ tháng 2 1930. Có 500 thành viên trong các nghiệp đoàn lao động (tính chung mọi chủng tộc) và 13.500 thành viên trong các nông hội [141].

    Hai thành viên c̣n lại của Uỷ Ban Trung Ương là Trần Phú và Lê Măo đă đến Hồng Kông vào ngày 2 tháng 10, trước khi những thành viên miền nam không thể chờ đợi được nữa và định quay trở về. (Một thành viên thứ ba là cựu đảng viên cuả ĐDCSĐ là Trần Văn Lan bị trễ hẹn và đă phải đợi tại một khách sạn trong suốt cả tháng 10. Không biết là có phải ông đă nhận được địa chỉ không chính xác hay không). Nguyễn Phong Sắc, một thành viên vắng mặt khác th́ đang quá bận bịu với phong trào Nghệ Tĩnh đă không tham dự. Ngô Đức Tŕ bị đau ruột thừa ngay trước ngày hội nghị và do đó phải nằm tại bệnh viện trong suốt hai tuần. Mặc dù ít nhất một học giả Việt Nam đă cố gắng chứng minh rằng Hồ cũng đă vắng mặt trong hội nghị tháng 10 nhưng tài liệu của QTCS đă cho thấy không phải vậy [142]. Vào ngày 28 tháng 10 Hồ đă viết một trong những báo cáo ít tin tức nhất về quá tŕnh này. Bên cạnh việc thống kê những số lượng đảng viên trong những tổ chức khác nhau (giờ đă lên đến 1.740 đảng viên, trong đó có 190 người Trung Quốc], ông đă liệt kê những hạng mục và nghị quyết đă được thảo luận, chú thích rằng những tài liệu này chưa được chuyển ngữ. Báo cáo về chi tiêu của ông cho thấy tổng số chi phí cho việc đi lại, ăn ở trong thời gian hội nghị chiếm hết 440 đô‐la Hồng Kông. Cuối cùng ông hỏi: ʺXin hăy gọi điện cho chúng tôi ngay bởi v́ chúng tôi phải quay về lập tức sau khi gặp ông” [143] Điều này cho thấy ông thực sự đă đi cùng Trần Phú đến Thượng Hải để báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông sau đại hội.

    Đối với những ai t́m cách chứng minh Hồ Chí Minh luôn là ngọn đèn dẫn đường của ĐCS Việt Nam th́ việc ông vắng mặt tại Hồng Kông trong lúc ấy khá là tiện lợi. Bởi v́ tại hội nghị tháng 10 này ông đă bị mất quyền hành của một người chuyển giao chính sách của QTCS đến Việt Nam. Chính cương cho ĐCS Việt Nam vào tháng 2 1930 do ông soạn thảo đă bị thay thế bằng một Luận Cương Chính Trị mới và các nghị quyết hợp với đường hướng hiện tại của QTCS. Như ta đă thấy, việc này đ̣i hỏi đảng phải phát triển thành một tổ chức giai cấp. Hai nhiệm vụ của đảng là cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến giờ đây đă trở thành việc giải phóng giai cấp công nhân tại thành thị lẫn nông thôn. Cho đến năm 1931 tư tưởng này đă gây nên việc thanh trừng nhiều người trung lưu yêu nước trong đảng, tách rời họ ra khỏi phong trào cách mạng. Trong cùng lúc ấy, hội nghị đă phê b́nh cuộc khởi nghĩa tháng 9 tại Nghệ An. Một thông tư được gọi là Văn Kiện Đảng viết vào tháng 10 đă phê phán ʺXứ Uỷ Trung Kỳʺ. Thông tư nói rằng: ʺVào thời điểm hiện tại với hiện t́nh đất nước, mức độ chuẩn bị của tầng lớp vô sản và quần chúng bị bóc lột tại thành thị và nông thôn, mức độ chuẩn bị của đảng và sức mạnh của địch, những cuộc khởi nghĩa riêng rẽ tại một vài nơi là manh động và sai lầm” [144] Vào cuối hội nghị, những đại biểu đă quyết định thành lập Uỷ Ban Trung Ương tại Sài G̣n. Trần Phú được bầu làm bí thư Uỷ Ban Trung Ương, với Ngô Đức Tŕ và Nguyễn Trọng Nhă là uỷ viên trong Uỷ Ban Thường Vụ. Nguyễn Phong Sắc và Trần Văn Lan vẫn giữ chức uỷ viên Uỷ Ban Trung Ương. Thành viên người Trung Quốc là A Lầu đă quyết định ở lại Hồng Kông để làm việc với ĐCS Trung Quốc v́ ông từng là học viên của Hoàng Phố [145].

    Theo lời của Ngô Đức Tŕ th́ sau hội nghị, Hồ và Trần Phú cùng đi Thượng Hải để báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông. Khi Trần Phú quay lại Hồng Kông vào ngày 20 tháng 11, ông đă đem theo một bức thư ngắn của Hồ, Ngô Đức Tŕ nói. Bức thư nh́n nhận rằng quá tŕnh hợp nhất đảng đă được thực hiện vội vàng và đă có những thiếu sót về phương hướng v́ đă thiếu thông tin từ trong nước. Hồ cũng đă đồng ư việc đổi tên đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương [146]. Một thông tư đề ngày 9 tháng 12 cho các đảng uỷ công bố việc Hồ nh́n nhận những sai lầm của ḿnh. Thông tư đă lưu ư rằng đă không có một xứ uỷ nào thực hiện chỉ thị của QTCS được gửi cho họ vào tháng 2 và tháng 3 193; trên thực tế, những chỉ thị này đă được ʺtiếp thu một cách lạnh nhạtʺ. Các đảng viên đă không biết được rằng ʺngười đồng chí kêu gọi Hội Nghị Hợp Nhất đă được QTCS gửi về nước hoạt động mà không có một hướng dẫn cụ thể nào... ông đă tự ḿnh khởi xướng và đă mắc phải hàng loạt sai lầm... Đồng chí này đă nh́n nhận sai lầm của ḿnh và đă đồng ư sửa chữaʺ [147]. Thông tư này cũng đă chỉ ra việc cần phải xem tất cả địa chủ là một ʺgiai cấpʺ. Đối nghịch lại với chính cương tháng 2 của Hội Nghị Hợp Nhất, bản thông tư khẳng định rằng tất cả các địa chủ là kẻ thù của nông dân và quyền lợi của họ ʺliên quan mật thiết với quyền lợi của đế quốcʺ [148].

    Đến cuối tháng 1 1931, mặc dù những làn sóng biểu t́nh mới đang xảy ra tại Hà Tĩnh và Quảng Ngăi, Ngô Đức Tŕ đă viết cho Moscow rằng ʺcuộc khủng bố đẫm máu đang ảnh hưởng đến tinh thần quần chúng và làm cho hoạt động của chúng tôi thêm khó khănʺ. Đến tháng 10 1930, ông ghi chú, trong số 90 đảng viên tại Hải Pḥng đă có 17 người bị bắt, 10 người khác đă bỏ trốn, và 45 người đă bỏ đảng v́ sợ bị đàn áp. Đến tháng 12 1930, số lượng đảng viên đă tăng lên 93 đảng viên nhờ những thành viên mới được kết nạp, nhưng số lượng thành viên công đoàn đă giảm từ 99 vào tháng 10 xuống c̣n 67 vào trong tháng 12 [149]. Trong khu vực mỏ than Hồng Gai, Cẩm Phả và Hà Tu, nơi có hàng ngh́n công nhân mỏ, ông viết: ʺChúng tôi chỉ có 29 đồng chíʺ [150].

    Đảng đă không thể thâm nhập vào các đồn điền kể từ sau cuộc nổi dậy ở Phú Riềng, và tại khu vực nông thôn, nơi việc đàn áp đặc biệt dữ dội, các nông hội ʺđă bị phá huỷʺ [151]. Trong phần tái bút ông nói thêm rằng Uỷ Ban Trung Ương đă bắt đầu thiết lập liên lạc với Thượng Hải nhưng hiện tại hệ thống này làm việc rất tồi tệ. Có thể là việc Phân Bộ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc bị cảnh sát Anh tại Hồng Kông khám phá vào tháng 12/1930 đă làm gián đoạn hệ thống liên lạc vốn đă chậm giữa Hồng Kông và Thượng Hải. Theo báo cáo của người Anh vào năm 1932, phân bộ ʺđang sống trong t́nh trạng hấp hối, như một cơ quan chuyển giao và thông dịch tin tức của Phân Bộ Viễn Đông, với một nhân viên là Nguen[sic] Ai Quac, một người Cộng Sản An Namʺ [152].

    T́nh trạng thảm hại này dường như đă ảnh hưởng đến quan hệ giữa Uỷ Ban Trung Ương và Hồ. Vào ngày 12 tháng 2 ông đă chuyển một bức thư (mà ông đă dịch sang tiếng Anh) của Uỷ Ban Trung Ương Việt Nam đến Phân Bộ Viễn Đông. Lá thư mở đầu: ʺQuan điểm của QTCS về bản thảo nghị quyết của chúng tôi là ǵ? Có thư từ ǵ cho chúng tôi không? Nếu không th́ đặt văn pḥng tại Hồng Kông để làm ǵ. Ít nhất QTCS cũng nên gửi thư cho chúng tôi. [...] Nếu các đồng chí không thể giúp chúng tôi liên lạc với QTCS và Cục Đông Phương th́ các đồng chí làm ǵ ở đây?ʺ[153] Những chỉ thị và hậu thuẫn mà Đảng Cộng Sản Đông Dương mới đang mong muốn đă mất quá nhiều thời gian để đến Việt Nam. Không hẳn là lỗi của Hồ khi Phân Bộ Viễn Đông chậm trả lời những yêu sách của họ. Trong một bức thư gửi cho Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 2, Hồ đă nhấn mạnh vai tṛ tế nhị của tầng lớp lănh đạo trong Uỷ Ban Trung Ương và tầm quan trọng của việc củng cố quyền lực của họ. Lư do mà ʺnhững giám đốc mới trong công ty Đông Dươngʺ đang vô cùng nôn nóng trông chờ những bức thư mà các ông đă hứa, ông nói, là v́ ʺhọ vừa đặt chân đến trong nước và họ vẫn chưa có được những ảnh hưởng cần thiết đối với những người dưới quyền đă ở trong công ty lâu hơn” [154]. Nhưng Phân Bộ Viễn Đông chỉ giỏi trong việc đưa ra những chỉ thị chung và phê b́nh những báo cáo nhận được hơn là giải quyết những khó khăn (trong mùa đông năm 1931 họ cũng đă hoàn toàn bận rộn trong việc khống chế ảnh hưởng của Lư Lập Tam]. Họ đă viết cho Hồ vào ngày 12 tháng 1 hứa hẹn là sẽ sớm có ʺmột tài liệu đầy đủ và chi tiết hơnʺ kèm theo các chỉ thị, nhưng nó đă không thành h́nh măi cho đến cuối tháng 3. [155] Bức thư ngày 12 tháng 1 của Phân Bộ Viễn Đông cũng đă phê b́nh công việc báo cáo của Hồ và bỏ qua thực tế là có thể ông đă phải thay đổi địa chỉ và h́nh thức thông tin sau khi Phân Bộ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc bị khám phá. ʺChúng tôi thấy liên lạc của đồng chí với những nơi khác dường như không đầy đủ và không chấp nhận được. ... Hơn nữa thông tin về cuộc Khủng Bố Trắng th́ quá ʺkhô khanʺ (chỉ đề cập là bao nhiêu người bị bắt]; điều quan trọng là cần phải biết họ bị bắt khi đang làm ǵ, v́ sao họ bị bắt, vân vân” [156] Cũng trong cùng bức thư này, Phân Bộ Viễn Đông đ̣i hỏi cần có thêm những cuộc biểu t́nh: ngày 25 tháng 2 là ʺNgày Thất Nghiệpʺ, được đánh dấu bởi ʺsự vận động quần chúng rộng răi nhất có thể được trong các công xưởng và nhà máyʺ.

    Dường như Hồ đă báo với Phân Bộ Viễn Đông về dự định cưới vợ của ḿnh trong khoảng mùa đông. Phân Bộ Viễn Đông nhắc nhở ông trong bức thư ngày 12 tháng 1 rằng ông phải báo cho họ biết trước hai tháng ngày cưới của ông. V́ bức thư này đă không dùng mật mă dưới dạng công ty thương măi, ta có thể cho rằng họ thực sự đang nói về việc Hồ lấy vợ. Trong tháng 2 ông có đề cập đến việc vợ ḿnh đang bận rộn chuẩn bị Tết và dự định mở tiệc đón khách từ Sài G̣n và Bắc Kỳ, do đó có thể là ông đă tảng lờ yêu cầu của Phân Bộ Viễn Đông hoặc là thư của họ đến quá trễ. [157] Từ tài liệu QTCS khác trong giai đoạn 1934 và 1935, chúng ta biết được rằng vợ của ông rơ ràng là Nguyễn Thị Minh Khai, cựu thành viên đảng Tân Việt ở Vinh được giao nhiệm vụ làm việc tại Hồng Kông sau khi đảng hợp nhất. [158] Sau này bà được giao nhiệm vụ làm việc với ĐCS Trung Quốc. Việc Hồ và bà có c̣n giữ quan hệ vợ chồng sau khi hai người bị bắt vào tháng 4 và tháng 6 1931 th́ không rơ. (Nguồn hồ sơ của người Pháp về Nguyễn Thị Minh Khai làm ta tin rằng bà đă có nhiều quan hệ với những đồng chí nam giới trong khoảng 1930 đến 1940. Ví dụ như vào năm 1932, Sở Liêm Phóng tin rằng bà là t́nh nhân của Trần Ngọc Danh, em trai Trần Phú. Vào năm 1933 họ đă giữ được một bức thư của bà viết từ Hồng Kông, dường như để từ chối việc cầu hôn của một người nào đó, trong đó bà tuyên bố ʺTôi không c̣n ám ảnh chuyện hôn nhân hoặc làm mẹ... Người chồng duy nhất của tôi là cuộc Cách Mạng Cộng Sảnʺ [159]. Nhưng cho đến cuối năm 1934, khi bà đến Moscow, bà lại viết rằng bà đă có chồng là ʺLinʺ, bí danh của Hồ lúc ấy [160]. Ở Việt Nam, tiểu sử về bà viết rằng bà đă lấy Lê Hồng Phong tại Moscow vào năm 1935, nhưng hiện tại không có một bằng chứng ǵ về cuộc hôn nhân này [161])

    Hội nghị tháng 3 và sự chấm dứt của ʺcao trào cách mạngʺ

    Đến ngày 12 tháng 3 1931, khi Hội Nghị Toàn Thể lần 2 bắt đầu tại Sài G̣n, quan hệ giữa Uỷ Ban Trung Ương và Hồ Chí Minh đă suy giảm đến mức ông đă phải nhanh chóng yêu cầu được từ bỏ nhiệm vụ của ḿnh tại Hồng Kông. Một trong những đề mục trong chương tŕnh nghị sự của Hội Nghị tháng 3 là ʺvấn đề Hồ Chí Minhʺ. Theo Ngô Đức Tŕ th́ những người cầm đầu tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ đă than phiền rằng Hồ liên tục yêu cầu họ phải tường tŕnh cho Phân Bộ Viễn Đông tại Thượng Hải những báo cáo mà Thường Vụ Uỷ Ban Trung Ương có trách nhiệm soạn thảo. Hội nghị đă quyết định viết thư yêu cầu Hồ nên chấm dứt việc đ̣i hỏi những báo cáo này; khi cần thiết, Uỷ Ban Trung Ương sẽ gửi báo cáo cho Phân Bộ Viễn Đông qua ngơ Hồng Kông, và sẽ yêu cầu Hồ chỉ đơn giản là chuyển giúp cho họ [162]. Vào tháng 4, Trần Phú đă viết thư thông báo cho Phân Bộ Viễn Đông rằng họ không nên tiếp tục dùng Hồ làm người trung gian v́ ʺông ta quá vắn tắt và đôi khi chỉ thị cho chúng tôi những ư kiến cá nhân của ḿnh mà không thông qua các đồng chíʺ [163].

    Hồ phản hồi những phê b́nh trên trong một bức thư gửi cho Uỷ Ban Trung Ương ngày 23 tháng 4 nói rằng ông thấy vô ích khi chỉ đóng vai tṛ của một trạm đưa thư đơn thuần. Ông giải thích: ʺTôi biết hoàn cảnh khó khăn và Uỷ Ban Trung Ương có rất nhiều việc phải làm. Nhưng ʺhọʺ cần phải hiểu rơ t́nh thế của chúng ta, và đó là lư do tại sao chúng tôi đă yêu cầu các văn bản báo cáo từ các đảng uỷ địa phươngʺ [164]. Vào cuối tháng 3 Phân Bộ Viễn Đông t́m cách thuyết phục ông ở lại Hồng Kông với lư do là việc giữ liên lạc với Thượng Hải sẽ không dễ dàng hơn cho ông. Họ đă trấn an ông rằng, ʺBản thân đồng chí vô cùng quí giá và trên hết là sự cần thiết mà chúng ta đă thảo luận vào tháng 11 trước. Chúng tôi đă xác định nhiệm vụ của đồng chí như sau: (1) giữ vững các liên lạc mật thiết nhất có thể được với những đảng uỷ trong nước; (2) báo cáo với chúng tôi mọi việc tại nơi sinh hoạt của đồng chí; (3) chuẩn bị và giáo dục đảng trong những cuộc đấu tranh tương laiʺ [165].

    Kiểm soát viên QTCS là Joseph Ducroux đă gặp Hồ vào tháng 3 và tháng 4 khi trên các chuyến đi và rời khỏi Việt Nam, nơi ông đă tổ chức một số cuộc họp với Trần Phú và Ngô Đức Tŕ. Ông đă không hé lộ nhiều về mối căng thẳng giữa Hồ và Uỷ Ban Trung Ương trong một bức thư viết sau khi gặp Hồ vào tháng 4. Nhưng ông đă lưu ư rằng Hồ cảm thấy bị cô lập và đề nghị Phân Bộ Viễn Đông nên củng cố sự chỉ đạo của ḿnh và ʺsự hậu thuẫn vững chắcʺ mà họ đă dành cho Hồ và ʺnhững người bạn trong nướcʺ của ông. [166] Ducroux cũng đă báo cáo rằng giới lănh đạo trung ương của Đảng Cộng Sản Đông Dương ʺcuối cùng đă được mọi người công nhận và có thực quyền, mặc dù có một vài chủ trương liên bang nhỏʺ. Dù thế những chủ trương này lại rất mạnh ở miền bắc đến độ tại hội nghị, Uỷ Ban Trung Ương đă quyết định thay thế bộ phần lănh đạo ở đấy. Cả lời khai của Ngô Đức Tŕ lẫn thư từ liên lạc giữa Ducroux và Trần Phú đă cho thấy một thành viên của Xứ Uỷ Bắc Kỳ trong khi được giao nhiệm vụ chuyển ngữ bức thư của QTCS

    ʺNhững Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dươngʺ đă thêm vào một lời mở đầu rằng Đệ Tam Quốc Tế đă không hiểu được t́nh h́nh tại Đông Dương. Nhân vật phản kháng này, được nhận diện là ʺKyʺ, đă giữ được ảnh hưởng của ḿnh trong hàng ngũ lănh đạo phía bắc, ngay cả khi đă bị đưa ra khỏi chức vụ của ḿnh và đă t́m cách thành lập một thành phần đối lập. [167] Một bức thư của Phân Bộ Viễn Đông được viết sau hội nghị tháng 3 đă lặp lại rằng ĐCS Đông Dương phải chống lại những ʺphần tử tại các tỉnh phía bắcʺ đă cho rằng QTCS không thấu hiểu được hiện t́nh của Đông Dương. ʺNhững lập luận này đă được dùng trước đây bởi Lư Lập Tam, người đă không thực hiện những chỉ thị của QTCS và đă dẫn đến những thiệt hại to lớn của tổ chức tại đâyʺ [168].

    Hồ Chí Minh đă đứng ở vị trí nào trong mối mâu thuẫn về đường lối của QTCS là một vấn đề phức tạp. Chúng ta có thể giả định từ mối quan hệ tốt đẹp của ông với Phân Bộ Viễn Đông, báo cáo của ông từ Mă Lai vào năm 1930 cũng như từ bức thư của ông trong tháng 4 1931 rằng ông đă không mong muốn dính líu đến việc phản đối lại Moscow. Nhưng vị thế của ông đă có thể bị suy yếu từ việc Mif đang cố gắng nắm lấy Phân Bộ Viễn Đông vào mùa thu 1930. Theo quan điểm của Trần Phú, việc Hồ thất bại trong việc đưa ra một chính sách giai cấp rơ rệt trong nội bộ đảng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mất đoàn kết trong đảng. Trong bức thư ngày 17 tháng 4 1931 ông đă buộc Hồ chịu trách nhiệm về những tàn dư của ʺnhững tổ chức cách mạng cũʺ bên trong đảng Việt Nam. Ông cho rằng ʺnhững tháng qua cho thấy rằng tất cả những thành phần tư tưởng thuộc những nhóm cách mạng cũ đă kết hợp thành một thành phần chống lại phương hướng mới về chính sách thống nhất tư tưởng và hành động của đảng.ʺ Hội nghị hợp nhất vào tháng 2 1930 đă bị thấm nhuần tư tưởng của những tổ chức cách mạng cũ, ông nói. Tư tưởng này bao gồm việc thừa nhận những địa chủ bậc tiểu và trung cũng như thành phần tư sản quốc gia là một bộ phận của cách mạng. Ông giải thích: ʺKết quả của ʺhội nghị hợp nhấtʺ này đă chứa đựng rất rơ dấu vết của giai đoạn hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc, đặc biệt là chính sách hữu khuynh của ĐCS Trung Quốc từ 1925 đến 1927ʺ [169].

    Việc thúc đẩy chủ trương giai cấp của Trần Phú với uy thế của Stalin có thể đă mang lại một hậu quả ngoài ư muốn. Nỗ lực áp đặt một ʺđường hướng giai cấpʺ của ông tại Hội Nghị tháng 3 1931 có thể đă dẫn đến một giai đoạn mới của chủ nghĩa cực đoan tại Trung Kỳ vào mùa xuân 1931. Những quyết định được đưa ra trong phiên hội nghị tháng 3 kéo dài 2 tuần thường được cho là đă phê b́nh nghiêm khắc những ʺkhuynh hướng thiên tảʺ trong nội bộ đảng của những người như Ngô Vĩnh Long [170]. Có lẽ chính xác hơn th́ đây là sự thay thế một chủ trương cực đoan bằng một chủ trương cực đoan khác. Trong khi hội nghị đă không lên án khủng bố cá nhân và cách sử dụng bạo lực đầy hấp tấp, nó đă kêu gọi củng cố tính chất giai cấp của ĐCS Đông Dương. Bản nghị quyết viết: ʺMột trong những nguy hiểm lớn nhất là việc các đảng viên vẫn chưa hiểu rơ về vị trí của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng và những nhiệm vụ của đảngʺ[171]. Những nhiệm vụ tổ chức đầu tiên phải được thực hiện là: giải pháp cho cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ lănh đạo tại Bắc Kỳ và đẩy mạnh vị thế của Uỷ Ban Trung Ương tại miền trung và miền nam. Cần thiết phải từng bước một thay thế các đại diện của thành phần trí thức và bảo thủ trong những bộ phận lănh đạo bằng tầng lớp công nhân hoặc bần nông [172]. Đảng được giao nhiệm vụ điều tra những hội nông dân và loại bỏ những thành phần không dính líu đến giai cấp nông dân; đưa những đại biểu bần nông và người lao động thành thị nghèo khó nhất vào hàng ngũ lănh đạo. Cuộc đấu tranh giai cấp tại nông thôn cần được mở rộng và ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia cần được loại bỏ [173]. Tổ chức phụ nữ không c̣n chỉ chú trọng vào ʺphụ nữ nói chungʺ mà cần được thực hiện chỉ trong tầng lớp phụ nữ lao động. Hội Phụ Nữ Giải Phóng phải bị giải tán tức th́ [174].

    Một hệ quả của nghị quyết về giai cấp dường như là sự thanh trừng của Đảng Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4. Một lần nữa, đă có một sự nhầm lẫn về nguyên do của việc thanh trừng này. Nguyễn Duy Trinh đă miêu tả nó như là việc loại bỏ những thành viên ʺđă mắc những sai lầm thiên tả nghiêm trọngʺ [175]. Nhưng Trần Huy Liệu lại nhắc đến một thông tư đề ngày 29 tháng 4 1931 từ Xứ Uỷ Trung Kỳ trong đó kêu gọi bài xích những thành phần trí thức, phú nông, địa chủ và thân hào [176]. Thuật ngữ này nhắc lại khẩu hiệu nổi tiếng trong thời điểm mạnh mẽ nhất của phong trào Nghệ Tĩnh: ʺTrí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễʺ. Trần Huy Liệu viết rằng khẩu hiệu mang tính chia rẽ như thế đă giúp cho người Pháp lôi kéo được một phần khá lớn trong dân chúng vào thời điểm mà sự đàn áp của Pháp đang lên cao. Khi Thông Tư ngày 29 tháng 4 được ban hành, Lê Viết Thuật đă được tín nhiệm để nắm quyền lănh đạo Xứ Uỷ Trung Kỳ, theo lời Nguyễn Duy Trinh. Cả Nguyễn Đức Cảnh và Lê Măo đều bị bắt giữ vào ngày 9 tháng 4; Lê Viết Thuật có lẽ cũng nằm chung số phận vào ngày 1 tháng 5, trong khi Nguyễn Phong Sắc bị người Pháp bắt vào ngày 3 tháng 5 1931 [177].

    Việc loại bỏ giai cấp tư sản có lẽ đă được toan tính như là một cuộc thanh trừng bất bạo động. Nhưng nó đă chuyển thành một quá tŕnh t́m vật tế thần khi người Pháp đưa thêm quân vào Vinh và nạn đói lan rộng. Tài liệu của toà án Pháp cho thấy tại Hà Tĩnh, bắt đầu từ tháng 11 1930 và trong suốt nửa đầu 1931, những người bị t́nh nghi là gián điệp và dân làng bị tố cáo ngăn cản phong trào Sô Viết đă bị ám sát bằng nhiều biện pháp [178]. Một người phản đối đảng đă bị trói và thả trôi sông cùng với vợ và con; một kẻ trộm lúa và khoai đă bị chôn sống; một người bị t́nh nghi là chỉ điểm đă bị đánh chết. Ta không biết rơ rằng những việc này có nằm trong chủ trương thanh trừng mà Trần Huy Liệu nhắc đến hay không. Trong hoàn cảnh nguy hiểm ngày càng tăng đối với những đảng viên, một ʺkẻ thù giai cấpʺ bị loại bỏ khỏi chức vụ lănh đạo trong đảng sẽ tự động biến thành kẻ bị t́nh nghi phản bội.

  8. #58
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge (1)
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P2




    Theo tài liệu trong Văn Kiện Đảng, một chỉ thị do Uỷ Ban Trung Ương ban hành vào ngày 20 tháng 5 1931 đến Xứ Uỷ Trung Kỳ kêu gọi chấm dứt việc thanh trừng. Tài liệu này nói rằng ʺXứ Uỷ Trung Kỳ, cụ thể là bí thư xứ uỷ, đă đưa ra một chỉ thị loại bỏ khỏi đảng những trí thức, phú nông, địa chủ và thân hào; chỉ thị này không có cơ sở, thiếu giải thích cặn kẻ, độc đoán và cẩu thảʺ [179]. Xứ Uỷ Trung Kỳ được chỉ đạo phải tự kiểm điểm với thái độ nghiêm khắc nhất và sửa chữa những sai lầm của ḿnh. Điều kỳ lạ là trong bài viết của Trần Huy Liệu năm 1957 đă không thấy nhắc đến chỉ thị này. Như ta đă thấy, Nguyễn Duy Trinh, tự nhận rằng đă trực tiếp chứng kiến những sự kiện này và đă tham dự cuộc họp của Xứ Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4 đă đặt thời điểm sửa chữa những sai lầm tả khuynh vào khoảng tháng 4, khi trong thực tế thời kỳ bạo lực hơn nữa của phong trào Sô Viết chỉ mới bắt đầu. Dường như đă có một khả năng khác là những hành động mà trong thời gian 1935‐6 được cho là ʺsai lầm thiên tảʺ trên thực tế đă không được sửa đổi trong năm 1931. Giai đoạn cực đoan này có thể chỉ đơn giản đă lắng dần khi cơ cấu đảng bị phân tán.

    Như ta đă biết được từ những bức thư cuối cùng của Trần Phú và Hồ Chí Minh gửi đến Phân Bộ Viễn Đông (trước khi họ bị bắt], vào tháng 4 1931 và đầu tháng 5 1931 toàn bộ cơ cấu bên trên cấp tỉnh của ĐCS Đông Dương đă bị phá huỷ v́ những bắt bớ của Pháp. Ngô Đức Tŕ bị bắt vào ngày 1 tháng 4, cùng với toàn bộ Xứ Uỷ Nam Kỳ. Vào ngày 15 tháng 4 cơ quan của Uỷ Ban Trung Ương tại Sài G̣n bị khám phá, dẫn đến việc mất mát tất cả thư từ và 1.500 đô‐la do Ducroux đưa sang để trang trải chi phí trong 3 tháng. Trần Phú thoát được nhờ đang đi vệ sinh khi cuộc ruồng bố xảy ra [180]. Ông đă viết vào ngày 28 tháng 4: ʺMỗi ngày đều có bắt bớ.ʺ Các tỉnh Thái B́nh và Nam Định bị tấn công dữ dội làm liên lạc viên của họ bị bắt giữ và đă khai báo. Cơ sở in ấn mới của Uỷ Ban Trung Ương bị khám phá và thêm vài đảng viên bị bắt. [181] Hồ đă báo cáo việc Trần Phú bị bắt vào ngày 19 hoặc 20 tháng 4. Sau đó Hồ viết rằng chỉ c̣n sót lại một công nhân trẻ trong ban bí thư. Tại Hồng Kông một trong những ʺđồng chí có nhiệm vụ thông tinʺ là Nguyễn Thị Minh Khai đă bị bắt vào ngày 29 tháng 4.

    V́ những bắt bớ rộng răi ở trên, việc soạn thảo của chỉ thị ngày 20 tháng 5 1931 cho Xứ Uỷ Trung Kỳ đă gặp khó khăn. Có phải Uỷ Ban Trung Ương đă ban hành một tài liệu như thế vào lúc ấy? Có phải chính Hồ Chí Minh đă soạn thảo và gửi đến miền trung Việt Nam dưới danh nghĩa của một Uỷ Ban Trung Ương đă không c̣n tồn tại? Có phải Hồ Chí Minh vẫn sẵn sàng khởi xướng việc này trong khi QTCS đă hoàn toàn ủng hộ những chính sách do Trần Phú đưa ra? Nó có được thực sự chấp nhận và thi hành tại Trung Kỳ? Bằng chứng duy nhất từ văn khố của Pháp về vấn đề này là một thông tư dang dở do cảnh sát Hồng Kông tịch thu được từ máy đánh chữ của Hồ Chí Minh khi ông bị bắt vào ngày 6 tháng 6. Chủ đề của tài liệu này là đường lối đúng đắng để chống lại cuộc khủng bố của Pháp. Người Pháp cho tài liệu này là ʺkhông đáng quan tâmʺ nhưng tin rằng nó cho thấy quyền lực của Hồ trong đảng [182].

    Theo bức thư từ Đức mà Phân Bộ Viễn Đông đă gửi đến Moscow vào ngày 10 tháng 6, dường như họ đă quyết định đưa ra lời kêu gọi ʺđến toàn thể các thành viên trong đảngʺ trên danh nghĩa của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương. Lời kêu gọi này có mục đích ʺkhẳng định rằng đảng đang lập lại trật tự và bắt tay vào việcʺ [183]. Người viết, có thể là Rylski, đă không đưa ra những chi tiết liên quan đến tài liệu này. Nhưng trong bức thư ngày 12 tháng 5 rơ ràng là gửi cho Hồ, viết bằng tiếng Anh không nguyên thuỷ, người viết đă giao cho ông nhiệm vụ viết lời kêu gọi đến đảng: ʺChúng tôi cho rằng cần có một bức thư do đồng chí viết, một bức thư ngỏ cho tất cả các thành viên. Trong thư đồng chí nên nói về những nhiệm vụ của đảng đối với hoạt động quần chúng, việc tổ chức những cuộc đấu tranh kinh tế của công nhân tại các đồn điền, nhà máy, những công nhân nông nghiệp, việc tổ chức các nghiệp đoàn lao động, Liên Đoàn Phản Đế, Uỷ Ban Nông Dân, Uỷ Ban Binh Lính, vân vân. Đồng chí nên nói về sự cần thiết phải lănh đạo và tổ chức những hoạt động tự phát của nông dân của các thành viên, vân vân. Đồng chí nên cảnh báo đảng về hiểm hoạ của xu hướng manh động và nhất là cho thấy khả năng của hiểm hoạ hữu khuynh đang dâng cao là một phản ứng đối với cuộc khủng bố trắngʺ [184]. Căn cứ trên ngày tháng của hướng dẫn này, có khả năng là Hồ đă viết thư dưới danh nghĩa của Uỷ Ban Trung Ương vào ngày 20 tháng 5. Cũng có thể là ông đă nhận ra rằng thông điệp mà Phân Bộ Viễn Đông yêu cầu ông chuyển giao đă không c̣n hợp với thực tại. Có thể ông đă tự tay giải quyết công việc và đă soạn thảo bản chỉ thị đă được t́m thấy trong Văn Kiện Đảng.

    Chúng ta biết được suy nghĩ của Hồ trong tháng 4 từ những bức thư của ông. Vào ngày 28 tháng 4 ông than phiền với Phân Bộ Viễn Đông về tŕnh độ học vấn của những đảng viên mới. Những học viên được lựa chọn để đào tạo tại Moscow lẫn những đảng viên công nhân và nông dân đều thất học, ông viết. ʺĐiều này có nghĩa là mặc dù họ dũng cảm và hi sinh, họ vẫn làm việc rất tồi, tư tưởng và tŕnh độ chính trị của họ rất thấp.ʺ Ông bổ xung: ʺHệ quả của việc thiếu tŕnh độ hoàn toàn này là công việc của các đồng chí gốc công nhân và nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào những thành viên trí thức.ʺ Trong cùng lúc ấy ông lưu ư rằng phần đông những trí thức Việt Nam được gửi đi Moscow từ Pháp th́ ʺkhông dùng đượcʺ. Họ bao gồm những con em được nuông chiều của thành phần tư sản, ông than phiền [185]. Ông cũng lo lắng về chiến lược đang được sử dụng để chống lại sự đàn áp của người Pháp. Trong khoảng ngày 12 đến 20 tháng 4 ông ghi chú rằng đă có 65 nông dân đă bị giết trong những cuộc biểu t́nh. Quân đế quốc đă quyết định ngăn chận phong trào bằng ʺthảm sátʺ, ông nói. ʺChúng ta nên đưa ra chương tŕnh đấu tranh cụ thể ǵ cho các đồng chí của ḿnh? Nếu chúng ta để họ tiếp tục con đường này th́ sẽ dẫn đến hiểm hoạ manh động” [186] Điều mỉa mai là trong cùng bức thư ấy, ông đă đề cập đến việc hăng tin Reuters vào ngày 25 tháng 4 đă đưa ra bản tin về việc ĐCS Đông Dương đă được QTCS thừa nhận như là một ʺbộ phận độc lậpʺ. Nếu bản tin này là đúng, ông viết, ʺth́ đây sẽ là một khích lệ tinh thần rất lớn cho đảng và quần chúngʺ [187].
    Uy tín của Hồ tại Việt Nam có thể vẫn c̣n tương đối lớn để ảnh hưởng đến hướng đi của ĐCS Đông Dương trong giai đoạn này nếu ông đă không bị bắt vào đầu tháng 6. Nhưng tài liệu của Trần Huy Liệu viết vào năm 1960 về giai đoạn mùa xuân 1931 đă không đưa ra ấn tượng rằng Hồ thật sự có ảnh hưởng đến những tiến tŕnh của các sự kiện: ʺPhong trào Sô Viết ở Nghệ An và Hà Tĩnh, không những đă không lụi tắt mà c̣n tăng thêm cường độ và bạo lực trong những tháng cuối. Máu đổ ngày càng nhiều. Khi chuyển đổi từ giai đoạn yêu sách kinh tế và chính trị đến đấu tranh chống lại khủng bố trắng, những cuộc biểu t́nh ngày càng trở thành đấu tranh vũ trangʺ [188]. Ta nghi ngờ rằng xét đoán của Liệu trong nhiều năm sau về những sự kiện trên là không thể có được trong thời kỳ 1931. ʺCương lĩnh hành động năm 1930 đă phạm sai lầm về việc kêu gọi lật đổ tầng lớp tư sản dân tộc cùng với chính quyền thực dân Pháp và giai cấp phong kiến...Lẽ ra họ nên được lôi kéo vào hàng ngũ cách mạng dân chủ tư sản và không nên bị tách rời một cách có hệ thống,ʺ ông viết. ʺTại nông thôn, những cuộc đấu tranh chống lại thành phần phú nông, trung nông và hương lư và thân hào là những sai lầm nghiêm trọng đă làm mất đi uy tín của cả phong trào và tạo điều kiện cho địch tuyên truyềnʺ [189].

    Một báo cáo viên vô danh tại Sài G̣n trong năm 1931 khi viết về t́nh h́nh của Đông Dương đă không đưa ra một dấu hiệu nào về việc ĐCS Đông Dương đang chỉnh sửa đường lối. (Người viết nhân danh là một thành viên trong tổ đảng 4 người ở một kho hàng có đến 200 công nhân. Bản báo cáo được QTCS đóng dấu ngày nhận vào tháng 6 1931). Vào lúc bản báo cáo được viết trong nước đă có 2.400 đảng viên, trong đó có 600 người tại Nam Kỳ (không kể 200 thành viên người Hoa của nhóm Nam Kỳ ‐ Cam Bốt]. Khi nhận định về ʺkhuynh hướng cơ hộiʺ, ông viết rằng những thành phần cách mạng dân tộc đă gia nhập đảng sau hội nghị hợp nhất và những người bị loại bỏ trong cuộc đấu tranh giai cấp đang ʺt́m cách tổ chức một cơ sở của Đảng Độc Lập tại Nam Kỳʺ, (tức là đảng của Nguyễn Thế Truyền]. C̣n có một tổ chức vô chính phủ vừa được thành lập cũng như một nhóm Trotskyist đang hoạt động trong thành phần trí thức, và một ʺLiên Đoàn Cộng Sảnʺ mới được thành lập của những đảng viên đă bị khai trừ. ĐCS Đông Dương đang đấu tranh chống lại tất cả những xu hướng này ngoại từ nhóm chủ trương vô chính phủ v́ họ đă không c̣n hoạt động. Ông viết rằng 30 thành viên c̣n lại của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở phía nam đang sẵn sàng gia nhập ĐCS Đông Dương. Nhưng họ đă quyết định tổ chức một ʺđêm hành động lớnʺ làm rung chuyển chính quyền đế quốc trước khi gia nhập đảng. Những người cầm đầu đă bị bắt trước khi những kế hoạch được thực hiện, ông nói. [190] Như ta thấy được trong bản báo cáo này, sự tan ră của phong trào cách mạng đang ở phía trước. Việc Hồ Chí Minh trở lại vai tṛ lănh đạo vẫn c̣n cần nhiều năm nữa trong tương lai.

    CHƯƠNG 6
    CHẾT Ở HỒNG KÔNG, CHÔN TẠI MOSCOW?
    (1931‐8)


    Tù nhân
    Vào ngày 8 tháng 6 1931, Toàn Quyền René Robin tại Hà Nội đă đánh điện cho Bộ Trưởng Thuộc Địa để thông báo về việc bắt giữ Hồ Chí Minh hai ngày trước đó [1]. Việc t́m được Hồ là nhờ đă khám phá được cuốn sổ địa chỉ của Joseph Ducroux tại Singapore khi đại diện người Pháp này bị bắt trong lúc đang trao đổi tài liệu với những người cộng sản địa phương. Bức điện của Robin thông báo rằng việc bắt được Hồ là nhờ ʺsự phối hợp giữa Sở Liêm Phóng với cảnh sát Anh tại Hồng Kông và Singapore cũng như cảnh sát tô giới Pháp tại Thượng Hải.ʺ Những kết hợp này đă giúp Pháp bắt Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Huy Bon, người trở về từ Moscow, công nhân Phan Đức Mau, từng tham gia Đại Hội Công Đoàn Quốc Tế Đỏ lần thứ 5 tại Moscow, và hầu hết những thành viên cộng sản người Việt đang hoạt động tại Thượng Hải. (Nguyễn Thị Minh Khai, bị bắt tại Hồng Kông vào ngày 29 tháng 4, đă bị dẫn độ về một nhà tù tại Quảng Châu v́ họ ngỡ rằng bà là người Trung Quốc. Ở đấy bà gặp Trương Văn Lềnh và ba người Việt Nam khác đă bị bắt từ đầu năm 1931). Vợ của Hồ Tùng Mậu là Lư Phương Thuận (Lư Ung Thuân) cũng bị bắt chung với Hồ. Tổn thất nặng nề nhất đối với những hoạt động của QTCS xảy ra vào ngày 10 tháng 6, khi đại diện của Cục Thông Tin Quốc Tế (Otdel Mezhdunarodnoi Svyazy hay OMS ‐ ND) là Hilaire Noulens và vợ của ông bị theo dơi qua một địa chỉ t́m được từ cuốn sổ của Ducroux. Mặc dù trong nhiều năm trước người ta nghĩ họ là hai công dân Thụy Sĩ tên Paul và Gertrude Ruegg, nhưng giờ họ được nhận diện là hai vợ chồng người Nga tên Jakov Rudnik và Tatiana Moiseenko‐Velikhaya [2].

    Bức điện của Robin chứa đầy nội dung tự ca ngợi. Việc bắt giữ ʺtoàn bộ giới lănh đạo cộng sản tại Việt Namʺ, trong đó có 9 người về từ Moscow và đa số những nhà hoạt động người Việt tại Trung Quốc, là ʺthành quả của sự điều tra khéo léo do những ban ngành đầy khả năng thực hiệnʺ, ông viết; ʺlàm cho chúng ta chiếm ưu thế hoàn toàn đối với t́nh h́nh chính trị.ʺ Nhưng ông cũng không mong đợi việc dẫn độ Hồ Chí Minh về Đông Dương. Lănh sự Pháp tại Hồng Kông đă cảnh báo với ông rằng những người Việt bị bắt giữ tại Hồng Kông rất có thể sẽ được trả tự do. Robin đề nghị giải pháp tốt nhất có thể là thuyết phục người Anh giam giữ Hồ tại những vùng ʺthuộc địa xa xôiʺ như là một hành động trao đổi đối với những người cộng sản người Ấn hoặc Miến Điện đă bị bắt trong khu vực của Pháp [3]. Đến cuối tháng 6 viên thám tử của Sở Liêm Phóng là Neron đang t́m cách chuyển giao số tiền thưởng cho những vụ bắt giữ trên (15 ngh́n đô‐la cho Hồ và 10 ngh́n đô‐la cho Hồ Tùng Mậu và mỗi nhà cách mạng bị bắt tại Thượng Hải[4]). Nhưng phương pháp xét xử của Anh đă đi ngược lại với ư muốn của người Pháp.

    Số phận của Hồ Chí Minh nằm trên hoàn cảnh của trát lệnh trục xuất được đưa ra tại Hồng Kông. Neron tin rằng những tài liệu t́m được tại địa chỉ của Hồ được xem như bằng chứng để trục xuất ông về Thượng Hải với tội danh tuyên truyền cộng sản. Không những người Anh đă t́m được bức thông tư dang dở lên án đế quốc Pháp trên máy đánh chữ của Hồ, họ c̣n t́m được những bức thư cho thấy rằng ông đă đóng một vai tṛ quan trọng trong việc kích động phong trào cộng sản tại Mă Lai Á. Nhưng một số cố vấn pháp luật của Anh nhận định về vụ án này trong hồ sơ của Văn Pḥng Thuộc Địa đă biện hộ rất mạnh mẽ cho quyền công dân của bị cáo. Ông đă không hề vi phạm pháp luật tại Hồng Kông, và v́ thế lư do duy nhất để trục xuất ông là việc ông là một người cộng sản. Một luật sư là Walter Ellis đă viết rằng: ʺTôi thấy rằng chúng ta không thể bắt buộc ông ấy phải bị trục xuất về Đông Dương nhiều hơn là nếu chúng ta có cơ hội bắt buộc một cựu quan chức trong chính phủ Sa Hoàng phải bị trục xuất về một nước cộng hoà Sô Viết.ʺ Ellis giải thích rằng nếu người Pháp có bằng chứng rằng Hồ đă vi phạm ʺmột tội có thể dẫn độ đượcʺ th́ họ nên đưa ra một kháng án chính thức để dẫn độ ông [5].

    Hồ đă không khai nhận bất cứ tên tuổi nào ngoài Tống Văn Sơ (Sung Man Cho ‐ ND), tên này được ghi trong hộ chiếu Trung Quốc mà ông nhận được từ Singapore. Nhưng mâu thuẫn với việc ông tự nhận ḿnh là người Trung Quốc, ông đă sắm vai là một người quốc gia chiến đấu cho nhà vua và đất nước với bản án tử h́nh đang chờ đợi ông tại Việt Nam. [6] Như Dennis Duncanson (học giả người Anh ‐ ND) đă chỉ ra, lời khai báo mâu thuẫn này có thể là một chiến thuật bào chữa do QTCS đề xướng [7]. Đến tháng 7 1931 ông đă có được cố vấn luật pháp rất tài giỏi từ một nhóm luật sư do Frank Loseby dẫn đầu, rơ ràng đây là sự sắp đặt của tổ chức Trợ Giúp Đỏ (International Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS ‐ ND). Những luật sư của ông lập luận rằng việc trục xuất ông về Thượng Hải cũng chẳng khác ǵ một cuộc dẫn độ trá h́nh về Đông Dương [8]. (Trên thực tế Hồ Tùng Mậu và các đồng chí của ḿnh đă bị trục xuất về Thượng Hải vào cuối tháng 6 mà không có một sự nhận diện chính thức. Họ bị bắt lại tại tô giới Pháp và bị đưa về Việt Nam [9]).

    Chiến lược của bên bào chữa là đ̣i hỏi cho Hồ quyền lợi của một tù chính trị chiếu theo Sắc Lệnh Trục Xuất trong đó cho phép ông được quyền chọn lựa điểm đi và điểm đến một cách bí mật. Nếu quyền lợi này không được bảo đảm, bị cáo sẽ ʺphản kháng quá tŕnh xét xử bằng mọi h́nh thức và tiến tŕnh có đượcʺ, luật sư Jenkin tuyên bố trước toà.

    Nhờ đă vận dụng chiến lược này mà vụ án của Hồ đă kéo dài măi cho đến tháng 1 / 1933. Việc huy động toàn lực lượng cánh tả trên toàn thế giới để hậu thuẫn cho đôi vợ chồng bí ẩn Noulens có lẽ đă làm mọi người quan tâm đến hoàn cảnh của Hồ nhiều hơn là nếu ông bị bắt một ḿnh. Tin tức báo chí cũng cho thấy ông cũng đă gây ấn tượng tốt tại toà bằng việc phát biểu bằng tiếng Anh mà không cần phiên dịch và đă biểu lộ sự thành khẩn trong việc chứng minh rằng ông mang tư tưởng quốc gia. Văn Pḥng Thuộc Địa rơ ràng là cũng muốn giao ông cho người Pháp; một quan chức gọi ông là ʺmột trong những kẻ kích động tồi tệ nhất đă bị bắt vào rọ trong cuộc ruồng bố sau khi bắt được Lefranc (Ducroux)ʺ [11]. Sau khi toà án Anh bác bỏ yêu cầu bị cáo có được quyền Habeas Corpus (Quyền của bị cáo yêu cầu nhà chức trách đối chất với bị cáo trước toà về việc bị bắt giữ có hợp pháp hay không ‐ ND), người Pháp càng tin tưởng rằng cuối cùng họ sẽ có được người họ muốn. Ngày 24 tháng 8 1931 Sở Liêm Phóng tại Hà Nội đă đánh điện vào Sài G̣n để thông báo rằng Hồ Chí Minh sẽ rời Hồng Kông vào ngày 1 tháng 9 trên chiếc tàu General Metzinger đi Sài G̣n. Hai cảnh sát người Pháp được giao nhiệm vụ áp giải Hồ về Việt Nam [12]. Nhưng chỉ vài ngày trước khi trục xuất, những luật sư của Hồ đă kháng án đến Uỷ Ban Xét Xử thuộc Hội Đồng Cơ Mật tại London. Họ cho rằng lệnh trục xuất Hồ th́ không có giá trị dưới luật pháp Hồng Kông. V́ thế vào ngày 23 tháng 10 1931, Thư Kư Chính Phủ đă thông báo rằng sẽ không có lệnh trục xuất cho đến khi họ biết được kết quả kháng án từ Hội Đồng Cơ Mật [13]. V́ thời gian cần thiết để chuẩn bị cho những hồ sơ pháp lư, phiên toà phúc thẩm đă không bắt đầu cho đến tháng 11 1932.

    Trong lúc ấy Sở Liêm Phóng đă bắt đầu thúc giục Lâm Đức Thụ thu thập thông tin của những người Việt bị bắt tại Quảng Châu, và có lẽ để liên lạc với Hồ. Sau khi Lư Phương Thuận (Lư Ung Thuân) được phóng thích vào cuối tháng 8 1931 v́ lư do bà là người Trung Quốc, bà đến ở tạm với Thụ. Vào tháng 11 ʺđiệp viên Pinotʺ (tức Lâm Đức Thụ ‐ ND) báo rằng đă nhận được tin tức từ Hồ yêu cầu trợ giúp trong việc trả tự do cho những người Việt bị bắt tại Hồng Kông cũng như giúp đỡ thực hiện những công việc của đảng cho đến khi những nhà hoạt động mới từ Moscow đến. Hồ đặc biệt mong mỏi Trương Văn Lềnh được phóng thích để nắm lấy việc vận hành đảng tại Trung Quốc, theo lời Lâm Đức Thụ; có lẽ Hồ cũng đă lo lắng đến t́nh trạng của Nguyễn Thị Minh Khai [14]. Thật là lạ lùng khi ông đă liên lạc với một người chỉ điểm lộ diện lúc này ‐ có lẽ ông đă tin rằng Thụ không thể làm tổn hại ǵ hơn nữa với t́nh h́nh hoạt động của đảng đă bị phá vỡ thảm hại. Những sự liên lạc này có lẽ đă dẫn đến việc Hồ bị phê b́nh về cách hành xử của ḿnh sau khi được thả ra. Nhưng những tiếp xúc này dường như không kéo dài được lâu. Từ một báo cáo Thụ gửi vào ngày 16 tháng 5 1932 ta biết được rằng Thụ đă thu thập tin tức của Hồ một cách gián tiếp qua văn pḥng của Loseby.

    Đến cuối năm 1931 Hồ Chí Minh được chuyển vào bệnh viện có canh gác. Vào tháng 12 Hoàng Thân Cường Để gửi thư cho ông khi nghe tin ông đang bị bệnh nặng. Hoàng Thân đă gửi 300 Yên để trả viện phí cho ông và khuyên ông nên giữ ǵn sức khoẻ ʺv́ lợi ích của nước nhàʺ [15]. (Vào thời điểm này những người cộng sản Việt Nam như Lê Hồng Sơn vẫn giữ quan hệ với Cường Để, có lẽ chỉ hoàn toàn v́ lư do thực dụng và tài chính [16]). Việc Dennis Duncanson khẳng định rằng Hồ không bị bệnh trong thời gian bị giam cầm rơ ràng là không chính xác [17]. Như chúng ta đă thấy, Hồ đă từng nói rằng ông bị bệnh lao phổi rất nặng vào tháng 9 1930; viên lănh sự Pháp tại Hồng Kông là Soulange Teissier vào năm 1932 đă xác nhận trong một bức thư gửi cho bộ trưởng bộ ngoại giao rằng ông đă bị mắc chứng lao phổi trong t́nh trạng chậm phát triển và có thể chữa được. Vào mùa hè 1932 tin tức báo chí về ʺmột người Việt Nam nhỏ bé, có thân thể bị suy nhược v́ lao lực và tinh thần của một lănh tụʺ bắt đầu xuất hiện [18]. Sau này truyền thông cộng sản đă loan báo rằng Hồ đă chết v́ lao phổi vào tháng 8 1932 [19]. Nhưng người Pháp đă không tin vào những báo cáo này. Lănh sự quán của họ tại Hồng Kông đă cập nhật cho nhà cầm quyền tại Hà Nội những bước đi của Hồ trong nỗ lực rời khỏi mảnh đất thuộc địa của Anh [20].

    Việc ra đi của ông cuối cùng đă xảy ra vào cuối tháng 1 / 1933, sau một lần bị đ́nh chỉ. Ngày 27 tháng 6 1932 kháng cáo đến Hội Đồng Cơ Mật đă được rút lại khi luật sư của Hồ đồng ư với luật sư của chính quyền Hồng Kông về những điều khoản mới trong việc trục xuất ông. Cuối cùng Hồ được đưa lên một chiếc tàu đi Singapore và đă đến đây vào ngày 6 tháng 1 1933. Nhưng nhà chức trách vùng eo biển Malacca đă không cho ông ở lại đây, v́ thế ông đă bị gửi về lại Hồng Kông và đă bị bắt lại khi vừa lên bờ vào ngày 19 tháng 1. Toàn quyền Hồng Kông là William Peel quyết định không áp dụng án tù 1 năm dành cho những di dân bất hợp pháp; ông cũng không chịu thông báo cho Teissier về chi tiết của chuyến khởi hành thứ hai của Hồ. [21] Lần này Loseby đă thuyết phục chính quyền nên đóng vai tṛ tích cực hơn trong quá tŕnh giúp đỡ Hồ đi đến nơi mà ông tự quyền lựa chọn. Chính Peel đă giải thích trong thông điệp của ḿnh rằng ông đă thu xếp để Hồ đáp một ʺchiếc thuyền dân sựʺ để lên chiếc tàu An Huy đang bỏ neo ngoài cảng Hồng Kông vào ngày 22 tháng 1 [22].

    Lẩn trốn/những làn sóng cách mạng mới

    Hồ đi Sán Đầu cùng với viên thư kư của Loseby dưới vỏ bọc là một người Trung Quốc giàu có tên là Lung [23]. Vào thời điểm này của năm 1933 những người cộng sản Việt Nam vẫn chưa tái lập liên lạc chính thức với ĐCS Trung Quốc và, theo điều lệ của nguyên tắc cách mạng, một đảng viên vừa ra khỏi tù th́ bị nghiêm cấm không được quay về những địa điểm mà người ấy thường lui tới trước khi bị bắt. V́ vậy có lẽ Hồ vẫn phải tiếp tục giả dạng là một thương gia giàu có và ẩn dật tại Sán Đầu cho đến tháng sau. Những người Việt vẫn c̣n lẩn trốn hoặc như Nguyễn Thị Minh Khai, vừa được phóng thích, đă phải trải qua khoảng cuối năm 1932 và gần trọn năm 1933 t́m cách phục hồi mạng lưới liên lạc của họ. Điều cay đắng là những thành viên tín cẩn của Hồ tại Hồng Kông như Lê Hồng Sơn và Minh Khai cũng như những người từ Moscow về như Trần Ngọc Danh, em của Trần Phú, đă bị nghi ngờ khi t́m cách liên lạc với ĐCS Trung Quốc trong năm 1932.

    Một đảng viên người Việt vẫn c̣n giữ liên lạc với ĐCS Trung Quốc tại Thượng Hải là Trương Phước Đạt, một thợ máy tàu gốc Phan Rang đă sớm gia nhập thành phần ĐDCSĐ tại Sài G̣n vào năm 1929. Sau khi vượt ngục tại Sài G̣n và đến Hồng Kông vào năm 1931, ông được đảng đề cử đi Nga để học tập. Nhưng ông và hai bạn đồng hành đă bị chặn lại tại biên giới Măn Châu, v́ vậy ông đă phải quay về Thượng Hải. Tại đây uỷ ban quân sự tỉnh Giang Tô (Jiang Su ‐ ND) thuộc ĐCS Trung Quốc đă giao cho ông nhiệm vụ tái lập liên lạc với những quân nhân người Pháp và Việt Nam; những đầu mối này đă bị cắt đứt khi những tuyên truyền viên người Việt bị bắt vào mùa hè 1931. V́ thế đến giữa năm 1932 Trương Phước Đạt được yêu cầu bảo đảm cho những Việt đă đến Thượng Hải để xin ĐCS Trung Quốc giúp đỡ và trợ giúp tiền bạc. Trần Ngọc Danh yêu cầu ngân sách hỗ trợ cho công đoàn của những đầy tớ người Việt mà ông đă tổ chức với những thành phần cũ của Thanh Niên tại Hồng Kông. Ông và Minh Khai t́m cách tái thiết hệ thống liên lạc của ĐCS Đông Dương tại đây với sự giúp đỡ của một số thuỷ thủ. Một số báo cáo của Pháp cho rằng lúc ấy bà đang là vợ lẽ của ông. Lê Hồng Sơn đang dự định quay về Xiêm, nơi mà ông hy vọng sẽ tái tổ chức Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương. Những người Việt qui tập về Thượng Hải quyết định gửi Đạt đi Xiêm để hoạt động cùng với Lê Hồng Sơn. V́ không hài ḷng với quyết định này, Trương Phước Đạt đă phá hoại những dự án của họ bằng cách cáo buộc họ đă có những hành vi ʺtiểu tư sảnʺ (ví dụ như thuê khách sạn hiện đại có thang máy) trong báo cáo của ông gửi cho Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Hơn thế nữa, ông đă không nh́n nhận là có quen biết bất cứ ai trong họ trước khi họ đến Thượng Hải. Cuối cùng toán người Việt với 5 thành viên đă phải cầm cố quần áo của ḿnh để trả tiền khách sạn và chi phí đến Nam Kinh (Nan Jing ‐ ND), nơi họ có thể dựa dẫm vào ḷng hiếu khách của Hồ Học Lăm. [24] Chúng ta không biết được rằng sự kiện này đă phản ánh mối căng thẳng liên tục giữa những thành phần ĐDCSĐ và ANCSĐ cũ trong ĐCS hay đơn giản chỉ là một trường hợp hai mang. Trần Ngọc Danh và Lê Hồng Sơn rốt cuộc bị bắt vào ngày 25 tháng 9 1932. Trương Phước Đạt bị bắt vào tháng 4 1933. [25] Đến tháng 3 Minh Khai quay về Hồng Kông để liên lạc với những người Việt tại Nam Kinh [26].

    Một chỉ điểm cho Pháp tại Thái Lan nói rằng Hồ Chí Minh đă lẩn trốn tại khu vực Nakhon Phanom từ đầu tháng 1 1933, nhưng sau này được tiết lộ là nhầm người. [27] Vào tháng 9 1933 một chỉ điểm cho Pháp khác nói rằng đă phát hiện Hồ đang sống tại Nam Ninh (Nan Ning ‐ ND) cùng với một nhóm nhỏ người Việt. Mật vụ ʺMariaʺ nói rằng trong số 4 người Việt Nam đang sống tại số 78 đường Cau Song Kai có một người giống với ảnh chụp Hồ Chí Minh. Người chỉ điểm này cũng nhắc đến 3 phụ nữ cùng với hai bé gái và một bé trai cũng đang sống chung trong ngôi nhà này. Hồ được cho là đang dùng tên Lư Sính Sáng (ngài Lư) [28].

    Nhưng Lê Hồng Phong, trong gần trọn năm 1933 đang sống tại Nam Ninh và Long Châu, đă không hề nhắc đến việc liên lạc với Hồ khi ông báo cáo cho QTCS vào tháng 1 1935. Phong đă dự định lên mạn ngược dể gặp những cơ sở người Việt tại Xiêm khi ông đến Bangkok vào tháng 2-1932 trên đường về từ Moscow và Paris. Nhưng nhận thấy ḿnh đang bị cảnh sát theo dơi chặt chẽ, ông đă từ bỏ dự định này 10 ngày sau và đến tháng 4 ông đă đi đến Quảng Châu và Nam Ninh. Nơi đây ông bắt đầu tái thiết chi uỷ đảng tại tỉnh biên giới Cao Bằng cũng như thành lập những tổ đảng tại Lạng Sơn. Ông đă tuyên truyền những học viên tại học viên quân sự Nam Ninh, nơi mà từ 1925 đă trở thành nguồn cung cấp thành viên cộng sản mới. Vào tháng 8 1933 ông đă gặp những người bạn học cũ là Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt tại Quảng Châu, và đến tháng 6 1934 họ đă thành lập một Phân Bộ Hải Ngoại để quản lư những công việc của đảng cho đến khi một Uỷ Ban Trung Ương quốc nội được thành lập [29].

    Nếu Hồ Chí Minh đă lẩn trốn tại Nam Ninh, ta có thể chắc chắn rằng ông đă rời đi từ tháng 9. V́ vào cuối tháng 9 1933 một người quen cũ của ông từ ĐCS Pháp là Paul Vaillant‐Couturier có mặt tại Thượng Hải để tham gia Hội Nghị Phản Chiến Á Châu. Sau này Hồ đă nói rằng chính Vaillant‐Couturier đă giúp ông quay về lại Moscow bằng cách cho ông gặp những đại diện Sô Viết ở Thượng Hải. [30] (Liên Bang Sô Viết đă tái lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào cuối năm 1932; vị tân đại sứ đă đệ tŕnh uỷ nhiệm thư tại Thượng Hải vào ngày 2 tháng 5 1933.] Hội nghị trên đă được tổ chức bí mật tại một căn nhà riêng vào ngày 30 tháng 9. Đại diện người Pháp này đă báo cáo rằng những người tham dự bao gồm Lord Marley, Vaillant‐Couturier, một bác sĩ tên Marteaux, nhà báo người Mỹ Harold Isaacs, một đại diện Sô Viết và 50 người Trung Quốc trong đó có bà Tôn Dật Tiên [31]. Một số nhân vật trên là thành viên cao cấp của Liên Đoàn Phản Đế tại Berlin. Hồ Chí Minh có thể đă tránh xa cuộc họp này, nhưng dường như Harold Isaacs đă nhớ đến Hồ trong giai đoạn này là ʺngười bạn rất cũ của tôi ở Thượng Hải ʺ [32]. Ta chỉ có thể phỏng đoán việc Hồ đă có quan hệ mật thiết như thế nào với Tống Khánh Linh (Song Jing Ling ‐ ND), goá phụ của Tôn Dật Tiên. Nhưng không có lư do ǵ để phản bác lại chuyện ông kể rằng ông đă liên lạc với Vaillant‐Couturier bằng cách đến nhà của bà dưới vỏ bọc của một người Trung Quốc giàu có để đưa cho bà một bức thư.

  9. #59
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P3



    Đến thời gian này của năm 1933, khi Hồ Chí Minh bắt đầu thảo kế hoạch để quay lại Moscow, những người cánh tả Việt Nam lại một lần nữa khuấy động phong trào. Những sinh viên cấp tiến quay về từ Pháp đă biểu lộ tinh thần chống đối quyền lực liên tục của dân chúng Sài G̣n bằng việc thắng hai ghế hội đồng thành phố trong cuộc bầu cử vào cuối tháng 4 đầu tháng 5. Mặc dù việc đắc cử của Nguyễn Văn Tạo, một thành viên của ĐCS Đông Dương và Trần Văn Thạch, một người Trotskyist, đă bị huỷ bỏ vào tháng 8, thắng lợi ban đầu của họ đă giúp hướng tới việc thành lập mặt trận La Lutte giữa những người Trotskyist và ĐCS Đông Dương trong tương lai (trong giữa năm 1934]. [33] Trần Văn Giàu, học viên từ Đại Học Stalin đă quay về lại Nam Việt Nam vào đầu năm 1933 để thành lập lại ĐCS Đông Dương theo đường lối vạch ra bởi Cương Lĩnh Hành Động 1932 cấp tiến mà ông đă giúp soạn thảo tại Moscow [34]. Những thành viên ĐCS Đông Dương tại Xiêm cũng như những người Việt là đảng viên ĐCS Xiêm cũng đă tích cực ủng hộ việc hồi sinh ĐCS Đông Dương qua Uỷ Ban Cứu Trợ Đông Dương [35]. Chủ nghĩa chống đế quốc, theo định nghĩa của ʺGiai Đoạn Thứ Baʺ đă trở thành một biểu tượng của tinh thần đoàn kết vô sản trên toàn thế giới, trong khi chủ nghĩa quốc gia được cho là một khái niệm lỗi thời. Daniel Héremy (nhà sử học Pháp ‐ ND) nhận định rằng trong suốt 21 tháng xuất bản, đến tháng 6 1936, tờ báo La Lutte (Đấu Tranh ‐ ND) chỉ đă nhắc đến chủ trương quốc gia của Việt Nam trong vỏn vẹn 20 bài viết, và thường với nội dung chỉ trích chủ nghĩa yêu nước tư sản. [36] Nhưng trong hội nghị ʺChống Phát Xít và Chiến Tranhʺ được tổ chức tại rạp hát Khánh Hội, Sài G̣n vào ngày 11 tháng 8 1933 đă có trên 600 người tham dự, theo một báo cáo của Pháp, và đă thu hút nhiều tầng lớp các nhà cách mạng khác nhau từ Dương Văn Giáo và Trịnh Hưng Ngẫu có liên hệ với đảng Lập Hiến, đến Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Thạch. Vaillant‐Couturier đă tham dự hội nghị trên trước khi đi đến Thượng Hải, và đă được nồng nhiệt hoan nghênh khi ông tường thuật lại những hoạt động tại Paris nhằm ủng hộ những tù nhân chính trị Việt Nam đang bị án tử h́nh [37]. Tạ Thu Thâu, đang là một thành viên tích cực của Liên Đoàn Phản Đế tại châu Âu, có thể đă đóng vai tṛ tổ chức hội nghị này. Nhưng người Pháp lại cho rằng những hoạt động chính trị hợp pháp của Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Thạch đă có liên hệ đến việc Trần Văn Giàu quay trở lại Việt Nam [38].

    Mặc dù sự phối hợp toàn bộ của QTCS cho chính sách được tu chỉnh về mặt trận thống nhất đă không ra đời cho đến Đại Hội Lần 7 vào năm 1935, nhưng vào năm 1933 ta có thể nhận thấy một bước lùi trong chủ thuyết cực đoan về giai cấp chống lại giai cấp đă được đưa ra vào năm 1929. Quyền lực của Đảng Quốc Xă tại Đức đă trở thành một nhân tố quan trọng cần phải quan tâm, trong khi những h́nh thái của chủ nghĩa đế quốc tại châu Á đă trở thành một mối đe doạ ngày càng lớn đối với Liên Bang Sô Viết và những người cộng sản Trung Quốc. Otto Braun (Cố vấn của ĐCS Trung Quốc ‐ ND) nói rằng vào tháng 1 1933 Ban Chấp Hành Quốc tế Cộng Sản đă đưa ra một nghị quyết thừa nhận việc cần thiết phải ʺđoàn kết đấu tranh chống Nhậtʺ cùng với bất cứ tổ chức hoặc quân đội Trung Quốc nào có thể chấm dứt những tấn công vào những khu vực của Liên Bang Sô Viết [39]. Một văn bản của QTCS xuất hiện vào tháng 7 1933 kêu gọi cộng sản Ấn Độ và Đông Dương nên quay lại với chiến lược Leninist trong đó nhấn mạnh việc đấu tranh giành độc lập dân tộc lên trên những mục tiêu cách mạng xă hội chủ nghĩa. Văn bản này trước đây đă được đăng bằng tiếng Anh trên tờ báo Pan Pacific Worker, nằm dưới dạng một loạt câu hỏi và trả lời của ʺOrgwaldʺ, được nhận diện trong tài liệu của QTCS là nhân vật Bolshevik kỳ cựu Osip Piatnitsky, người đă từng đứng đầu Văn Pḥng Tổ Chức đầy quan trọng trong QTCS từ giữa Đại Hội Lần 5 và Lần 7 (1924‐35). Không có ǵ ngạc nhiên khi vào giữa năm 1933, sự thăng tiến của Hitler đă khiến một số người Bolshevik phải tái thẩm định quan điểm của họ về chủ nghĩa dân tộc và mặt trận thống nhất.ʺOrgwaldʺ đă cố vấn trong văn bản trên rằng trong thời điểm hiện tại, sẽ không khôn ngoan lắm nếu đưa ra lời kêu gọi lật đổ giai cấp tư sản, v́ nó sẽ tạo nên sự xa cách giữa tầng lớp nông dân và giới tiểu tư sản thành thị. Một mặt trận thống nhất với những đảng phái quốc gia có thể chấp nhận được nếu nó đi theo nguyên tắc ʺcùng nhau chiến đấu nhưng hành quân riêng rẽʺ. [40] Tài liệu này đă không được xuất bản bằng tiếng Pháp cho đến năm 1934 và ta không có bằng chứng ǵ về việc nó được xuất bản bằng tiếng Việt cả. Điều này mâu thuẫn với đường lối chính sách được những người chủ chốt của ĐCS Đông Dương như Trần Văn Giàu và Hà Huy Tập đem về từ Moscow. Sự chia rẽ giữa đường lối đấu tranh giai cấp của ʺThời Kỳ Thứ Baʺ và chiến lược mới đang được thảo luận vào năm 1933 sẽ trở thành chướng ngại vật cho việc hợp nhất ĐCS Đông Dương.

    Bằng chứng của việc chia rẽ này có thể thấy được trong một bức thư dài của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc gửi đến những người cộng sản Đông Dương vào tháng 8 1934. Nó được QTCS phê chuẩn như là một chỉ thị chính trị. (Cho đến tháng 3 1935, Vera Vasilieva, người đang điều hành bộ phận Đông Dương của QTCS, đă nhắc đến nó trong những thư từ với Văn Pḥng Hải Ngoại ĐCS Đông Dương như là một tài liệu chỉ ra ʺnhững công tác cơ bản mà các đồng chí phải hoàn toàn chú ư trong thời điểm hiện tạiʺ [41]). Rất có thể bức thư này đă được soạn thảo từ Moscow với sự hậu thuẩn của những thành viên người Trung Quốc trong Uỷ Ban Trung Ương QTCS, dẫn đầu bởi Vương Minh (Wang Ming ‐ ND). Trong khi nó kêu gọi việc thành lập một tờ báo hợp pháp và việc tận dụng những biện pháp tổ chức hợp pháp có thể được, nó cũng đă đưa ra một tín hiệu cảnh báo mạnh mẽ chống lại việc hợp tác với những người dân chủ xă hội và tư sản dân tộc. Nó đă nhắc đến thất bại của cuộc khởi nghĩa tại Áo trong năm 1934 như là một ví dụ của những ʺảnh hưởng phản bộiʺ của thành phần dân chủ xă hội. Mặc dù bức thư đă thừa nhận rằng có nhiều thành viên của giai cấp tư sản Đông Dương đang sẵn sàng đấu tranh chống lại đế quốc Pháp, gia cấp công nhân và nông dân không được quên rằng ʺthành phần tư sản dân tộc ích kỷ và hèn hạ đă phản bội phong trào 1930‐31ʺ. ʺTrong t́nh trạng bất măn chung đang dâng cao trong nước, thành phần dân tộc cách tân sẽ luôn t́m cách chiếm lấy quyền lănh đạo của phong trào quần chúng để rồi sẽ chặt đầu nó,ʺ bức thư viết. ʺĐây chính là v́ sao chúng ta phải liên tục vạch mặt tất cả những tổ chức và đảng phái dân tộc cách tân, cho dù chúng nấp sau bất kỳ những khẩu hiệu ʺthiên tảʺ nào...ʺ[42]

    Lá thư từ Trung Quốc này có thể được hiểu như một nỗ lực từ một số nhân vật lănh đạo tại QTCS để đối đầu với việc ĐCS Pháp quyết định hợp tác với Đảng Xă Hội Pháp, quyết định này đă được đưa ra tại một cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Pháp vào ngày 14 và 15 tháng 3

    1934. [43] Liên lạc cũ của Hồ Chí Minh là Jacques Doriot là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho mối giao hảo với những người xă hội Pháp. Nhưng tại Sài G̣n, nơi không có đảng xă hội, mặt trận thống nhất của những người cánh tả cũng chỉ là một nỗ lực hợp tác giữa những người theo khuynh hướng của Moscow và thành phần cộng sản Trotskyist. Tờ báo của mặt trận La Lutte đă được chính thức ra đời sau cuộc họp vào tháng 9 1934 do Nguyễn An Ninh tổ chức. Đây là một liên hiệp nhằm chống lại chính quyền thuộc địa và Đảng Lập Hiến, với khuynh hướng vô sản mạnh mẽ [44].

    Về lại Moscow

    Hồ Chí Minh đă không về đến Mosow, theo lời của ông là măi cho đến tháng 7 1934 [45]. Không có thông tin ǵ về việc ông đă sống như thế nào trong giai đoạn giữa mùa thu 1933 cho đến những tháng đầu của năm 1934. Moscow mà ông quay lại th́ đă khác xa nhiều với Moscow mà ông đă biết trong giai đoạn 1923‐4 và một thời gian ngắn của năm 1927. Nó không c̣n là một thành phố xoay vần một cách tự do của Chính Sách Kinh Tế Mới (New Economic Policy, hoặc NEP ‐ ND) mà ông đă chứng kiến trong lần đầu đến đây; nó cũng không c̣n là một thủ đô tràn đầy không khí chính trị, nơi những trận chiến cuối cùng nhằm giành quyền kiểm soát đảng Sô Viết đă sắp sửa xảy ra trong năm 1927. Chủ nghĩa sùng bái cá nhân của Stalin cũng như việc ông kiểm soát tất cả mọi cơ quan Sô Viết đang tạo ra một không khí chính trị đầy chết chóc được bao phủ bởi tính hoang tưởng và một tâm lư cô lập đối với thế giới bên ngoài.

    Đến năm 1930 những cuộc thanh lọc trong những học viện QTCS như Trường Tôn Dật Tiên, bị đóng cửa trong năm ấy, và Đại Học Quốc Tế Lenin đă trở thành một đặc điểm trong sinh hoạt của QTCS. Một cuộc thanh lọc đối với bộ phận tiếng Pháp trong Đại Học Lenin, nơi Hồ Chí Minh sẽ theo học vào tháng 10 1934, đă được tổ chức vào tháng 10 1933, do André Marty thuộc Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Romance chủ toạ. Một bài viết của một sinh viên với bút danh ʺBrétaneʺ đưa ra một số ư kiến về những yêu cầu của những cuộc ʺthanh lọcʺ này. Ngay cả đối với những người chưa từng phạm phải sai lầm chính trị hoặc không bị đảng đe doạ trục xuất cũng phải bị bắt buộc tự chỉ trích. Trong bài viết với nhan đề ʺThanh lọc như là một Yếu tố để Bolshevik hoáʺ Bretane viết: ʺĐiều quan trọng là cần phơi bày những yếu điểm c̣n sót lại để loại bỏ chúng. Chúng ta đă có thể thấy được qua những lư lịch khác nhau rằng nằm dưới đáy của những yếu điểm này là gốc gác xă hội và những ảnh hưởng ngoại quốc đă in dấu trên người khi anh ta hoạt động ở nước ngoài” [46] Yelena Bonner (nhà hoạt động nhân quyền Nga - ND), có cha kế là Gevork Alikhanov là một viên chức cao cấp trong Bộ Cơ Cấu của QTCS, đă chứng kiến từ sau bức màn trong căn hộ nhà ḿnh tại khách sạn Lux việc cha kế của bà và những người khác khai báo tư tưởng và tiết lộ những bí mật riêng tư nhất của ḿnh, thậm chí đến những quan hệ t́nh cảm trong quá khứ và những đứa con rơi [47].

    Khi Hồ Chí Minh xuất hiện vào mùa hè năm 1934, có lư do để tin rằng ông đă nghĩ ḿnh đang là đối tượng của một cuộc điều tra nào đấy. Con gái của Vera Vasilieva, lúc ấy được 10 tuổi, đă nhớ rằng ông thường ngủ trên chiếc ghế trường kỷ trong ngôi nhà gỗ mà gia đ́nh cô đang sống tại trung tâm Moscow, dường như ông đang cố giữ thấp danh phận của ḿnh [48]. Nói cho cùng Hồ đă liên quan đến hàng loạt những vụ bắt bớ dẫn đến tổn thất nặng nề cho Phân Bộ Viễn Đông lẫn ĐCS Trung Quốc trong năm 1931. Vasilieva, một người ngây thơ và có lẽ là một người Bolshevik thiếu đầu óc tưởng tượng, từng được biết đến là đă bảo vệ những bạn bè bị tố cáo về những tội danh chính trị cũng như người chồng của bà là Mark Zorky [49]. Nhưng ta không t́m thấy những tài liệu về những khó khăn chính trị của Hồ trong hồ sơ của QTCS cho đến khi Đại Hội Lần 7 sắp xảy ra vào năm sau. Ông nhắc lại trong bản câu hỏi tiểu sử của ḿnh rằng ông đă trải qua vài tháng phục hồi căn bệnh của ḿnh tại vùng Crimea trong năm 1934, sau đó theo học tại Đại Học Lenin vào tháng 10 [50]. Vào lúc ấy ông là người Đông Dương duy nhất ghi danh tại trường này, mặc dù QTCS đă dự định thu nhận 12 học viên Đông Dương vào một khoá học ngắn hạn trong học kỳ 1935‐6 [51]. Không có dấu hiệu cho thấy rằng đă có người theo học. Trường này lúc ấy được vị giám đốc Kirsanova miêu tả là ʺḷ tôi luyện duy nhất cho những thành phần chủ chốt của QTCSʺ [52]. và được xem là học viện đào tạo những lănh đạo cộng sản nước ngoài. Nhưng những phần tử bị thất sủng trong thành phần lănh đạo như Lư Lập Tam và Hồ cũng được gửi đến đây. Thực tế là (đặc biệt là trong trường hợp của Lư Lập Tam) họ đă từng phục vụ trong hàng ngũ cao cấp của đảng ḿnh và có thể đă trông đợi để được làm việc trong Ban Chấp Hành QTCS nếu danh phận của họ được vẹn toàn.

    Vào ngày 1 tháng 12 1934, khi việc chuẩn bị cho Đại Hội Lần 7 bắt đầu, Sergei Kirov, bí thư Đảng Uỷ Leningrad bị bắt chết trong văn pḥng của ḿnh tại Học Viện Smolny. Việc sát hại này đă giúp Stalin có lư do dể bắt đầu một cuộc ruồng bố những kẻ thù của đất nước [53]. Trong thời ḱ b́nh minh của Mặt Trận B́nh Dân th́ một đợt đàn áp mới đối với những kẻ thù chính trị có thật hay tưởng tượng của Stalin cũng đang bắt đầu. Vào ngày 8 tháng 12 khi 3 đại biểu Đại Hội được ĐCS Đông Dương gửi vừa đến Moscow, một cơn khủng hoảng nhỏ đă nổ ra tại Đại Học Stalin. V́ Cục Thông Tin Quốc Tế đă không ra đón họ tại nhà ga, ba người này phải tự t́m đến khách sạn mà những người Việt đang ở ‐ việc này được xem là sai sót trong kỹ thuật hoạt động ngầm. Có ba người đă làm báo cáo về việc này là: Vera Vasilieva, Kotelnikov thuộc Ban Bí Thư Phương Đông, và ʺKan Sinʺ (Khang Sinh ‐ ND), vị trí của người này không được ghi trong báo cáo của ông [54].

    Ba đại biểu người Việt là Lê Hồng Phong, thành viên chủ chốt của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại; một thành viên dân tộc Tày tên là Hoàng Văn Nọn; và Nguyễn Thị Minh Khai, được nhắc đến trong bức thư của Hà Huy Tập gửi cho QTCS là ʺvợ của Quốcʺ. Hồ cũng được phân công làm đại biểu đại hội từ hội nghị ĐCS Đông Dương họp vào tháng 3 1935. [55] Trong bản khai lư lịch mà Minh Khai đă điền sau khi đến nơi, bà viết rằng bà đă lập gia đ́nh và cho biết tên của chồng ḿnh là ʺLinʺ, bí danh mới nhất của Hồ [56]. Điều này cho thấy giữa hai người không đơn giản chỉ là một quan hệ thoáng qua mặc dù người Pháp nghi ngờ rằng bà đang là t́nh nhân của Trần Ngọc Danh[57] (dù thế Hồ Chí Minh không bao giờ nhắc đến vợ ḿnh trong bất cứ đơn từ chính thức nào của ông trong QTCS]. Tại Moscow, Minh Khai đă lấy tên là ʺPhan Lanʺ.

    Từ giữa tháng 12 1934 đến cuối tháng 3 1935 đă có một số báo cáo về t́nh h́nh của ĐCS Đông Dương được gửi từ Việt Nam đến Moscow. Ngoài ra Lê Hồng Phong cũng đă viết một bản tường tŕnh dài bằng tiếng Nga về những hoạt động của ḿnh từ khi ông quay về Đông Nam Á vào tháng 2 1932. [58] Hồ đă viết những phê b́nh riêng của ḿnh đối với sự thất bại của ĐCS Đông Dương trong thời kỳ ʺcao trào cách mạngʺ 1930‐1 [59]. (Chắc chắn rằng ông đă viết về những hoạt động khác của ḿnh trong thời gian 1930‐4, nhưng đă không được t́m thấy trong văn khố của QTCS3). Với đường lối của QTCS hiện đang quay lại giống như trong thời kỳ 1924‐

    7, rơ ràng là Hồ đă cảm thấy an toàn khi lên tiếng phê b́nh việc ĐCS Đông Dương nh́n chung đă có nhận thức tư tưởng thấp, và đặc biệt là việc ʺđa số các đồng chí ‐ ngay cả những người lănh đạo ‐ đă không quán triệt ư nghĩa của ʺcuộc cách mạng tư sản dân tộcʺ. [...] Họ lặp đi lặp lại những từ ngữ mà không hiểu được ư nghĩa của chúng,ʺ ông viết, ʺvà thường xuyên bị sai lầm trong những hoạt động tuyên truyền và khích động của ḿnh.ʺ Ông cũng đă phê phán phương pháp cứng nhắc trong việc đào tạo công nhân để tổ chức đ́nh công mà không được khuyến khích để tự ḿnh quyết định dựa trên phát xét của họ về t́nh h́nh thực tế. Ông cũng chỉ ra mối nguy hiểm về việc những công nhân được đưa vào những bộ phận lănh đạo của đảng th́ ʺluôn tự cho phép ḿnh bị ảnh hưởng bởi những phần tử trí thức v́ những người này đă đọc hết những điều trong sách vở và những luận cươngʺ. ʺĐiều này đă xảy ra trong giai đoạn 1930‐1,ʺ ông nói, ʺkhi những đồng chí của ta là những thành viên lớn tuổi và có kinh nghiệm. Hiện nay, đa số hoặc hầu hết những đồng chí này đang ở tù hoặc bị giết chết. Những đồng chí hiện nay th́ trẻ và ít kinh nghiệm hơn và do đó sẽ phạm phải sai lầm nhiều hơn.ʺ

    Phương án khắc phục mà ông đưa ra là việc xuất bản những văn kiện ngắn bằng ngôn ngữ b́nh dân với những chủ đề bắt đầu từ Tuyên Ngôn Cộng Sản và lịch sử của QTCS, rồi đến ʺvấn đề dân tộcʺ và ʺvấn đề nông dânʺ, và kết thúc với ʺphương pháp tổ chức một mặt trận thống nhấtʺ và ʺluận cương và nghị quyết của QTCS về vấn đề thuộc địaʺ. Ông đă học cách trích dẫn lời của Stalin đúng lúc ‐ ʺStalin th́ ngh́n lần đúngʺ, Hồ viết ʺkhi ông nói ʺHọc thuyết đă giúp cho các đồng chí... sức mạnh của đường lối, sự rơ ràng trong quan điểm, ḷng tin vào công việc của họ và niềm tin tưởng vào chiến thắng của chính nghĩaʺ [60]. Ta có thể giả định rằng Hồ đă biết rằng học thuyết toàn thắng trên đă thay đổi từ 1928‐9, nhưng đă đủ khôn ngoan để không đưa ra trong bài viết. Phong cách vừa là giảng viên vừa là học viên của ông tại Đại Học Stalin mà chúng ta sẽ thấy, cho thấy rằng dường như ông đă không tiếp thu đường lối giảng dạy lư thuyết của Moscow một cách nghiêm túc.

    Báo cáo của Lê Hồng Phong về những hoạt động của ḿnh từ cuối năm 1931 đến khi ông quay lại Moscow vào cuối năm 1934 là một báo cáo dựa trên dữ kiện, gần như là một liệt kê về những thành công và thất bại chính trị của ông. Trong khi đó những báo cáo của Hà Huy Tập (có tên là Sinitchkin ở Moscow) gửi về Moscow từ giữa tháng 12 1934 và tháng 4 1935 lại mang một giọng điệu hoàn toàn khác hẳn [61]. Những báo cáo này cho thấy ông đă bắt đầu đảm nhận một vai tṛ tích cực, thậm chí độc đoán hơn trong việc xây dựng ĐCS Đông Dương sau khi Lê Hồng Phong quay lại Moscow. Là một người gầy guộc được biết với bí danh là ʺKhịtʺ ở Sài G̣n và ʺÔng Lùnʺ ở Trung Quốc, Hà Huy Tập dường như đă quay lại châu Á với sự tin tưởng hoàn toàn của QTCS vào giữa năm 1933. Một báo cáo của Sở Liêm Phóng đề cập đến ông như là một ʺrenifluerʺ, tức là ʺkẻ khịt mũiʺ hoặc ʺchó sănʺ, có lẽ là lấy từ bí danh của ông [62]. Vào lúc ấy ông là người duy nhất trong Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đă được QTCS tin tưởng giao cho ch́a khoá giải mă những mật thư bằng điện đài đang được bắt đầu sử dụng để liên lạc trong những năm 1934‐5. [63] Nổi ám ảnh về an ninh dấy lên trong QTCS từ vụ ám sát Kirov đă làm cho guồng máy tại Moscow hài ḷng với một người có thiên hướng như Hà Huy Tập để soạn thảo những báo cáo với đầy đủ chi tiết. Hơn nữa, đối với Ban Bí Thư Đông Phương, an ninh đă trở thành mối quan tâm chủ yếu sau khi Phân Bộ Thượng Hải của ĐCS Trung Quốc bị phá huỷ vào tháng 12 1934. Vào lúc ấy QTCS đă bị mất mối liên lạc bằng điện đài duy nhất với ĐCS Trung Quốc, lúc ấy đang trong giữa quá tŕnh của cuộc Vạn Lư Trường Chinh. (Sau đó ĐCS Đông Dương được lệnh cắt đứt mọi liên lại với ĐCS Trung Quốc và Lănh Sự Quán Sô Viết tại Thượng Hải [64]). Trong mọi trường hợp, Hà Huy Tập đă nổi bật như là người đă tố cáo Trần Văn Giàu, Hồ Chí Minh và một số những thành viên khác của ĐCS Đông Dương bao gồm cả một trong những đại diện môi giới của Hồ là Nguyễn Văn Tram (Cao Văn B́nh) [65]. Trong giai đoạn chuẩn bị cho Đại Hội Lần 7 (ban đầu được dự định sẽ tổ chức vào năm 1934, rồi dời đến tháng 3 1935 và cuối cùng được khai mạc vào tháng 7) có lẽ Hồ Chí Minh là người đă bị nghi ngờ nhiều nhất.

    Hội Nghị ĐCS Đông Dương từ ngày 27‐31 tháng 3 tại Macao đă thông qua nghị quyết chính trị dài 30 trang và đă bầu ra một Uỷ Ban Trung Ương mới, cho phép Hà Huy Tập nắm quyền ĐCS Đông Dương trong thời gian Lê Hồng Phong vắng mặt. Điều mà hội nghị đă không làm là phản ánh những trào lưu thay đổi tại Moscow mà măi cho đến Đại Hội Lần 7 QTCS vào mùa hè mới được giải thích rơ ràng. Vào cuối năm 1934 Tập đă báo cáo rằng đảng có khoảng 600 thành viên bao gồm cả những người đang ở Lào và Cam Bốt [66]. Mười ba người đă có mặt để tham gia Hội Nghị, ông nói. Hội Nghị đă bầu ra Uỷ Ban Trung Ương đứng đầu bởi Lê Hồng Phong đang vắng mặt, trong đó có 8 công nhân, một bần nông người dân tộc Tày, ba trí thức và một thành viên từ đảng An Nam cũ (không rơ nghề nghiệp) đang được lựa chọn [67]. Hồ Chí Minh nằm ở vị trí thứ

    13 như là một thành viên dự bị. Những học viên tại Moscow trong Uỷ Ban Trung Ương gồm có công nhân ʺDin‐Tanʺ (Trần Văn Diêm), đứng đầu xứ uỷ Bắc Kỳ; và ʺSvanʺ (Nguyễn Văn Dựt), lúc ấy đang đứng đầu Liên Uỷ tại Nam Kỳ. Hà Huy Tập giữ cho ḿnh một vị trí trong Ban Chỉ Huy Hải Ngoại, lúc ấy đang có quyền ra hướng dẫn chính trị cho Uỷ Ban Trung Ương [68].

    Ở cuối bản báo cáo về Hội Nghị, Tập đă đưa ra vấn đề của Hồ Chí Minh. Ông nói rằng Hội Nghị đă phân công Đồng Chí Lin làm đại biểu của ĐCS Đông Dương tại QTCS. Nhưng trong khi đó ông lại viết:

    Các tổ chức cộng sản tại Xiêm và Đông Dương đang thực hiện một cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng cách mạng dân tộc pha lẫn chủ nghĩa cách tân và chủ nghĩa duy tâm của Thanh Niên Hội và của Đồng Chí Nguyễn Ái Quốc. Những tàn dư này vẫn c̣n rất mạnh và trở thành một trở ngại nghiêm trọng đối với công cuộc phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống lại những tư tưởng cơ hội của Quốc và Thanh Niên là thật sự cần thiết. Hai đảng uỷ tại Xiêm và Đông Dương sẽ ra những văn bản chống lại những khuynh hướng này. Chúng tôi đề nghị Đồng Chí Lin nên thảo một văn bản để tự kiểm điểm bản thân và những thất bại của ḿnh trong quá khứ [69]

    Đến cuối tháng 4 1935 Hà Huy Tập cảm thấy có trách nhiệm phải làm việc phê b́nh rơ ràng hơn. Trong điểm cuối cùng của bức thư viết tay dài 4 trang bằng tiếng Pháp trong đó đề cập đến một số trường hợp bị nghi ngờ có sự phản bội trong ĐCS Đông Dương, ông báo cáo với Ban Bí Thư Đông Phương rằng một số đại biểu tại Hội Nghị Macao đă thảo luận về trách nhiệm của Hồ về trong việc bắt bớ của trên 100 cựu thành viên của Thanh Niên được đào tạo tại Quảng Châu. Tập đă liệt kê những lư do như sau:

    (a) Quốc đă biết rằng Lâm Đức Thụ là một kẻ khiêu khích, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ông ta; (b) Quốc đă phạm sai lầm khi đ̣i hỏi mỗi học viên hai bức ảnh, tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà nội ngoại và ông bà cố... (c) trong nước, tại Xiêm và trong tù, họ vẫn tiếp tục nói về trách nhiệm của Quốc, một trách nhiệm mà ông không thể chối bỏ được; (d) những bức ảnh do Quốc và Lâm đ̣i hỏi giờ đây đang nằm trong tay của cảnh sát; (e) dần dần khi đường lối của đảng đă trở nên rơ ràng hơn đối với đảng viên và quần chúng, họ đă phê phán mạnh mẽ hơn chính sách mà Đồng Chí Quốc theo đuổi. Tổng bí thư của ĐCS Xiêm, từng là người học tṛ thuần thành của Quốc, là một trong những người nói rằng trước năm 1930, Quốc không phải là một người cộng sản!!! [70]

    Khi trả lời cho đề xuất của ĐCS Đông Dương về việc Hồ trở thành đại diện của họ tại QTCS, Vasilieva khẳng định là ʺkhôngʺ. ʺQuốc cần phải học tập nghiêm túc trong hai năm tới và sẽ không thể nhận bất cứ công việc ǵ khác,ʺ bà giải thích; ʺsau khi ông học xong chúng tôi sẽ có những dự định đặc biệt để sử dụng ông ấyʺ [71]. Ta không biết rằng bà đă nhận được lời tố giác vào tháng 4 khi bà viết những nhận định trên. Dù sao bức thư tháng 4 rơ ràng là đă ảnh hưởng đến vai tṛ của Hồ tại Đại Hội Lần 7. Trong một danh sách đại biểu Đại Hội, v́ tính chất bắt buộc của nó, ai đó đă viết ʺcần phải loại bỏʺ bên cạnh tên của Hồ [72]. Đa số những danh sách đại biểu Đại Hội cho thấy có 3 đại biểu từ Đông Dương, một người trong họ là phụ nữ ‐ cả ba người đều có toàn quyền bầu cử. Hai đại biểu Xiêm chỉ được quyền bầu với tư cách tham vấn (soveshchatelniie golosy), trong qui định cộng sản điều này có nghĩa là phiếu bầu của họ không được tính [73]. Nhưng dường như Hồ cũng không nhận được cả quyền này. Ta có thể bảo rằng ông đă được đưa ra khỏi chương tŕnh công khai của Đại Hội để giữ bí mật, nhưng ta cũng thắc mắc rằng tại sao những người Việt khác, sau này sẽ quay lại hoạt động chính trị tại Đông Dương, lại được giao cho những chức vụ công khai.

    Nếu đă có một uỷ ban được lập ra để điều tra những cáo buộc mới nhất đối với Hồ, th́ chắc hẳn nó đă xảy ra trước Đại Hội 7. V́ những thiếu sót về an ninh được cảnh báo từ việc Kirov bị mưu sát, sẽ rất là khó hiểu nếu đă không có một biện pháp nào được thực hiện. Một nguồn tin được biết nhiều năm sau từ một nhân viên của Bộ Quốc Tế thuộc Uỷ Ban Trung Ương Sô viết là Anatoly Voronin cho biết rằng Hồ đă bị điều tra bởi bộ ba Dmitry Manuilsky, Khang Sinh và Vera Vailieva. Theo nguồn tin này, Mauilsky đă giữ vị trí trung lập trong khi Khang Sinh muốn Hồ bị xử tử h́nh. Vasilieva được cho là đă bảo vệ ông trên cơ sở rằng những sai lầm của ông về những biện pháp an ninh đă xảy ra là do thiếu kinh nghiệm [74]. Vào năm 1935 có khả năng là Khang Sinh đề nghị Hồ bị trục xuất ra khỏi đảng hơn là tử h́nh, nếu ông tin rằng Hồ đă có một phần lỗi trong những bắt bớ vào năm 1931. Nhưng v́ không có những tài liệu làm bằng chứng mà rất có thể vẫn c̣n được giấu kín trong tàng thư của KGB, chúng ta không thể biết được những tố giác của Hà Huy Tập đă được xử lư nghiêm trọng đến mức độ nào. Bản thân những người cộng sản Việt Nam đă biết rất rơ rằng đảng của họ đă bị Sở Liêm Phong thâm nhập. Vào cuối năm 1934, Hà Huy Tập đă gửi một danh sách đến Moscow trong đó ông phân tích hồ sơ của 37 học viên người Việt đă rời Moscow đi châu Á hoặc Pháp. Trong số này có 12 người được liệt vào dạng phản bội hoặc khiêu khích. Chỉ có 10 người được cho là ʺnhững nhà cách mạng chuyên chínhʺ [75].

  10. #60
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P4


    Đă có vài tia sáng hé mở trong việc QTCS xử lư những trường hợp như của Hồ qua báo cáo của Joseph Ducroux về việc ông bị đối xử tại Moscow khi ông quay lại vào tháng 1 1934. Ducroux đă viết vào năm 1970 rằng trưởng Cục Thông Tin Quốc Tế là Abromov đă quyết tâm qui nguyên nhân ông bị bắt tại Singapore là do lỗi kỹ thuật của Ducroux. Ducroux đă không được đối xử như một người hùng trở về và chỉ được phép ăn tại nhà ăn chung của khách sạn Lux chứ không được ngồi cùng với những lănh đạo chính trị. Ông đă bị triệu tập đến một cuộc họp tại Ban Chấp Hành QTCS với sự có mặt của Manuilsky, Lozovsky, Piatnitsky và Bela Kun. Manuilsky đă ʺcông kích ông dữ dộiʺ, yêu cầu khai trừ ông ra khỏi đảng. Lozovsky tỏ vẻ thông cảm hơn với điều kiện khó khăn mà ông phải đối phó. Sau hai ngày ông được báo rằng ông có thể ở lại Moscow để làm công việc thông dịch cho tờ tin Quốc tế Cộng Sản. Nhưng thay v́ thế, Ducroux đă yêu cầu được gửi về Pháp. Yêu cầu này được thông qua nhưng ông bị cấm không được nhận bất cứ nhiệm vụ ǵ có liên quan đến Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Pháp. [76] Hồ Chí Minh cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự là bị tách rời khỏi những hoạt động liên quan đến những quyết định chính trị. Hồ c̣n gặp phải một phức tạp khác do đă có liên hệ với những hoạt động của ĐCS Trung Quốc, cụ thể là trong thời kỳ khó khăn của năm 1930. Có khả năng là Khang Sinh đă có oán hận với ông v́ ông từng là người biết rơ vai tṛ của Khang Sinh trong thời kỳ hưng thịnh của Lư Lập Tam, hoặc đă biết về những thất bại của ông trong tổ chức an ninh đặc biệt vào năm

    1933. Sau khi Kirov bị ám sát, Khang Sinh được cho là đă bắt đầu hô hào một cuộc thanh trừng mới trong nội bộ đảng Trung Quốc tại Moscow [77]. Nhưng một lần nữa, v́ không có tài liệu làm bằng chứng nên ta không thể kết luận một cách chắc chắn về mối quan hệ giữa Hồ và Khang Sinh.

    Đại Hội Quốc tế Cộng Sản Lần 7

    Đại Hội Lần 7 QTCS cuối cùng cũng đă được khai mạc vào ngày 25 tháng 7 1935. Nó đă đạt được sự nhất trí chậm trễ về việc ủng hộ một liên minh với thành phần xă hội dân chủ cánh tả trong cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít tại châu Âu. Sự nhất trí này đă được chuẩn bị tỉ mỉ từ giữa năm 1934, khi ĐCS Pháp đồng ư thực hiện ʺhành động chungʺ với Đảng Xă Hội Pháp chống chủ nghĩa phát xít. Dường như đă có rất ít những thảo luận sôi nổi và những nghị quyết Đại Hội đă được thông qua thanh chóng. Sự sục sôi chính trị của Đại Hội 6, khi đặc tính của ʺGia Đoạn Thứ Baʺ và những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân đă bị xoá bỏ, th́ giờ đây đang được giới lănh đạo QTCS cẩn thận chuyển hướng. Trong sự chuyển hướng mà rơ ràng là do Georgy Dimitrov chủ trương trong tháng 7 1934, QTCS đă cho phép các đảng cộng sản được tự do hơn trong phương sách riêng của ḿnh, nhưng cùng lúc ấy họ cũng cách tân guồng máy của ḿnh và ʺxây dựng một mối liên hệ mật thiết giữa thành phần lănh đạo QTCS và Bộ Chính Trị ĐCS Liên Xôʺ. [78] QTCS đang rời bỏ chủ nghĩa cực đoan của năm 1929 và Hội Nghị Thứ 10 Ban Chấp Hành QTCS, khi những chiến lược cực đoan được đưa ra tại Moscow mà không màng ǵ đến những điều kiện tại địa phương trong phong trào cộng sản thế giới. Dimitrov nhấn mạnh việc cần thiết phải tính đến những điều kiện đặc trưng tại những địa điểm khác nhau trên thế giới và những phát triển không đồng đều trong phong trào cộng sản; không thể dùng một đường hướng được tiêu chuẩn hoá để thay thế việc t́m hiểu cặn kẽ ở những quốc gia khác nhau[79]. Nhưng cùng lúc ấy, QTCS vẫn tiếp tục trợ giúp những đảng thành viên trong việc đào tạo những ʺlănh đạo Bolshevik thực thụʺ [80]. Dimitrov có lẽ đă thuyết phục được Stalin chấp thuận những ǵ đă xảy ra tại Pháp và Trung Quốc, nơi các đảng đang đưa ra những quyết định phù hợp với điều kiện chính trị của ḿnh, bằng cách đồng thuận để tăng mức kiểm soát của nhà lănh đạo Sô Viết này tại hàng ngũ tối cao của QTCS.

    Một Ban Bí Thư nhỏ gọn, chặt chẽ của Ban Chấp Hành QTCS được chọn ra vào tháng 8 1935 trong đó những thành viên sẽ có ban bí thư riêng của ḿnh để điều khiển những nhóm của các đảng cộng sản. Dimitrov, Tổng Bí Thư QTCS, chịu trách nhiệm về ĐCS Trung Quốc, trong khi đó Vương Minh (Wang Min ‐ ND) chịu trách nhiệm về các đảng tại khu vực Nam Mỹ và Caribbe. Trách nhiệm về Đông Dương nằm trong tay của ban bí thư của Manuilsky, bao gồm những quốc gia trước đây trực thuộc Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Romance và những thuộc địa. V́ thế trong hầu hết giai đoạn Mặt Trận B́nh Dân, ít nhất là cho đến mùa thu năm 1937, những người cộng sản Việt Nam đă có quan hệ gần gũi với ĐCS Pháp. Otto Kuusinen, một chuyên viên về những vấn đế Ấn Độ, phụ trách các đảng cộng sản Nhật, Triều Tiên, Ấn Độ và Xiêm. Philippines nằm dưới sự chỉ đạo của ban bí thư của André Marty v́ ông đang đảm nhiệm những công việc của những quốc gia thuộc ngôn ngữ Anglophone và một số thuộc địa của chúng; Hà Lan và Nam Dương trở thành bộ phận của Ercoli (Togliatti) [81]. Những quyền lợi của những đảng vùng Đông Nam Á v́ thế bị phụ thuộc vào những nhu cầu của các đảng trong những quốc gia mẫu quốc [82].

    Vào năm 1935, như nhiều tác giả đă nhấn mạnh, QTCS đă áp đặt khái niệm của một mặt trận thống nhất dựa trên những chính sách cấp tiến của những năm 1928 và 1929. Thời điểm để từ bỏ những mục tiêu xă hội, dù là tạm thời, vẫn chưa đến lúc. McDermott và Agnew (Kevin McDermott & Jeremy Agnew ‐ sử gia người Anh ‐ ND) viết: ʺSự tương quan chặt chẻ của Stalin với những chiếc lược của ban bí thư và những tư tưởng của Giai Đoạn Thứ Ba đă ngăn chặn những nghiên cứu cặn kẽ về những kinh nghiệm của sáu năm vừa qua. V́ thế thời kỳ Mặt Trận B́nh Dân đă được đánh dấu bởi một căng thẳng không được giải quyết giữa truyền thống và cách tân, giữa tư tưởng thừa hưởng và khuôn khổ tổ chức và những chủ trương của những đảng cộng sản để giao chiến với nền tư tưởng của phong trào xă hội dân chủʺ [83]. Mong muốn của Hồ Chí Minh, đưa ra vào tháng 1-1935 về việc phân tích những thất bại của giai đoạn 1930‐1 dưới quan điểm rằng đây là một sự hiểu lầm về ʺcuộc cách mạng dân chủ tư sảnʺ, có lẽ đă đến trước thời gian. Dimitrov nhấn mạnh trong báo cáo Đại Hội của ḿnh rằng mặt trận thống nhất sẽ không đưa ra dấu hiệu của việc quay lại khái niệm của hai giai đoạn cách mạng. Ông nói sẽ sai lầm nếu xem chính quyền liên minh chống phát xít là ʺmột giai đoạn dân chủ trung gian nằm giữa chuyên chính tư sản và chuyên chính vô sảnʺ. [84] Vào thời điểm này tại Moscow vẫn có rất ít thông tin về cuộc Vạn Lư Trường Chinh. Vương Minh và những người lănh đạo Trung Quốc khác giả định rằng một huyện Sô Viết đang được thành lập tại Tứ Xuyên (Sichuan ‐ ND), trong vùng Thành Đô (Chendu ‐ ND) [85]. Wilhelm Pieck (cựu chủ tịch Cộng Hoà Dân Chủ Đức ‐ ND) vẫn trích dẫn việc thành lập của phong trào Sô Viết tại Trung Quốc như là một ʺsự kiện nổi bậtʺ trong phong trào cộng sản châu Á kể từ Đại Hội Lần 6 QTCS [86]. Nhưng v́ sự vắng mặt của một hội đồng đặc biệt về những quốc gia thuộc địa và bán thuộc địa, Đại Hội Lần 7 đă không đưa ra một tín hiệu rơ rệt cho những thuộc địa của những quốc gia phương Tây.

    Lê Hồng Phong là người Đông Nam Á duy nhất trở thành thành viên của Ban Chấp Hành QTCS trong đại hội 1935. Việc này đă đưa ông lên ngang hàng với những nhà lănh đạo hàng đầu của Trung Quốc như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Trương Quốc Đảo và Vương Minh (Khang Sinh và Bác Cổ (Bo Gu ‐ ND) trở thành uỷ viên dự khuyết) [87]. Khi ông phát biểu vào ngày thứ tư của Đại Hội, dưới bí danh Hải An, Phong nhấn mạnh tầm quan trọng về kinh nghiệm của Trung Quốc đối với Việt Nam. Cách mạng Tháng Mười Nga đă đóng vai tṛ quan trọng trong việc phát triển phong trào cách mạng tại Việt Nam, ông nói. ʺNhưng chính phong trào Sô Viết thắng lợi tại Trung Quốc đă đóng vai tṛ quyết định,ʺ ông nhận định. ʺTrong suốt lịch sử của đảng chúng tôi, ĐCS Trung Quốc đă giúp đỡ và hậu thuẫn cũng như chia sẻ kinh nghiệm của họ. [...] T́nh huynh đệ thắm thiết gắn chặt hai đảng chúng tôiʺ [88]. Dù thế, tầm quan trọng thật sự của phong trào Sô Viết tại Trung Quốc đối với Đông Dương ra sao th́ không được nêu rơ trong bài phát biểu của Hải An. Sau giai đoạn ʺphát triển tối đaʺ của ĐCS Đông Dương vào những năm 1930‐1, ông giải thích, đă không c̣n ǵ ngoài những tổ chức cộng sản cô lập tại Việt Nam; nhưng vào thời điểm hiện tại ʺphong trào đang phát triển trên một cơ sở rộng lớn hơn so với trong quá khứ. Tầng lớp dị biệt nhất trong dân chúng, những thành phần lạc hậu nhất trong tầng lớp lao động, những dân tộc thiểu số (Mọi, Thợ, Lăo v.v...), tầng lớp quần chúng rộng răi của tiểu tư sản, trí thức đă được lôi kéo vào cuộc đấu tranhʺ [89]. Nhưng ông tiếc rằng những đồng chí của ḿnh đă không nghĩ đến việc thành lập một mặt trận thống nhất dựa trên ʺmột mặt trận phản đế rộng răiʺ [90].

    Phát biểu của Nguyễn Thị Minh Khai tại Đại Hội vào ngày 16 tháng 8 cũng cho thấy giai đoạn trung chuyển nhắm về một mặt trận chống phát xít. Bà đă phát biểu về vấn đề chống chiến tranh được đưa ra từ báo cáo của Ercoli tại Đại Hội. Bà đề cập rất ít đến những vấn đề phụ nữ, than phiền về con số nhỏ nhoi của phái nữ tại Đại Hội. Chủ đề chính của bà là mối nguy hiểm ngày một lớn của hệ thống quân sự Pháp tại vùng biển Thái B́nh Dương và việc chuyển hoá Đông Dương thành một căn cứ quân sự của Pháp. Nhiệm vụ của ĐCS Đông Dương v́ thế cần phải ʺhuy động toàn bộ lực lượng của ḿnh để tạo thành một mặt trận b́nh dân rộng răi trong cuộc đấu tranh v́ hoà b́nhʺ. Mặc dù Liên Xô đă thoả thuận với Pháp về một hiệp ước hỗ trợ chung vào tháng 6 1934, ĐCS Đông Dương vẫn quyết tâm ʺvạch mặt những chính sách của đế quốc Pháp bằng ví dụ điển h́nh là Đông Dươngʺ [91]. Chỉ sau khi Mặt Trận B́nh Dân thắng cử tại Pháp vào mùa xuân 1936, ĐCS Đông Dương mới thay đổi sự chống đối của họ đối với nỗ lực tự vệ của người Pháp.



    Photo 008




    ʺChứng minh thưʺ tại Đại Hội 7 Quốc tế Cộng Sản, 1935 của Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong, hai trong số ba đại biểu của Đông Dương.



    Photo 009

    Ban Chấp Hành mới của QTCS được bầu chọn vào năm 1935.

    Hàng đứng: (từ trái sang) M. Moskvin, Otto Kuusinen, Klement Gottwald, Wilhelm Pieck, Dmitry Manuilsky. Hàng ngồi: (từ trái sang) André Marty, G.Dimitrov, Palmiro Togliatti, V.Florin, Vương Minh.



    Photo 010

    Vera Vasilieva, lănh đạo bộ phận Đông Dương tại QTCS, người được cho là đă bảo vệ Hồ Chí Minh khi ông bị điều tra vào năm 1935.



    Photo 011

    Hồ Chí Minh trước khi rời Moscow đi Trung Quốc vào năm 1938. Đầu ông bị cạo trọc có lẽ là do việc phải nhập viện.

    Mặt Trận Thống Nhất tại Đông Dương

    Trong việc phân tích những hệ quả của Đại Hội QTCS Lần 7, ta có thể lấy làm lạ là việc thay đổi chính sách về mặt trận thống nhất đă không thay đổi thời vận của Hồ Chi Minh ngay lập tức. Ta không biết được Vasilieva đă nghĩ ǵ khi bà viết về ʺdự định sử dụng ông ta sau hai năm học tậpʺ ‐ nhưng ta biết được rằng Hồ vẫn ở lại Moscow sau khi Lê Hồng Phong quay về lại châu Á vào năm 1936 và khi Minh Khai và Hoàng Văn Nọn quay về vào năm 1937. Một mẩu thư của Vasilieva gửi cho ʺDmitry Zaharovichʺ (Manuilsky), chắc hẳn là đă được viết vào cuối năm 1935 hoặc đầu năm 1936, xác nhận rằng tại Moscow, Lê Hồng Phong đang nắm vai tṛ chủ đạo trong việc vạch ra đường lối cho ĐCS Đông Dương vào lúc ấy. Vailieva viết rằng, ʺHải An muốn tham khảo về những vấn đề Đông Dương vào những ngày tới, v́ ông ta phải (1) viết một bức thư cho đảng... và (2) có thể sẽ nhập viện trong vài ngàyʺ [92]. Tám thành viên của QTCS được mời tham dự buổi hội ư: Manuilsky, Kuusinen, Khang Sinh, Vương Minh, Stepanov, Gere, Mirov và Vasilieva. Ở cuối danh sách này Vasilieva đă ghi chú rằng hai học viên người Đông Dương đang theo học tại Đại Học Stalin và ʺĐồng Chí Lin (Ai‐kvak)ʺ từ Đại Học Lenin cũng được yêu cầu tham dự. [93]

    Trong năm 1936 ĐCS Đông Dương đă thảo ra một số thư về vấn đề mặt trận thống nhất tại Đông Dương. Bức thư đầu tiên có lẽ được thảo tại Moscow sau cuộc hội ư trên. Một bức thư bằng tiếng Pháp từ Phân Bộ Đông Dương thuộc Liên Đoàn Phản Đế gửi đến ʺCác Đảng Phái và Phần Tử Cách Mạng Trong Nước và Hải Ngoạiʺ, đề ngày 27 tháng 2 1936 có thể t́m được tại hồ sơ của ban bí thư của Manuilsky. Bức thư kêu gọi tất cả các đảng phái, tất cả các phần tử cách mạng trong nước và hải ngoại tham gia bộ phận Đông Dương của Liên Đoàn Phản Đế ʺđể đoàn kết phong trào giải phóng dân tộc tại Đông Dươngʺ [94]. Một tài liệu khác mang tên ʺThư Mở của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dươngʺ đă xuất hiện vào tháng 4 ‐ một bản sao của nó đă được gửi đến Moscow và được dịch sang tiếng Nga vào ngày 6 tháng 6 1936. Lá thư nhắm vào thành phần ʺViệt Nam Quốc Dân Đảng và tất cả những tổ chức và đảng phái cách mạng dân tộc, những nhóm phản đế, những tổ chức cách tân, những nhóm đối lập và những phần tử cách mạng đơn lẻ tại Đông Dươngʺ [95]. Bức thư đề xướng một cơ cấu uyển chuyển cho một mặt trận thống nhất trong đó sẽ giao cho các tổ chức cộng sản hạ tầng quyền quyết định những hoạt động chung tại cấp địa phương. Lá thư đề nghị rằng những đảng phái khác hoặc là nên gia nhập bộ phận Đông Dương của Liên Đoàn Phản Đế hoặc mỗi tổ chức nên cử ra một vài đại diện để tham gia vào một uỷ ban điều phối. Ban Chỉ Huy Hải Ngoại của ĐCS Đông Dương sẽ chịu trách nhiệm trong việc thảo luận với những chi nhánh hải ngoại của những đảng phái khác [96].

    Ta không biết được ai là tác giả chính thức của bức thư trên. Nhưng việc nó bao gồm những ʺnhóm cách tânʺ trong lời kêu gọi cho thấy một trong những dấu hiệu của việc chuyển hướng sang h́nh thái chiến lược mới của mặt trận thống nhất của ĐCS Đông Dương. Ta có thể chắc chắn rằng bức thư không phải là sản phẩm chung của Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập. V́ khi Hà Huy Tập gửi một báo cáo đến Moscow về công việc của ĐCS Đông Dương từ tháng 5 1935 đến tháng 6 1936, Lê Hồng Phong vẫn chưa liên lạc với Ban Chỉ Huy Hải Ngoại, lúc đó đang đóng tại Macao. [97] Ta có thể đoán rằng những lá thư tháng 2 và tháng 4 đă kêu gọi một mặt trận phản đế với tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) tại Nam Kinh. Theo lời Hoàng Văn Hoan, việc này xảy ra với sự đồng ư của Hà Huy Tập vào khoảng đầu năm 1936. [98] Nhưng trong báo cáo của ḿnh gửi cho QTCS vào ngày 1 tháng 7 1936, Tập lại viết rằng ʺmột tổ chức gọi là Liên Đoàn Việt Nam Độc Lập Cách Mạng đă được thành lập tại Nam Kinhʺ, và ʺmột hội nghị giả tạo đă được tổ chứcʺ. ʺChúng tôi đă khai trừ khỏi đảng những thành viên cộng sản nào đă thành lập liên đoàn này với Min [c̣n có tên là Phi Vân, Nguyễn Hữu Cam]; nó đă bị tan ră khi bị chúng tôi lột mặt nạ,ʺ ông báo cáo [99]. (Nhưng Hoàng Văn Hoan lại viết rằng Liên Đoàn lâm vào t́nh trạng bất động v́ thái độ thù địch của một số người Việt quốc gia và khó khăn khi gây quỹ [100]). Rơ ràng là Lê Hồng Phong đă từ Moscow đến thẳng Nam Kinh với thông điệp về mặt trận thống nhất: ông đă có mối liên hệ lâu dài với Hồ Học Lăm và Nguyễn Hải Thần, hai thành viên của tổ chức Việt Minh đầu tiên. Như những sự kiện sau này cho thấy, ngay cả sau khi Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập liên lạc với nhau vào năm 1936, Tập vẫn tiếp tục phản bác chiến lược sau Đại Hội 7 của QTCS.

    Tại cuộc họp được tổ chức vào cuối tháng 7 tại Thượng Hải, được gọi là Hội Nghị Trung Ương Đảng, hai nhà lănh đạo cộng sản cuối cùng đă gặp nhau. Chính tại cuộc họp này những nghị quyết lỗi thời từ Hội Nghị Macao đă được loại bỏ. Trên thực tế hội nghị này có thể là một cuộc họp của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại mà từ tháng 9 1935 đang hoạt động như một Uỷ Ban Trung Ương; có thể những đảng viên trong nước đă không được tham dự. [101] Hội nghị đă đưa ra một bức thư mở mới về việc thành lập mặt trận thống nhất mà giờ đây được gọi là ʺmột Mặt Trận Liên Hiệp Phản Đế B́nh Dânʺ. [102] Cuộc họp tiếp theo sau việc thành lập của chính phủ Mặt Trận B́nh Dân tại Pháp vào tháng 5 đă mở đường cho Hà Huy Tập chuyển về Sài G̣n vào tháng 8 để thành lập một Uỷ Ban Trung Ương mới. [103] Trên giả thuyết ông đă đem theo ʺBức Thư Mởʺ viết vào tháng 7 và một loạt những nghị quyết phản ánh việc ĐCS Đông Dương chấp nhận đường lối của Đại Hội 7 QTCS, nhưng trên thực tế, sau này ông đă bị tố cáo là không chịu thực thi những chính sách mới của QTCS và đă không công bố những quyết định từ cuộc họp vào tháng 7 tại Thượng Hải. Trong một báo cáo tóm lược mà ông đă viết vào cuối mùa hè 1937, ông đă đề cập rằng ʺLitvinov (Lê Hồng Phong) đang ở nước ngoài như là một đại diện dự bị; v́ sự vắng mặt ấy, ông ta không có vai tṛ ǵ trong hoạt động của Uỷ Ban Trung Ươngʺ [104]. Một người tại Ban Bí Thư Đông Phương đă viết một nhận định về bản báo cáo này vào tháng 1 / 1938 và đă ghi chú rằng: ʺLitvitov (Hải An) đă nhận công tác khi ông ấy rời khỏi Moscow để quay về nước và tổ chức việc đưa Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương vào trong quốc nội. Sau khi việc chuyển đổi của Hà Huy Tập diễn ra, Hải An được lệnh của Lozeray [một người cộng sản Pháp đang cùng uỷ ban điều tra quốc hội thăm viếng châu Á]... t́m cách nắm lại quyền lănh đạo đảng ở trong nước. Rơ ràng là ông ấy đă thất bại trong việc nàyʺ [105]. V́ thế có thể Hà Huy Tập đă tự ư nắm quyền vào năm 1936 khi ông quay lại Sài G̣n. Những tiến triển của sự mâu thuẫn này sẽ được phân tích ở chương kế tiếp.

    Những ảnh hưởng của chính phủ Léon Blum tại Việt Nam đă được ghi chép đầy đủ, đặc biệt là tại Nam Kỳ, nơi mặt trận La Lutte đă phát triển thành một tờ báo chung và một liên minh chính trị giữa ĐCS Đông Dương và những người Trotskyist địa phương cho đến mùa hè 1937. [106] Phong trào Hội Nghị Đông Dương, được bắt đầu bằng đề nghị của Nguyễn An Ninh đăng trên tờ La Lutte vào ngày 29 tháng 7 1936, đă đem lại một làn sóng hoạt động chính trị mới trong chính trường. Những uỷ ban hành động được thành lập, bắt đầu từ những thị trấn và làng xă phía nam nhằm thu thập những yêu sách của dân chúng và chuẩn bị cho việc tổ chức một Hội Nghị bao gồm những thành viên cộng sản và Trotskyist như một tổ chức đại diện cho phần đông dân chúng. Một đợt ân xá cho các tù nhân chính trị từ tháng 7 1936 đến tháng 8 1937 đă trả tự do cho hơn 2.000 nhà hoạt động trong đó có 643 tù nhân Côn Đảo (Poulo Condore ‐ ND) [107]. Những người tù cộng sản đă tận dụng tốt thời gian họ bị giam cầm: họ đă nâng cao tŕnh độ lư thuyết cộng sản và trau dồi kỹ năng hoạt động của ḿnh. [108] Nhiều người trong họ trong đó có một nhóm lănh đạo quan trọng của ĐCS Đông Dương đă sớm hoà nhập với phong trào yêu cầu nâng cao điều kiện làm việc và tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương. Nhưng việc chính quyền thuộc địa không mặn mà lắm với phong trào Mặt Trận B́nh Dân cho thấy làn sóng lạc quan đầu tiên của những người Việt đối với chính phủ mới tại Pháp đă không tồn tại được lâu. Đến tháng 9 1936 vị Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa, một người xă hội tên Marius Moutet đă thông báo với Hà Nội rằng việc tổ chức một Hội Nghị rộng lớn tại Sài G̣n th́ không thể chấp nhận được[109]. Theo sau cuộc viếng thăm của đại diện Mặt Trận B́nh Dân là Justin Godart (Thị trưởng Lyon, thuộc đảng Xă hội cấp tiến ‐ ND) tại Sài G̣n và Hà Nội và đầu năm 1937 và những cuộc biểu t́nh rộng lớn để đón chào ông, chính quyền thuộc địa đă bắt đầu một chiến dịch đàn áp mới. Nhưng một báo cáo vào năm 1937 của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại gửi đến Moscow đă đổ những thất bại của phong trào Hội Nghị lên những người Trotskyist: bức thư này đă phê phán La Lutte đă đẩy ʺthành phần tư sản dân tộcʺ ra khỏi mặt trận thống nhất bằng những phê b́nh gắt gao [110]. ʺMặt trận thống nhất hạ tầngʺ giữa ĐCS Đông Dương và thành phần Trotskyist đă không tồn tại trong sự thất vọng chung đối với chính phủ của Blum. Vào tháng 5 1937 ĐCS Đông Dương đă gây áp lực đ̣i rút ra khỏi liên minh với ĐCS Pháp, hiện đang bận rộn với cuộc chiến toàn diện chống lại chủ nghĩa Trotskyism của Stalin, nhưng chủ yếu chính là cam kết của QTCS đối với những đồng minh chống phát xít đă dẫn đến việc mặt trận La Lutte bị giải thể vào tháng 6 1937. Đến tháng 8 ĐCS Đông Dương đă bắt đầu giai đoạn tái tổ chức, sẽ được thảo luận ở chương tới.

    Những hoạt động của Lê Hồng Phong tại Trung Quốc đă không được ghi chép đầy đủ như lịch sử của mặt trận La Lutte tại Sài G̣n. Nhưng những báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy từ mùa thu 1936 đến đầu năm 1937 ông đă di chuyển trong khu vực miền nam Trung Quốc và tái lập liên lạc với một số người trong đó có Nguyễn Hải Thần, nhà lănh đạo phong trào dân tộc đă ly khai khỏi Thanh Niên Hội vào năm 1927. Theo lời của mật vụ ʺKonstantinʺ, Lê Hồng Phong đă viếng thăm Thần vào ngày 23 tháng 9 1936. Hai người được cho là đă dự định tổ chức một cuộc họp mở rộng tại Thuận Đức (Shun De ‐ ND) [111]. Những chỉ điểm của Sở Liêm Phóng cũng t́m thấy dấu vết của Phong vào tháng 3 và tháng 4 1937 ‐ ông được cho là đă di chuyển liên tục giữa các vùng Thuận Đức, Phật Sơn (Fat San ‐ ND) và Quảng Châu [112]. Những hoạt động của Lê Hồng Phong có lẽ đă tác động đến việc thành lập Mặt Trận B́nh Dân của những người Việt tại Vân Nam, sự kiện này đă được đề cập đến trong báo cáo của t́nh báo quân sự Pháp vào tháng 3-4 1937. Báo cáo này đă nhắc đến ba tiểu tổ quan trọng nhất của ʺQuốc Dân Đảngʺ tại Hà Khẩu (Hekou ‐ ND), Khai Nguyên (Kai Yuan ‐ ND) và Côn Minh (Kun Ming ‐ ND) đă tham gia mặt trận này, bản báo cáo gọi nó là ʺchi bộ của phân bộ Bắc Kỳ của Mặt Trận B́nh Dân Đông Dươngʺ[113].

    Ở đây chúng ta thấy được một trong những dấu hiệu ban đầu của mặt trận thống nhất tại Bắc Kỳ (cũng như ở miền trung Việt Nam] đă mang một h́nh thái khác với mặt trận thống nhất tại Sài G̣n. Rơ ràng là đă không có những cơ hội cho những nhà hoạt động tại miền bắc. Nhưng cũng đúng là tại Hà Nội thành phần Troskyist đă không có một tổ chức vững mạnh và dường như đă không xâm nhập được vào trong phong trào công nhân. Hơn nữa, cũng không có thành phần tư sản tương đương của Đảng Lập Hiến tại vùng này. V́ thế khi những người tù cộng sản được phóng thích bắt đầu xuất hiện tại Bắc Kỳ vào cuối năm 1936, ĐCS Đông Dương đă không gặp trở ngại ǵ trong việc tổ chức phong trào lao động. Cùng lúc đó họ đă cởi mở để tạo một liên minh chính trị với những lực lượng trung lưu và dường như đă đóng vai tṛ chủ chốt trong việc thành lập chi bộ Việt Nam của Đảng Dân Chủ SFIO (Section Francaise de IʹInternationale Ouvrière - Phân Bộ Pháp của Liên Đoàn Lao Động Quốc Tế ‐ ND) tại miền bắc. Vào tháng 3 1936 tờ báo lưỡng nguyệt LʹAvenir (Tương Lai ‐ ND) bắt đầu xuất hiện. Những người cộng tác bao gồm Vơ Nguyên Giáp, Phan Anh, Đặng Thai Mai, Vũ Đ́nh Huỳnh và Bùi Ngọc Ái, đa số họ sẽ đóng vai tṛ quan trọng trong tổ chức Việt Minh. [114] Vào tháng 11 1936 một nhóm hỗn hợp gồm những thành viên của ĐCS Đông Dương và Trotsyist đă thành lập tờ Le Travail (Lao Động

    ‐ ND), một tờ báo hổ trợ việc phóng thích những tù nhân chính trị và tổ chức việc chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Justin Godart. Trong số những nhà báo hàng đầu của tờ báo này có Đặng Xuân Khu, một nhà hoạt động từ Nam Định đă từng làm việc với Nguyễn Đức Cảnh vào năm 1929 trước khi bị bắt đi tù tại Bắc Kỳ vào năm 1930. Sau này ông chính là người được biết nhiều với cái tên ông lấy vào năm 1945 là Trường Chinh. Đến tháng 1937 nhóm Travail đă hợp tác với SFIO và Đảng Cấp Tiến (hai tổ chức của Pháp) trong kế hoạch thành lập một chi bộ của SFIO tại Bắc Kỳ [115]. Vào tháng 4 1937 Phạm Văn Đồng cũng đă tham gia nhóm này, ông đang bị giam lỏng ở Huế sau khi vừa được phóng thích. Một báo cáo của Sở Liêm Phóng cho biết rằng ông là một nhà báo tài ba và đă được cử làm biên tập viên cố định của tờ Le Travail [116]. Nhưng tờ báo đă phải đóng cửa ngay sau khi Đồng tham gia v́ nhà xuất bản bị những vụ phạt vạ và kiện cáo. Đến mùa hè 1937, những bất đồng giữa nhóm Trotskyist và ĐCS Đông Dương đă làm thất bại cố gắng đầu tiên để thành lập mặt trận thống nhất tại Hà Nội [117]. Nhưng ĐCS Đông Dương vẫn tiếp tục theo đuổi việc liên minh với những trí thức quốc gia và những thành viên khác của thành phần tư sản tại Bắc Kỳ.

    Những năm cuối của Hồ Chí Minh tại Moscow

    Sau Đại Hội 7 Hồ Chí Minh vẫn ở lại Đại Học Lenin cho đến cuối năm 1935, nhưng sang năm 1936 ông đă là giảng viên trong bộ phận Đông Dương tại Đại Học Stalin, nơi hai đại biểu người Việt của Đại Hội 7 đang theo học. Một báo cáo về một cuộc họp của giảng viên và học viên của bộ phận này vào tháng 4 1936 cho thấy ʺLinʺ và Vere Vasilieva đă làm việc chung với nhau, rơ ràng là để thiết lập một khoá đào tạo về Đông Dương. Bà làm chức giảng viên chủ đạo trong Bộ Phận Đông Dương. ʺThật dễ chịu khi làm việc với ông ấy v́ ông ấy là một chuyên gia trong đề tài về đất nước ông,ʺ bà nhận xét; ʺông ấy biết về t́nh h́nh đất nước nhưng không được hệ thống mấy.ʺ Họ làm việc về những khó khăn chính trị như vấn đề nông dân. ʺÔng ấy có rất nhiều kinh nghiệm cách mạng, nhưng cũng như những đồng chí người Đông Dương khác, ông đă mắc phải rất nhiều sai lầm, hiện nay chúng tôi đang chú tâm rất nhiều về những vấn đề này... ông ấy đă có nhiều tiến bộʺ [118]. Một số nguồn tài liệu của Việt Nam nói rằng Hồ đang dự định soạn thảo một luận cương về vấn đề nông dân, nhưng tôi đă không thấy một bằng chứng nào về việc này ngoài báo cáo của Vasilieva . Một trong những học viên của Hồ là ʺVăn Tânʺ (Hoàng Văn Nọn] đă than phiền rằng Đồng Chí Lin đă đặt ông vào một chế độ ʺStakhanoviteʺ (lấy từ tên của Alexey Stakhanov, người phát động phong trào thi đua lao động tăng năng suất, vượt chỉ tiêu kế hoạch ở Nga ‐ ND) trong một khoá học ‐ trong ṿng một tháng ông đă phải hoàn thành toàn bộ lịch sử của ĐCS Liên Xô, và v́ không có tài liệu, ông đă phải thuộc ḷng mọi thứ. ʺĐồng Chí Lin nói rất nhanh, cứ như một bánh xe đang xoay,ʺ ông nói; ʺđó là nguyên nhân về t́nh trạng kiến thức của tôi [119]. (Ta có thể đoán được rằng Hồ đă không có hứng thú ǵ trong việc giảng dạy cho người thanh niên dân tộc Tày này về phiên bản lịch sử đảng đă được Stalin hoá từ năm 1935. Ta biết rằng khi Hồ muốn giảng điều ǵ, ông sẽ bỏ nhiều công sức để giải thích vấn đề một cách rơ ràng và đơn giản).

    Vào cuối năm 1936 Vasilieva thảo ra một kế hoạch đào tạo cho những học viên Đông Dương trong đó bà đưa ra chi phí cho 10 học viên người Việt đến Moscow. Kế hoạch cũng đề xuất việc thành lập một trường đào tạo mới tại Trung Quốc để giảng dạy những lớp chính trị dài 2 tháng cho những hoạt động viên cấp thấp từ Việt Nam. Bà dự định một ngân sách 3.000 đô-la Mỹ để đào tạo 10 học viên cho mỗi khoá hai tháng. Điểm thứ chín trong bản đề xuất của bà có nhắc đến rằng ʺchúng ta phải quyết định vấn đề gửi Đồng Chí Lin, người đă hoàn tất công việc nghiên cứu tại Moscow, về để tổ chức và giảng dạy tại trường này.ʺ Nhưng ở cuối bản đề xuất của bà, ai đó đă viết: ʺMọi đề nghị đều bị huỷ bỏ sau khi vấn đề đă được làm sáng tỏ” [120] ʺVấn đềʺ là ǵ th́ không được giải thích, nhưng chúng ta biết rằng Đồng Chí Lin đă phải lưu lại Moscow để tiếp tục học tập.

    Đến năm 1937, Đại Học Stalin được tái tổ chức với những học sinh không thuộc Liên Xô được đưa vào ʺHọc Viện Khoa Học về việc Nghiên Cứu các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địaʺ. Một tên mới có vẻ trung lập hơn nhưng không có nghĩa là nhà trường đă thay đổi chức năng của ḿnh. Trong một bức thư gửi cho ʺHội Đồng Quản Trị Sô Viếtʺ vào tháng 4 1938, một quản trị viên của nhà trường giải thích rằng chức năng của Học Viện là nhằm đào tạo những thành viên của các đảng nước ngoài ‐ cái tên chỉ là vỏ bọc và không phản ánh tính chất thật sự về hoạt động của trường, ông viết. [121] Hồ vẫn ghi danh là giảng viên và học viên tốt nghiệp, ông tham dự ʺlớp đầu tiênʺ của Khoa Lịch Sử. Ông đă không tỏ vẻ phấn khởi mấy trong việc học tập của ḿnh: ông chỉ đạt điểm ʺtrung b́nhʺ trong các lớp ʺDuy Vật Biện Chứngʺ, ʺLịch Sử Cổ Đạiʺ và ʺLịch Sử Trung Đạiʺ. Chỉ có môn ʺLịch Sử Cận Đạiʺ là ông nhận được điểm ʺxuất sắcʺ. Địa vị giảng viên của ông dường như rất thấp ‐ ông giảng dạy môn ʺNghiên Cứu về Đông Dươngʺ bằng tiếng Việt. Ngược lại, ʺMininʺ Nguyễn Khánh Toàn, người đă từng học tại Cao Đẳng Hà Nội, được nhận chức ʺquyền giảng viênʺ trong các môn ʺKinh Tế Chính Trịʺ, ʺLịch Sử Tổng Quátʺ, và ʺNghiên Cứu Quốc Giaʺ. [122] (Việc Nguyễn Khánh Toàn lưu lại Moscow lâu dài đă không được giải thích. Ông quay về lại Trung Quốc vào năm 1939).

    Đến giữa năm 1938, khi Hồ Chí Minh chuẩn bị rời Moscow, Học Viện đă bị đóng cửa. Pavel Mif, Giám Đốc Học Viện và là cánh tay phải của Stalin về những vấn đề Trung Quốc từ năm 1928, đă bị bắt v́ tội danh ʺkẻ thù nhân dânʺ trong khoảng năm 1937. Ông bị tử h́nh vào năm 1938. Trong suốt những năm 1937 và 1938 rất nhiều lănh đạo ĐCS Nga và những nhà hoạt động của QTCS bị bắt và xử bắn. Những thành viên QTCS từng giúp thực hiện đường lối cứng rắn của những năm 1928-9 đă bị trừng phạt nặng nề. Những người này gồm thành viên người Ba Lan ʺRylskiʺ,

    ʺBailisʺ (người soạn thảo cuốn Kháng Chiến Vũ Trang], Volk, Vasiliev, Safarov và cả Piatnitsky (Orgwald]. Những chuyên viên về vấn đề nông dân từng theo dơi công tác của Hồ Chí Minh trong giữa thập niên 1920 là Dombal và ʺVolinʺ cũng bị cuốn vào làn sóng thanh trừng. [123] Trong khi đó ba thành viên cộng sản Nga là Trotsky, Zionev và Bukharin, những người đă từng lănh đạo QTCS cho đến năm 1929 đă bị đánh bật.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Vụ án “buôn vua” Việt Nam - Hồ Chí Minh - Phần 1
    By alamit in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 3
    Last Post: 08-08-2012, 10:27 AM
  2. Hồ Chí Minh & vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp
    By Thương Dân in forum Hồ Chí Minh
    Replies: 0
    Last Post: 21-02-2011, 04:31 PM
  3. Replies: 22
    Last Post: 05-02-2011, 05:45 AM
  4. Replies: 4
    Last Post: 15-11-2010, 02:28 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •