Page 7 of 7 FirstFirst ... 34567
Results 61 to 65 of 65

Thread: Vụ án “buôn vua” Việt Nam - Hồ Chí Minh - P1

  1. #61
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P5


    Thật khó mà tưởng tượng được rằng một người cộng sản kỳ cựu như Hồ Chí Minh lại có thể tiếp tục hoạt động trong suốt thời kỳ đảo điên này. Nhưng đến tháng 1 1938 ông vẫn đang dịch những thư từ hiếm hoi từ Đông Dương gửi đến Moscow. Việc ông sống sót trong suốt những tháng năm tồi tệ nhất của phong trào thanh trừng được xem là dấu hiệu của việc Hồ được bảo vệ bởi một trong những lănh đạo cao cấp c̣n sót lại đó là Manuilsky, hoặc ông là một người Stalinist thuần thành. Về giả thiết thứ hai, chúng ta biết rằng Stalin đă có rất nhiều thay đổi trong chính sách v́ thế Hồ không thể nào đă không có mâu thuẫn với đường lối của Stalin trong vài giai đoạn nào đấy. Như Hồ đă cho thấy trong năm 1924, ông sẵn sàng hợp tác với bất kỳ nhóm nào đang nắm quyền lực tại QTCS nhằm xúc tiến cho nền độc lập của Việt Nam. Nhưng ngay cả việc im lặng phục tùng vẫn không đủ để cứu ông nếu ông là một người Ba Lan, Baltic, Đức hoặc Thổ Nhĩ Kỳ. Những người này đă bị Stalin tấn công với toàn bộ chủ tâm trả thù của ḿnh trong những năm 1937‐8. Đại diện QTCS từ những đảng hợp pháp như các ĐCS Pháp, Anh và Mỹ nh́n chung đă được dung thứ. [124] Trong trường hợp của Hồ Chí Minh, việc ông đến từ một đất nước xa xôi với một ưu tiên thấp trong chính sách ngoại giao của Liên Xô có thể là một phần nguyên nhân tại sao ông đă không bị bắt. Cùng lúc ấy, ông cũng đă thực hành việc mà ông đă làm từ lâu là giữ thấp danh phận của ḿnh tại Moscow và không bao giờ nhận ḿnh là một nhà lư luận như M.N.Roy đă làm. Trong bản thẩm tra lư lịch mà ông đă điền khi ghi danh vào Đại Học Lenin năm 1934, ông vẫn luôn giữ bí mật. Ông viết rằng ông không có người thân trưởng thành, không vợ, không chuyên môn, không nghề nghiệp và cũng không biết ḿnh có thể làm được trong lĩnh vực ǵ. Vào cuối bài tiểu sử ngắn của ḿnh, ông viết một cách châm biếm: ʺTôi nghĩ rằng đấy là tất cả những ǵ về lư lịch của tôi hiện nayʺ [125].

    Về mối quan hệ giữa ông và Dmitry Manuilsky, ta biết qua một bức thư ông gửi đến Ban Bí Thư của Manuilsky vào ngày 6 tháng 6 1938 rằng hai người đă không gặp nhau trong một thời gian dài. Hồ viết: ʺThưa Đồng Chí, tôi vô cùng biết ơn nếu đồng chí cho phép tôi được gặp. Lâu lắm rồi đồng chí đă không gặp tôi.ʺ Hồ chỉ ra rằng đă 7 năm rồi kể từ ngày ông bị bắt giữ tại Hồng Kông và cũng là bắt đầu năm thứ 8 của việc ông bị ʺbất độngʺ: ʺGửi tôi đi một nơi nào đấy. Hoặc giữ tôi tại đây. Hăy sử dụng tôi trong việc ǵ mà đồng chí cho là có ích. Tôi chỉ yêu cầu đồng chí đừng để tôi sống tại đây quá lâu mà không làm ǵ bên ngoài đảng” [126] Hồ sơ của Học Viện Khoa Học về việc Nghiên Cứu các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa cho thấy ước nguyện của ông đă được chấp thuận và vào ngày 29 tháng 9 1938 ông chính thức được giải toả. [127] Không bao lâu sau dường như ông đă khởi hành đi Trung Quốc. Một lần nữa, chúng ta hoàn toàn không biết nhiệm vụ của Hồ là ǵ khi ông rời Moscow đi Trung Quốc. Nhưng ta biết rằng ông quay lại với tư cách là một phái viên chính thức của QTCS đối với ĐCS Đông Dương. Vasilieva đă can thiệp với Dimitrov để họ chịu nghe Hồ phát biểu trước khi ông khởi hành. Bà giải thích trong một bức thư ngắn: ʺĐiều quan trọng là ai đó trong thành phần lănh đạo nên nói chuyện với Đồng Chí Lin trước khi ông ấy ra đi về những vấn đề liên quan đến những bất đồng bên trong thành phần lănh đạo Đảng [CS Đông Dương] mà hiện nay vẫn c̣n tồn tại. Lin là một thành viên của Uỷ Ban Trung Ương, có nhiều quyền lực trong Đảng, và v́ ông ấy từ Moscow về, họ sẽ chú ư lắng nghe những ǵ ông nói. V́ thế rất quan trọng là ông ấy cần nói đúng. [128] (Dường như vào thời điểm này ít nhất Hồ vẫn được xem là một uỷ viên dự khuyết của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương).

    Trên thực tế niềm tin của Vasilieva đối với uy quyền từ Moscow dường như đă không đặt đúng chỗ. Chương kế tiếp tôi sẽ phân tích những bất đồng bên trong thành phần lănh đạo ĐCS Đông Dương đă làm chia rẽ đảng này từ 1936 đến 1940. Măi cho đến tháng 5 năm 1941, hai năm sau khi Hồ về lại Trung Quốc, ông mới chính thức chuyển giao thông điệp của ḿnh đến Uỷ Ban Trung Ương Đảng.



    CHƯƠNG 7:

    HỒ CHÍ MINH TRỞ VỀ VÀ CON ĐƯỜNG DẪN

    ĐẾN HỘI NGHỊ LẦN THỨ TÁM (1937-41)

    Khi Hồ Chí Minh được phép quay về lại châu Á vào mùa thu 1938, Liên Bang Sô Viết và chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Quốc đă tái thiết lập một liên minh. Những đàm pháp kéo dài giữa Moscow và Nam Kinh đă dẫn đến việc kư kết hiệp ước không gây hấn vào tháng 8 1937. Cũng như trong những năm 1920, thành quả ngoại giao đă không được những người cộng sản Trung Quốc hoàn toàn thừa nhận. Nhưng nó đă đem lại một nguồn viện trợ quân sự mới nhằm giúp Quốc Dân Đảng ngăn chận bước tiến của quân Nhật từ những thành phố vùng duyên hải vào trung tâm Trung Quốc. Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ‐ ND) ước tính từ giữa năm 1937 đến tháng 11 1940, số tiền viện trợ của Nga cho Tưởng Giới Thạch lên đến khoảng từ 300 đến 450 triệu đô‐la [1]. Thoả thuận giữa Nga và Quốc Dân Đảng cũng đă dẫn đến sự hồi sinh của mặt trận thống nhất giữa những người quốc gia và cộng sản Trung Quốc. Có nghĩa là ĐCS Trung Quốc lại có được sự hợp pháp trong ṿng vài năm và cơ hội để thiết lập sự hiện diện của ḿnh tại những căn cứ của Quốc Dân Đảng, trước hết là tại Nam Kinh, và kế đến là Vũ Hán trong một giai đoạn ngắn, rồi đến Trùng Khánh (Chong Qing ‐ ND). Vào tháng 9 1937 Hồng Quân Trung Quốc được tái tổ chức dưới quyền chỉ huy của Hội Đồng Quân Sự của Quốc Dân Đảng, cùng với tập đoàn Bát Lộ Quân được thành lập để hoạt động tại khu vực tây bắc và tập đoàn Tân Tứ Quân để chiến đấu tại miền nam sông Dương Tử (Yang Tze ‐ ND). ĐCS Trung Quốc được phép hợp tác với Quốc Dân Đảng để mở hai Khoá Đào Tạo Du Kích Chiến ở miền nam Trung Quốc. Từ tháng 6 1938 những người cộng sản Việt Nam hải ngoại đă gặp được Tướng Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying ‐ ND) của ĐCS Trung Quốc đang đóng vai tṛ liên lạc giữa Bát Lộ Quân và Hội Đồng Quân Sự ở Vũ Hán [2].

    V́ thế Hồ Chí Minh đă quay lại Trung Quốc trong thời điểm hưng thịnh của mối hợp tác Nga‐ Hoa. Nhiệm vụ của ông trong việc quay về Đông Nam Á là để biến ĐCS Đông Dương trở thành một ʺmặt trận dân chủ dân tộc rộng răiʺ, trong đó sẽ bao gồm những Pháp kiều cấp tiến tại Đông Dương cũng như tầng lớp tư sản dân tộc [3]. Chỉ thị 8 điểm của QTCS mà ông đă phải thuộc ḷng, kêu gọi những người cộng sản Việt Nam phải đặt mục tiêu của mặt trận chống phát xít trước mục tiêu của cuộc cách mạng vô sản. Đây là bản chất của những mặt trận đă được thành lập tại Pháp trong năm 1936 và ở Trung Quốc năm 1937. ĐCS Đông Dương được yêu cầu không được đưa ra những yêu sách quá khích ví dụ như hoàn toàn độc lập hoặc thành lập quốc hội. ʺV́ thế sẽ rơi vào bẩy của phát xít Nhật,ʺ chỉ thị cảnh giác. Đảng nên tổ chức một mặt trận để đ̣i hỏi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do nhóm họp cũng như ân xá toàn bộ những tù nhân chính trị. Đối với thành phần tư sản dân tộc, đảng được khuyên là nên ʺmềm mỏngʺ để lôi kéo họ vào mặt trận và thúc đẩy họ hành động, hoặc nếu cần thiết, cô lập họ về mặt chính trị. Đảng không được đ̣i hỏi quyền chỉ đạo mặt trận dân chủ mà phải tự đạt lấy nó bằng cách chứng tỏ ḿnh là một đảng ʺtích cực, chân thành và hết ḷng nhất.ʺ Đối với thành phần Trotskyist, không được phép khoan nhượng hoặc thoả hiệp. Họ cần phải bị loại bỏ về mặt chính trị.

    Màn đầu chính trị cho việc quay lại của Hồ Chí Minh (1937-8)

    Đến năm 1938 tại Việt Nam một h́nh thể phức tạp của những lực lượng chính trị đă tiến hoá từ khuynh hướng Trotskyist đến những đảng cực hữu, làm cho công tác tổ chức của Hồ càng thêm khó khăn hơn so với thời kỳ 1924‐7. ĐCS Đông Dương vừa mới tái tổ chức một tầng lớp lănh đạo hợp nhất vào năm 1935. Giờ đây đảng được yêu cầu tham gia một chiến dịch chống phát xít toàn cầu trong đó đ̣i hỏi nó phải giới hạn việc phản kháng của ḿnh đối với thực dân Pháp. Nhưng v́ không có sự đoàn kết trước hiểm hoạ xâm lược của Nhật, những người cộng sản Việt Nam cảm thấy thật khó mà chấp nhận bản chất của mặt trận thống nhất mà họ phải tham gia. Mối đe dọa của Nhật th́ cấp bách tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ hơn là tại Nam Kỳ. Một số người Việt xem Nhật là những người giải phóng triển vọng. Như ta đă thấy, khi Lê Hồng Phong từ Moscow quay về vào năm 1936, thông điệp của ông về mặt trận thống nhất đă gặp phải chống đối từ một hướng không được ngờ tới đó là Hà Huy Tập. Tập đă quay về lại châu Á khi phong trào Proletkult (từ ghép của proletarskaya kultura ‐ văn hoá vô sản ‐ ND) vẫn c̣n là một lực lượng mạnh mẽ; rơ ràng là ông đă ngạc nhiên khi thấy sự chuyển hướng của QTCS. Nhưng việc ĐCS Đông Dương chống lại mệnh lệnh của QTCS chỉ được Moscow biết đến măi cho đến tháng 1

    1938, khi họ nhận được một báo cáo đề ngày 10 tháng 9 1937 và được kư tên ʺF.L.ʺ Bản báo cáo này đă tóm lược một số tiến triển sau cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương được tổ chức vào tháng 7 1936 tại Thượng Hải. Theo tường thuật của tác giả về chuyến trở về châu Á qua ngỏ Paris, ta có thể chắc rằng người viết chính là Nguyễn Thị Minh Khai hoặc ʺFan Lanʺ. [4] Bức thư đă được viết sau Đại Hội Mở Rộng của ĐCS Đông Dương và Hội Nghị Ban Chấp Hành lần 2 được tổ chức tại Sài G̣n từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 1937, khi Uỷ Ban Trung Ương đă đi theo đường lối của QTCS [5].

    Minh Khai và Hoàng Văn Nọn đă quay về lại Hồng Kông qua ngỏ Pháp và Ư vào cuối mùa xuân 1937. Họ đă thuộc ḷng danh sách 9 điểm của bản chỉ thị về đường lối mà họ sẽ chuyển giao cho Ban Chỉ Huy Hải Ngoại khi đến nơi. Tôi đă không t́m được bản sao của bản liệt kê này, nhưng chúng ta có thể giả định rằng nó cũng gần giống như chỉ thị 8 điểm mà Hồ Chí Minh được lệnh phải thực thi trong năm 1938. Hai người đồng hành đă gặp Lê Hồng Phong vào tháng 7 và chuyển giao những đề xuất của QTCS. Như bức thư của ʺF.L.ʺ đă đề cập, ông đă cho họ biết việc Uỷ Ban Trung Ương đă phê phán sự quan tâm mới của QTCS về những phương pháp tổ chức hợp pháp và bán hợp pháp và đă cho nó là ʺxét lại, cơ hội và hữu khuynhʺ. Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đă soạn thảo một văn bản giải thích chính sách mới nhưng đă bị Hà Huy Tập không cho phát hành. Theo lời Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập đă viết thư cho ông, bảo rằng ʺnhững đồng chí hải ngoại đă quá xa rời thực tế trong nước, và Uỷ Ban Trung Ương phải có trách nhiệm đối với hoạt động quốc nội.ʺ

    Lê Hồng Phong đă gửi Minh Khai đến Sài G̣n vào tháng 8 1937 để đích thân chuyển giao những chỉ thị mới nhất của QTCS. (Hoàng Văn Nọn cũng được gửi đi Hà Nội để làm công việc tương tự). Trả lời cho thông điệp của Minh Khai, Hà Huy Tập một lần nữa nhấn mạnh rằng những chiến lược do QTCS và Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đề xướng là ʺphản độngʺ. (Theo lời ʺF.L.ʺ, bà đă khám phá ra rằng Uỷ Ban Trung Ương tại Sài G̣n đă gửi cho những chi bộ đảng một bức thư vào ngày 26 tháng 3 1937 để băi bỏ những quyết định đưa ra từ hội nghị Thượng Hải năm 1936. [6]) ʺTôi muốn viết thư giải thích tất cả cho những đồng chí hải ngoại,ʺ bà viết, ʺnhưng đồng chí Sinitchkin bảo tôi rằng nếu tôi làm thế, tôi sẽ bị khai trừ ra khỏi đảng.ʺ Nhưng tại một cuộc họp tổ chức trước Hội Nghị Uỷ Ban Trung Ương, những đảng viên phía bắc là Hoàng Quốc Việt và Nguyễn Văn Cừ đă ủng hộ những đề xướng của QTCS. Họ bảo rằng họ đă không nhận được bức thư gửi ngày 26 tháng 7 1936 về những phương pháp tổ chức mới và Hà Huy Tập đă giải thích sai lệch những chính sách của QTCS trước Hội Nghị Uỷ Ban Trung Ương tháng 3 1937. Phùng Chí Kiên đă đại diện cho Ban Chỉ Huy Hải Ngoại tại Hội Nghị tháng 8. Sự có mặt của thành viên cộng sản Pháp là Maurice Honel tại Sài G̣n vào lúc ấy dường như đă có vai tṛ quan trọng trong việc phủ quyết những chống đối của Hà Huy Tập đối với đường lối mới của QTCS. Bức thư của F.L. nói rằng Honel đă phê b́nh ʺchủ nghĩa bè pháiʺ của Tập, và rằng ông đă khuyến khích bà viết thư cho QTCS để giải thích rơ ràng những ǵ đă xảy ra trong nội bộ ĐCS Đông Dương.

    Thật khó mà t́m hiểu được nguyên do của sự căi vả bất đồng qua những ngôn ngữ chính trị được sử dụng bởi những học viên của QTCS ‐ trên bề mặt th́ có vẻ như không mấy trầm trọng. Tranh chấp cá nhân có thể là một phần nguyên nhân của sự căng thẳng này. [bức thư tháng 9 của F.L. không nhắc đến những bất đồng về chính sách đối với thành phần Trotskyist]. QTCS và Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đă khuyến khích việc nhấn mạnh hơn nữa công tác tổ chức hợp pháp và tham gia mặt trận của những đảng phái không vô sản. (Dường như họ đă không có vấn đề ǵ về sự cần thiết cho những người lănh đạo đảng tiếp tục hoạt động bí mật). Một vấn đề gây tranh chấp là tính chất của công tác tổ chức thanh niên. Hà Huy Tập muốn biến Đoàn Thanh Niên Cộng Sản thành một Liên Đoàn Thanh Niên Phản Đế bất hợp pháp để đào tạo thành viên cho công tác thanh niên. Tám đảng viên trong tham gia Hội Nghị đă ủng hộ quan điểm này trong khi 5 người c̣n lại ủng hộ việc biến Đoàn Thanh Niên Cộng Sản thành tổ chức quần chúng hợp pháp. Trong trường hợp thứ hai này, những thành viên ưu tú nhất sẽ được kết nạp vào đảng và cùng lúc ấy tạo thành lực lượng ṇng cốt cho những tổ chức thanh niên. Sự bàn căi về phương pháp tổ chức đă phản ánh mối căng thẳng đang tiếp tục hiện hữu bên trong phong trào cộng sản, đă từng xuất hiện vào thời kỳ 1928‐9 khi phong trào sùng bái việc vô sản hoá bắt đầu.

    Quyết định cuối cùng trong công tác tổ chức thanh niên đă được dành cho QTCS giải quyết. Ngoài điều này ra, F.L. cho rằng hội nghị tháng 8‐9 đă thành công trong việc hợp nhất đảng và đấu tranh chống lại ʺchủ nghĩa bè pháiʺ. Hà Huy Tập nhanh chóng phản ứng đối với những quyết định của Hội Nghị, ta có thể biết được qua một bức thư mà Sở Liêm Phóng đă theo dơi. Vào ngày 7 tháng 9 1937 Tập thông báo cho những cộng tác viên của tờ báo LʹAvant‐Garde (Tiền Phong ‐ ND) rằng từ nay trở đi, mọi văn bản bằng tiếng Pháp và Quốc Ngữ phải qua sự kiểm duyệt của đảng. (Tờ LʹAvant‐Garde do ĐCS Đông Dương thành lập sau khi tách ra khỏi nhóm La Lutte vào tháng 5 1937. Vào thời gian này nó đă được đổi thành một tên khác bao gồm hơn là Le Peuple. Vào tháng 3 sau, một học viên từ Đại Học Stalin là Trần Văn Kiệt, c̣n có tên là Remy, đă quay về từ Pháp nắm quyền lănh đạo tờ báo và bắt đầu phiên bản tiếng Việt có tên là Dân Chúng [7]). Tất cả các bài viết cho tờ Le Peuple phải được viết trước từ một đến hai ngày. Theo giải thích của Tập là tờ Lʹavant‐Garde đă xuất bản một số bài viết mà ʺchủ trương cực tả đă là nguyên nhân của những đàn áp.ʺ Ông cảnh báo giới báo chí tại Bắc Kỳ cũng đă tường thuật sai lệch chính sách của đảng: ʺNhững hành động này sẽ ngăn cản những hoạt động hợp pháp của chúng ta hoặc làm cho những tổ chức mà chúng ta có thể liên minh quay lại chống đối chúng taʺ[8].

    Một bản tóm tắt bằng tiếng Pháp của những nghị quyết được thông qua bởi Hội Nghị Xứ Uỷ Nam Kỳ cho biết thêm vài thông tin về sự thay đổi chính sách đă được quyết định vào tháng 9 1937. Được tổ chức từ ngày 22 đến 25 tháng 9 năm 1937, hội nghị này đă tuyên bố rằng những tuyên truyền viên của đảng đă chiếm quyền lănh đạo quần chúng với ʺnhững nghị luận trí thứcʺ của họ. ʺNhững mục tiêu kích độngʺ của họ hoặc là ʺhăm doạ ʺgiới quần chúng lạc hậuʺ hoặc tạo ra sự đồng cảm trong những thành phần tôn giáo, hoặc thổi phồng tính tự măn của tầng lớp phú nôngʺ. Nhưng đường lối của đảng là ʺdùng mọi biện pháp để kết nạp những thành phần này vào những tổ chức quần chúng (những hội bằng hữu, hội tương tế, vân vân)ʺ [9]. Trong tương lai thành phần phú nông sẽ bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hoá. ʺNhưng nếu những ai hy sinh quyền lợi của ḿnh để xin được tham gia vào các tổ chức của chúng ta, chúng ta nên mở rộng cửa đón họ để họ không thất vọng, từ đó đẩy họ vào ṿng tay của những kẻ cách tân, phản động và những kẻ Trotskyistʺ [10].

    Ngay sau hội nghị Uỷ Ban Trung Ương, Lê Hồng Phong vào Sài G̣n, một phần để thiết lập liên lạc với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc qua ngỏ đảng uỷ Sài G̣n. [11] Vào hạ tuần tháng 3 1938, khi ĐCS Đông Dương tổ chức Hội Nghị Trung Ương lần thứ 3 tại Bà Điểm, Gia Định với bảy thành viên tham dự, Hà Huy Tập bị mất chức Tổng Bí Thư. [Ông bị bắt vào tháng 5 và bị trục xuất về Hà Tĩnh và bị quản thúc tại gia.] Nguyễn Văn Cừ, một môn đồ trẻ của Ngô Gia Tự, người tỉnh Bắc Ninh và là một tù chính trị được ân xá từ Côn Đảo, trở thành Tổng Bí Thư. Một Ban Bí Thư mới của Uỷ Ban Thường Vụ được thành lập bao gồm Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và, như trong ghi chú của Sở Liêm Phóng, ʺmột người trở về từ Trung Quốcʺ. Thành viên sau cùng này rất có thể là Lê Hồng Phong, v́ Phùng Chí Kiên đă quay về lại Hồng Kông sau hội nghị tháng 9 1937. Uỷ Ban Thường Vụ bao gồm năm thành viên: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Gia hoặc Anh Bảy từ miền Nam (chính là Vơ Văn Tần), Nguyễn Văn Trọng hoặc Nguyễn Chí Diểu, người vừa được phóng thích và đang xây dựng lại Xứ Uỷ Trung Kỳ, và lần nữa ʺngười trở về từ Trung Quốcʺ. Vào lúc này Nguyễn Thị Minh Khai được xác định là thành viên của Xứ Uỷ Nam Kỳ cũng như của Đảng Uỷ Sài G̣n. Bà cũng được giao nhiệm vụ đào tạo đảng viên. [12]

    Chúng ta có thể giả định rằng vào lúc cuộc họp này xảy ra, đường lối của QTCS và những người ủng hộ nó đang bắt đầu có ảnh hưởng mạnh hơn đối với những cơ cấu của đảng tại Nam Kỳ. Trên thực tế bản tường tŕnh của Hội Nghị Uỷ Ban Trung Ương vào tháng 3 đă đề cập việc một số đảng viên ở phía nam đă bị khai trừ v́ đă ʺkhông hoạt độngʺ và một số khác đă tự ư rời bỏ hàng ngũ. Con số đảng viên tại Nam Kỳ vẫn giữ được ở mức 655 sau Hội Nghị lần 2 [13]. Nhưng việc Nguyễn Văn Cừ được đề cử làm Tổng Bí Thư cho thấy những người cộng sản được đào tạo tại Moscow đă phải thoả hiệp với cơ cấu của ĐCS Đông Dương trong nước, như Trần Phú và Hà Huy Tập đă làm trước đây. Với việc những tù nhân chính trị được phóng thích đang được đưa lại vào đảng, những thành viên cũ của Tân Việt có vẻ đă bắt đầu đóng vai tṛ quan trọng trong công tác lănh đạo. Những chuẩn bị cho hội nghị ngày 1 tháng 5 tại Sài G̣n cũng cho thấy rằng mặc dù ĐCS Đông Dương hiện thời đang cố gắng trở thành một thành viên đáng tin cậy của những đảng phái tư sản, họ vẫn tán đồng một sự hợp tác nào đó với thành phần Troskyist. Uỷ ban tổ chức của hội nghị này bao gồm một người của đảng Xă Hội Pháp, một người Trotskyist, và hai người ʺStalinistʺ. Nhưng Hà Huy Tập nhấn mạnh rằng truyền đơn thông báo cho cuộc họp này chỉ liệt kê thành phần ʺcông nhânʺ là người tổ chức. Theo Sở Liêm Phóng th́ ông sợ rằng nếu Việt Nam Quốc Dân Đảng biết được những người Trotskyist cũng tham gia, họ sẽ cắt đứt quan hệ với ĐCS Đông Dương [14].

    Từ những báo cáo của ĐCS Đông Dương được soạn thảo vào cuối năm 1937 đến đầu năm 1938 ta có thể thấy được rằng mối quan hệ với QTCS và ĐCS Pháp đă bị giảm thiểu từ những ngày đầu của Mặt Trận B́nh Dân. Maurice Honel đă quay về Pháp vào năm 1937, hứa hẹn sẽ đưa vấn đề Đông Dương lên ĐCS Pháp. Nhưng đă không có tin tức ǵ của ông sau sáu tháng kể từ ngày ông trở về Pháp. Như trong bản tường tŕnh của Uỷ Ban Trung Ương gửi đến Moscow vào tháng 4 1938 đă nói rơ, việc thiếu hậu thuẫn từ ĐCS Pháp đă làm phai nhạt ảnh hưởng của ĐCS Đông Dương tại Nam Kỳ. Theo sau việc thành lập chính phủ Leon Blum, bản tường tŕnh cho biết, ĐCS Pháp đă ngừng quan tâm đến những vấn đề Đông Dương. Mặt khác, thành phần Trotskyist tại Pháp đă tấn công những chính sách thuộc địa của Mặt Trận B́nh Dân, việc này đă giúp những người Trotskyist tại Sài G̣n tăng thêm ảnh hưởng đối với quần chúng, đặc biệt là trong giới trí thức [15]. Những người Trotskyist cũng đă công khai hoá vai tṛ của ĐCS Pháp trong việc khai tử mặt trận La Lutte vào tháng 5‐6 1937 và đă phát hành những văn bản về những phiên toà độc diễn tại Moscow. [16] Dù thế Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương vẫn tiếp tục giữ nguyên cam kết của ḿnh đối với quan điểm về một mặt trận chống phát xít và tiếp tục t́m cách giữ liên lạc thường xuyên với QTCS. (Dường như nó đă không hề hay biết ǵ về sự tàn phá mà quá tŕnh thanh trừng tại Moscow đă gây nên trong Đệ Tam Quốc Tế, và có thể đă không hay biết việc những lănh đạo của QTCS như Piatnitsky và Mif đă bị bắt giữ trong năm 1937). Trong bản báo cáo vào tháng 4 1938, những người cầm đầu ĐCS Đông Dương đă yêu cầu QTCS nên gửi những chỉ thị thường lệ về những vấn đề chính trị và tổ chức cũng như trợ giúp về tài chính. Ngoài việc xin gấp 5.000 đô-la cho việc ấn loát sách, họ c̣n yêu cầu gửi những cố vấn và ngân sách để mở một trung tâm đào tạo hợp pháp tại Trung Quốc, tương tự như những trung tâm đă có từ thời 1926‐7 [17]. Việc điều phối Hồ Chí Minh về lại châu Á vào mùa thu 1938 có thể là để đáp ứng yêu cầu trên.

  2. #62
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P6


    Cho đến lúc này liên lạc với QTCS qua ngă Trung Quốc đă trở nên vô cùng khó khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh Hoa ‐ Nhật. Những chiếc tàu mà ĐCS Đông Dương có những thuỷ thủ làm công tác liên lạc đă không thể đến được Việt Nam v́ sự phong toả của người Nhật [18]. Khi Phùng Chí Kiên viết thư cho QTCS vào tháng 11 / 1937, ông đă xin phép được chính thức liên lạc với Chi Uỷ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc v́ đảng này đă trở nên ʺít nhiều hợp phápʺ. Ông giải thích rằng ʺMặc dù trong hơn một năm qua chúng tôi đă có quan hệ với Chi Uỷ Miền Nam nhưng mối liên hệ này, cho dù rất chặt chẽ, vẫn không được chính thức v́ không có sự chấp thuận của các đồng chí.ʺ Ông cũng yêu cầu chuyển giao trách nhiệm liên lạc với ĐCS Xiêm sang Chi Uỷ Miền Nam [19]. Trong lúc viết bức thư này, dường như Kiên vẫn đang ở tại Hồng Kông. Đến tháng 6 1938 ông đă ở Vũ Hán để hội ư với tướng Trung Quốc Diệp Kiếm Anh, theo hồi kư của Hoàng Văn Hoan. Có thể Kiên đă quen biết vị tướng này từ những ngày ông c̣n học tại Hoàng Phố, khi Diệp Kiếm Anh là chỉ huy của Trung Đoàn Đào Tạo. Sau tháng 10 1938, khi quân Nhật đang tiến vào Vũ Hán và sau khi nơi ở của ông tại Cửu Long bị cảnh sát khám xét, Phùng Chí Kiên được cho là đă chuyển về Sán Đầu để học về chiến tranh du kích. [20] Đối với những người cộng sản Việt Nam vào thời điểm này ở miền nam Trung Quốc, vai tṛ của QTCS trong những quyết định thường nhật của họ ngày càng trở nên ít giá trị. Nhưng như đă nói ở trên, ĐCS Đông Dương trong nước đang nôn nóng thiết lập lại liên hệ thường xuyên với Moscow, phần v́ lư do tài chính, và vào tháng 3 1938 họ đă t́m cách quyên góp tiền bạc để gửi một đảng viên ra ngoài nước để tham vấn. Một tường tŕnh của Sở Liêm Phóng nói rằng Phùng Chí Kiên đă t́nh nguyện nhận làm phái viên nhưng Uỷ Ban Trung Ương đă quyết định gửi một thành viên cộng sản hợp pháp [21]. Nhưng dường như đă không có ai thực hiện chuyến đi đến Pháp hoặc Nga.

    Những đi lại của Hồ Chí Minh / bối cảnh chính trị năm 1939

    Hồ Chí Minh lên tàu đi Trung Quốc vào mùa thu năm 1938 và chắc hẳn đă đến Tây An (Xiʹan ‐ ND) vào tháng 11 hoặc tháng 12. Ông đă đi qua ngă Ô Lỗ Mộc Tề (Urumchi, thủ phủ của Tân Cương ‐ ND) và Lan Châu (Lan Zhou ‐ ND) và chắc hẳn là nằm trong chương tŕnh lớn nhằm đưa cố vấn và vật liệu đến Trung Quốc để hậu thuẫn cuộc chiến tại đây. Dường như hầu hết chuyến đi ông đă di chuyển bằng tàu hoả và máy bay, v́ ông đă có thời gian để ở lại Diên An (Yanʹan ‐ ND) suốt một tháng mà vẫn kịp đến Quế Lâm (Gui Lin ‐ ND) vào tháng 2 1939. Sau này ông đă viết rằng, chiến tranh bùng nổ ở Trung Quốc đă làm ông ʺbị cuốn vào ṿng xoáy vĩ đại đang thay đổi số phận của hàng trăm triệu ngườiʺ [22]. Trong cùng bức thư ông đă viết rằng ông đă bị mất hành lư tại Diên An, trong đó có cả những ghi chú của ông về những chỉ thị của QTCS. Tài liệu của Trung Quốc nói rằng Hồ Chí Minh, giờ mang tên là Hồ Quang, đă ở tại nhà khách của ĐCS Trung Quốc giành cho người nước ngoài tại vùng tây bắc Diên An và Khang Sinh là người tiếp đón ông [23]. Hồ đă đến ngay sau Hội Nghị Lần 6 ĐCS Trung Quốc xảy ra vào tháng 10, được cho rằng đă chấm dứt với một thế quân b́nh gay gắt trong hàng ngũ lănh đạo giữa Mao và những người cầm đầu như Vương Minh và Chu Ân Lai, những người nhiệt t́nh ủng hộ mặt trận thống nhất [24]. Mặt trận Vũ Hán cuối cùng đă kết thúc với việc quân Quốc Dân Đảng rút lui vào cuối tháng 10, một sự kiện dường như đă làm tăng ảnh hưởng của Mao. Chúng ta có thể giả định từ một báo cáo dài với yêu cầu trợ giúp mà Hồ đă gửi cho ĐCS Trung Quốc vào giữa năm 1940 rằng ông vẫn tiếp tục thái độ giữ kín danh phận của ḿnh tại vùng hậu cứ của Mao ‐ trong báo cáo ấy ông đă không bộc lộ sự mật thiết với giới lănh đạo Trung Quốc hoặc cho rằng họ đă biết được vai tṛ của ông trong ĐCS Đông Dương [25].

    Những quân đoàn cũng như dân tị nạn đang di chuyển trên toàn cơi Trung Quốc. Quân đội Quốc Dân Đảng đang rút về phía nam và phía tây vào cuối năm 1938. Hồi kư của Hoàng Văn Hoan tường thuật việc ông di chuyển với bộ máy hành chánh Quốc Dân Đảng bắt đầu bằng việc di tản từ Nam Kinh đến Vũ Hán trong năm 1937 rồi đến Trường Sa và Quí Dương (Gui Yang ‐ ND), nơi đại lộ nam‐bắc đến Tây An cắt ngang trục đường đông‐tây; và cuối cùng đi về hướng tây đến Côn Minh vào đầu năm 1939. Hầu như trong cùng thời gian ấy, Hồ Chí Minh đi xuyên Trung Quốc về hướng đông‐nam, Từ Diên An đến Quế Lâm thuộc tỉnh Quảng Tây, hiện giờ là một thành phố tiền phương, thường bị quân Nhật dội bom. Hồ được phong chức thiếu tá trong quân đoàn Bát Lộ Quân, dường như việc này đă giúp ông di chuyển dễ dàng hơn trong cơn hỗn loạn. Sau khi ở lại Diên An, ông t́m đường đi xuống phía nam để đến Trùng Khánh, nơi ấy ông tham gia vào đại đội của Chu Ân Lai vào đầu năm 1939. [26] King Chen nhớ lại rằng ông đă tham gia vào đoàn tuỳ tùng của tướng Diệp Kiếm Anh, vị tướng này sau khi rút lui khỏi Vũ Hán đă được bổ nhiệm trông coi Khoá Đào Tạo Chiến Tranh Du Kích Tây Nam tại Hành Dương (Heng Yang ‐ ND) thuộc tỉnh Hồ Nam [27]. Một tài liệu của Trung Quốc về hoạt động của Hồ trong tập đoàn Bát Lộ Quân nhấn mạnh rằng ông đă di chuyển dưới sự bảo trợ của ĐCS Trung Quốc, và đă nói rằng ông cũng hoàn tất mọi nhiệm vụ thường nhật trong một văn pḥng liên lạc, ở tại Quế Lâm cũng như Hành Dương, khoảng 350 dặm về phía bắc. Văn pḥng liên lạc Quế Lâm có lẽ đă được dùng làm nơi thu thập tin tức t́nh báo cho ĐCS Trung Quốc v́ nó nằm ngoài khu vực hoạt động của Bát Lộ Quân. Hồ được cho là đă giữ nhiệm vụ ʺvệ sinhʺ, có thể là ông đă mang chức vụ của một sĩ quan y tế công cộng; ông trông nom pḥng bảo tàng của cơ quan, xuất bản một tờ báo nhỏ cho đơn vị, nghe ngóng tin tức từ đài ngoại quốc, trong suốt thời gian ấy ông vẫn giấu ḿnh như một sĩ quan Trung Quốc với âm giọng Quảng Đông. Tài liệu này nói rằng Hồ đă ở Hành Dương từ ngày 20 tháng 6 đến ngày 20 tháng 9 năm 1939 để làm giảng viên cho khoá đào tạo thứ hai của Trung Tâm Du Kích [28].

    Sự miêu tả ở trên về những hoạt động của Hồ tại Trung Quốc đă không đồng điệu với bức tranh tô vẽ về nhà lănh đạo cộng sản nổi tiếng đang hồi hương để nắm lấy quyền lực trong đảng ḿnh. Sự hỗn loạn do chiến tranh tại Trung Quốc chắc chắn đă làm cho công tác của ông càng thêm phức tạp. Nhưng có lẽ những tranh chấp và mâu thuẫn về chính kiến bên trong đảng cũng đă góp phần khó khăn trong việc ông thiết lập liên lạc với ĐCS Đông Dương. Theo lời của chính ông, Hồ đă đến Quế Lâm vào khoảng tháng 2 1939. Rơ ràng là ông đă nản ḷng khi ông viết một bản tường tŕnh dài cho Moscow vào tháng 7 năm ấy. Bảy tháng sau khi ông về đến Trung Quốc, ông viết, nhưng ông vẫn chưa hoàn thành được nhiệm vụ của ḿnh (bức thư này không nhắc đến nhiệm vụ của ông tại Hành Dương).

    ʺTôi đă làm ǵ trong suốt 7 tháng qua?ʺ ông viết. ʺNhờ bạn bè giúp đỡ tôi đă bắt đầu t́m kiếm nhưng đă không đạt được kết quả ǵ. Rồi tôi lại t́m cách thiết lập vài mối liên lạc và việc này đă có chút kết quả... Trong khi chờ đợi và để không bỏ phí thời gian, tôi đang làm công tác phiên dịch cho Bát Lộ Quân (nghe ngóng tin tức từ đài phát thanh], làm thư kư cho đơn vị, làm chủ tịch của một câu lạc bộ và hiện nay là thành viên của hội đồng câu lạc bộ. Trong cùng lúc ấy... Tôi đă thảo ra một văn bản về Đặc Khu và viết những bài báo về những sự kiện chính trị và quân sự, về sự tàn bạo của quân Nhật, về sự anh dũng của những chiến sĩ Trung Quốc, về cuộc đấu tranh chống lại khuynh hướng Trotskyist, vân vân...ʺ Ông giải thích rằng từ ngày 12 tháng 2 một số bài viết của ông đă được xuất bản trong một tuần báo tại Hà Nội của ʺĐCS Đông Dương hợp phápʺ, tờ Notre Voix. (Tiếng Nói của Chúng Ta ‐ ND) ʺNhững bài viết này mang bút hiệu ʺKwilinʺ và kư tên là ʺĐường Lốiʺ, với hy vọng rằng các đồng chí lănh đạo trong đảng sẽ đoán được tác giả là ai và đang ở đâu. Nhưng hy vọng này vẫn chưa thành sự thật,ʺ ông viết. Ông đă thiết lập được những mối liên hệ tốt đẹp với vị chủ bút, người này vẫn cho rằng ông là một nhà báo người Trung Quốc. Măi cho đến cuối tháng 7, ông nói, ông mới có thể gửi địa chỉ của ḿnh cũng như những chỉ thị của QTCS đến Uỷ Ban Trung Ương qua một người bạn và vị chủ bút của tờ Notre Voix. [29] Bản tường tŕnh gửi theo sau bức thư này đă viết về hiện trạng chính trị tại Việt Nam từ năm 1936 là một tài liệu dài 8 trang đánh máy với đầy đủ những thông tin về báo chí, bầu cử, đ́nh công và những phong trào chính trị khác. Ông nói rằng ông đă chọn lọc dữ kiện và thông tin từ việc đọc những tờ báo như Notre Voix và Đời Nay, một tờ báo hợp pháp khác của đảng tại Hà Nội do Trần Huy Liệu chủ biên. Nhưng ta tự hỏi rằng không biết ông đă có những nguồn thông tin trực tiếp nào khác.

    Giải thích của Hồ về những tiếp xúc của ông với Việt Nam đă tạo ra vài nghi vấn. Có thể thật sự rằng từ tháng 2 đến tháng 7 những ʺđồng chí lănh đạoʺ của ĐCS Đông Dương vẫn chưa đoán được ai là ʺĐường Lối Đảngʺ? V́ trong lúc ấy, chủ biên của tờ Notre Voix là Vơ Nguyên Giáp, người đă lấy em gái của Nguyễn Thị Minh Khai vào năm 1939 [30]. Vào năm 1937 báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy Giáp đă kiên quyết giữ vững lập trường về sự cần thiết phải thành lập một mặt trận dân chủ thống nhất và ngay cả có lúc đă cổ vũ việc thành lập một bộ phận hỗn hợp của ĐCS Pháp tại Việt Nam để đảm nhiệm những hoạt động tổ chức hợp pháp [31]. Tôi nghĩ rằng có lư do để tin rằng trong suốt năm 1939 Hồ đă liên lạc riêng rẽ với Nguyễn Thị Minh Khai hoặc một số nhà hoạt động hợp pháp có chung quan điểm với bà. Như chúng ta sẽ thấy, đến cuối năm 1939 bà đă lên đường sang Trung Quốc để gặp Hồ. Một nguồn thông tin của Hồ vào thời gian này có thể là từ những mối liên lạc giữa ĐCS Trung Quốc và Lê Hồng Phong tại Sài G̣n. Nhưng Phong đă bị bắt vào ngày 22 tháng 6 1939 và bị tuyên án 6 năm tù và 3 năm quản thúc tại gia v́ tội xử dụng căn cước giả [31]. Cuốn sách của Hoàng Tranh về thời gian của Hồ tại Trung Quốc, được trích dẫn ở trên, nói rằng ông đă tiếp xúc với một trung gian người Trung Quốc thường đi lại giữa Quế Lâm, Hải Pḥng và Hồng Kông. Phái viên này tên là Lư Bội Quân, có nhiệm vụ đem cho Hồ một máy đánh chữ hiệu Baby Hermes với bàn phím tiếng Pháp trong một chuyến đi của ông đến Hải Pḥng. Nhưng ông đă không nhận là đă đại diện cho Hồ để liên lạc với ĐCS Đông Dương măi cho đến mùa thu 1939 [33].

    Mâu thuẫn nội bộ trong ĐCS Đông Dương về chiến lược lại nổi lên vào mùa hè 1939. Một cuộc bút chiến trong giới báo chí cộng sản đă bắt đầu sau khi những ứng cử viên của Mặt Trận Dân Chủ Thống Nhất là Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo và Vũ Công Tôn bị phe Trotskyist đánh bại trong cuộc bầu cử vào Hội Đồng Thuộc Địa Sài G̣n tháng 4 1939. Cuộc tranh luận đă làm cho ba người trong nhóm được gọi là cộng sản Stalinist: Nguyễn Văn Tạo, Lê Hồng Phong và Nguyễn Văn Cừ xoay sang chống lại nhau. Một lần nữa vấn đề chủ chốt được đưa ra về việc ĐCS Đông Dương nên liên hệ ra sao với những đảng phái tư sản cách tân. Nguyễn Văn Tạo, một người cộng sản hợp pháp từng đại diện cho Việt Nam tại Đại Hội QTCS Lần thứ 6 vào năm 1928, đă viết trên tờ Đông Phương Tạp Chí rằng những người cộng sản nên dùng đường lối cứng rắn hơn để chống lại đảng Lập Hiến vừa thắng được 3 ghế hội đồng. Một cây viết được nhận dạng là Lê Hồng Phong, với bút danh là ʺT.B.ʺ hoặc ʺTri Binhʺ đă viết trong một vài số của tờ Dân Chúng để bảo vệ đường lối của ĐCS Đông Dương. [34] Tác giả đă lập luận rằng không cần phải tấn công những đảng phái và giai cấp bản xứ miễn là chúng không phải là phản động. Ông đổ lỗi về những thất bại của ĐCS Đông Dương trong cuộc bầu cử là do sự phá hoại của chính quyền thuộc địa (trên thực tế những nhân viên chủ chốt của tờ Dân Chúng đă bị bắt giữ trong thời gian bầu cử [35]).

    Nhưng Tổng Bí Thư ĐCS Đông Dương Nguyễn Văn Cừ đă viết một tập tài liệu nhan đề Tự Chỉ Trích trong đó ông phân tích cả hai quan điểm. Trong một lần giới thiệu về tập tài liệu này, ông có nhắc đến rằng nguyên thuỷ ông đă từng gửi tài liệu này để đăng tải trên tờ Dân Chúng tại Sài G̣n, nhưng v́ lư do nào đấy bài báo đă không được in. Ông bèn cho in dưới dạng tập tài liệu tại nhà xuất bản của tờ Dân Chúng ở Hà Nội v́ họ dễ dăi hơn [36]. Ông đă chỉ trích ʺT.B.ʺ là đă đưa ra ʺnhận định cá nhânʺ chứ không phải là ʺư kiến chung của toàn Đảngʺ [37]. Ông nói một phần trách nhiệm về việc thất bại trong cuộc bầu cử nằm trong việc ĐCS Đông Dương đă quá chú trọng đến hiểm hoạ của phát xít Nhật và đă không đề cập đầy đủ đến sự đàn áp của ʺnhững lực lượng thực dân phản độngʺ đối với quần chúng [38]. Ông viết rằng sai lầm của T.B. là người này đă không phân biệt sự khác nhau giữa một đảng cách tân và một đảng phản động [39] (tác giả đă không nhắc đến rằng tại cuộc bầu cử hội đồng thành phố Hà Nội vào tháng 4, một danh sách ứng cử viên do lực lượng cánh tả dưới sự chở che của SFIO (Đảng Xă Hội Pháp ‐ ND) đưa ra và đă không có phe đối lập tranh cử). Trong khoảng thời gian của tháng 6 1939, Sở Liêm Phóng được tin tập tài liệu dài 10 chương tên Dự Thảo Tranh Luận đang được Xứ Uỷ Trung Kỳ phát tán bởi đến các tỉnh uỷ của ḿnh. Theo tài liệu này th́ đường lối của đảng là ủng hộ việc thành lập một mặt trận dân chủ ‐ nhưng mặt trận này sẽ phải được h́nh thành trong ʺnhững phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúngʺ. Mặt Trận Dân Chủ sẽ là một h́nh thái đấu tranh giai cấp và cũng là một phong trào phản đế. [40] Khái niệm này dường như là do Nguyễn Văn Cừ đề xướng.

    Khi đọc những bài viết do Hồ Chí Minh gửi cho tờ Notre Voix, ta có thể thấy rằng t́nh trạng mà ông đang nằm giữa cuôc chiến tranh Hoa ‐ Nhật đă khác xa rất nhiều hiện t́nh tại Sài G̣n với những cuộc bầu cử. Ông đang lao vào soạn thảo những tài liệu tuyên truyền thời chiến để kêu gọi xây dựng hậu thuẩn cho Trung Quốc cũng như niềm tin vào khả năng chống lại người Nhật của họ. Vào cuối tháng 2 ông đă viết về phiên họp thứ ba của Hội Đồng Chính Trị Quốc Gia Trung Quốc. Đây là cuộc họp đầu tiên kể từ sau việc đào thoát của cựu chủ tịch Uông Tinh Vệ, một cựu lănh đạo của Quốc Dân Đảng thiên tả. Hồ đă trích dẫn những tuyên bố của Mao và Tưởng Giới Thạch để cho thấy việc hợp tác chặt chẽ giữa hai đảng chính trong mặt trận quốc gia chống Nhật. Ông giải thích rằng hội đồng đă họp ʺvào thời điểm khi mà những khuynh hướng cầu bại mà đại diện là Uông Tinh Vệ, đă ngóc đầu lên sau thất bại tại Quảng Châu và Hán Khẩu‐ đă bị đập tan hoàn toàn bởi sự đoàn kết và quyết tâm của nhân dân taʺ [41]. Vào thời điểm này đa số những người cộng sản tin rằng ư chí kháng Nhật của Quốc Dân Đảng là rất bấp bênh. Những đảng viên ĐCS Đông Dương gắn bó gần gũi với cuộc đấu tranh của Trung Quốc (Lê Hồng Phong, nguyên thuỷ là một đảng viên ĐCS Trung Quốc, chắc hẳn là người trong số đó) chắc có thể đă không tin tưởng hơn so với thời kỳ trước chiến tranh để lo nghĩ đến mức độ phức tạp về chính trị của những đảng phái Việt Nam mà giờ đây đang sẵn sàng tham gia vào một mặt trận chống phát xít. Nhưng bên trong Việt Nam, đặc biệt là ở miền nam, những vấn đề như sự tăng cường mộ lính người Việt sang châu Âu cũng như những sưu thuế của chính phủ thuộc địa đă trở nên quan trọng hơn là việc Nhật đang xâm lược Trung Quốc.

    Rơ ràng là Hồ đă rất nhạy bén khi biểu lộ ḷng trung thành của ḿnh đối với Stalin và tách ḿnh ra khỏi giới lănh đạo thiên tả của Quốc Dân Đảng, những người đă chạy trốn sang Hà Nội vào cuối năm 1938. Những bức thư của ông gửi cho tờ Notre Voix bao gồm những trích dẫn tuyên truyền tương đối tàn độc đả phá phái Trotskyist từ những phiên toà độc diễn ở Moscow. Ông cũng đă nhắc đến những phiên toà cáo buộc giới Trotskyist tại Đặc Khu Diên An vào năm 1937. Suy nghĩ thật sự của ông đối với những phiên toà này vẫn là một điều bí ẩn. Nhưng ông đă dẫn ra sự kiện năm 1937 khi những người Trung Quốc Trotskyist đă lên án việc cộng sản kêu gọi thành lập mặt trận thống nhất với Quốc Dân Đảng là một sự phản bội. [42] Tổng cộng ông đă viết 4 bài báo ở Quế Lâm đả phá phái Trotskyist. Trong tập tài liệu viết năm 1939 Nguyễn Văn Cừ cũng đă nhấn mạnh mối đe doạ từ phái Trotskyist cần phải được nh́n nhận thấu đáng. Ta nên nhớ rằng tại Việt Nam, cuộc đấu tranh chống phái Trotskyist vẫn là một tranh chấp chính trị nhằm tranh giành ảnh hưởng mà trong đó cả hai bên đều có những vũ khí như nhau đó là diễn thuyết và báo chí.

    T́nh h́nh quốc tế thay đổi

    Đến tháng 8 vàng tháng 9 1939 t́nh h́nh chính trị thế giới đă góp phần mạnh mẽ hơn bao giờ trong những tranh luận nội bộ của ĐCS Đông Dương. Ngày 23 tháng 8 Hiệp Ước Molotov - Ribbentrop được kư kết, ngay lập tức đă tạo điều kiện cho những người cộng sản thân Moscow liên minh với nước Đức Quốc Xă. Chiến tranh nổ ra ở châu Âu khi Đức tấn công Ba Lan vào ngày 1 tháng 9. Ngày 28 tháng 9 Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương đă đặt ĐCS Đông Dương và những tờ báo của nó ngoài ṿng pháp luật. Trong những tuần lễ kế tiếp người Pháp bắt đầu ruồng bố những thành viên cộng sản, cả Trotskyist lẫn Stalinist, việc bắt giữ này đă tiếp tục trong suốt mùa thu và đến năm 1940. Nhưng trong khi mối quan hệ hữu nghị giữa Liên Xô và Đức thường được xem gần như là một thảm hoạ cho ĐCS Đông Dương,[43] đă có bằng chứng rằng nhiều thành viên ĐCS Đông Dương đă phải lẩn trốn vào cuối tháng 10 và đă t́m cách lợi dụng hoàn cảnh chính trị mới. Hiệp ước Quốc Xă ‐ Liên Xô đă tạo điều kiện cho những người cộng sản một lần nữa đứng lên kiên quyến chống lại đế quốc Pháp. Trong thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ, họ đă bị ép buộc phải ủng hộ những cương lĩnh bảo vệ nước Pháp cũng như những nỗ lực chiêu mộ lính tại Đông Dương. Giờ đây một lần nữa họ đă có thể hoạt động để khuấy động tinh thần phản chiến trong hàng ngũ binh lính người Việt trong quân đội Pháp, vào thời điểm mà việc tuyển mộ lính ngày càng ít được ủng hộ [44].

    Vấn đề lănh đạo đảng ngày càng trở nên phức tạp trong giai đoạn này v́ nhiều người cầm đầu trong nước bị bắt giữ và việc liên lạc giữa miền nam và miền bắc đă trở nên khó khăn hơn. Tại Trung Quốc, vào tháng 11, quân Nhật đă tiến về phía tây đến Nam Ninh và Long Châu, hầu như gần sát biên giới Việt Nam. Nguồn tài liệu của cộng sản Trung Quốc nói rằng Hồ Chí Minh đă t́m cách bắt liên lạc với đại diện của ĐCS Đông Dương ở Long Châu trong khoảng mùa thu 1939, nhưng phái viên ấy đă phải quay về Việt Nam sớm v́ đă bị cướp hết sạch tiền. [45] Sau khi đợi hết 3 ngày, Hồ quay về lại Quế Lâm. Câu chuyện này có thể là chính xác nhưng đă không cho ta biết được toàn cảnh bức tranh về nỗ lực của Hồ trong việc bắt liên lạc với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương. Vào tháng 4 1940 Sở Liêm Phóng đă t́m thấy một bức thư bí ẩn mà họ tin rằng là mang chữ viết của Nguyễn Thị Minh Khai khi họ khám xét ngôi nhà của một đảng viên tại Gia Định. Giọng văn mạnh mẽ và mang tính phê phán đối với Uỷ Ban Trung Ương thật đáng ngạc nhiên. Nó được viết cho những đại biểu của một cuộc họp mà bà có quyền tham dự nhưng lại không có quyền biểu quyết. Bà nói rằng trong hai năm qua bà đang làm việc với những ʺbộ phận lănh đạoʺ, v́ thế ta có thể đoán được rằng bức thư đă được viết trong khoảng thời gian của Hội Nghị Lần 6 ĐCS Đông Dương được tổ chức tại Hóc Môn vào tháng 11 1939. Bức thư viết:

    Các Đồng Chí!

    Chúng ta cần phải phân công gấp một người để đưa L. về! Tại sao lại có những bất cập như thế này? Các đồng chí vẫn chưa quyết định được điểm hẹn. Có nghĩa là L. đă phải chờ đợi một thời gian dài mà không có ai đón ông cả. Tôi đang mong chờ việc đem ông ấy về nhưng tôi vẫn không biết nơi gặp gỡ ở đâu và hơn nữa tôi vẫn chưa nhận được bất cứ chỉ thị nào về việc này. [...]

    Tại Trung Quốc đang xảy ra những sự kiện trọng đại có thể ảnh hưởng đến Uỷ Ban Trung Ương của chúng ta. Chúng ta phải giải quyết vấn đề này và vấn đề tài chính cũng rất quan trọng. Chúng ta đang có khoảng vài trăm đồng bạc (đồng Piaster ‐ ND) và vẫn đang đợi quyết định từ Uỷ Ban Trung Ương hoặc Kỳ Uỷ. Các đồng chí phải gửi một người đáng tin cậy đến để lấy tiền. Uỷ Ban Trung Ương sẽ được yêu cầu bố trí công tác một cách cụ thể hơn. V́ cứ như thế này th́ đôi lúc chúng ta đă cố gắng rất nhiều nhưng kết quả lại không được bao nhiêu v́ sự phân chia không đồng đều trong công việc.

    Tôi biết đây chỉ là ư kiến của một nữ lưu, dù người ấy có lư và phẩm chất chính trị vẫn không tạo được đủ tin tưởng. Nhưng tôi nghĩ rằng v́ trước đây tôi đă làm việc với các đồng chí ở đây, tôi đă chưa có những đề xuất hoặc làm những việc ǵ đi ngược lại với tiêu chí hoặc chủ trương của Đảng [46].

    Giọng văn đầy quyền lực của bức thư làm ta đoán được rằng Minh Khai đă tự nhận bà là đại diện của QTCS hoặc của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại của ĐCS Đông Dương. Với việc Lê Hồng Phong đang bị bắt giữ, trách nhiệm này hiển nhiên đă được đặt trên vai bà. Nhưng như bức thư của bà đă nói rơ, những thành viên trong đảng đă không thích nhận chỉ thị từ một phụ nữ; có thể họ nghĩ rằng bà đă bất tuân thượng lệnh và đă liên lạc với ʺL.ʺ hoặc những đồng minh của ḿnh tại Bắc Kỳ như Giáp, em rể của bà. Khi bức thư này được viết, Sở Liêm Phóng đă cho bà là ʺvợ bé của Lê Hồng Phongʺ. Hai người đă ở chung một nhà tại Chợ Lớn và có thể ít nhất là đă đóng vai vợ chồng. Dù sao trong năm 1937 người Pháp đă cho rằng bà đă có gia đ́nh nhưng không sống chung với chồng [47]. Từ việc Hồ Chí Minh đang gặp khó khăn trong việc liên lạc với Uỷ Ban Trung Ương, khả năng rất lớn là người mang tên ʺL.ʺ trong bức thư của bà thật sự là ʺLinʺ. Bức thư có thể đă được viết khi việc kết nối liên lạc tại Long Châu bị thất bại, trước khi người Nhật chiếm giữ thị trấn này vào cuối tháng 11 / 1939.

    Hội Nghị Lần 6 và cuộc khởi nghĩa năm 1940

    Nguyễn Văn Cừ từ Hà Nội đến Sài G̣n vào mùa thu 1939 để tham gia Hội Nghị Lần 6 của ĐCS Đông Dương (ông đă bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ vào mùa hè 1938, không bao lâu sau khi ông đảm nhiệm chức vụ mới [48]). Đây là cuộc họp cuối cùng của Uỷ Ban Trung Ương trước khi cuộc khởi nghĩa 1940 từ đó tạo nên sự thay đổi lớn trong hệ thống lănh đạo đảng. Bản thân Nguyễn Văn Cừ bị bắt vào tháng 1 1940 cùng với Lê Duẩn, một cựu tù Côn Đảo hoạt động tại Sài G̣n trong năm 1939 [49]. Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn và Vơ Văn Tần là ba thành viên thường được nhắc đến là đă tham gia trong cuộc họp được tổ chức từ ngày 6 ‐ 8 tháng 11 tại Hóc Môn. Hoàng Quốc Việt dường như đă không tham gia v́ ông đang lẩn trốn ở phía bắc Hà Nội; đại diện của Uỷ Ban Trung Ương Trung Kỳ là Nguyễn Chí Diểu trong lúc ấy đang nằm liệt v́ bệnh lao. Một thành viên khác đă tham gia là Tạ Uyên, người gốc Ninh B́nh, đang hoạt động tại miền nam sau khi ông vượt ngục Côn Đảo vào năm 1935. Là thành viên của thành phần nguyên thuỷ của ĐCS Đông Dương từ năm 1929, lư lịch của ông cho biết là ông đang là bí thư Xứ Uỷ Nam Kỳ vào thời gian ông bị bắt vào tháng 10 1940. [50] Minh Khai dường như không phải là thành viên Uỷ Ban Trung Ương trong giai đoạn này mặc dù trong năm 1940 người Pháp đă xác nhận bà là bí thư Uỷ Ban Trung Ương.

    Hội Nghị lần 6 đă có phản ứng đối với những thay đổi của t́nh h́nh thế giới vào cuối năm 1939 bằng cách kêu gọi việc thành lập một Mặt Trận Thống Nhất Phản Đế. Giải phóng đất nước giờ đây trở thành mục tiêu trọng yếu của ĐCS Đông Dương. Trong một văn bản phát hành vào tháng 12, những người cộng sản đă kêu gọi ʺnhững lực lượng đấu tranh của giai cấp vô sản, nhân dân lao động của những quốc gia nhỏ béʺ đứng lên chiến đấu, ʺdập tắt ngọn lửa chiến tranh bằng cách tiêu diệt nguồn gốc của nó là hệ thống tư bản đế quốcʺ [51]. Bản tuyên ngôn kêu gọi chấm dứt việc gửi lính Việt sang Pháp và những nước khác; nó cũng kêu gọi thành phần cộng sản ủng hộ Liên Xô cũng như những cuộc cách mạng tại Pháp, Trung Quốc và trên thế giới[52]. Theo phiên bản được công bố vào năm 1983 về Nghị Quyết Hội Nghị lần 6, cuộc họp này đă khôi phục chính sách ôn hoà trong thời kỳ 1930 của Hồ Chí Minh về vấn đề tịch thu ruộng đất [53]. Nhưng tương phản với những tuyên bố từ Hội Nghị lần 8 vào năm 1941, những tài liệu của năm 1939 vẫn chủ yếu nhắm vào tầng lớp công nông và dân chúng. Một mặt ĐCS Đông Dương đang quay lại những lĩnh vực quen thuộc mà những nhà hoạt động như Hồ Chí Minh có thể nhớ lại phong trào phản chiến trong thời kỳ Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất. Trong thời gian ấy tầng lớp xă hội thiên tả và Bolshevik đă không thừa nhận những mục tiêu chiến tranh của tầng lớp thống trị. Trong khi đó, đảng hiện đang đứng trên lập trường mà nhờ đó có thể gần gũi hơn với thành phần cánh tả của ḿnh trong khi đang chuẩn bị vị thế để quay lại những cuộc đấu tranh bạo lực hơn nhằm lật đổ quyền lực của Pháp.

    Sau việc Nguyễn Văn Cừ bị bắt vào tháng 1 1940 không rơ là chiếc ghế lănh đạo đang trống đă được thay thế ra sao. Việc Cừ biến khỏi sân khấu chính trị dường như đă tạo ra cơn khủng hoảng trong ĐCS Đông Dương vốn vẫn chưa giải quyết xong cho đến Hội Nghị lần 8 vào năm 1941. Có thể là vào năm 1940 hai xu thế khác nhau bên trong đảng lại nổi lên, tương tự như việc chia rẽ của Thanh Niên Hội thời gian 1928‐9. Trong khoảng tháng 3 hoặc tháng 4, Vơ Văn Tần bị bắt, làm mất đi một lănh đạo chủ chốt [54]. Đến năm 1940, hai nhà hoạt động hợp pháp tại Bắc Kỳ là Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng bắt đầu đảm nhận vai tṛ liên lạc giữa Uỷ Ban Trung Ương và những người cộng sản ở miền nam Trung Quốc. Trong lúc ấy tại Nam Kỳ phong trào chống Pháp được hồi sinh và đă xem việc kết nạp thành viên trong hàng ngũ quân đội là một trong những nhiệm vụ chính của ḿnh. Khó có thể nói được những ǵ đang xảy ra tại Vân Nam và Quảng Tây đă được điều phối chặt chẽ ra sao với những hoạt động tại Nam Kỳ cũng như những vùng khác tại Việt Nam. Những thành viên cộng sản cố gắng t́m cách đến Côn Minh để gặp Hồ Chí Minh và Ban Chỉ Huy Hải Ngoại trong năm 1940 là những người có quan hệ mật thiết nhất với những chính sách của Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ. Ngoài Giáp và Đồng, những người này bao gồm cựu đảng viên Tân Việt là Phan Đăng Lưu. Một phụ nữ có tên là Lư Thị Lan được thấy đă có gặp Hồ Chí Minh tại Vân Nam vào tháng 5 và tháng 6 1940. Điều đáng lưu ư là một báo cáo của người Pháp vào tháng 6 có nhắc đến việc ĐCS Đông Dương đă ʺcó ư định sử dụng thành viên nữ nhiều hơn nữa trong công tác tuyên truyền và liên lạcʺ [55].

    Vào tháng 6 1940 những chi bộ của ĐCS Đông Dương trong và ngoài nước cuối cùng đă tập hợp lại với nhau. Hồ Chí Minh đă đến Vân Nam, thủ phủ của Côn Minh vào đầu năm. Sau khi thất bại trong việc bắt liên lạc với ĐCS Đông Dương vào mùa thu 1939, ông được cho là đă quay lại Quế Lâm và t́m cách đến Quí Dương (Gui Yang ‐ ND) và Trùng Khánh (Chong Qing - ND). Tại đấy ông đă gặp lại Chu Ân Lai một lần nữa, theo tài liệu của Trung Quốc. [56] Với việc thay đổi chính sách th́nh ĺnh của Moscow vào tháng 8 1939, những người Việt chắc hẳn đă rất nôn nóng học hỏi cách áp dụng chiến thuật của riêng họ. (Hẳn là Hồ đă gặp Chu trước khi Chu đi Moscow vào đầu năm 1940 [57]). Tài liệu của Việt Nam viết rằng Hồ cũng gặp Hồ Học Lăm, người đồng hương của ông tại Trùng Khánh, Lăm vẫn c̣n nằm trong Bộ Tổng Tham Mưu của Quốc Dân Đảng [58].

  3. #63
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P7

    Những người cộng sản Việt Nam đang biến Côn Minh trở thành trung tâm hoạt động của ḿnh là những thành phần bao gồm những cựu học viên Thanh Niên tại Quảng Châu và những cựu đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng đang nương náu tại Vân Nam từ năm 1930. Trong số những thành viên Thanh Niên th́ Hoàng Văn Hoan và Phùng Chí Kiên là hai người nổi bật nhất.

    Giống như Hồ Chí Minh, Kiên vẫn được xem là thành viên của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương cho đến năm 1938. [59] Ông đă trở thành người đứng đầu của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại vừa được tái thiết. Lai lịch của hai thành viên khác trong nhóm này là Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) và Cao Hồng Lĩnh hoặc Lành th́ ít rơ ràng hơn. Cả hai rơ ràng đều là những người cộng sản thuần thành và thông thạo tiếng Hoa. Có thể họ là những người trong nhóm Nam Kinh chung quanh Hồ Học Lăm. Vào năm 1935 Vũ Anh và một cựu đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng là Trần Hồ Kinh đă được ĐCS Đông Dương gửi đi để xây dựng một tổ chức cộng sản tại Vân Nam. Họ đă kết nạp hai học viên tại trường đào tạo sĩ quan Côn Minh là Bùi Đức Minh và Lê Tùng Sơn, những người này đang bất măn với giới lănh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng [60]. Hai người này đă trở thành trụ cột của nhóm cộng sản hải ngoại, Bùi Đức Minh là người dẫn đường cho Giáp và Đồng khi họ đến Côn Minh vào tháng 5 1940. Có thể vẫn c̣n một số đông công nhân có liên hệ với Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Vân Nam vào năm 1940, dọc theo tuyến đường sắt Hà Nội ‐ Côn Minh. Mặc dù mặt trận thống nhất đang hiện hữu tại Trung Quốc, những người cộng sản vẫn thường dùng một tổ chức trá h́nh nào đấy để tránh bị những người Quốc Dân Đảng địa phương quấy rầy. Một số tài liệu của Việt Nam cho biết Hồ Chí Minh và Phùng Chí Kiên đă thực hiện một chuyến kiểm tra dọc theo tuyến đường sắt Vân Nam vào tháng 4 1940. Hồ khuyến khích giới cộng sản Việt Nam tăng cường công tác tuyên truyền dọc theo tuyến đường, kêu gọi dân chúng Việt Nam ʺchống lại người Pháp và ủng hộ Trung Quốc kháng Nhậtʺ, dùng vỏ bọc của ʺHiệp Hội Người Việt Ủng Hộ Cuộc Kháng Chiến Trung Quốcʺ để che đậy những hoạt động của ḿnh [61].

    Vơ Nguyên Giáp kể lại rằng ông và Phạm Văn Đồng đă đáp tàu hoả từ Hà Nội vào đầu tháng 5 1940. Họ gặp Bùi Đức Minh tại Yên Bái, Minh đưa họ đi chặng sau bằng đường sông. Sau khi băng qua sông tại Lào Cai để qua Trung Quốc, họ ăn mặc như người Trung Quốc để tiếp tục cuộc hành tŕnh đến Côn Minh. [62] Điều kỳ lạ là vào ngày 13 tháng 5 Sở Liêm Phóng nhận được một báo cáo rằng ʺmột người nhập cư vừa đến từ Tây An, Trần Bá Quốcʺ, và Lư Thị Lan đă rời Vân Nam Phủ bằng tàu hoả vào ngày 12 tháng 5. Họ dự định sẽ đi đến biên giới Việt Nam và đi bộ qua Việt Nam, bản báo cáo cho biết. Người đàn ông ăn vận như một học giả và người đàn bà mặc trang phục Khách Gia (Hakka ‐ ND) [63]. Người Pháp nhận diện người đàn ông này là Hồ Chí Minh. Có thể là Hồ Chí Minh đă hy vọng gặp được hai đại diện từ Hà Nội tại biên giới. Nhưng theo lời kể của Giáp, ông và Đồng đă đợi ở Côn Minh cho đến đầu tháng 6 trước khi Hồ, giờ được gọi theo bí danh cũ từ Hồng Kông là Vương, xuất hiện. Vào thời điểm này th́ tài liệu của Việt Nam không cho biết rơ về cuộc thảo luận đă xảy ra sau đó. Nhưng có một bản báo cáo dài và yêu cầu trợ giúp mà Hồ soạn thảo gửi cho ĐCS Trung Quốc vào tháng 7 1940 có thể là kết quả của một quyết định chung đạt được trong tháng đó. Báo cáo của Sở Liêm Phóng vào tháng

    12 1940 cho biết rằng Phan Đăng Lưu đă thú nhận sau khi bị bắt rằng ông cũng có mặt tại Vân Nam vào tháng 6. [64] Một báo cáo khác của Sở Liêm Phóng vào ngày 9 tháng 6 1940 đă đề cập về việc ʺnhững người cộng sản Đông Dương đang trở về nướcʺ. Báo cáo đă nhắc đến có 4 người đồng hành là: Trần Bá Quốc, Lư Thị Lan (bản báo cáo khẳng định người này không phải là Nguyễn Thị Minh Khai, c̣n được biết đến như Cô Duy, Lư Minh Xuân hoặc Trần Thị Lan), Dương Bá Linh và Nguyễn Công Nam [65]. Lúc Giáp và Đồng c̣n ở Trung Quốc thường lấy bí danh là Dương Hoài Nam và Lâm Bá Kiệt. V́ thế chúng ta không thể chắc chắn bốn nhân vật này là ai. Danh phận của người phụ nữ vẫn là một bí ẩn nhưng người Pháp có lẽ cũng quá hấp tấp khi kết luận rằng người này không phải là Minh Khai. Họ đă không có bằng chứng chắc chắn về dấu vết của bà từ hội nghị vào mùa thu 1937 cho đến khi bà bị bắt tại Chợ Lớn vào hạ tuần tháng 7 1940, mặc dù họ tin rằng bà đă sinh một bé gái vào đầu năm 1939. Đến tháng 5 1940 bà bị chỉ điểm của Sở Liêm Phóng nhận diện là bí thư Uỷ Ban Trung Ương, v́ thế việc bà tham gia vào nhóm người đi Vân Nam là rất có lư [66].

    Báo cáo của Hồ về t́nh h́nh Đông Dương cùng với yêu cầu trợ giúp đề ngày 12 tháng 7 1940, được tŕnh bày với phong cách vô cùng cặn kẽ theo khuôn khổ của QTCS. Nó bao gồm một phân tích về hiện t́nh chiến lược tại Đông Dương và thái độ của quốc tế về tương lai của vùng này. Tác giả báo cáo viết rằng vào cuối năm 1929 ông quay về Hồng Kông để tổ chức một hội nghị gồm các thành phần cộng sản, ta có thể giả định rằng tác giả chính là Hồ Chí Minh. Ông liên hệ việc Pháp đầu hàng Đức vào ngày 16 tháng 6 1940 là ngày mà tất cả người Việt đều vui mừng, tin rằng thời điểm thuận tiện để lật đổ ách thống trị của Pháp đă đến. ʺVề việc này chúng tôi chỉ thiếu những người lănh đạo và tổ chức. Và tại sao ĐCS không lănh lấy trách nhiệm tổ chức và lănh đạo này? Bởi v́ 80 ‐ 90% các đảng viên kỳ cựu đă bị bắt, và những đảng viên mới không có đủ kinh nghiệm hoặc thực lực. Vấn đề là để kêu gọi nhân dân đứng lên chúng tôi cần một người có ảnh hưởng, một người sẽ tiến công một cách quyết đoán và mạnh mẽʺ [67]. Phân tích của Hồ về chủ ư của Nhật cho thấy rằng ông đă không nh́n trước được mối hợp tác giữa Nhật và chính phủ Vichy của Pháp để đô hộ Đông Dương sẽ được thiết lập vào tháng 9 1940. ʺHiện tạiʺ, ông viết, ʺNhật đang cố gắng để nắm lấy nước nàyʺ (Đông Dương). Người Nhật đă cách Hà Nội chỉ 3 giờ đồng hồ, trong khi lực lượng đặc nhiệm của họ đang sẵn sàng đổ bộ vào Hải Pḥng bất cứ lúc nào, ông nói. Mặc dù chính quyền tại Đông Dương đă tuyên bố ủng hộ Hội Đồng London của nước Pháp Tự Do, ông lưu ư rằng trên thực tế họ đang đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác đối với người Nhật. [68] Nhưng ông lại kết luận rằng, mặc dù Nhật đang mạnh, họ không thể dùng toàn bộ lực lượng để bảo hộ Đông Dương, v́ bộ máy quân sự khổng lồ của họ đang đang bị trói chân trong cuộc chiến tại Trung Quốc. Quân đội Pháp tại Đông Dương nói chung đa phần bao gồm binh lính bản xứ, ông chỉ ra, và ʺnếu chúng ta có thể kêu gọi họ được, họ ‐ hoặc ít nhất một số trong họ ‐ sẽ chống lại người Pháp (hoặc ngay cả Nhật].ʺ Ông cũng lưu ư rằng các lực lượng chống Pháp có được những đồng minh lớn: ngoài Liên Xô c̣n có Trung Quốc và Ấn Độ. Một t́nh thế sẽ được thành h́nh khi nó có đủ ʺcho một người lên tiếng kêu gọi, để toàn bộ đồng đứng lênʺ. ʺNói tóm lạiʺ, ông viết, ʺnhững điều kiện khách quan đang có lợi cho thành công của chúng tôi, nhưng lực lượng chủ quan ‐ đảng của chúng tôi ‐ th́ lại rất yếu... hiện tại các đồng chí kỳ cựu đầy kinh nghiệm của chúng tôi đang rên xiết trong ngục tù. V́ thế quần chúng không có người cầm đầu và không thể lợi dụng được ʺthời cơ ngh́n năm có một nàyʺ [69].

    Để thay đổi hiện t́nh, để giúp đảng thực hiện nhiệm vụ lịch sử của ḿnh, ông giải thích rằng họ cần phải tấn công từ bên ngoài. Để làm được việc này họ cần: (1) được tự do qua lại biên giới; (2) một số vũ khí; (3) một số trợ giúp về tài chính; và (4) một vài cố vấn. Khi chúng tôi có được những thứ này, ʺchúng tôi hoàn toàn có thể tạo ra được một hậu cứ chống phát xít Nhật,ʺ ông viết. ʺNgoài ra,ʺ ông kết luận, ʺnếu chúng tôi có thể lợi dụng những mâu thuẩn bên trong bọn đế quốc để thành lập và mở rộng một mặt trận thống nhất của quần chúng bị áp bức, th́ tương lai sáng lạn cũng không c̣n xa mấy” [70] Lời yêu cầu này dường như là phương án đầu tiên để thành lập lực lượng vũ trang Việt Minh. Nó cũng có thể là dấu hiệu đầu tiên về nhân vật được biết đến là Nguyễn Ái Quốc đang chuẩn bị biến ḿnh thành vị lănh đạo quốc gia Hồ Chí Minh, ʺmột con người đầy ảnh hưởng luôn sẵn sàng ra tay tấn côngʺ. Sự yếu kém của ĐCS Đông Dương dường như đă tạo nên một khung thời gian ít nhất là 6 tháng đến 1 năm để kế hoạch nổi dậy có thể khởi sự.

    Vào mùa hè 1940, Bộ Phận 6 (chuyên nắm thông tin) của Quốc Dân Đảng Trung Quốc nhận được tin rằng một thành viên cộng sản người Việt đang t́m cách tiếp xúc với ĐCS Trung Quốc. Họ đă báo cáo rằng có một đảng viên cộng sản từ miền nam là Trần Văn Hinh đă đến Diên An và đến tháng 8, hai bên Trung Quốc và Việt Nam đă đạt được một thoả thuận tương trợ. (Không rơ rằng người này đă chuyển giao yêu cầu của Hồ Chí Minh hay đây là một tiếp xúc riêng với ĐCS Trung Quốc). Kinh Chen đă liệt kê những điều khoản trong bản thoả thuận như sau: (1) xây dựng một Mặt Trận Thống Nhất của nhân dân Hoa ‐ Việt chống Nhật; (2) mở rộng tổ chức vũ trang cộng sản và bắt đầu các hoạt động du kích; (3) liên hiệp ĐCS Đông Dương với tất cả các đảng chính trị khác trong nỗ lực thiết lập một ʺMặt Trận Thống Nhất cho Nền Độc Lập Quốc Giaʺ, (4) biến mục tiêu đấu tranh của ĐCS Đông Dương trở thành ʺChống Đế Quốc Pháp và Chống Phong Kiếnʺ; (5) gửi thành viên ĐCS Đông Dương đến Diên An để học tập tại Đại Học Kháng Nhật ; và (6) để những thành viên ĐCS Trung Quốc đang làm đại diện tại Pḥng Thông Tin Châu Á của QTCS trở thành người hướng dẫn ĐCS Đông Dương, và phụ giúp 50 ngh́n đồng Trung Quốc hằng tháng cho ĐCS Đông Dương [71]. Thoả thuận này phản ánh sự bất lực của ĐCS Pháp trong việc tiếp tục cố vấn cho người Việt, và là một khởi đầu của việc chấp nhận phục tùng của ĐCS Đông Dương đối với ĐCS Trung Quốc. Thoả thuận trên có thể là không tránh khỏi vào thời điểm này trong quá tŕnh phát triển của ĐCS Đông Dương v́ liên lạc trực tiếp với QTCS dường như đă bị giảm thiểu. (Yêu cầu trợ giúp của Hồ gửi đến ĐCS Trung Quốc đă không được dịch sang tiếng Nga măi cho đến năm 1942; việc nó có mặt trong hồ sơ của QTCS ra sao th́ không được rơ). Hồi kư của Giáp nói rằng tại Bắc Kỳ đang thảo luận việc cần thiết phải phục hồi lại Liên Hiệp Các Dân Tộc Châu Á Bị Áp Bức [72], một ư định được Hồ đưa ra trong kết luận của bản yêu cầu viện trợ của ông. Dường như tổ chức dùng làm vỏ bọc để liên kết những người cộng sản châu Á vào những năm 1925‐6 và 1928‐30 đang được cân nhắc để biến thành guồng máy cho mặt trận kháng Nhật do Trung Quốc dẫn đầu.

    Vào tháng 7 1940 người Pháp bắt đầu thu thập chứng cứ tại Nam Kỳ về mầm mống của một cuộc nổi dậy. Họ tin rằng vào cuối tháng 6 1940, Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương đă thông qua một điều lệnh chỉ đạo đảng viên chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa vũ trang [73]. Bản tường tŕnh này có thể đang nói về cuộc họp được tổ chức tại Côn Minh vào tháng 6 1940, v́ ở đó thực sự đang có nhiều thành viên của Uỷ Ban Trung Ương hơn là số thành viên c̣n lại đang lưu lạc tại Nam Kỳ. Những người này bao gồm Phùng Chí Kiên, Hồ Chí Minh, Phan Đăng Lưu và có lẽ có cả Nguyễn Thị Minh Khai. Sở Liêm Phóng cũng đă báo cáo rằng đảng Việt Nam đă gửi một thành viên người Hoa thuộc ĐCS Đông Dương đến Trung Quốc để yêu cầu ĐCS Trung Quốc hậu thuẫn cuộc nổi dậy [74]. Chúng ta không biết được việc này có phải đang nói về chuyến đi của Phan Đăng Lưu đến Vân Nam hoặc những di chuyển của ʺTrần Văn Hinhʺ được ghi nhận bởi Quốc Dân Đảng, hoặc có một mối liên hệ nào khác giữa ĐCS Trung Quốc và Nam Kỳ qua chi bộ của ĐCS Trung Quốc tại Sài G̣n hay không. Người Pháp đă có được bằng chứng chắc chắn về công tác chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi họ bắt giữ Nguyễn Thị Minh Khai tại văn pḥng của Uỷ Ban Trung Ương ở Chợ Lớn vào ngày 30 tháng 7 / 1940, cùng với người tù chính trị từng vượt ngục là Nguyễn Hữu Tiến. Họ đă thu giữ được những tài liệu mà họ miêu tả là ʺliên quan đến một cuộc nổi dậy do ĐCS Đông Dương chuẩn bị thực hiện khi ʺthời cơ thuận lợiʺ đếnʺ. Hầu hết những tài liệu trên chưa được quay rô‐nê‐ô và phân phát đến các thành viên. Một số đoạn trong số tài liệu bị tịch thu mang chủ trương chống lại quân đội Pháp v́ thế những người vừa bị bắt được giao cho toà án quân đội [75]. Sud Chonchirdsen viết rằng những tài liệu này bao gồm ʺviệc thành lập một tổ chức kháng chiến, kế hoạch phá hoại và chiến thuật du kíchʺ[76]. Những đảng viên bị bắt chung với Minh Khai là Nguyễn Hữu Tiến (Giáo Hoài), cũng như Tạ Uyên, một cựu thành viên của ĐCS Đông Dương cũ từ Hà Nam. Hai người đă cùng vượt ngục Côn Đảo vào mùa xuân 1935.

    Dường như đă có một mối liên hệ giữa cuộc họp tại Côn Minh vào tháng 6 1940, không được ghi nhận trong lịch sử đảng như là một phiên họp chính thức của ĐCS Đông Dương, và khởi đầu của phong trào kháng chiến bên trong Việt Nam. Nhưng từ những biến chuyển sau đó tại Nam Kỳ, ta có thể nghi ngờ rằng những kế hoạch mà Hồ Chí Minh đă thảo luận với các đồng chí của ḿnh và yêu cầu trợ giúp mà ông đă gửi cho ĐCS Trung Quốc đă thực sự tạo thành một sơ đồ cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, được khởi sự từ ngày 23 tháng 11 hay không. Hồ Chí Minh, một người lập kế hoạch đầy thận trọng, chắc hẳn đă không ủng hộ một lịch tŕnh cấp tốc cho cuộc khởi nghĩa đang thành h́nh ở Nam Kỳ giữa tháng 9 và tháng 11 1940. Đến năm 1930, dường như cánh duy chí trong đảng với chủ trương tạo ra một khởi nghĩa bạo lực mang tính tượng trưng trong ḷng quân đội Pháp, đă là người cầm trịch cho những sự kiện xảy ra trong những tháng mùa thu. Một nguồn tài liệu của Việt Nam cho rằng tại một cuộc họp của Xứ Uỷ Nam Kỳ được tổ chức tại Mỹ Tho vào tháng 7 1940, một nhóm đại biểu đă chủ trương hoăn khởi nghĩa v́ các lực lượng của đảng quá yếu. Nhóm người này bao gồm những đại biểu từ Sài g̣n ‐ Chợ Lớn, những tỉnh miền đông và Phan Đăng Lưu, được xem là đại diện của Nam Kỳ tại Uỷ Ban Trung Ương. Nhưng thành phần đa số đă biểu quyết tiếp tục khởi nghĩa. Đến lúc này th́ Phan Đăng Lưu đă đề nghị nên tham khảo với toàn thể Uỷ Ban Trung Ương [77]. Sau khi Phan Đăng Lưu bị bắt vào tháng 11, ông đă khai rằng cuộc khởi nghĩa đă do những thành phần cực tả trong đảng chủ trương ʺhọ đă không thèm để ư đến những lời khuyên từ Ban Chấp Hành Đảng Uỷ Nam Kỳ về việc đảng đă sẵn sàng hay chưaʺ [78].

    Một số tài liệu của Việt Nam mà cụ thể là Trần Huy Liệu cho rằng Mặt Trận Phản Đế tại phía Nam đă cực kỳ thành công trong việc chiêu dụ thành phần binh lính bản xứ. Trong bài viết của ông về cuộc Khởi Nghĩa Nam Kỳ ông nói rằng đă có một số nhóm lính tại Gia Định và Chợ Lớn, có khi đă lên đến 300 người, đă bỏ trốn vào rừng cùng với vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa chống Pháp. Vào tháng 11 1940, khi người Pháp đang chuẩn bị gửi quân đến vùng biên giới Thái ‐ Miên để chống lại việc Thái đang lấn chiếm, Liệu viết rằng có đến 15.000 (sic] binh lính người Việt tại Sài G̣n, gồm cả hai đơn vị pháo binh, đang chuẩn bị biểu t́nh phản đối việc họ phải tham chiến. Có đến hai phần ba lính người Việt sẵn sàng ʺđi theo cách mạngʺ vào thời điểm ấy, cùng với 15.000 thường dân miền nam, Liệu viết [79]. Những nguồn tài liệu khác viết rằng tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của chi bộ phía nam vào thời điểm sau Hiệp Ước Molotov‐Ribbentrop. [80] Nhưng dường như người Pháp đă nắm được thông tin của phong trào một cách dễ dàng khi nó nổ ra vào tháng 11.

    Nhật và Pháp đă đi đến thoả thuận hợp tác quân sự vào ngày 22 tháng 9 1940, trong đó cho phép Nhật giữ 6.000 quân tại Bắc Kỳ, được quyền sử dụng 4 sân bay tại Bắc Kỳ và di chuyển quân từ Bắc Kỳ đến Vân Nam. [81] Nhưng vào đêm kư kết thoả thuận, Nhật đă tấn công không lư do vào đồn biên giới Đồng Đăng của Pháp, dẫn đến 3 ngày giao chiến giữa lính Pháp và Nhật. Người Việt trong tổ chức được Nhật hậu thuẫn Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội đă tham gia trong trận chiến tại Lạng Sơn, trong khi tại huyện Bắc Sơn một cuộc nổi dậy do ĐCS Đông Dương cầm đầu đă xảy ra vào ngày 23 tháng 9. Kháng cự tại khu vực Vũ Lăng xảy ra lẻ tẻ cho đến ngày 23 tháng 10, khi người Pháp quay lại để dập tắt những chiến binh cách mạng. [82] Một lần nữa những người cộng sản thấy rơ rằng người Nhật sẽ không đánh bật người Pháp để hậu thuẫn cho các lực lượng quốc gia người Việt, mục đích ngắn hạn của Mặt Trận Phản Đế đă phải tái thẩm định.

    Khi Phan Đăng Lưu đi Bắc Kỳ để tham vấn vào tháng 10 1940, không rơ là ông đă tham gia một cuộc họp nào, hoặc quyền hạn của nó có được đảng bộ phía nam công nhận hay không. William Duiker (nhà sử học Mỹ ‐ ND) dựa trên những cuộc phỏng vấn của Hà Nội, viết rằng Lưu đă gặp những thành viên của Xứ Uỷ Bắc Kỳ, những người này vào đầu tháng 11 1940 đă tái tổ chức Uỷ Ban Trung Ương, đề cử Đặng Xuân Khu, tức Trường Chinh, làm quyền Tổng Bí Thư. [83] Những thành viên khác gồm có Hoàng Quốc Việt (đă nằm trong Uỷ Ban Trung Ương ít nhất là từ 1937], Hoàng Văn Thụ và Trần Đăng Ninh, người đang chỉ đạo phong trào khởi nghĩa Bắc Sơn. Đây có vẻ là câu trả lời hợp lư nhất cho sự khủng hoảng trong giới lănh đạo ĐCS Đông Dương đă được giải quyết ra sao, mặc dù không rơ là cuộc họp tháng 11 đă được xem như là Hội Nghị Lần 7 từ khi nào, hoặc những thành viên trong Uỷ Ban Trung Ương tại Côn Minh đă tham gia quyết định hay không. Điều đáng lưu ư là tại Viện Bảo Tàng Cách Mạng tại Thành Phố Hồ Chí Minh có giữ một ʺthông báo khẩnʺ dưới dạng tờ rơi từ Đảng Bộ Trung‐Bắc Kỳ gửi đến Ban Chấp Hành Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương yêu cầu giúp đỡ cuộc Khởi Nghĩa Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy đă bắt đầu vào ngày 23 tháng 11, tờ thông báo viết; nhiệm vụ của Đảng Bộ Trung-Bắc Kỳ là ʺđem thanh thế của những người tham gia khởi nghĩa bằng cách đánh động những lực lượng đế quốcʺ. [84] Nếu tài liệu này là thật th́ nó cho thấy ít nhất một số đảng viên phía nam vẫn nghĩ rằng Ban Chấp Hành đang ở tại Nam Kỳ. Nhưng Sở Liêm Phóng vào tháng 12 1940 đă tường tŕnh rằng Phan Đăng Lưu đă thú nhận là ông đă đi Bắc Kỳ vào tháng 10 1940, ʺchắc chắn là để tham gia cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương, được cho là đă diễn ra vào ngày 5,6 và 7 tháng 11ʺ [85].

    Dù thế, cuộc họp mà Phan Đăng Lưu tham dự đă biểu quyết đồng ư dời ngày khởi nghĩa ở miền nam nhưng muốn phát triển các lực lượng vũ trang tại Bắc Sơn [86]. Hoặc là ư kiến của Uỷ Ban Trung Ương đă không đến được chi bộ miền nam đúng lúc, hoặc theo như một số nguồn tài liệu, kế hoạch đă đi quá xa nên không thể huỷ bỏ. Phan Đăng Lưu đă bị bắt khi vừa đến Sài G̣n, ngay trước khi Tạ Uyên bị bắt. Người Pháp đă t́m cách bám sát được kế hoạch khởi nghĩa nhờ đă bắt được những nhân vật chủ chốt. Do đó hầu hết những mục tiêu của cuộc khởi nghĩa như việc đánh chiếm Nhà Lao Chính tại Sài G̣n đă được ngăn chận. Việc nổi dậy đồng loạt của binh lính bản xứ bị dập tắt ngay từ đầu khi họ bị nhốt trong doanh trại. Có thể người Pháp đơn giản chỉ đợi chờ những người tổ chức ra tay là tiến hành bắt giữ. Một bức điện tín năm 1941 gửi cho nhà cầm quyền thuộc địa của chính phủ Vichy đă liệt kê những thiệt hại từ cuộc nổi dậy như sau: 30 tử vong trong đó có 3 người Pháp, 30 bị thương trong đó cũng có 3 người Pháp. Một số nạn nhân đă bị tấn công một cách tàn bạo. Vẫn chưa t́m lại được 40 khẩu trong số 130 súng trường và súng ngắn bị đánh cắp. Nhiều toà nhà bị đốt trụ, cầu cống, đường dây điện và dây thép bị phá hoại. Đô đốc Decoux cho rằng mức độ bạo lực quá ghê tợn v́ thế không thể nương tay với bất kỳ người lănh đạo của ĐCS Đông Dương nào bị bắt giữ [87].

    Những vụ bắt bớ và tử h́nh theo sau cuộc nổi dậy bất thành đă phá vỡ nền móng ĐCS Đông Dương tại miền nam. Có đến 100 nhân vật cầm đầu bị án tử h́nh, theo lời Trần Huy Liệu. [88] Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Vơ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Hữu Tiến bị xử bắn vào tháng 8 1941. Lê Hồng Phong, Lê Duẩn và nhiều thành viên cộng sản hợp pháp như Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Tạo bị cầm tù măi cho đến khi người Nhật đầu hàng vào năm 1945 (Lê Hồng Phong đă chết tại Côn Đảo vào năm 1942]. Việc này đă làm cho Uỷ Ban Trung Ương vừa mới tái thiết ở Bắc Kỳ phải tổ chức cơ cấu, trên lư thuyết là chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài giành độc lập. Trọng tâm của đảng giờ đây đă chuyển sang phía bên kia biên giới Trung Quốc, nơi Hồ Chí Minh và những đảng viên hải ngoại đang bắt đầu thiết lập liên lạc để giúp họ tham dự vào phong trào giải phóng Việt Nam do Quốc Dân Đảng Trung Quốc hậu thuẫn. Nền lănh đạo chính thống mới của đảng giờ đây được chuyển sang Hồ Chí Minh và những đồng chí của ông từ những năm của những khoá đào tạo tại Quảng Đông. Ngay cả Trường Chinh vào năm 1941 cũng đă cần đến sự phê chuẩn của Hồ Chí Minh để được chấp thuận vào chức vụ đứng đầu đảng. Đối với những đảng viên thuộc thế hệ 1928‐35, có lẽ nhóm lănh đạo này có ít uy tín nhất: họ đă hai lần tham gia vào những mặt trận thống nhất với tầng lớp tư sản Quốc Dân Đảng và chỉ có vài người trong họ được ʺvô sản hoáʺ. Vơ Nguyên Giáp, người sẽ trở thành một trong những cánh tay đắc lực của Hồ Chí Minh, chỉ mới trở thành đảng viên chính thức vào năm 1937. [89] Quá khứ của ông là một học sinh hoạt động cho Tân Việt vào những năm 1928‐30 và là một nhà báo trong mặt trận thống nhất tại Hà Nội đă tạo ra ngờ vực dưới mắt một số đảng viên ĐCS Đông Dương. Chỉ có Phùng Chí Kiên là thật sự có kinh nghiệm khi từng tham gia Hồng Quân Trung Quốc. Nhưng họ lại là những người đă đóng vai tṛ chủ đạo trong năm 1941, khi tổ chức Việt Minh bắt đầu thành h́nh.

    Di chuyển đến biên giới và Hội Nghị lần 8

    Vào tháng 10 1940 Hồ Chí Minh và những phụ tá của ông chuyển từ Côn Minh về Quế Lâm. Chính vào thời điểm này những người cộng sản hải ngoại đă quyết định sử dụng vỏ bọc của tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh cho mặt trận quốc gia của ḿnh.

    Đây cũng chính là tổ chức được sáng lập tại Nam Kinh bởi Hồ Học Lăm, Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng, Phi Vân, Nguyễn Hải Thần và những người khác vào năm 1936. V́ nó vẫn là một tổ chức chính thức có đăng kư tại Trung Quốc nên cơ cấu của nó rất phù hợp với những mục đích của Hồ. Hồ Học Lăm, mặc dù đang nằm viện tại Quế Lâm, vẫn là một nhân vật đứng đầu có uy tín và có quan hệ mật thiết với Bộ Tổng Tham Mưu của Quốc Dân Đảng. Qua Hồ Học Lăm, những người cộng sản Việt Nam đă có thể liên lạc với Tướng Lư Tế Thâm, tư lệnh quân khu Tây Nam của Quốc Dân Đảng tại Quế Lâm [90]. Điều trớ trêu là Lư Tế Thâm chính là vị tướng mà Hồ Chí Minh từng tố cáo là người chủ mưu phá huỷ phong trào nông dân Quảng Đông vào những năm 1926‐7; ông cũng chính là người đập tan Sô Viết Quảng Châu vào tháng 12 1927. Nhưng những năm sau này ông lại trở thành người chống đối Tưởng Giới Thạch và giờ đây có thể đă thấy rằng việc hợp tác với những người quốc gia Việt Minh rất quan trọng trong việc nới rộng hoạt động kháng Nhật. Hồ đă giúp nâng cao uy tín của Việt Minh bằng cách kêu gọi thành lập Hoa Việt Văn Hoá Đồng Chí Hội, bao gồm những người vào lúc đó được cho là những ʺcây viết cấp tiếnʺ. Hồ Học Lăm và Phạm Văn Đồng trở thành thành viên của hội đồng điều hành [91]. Nhưng kinh nghiệm của Hồ vào thời kỳ đầu của mặt trận thống nhất tại Quảng Đông, khi ông thành lập Liên Hiệp các Dân Tộc bị Áp Bức, giờ đă được đem vào sử dụng.

    Vào cuối năm 1940 khi làn sóng của những người tị nạn từ những cuộc khởi nghĩa thất bại ở miền bắc đổ sang Trung Quốc, những người quốc gia Việt Nam chuyển đến phía nam Trịnh Tây (Jing Xi ‐ ND), một thị trấn cách biên giới Việt Nam khoảng 65 dặm. Trương Phát Khuê, giờ là tổng tư lệnh Đệ Tứ Chiến Khu, đă gửi một thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng là Trương Bội Công đi Trịnh Tây để thu nạp những người tị nạn vào một ʺđội công tác biên giớiʺ. [92] Đă có một số thành viên cộng sản như Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm trong nhóm tị nạn này và Hồ Chí Minh đă nhanh chóng gửi ba cán bộ giỏi nhất của ḿnh đi về phía nam để gia nhập. Những người này là Vơ Nguyên Giáp, Vũ Anh và Cao Hồng Lănh. Họ khuyên Hồ rằng ông nên đến Trịnh Tây cùng với họ. Khi Hồ đi về phía nam cùng với Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên và Hoàng Văn Hoan, ông đă đem theo 3 thẻ căn cước, đều được làm trong năm 1940. Theo lời kể của Trương Phát Khuê, những giấy này chứng nhận ông là (1) thành viên của Hội Phóng Viên Thanh Niên Trung Quốc; và (2) Phóng Viên Đặc Biệt của Dịch Vụ Tin Tức Quốc Tế; tấm căn cước thứ ba là Giấy Phép Đi Lại của Nhân Viên thuộc Bộ Chỉ Huy Đệ Tứ Chiến Khu. Tất cả các giấy tờ trên đều mang tên ʺHồ Chí Minhʺ [93]. Tên này có nghĩa là con người sáng suốt nhất, đă đánh dấu việc tạo dựng nên một nhân vật mới, mang tính chất của một bậc lănh đạo uyên bác và một môn đồ khổ hạnh của chính nghĩa dân tộc.

    Sau khi Hồ đến Trịnh Tây vào tháng 12 1940, ông đă gửi Vũ Anh đến vùng biên giới thuộc tỉnh Cao Bằng để chọn lựa một khu vực an toàn dùng làm căn cứ cách mạng, theo hồi kư của Vũ Anh [94]. Chính vào lúc này Hồ đă mở một lớp đào tạo tại hai ngôi làng biên giới cho khoảng 40 người tị nạn Việt Nam được Giáp và các đồng chí của ông tuyển lựa từ ʺĐội Công Tác Biên Giớiʺ của Trương Bội Công. Vũ Anh nói rằng ông đă chọn một chiếc hang tại Pắc Bó để làm nơi trú ẩn an toàn phía bên này biên giới cho những người cộng sản quốc gia. Nhưng theo những tường tŕnh của người Pháp từ năm 1941 đă cho thấy chiếc hang này đúng hơn là đă được dùng làm nơi ẩn náu của quân du kích để đi về giữa Việt Nam và Trung Quốc [95]. Hồ Chí Minh được cho là đă quay lại Việt Nam vào tháng 2 1941 nhưng thật ra ông đă giành phần lớn thời gian của ḿnh tại những xóm nhà thuộc phía bên kia Trung Quốc.

    Hồ Chí Minh và nhóm cộng sản cốt cán của ông đă tiếp tục hoạt động thành công bên trong cơ chế của mặt trận thống nhất trong năm 1941 trong khi đang nối lại liên lạc với ĐCS Đông Dương tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Vào đầu năm 1941 Bùi Đức Minh và Hoàng Văn Thụ đă vượt qua biên giới để thảo luận những chương tŕnh cho Hội Nghị Toàn Thể của Uỷ Ban Trung Ương lần thứ 8. [96] Hội nghị này là một trong hai phiên họp quan trọng đă được tổ chức vào mùa xuân 1941 tại Trịnh Tây, những cuộc họp nhằm củng cố những liên hệ giữa hai bên biên giới tại cả hai tầng lớp. Vào tháng 4 một cuộc họp của Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Đồng Chí Hội, một tổ chức mặt trận thống nhất khác, do Trương Bội Công và Hồ Học Lăm tổ chức đă diễn ra. Theo King Chen, hạt nhân của cuộc họp mặt này là tổ chức Việt Minh [97]. Chen nói rằng Đồng, Giáp và Hoàng Văn Hoan là những nhân vật chủ chốt của Giải Phóng Đồng Chí Hội khi họ đă đặt vấn đề này với Lư Tế Thâm vào cuối năm 1940, và đă thành lập một văn pḥng trù bị tại Trịnh Tây. [98] Hội này rơ ràng là đă đồng nhất với mặt trận thống nhất của Quốc Dân Đảng và đă dùng thuyết

    ʺTam Dânʺ của Tôn Dật Tiên như là chủ thuyết căn bản. Nó tiếp tục trở thành một cỗ xe hữu ích cho Việt Minh cộng sản cho đến cuối năm 1941, khi những căng thẳng trong mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng đă đến gần điểm bùng nổ.

    Việc tổ chức Hội Nghị lần 8 của ĐCS Đông Dương cũng có thể đă đ̣i hỏi công tác ngoại giao tế nhị trong tập thể tổ chức Việt Minh. Việc này được nhớ đến như cuộc gặp gỡ chính thức của Hồ Chí Minh và Uỷ Ban Trung Ương kể từ khi Hồ trở về miền nam Trung Quốc. Đến mùa xuân 1941, khi các chi bộ của cả ba miền Việt Nam đang bị người Pháp khủng bố dữ dội, dường như những người đứng đầu Xứ Uỷ Bắc Kỳ đă không có tư cách ǵ để từ chối quyền lănh đạo từ những người cộng sản hải ngoại. Những quan hệ mong manh giữa những người cộng sản c̣n được tự do tại Việt Nam được bộc lộ trong cách thức tiến cử đại biểu tại Trung Kỳ cho Hội Nghị lần 8. Một trong số họ là Bùi San, sau này đă bị người Pháp bắt và đă khai với Sở Liêm Phóng rằng ông đă gặp Phan Đăng Lưu tại Vinh vào cuối năm 1940. Lưu phái ông đi Hà Nội để tái lập liên lạc giữa những cơ sở đảng thuộc Bắc và Trung Kỳ. Vào hạ tuần tháng 12 1940 nhận được một bức thư yêu cầu ông gửi hai đại biểu đi dự hội nghị. Ông đă đi Cao Bằng và cuối tháng 1

  4. #64
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HỒ CHÍ MINH
    NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
    HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
    Kỳ 4
    Bà SopheQuinn-Judge
    Lời dịch giả Diên Vỹ
    P8





    1941 với Hồ Xuân Lưu [99]. Theo bản khai của cảnh sát về hai người cộng sản Trung Kỳ này, cuộc họp mà họ tham gia đă xảy ra gần Long Châu; đây có thể là cách đánh lạc hướng Sở Liêm Phóng, nhưng căn cứ theo những tường tŕnh mà Sở Liêm Phóng có được, hội nghị chắc chắc đă diễn ra bên ngoài Việt Nam. Một chỉ điểm có bí danh là ʺUrsuleʺ đă báo cáo với cảnh sát Bắc Kỳ rằng cuộc họp đă được tổ chức tại một ngôi nhà hai tầng xây bên sườn núi cách Trịnh Tây, Quảng Tây 4 ‐ 5 cây số. Uỷ Ban Trung Ương đă họp tại lầu một, trong khi Xứ Uỷ Bắc Kỳ họp tại tầng trệt. Hai cuộc họp đă được tổ chức liên tiếp nhau, Hồ Chí Minh tham dự hội nghị Uỷ Ban Trung Ương vào buổi sáng và hội nghị Xứ Uỷ vào buổi chiều [100].

    Nội dung của những cuộc thảo luận tại Hội Nghị lần 8 đă được ĐCS Việt Nam ghi chép lại để chứng tỏ tầm nh́n xa của Hồ Chí Minh [101]. Việc ông có thực sự đoán trước được Đức sẽ xâm lược Nga, xảy ra vào ngày 22 tháng 5, th́ không được biết rơ. Nhưng thành công thực sự của ông là việc đă hợp nhất ĐCS Đông Dương vào trong mặt trận thống nhất với Quốc Dân Đảng và những đảng phái quốc gia Việt Nam có mặt tại vùng biên giới Trung Quốc. Bùi San đă khai với người Pháp rằng một người tên Phong (được nhận diện là Hồ) đă là chủ toạ của phiên họp Uỷ Ban Trung Ương, trong khi đó ʺMạnhʺ (được nhận diện là Hoàng Quốc Việt) làm thư kư.

    ʺXuyênʺ hay Đặng Xuân Khu, sau này trở thành Trường Chinh, đă báo cáo những hoạt động tại các tỉnh Thái B́nh và Hà Đông. Đặng Xuân Khu đă được phê chuẩn làm Tổng Bí Thư ĐCS Đông Dương tại hội nghị này. Khi ʺPhongʺ phát biểu trên cương vị đại diện của Chi Bộ Hải Ngoại, ông đă phê b́nh hoạt động trong quốc nội. ʺÔng nói rằng vào thời điểm hiện tại, việc kêu gọi toàn thể dân chúng không phân biệt thành phần giai cấp là cần thiếtʺ. Ông đă đề xuất rằng đảng nên kêu gọi tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam. Họ phải khuyến khích tinh thần yêu nước và kêu gọi mọi người học hỏi về lịch sử Việt Nam. V́ mục đích tổ chức, hội nghị đă quyết định thành lập một ʺHội Cứu Quốcʺ. Khi được hỏi về sức mạnh của phong trào cộng sản thế giới,

    ʺPhongʺ đă nói với các đại biểu rằng ʺĐảng dă không có dự định giành quyền lực ngay lập tức tại bất cứ quốc gia nào, v́ trong khi các phe đang giết chóc lẫn nhau th́ tại Nga sẽ an toàn cho việc chuẩn bị cho phong trào cách mạng toàn thế giớiʺ [102]. Lời giải thích này, nếu chính xác, đă cho thấy rằng Hồ vẫn phải giải thích chính sách của QTCS trên cơ sở của thoả ước với Đức đă kư vào năm 1939. Nó không cho thấy rằng ông đă lường trước việc Đức tấn công Liên Xô.

    Tại Hội Nghị lần 8 tầm quan trọng của việc giải phóng đất nước so với công cuộc đấu tranh giai cấp đă đặt ra một cách rơ ràng. Nếu người dân Việt Nam không đánh đuổi Pháp và Nhật, bản nghị quyết nói, th́ đến mười ngh́n năm nữa họ vẫn không thể đấu tranh cho quyền lợi giai cấp hoặc giải quyết được vấn đề nông dân [103]. Lời kêu gọi đến dân chúng Việt Nam mà Hồ Chí Minh đă viết vào ngày 6 tháng 6 1941 và đă kư tên là ʺNguyễn Ái Quốcʺ là ví dụ đầu tiên về bộ mặt mới của ĐCS Đông Dương. Bài viết kêu gọi một cách rơ ràng tinh thần yêu nước của người Việt, hô hào mọi người hăy noi gương của những anh hùng chống Pháp như Phan Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám và Lương Ngọc Quyến. ʺCông việc vĩ đạiʺ của việc giành độc lập vẫn chưa đạt được, bức thư viết, bởi v́ thời cơ thuận tiện vẫn chưa đến, những cũng bởi v́ các lực lượng nhân dân vẫn chưa ʺđứng chung với nhauʺ. Ông hô hào mọi người noi theo ʺtấm gương vĩ đại của nhân dân Trung Quốcʺ và thành lập những hội chống Pháp và chống Nhật cứu nước. Sau bức thư này, chỉ có một tài liệu khác được kư bởi Nguyễn Ái Quốc, đó là một lời hiệu triệu khác kêu gọi người dân Việt Nam vào tháng 8 1945. Nhưng đến lúc ấy cái tên mà những đồng chí của ông ở QTCS từng biết đến đă được dẹp bỏ. Lúc ấy Hồ cần phải vứt bỏ tên tuổi trước đây cũng như mối quan hệ của nó với QTCS. Ông sẽ hiện diện trước thế giới với cái tên Hồ Chí Minh, Chủ Tịch của chính phủ Việt Nam vừa độc lập vào ngày 2 tháng 9 1945.

    Khi Hồ Chí Minh xây dựng tổ chức liên hiệp Việt Minh tại Quảng Tây, QTCS đă biến khỏi tầm nh́n của những người cộng sản Việt Nam. Mặt dù Liên Xô quay lại cương vị của ḿnh trong liên minh chống Phát Xít toàn thế giới vào tháng 6 1941, họ đă đang phải đối phó với cuộc chiến sinh tử chống lại người Đức xâm lược và v́ thế đă chuyển mối quan tâm của họ khỏi châu Á. Vào ngày 16 tháng 10 1941 nhân viên QTCS đă bắt đầu sơ tán về hướng đông đến Ufa và Kuibyshev khi quân Đức Quốc Xă tiếp tục tiến về Moscow. Vào cuối tháng ấy Dimitrov đă viết thư cho Stalin với đề xuất rằng QTCS nên bắt đầu đi vào hoạt động bí mật dưới cái tên là ʺHọc Viện Nghiên Cứu Quốc Tếʺ. [104] Nhưng măi cho đến tháng 5 1943, sau khi Dimitrov quay về lại Moscow th́ thảo luận về việc khai tử QTCS mới bắt đầu được đề cập. Tại một cuộc họp tổ chức bởi Dimitrov, Molotov và Manuilsky, họ đă đồng ư rằng QTCS đă không c̣n có ích và ʺđă trở thành một trở ngại cho sự phát triển độc lập của những đảng cộng sản” [105] Thông báo chính thức về việc giải thể đă được đăng trên tờ Pravda (Sự Thật - ND) vào ngày 22 tháng 5. Mặc dù nhiều cơ chế của QTCS vẫn c̣n được tiếp tục bởi hai ʺhọc viện nghiên cứu khoa họcʺ, đến nay ta vẫn chưa có bằng chứng về việc cộng sản Việt Nam đă từng nhận được những hướng dẫn hoặc tài trợ từ Moscow trong khoảng thời gian từ 1941 - 1947 [106].

    Những chính sách đưa ra tại Hội Nghị lần 8 đă trở thành khuôn mẫu cho những hoạt động trong thời kỳ chiến tranh của Việt Minh. Nhưng theo những nghiên cứu về việc Việt Minh chiếm lấy quyền lực vào tháng 8 1945 cho thấy, những chính sách này đă không được truyền bá ngay cả tại Việt Nam hoặc đă được những thành viên ĐCS Đông Dương chấp thuận toàn bộ. [107] Trong những năm tháng sắp đến, con người thực dụng Hồ Chí Minh, người đă đặt nhiệm vụ thống nhất lên trên tư tưởng chính trị thuần thành, sẽ phải tiếp tục đối diện với sự đối lập ngay bên trong đảng của ḿnh trong việc cố gắng xây dựng một liên minh quốc gia.



    TỔNG KẾT

    Phần Giới Thiệu đă đề cập đến tâm lư của thời Chiến Tranh Lạnh đă ảnh hưởng đến việc chúng ta hiểu về Hồ Chí Minh và nỗ lực của ông trong việc xây dựng một đảng cộng sản tại Việt Nam. Cách sử dụng nguồn tài liệu thiên về tuyên truyền đă dẫn đến việc rất nhiều tác giả nh́n nhận Hồ Chí Minh như là một vị thánh toàn năng của quốc gia hoặc là một thiên tài độc ác. Không những ông đă là nhân vật lănh đạo vĩ đại của Bắc Việt ‐ ông cũng đă được xem như là một người cộng sản đầy ảnh hưởng ngay từ khi ông vừa tham gia ĐCS Pháp. Nhưng vị thế của ông bên trong Quốc tế Cộng Sản và giới cộng sản Châu Á trước 1945 theo như nghiên cứu này cho thấy, đă không nổi bật như từng được miêu tả sau này. Ông đă không xuất hiện như một người cộng sản đầy thế lực trong bối cảnh thế giới của những năm 1920 hoặc 1930, và ông đă gặp rất nhiều khó khăn để được ĐCS Đông Dương để ư đến vào những năm 1939‐40. Việc ông thăng tiến vào năm 1945 như là một biểu tượng của phong trào độc lập tại Việt Nam hoàn toàn không có nghĩa là một diễn tiến hiển nhiên. Robert Turner đă đúng khi cho rằng Hồ chia xẻ phần lớn công trạng trong việc đem chủ nghĩa Marxist-Leninist vào Việt Nam [1]. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng những tiếp xúc của ông với người Nga đă không mang lại kết quả tức thời. Hơn nữa, đă có những nguồn gốc của ảnh hưởng phái tả và Marxist khác tại Việt Nam trong những năm 1920 - có thể nói rằng có cả chi nhánh của ĐCS Trung Quốc đă hiện hữu tại miền nam Việt Nam trong những năm 1927-8. Vai tṛ của tổ chức này đối với sự phát triển của cộng sản Việt Nam vẫn chưa được t́m hiểu, nhưng căn cứ theo tên gọi của nó - Uỷ BAn Nam Kỳ - Cam Bốt - chúng ta có thể đoán được rằng nó đă có ảnh hưởng ngay từ đầu trong việc đưa ra khái niệm của một phong trào cộng sản Đông Dương thống nhất chứ không phải là một đảng cộng sản Việt Nam thuần tuư.

    Nỗ lực của Hồ nhằm tạo ra một đảng cộng sản Việt Nam với hậu thuẫn của Quốc tế Cộng Sản nên được hiểu trong hoàn cảnh của sự đô hộ từ người Pháp và từ lâu người Việt đă t́m kiếm trợ giúp từ bên ngoài. Sự thất bại trong chiến dịch của người Việt tại Hội Nghị Hoà B́nh Paris năm 1919 đă chuyển sự chú ư của những người quốc gia về phía nước Nga. Chính từ quan điểm của Lenin về nhiệm vụ của giai cấp vô sản phương Tây "ủng hộ những phong trào cách mạng tại những quốc gia thuộc địa ‐ đă thuyết phục Hồ tham gia Đệ Tam Quốc Tế. Ông đă không hề có ư tưởng lăng mạn nào với bạo lực cách mạng hoặc chủ nghĩa anh hùng cá nhân" trên thực tế ông đă giữ ḿnh rất khiêm tốn trong suốt sự nghiệp chính trị của ḿnh. Ông không phải là tay chân của Stalin và có thể đă không thực sự gặp riêng Stalin măi cho đến năm 1950. Thái độ của ông đối với việc sử dụng bạo lực và đấu tranh giai cấp th́ dường như là quá cẩn trọng để làm vừa ḷng một số thành viên cộng sản trẻ tuổi hơn.

    Không thể chối căi được thực tế là những lư thuyết ban đầu của Quốc tế Cộng Sản về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đă là một công cụ tri thức đầy quan trọng của Hồ Chí Minh. Nó đă giúp ông tạo ra một cơ chế vững mạnh trong đó bao gồm chủ thuyết chống thực dân và mong muốn về công bằng xă hội của ḿnh. Nhưng những luận điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc và các vấn đề thuộc địa không chỉ là một công cụ lư luận ‐ việc khám phá và chuyển tải những luận điểm ấy đă là một cơ sở quan trọng cho vai tṛ chính thống của ông trong phong trào cộng sản Việt Nam. Khi những lư thuyết trên bị thay thế bởi một cơ sở lư luận mới vào những năm 1928‐9, vai tṛ lănh đạo của Hồ đă bị đặt vấn đề. Như đă nói đến trong phần Giới Thiệu, những đối thủ tranh giành quyền lực thường luôn t́m cách chứng tỏ rằng họ thấu hiểu cặn kẽ hơn hệ tư tưởng và đường lối của Quốc tế Cộng Sản. Đường lối này vào lúc ấy có thể chỉ là một cóp nhặt rất hời hợt những tư tưởng của Marx, Plekhanov, Lenin, Trotsky, Stalin và những nhà tư tưởng tiền cộng sản khác, nhưng điều ấy đă không làm giảm đi tính quan trọng của nó như là một phương pháp để chiếm ảnh hưởng. Như Arno Mayer (nhà sử học người Mỹ ‐ ND) từng nói, ʺTư tưởng là mạch máu của cách mạng.ʺ ʺNó gắn liền với nhu cầu của một thành phần xă hội [mới] để phản ánh h́nh ảnh của chính ḿnhʺ [2]. Tầm quan trọng của sự tinh thông về lư thuyết trong việc biến ḿnh thành người dẫn đầu có thể có liên quan đến văn hoá Khổng Giáo trong đó đặt trọng khả năng viết lách chính thống lên trên những kỹ năng thực hành khác.

    Những mâu thuẫn ban đầu về hệ tư tưởng bên trong tổ chức cộng sản Việt Nam đă tiếp tục diễn ra trong suốt sự nghiệp chính trị của Hồ. Trong khi đối với phương Tây những nỗ lực của Hồ trong giai đoạn sau Thế Chiến thứ Hai nhằm tạo ra h́nh ảnh của ḿnh như một người theo chủ nghĩa quốc gia đă gặp phải những nghi ngờ th́ bên trong nội bộ ĐCS Đông Dương thái độ thiếu thành tâm với ʺchủ nghĩa cộng sản vô sảnʺ đă tiếp tục bị xem như là một nhược điểm của ông. Trong giai đoạn từ 1931 đến 1935, lần đầu tiên Trần Phú và Hà Huy Tập kêu gọi đặt vấn đề về giá trị tư tưởng của Hồ, sau đó th́ những phê b́nh cũ từ các đảng viên khác về quan điểm quốc gia của Hồ cũng đă được đem ra thảo luận trong giai đoạn 1948‐9, nếu không nói là sớm hơn. Cho đến lúc ấy cơ quan thay thế Quốc tế Cộng Sản là Ban Thông Tin Cộng Sản (Communist Information Bureau viết tắt là Cominform ‐ ND) đang được thành h́nh và thế giới đang chia ra thành hai khối. Hy vọng về việc Hoa Kỳ hậu thuẫn cho chính phủ vừa thành lập của Hồ Chí Minh đă tiêu tan.

    Về quan điểm thiên tả trong ĐCS Đông Dương về những đường lối quốc gia của Hồ trong giai đoạn Chiến Tranh Thế Giới thứ Hai và việc ông giải tán đảng cộng sản vào tháng 11 năm 1945, ta có thể theo bước chân của Trần Ngọc Danh, đại diện của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tại Pháp từ năm 1945 đến 1948 (ông cũng là một học viên từ Moscow và là em trai của Trần Phú). Ông đă th́nh ĺnh đóng cửa văn pḥng đại diện tại Paris vào cuối năm 1948 và bỏ chạy sang Prague [3]. Tại đây ông đă gửi ít nhất hai bức thư đến Moscow. Một trong những bức thư ấy viết rằng:

    Sau phê b́nh của Ban Thông Tin Cộng Sản, hiện nay tôi hoàn toàn không đồng ư với đường lối quốc gia và cơ hội mà đảng tôi đang theo đuổi từ khi nó chính thức bị giải tán. Việc giải thể này, đi ngược lại những nguyện vọng đă được đề cập vài lần từ các đồng chí của chúng tôi, đă không thể được thực hiện mà không có sự can thiệp tích cực của đồng chí Hồ Chí Minh, hiện là Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Uy tín của đồng chí Hồ đối với nhân dân Việt Nam th́ chắc chắn là rất lớn; họ xem ông như là biểu tượng của cuộc đấu tranh chống đế quốc và là người khởi xướng chính cho những thành quả dân chủ của chúng tôi. Sự tin tưởng này được củng cố bởi việc những người cộng sản Việt Nam vẫn xem ông là cựu đại diện của Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc tế Cộng Sản; hoặc nói theo kiểu của người Việt, ʺÔng là người của Quốc Tếʺ. Và chính sách thoái hoá hiện nay đă bắt nguồn từ học thuyết của ông, bắt nguồn từ Hội Nghị Tours năm 1929.[4]

    Trong một bức thư khác đề ngày 10 tháng 1 năm 1950 gửi đến cho ʺĐồng Chí Iudinʺ (người sau khi Zhdanov chết đă trở thành nhà tư tưởng chính trong nhóm thân cận Stalin] Danh đă viết rằng ĐCS Đông Dương đă bị chiếm lĩnh bởi ʺnhững thành phần quốc gia, tiểu tư sảnʺ, họ ʺthiếu niềm tin vào lực lượng cách mạng vô sản. Tính cách của Hồ Chí Minh chính là yếu tố quyết định gây chia rẽ. Điều này có nghĩa là nó đủ ảnh hưởng đến chính sách của ĐCS Đông Dương vào năm 1941, tức là vào thời điểm ông trực tiếp bước vào đấu trường chính trị của Đông Dươngʺ [5].

    Những đối thủ của Hồ Chí Minh ‐ từ thành phần nguyên thuỷ của ĐCS Đông Dương năm 1929 cho đến Trần Ngọc Danh ‐ tất cả đều muốn chứng minh tài lănh đạo yếu kém của ông bằng cách chỉ ra những ʺsai lầmʺ từ tư tưởng của ông. Theo biên niên kư của Trần Ngọc Danh, những sai lầm này bắt đầu từ việc Hồ tiếp thu Luận Cương Về Những Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa mà theo Danh là vào năm 1921 nhưng dường như đến cuối năm 1920 đă trở thành ʺchuyện đă rồiʺ (nguyên văn: fait accompli ‐ ND), ngay cả trước Hội Nghị Tours vào tháng 12 1920. Bản thân Quốc càng trở nên cùng nhịp, nếu không nói là theo hẳn đường lối của giai đoạn 1920‐7 và đă tận hưởng được một thời kỳ mới từ 1938‐47 mà ông được cho là ʺcó tư tưởng đúng đắnʺ, khi phong trào cộng sản do Liên Xô dẫn đầu đă chọn chủ nghĩa cộng sản dân tộc và quyền tự quyết có giới hạn của các đảng thành viên. Nhưng cho đến những năm 1949‐50, Stalin đă tái lập việc kiểm soát tư tưởng của ḿnh lên hầu hết phong trào cộng sản thế giới và đă khuyên những người cộng sản Việt Nam nên t́m hướng chỉ đạo từ ĐCS Trung Quốc đang có nhiều thắng lợi. Khi Hồ viếng thăm Moscow vào năm 1950 với tư cách là thành viên của phái đoàn Mao Trạch Đông, Stalin đă tiếp đón ông một cách vô cùng hờ hững [6].

    Khi tiểu sử của ông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1948 (trong một bản viết tay bằng tiếng Hoa], chắc hẳn Hồ đă t́m cách củng cố vị thế chính trị của ḿnh. Cuốn sách nhỏ này đă nhấn mạnh cả tính chất vô sản ‐ cuộc đời thuỷ thủ và lao công ‐ lẫn thành tích lănh đạo đất nước của ông. V́ thế dường như nó đă được dùng để phục vụ hai chức năng: chiếm lấy t́nh cảm của người dân trong nước và đồng thời cũng để thuyết phục những thành viên cộng sản c̣n hoài nghi như Trần Ngọc Danh rằng Hồ là một người vô sản thực sự.

    Trong khi việc cố gắng vạch đường lối cho những bộ phận cấu thành ĐCS Đông Dương trong năm 1941 hoặc 1948 th́ đầy mạo hiểm, ta vẫn có thể thấy rằng những nguồn gốc chống đối quyền lănh đạo của Hồ đă bắt đầu rất sớm từ phong trào vô sản hoá được h́nh thành tại Bắc Kỳ vào năm 1928. Trong số những người cầm đầu của nhóm này đến Quảng Đông học tập vào những năm 1920, hầu như tất cả đều đến sau khi Hồ đă chuyển đi Moscow. V́ thế họ đă không có quan hệ cá nhân với Hồ như là đồng hương hoặc học tṛ của ông. Một trong những khó khăn không giải đáp được trong quá tŕnh nghiên cứu này là việc nhận diện những thế lực nào đă ảnh hưởng đến nhóm người này từ năm 1927 đến 1929. Nhưng những bằng chứng gián tiếp đă cho thấy rơ ràng rằng đă có một mối liên hệ nào đấy giữa thành phần ĐCS Đông Dương tại Bắc Kỳ và Uỷ BAn Nam Dương của ĐCS Trung Quốc từ năm 1928 đến 1930.

    Dù sao, như ta đă thấy được, một số người Việt được đào tạo tại Moscow cũng đă phản đối đường lối của Hồ. Sau Đại Hội Lần 7 của QTCS vào năm 1935, những nhà tư tưởng trẻ như Hà Huy Tập đă thấy rằng thật khó để hoà giải với liên minh những người quốc gia mà ban đầu Lê Hồng Phong và sau này là Hồ đă chủ trương. Lằn ranh chủ chốt chia rẽ Hồ và những đối thủ của ông, như quá tŕnh nghiên cứu này đă liên tiếp chỉ ra, chính là thái độ của họ đối với mâu thuẫn giai cấp. Khi Hồ bắt đầu sự nghiệp chính trị của ḿnh tại châu Âu, Việt Nam vẫn c̣n trong giai đoạn đầu của quá tŕnh phát triển công nghiệp; giai cấp vô sản chỉ vừa bắt đầu h́nh thành. Nhưng Hồ lại liệt kê đại đa số thành phần người Việt ‐ những nông dân và học giả nghèo cũng như thành phần lao động thành thị ‐ là những công nhân đang bị chủ nghĩa đế quốc bóc lột. Có lẽ bởi v́ Hồ xem Việt Nam như là một khối đồng nhất nên ông đă không có vấn đề ǵ trong việc hợp tác giai cấp để đánh bại người Pháp. Cho đến những năm 1929‐31, đương nhiên là việc ông không nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp đă làm cho ông trở thành một tàn dư lỗi thời của mặt trận thống nhất tại Trung Quốc dưới con mắt của những học viên trẻ từ Moscow.

    Chúng ta vẫn c̣n lâu mới có thể đưa ra được đánh giá cuối cùng về những năm tháng cầm quyền của Hồ. Đơn giản là đang có quá ít bằng chứng vững chắc về quá tŕnh soạn thảo những quyết định tại Hà Nội. Nhưng trong những năm tháng được phân tích ở đây, ta không c̣n nghi ngờ ǵ về sự tận tâm và khả năng tài t́nh của một nhân vật đấu tranh v́ độc lập, người đă nỗ lực rất nhiều để đưa vấn đề giải phóng thuộc địa ra trước lịch tŕnh chính trị của người Pháp. Từ Hội Nghị Hoà B́nh Paris cho đến sự kiện tuyên bố độc lập của ông vào năm 1945, ông đă được thúc đẩy bởi t́nh yêu nước chân thành và ḷng căm thù sâu sắc đối với chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhưng ông cũng không phải là một con người cộng sản thần thánh. Ông đă ăn ở với những phụ nữ trong nhiều giai đoạn, thoả hiệp và lũng đoạn những đảng phái quốc gia khác. Ông đă không luôn là người thẳng thắn ‐ trong rất nhiều trường hợp ông đă cho rằng thành thật về lập trường chính trị là một việc dại dột. Ḷng tin của ông về chủ nghĩa cộng sản th́ khó mà lường được bao sâu ‐ điều duy nhất ta có thể khẳng định là ông đă không coi trọng chủ nghĩa giáo điều. Con đường mà ông đă theo thường được chắt lọc ra từ hàng loạt những lựa chọn bị giới hạn bởi những sự kiện vượt ngoài tầm kiểm soát của ông.

    Điều trớ trêu là trong những năm 1990, sau khi những đảng cộng sản tại Đông Âu đă bị hất khỏi quyền lực, đảng cộng sản Việt Nam vẫn giữ nguyên vị trí chính thống của ḿnh bằng cách nhận rằng họ đại diện cho ʺTư Tưởng Hồ Chí Minhʺ. Một tài liệu xuất bản năm 1995 về Tư Tưởng Hồ Chí Minh của Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh định nghĩa đấy như là một tiến triển mới của học thuyết Marxist-Leninist [7]. Nhưng khẳng định này đă gặp phải một số ư kiến giễu cợt v́ rất nhiều người Việt thừa hiểu rằng Hồ Chí Minh đă không để lại bất cứ một học thuyết nào trên giấy tờ. Ông có thể được nh́n nhận một cách công bằng là một chính trị gia và một nhà ngoại giao tài giỏi, một người đă để lại cho đất nước ḿnh một khuôn mẫu về việc xây dựng liên minh và thoả hiệp mà mọi quốc gia đương thời đều đánh giá cao.

    Bằng chứng từ tài liệu của Moscow lẫn của Pháp đều cho thấy rằng Quốc tế Cộng Sản đă không hề là một công cụ đắc lực để truyền bá quyền lực của cộng sản mà giới khoa học chính trị và lịch sử thời Chiến Tranh Lạnh muốn chúng ta tin vào. Nó cũng đă không nhất quán trong việc ủng hộ những phong trào chống thuộc địa. Nhưng mối liên hệ mà Hồ đă tạo dựng với Quốc tế Cộng Sản đă đóng một vai tṛ chủ đạo trong việc phát triển chủ nghĩa cộng sản cũng như phong trào độc lập quốc gia tại Việt Nam. Quốc tế Cộng Sản đă cung cấp cho Hồ và những đồng chí của ông phương pháp cũng như tài chánh trong việc đào tạo những cán bộ tổ chức và tuyên truyền; nó đă giúp họ phân tích để hiểu được t́nh trạng của họ trong tay của người Pháp. Mặc dù sự can thiệp và cố vấn của nó không luôn được chấp nhận, khi c̣n hoạt động nó vẫn giữ được vị thế trọng tài tối cao trong những tranh chấp chính trị quốc tế, điều này đă giúp đảng cộng sản phần nào giữ vững tính đoàn kết. Nó cũng đă cung cấp nơi nương tựa cho những học viên cộng sản tại Moscow để họ có thể quay về Việt Nam xây dựng lại ĐCS Đông Dương vào những năm đầu

    1930. Ngay cả việc Hồ bị đối xử lạnh nhạt tại Moscow từ năm 1934 đến 1938 cũng đă cứu sống ông để tiếp tục chiến đấu. Nhưng nếu cho rằng Hồ Chí Minh và ĐCS Đông Dương chỉ đơn thuần là những sản phẩm của Quốc tế Cộng Sản th́ điều này đă bóp méo sự thật. Họ tồn tại một cách song song trong những phạm vi khác nhau ‐ xă hội truyền thống của Việt Nam, đế chế Pháp, tổ chức Nam Dương và cộng đồng thế giới mà trong những năm 1920 và 1930 đă bị bó gọn bởi những phương tiện thông tin hiện đại, việc phụ thuộc lẫn nhau về giao thông và kinh tế. Chính khả năng có thể chuyển vận giữa những lĩnh vực khác nhau của Hồ Chí Minh cuối cùng đă giúp ông giữ vững được vị thế của ḿnh như là một nhà lănh đạo thành công nhất trong công cuộc đấu tranh giành độc lập.

    HẾT

    Tác giả: Bà Sophie Quinn-Judge
    Bản tiếng Anh: University of California Press, 2002
    Dịch giả: Diên Vỹ và Hoài An
    Hiệu đính: Hồ Gươm

  5. #65
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lấy ǵ chứng minh Hồ Chí Minh không phải Hồ Tập Chương?
    Tạ Nhất Linh (Danlambao) -




    Trong bài “Bàn về Hồ Chí Minh – Hồ Tập Chương”, tôi có nói: “Không cần chứng minh rằng Hồ Chí Minh không phải Hồ Tập Chương”. Lư do để tôi nói như vậy là v́ đối với chúng ta, những người không cần đến Hồ Chí Minh, việc chứng minh đó chẳng có ư nghĩa ǵ đáng kể.

    Tuy nhiên, một vài ư tứ khá thú vị sẽ xuất hiện khi đặt ra câu hỏi: Nếu giới cầm quyền VN hiện nay cố khẳng định bằng được rằng HCM không phải HTC th́ họ có thể chứng minh điều đó bằng cách nào?

    Theo cái cách mà họ vẫn hay làm để nhồi vào đầu dân chúng một luận điệu nào đó, họ sẽ chẳng bao giờ có thể ‘chứng minh’ theo cách suy luận chặt chẽ, với việc tổ chức tranh luận công khai, hay đưa ra những bằng chứng mà không ai chối căi được. Cái cách mà họ thường xuyên làm là: cho người lên đài phát thanh, truyền h́nh, lớn tiếng khẳng định đi khẳng định lại, với hy vọng ngu xuẩn rằng nghe măi người ta cũng phải tin (giống như kiểu của Göbbels, trùm thông tin tuyên truyền của Đức Quốc Xă). Hỗ trợ cho lối tuyên truyền như vậy c̣n có những biện pháp bịt mồm tất cả những ai định ho he nói lên điều người lại. Bịt mồm ở đây không chỉ đơn thuần là không cho nói thành tiếng, mà c̣n có việc cho mất việc, bắt bỏ tù, bắt cóc rồi cho mất tích, thủ tiêu, v.v... Sự việc mới nhất vừa xảy ra là nhà báo Nguyễn Đắc Kiên bị cho thôi việc v́ có ư kiến về những phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng.

    Đó, cái gọi là ‘chứng minh’ kiểu CSVN chủ yếu là như vậy. Để chứng minh HCM không phải HTC, chủ yếu họ cũng chỉ làm như vậy.

    Tất nhiên, đôi khi họ cũng cho một vài ‘lư loạn da’ tḥ mặt lên các phương tiện thông tin đại chúng, tung ra đủ thứ ‘hỏa mù lư loạn’, làm rối tinh mọi thứ, để người nghe chẳng c̣n hiểu quái ǵ, và phục họ có những lư luận cao siêu! Về đề tài HCM-HTC, họ có thể nêu ra những ‘chứng cứ’ như sau:

    1) T́nh báo có thể đóng giả một sĩ quan, một công chức, chứ làm sao đóng giả suốt đời được một thiên tài như HCM? Lừa một nhóm người th́ được chứ làm sao lừa được cả một dân tộc? Làm sao che mắt được cả ‘quốc tế cộng sản’?

    2) Trên thực tế, sau một thời gian vắng mặt ở trong nước, khi trở về, ‘bác’ đă gặp lại những người quen là những nhà lănh đạo ưu tú của ‘cách mạng’ VN. ‘Bác’ cũng đă về quê, và c̣n phát hiện ra cái cổng nhà được làm mới, không đúng với vị trí cũ,…

    3) Nếu là người dân tộc khác, làm sao ‘bác’ có được ḷng yêu nước thương dân như vậy? Bác đă bao lần nói: “Tôi chỉ có một ham muốn. Ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do…”. Bác đă từng khóc v́ “thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng”, v́ đồng bào miền Nam c̣n phải sống dưới ách cai trị của Mỹ-Ngụy. Trước khi ra đi, ‘bác’ c̣n để lại “muôn vàn t́nh thương” cho nhân dân,…

    Trước những ‘chứng lư’ đó, Tạ Nhất Linh tôi xin thưa:

    1) ‘Bác’ Hồ của quư vị là thiên tài đối với quư vị, chứ với chúng tôi th́ không! Một nhà lănh đạo thiên tài của một dân tộc tại sao lại thú nhận rằng khi ông ta chọn con đường của chủ nghĩa cộng sản th́ ông ta cũng chẳng hiểu ǵ, chỉ thấy nó lên tiếng bênh vực các dân tộc thuộc địa? Người thiên tài mà lại nói: “Bác có thể sai, trung ương có thể sai, nhưng Mao chủ tịch không bao giờ sai.” Đó chẳng phải là một phát ngôn ngu xuẩn hay sao? Và thiên tài ǵ mà để cố vấn TQ nó chỉ huy giết bao nhiêu ‘đồng bào’ (nếu ông ta không phải HTC)? Thiên tài ǵ mà bao nhiêu năm cai trị không cho ra được một bộ luật?

    Tất nhiên HCM (HTC) cũng phải có những cái giỏi. Đó là giỏi dối trá, lừa lọc. Nhưng cái đó không có liên quan đến tầm tư tưởng về trị quốc.

    2) Về việc gặp lại người quen sau gần một chục năm vắng bóng (1932 – 1941), ta hăy nhớ lại một số chi tiết sau đây để thấy HTC không khó để có thể lừa được họ:

    Tất cả những ‘người quen’ này trước đó đều mới chỉ gặp Nguyễn Ái Quốc một cách thoáng qua. Họ không biết về ông ta nhiều lắm để có thể phát hiện ra những khác biệt nhỏ giữa ông ta và HTC. Họ đă buộc phải tin khi hỏi giấy tờ của HCM-HTC và được trả lời bằng một câu hỏi khác, đại ư: “Liệu tôi có c̣n sống về được đến đây không, nếu tôi mang theo giấy tờ?” Hơn nữa, trong bối cảnh lúc bấy giờ phong trào cộng sản ở VN chỉ có được một nhúm người và bế tắc về đường hướng, việc những ông như Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp,... gặp được một người có thể đưa ra được phương hướng làm ‘cách mạng’ (theo sách lược TQ) làm họ cảm thấy quá may mắn, và không c̣n nghĩ đến việc thẩm tra tung tích của người đó nữa. Họ cũng cảm thấy không đủ tư cách để kiểm tra ‘lănh tụ’. Chỉ có hai người có khả năng nhiều nhất để nhận ra HTC không phải Nguyễn Sinh Cung, đó là anh trai và chị gái của Nguyễn Sinh Cung là ông Khiêm và bà Thanh, th́ một người không được gặp, người kia gặp không quá vài phút! Chi tiết liên quan đến vị trí mới của cổng nhà th́ cái đó chẳng là ǵ: Có thể HTC đă được t́m hiểu từ trước, hoặc nh́n và nhận ra sự vô lư của cổng mới. Đối với một sĩ quan t́nh báo th́ việc biết trước những chi tiết như vậy là quá b́nh thường.

    3) C̣n việc là người ngoại tộc mà tỏ ra hết ḷng v́ đất nước ta th́ là việc mà đương nhiên một điệp viên phải làm, và cái sự ‘tỏ ra’ này đâu có mất ǵ: chỉ là những lời đầu môi chót lưỡi thôi mà!

    Về lư thuyết, để xác định xem HCM là Nguyễn Sinh Cung hay HTC, chỉ có một cách chắc chắn nhất là thử AND. Nhưng việc này hoặc họ không bao giờ làm, hoặc nếu có làm th́ cũng không công khai, để c̣n sẵn sàng đánh tráo kết quả.

    Tóm lại, CSVN sẽ không thể nào có được những chứng cứ thuyết phục để chứng minh rằng HCM không phải HTC.


    Tạ Nhất Linh
    danlambaovn.blogspot .com


    ____________________ _____________

    P.S. Cũng xin nhắc lại rằng vào năm 1932 báo l’Humanit số ngày 9 – 8 – 1932 của Pháp đă đưa tin Tống Văn Sơ (tức Nguyễn Ái Quốc) đă chết trong tù tại Hương Cảng. (Đây là chi tiết được khẳng định bởi chính sách báo của CSVN.)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Vụ án “buôn vua” Việt Nam - Hồ Chí Minh - Phần 1
    By alamit in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 3
    Last Post: 08-08-2012, 10:27 AM
  2. Hồ Chí Minh & vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp
    By Thương Dân in forum Hồ Chí Minh
    Replies: 0
    Last Post: 21-02-2011, 04:31 PM
  3. Replies: 22
    Last Post: 05-02-2011, 05:45 AM
  4. Replies: 4
    Last Post: 15-11-2010, 02:28 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •