Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 13

Thread: Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam
    Tác giả: Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy

    “Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…
    Đồng ḷng cùng đi, hy sinh tiếc ǵ thân sống!”

    Viết cho những ai xem nhẹ lá cờ vàng, hăy đọc và suy ngẫm…

    Sau năm 1975, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đă nhiều lần nghe những ư kiến phát biểu bằng lời nói hay bằng những bài báo về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam. Trong những dữ kiện và ư kiến được tŕnh bày, có cái không đúng sự thật, có cái đúng sự thật nhưng gây ra một số thắc mắc và hoang mang. Viết bài này, tác giả chỉ có mục đích tŕnh bày một số dữ kiện lịch sử xác thật về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam và đánh tan những luận điệu có thể làm cho người quốc gia Việt Nam thắc mắc và hoang mang về lá quốc kỳ và bài quốc ca của chúng ta.

    I. QUỐC KỲ VIỆT NAM

    A/ SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ư NIỆM QUỐC KỲ
    TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI

    Việc dùng một mảnh hàng hay vải có màu sắc và h́nh thức nhứt định để biểu tượng cho một nhơn vật, một gia tộc lănh đạo hay một cộng đồng chánh trị đă có từ ngàn xưa. Trong các cuộc giao tranh dữ dội trên các băi chiến trường cổ kim, binh sĩ hai bên đối đầu nhau đều lấy cờ của bên ḿnh làm điểm hội tập và đều tận lực tranh đấu, thường khi phải hy sinh cả tánh mạng để bảo vệ nó. Trong lịch sử quân sự của mọi cộng đồng chánh trị, việc cắm được cờ của ḿnh trên đất địch hay cướp đoạt được cờ của quân lực địch đều được xem là một chiến công rạng rỡ.

    Tuy nhiên, trước cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, phần lớn các nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ, hoặc là quân chủ chuyên chế trong đó chỉ có một nhà vua nắm trọn quyền lănh đạo và được xem là sở hữu chủ duy nhứt của quốc gia, hoặc là quân chủ phong kiến trong đó bên dưới nhà vua c̣n có những nhà quí tộc làm chủ các lănh địa, và có khi có những thị xă tự trị trong đó quyền điều khiển thuộc một nhóm người hào phú địa phương. Một số cộng đồng chánh trị nhỏ thời đó đă theo chế độ cộng ḥa hay dân quốc. Với chế độ này, quyền lănh đạo cộng đồng thuộc về một vài thế gia cự tộc. Các cộng đồng chánh trị kể trên đây đều độc lập hoàn toàn hay phải tùy thuộc một cộng đồng chánh trị lớn hơn đều có lá cờ làm biểu hiệu cho ḿnh. Nhưng v́ cộng đồng được xem là vật sở hữu của một gia tộc hay một thiểu số gia tộc lănh đạo nên lá cờ của cộng đồng cũng được xem như là lá cờ của gia tộc hay các gia tộc đó.

    Ư niệm quốc kỳ biểu tượng cho toàn thể quốc dân chỉ mới xuất hiện với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789. Với cuộc cách mạng này, quốc gia không c̣n được xem là vật sở hữu của một gia tộc, mà là vật sở hữu chung của toàn thể mọi ngưoi sống trong cộng đồng. Hệ luận của quan niệm mới này là lá cờ một nước không c̣n là biểu tượng của gia tộc lănh đạo, mà là biểu tượng của toàn thể quốc dân. Người Pháp đă dùng từ ngữ “drapeau national” để chỉ loại cờ này. Quan niệm của người Pháp lần lần được người các nước khác chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đă dùng từ ngữ national flag khi nói đến lá cờ của ḿnh. Drapeau national của Pháp và national flag theo tiếng Anh đă được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc kỳ.

    Về mặt thực hiện cụ thể th́ lá quốc kỳ đầu tiên trên thế giới là cờ tam sắc của Pháp gồm ba màu xanh, trắng, đỏ, xếp ngang nhau theo thứ tự kể trên đây. Sự h́nh thành của lá cờ này là kết quả của một sự thương lượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xă Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng gia Pháp từ nhiều đời vốn nền trắng trên có thêu một hoa huệ màu vàng. Thời quân chủ Pháp, Paris là một thị xă được hưởng quyền tự trị và có lá cờ riêng gồm hai màu xanh và đỏ xếp ngang nhau. Khi người dân Paris nổi lên làm cách mạng đ̣i hỏi chánh quyền cải tổ chế độ, họ vẫn c̣n chấp nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc đó là Louis XVI một mặt v́ nhu nhược, một mặt v́ thiếu phương tiện nên không dùng vơ lực đối phó một cách quyết liệt với phong trào cách mạng và chịu chấp nhận các yêu sách của nhơn dân Paris. Do đó, hai bên đă đồng ư nhau lấy cờ của hoàng gia và cờ của thị xă Paris trộn lại làm huy hiệu cho nước Pháp. Nhà vua là quốc trưởng nắm quyền Hành Pháp nên màu trắng của cờ hoàng gia được đặt ở giữa, hai màu xanh đỏ của cờ thị xă Paris được ghép hai bên thành một huy hiệu tam sắc. Huy hiệu này lần lần được phổ biến khắp nơi trong nước, và đến năm 1793, Quốc Ước Hội Nghị đă chánh thức biểu quyết lấy cờ tam sắc làm quốc kỳ cho nước Pháp.

    Phải nói rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất đẹp. Mặt khác, Cách Mạng Pháp thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu Liberté – Égalité – Fraternité là Tự Do – B́nh Đẳng – Bác Ái. Ba màu của quốc kỳ Pháp được xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ trên đây: màu xanh tiêu biểu cho Tự Do, màu trắng tiêu biểu cho B́nh Đẳng và màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái. Cờ tam sắc của Pháp đă đẹp mà c̣n được giải thích một cách đầy đủ ư nghĩa tượng trưng rất phù hợp với lư tưởng chung của nhơn loại nên quốc dân Pháp đă nhiệt liệt hoan nghinh nó và chấp nhận nó làm biểu tượng cho ḿnh. Về sau, nhiều nước Tây Phương khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp đă chọn ba màu xanh, trắng, đỏ, làm quốc kỳ với những giải thích hơi khác nhau, nhưng vẫn dùng ba màu này làm tiêu biểu cho các lư tưởng tự do, b́nh đẳng và bác ái là nền tảng chung của các xă hội dân chủ tự do.

    B/ CÁC LÁ CỜ ĐĂ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM
    VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC KỲ

    1/ Quốc kỳ xuất hiện đầu tiên:
    Cờ Long Tinh của Hoàng Đế Bảo Đại

    Ở Việt Nam trước đây cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, các lá cờ được dùng để biểu tượng cho một nhà lănh đạo. Hiệu kỳ của một vị tướng cầm đầu một đạo quân thường có màu phù hợp với mạng của vị tướng đó: người mạng kim th́ cờ màu trắng, người mạng mộc th́ cở màu xanh, người mạng thủy th́ cờ màu đen, người mạng hỏa th́ cờ màu đỏ, người mạng thổ th́ cờ màu vàng. Màu cờ của các triều đại th́ được các nhà sáng lập chọn lựa theo sự tính toán dựa vào thuyết của học phái Âm Dương Gia nghiên cứu về sự thạnh suy của ngũ hành lưu chuyển trong vũ trụ sao cho triều đại ḿnh hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ chung của triều đại, mỗi nhà vua đều có thể có lá cờ riêng của ḿnh. Nhưng các lá cờ này chỉ để biểu tượng cho hoàng gia. Về ư niệm quốc kỳ biểu tượng cho cả dân tộc Việt Nam, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.

    Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc kỳ. Lúc ấy, Nam Việt (được gọi là Nam Kỳ) là thuộc địa Pháp và phải dùng cờ tam sắc của Pháp, Bắc Việt và Trung Việt (được gọi là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) trên lư thuyết là lănh thổ của nhà Nguyễn. Các nhà vua Việt Nam thời đó đều có lá cờ biểu tượng cho ḿnh như thời c̣n độc lập, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự đến chớ không phải ở mọi nơi trong nước và dĩ nhiên không có tánh cách một quốc kỳ. Măi đến thời Thế Chiến II, Hoàng Đế Bảo Đại mới ấn định quốc kỳ đầu tiên.

    Nguyên lúc đó, người Pháp đă thua Đức và rất suy kém. Họ không c̣n đủ quân lực để bảo vệ các thuộc địa xa xôi. Riêng ở Đông Dương th́ người Nhựt lợi dụng sự suy kém của Pháp đ̣i quyền đem binh vào chiếm đóng đất này để lấy nó làm bàn đạp phong tỏa phía nam Trung Quốc và tiến đánh Đông Nam Á Châu với dụng ư chinh phục cả Á Châu. Chánh phủ Pháp không thể từ chối lời đ̣i hỏi của Nhựt và viên Toàn Quyền thời đó là Đề Đốc Decoux có nhiệm vụ phải chịu hợp tác với quân chiếm đóng Nhựt, đồng thời cố gắng đến tối đa để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Đông Dương. Ư thức rằng chánh sách thực dân Pháp trước Thế Chiến II làm bất măn người Việt Nam mọi giới, Toàn Quyền Decoux đă áp dụng một chánh sách hai mặt: một mặt triệt để đàn áp các phần tử cách mạng chống Pháp, một mặt xoa dịu người Việt Nam nói chung. Trong khuôn khổ của mặt thứ nh́ trong chánh sách này, ông đă có những biện pháp nâng cao uy tín của các nhà vua Đông Dương.

    Hoàng Đế Bảo Đại nhơn cơ hội này đă đưa ra một vài cải cách và ban chiếu ấn định quốc kỳ của nước Đại Nam. Quốc kỳ này tên là cờ long tinh, nền vàng với một sọc đỏ nằm vắt ngang ở giữa, bề ngang của sọc đỏ này bằng 1/3 bề ngang của cả lá cờ. Cờ long tinh được dùng trên lănh thổ Đại Nam, nghĩa là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, v́ Nam Kỳ lúc đó vẫn là thuộc địa Pháp và vẫn phải dùng lá cờ tam sắc của Pháp.

    2/ Quốc kỳ thứ nh́:
    Cờ quẻ Ly của chánh phủ Trần Trọng Kim

    Chánh quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương đă bị quân đội Nhựt lật đổ ngày 9 tháng 3 năm 1945. Hai ngày sau, Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố độc lập. Chánh phủ độc lập đầu tiên được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945 do nhà học giả Trần Trọng Kim cầm đầu. Quốc hiệu được đổi là Đế Quốc Việt Nam và theo chương tŕnh hưng quốc được chánh phủ Trần Trọng Kim ban bố ngày 8 tháng 5 năm 1945 th́ quốc kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Ly là một trong 8 quẻ của bát quái và gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền, bề rộng của các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.

    Cờ quẻ Ly trên nguyên tắc là cờ của cả nước Việt Nam gồm có ba kỳ. Nhưng trong thực tế, nhà cầm quyền quân sự Nhựt đă không trao trả Nam Kỳ ngay cho triều đ́nh Huế. Việc trao trả này chỉ thực hiện ngày 14 tháng 8 năm 1945, nghĩa là 4 ngày sau khi chánh phủ Nhựt quyết định đầu hàng Đồng Minh và 10 ngày trước khi Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị. Do đó, đại diện của triều đ́nh Huế chưa bao giờ được thật sự cầm quyền ở Nam Việt và cờ quẻ Ly đă không được dùng ở đó.

    Trong thời gian từ ngày Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Việt Minh củng cố được chánh quyền cộng sản ở Nam Việt th́ cả lănh thổ này không có quốc kỳ. Lá cờ là điểm hội tập các phần tử quốc gia Nam Việt quyết tâm tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là cờ của Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức được thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, để giúp vào việc cứu trợ những nạn nhơn của các cuộc oanh tạc của Đồng Minh và sau đó, tiếp tay vào việc giúp đỡ đồng bào miền Bắc bị nạn đói. Cờ của Thanh Niên Tiền Phong nền vàng, chính giữa có ngôi sao đỏ. Nó không hề được xem là quốc kỳ, nhưng v́ nó là cờ huy động các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn đứng lên tranh đấu với Quân Đội Viễn Chinh Pháp đến xâm chiếm Nam Việt trở lại nên tôi thấy có nhiệm vụ phải nhắc đến nó trong bài khảo cứu này về các lá cờ đă được dùng ở Việt Nam.

    3/ Cờ đỏ sao vàng của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam

    Khi cướp chánh quyền ở Bắc Việt hồi tháng 8 năm 1945, tập đoàn CSVN dưới tên Việt Minh đă dùng cờ đỏ sao vàng. Cờ này sau đó được họ dùng ở những nơi họ chiếm đoạt được và cho đến nay, vẫn được họ tiếp tục xem là quốc kỳ.

    4/ Cờ của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc

    Khi chiếm lại được các thành phố lớn ở Nam Việt, chánh quyền Pháp đă khuyến khích phong trào Nam Kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, họ đă cho thành lập Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc, tên Pháp là République de Cochinchine và Cộng Ḥa Quốc này đă có một quốc kỳ nền vàng, với 5 sọc vắt ngang ở giữa gần như quốc kỳ của ta hiện tại; nhưng thay v́ ba sọc đỏ và hai hai sọc vàng như quốc kỳ của ta, nó gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen nhau. Xét về mặt thẩm mỹ, cờ này rất khó coi. Bởi đó, trong những bài trào phúng trong báo Đuốc Việt là cơ quan ngôn luận bán chánh thức của Xứ Bộ Nam Việt Đại Việt Quốc Dân Đảng lúc ấy, tôi đă đặt cho nó cái biệt danh là lá cờ sốt rét.

    5/ Quốc kỳ của chúng ta hiện nay

    Quốc kỳ của chúng ta hiện nay do một họa sĩ nổi tiếng thời Thế Chiến II là Lê Văn Đệ vẽ và đă được Cựu Hoàng Bảo Đại chọn trong nhiều mẫu cờ khác nhau được tŕnh cho ông trong một phiên họp ở Hongkong năm 1948, gồm có ông và đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo cùng một số thân hào nhơn sĩ về phía người quốc gia Việt Nam. Như mọi người đều biết, nó có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng 1/3 bề ngang chung của lá cờ. Cờ vàng ba sọc đỏ đă được dùng làm quốc kỳ cho quốc gia Việt Nam khi chánh phủ lâm thời Việt Nam được thành lập ngày 2 tháng 6 năm 1948 dưới sự chủ tọa của Tướng Nguyễn Văn Xuân. Nó đă tiếp tục được dùng suốt thời Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng Ḥa Việt Nam, cho đến ngày nay.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    C/ Ư NGHĨA CỦA LÁ CỜ ĐĂ ĐƯỢC DÙNG LÀM QUỐC KỲ

    Trong các lá cờ mô tả trên đây, cờ vàng sao đỏ không hề được xem là quốc kỳ, cờ sốt rét của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc chỉ là cờ của một chánh phủ bù nh́n dùng trên bộ phận của nước Việt Nam. Vậy, đúng danh nghĩa quốc kỳ chỉ có bốn lá cờ: cờ long tinh, cờ quẻ Ly, cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN và cờ vàng ba sọc đỏ của người quốc gia Việt Nam. Lúc cờ vàng ba sọc đỏ ra đời, một số người đă gọi chung bốn lá cờ trên đây là cờ tứ linh: cờ long tinh dĩ nhiên là cờ long, chữ ly trong cờ quẻ Ly đồng âm với ly là con lân, cờ của tập đoàn CSVN được xem là qui v́ nó có ngôi sao 5 nhánh y như con rùa ló đầu và bốn chơn ra và quốc kỳ của chúng ta là phụng v́ nó có ba sọc đỏ nằm song song nhau như đuôi chim phụng.

    1/ Ư nghĩa và màu sắc của bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ

    Điều đáng để ư là cả bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ Việt Nam đều gồm hai màu vàng và đỏ. Tuy nhiên, màu sắc của lá cờ CS nền đỏ sao vàng có ư nghĩa hoàn toàn khác ba lá cờ về phía người quốc gia Việt Nam.

    a) Ư nghĩa lá cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN

    Đảng kỳ của Cộng Sản Đệ Tam Quốc nền đỏ trên có búa và liềm màu vàng. Quân Đội Cộng Sản Nga lúc nổi lên cướp chánh quyền th́ lấy ngôi sao đỏ làm biểu hiệu. Quốc kỳ của Liên Sô gồm huy hiệu của Đảng và Quân Đội nên cũng nền đỏ trên có búa liềm vàng và ngôi sao đỏ. Nhưng muốn cho ngôi sao đỏ hiện được trên nền đỏ của lá cờ, Cộng Sản Liên Sô đă phải dùng một viền màu vàng bao quanh nó. CSVN đă phỏng theo cờ Liên Sô để làm quốc kỳ. Nhưng năm 1945, họ c̣n phải giấu tánh chất cộng sản của họ nên không dám để búa liềm trên quốc kỳ này và chỉ dùng ngôi sao tượng trưng cho quân lực cộng sản. Điểm khác với Liên Sô là ngôi sao tượng trưng cho quân lực CSVN màu vàng chớ không phải màu đỏ viền vàng.

    Chúng ta không nên quên rằng hai điều căn bản trong điều lệ của Đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế do Lenin thành lập là người tuyên thệ vào đảng này phải xem Liên Sô là tổ quốc số một của ḿnh và phải triệt để tuân lịnh cơ quan lănh đạo của Đảng đặt tại Liên Sô. Lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ, Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN đă biểu lộ ư muốn xem lực lượng quân sự Việt Nam là một lực lượng phụ dịch cho Quân Đội Liên Sô, và như vậy th́ dĩ nhiên nước Việt Nam Cộng Sản phải là một nước chư hầu của Liên Sô.

    Ư muốn này đă được thực hiện hoàn toàn sau năm 1975. Lúc CSVN chiếm được Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ đă rút lực lượng quân sự khỏi Đông Nam Á Châu và sẵn sàng bắt tay với họ. Trung Cộng tuy không c̣n là thân hữu và có những hành động chống đối họ, nhưng không có sự uy hiếp quân sự đáng kể. Nếu CSVN giữ thái độ trung lập giữa Trung Cộng và Liên Sô, đồng thời tỏ ra ḥa hoăn với Hoa Kỳ, họ đă có thể nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để phát triển kinh tế và dựa vào cả Hoa Kỳ lẫn Liên Sô để hóa giải áp lực Trung Cộng. Nhưng tập đoàn CSVN đă công khai đứng về phía Liên Sô để gây hấn với Trung Cộng và cho Liên Sô dùng Việt Nam làm một căn cứ quân sự chống lại Trung Cộng, đồng thời uy hiếp lực lượng Hoa Kỳ ở Thái B́nh Dương. Hiện nay, mọi người đều thấy rơ nước Việt Nam Cộng Sản là một chư hầu của Liên Sô và lực lượng quân sự của CSVN chỉ là lực lượng phụ dịch của Hồng Quân Liên Sô.

    Tuy những điều kể trên đây chỉ mới thể hiện sau này, nhưng ư đồ của tập đoàn CSVN đă biểu lộ ngay từ lúc họ lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ. Vậy, cờ đỏ sao vàng là biểu tượng của tinh thần vọng ngoại chấp nhận làm thuộc hạ của Liên Sô. Nó hàm ư để cho Liên Sô có quyền can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Đối với những ai cho rằng Đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế đă bị giải tán năm 1943 nên Liên Sô không có quyền can thiệp vào việc nội bộ các nước cộng sản chư hầu, chúng tôi xin nhắc lại rằng Ông Brezhnev, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Sô khi biện minh cho việc Liên Sô can thiệp vào việc nội bộ của các nước cộng sản Đông Âu trong thập niên 1960 đă công khai nêu trước cộng đồng thế giới thuyết chủ quyền hạn chế theo đó một nước xă hội chủ nghĩa đàn anh (tức là Liên Sô) có quyền can thiệp vào việc nội bộ của các nước xă hội chủ nghĩa đàn em (trong đó dĩ nhiên là có Việt Nam) để bảo vệ các nguyên lư của xă hội chủ nghĩa.

    b) Ư nghĩa của màu vàng và màu đỏ của những quốc kỳ về phía người quốc gia

    Màu vàng và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia th́ có một ư nghĩa hoàn toàn khác. Theo một số người Việt Nam, hai màu của các quốc kỳ về phía người quốc gia biểu tượng cho dân Việt Nam da vàng máu đỏ. Tư tưởng này có lẽ đă bị ảnh hưởng ít nhiều lối giải thích về ư nghĩa lá cờ nửa vàng nửa đỏ mà Việt Nam Quốc Dân Đảng đă dùng trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy năm 1930. Nhưng lối giải thích trên đây không đúng đối với các quốc kỳ Việt Nam về phía người quốc gia. Các quốc kỳ này thật sự có một ư nghĩa sâu sắc hơn, liên hệ đến cả vũ trụ quan của dân tộc Việt Nam.

    Trong vũ trụ quan này, có sự liên hệ mật thiết giữa các màu sắc, phương hướng và ngũ hành. Màu vàng thuộc hành thổ và ở vị trí trung ương. V́ thế, nó vừa tượng trưng lănh thổ, vừa tượng trưng cho uy quyền của nhà lănh đạo tối cao được xem là sở hữu chủ của lănh thổ này. Các nhà vua Trung Hoa xưa kia cho ḿnh là kẻ làm chủ cả thiên hạ. Bởi đó, họ tự xưng là hoàng đế đứng trên các vị quốc vương làm vua một nuớc, và nắm giữ độc quyền dùng màu vàng làm y phục. Các nhà vua Việt Nam xưa kia v́ thế yếu hơn các nhà vua Trung Hoa và không muốn có những cuộc chiến tranh liên miên với họ chỉ v́ vấn đề danh phận nên đă phải chấp nhận làm chư hầu của hoàng đế Trung Hoa với tước hiệu quốc vương. Nhưng trái với các nhà vua Triều Tiên dùng tước hiệu quốc vương trong mọi trường hợp và không bao giờ dám mặc y phục màu vàng, các nhà vua Việt Nam chỉ dùng tước hiệu quốc vương trong sự giao thiệp với Trung Quốc, c̣n đối với thần dân trong nước và đối với các nước láng giềng khác, họ đă tự xưng là hoàng đế. Mặt khác, họ đă mặc y phục màu vàng y như nhà vua Trung Hoa. Như thế, trong tâm thức tự ngàn đời của dân tộc Việt Nam, việc dùng màu vàng là biểu tượng cho một chủ quyền nguyên vẹn của quốc gia, một nền độc lập hoàn toàn đối với Trung Quốc.

    Cũng trong vũ trụ quan Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa và chỉ phương nam. Do đó, dùng màu đỏ làm biểu tượng là nhấn mạnh trên chỗ dân tộc ta là một dân tộc ở phương nam, đối chiếu với dân tộc Trung Hoa ở phương bắc. Cùng với việc dùng màu vàng, nó nói lên quan điểm của người Việt Nam tự xem ḿnh là một dân tộc nắm trọn chủ quyền của nước ḿnh và ngang hàng với dân tộc Trung Hoa.

    Quan điểm trên đây đă được Nguyễn Trăi nêu ra rất rơ trong đoạn đầu của bài B́nh Ngô Đại Cáo:

    Như ngă Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi cương vực kư thù, Nam Bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lư Trần chi triệu tạo ngă quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhứt phương.

    Ư nghĩa chánh xác của đoạn văn trên này là:

    Như nước Đại Việt ta quả là một nước văn hiến. Bờ cơi núi sông (của nước ta và Trung Quốc) đă phân biệt nhau mà phong tục (của chúng ta là) dân phương nam cũng khác với phong tục (của người Trung Hoa là) dân phương bắc. Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lư, nhà Trần xây dựng nước ta, (các vua ta đă cùng các vua Trung Quốc của) nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên mỗi bên đều làm hoàng đế một phương.

    Trong bài này, chúng ta có thể nhận thấy rằng Nguyễn Trăi đă xem nhà Triệu là một triều đại Việt Nam, mặc dầu theo phần lớn các sử gia hiện tại, đó là một triều đại do người Trung Hoa thành lập. Như thế là v́ Triệu Đà là người đầu tiên áp dụng nguyên tắc nhận làm chư hầu của Trung Hoa để tránh việc tranh chiến, nhưng bên trong nước, vẫn tự xưng là hoàng đế, nghĩa là tự xem ḿnh ngang hàng với nhà vua Trung Hoa.

    Dầu quan điểm của chúng ta đối với nhà Triệu như thế nào th́ lập trường chung của dân tộc Việt Nam về sự độc lập hoàn toàn và chủ quyền nguyên vẹn của quốc gia cũng đă được nêu rơ trong bài B́nh Ngô Đại Cáo và được thể hiện rơ rệt với hai màu vàng và đỏ dùng trong các quốc kỳ được phía người quốc gia chọn lựa. Vậy, hai màu vàng và đỏ của các quốc kỳ này khác hẳn ư nghĩa của cờ đỏ sao vàng được tập đoàn CSVN dùng làm quốc kỳ. Hai màu vàng và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia đặt nền tảng trên bài B́nh Ngô Đại Cáo, một bản văn được một nhà ái quốc Việt Nam viết lên sau khi nước ta được giải phóng khỏi ách đô hộ của người Trung Hoa và biểu lộ tinh thần độc lập của dân tộc. Trong khi đó, cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN biểu lộ tinh thần nô lệ, thần thuộc nước ngoài v́ đặt nền tảng trên nguyên tắc tổ chức của Cộng Sản quốc tế ngày nay được nêu rơ trong thuyết chủ quyền hạn chế của nhà lănh tụ Liên Sô Brezhnev, theo đó, Liên Sô có quyền can thiệp vào việc nội bộ của các nước theo xă hội chủ nghĩa để bảo vệ chế độ xă hội chủ nghĩa.

    2/ Ư nghĩa đặc biệt của cờ quẻ Ly và cờ vàng ba sọc đỏ

    Ngoài ư nghĩa chung về màu sắc nói trên đây, cờ quẻ Ly và cờ vàng ba sọc đỏ c̣n có những ư nghĩa riêng cũng rất sâu sắc.

    a) Ư nghĩa cờ quẻ Ly

    Như chúng tôi đă nói trên đây, Ly là một quẻ của bát quái. Cũng như màu đỏ, nó tượng trưng cho phương nam. Trong vũ trụ quan của Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa, tượng trưng cho mặt trời hay lửa; quẻ Ly cũng tượng trưng cho mặt trời, cho lửa, cho ánh sáng, cho nhiệt lực và về mặt xă hội th́ tượng trưng cho sự văn minh.

    Về h́nh dạng th́ quẻ Ly trên cờ của chánh phủ Trần Trọng Kim gồm một vạch đỏ liền, một vạch đỏ đứt và một vạch đỏ liền. Do đó, bên trong quẻ Ly, hiện lên một nền vàng gồm hai vạch liền và một vạch đứng nối liền hai vạch ấy. Trong Hán văn, đó là chữ Công. Chữ công này được dùng trong các từ ngữ công nhơn, công nghệ để chỉ người thợ và nghề biến chế các tài nguyên để phục vụ đời sống con người. Vậy, ngoài ư nghĩa văn minh rạng rỡ, quẻ Ly c̣n hàm ư ca ngợi sự siêng năng cần mẫn và sự khéo léo của dân tộc Việt Nam trong các ngành hoạt động sản xuất kỹ nghệ.

    b) Ư nghĩa cờ vàng ba sọc đỏ

    Ÿ Ư nghĩa chánh trị:

    Trong lá quốc kỳ, nền vàng tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam nói chung và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Vậy, ba sọc đỏ nằm trên nền vàng hàm ư là nước Việt Nam gồm cả ba kỳ và dân tộc Việt Nam gồm người của cả ba kỳ.

    Ngày nay, sự thống nhứt của quốc gia và dân tộc Việt Nam là một điều không ai phủ nhận được nên người Việt Nam hiện tại không ư thức được sự gay go của cuộc tranh đấu đ̣i thống nhứt trong thập niên 1940, nhứt là ở Nam Việt. Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ kỳ có nghĩa là một phần đất của một quốc gia chớ không hàm ư một lănh thổ biệt lập. Các từ ngữ Bắc Kỳ, Nam Kỳ thật sự đă được triều đ́nh Huế dùng lúc nước Việt Nam chưa bị người Pháp xâm lăng để chỉ hai địa phương của một quốc gia thống nhứt. Sau khi xâm chiếm Việt Nam, người Pháp mới tách Nam Kỳ ra khỏi lănh thổ Việt Nam, rồi dùng từ ngữ Trung Kỳ để chỉ phần đất ở hai phía bắc và nam của kinh đô Huế. Nam Kỳ được Pháp trực tiếp cai trị như một phần đất của Pháp. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là lănh thổ của nhà Nguyễn chịu sự bảo hộ của Pháp, nhưng từ năm 1897, Pháp lại ép nhà vua Việt Nam phải giao quyền đại diện ḿnh cho một Thống Sứ Pháp thành ra Pháp đă can thiệp vào sự cai trị đất này một cách trực tiếp hơn ở Trung Kỳ.

    Trong hệ thống tổ chức của Pháp trước Thế Chiến II, ba kỳ của Việt Nam đă được xem như là ba lănh thổ biệt lập. Sau Thế Chiến II, kế hoạch của Pháp là thành lập một Liên Bang Đông Dương gồm 5 nước là ba kỳ của Việt Nam, Cam Bu Chia và Lào. Trong 5 nước này, Nam Kỳ là đất mà Pháp tha thiết muốn nắm giữ dưới quyền thống trị của ḿnh hơn hết v́ nó đă được họ trực tiếp cai trị từ năm 1867, lại là phần đat thạnh vượng trù phú nhứt. Bởi đó, họ đă nhứt định không chấp nhận một nước Việt Nam thống nhứt gồm cả ba kỳ. Tháng 3 năm 1946, họ đă cho thành lập Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc. Thiểu số người Việt Nam theo họ lúc đó đă chống lại quan niệm Việt Nam thống nhứt một cách mạnh mẽ. Các phần tử quá khích trong nhóm này đă xem đồng bào gốc Bắc Việt cư trú ở Nam Việt trong thời kỳ đó là người của một nước địch và thường hành hung đối với các đồng bào ấy. Trong các cuộc bố ráp hay chận đường xét giấy căn cước, họ thường bắt người dân nói ba tiếng “Tân Sơn Nhứt”, người nào không nói đúng giọng Miền Nam th́ bị họ đánh đập một cách tàn nhẫn.

    Sau mấy năm tác chiến ở Đông Dương, người Pháp ư thức rằng họ không thể áp đặt ở Việt Nam một chế độ thống trị theo khuôn khổ họ đặt ra. V́ cần dùng sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để có phương tiện tài chánh đối phó với CSVN, họ phải chấp nhận điều kiện của Hoa Kỳ là nh́n nhận nền độc lập của Việt Nam. Bởi đó, họ đă tiếp xúc và thương thuyết với Cựu Hoàng Bảo Đại. Tuy nhiên, họ chỉ muốn cho Việt Nam hưởng một nền độc lập h́nh thức, và thực quyền vẫn c̣n nằm trong tay họ. Mặt khác họ không chấp nhận sự thống nhứt của Việt Nam và t́m mọi cách giữ riêng Nam Kỳ dưới quyền cai trị trực tiếp của họ.

    Nhờ được Anh Nguyễn Tôn Hoàn từ Trung Hoa về cho biết về t́nh thế và nhận chân rằng chỉ có Cựu Hoàng Bảo Đại mới có thể đại diện cho người quốc gia Việt Nam trong cuộc thương thuyết với Pháp nên Xứ Bộ Nam Việt của Đại Việt Quốc Dân Đảng đă phát động phong trào đ̣i thi hành giải pháp Bảo Đại với một nước Việt Nam độc lập và thống nhứt. Lúc ấy, người Pháp đă đàn áp phong trào này ở Nam Việt một cách mạnh mẽ. Một số đồng chí của tôi trong đó có Anh Dương Quang Tiếp (sau này phục vụ trong Quân Đội và trong ngành cảnh sát với cấp bực đại tá và đă từ trần trong trại tù cộng sản) đă bị Pháp bắt và đánh đập tàn nhẫn khi rải truyền đơn đ̣i thi hành giải pháp Bảo Đại.

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    Tuy được sự yểm trợ của Hoa Kỳ trong cuộc thương thuyết, Cựu Hoàng Bảo Đại không nắm được ưu thế hoàn toàn đối với Pháp v́ lúc đó, Trung Cộng đă thắng thế hơn Trung Hoa Dân Quốc và CSVN có triển vọng được Trung Cộng giúp đỡ trong tương lai. Người Pháp đă cho Cựu Hoàng Bảo Đại biết rằng nếu không thỏa thuận được với ông, họ sẽ thươn g thuyết với Hồ Chí Minh. Nhận thấy thời gian không thuận lợi cho ḿnh, Cựu Hoàng Bảo Đại đă phải nhượng bộ cho Pháp về mặt độc lập, nghĩa là chấp nhận để cho Việt Nam ở trong Liên Hiệp Pháp với những mối liên hệ chặt chẻ với Pháp, nhưng cương quyết đ̣i Pháp phải nhận cho Việt Nam thống nhứt. Người Pháp đă phải nhượng bộ ông về vấn đề này.

    Nhưng ngay đến lúc chánh phủ Pháp chấp nhận cho Nam Kỳ được sáp nhập vào lănh thổ Việt Nam, đám thực dân ở Nam Việt vẫn chưa chịu thua và nhiệt liệt chống lại việc ay. V́ Nam Kỳ được xem là một lănh thổ của Pháp mà theo nền pháp lư của Pháp th́ mọi quyết định liên hệ đến qui chế của đất này phải có sự chấp thuận của một hội nghị địa phương tên là Hội Đồng Lănh Thổ Nam Kỳ (Assemblée Territoriale de Cochinchine), thực dân Pháp đă dự liệu bỏ ra một số tiền lớn để mua chuộc những người Pháp và người Nam Kỳ có quốc tịch Pháp được bầu vào Hội Đồng đó biểu quyết chống lại việc sáp nhập Nam Kỳ vào lănh thổ Việt Nam. Chúng tôi đă biết được kế hoạch này và đă nhiệt liệt chỉ trích nó trên hai tờ báo Đuốc Việt (cơ quan ngôn luận bán chánh thức của Xứ Bộ Nam Việt Đại Việt Quốc Dân Đảng) và Thanh Niên (cơ quan ngôn luận chánh thức của một tổ chức do Xứ Bộ này thành lập là Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn).

    Sự tố cáo của chúng tôi làm cho người Pháp rất căm tức. Tướng Boyer de la Tour du Moulin, Ủy Viên Cộng Ḥa Pháp ở Nam Kỳ lúc đó đă mời một đồng chí của tôi là Anh Đỗ Văn Năng, Thủ Lănh Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn, đến gặp ông và bảo rằng:

    - Xin ông nhớ cho rằng tôi là người Pháp có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của nước Pháp. Các hoạt động của đoàn thể ông có hại cho quyền lợi này. Các ông phải chấm dứt nó hay ít nhứt cũng giảm thiểu nó, nếu không, tôi buộc ḷng phải đối phó một cách quyết liệt. Tôi sẽ rất tiếc nếu phải làm như vậy, v́ tôi lúc nào cũng tôn trọng ông là người mà tôi nh́n nhận là rất đứng đắn.

    Anh Đỗ Văn Năng đă điềm tĩnh trả lời:

    - Tôi rất cám ơn ông đă tỏ ra thành thật với tôi, và tôi thấy có nhiệm vụ cũng phải thành thật đối với ông. Xin ông hiểu giùm cho rằng ông yêu nước Pháp như thế nào th́ tôi yêu nước Việt Nam như thế ấy và ông có quyết tâm bảo vệ quyền lợi Pháp như thế nào th́ tôi cũng có quyết tâm bảo vệ quyền lợi nước Việt Nam như thế ấy.

    Sau đó, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến dịch tố cáo các âm mưu của thực dân Pháp ở Nam Việt t́m cách phá hoại các giao ước giữa chánh phủ Pháp với Cựu Hoàng Bảo Đại về vấn đề thống nhứt Việt Nam. Mặt khác, Cựu Hoàng Bảo Đại lúc ấy c̣n ở Âu Châu đă cho biết rằng ông chỉ chịu về nước lănh đạo chánh phủ nếu việc tái nhập Nam Kỳ vào lănh thổ Việt Nam được xác định một cách rơ rệt. Cuối cùng, các hội viên của Hội Đồng Lănh Thổ Nam Kỳ đă không dám chống hẳn lại việc thống nhứt Việt Nam. Họ chỉ ghi thêm trong quyết nghị biểu quyết ngày 23 tháng 4 năm 1949 chấp nhận để Nam Kỳ được sáp nhập vào lănh thổ Việt Nam một điều kiện là nếu có sự thay đổi trong mối liên hệ giữa Việt Nam với Liên Hiệp Pháp th́ Nam Kỳ sẽ lại được quyền tự quyết định về số phận ḿnh.

    Đám thực dân Pháp ở Nam Kỳ rất thù hận chúng tôi về việc đă chống lại họ một cách mănh liệt về vấn đề thống nhứt Việt Nam. Do đó, họ ngầm thông đồng với bọn công tác thành của CSVN và để cho một cán bộ trong bọn công tác này là La Văn Liếm hạ sát Anh Đỗ Văn Năng ở Sài G̣n vào những tháng đầu năm 1950. Ngoài anh ra, chắc hẳn c̣n có nhiều người Việt Nam khác thuộc các tổ chức ái quốc đă bị Pháp sát hại v́ cuộc tranh đấu cho Việt Nam thống nhứt.

    Vậy, đồng bào gốc Bắc Việt vào cư trú Nam Việt trước 1945 và người Nam Việt chủ trương thống nhứt đă phải tranh đấu rất gay go, có người phải thiệt mạng v́ chủ trương này. Bởi đó, sọc đỏ thứ ba trên quốc kỳ tượng trưng cho Nam Việt thật sự đă được tô bằng máu của nhiều nhà ái quốc và điều này làm cho cờ vàng ba sọc đỏ có một ư nghĩa chánh trị sâu xa mà nhiều người Việt Nam hiện nay không thấy được.

    Một quyết định khác của Quốc Trưởng Bảo Đại khi ông mới về nước năm 1949 cũng có một ư nghĩa chánh trị ít ai được biết là việc chọn Sài G̣n làm thủ đô. V́ là người kế thừa nhà Nguyễn nên Quốc Trưởng Bảo Đại rất muốn đặt chánh phủ thống nhứt của Việt Nam ở Huế là kinh đô cổ truyền của triều đại ḿnh. Nhưng lúc ấy, nhà cách mạng lăo thành Trần Văn Ân đă bàn với ông là nếu ông lấy Huế làm thủ đô, việc sáp nhập Nam Kỳ vào lănh thổ Việt Nam không được thể hiện rơ rệt đối với người Việt Nam và người ngoại quốc và nền thống nhứt thâu hoạch được một cách gay go sẽ không vững chắc. Đặt thủ đô ở Sài G̣n để cho mọi chánh lịnh ban hành trong toàn quốc Việt Nam phát xuất từ Nam Việt th́ tánh cách thống nhứt của nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan hiển hiện trước mắt và trong tâm thức mọi người thành ra không ai c̣n hoài nghi hay phủ nhận sự thống nhứt đó được nữa. Quốc Trưởng Bảo Đại tán thành ư kiến trên đây của Ông Trần Văn Ân và quyết định lập chánh phủ thống nhứt ở Sài G̣n, mặc dầu ông không thích ở Sài G̣n v́ chánh quyền Pháp lúc đó chịu giao Phủ Cao Ủy ở Hà Nội cho ông mà lại giữ Phủ Cao Ủy ở Sài G̣n là Dinh Norodom (sau này gọi lại là Dinh Độc Lập) thành ra tại Sài G̣n, Phủ Thủ Tướng của Việt Nam kém bề thế hơn Phủ Cao Ủy của Pháp.

    Ÿ Ư nghĩa triết lư:

    Về mặt triết lư, trong bát quái, ba vạch liền là quẻ Càn, tượng trưng cho trời, cho vua, cho cha và cho quyền lực. Ngày nay, chúng ta sống trong chế độ dân chủ và quẻ Càn trên quốc kỳ có thể dùng để tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam và sức mạnh của toàn dân ta.

    3/ Cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng

    Ÿ So sánh cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng về mặt thẩm mỹ:

    Nói chung th́ trên một lá cờ gồm hai màu, một đậm, một lợt th́ nếu màu đậm quá nhiều và làm nền c̣n màu lợt quá ít và làm dấu hiệu phụ thuộc th́ màu lợt bị màu đậm tràn ngập và lá cờ trở thành tối. Trái lại, nếu màu lợt nhiều hơn và làm nền c̣n màu đậm ít hơn và làm dấu hiệu phụ thuộc th́ màu đậm in rơ lên nền màu lợt và cả hai màu đều sáng chói.

    Quốc kỳ của tập đoàn CSVN gồm một ngôi sao vàng nhỏ trên nền đỏ, màu vàng của ngôi sao bị nền đỏ sậm hơn tràn ngập nên chỉ hiện lên như một tia sáng yếu ớt và cả lá cờ xem rất tối.

    Quốc kỳ của người quốc gia chúng ta trái lại, dùng màu vàng làm nền và ba sọc đỏ sậm hơn đă hiện rơ lên nền vàng này thành ra cả hai màu đều tươi sáng. Vậy, chỉ xét riêng về mặt thẩm mỹ, quốc kỳ của chúng ta tươi đẹp hơn quốc kỳ của tập đoàn CSVN rất nhiều.

    Điều đó cũng không có chi lạ. Quốc kỳ của chúng ta do một họa sĩ nổi tiếng vẽ ra, c̣n cờ của tập đoàn CSVN chỉ là sự mô phỏng nô lệ cờ một đế quốc có chủ trương sắt máu và không có ư thức ǵ về cái đẹp.

    Ÿ So sánh cờ vàng ba sọc đỏ với cờ đỏ sao vàng về mặt triết lư:

    Nếu lấy nền triết lư cổ truyền của dân tộc Việt Nam làm căn bản để phán đoán th́ cờ vàng ba sọc đỏ của chúng ta cũng có một ư nghĩa tốt đẹp hơn cờ đỏ sao vàng nhiều. Theo quan niệm cổ của dân tộc Việt Nam, màu vàng thuộc hành thổ và màu đỏ thuộc hành hỏa và v́ hỏa sanh thổ nên hai màu này rất hợp với nhau. Nhưng trên cờ đỏ sao vàng, màu đỏ quá nhiều, màu vàng quá ít, cũng như khối lửa lớn hay một ánh nắng gay gắt nung đốt một ḥn đất nhỏ thành ra ḥn đất bị khô cằn đi. Trong khi đó, trên cờ vàng ba sọc đỏ, ba sọc đỏ nhỏ như những tia nắng rọi xuống một mặt đất rộng răi làm cho mặt đất này ấm áp và có điều kiện thuận lợi cho cây cỏ mọc lên được.

    Ư nghĩa về triết lư trên đây thật ra cũng phù hợp với bản chất của chế độ chánh trị hai bên. Chế độ cộng sản là một chế độ độc tài toàn diện đè ép nhơn dân, phủ nhận các quyền lợi căn bản của con người, làm thui chột các sáng kiến nên không thể phát triển được. Dưới quyền của tập đoàn CSVN, nước Việt Nam đă trở thành một mảnh đất cằn cỗi không sinh khí và xă hội Việt Nam lọt vào sự đói khổ cùng cực. Chế độ quốc gia dung nạp sự tự do, tôn trọng các quyền lợi căn bản của con người và khuyến khích sáng kiến nên mặc dầu các nhà lănh đạo về phía quốc gia đă phạm nhiều lỗi lầm trầm trọng, mặc dầu CSVN đă gây nhiều tàn sát và phá hoại, phần lănh thổ Việt Nam do người quốc gia điều khiển đă là một mảnh đất đầy sinh khí và nhơn dân Việt Nam trên lănh thổ này đă hưởng một nếp sống tương đối tự do và trù phú hơn.

    D/ VẤN ĐỀ THAY ĐỔI QUỐC KỲ

    1/ Các lập luận đưa ra để phủ nhận cờ vàng ba sọc đỏ

    Sau năm 1975, trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại có một số người chủ trương phủ nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ. Trong số những người này, có kẻ bảo rằng đó là cờ thua trận, có kẻ bảo rằng đó là một lá cờ của một chế độ tham nhũng thúi nát, có kẻ cho rằng đó là cờ của Bảo Đại, cờ của Ông Ngô Đ́nh Diệm hay cờ của Ông Nguyễn Văn Thiệu là những người lănh đạo mà họ cho là không xứng đáng.

    2/ Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc kỳ

    Thật sự th́ quốc kỳ một nước thường có ư nghĩa sâu xa liên hệ đến văn hóa và lịch sử dân tộc. Dầu cho nó do ai chọn lựa và chọn lựa như thế nào th́ một khi đă được dùng làm quốc kỳ, nó cũng không c̣n có thể được xem là của cá nhơn nào mà phải được xem là của toàn thể nhơn dân trong nước. Bởi đó, số phận quốc kỳ không thể cột buộc vào số phận một nhà lănh đạo, vào những ưu khuyết điểm của một chế độ hay vào sự thắng bại trong một cuộc tranh đấu. Trong lịch sử thế giới, không ai chủ trương phủ nhận quốc kỳ của ḿnh hay thay đổi nó v́ các lư do trên. Việc thay đổi quốc kỳ chỉ được đặt ra khi trong nước có những quan niệm chánh trị mới hoàn toàn khác quan niệm làm căn bản cho chế độ quốc gia.

    Như chúng tôi đă nói trên đây, lá quốc kỳ đầu tiên được dùng trên thế giới là cờ tam sắc của Pháp. Nó là kết quả một sự tương nhượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xă Paris. Sau đó, nhà vua Louis thứ XVI của Pháp đă chống lại Cách Mạng và bị xử tử, nhưng chánh phủ cách mạng Pháp vẫn chánh thức lấy lá cờ tam sắc làm quốc kỳ.

    Lúc ḍng vua chánh thống của Pháp được đưa lên ngôi báu trở lại, họ đă dùng lá cờ trắng có hoa huệ vàng của hoàng gia làm quốc kỳ, nhưng cờ này chỉ được dùng từ năm 1816 đến năm 1830. Với cuộc Cách Mạng 1830, ḍng Orléans được đưa lên thay ḍng vua chánh thống và cờ tam sắc đă được dùng làm quốc kỳ trở lại.

    Năm 1848, ḍng Orléans lại bị lật đổ. Một số nhà cách mạng tả khuynh thời đó đă chủ trương dùng cờ đỏ thay cờ tam sắc làm quốc kỳ, nhưng sau một bài diễn văn cảm động của thi hào Lamartine, người Pháp đă quyết định giữ cờ tam sắc. Lúc ấy, người Pháp lập Đệ Nhị Cộng Ḥa. Nhưng người đầu tiên được bầu làm Tổng Thống của nền cộng ḥa này lại là cháu của Hoàng Đế Napoléon thứ I. Năm 1850, ông đảo chánh để lên ngôi hoàng đế với danh hiệu Napoléon thứ III. Đến năm 1870, v́ gây chiến với Đức và bị thảm bại nên ông phải thoái vị.

    Quốc Hội Pháp được bầu vào lúc đó gồm nhiều người bảo hoàng muốn tái lập chế độ quân chủ và tôn làm quốc vương Bá Tước Chambord, người lănh đạo ḍng vua chánh thống từ năm 1836. Nhưng Bá Tước Chambord đ̣i hỏi phải bỏ cờ tam sắc để lấy cờ trắng thêu hoa huệ vàng làm quốc kỳ. Những người bảo hoàng nhiệt tâm nhứt đều biết rằng quốc dân Pháp lúc đó không chấp nhận cờ trắng thêu hoa huệ vàng thay cờ tam sắc nên cố thuyết phục Bá Tước Chambord bỏ ư định của ông. Thống Chế Mac Mahon là một lănh tụ bảo hoàng đă bảo rằng, “Nếu dùng lá cờ trắng thay lá cờ tam sắc th́ không cần ai bấm c̣, súng cũng tự nổ.” V́ Bá Tước Chambord vẫn khăng khăng phủ nhận lá cờ tam sắc nên cuối cùng phe bảo hoàng phải từ bỏ chủ trương tái lập chế độ quân chủ.

    Thời Thế Chiến II, Thống Chế Pétain đă chịu đầu hàng người Đức trong khi Tướng De Gaulle chạy sang Anh kêu gọi người Pháp kháng chiến. Lúc ấy, có hai lực lượng Pháp đối đầu nhau và cả hai đều dùng lá cờ tam sắc. Để phân biệt hai bên, Tướng De Gaulle chỉ dùng một cây thánh giá Lorraine gồm hai nhánh ngang và một nhánh dọc đặt trên cờ để làm hiệu kỳ cho Lực Lượng Pháp Quốc Tự Do (LLPQTD) của ông. Đến khi giải phóng được nước Pháp, ông đă không v́ cớ cờ tam sắc đă bị Thống Chế Pétain dùng trong khi đầu hàng Đức để xin thay đổi nó. Do đó, cờ tam sắc vẫn là quốc kỳ của Pháp và lá cờ có dấu thập tự Lorraine chỉ được xem là hiệu kỳ của LLPQTD.

    Nói chung lại th́ từ năm 1789, ở Pháp có ba quan niệm chánh trị căn bản thể hiện bằng ba lá cờ: quan niệm quân chủ chánh thống với cờ trắng thêu hoa huệ vàng, quan niệm cách mạng tả phái với cờ đỏ và quan niệm dân chủ tự do với cờ tam sắc. Cờ tam sắc biểu tượng được lư tưởng chung của đa số dân Pháp nên đă được chọn làm quốc kỳ và các mưu toan thay đổi nó đều không thành tựu được.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    3/ Nhiệm vụ người quốc gia Việt Nam đối với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ

    Người quốc gia Việt Nam ta may mắn có một lá quốc kỳ rất đẹp và oai hùng. Phải thấy cờ này bay phấp phới trên một nền trời trong xanh mới thấy hết cái đẹp oai hùng đó. Mặt khác, cờ vàng ba sọc đỏ mang nhiều ư nghĩa triết lư và chánh trị tuyệt hảo, hơn hẳn lá cờ đỏ sao vàng chống đối lại nó. Từ khi Quốc Gia Việt Nam được công nhận là một nước độc lập, cờ vàng ba sọc đỏ đă được nhiều quốc gia trên thế giới biết. Tại Việt Nam, nó đă là biểu tượng hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn cũng như dân sự tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đă được dùng để phủ lên áo quan của nhiều trăm ngàn người đă chết v́ Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó là một bảo vật thiêng liêng đối với mọi người chúng ta.

    Hiện nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không c̣n được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng nó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng sản tàn ác, phi nhơn và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống lại Cộng Sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc đỏ về các mặt này. Vậy, việc tỏ ḷng tôn trọng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và dùng nó một cách rộng răi ở nơi nào có người quốc gia Việt Nam là một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi ách Cộng Sản.

    Việc một hội đoàn Việt Nam dùng làm hiệu kỳ một lá cờ nền vàng ba sọc đỏ trên có biểu tượng riêng cho ḿnh là một điều hữu ích cho công cuộc tranh đấu chống lại Cộng Sản. Khi Liên Minh Dân Chủ Việt Nam (LMDCVN) áp dụng nguyên tắc trên đây và thêm 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh trên cờ vàng ba sọc đỏ để làm đoàn kỳ của ḿnh, một số người đă chỉ trích v́ cho rằng như vậy là bất kính đối với quốc kỳ. Nhưng sự thật không phải như vậy. Việc dùng một biểu hiệu thêm vào quốc kỳ để làm hiệu kỳ cho một tổ chức tranh đấu cho Tổ Quốc là một điều mà người các nước đă từng làm. Như trên đây đă nói, khi thành lập LLPQTD để chống lại chánh phủ Pétain, Tướng De Gaulle đă dùng một cây thập tự Lorraine thêm vào quốc kỳ Pháp. Vậy, việc đoàn kỳ của LMDCVN là một quốc kỳ trên có 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh chỉ hàm ư rằng LMDCVN là một tổ chức của VNCH tranh đấu dưới lá quốc kỳ Việt Nam, và 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh chỉ để phân biệt nó với những tổ chức tranh đấu khác nhưng cùng một mục tiêu chung.

    Trong khi chưa giải phóng được Việt Nam và chưa làm cho nó được chánh thức dùng trở lại trên toàn cơi Việt Nam, nhiệm vụ người Việt Nam ở hải ngoại là làm cho cờ này vẫn được sử dụng ở mọi nơi có người quốc gia Việt Nam, đặc biệt là trong những hoạt động có liên hệ đến người ngoại quốc. Về mặt này, chúng ta phải ghi công cố Đại Tá Đỗ Đăng Công, nguyên Tổng Thư Kư của Phân Bộ Việt Nam trong Liên Minh Thế Giới Chống Cộng (LMTGCC). Sau năm 1975, lúc CSVN vừa chiếm được Miền Nam Việt Nam, ban tổ chức của liên minh này đă không c̣n dùng cờ vàng ba sọc đỏ trong các phiên họp của họ. Nhưng bằng những lời lẽ hợp lư, cương quyết và cảm động, cố Đại Tá Đỗ Đăng Công đă làm cho họ thay đổi ư kiến và từ đó, quốc kỳ của chúng ta đă được long trọng dùng chung với cờ của các nước hội viên khác của LMTGCC ở mọi nơi.

    Ngoài ra, c̣n có những người khác cũng có những công tác tương tự. Khi đến thuyết tŕnh về vấn đề Việt Nam ở Viện Đại Học OSU (Oregon State University) tại Cornvallis ngày 30 tháng 11 năm 1987, tôi được biết rằng các anh chị em sinh viên Việt Nam ở Viện Đại Học này đă hai lần tranh đấu với ban giám đốc để cho cờ vàng ba sọc đỏ vẫn được treo với tư cách là quốc kỳ Việt Nam ở một hội trường trưng bày cờ các nước. Phía Canada th́ Cộng Đồng Việt Nam đă tranh đấu để cho thị xă Toronto chấp nhận để cho quốc kỳ Việt Nam được treo lên một tuần lễ mỗi năm tại kỳ đài của thị xă vào dịp 30 tháng 4. Tại Los Angelès (California) th́ Cộng Đồng Việt Nam đă được chấp nhận cho xây dựng một kỳ đài để quốc kỳ Việt Nam sẽ được treo liên tục suốt năm. Tại San Jose (California), Cộng Đồng Việt Nam cũng sẽ xây dựng một kỳ đài tương tự. Ngoài ra, trong dịp Tết Mậu Th́n, quốc kỳ Việt Nam đă được treo trong suốt một tuần lễ ở trụ sở các tỉnh Santa Clara, thị xă San José và thị xă Milpitas.

    Có lẽ trên thế giới c̣n có những nơi mà đồng bào Việt Nam đă tranh đấu và thành công trong việc làm cho quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ được cộng đồng quốc tế chấp nhận treo lên mà chúng tôi không được biết nên không nêu ra đây được. Riêng Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do (UBQTYTVNTD) th́ dĩ nhiên là chánh thức công nhận quốc kỳ này. Ngày 4 tháng 12 năm 1986, khi tổ chức buổi hội thảo công khai đầu tiên của Ủy Ban, Ông Chủ Tịch Paul Vankerkhoven đă đích thân kiểm soát việc trang trí pḥng hội thảo. Tại pḥng này, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đă được treo chung với cờ các quốc gia trong Cộng Đồng Âu Châu và đặc biệt là được treo ở chỗ danh dự là ngay bên hữu cờ Bỉ là cờ của nước chủ nhà. Chắc chắn là trong mọi cuộc hội họp công cộng của UBQTYTVNTD mà có treo cờ th́ quốc kỳ của chúng ta sẽ được treo chung với cờ các nước khác.

    Việc quốc kỳ của chúng ta lần lần tái hiện bên cạnh cờ các quốc gia khác trên thế giới là một dấu hiệu cho thấy rằng công cuộc tranh đấu để giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản có những tiến triển khả quan. Hiện nay, quốc kỳ này là biểu hiệu hội tập mọi người quốc gia Việt Nam: dầu có bất đồng ư kiến, dầu có những hiềm khích đối với nhau, mọi người quốc gia đều nên tôn trọng quốc kỳ và nếu mọi người đều quyết tâm tranh đấu chung nhau hay ít nhứt cũng song song nhau th́ một ngày không xa lắm, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ sẽ phấp phới bay trên mọi nóc nhà Việt Nam từ mũi Cà Mau cho đến ải Nam Quan.

    II. QUỐC CA VIỆT NAM

    A/ SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ư NIỆM QUỐC CA
    TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI

    Ư niệm quốc ca đă từng xuất hiện một lượt với ư niệm quốc kỳ. Từ ngàn xưa, loài người đă có dùng những bản nhạc hay bài ca để đánh dấu sự có mặt của một nhơn vật lănh đạo. Nhưng thời trước, với chế độ quân chủ, các bản nhạc hay bài hát loại này được xem là biểu tượng riêng của cá nhơn nhà vua, nhá quí tộc hoặc nhà đại diện cho các cự tộc cầm đầu cộng đồng. Về nội dung, nó có thể là một bài để cho nhơn vật lănh đạo này cầu nguyện trời hay thần linh phù hộ ông, một bài chúc tụng ông, đề cao công nghiệp của ông hay của gia tộc ông, hay một bài mô tả cảnh thái b́nh thạnh trị, hoặc sự cường thạnh của cộng đồng mà ông là chủ nhơn.

    Chỉ với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, khi quốc gia được xem là sở hữu của toàn thể mọi người sống trong cộng đồng mới có bài hát được dùng làm biểu tượng chung cho toàn thể quốc dân. Người Pháp đă dùng từ ngữ “hymne national” để chỉ loại bài hát này. Quan niệm của người Pháp lần lần được người nước khác chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đă dùng từ ngữ “national anthem” khi nói đến bài hát tiêu biểu cho nước ḿnh. Hymne national của Pháp hay national anthem theo tiếng Anh đă được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc thiều nếu nhấn mạnh trên phần âm nhạc, hay quốc ca khi nhấn mạnh trên phần lời nói.

    Về phần thực hiện cụ thể th́ bản quốc ca đầu tiên trên thế giới là bài Marseillaise của Pháp. Bài này do một đại úy công binh Pháp tên Rouget de Lisle làm năm 1792 với tên là Chiến Ca Của Lộ Quân Sông Rhin (Chant De Guerre Pour l’Armée Du Rhin). Nhưng sau đó, nó được nổi tiếng khi được một tiểu đoàn chí nguyện quân gồm người gốc ở thị xă Marseille hát trong lúc kéo từ Marseille lên thủ đô Paris nên có tục danh là bài Marseillaise. Bài hát này đă được phổ biến rộng răi ở Pháp từ năm 1792 và đến năm 1795, nó đă được chánh thức chọn làm quốc ca của Pháp.

    Sau khi người Pháp tung ra ư niệm quốc ca, nhiều nước khác đă chấp nhận ư niệm này và đều có quốc ca. Có khi quốc ca được chọn là một bài đă được dùng để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Đó là trường hợp bài God Save The King (Trời Phù Hộ Đức Vua) hay God Save The Queen (Trời Phù Hộ Nữ Hoàng) nếu quốc trưởng là một nữ hoàng. Bài này đă được dùng ở Anh từ trước Cách Mạng Pháp, nhưng đến năm 1825 mới được chánh thức xem là quốc ca của nước Anh.

    B/ CÁC BẢN NHẠC ĐĂ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM
    VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC THIỀU VÀ QUỐC CA

    1/ Quốc ca xuất hiện đầu tiên:
    bản Đăng Đàn Cung của Hoàng Đế Bảo Đại

    Ở Việt Nam trước đây, cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, có những bản nhạc và bài hát được dùng trong các lễ long trọng để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Về ư niệm quốc thều hay quốc ca, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.

    Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc thiều và quốc ca. Nam Kỳ lúc ấy là thuộc địa Pháp và khi có các cuộc lễ lớn th́ bản nhạc được dùng là bài Marseillaise của người Pháp. Ở Huế th́ triều đ́nh nhà Nguyễn có một số bản nhạc được dùng khi có sự hiện diện của nhà vua. Nhưng các bản nhạc trên đây không phải là quốc thiều hay quốc ca theo đúng nghĩa kim thời của nó.

    Đến thời Thế Chiến II, Hoàng Đế Bảo Đại mới ấn định quốc thiều và quốc ca một lượt với quốc kỳ. Bản quốc thiều và quốc ca này là bản Đăng Đàn Cung. Đó là một bản nhạc cổ điển của Việt Nam và được triều đ́nh Huế dùng khi nhà vua ngự đến đài Nam Giao để đại diện cho tất cả thần dân làm lễ tế trời. Lễ này ba năm cử hành một lần và được xem là cuộc lễ quan trọng hơn hết của triều đ́nh. Do đó, bản Đăng Đàn Cung được xem là bản nhạc trang nghiêm nhứt. V́ vậy, Hoàng Đế Bảo Đại đă dùng nó làm quốc thiều và quốc ca trong khi cờ long tinh được chọn làm quốc kỳ. Cũng như cờ long tinh, bản Đăng Đàn Cung chỉ được dùng trên lănh thổ Đại Nam tức là Trung Kỳ và Bắc Kỳ, c̣n ở Nam Kỳ bị xem là lănh thổ Pháp th́ bản Marseillaise vẫn phải được dùng.

    2/ Quốc ca thứ nh́:
    bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông thời chánh phủ Trần Trọng Kim

    Sau khi Nhựt đảo chánh Pháp và Việt Nam tuyên bố độc lập, chánh phủ Trần Trọng Kim đă ban bố một chương tŕnh hưng quốc ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân được chọn làm quốc ca. Lời ca của bản nhạc này như sau:

    Việt Nam, minh châu trời Đông!
    Việt Nam, nước thiêng Tiên Rồng!
    Non sông như gấm hoa uy linh một phương,
    Xây vinh quang ngất cao bên Thái B́nh Dương.
    Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi.
    Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.
    Máu ai c̣n vương cỏ hoa.
    Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà.
    Giơ tay cương quyết, Ta ôn lời thề ước.
    Hy sinh tâm huyết, Ta báo đền ơn nước.
    Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,
    Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.

    Bản quốc ca này được dùng chung với cờ quẻ Ly ở Bắc và Trung Việt, nhưng không được dùng ở Nam Việt v́ Nam Việt đă bị người Nhựt thay người Pháp điều khiển một cách trực tiếp và chỉ được trả cho triều đ́nh Huế lúc Hoàng Đế Bảo Đại đă sắp thoái vị rồi. Vậy, trong thời kỳ từ khi người Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Mặt Trận Việt Minh củng cố được chánh quyền của nó ở Nam Việt, cả lănh thổ này không có quốc ca. Bài hát được người quốc gia ở Nam Việt dùng khi đứng lên tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên của Thanh Niên Tiền Phong, chung với cờ vàng sao đỏ cũng của tổ chức này. Như chúng tôi sẽ tŕnh bày sau đây, bản nhạc của bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên này chính là bản nhạc của bài quốc ca mà chúng ta đang dùng.

    3/ Quốc ca thứ ba:
    bản Tiến quân ca của tập đoàn CSVN

    Khi cướp được chánh quyền. tập đoàn CSVN đă dùng làm quốc ca bản Tiến Quân Ca của nhạc sĩ Văn Cao. Bản nhạc này đă được họ bắt đầu dùng khi tổ chức các đơn vị vơ trang đầu tiên và cho đến nay, vẫn được họ dùng làm quốc ca.

    4/ Quốc ca của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc

    Khi Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc thành lập năm 1946, những người cầm đầu phong trào Nam Kỳ Tự Trị đă dùng làm quốc ca một bản phổ nhạc của mấy câu thơ đầu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc mà tác giả là Giáo Sư Vơ Văn Lúamột giáo sư trung học thời Pháp thuộc. Sau đó, Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc lại dùng một bản nhạc khác cũng của vị giáo sư này làm quốc ca, nhưng về nhạc và lời, bản sau này cũng chẳng hơn ǵ bản trước. Các bản quốc ca quái đản trên đây thật xứng với lá cờ sốt rét dùng làm quốc kỳ cho Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc. Nó đă là một đề tài chế giễu của người dân Nam Việt lúc đó và ngày nay nhắc lại nó, chúng tôi không biết nên cười hay nên khóc v́ tuy hết sức lố bịch, nó đă được dùng làm biểu tượng cho một tổ chức chống lại nền thống nhứt của Việt Nam và đă gây nhiều đau khổ chết chóc cho những người tranh đấu cho nền thống nhứt này.

    5/ Quốc ca của chúng ta ngày nay

    Bản quốc ca của chúng ta hiện nay có một lịch sử đặc biệt. Người sáng tác bản nhạc là Lưu Hữu Phước, một cựu học sinh trường trung học Pétrus Kư và cựu sinh viên Viện Đại Học Hà Nội. Nếu tôi không lầm th́ bản nhạc này đă được soạn ra lúc Lưu Hữu Phước c̣n học ở trường Pétrus Kư. Năm 1942, anh ta là sinh viên của Viện Đại Học Hà Nội. Thời Thế Chiến II, Viện Đại Học này là Viện Đại Học duy nhứt của các nước Đông Dương. Nó có khoảng 800 sinh viên trong đó phân nửa là người Việt Nam, c̣n lại là người Khmer, người Lào, người Pháp và ngay cả người một số nước láng giềng như Trung Quốc và các nước Đông Nam Á Châu.

    V́ là Viện Đại Học duy nhứt của Đông Dương nên Viện Đại Học Hà Nội đă họp tập tất cả sinh viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái quốc gia nhập các chánh đảng cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam đă tổ chức những tổ bí mật tại đó. Đặc biệt Đại Việt Quốc Dân Đảng có đảng trưởng Trương Tử Anh và một cán bộ nồng cốt là Anh Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện Đại Học Hà Nội thời Thế Chiến II. Anh Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi về nhạc nên được bầu làm Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois) và anh đă lănh nhiệm vụ bí mật hướng dẫn các sinh viên hoạt động về văn hóa theo chiều hướng tranh đấu chống thực dân.

    Chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương (THSVĐD) đă tổ chức tại Đại Giảng Đường của Viện Đại Học Hà Nội một buổi hát để lấy tiền giúp các bịnh nhơn nghèo của các bịnh viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Các sinh viên Việt Nam đóng vai tuồng chủ động trong Tổng Hội đă quyết định nhơn cơ hội này tung ra một bản nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên Pháp là Marche des Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn bản nhạc dùng vào công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đă đưa cho anh một số bài nhạc do anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng trong tất cả các dự thảo của Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta hiện dùng làm quốc thiều có tánh cách khích động tinh thần tranh đau hơn hết nên đă chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành Khúc. Sau đó, một ủy ban soạn lời ca cho bản nhạc này đă được thành lập với Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Ḥa, Hoàng Xuân Nhị. Lời ca này gồm ba đoạn với một điệp khúc chung:

    I.

    Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
    Đồng ḷng cùng đi, đi, mở đường khai lối.
    V́ non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
    Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
    Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
    Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
    Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
    Dầu muôn chông gai vững ḷng chi sá.
    Đường mới kíp phóng mắt nh́n xa bốn phương,
    Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.

    (Điệp khúc)

    Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
    Sinh viên ơi! Ta thề đem hết ḷng!
    Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
    Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

    II.

    Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết c̣n chưa xoá!
    Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
    Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
    B́nh bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
    Hồ Tây tranh phong oai son phấn, Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn.
    Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
    Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.
    Ṇi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
    Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.

    (Trở lại điệp khúc)

    III.

    Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
    Hành tŕnh c̣n xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
    Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
    Ngày nay ta cũng đem ḷng son cho giống ḍng.
    Là sinh viên vun cây văn hoá, Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.
    Đời mới kiến thiết đáp ḷng những ai Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.
    Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
    Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

    (Trở lại điệp khúc)

    Các lời ca tiếng Việt như trên đây được dùng cho sinh viên Việt Nam và có mục đích thúc đẩy người Việt Nam tranh đấu cho đất nước Việt Nam. Nhưng v́ như trên đă nói, Viện Đại Học Hà Nội lúc ấy c̣n có nhiều sinh viên không phải Việt Nam nên ngoài lời ca tiếng Việt, lại c̣n có lời ca tiếng Pháp để mọi sinh viên của Viện đều có thể dùng nó được. Lời ca tiếng Pháp này dĩ nhiên là không thể nói riêng về Việt Nam mà phải nói đến cả Đông Dương để cho phù hợp với tên THSVĐD. Lời ca tiếng Pháp cũng do ủy ban nói trên đây soạn ra:

    Étudiants! Du sol l’appel tenace
    Pressant et fort, retentit dans l’espace.
    Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
    À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
    Une voix monte ravie: Servir la chère Patrie!
    Toujours sans reproche et sans peur
    Pour rendre l’avenir meilleur.
    La joie, la ferveur, la jeunesse
    Sont pleines de femmes promesses.

    (Điệp khúc)

    Te servir, chère Indochine,
    Avec coeur et discipline,
    C’est notre but, c’est notre loi
    Et rien n’ébranle notre foi!

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa


    Buổi hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đă đưa đến những kết quả mỹ măn và bản Sinh Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des Étudiants đă được chánh thức công nhận là bản nhạc của THSVĐD. Mùa hè năm đó, Tổng Hội này lại tổ chức một buổi lễ măn khoá tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Lần này, có Toàn Quyền Đông Dương và nhiều viên chức cao cap Pháp khác đến dự. Bản Sinh Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải Quân Pháp tŕnh tấu. Âm điệu hùng hồn của nó đă làm mọi ngưoi khích động và khi nó được trổi lên, tất cả mọi ngưoi tham dự lễ măn khoá năm 1942 của Viện Đại Học Hà Nội, kể cả các viên chức cao cấp Pháp, đều đă nghiêm chỉnh đứng dậy để chào nó. Sau đó, nó được phổ biến khắp nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào dĩ nhiên là theo lời ca Pháp. Về phía Việt Nam th́ các sinh viên chỉ lo đi học chớ không có nhiệt tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời ca Pháp. Phần các sinh viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc th́ đem ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ trong kỳ nghỉ hè năm đó với lời ca tiếng Việt, nhứt là đoạn I nói trên đây. V́ thế, từ năm 1943, bài Sinh Viên Hành Khúc đă được người Việt Nam ở cả ba kỳ biết.

    Năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, Thanh Niên Tiền Phong được thành lập ở Nam Việt và lấy bản nhạc trên đây làm đoàn ca. Tên bản nhạc được đặt lại là Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên. Về lời th́ hai chữ “sinh viên” được thay bằng hai chữ “thanh niên”. Lúc người Pháp trở lại chiếm Nam Việt cuối năm 1945, Thanh Niên Tiền Phong đă huy động người ái quốc Việt Nam ở Nam Việt đứng lên chống lại họ dưới lá cờ vàng sao đỏ và bản Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên.

    Năm 1948, trong phiên họp lịch sử ở Hongkong giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và một số thân hào nhơn sĩ cùng đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo ở Việt Nam, Anh Nguyễn Tôn Hoàn đă đề nghị lấy bản nhạc của Thanh Niên Hành Khúc làm quốc thiều cho Quốc Gia Việt Nam. Hội nghị đă đồng ư và tên bản nhạc được đặt lại là Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Về lời ca, đoạn I của bài Thanh Niên Hành Khúc nói trên đây đă được dùng, với hai chữ công dân thay cho hai chữ thanh niên.

    Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chánh phủ lâm thời Việt Nam được thành lập với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân được chánh thức dùng làm quốc ca. Lúc Ông Ngô Đ́nh Diệm phế truất Quốc Trưởng Bảo Đại để thành lập chế độ cộng hoà, Quốc Hội Lập Hiến được bầu năm 1956 đă có đặt vấn đề chọn một bài quốc ca khác. Tuy nhiên, lúc đó, phần lớn các bản nhạc được đề nghị dùng làm quốc ca đều không đủ tiêu chuẩn để được chấp nhận. Bài duy nhứt được xem là xứng đáng làm quốc ca chính là bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân đă được chánh phủ Trần Trọng Kim chọn làm quốc ca năm 1945. Tuy nhiên, hai Ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu cuối cùng đă không chấp nhận việc dùng bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông làm quốc ca v́ một lư do đặc biệt.

    Năm 1945, hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và Đại Việt Quốc Dân Đảng (ĐVQDĐ) đă sáp nhập lại làm một với tên chung là Quốc Dân Đảng và Đảng này đă lấy bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông làm đảng ca. Sau đó, VNQDĐ và ĐVQDĐ lại tách nhau ra, nhưng cả hai đều giữ đảng ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông. V́ biết được việc này nên hai anh em Ông Diệm đă không chấp nhận bản nhạc này làm quốc ca. Rốt cuộc, Quốc Hội Lập Hiến năm 1956 đă quyết định giữ lại bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng đổi lời lại như sau:

    Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
    Đồng ḷng cùng đi, hy sinh tiếc ǵ thân sống!
    V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
    Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
    Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,
    Thù nước lấy máu đào đem báo.
    Ṇi giống lúc biến phải cần giải nguy,
    Ngưoi công dân luôn vững bền tâm trí,
    Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
    Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

    (Điệp khúc)

    Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
    Công dân ơi! Mau làm cho cơi bờ
    Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống
    Xứng danh ngàn năm ḍng giống Lạc Hồng.

    Bản nhạc và lời ca này đă được dùng suốt thời Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng Ḥa cho đến ngày nay.

    C/ VẤN ĐỀ THAY ĐỔI QUỐC CA

    Nói tóm lại, trừ các bản nhạc vô duyên đă được Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc dùng làm quốc ca, nhưng thật sự không thể xem là quốc ca được, dân tộc Việt Nam có cả thảy bốn bản nhạc xứng đáng với danh nghĩa quốc ca là Đăng Đàn Cung, Việt Nam Minh Châu Trời Đông, Tiến Quân Ca và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Bốn bản quốc ca này đă được dùng song song với bốn lá quốc kỳ: bản Đăng Đàn Cung với cờ long tinh, bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông với cờ quẻ Ly, bản Tiến Quân Ca với cờ đỏ sao vàng và bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân với cờ vàng ba sọc đỏ

    1/ So sánh các bản quốc ca với nhau

    Bản Đăng Đàn Cung là bản nhạc cổ điển Việt Nam thuộc loại nhă nhạc. Loại nhạc này có tánh cách nghiêm trang và ôn ḥa, trái với dâm nhạc là loại nhạc biểu lộ t́nh cảm một cách nồng nhiệt và chỉ được dùng trong việc giải trí hay hội họp vui chơi. Bản Đăng Đàn Cung là một bài nhă nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao của nhà vua. Do đó, nó có tánh cách trang trọng, nhưng không hùng hồn và không khích động được tinh thần người nghe. Bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông là một bản tân nhạc có tánh cách khích động hơn bản Đăng Đàn Cung, nhưng cái hùng của nó là loại trầm hùng nên không khích động tinh thần người nghe bằng bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. V́ là một hành khúc, bản quốc ca hiện nay của chúng ta khích động tinh thần người nghe một cách mạnh mẽ hơn. Mặt khác nữa, hoàn cảnh lịch sử đă làm cho nó đóng một vai tuồng tích cực trong cuộc tranh đấu cho nền độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam. Thời Thế Chiến II, với tên là Sinh Viên Hành Khúc, nó đă được dùng để đánh thức tinh thần tranh đấu của nhơn dân Việt Nam. Đến lúc người Pháp đem binh đến để tái chiếm Nam Việt, dưới tên Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên, nó đă được dùng để thúc đẩy các chiến sĩ cầm tầm vong vạt nhọn đứng lên tranh đấu với Quân Đội Viễn Chinh Pháp. Khi nước Pháp chánh thức nh́n nhận nền độc lập và thống nhứt của Việt Nam, nó đă thành bản quốc ca với tên là Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân.

    Bản Tiến Quân Ca của CSVN cũng có tánh cách khích động tinh thần người nghe như bản quốc ca của chúng ta. Nhưng về lời ca th́ từ h́nh thức Sinh Viên Hành Khúc qua Thanh Niên Hành Khúc đến Quốc Dân Hành Khúc, bản quốc ca của chúng ta nhiều lắm là nói đến “thù nước lấy máu đào đem báo,” c̣n Tiến Quân Ca với lời “thề phanh thây uống máu quân thù,” rơ là sắt máu quá và có thể làm cho thế giới xem dân tộc Việt Nam là dă man. Về mặt chánh trị, bản Thanh Niên Hành Khúc đă được dùng để thúc đẩy các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn chống lại Quân Đội Viễn Chinh Pháp trong khi bản Tiến Quân Ca đă được trổi lên để chào đón Quân Đội này lúc họ đổ bộ ra Bắc Việt theo sự thoả thuận với Hồ Chí Minh trong Sơ Ước ngày 6 tháng 3 năm 1946. Sau đó, nó đă được dùng khi bộ đội Việt Minh cùng với bộ đội Pháp hợp tác nhau trong Ban Liên Kiểm Việt-Pháp để tiến đánh các chiến khu của Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.

    2/ Lư luận của những người muốn đổi quốc ca

    Những người muốn đổi quốc ca đă đưa ra nhiều lư luận khác nhau. Trong các lư luận được đưa ra, chỉ có một cái đáng cho chúng ta lưu ư. Lư luận này đặt nền tảng trên chỗ tác giả bản nhạc được chúng ta dùng làm quốc ca là Lưu Hữu Phước, hiện là một cán bộ cộng sản. Lưu Hữu Phước đă lên tiếng sỉ vả người quốc gia Việt Nam là vô liêm sỉ khi lấy bản nhạc của anh ta và đặt lại lời ca để dùng. Một số người quốc gia Việt Nam đă tỏ ra khó chịu về việc này và những người muốn thay đổi quốc ca đă dựa vào đó để kêu gọi mọi người bỏ bản quốc ca hiện tại.

    a) Nhận định về cá nhơn Lưu Hữu Phước

    V́ lư luận trên đây dựa vào cá nhơn Lưu Hữu Phước nên chúng ta cần phải biết về cá nhơn này trước khi phán đoán. Thời Thế Chiến II, Lưu Hữu Phước là một sinh viên có tinh thần quốc gia và cũng như nhiều sinh viên khác của Viện Đại Học Hà Nội, chỉ có chủ trương giành độc lập cho Việt Nam mà không gia nhập đoàn thể chánh trị nào. Lúc CSVN chưa cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước đă hoạt động với Anh Nguyễn Tôn Hoàn là một cán bộ của Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Viện Đại Học Hà Nội.

    Lúc CSVN cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước và một số sinh viên khác gia nhập Đảng Tân Dân Chủ, một chánh đảng hợp tác với CSVN trong Mặt Trận Việt Minh, nhưng lúc đầu phân biệt với Đảng CSVN và nhiều khi cạnh tranh lại đảng này. Tuy nhiên, bằng cách vừa mua chuộc, vừa lấn ép, CSVN đă lôi phần lớn các đảng viên Tân Dân Chủ vào Đảng CS và chỉ c̣n dùng tên Đảng Tân Dân Chủ làm một nhăn hiệu để làm cho người ta lầm tưởng rằng chế độ họ xây dựng lên không phải là chế độ độc đảng.

    Lưu Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân Dân Chủ bị lôi kéo vào Đảng CS. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra khỏi trường chánh trị như Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc biệt về chánh trị mà CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đă dùng anh ta như một văn công, sản xuất nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng về các vấn đề khác những khi Đảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đă sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân lúc c̣n là một sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là một văn công của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Đảng CSVN mớm cho.

    b) Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca

    Nhưng dầu cho lúc sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc, Lưu Hữu Phước đă là một đảng viên cộng sản rồi và việc chỉ trích chúng ta dùng bản nhạc đó là do ư anh ta, chúng ta cũng không phải bận tâm về vấn đề này, v́ theo quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca th́ khi một bản nhạc đă được quốc dân nhận làm quốc ca, nó không c̣n của riêng ai nữa mà là của toàn dân. Do đó, cá nhơn người sáng tác bản nhạc cũng như người chọn bản nhạc làm quốc ca không thành một vấn đề đem ra thảo luận. Chúng ta có một tiền lệ đáng lưu ư về việc này.

    Đó là trường hợp bản Marseillaise được dùng làm quốc ca Pháp. Bản quốc ca này được một nhà quí tộc Pháp là Rouget de Lisle sáng tác năm 1792. Lúc ấy, Vua Louis thứ XVI c̣n trị v́ và Rouget de Lisle là một sĩ quan trong Quân Đội Pháp. Năm 1793, Vua Louis thứ XVI bị xử tử và Rouget de Lisle bị bắt v́ là người quí tộc theo phe bảo hoàng chống lại Cách Mạng. Lúc ấy, Ông Lazare Carnot, Ủy Viên Quốc Pḥng của Hội Đồng Cách Mạng v́ muốn cứu một sĩ quan cùng binh chủng với ḿnh, lại là tác giả bản Marseillaise, đă đề nghị Rouget de Lisle tuyên thệ trung thành với Cách Mạng th́ sẽ được tha, nhưng Rouget de Lisle từ chối v́ không chịu phủ nhận lư tưởng bảo hoàng của ḿnh. Cuối cùng, ông ta chỉ thoát chết v́ chánh phủ cách mạng chủ trương Đại Khủng Bố do Robespierre cầm đầu đă bị lật đổ trước khi bản án tử h́nh của ông ta được đem ra thi hành. Nhưng mặc dầu sau năm 1793, Rouget de Lisle đă trở thành người chống lại Cách Mạng, chánh quyền cách mạng Pháp vẫn tiếp tục dùng bản Marseillaise do ông sáng tác và năm 1795 đă chánh thức quyết định lấy nó làm quốc ca.

    c) Trường hợp bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca

    Bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca vốn do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác trong thời kỳ CSVN chưa cướp được chánh quyền ở Việt Nam. Không rơ lúc ông sáng tác bản nhạc này, Văn Cao đă là một đảng viên cộng sản hay chưa. Nhưng chắc chắn là về sau, ông đă vào Đảng CSVN. Tuy nhiên, cũng như nhiều văn nghệ sĩ có nhiệt tâm yêu nước thời đó, Văn Cao đă lần lần nhận chân được bộ mặt thật của Cộng Sản. Điều đáng quí là ông đă can đảm hơn nhiều người khác như Lưu Hữu Phước chẳng hạn, và đă dám nói lên sự bất măn và chống đối của ḿnh. Ông đă tham dự phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm 1956 và đă dứt khoát chống lại Đảng CSVN. Trong con mắt của CSVN hiện nay, Văn Cao là một phần tử phản Đảng, phản động, phản cách mạng.

    Với chủ trương độc tài sắt máu và ḷng tự hào là Đảng ḿnh lúc nào cũng hành động hợp với chánh nghĩa, CSVN rất xấu hổ về chỗ bản quốc ca họ dùng là sáng tác của một nhạc sĩ phản Đảng, phản động và phản cách mạng. Bởi đó, họ không chịu theo quan niệm thông thường bắt đầu với lịch sử bản Marseillaise của Pháp, nghĩa là bất chấp lập trường chánh trị về sau của tác giả bản quốc ca. Họ đă treo một giải thưởng lớn cho người sáng tác được một bản nhạc đáng làm quốc ca mới. Nhưng trong nhiều trăm bản nhạc gởi đến dự thi, họ đă không chọn được bản nào ra hồn. Cuối cùng, họ phải hậm hực giữ bản Tiến Quân Ca làm quốc ca.

    Người quốc gia Việt Nam chúng ta theo quan niệm thông thường trên thế giới về quốc ca nên không có ǵ phải hậm hực v́ tác giả bản quốc ca chúng ta đang dùng hiện đă trở thành một văn công của CSVN. Và nếu có người nào đem việc Lưu Hữu Phước sỉ vả chúng ta về chỗ đă lấy bản nhạc do anh ta sáng tác làm quốc ca, chúng ta có thể bảo họ nên dùng các lời sỉ vả đó đặt trong miệng Văn Cao để gởi cho tập đoàn CSVN.

    3/ Nhiệm vụ của người quốc gia Việt Nam đối với bản quốc ca Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân

    Người quốc gia Việt Nam may mắn có một bản quốc ca hùng hồn được dùng để thúc đẩy người ái quốc tranh đấu cho nền độc lập và sự tự do của dân tộc. Bản quốc ca này rất xứng đáng với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ. Với giá trị nội tại của chính nó, thêm vào vai tuồng lịch sử mà nó đă đóng, nó lúc nào cũng gây sự xúc động mạnh mẽ trong tâm trí người Việt Nam ái quốc. Từ khi được chánh thức dùng làm quốc ca của nước Việt Nam độc lập, nó đă được nhiều quốc gia trên thế giới biết đến. Tại Việt Nam, nó đă cùng với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ làm yếu tố hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn như dân sự tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đă là bản nhạc tiễn đưa ra nghĩa trang nhiều trăm ngàn người đă chết v́ Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó cũng là một bảo vật thiêng liêng của chúng ta y như quốc kỳ.

    Hiện nay, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân không c̣n được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng như mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng đó là bản nhạc của người quốc gia chống lại Cộng Sản. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là bản nhạc biểu tượng cho người quốc gia chống cộng. Không bản nhạc nào khác có thể thay thế Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân về mặt này. Vậy, việc tôn trọng bản quốc ca đó và tiếp tục dùng nó chung với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ một cách rộng răi ở mọi nơi là một công cuộc đóng góp vào việc giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản. Nếu mọi người Việt Nam ở hải ngoại đều đồng tâm nhứt trí để tranh đấu chung nhau th́ một ngày không xa lắm, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân sẽ được hát lên ở khắp các nẻo đường đất nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan. Chúng tôi nghĩ rằng lúc ấy, chắc chắn không có bài khải hoàn ca nào hay hơn nó được.

    Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa
    Tài Liệu Đặc Biệt : Quốc Kỳ Việt Nam
    Nguồn Gốc & Lẽ Chính Thống


    Kỹ Sư Nguyễn Đ́nh Sài



    Một trong những sự kiện điển h́nh nhất của cộng đồng Việt Nam hải ngoại trong năm 2003 là chiến dịch Cờ Vàng. Tính cho đến nay, chiến dịch này đă vận động được gần 30 bản nghị quyết từ cấp thành phố cho đến tiểu bang, công nhận lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng của cộng đồng người Việt tự do. Sự công nhận lá cờ Vàng truyền thống c̣n mang thêm một ư nghĩa đặc biệt nữa là vinh danh lư tưởng đấu tranh v́ tự do dân chủ của người Việt Nam. Để giúp thêm tài liệu cho những chiến dịch vận động c̣n đang tiếp diễn, cũng như trang bị một số kiến thức lịch sử cho các bạn trẻ, chúng tôi xin gửi đến qúy độc giả tài liệu nghiên cứu giá trị của tác giả Nguyễn Đ́nh Sài về nguồn gốc lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.

    I - Dẫn Nhập

    "Quốc Kỳ" - The National Flag - là lá cờ chính thức của một dân tộc sống trên một lănh thổ do một chính quyền quốc gia quản trị, được đa số dân chúng tín nhiệm trong nghĩa vụ bảo vệ sự hiện hữu và toàn vẹn lănh thổ của quốc gia đó.

    Ngày xưa, khi tất cả các quốc gia c̣n trong chế độ quân chủ chuyên chính, th́ "đế kỳ" (cờ của vua) cũng là biểu tượng của quốc gia, nhưng chỉ được dựng lên tại những nơi có vua ngự. C̣n các thành quách, biên ải th́ dựng cờ của các vị thống lănh. Ư niệm dùng một lá "quốc kỳ" để biểu tượng chủ quyền quốc gia trên toàn thể lănh thổ chỉ mới có về sau này. Quốc kỳ Đan Mạch có nền đỏ và chữ thập trắng, được xem là xưa nhất trong lịch sử thế giới, khánh thành vào năm 1219. Quốc kỳ Liên Hiệp Anh "The Union Jack" được quốc hội quân chủ lập hiến thừa nhận năm 1707. Quốc kỳ "Tam Tài" ba sọc đứng xanh, trắng, đỏ của Pháp xuất hiện cùng với cuộc cách mạng nhân dân năm 1789. Quốc kỳ Mỹ đă được công bố qua đạo luật First Flag Act của Quốc Hội vào năm 1777, nhưng khác hẳn với quốc kỳ hôm nay, với một nền gồm 7 sọc đỏ, 6 sọc trắng, và một h́nh chữ nhật màu xanh đậm phía trên cờ góc trái, trên đó có một ṿng tṛn gồm 13 sao trắng tượng trưng cho 13 tiểu bang sáng lập ra quốc gia Hoa Kỳ. Qua nhiều lần thay đổi với số lượng tiểu bang ngày càng gia tăng, ṿng tṛn sao trắng được sắp thành nhiều hàng thẳng. Ngày 04/07/1958 quốc kỳ Mỹ có 50 ngôi sao trắng với sự gia nhập liên bang của Alaska và Hawaii. Đa số những lá quốc kỳ khác chỉ mới xuất hiện trong thế kỷ 20, khi các quốc gia bắt đầu chuyển hoá từ chế độ quân chủ sang dân chủ, cần có quốc kỳ tiêu biểu cho quốc gia và dân tộc chứ không chỉ riêng cho đế chế mà thôi.

    Từ khoảng hậu bán thế kỷ 19 đến nay, Việt Nam cũng đă thay đổi khoảng một chục lá "quốc kỳ". Đáng chú ư nhất là hai lá cờ "nền vàng ba sọc đỏ" (gọi tắt là Cờ Vàng) và cờ "nền đỏ sao vàng" (gọi tắt là Cờ Đỏ) đă có một lịch sử tương tranh từ hơn 5 thập niên qua. Từ năm 1954 đến 1975, hai lá cờ này đă là hai biểu tượng của sự chia đôi đất nước thành hai miền Nam, Bắc Việt Nam, và được dùng làm lá "quốc kỳ" của mỗi miền. Ba mươi năm chiến tranh v́ nỗ lực của đảng CSVN muốn xâm chiếm miền Nam đă gây nên nhiều chết chóc hơn bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử dân tộc. Sau năm 1975, với sự kiện đảng CSVN chiếm trọn vẹn miền Nam, th́ Cờ Đỏ đă ngự trị vùng trời Việt Nam và tại trụ sở các cơ quan quốc tế mà chế độ Hà Nội là thành viên. Cũng từ năm 1975, với hàng triệu người tỵ nạn cộng sản trên khắp thế giới, Cờ Vàng vẫn tiếp tục tung bay tại hải ngoại, tất cả những nơi có cộng đồng người Việt lưu vong t́m tự do cư ngụ. Đó là một sự thật, không một ai có thể biện giải khác đi được.

    Trong ṿng vài năm qua, có một số bài viết về hai lá Cờ Vàng và Cờ Đỏ xuất hiện trên các diễn đàn sách, báo, và internet. Lịch sử về Cờ Đỏ có thể được dễ dàng t́m thấy trên các websites của đảng Cộng Sản Việt Nam và của chế độ Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Các bài viết về lịch sử Cờ Vàng có thể được t́m thấy qua các sách báo xuất bản trước năm 1975 và một số bài viết được phổ biến rộng răi tại hải ngoại trong vài năm qua.

    Tất cả các tài liệu được trích dẫn ở cuối bài đều có những chi tiết khác nhau về nguồn gốc cũng như ư nghĩa của lá Cờ Vàng và Cờ Đỏ. Ngoài ra, lại có một số tài liệu của người ngoại quốc cho thấy Cờ Vàng đă hiện hữu từ cuối thế kỷ 19. Các tài liệu này được tŕnh bày khá công phu và khoa học, nhưng lại không nêu xuất xứ để kiểm chứng thêm. Đă thế, chế độ cầm quyền hiện hữu luôn luôn muốn vinh danh thành quả của chế độ và nỗ lực khỏa lấp hay hủy hoại những ǵ liên hệ đến phe chiến bại, đưa đến t́nh trạng đáng buồn là các sử sách trong và ngoài nước mâu thuẫn nhau về các dữ kiện trong các thập niên từ 1930 trở về sau.

    Chính v́ thế, nhu cầu tổng lược, thống nhất hóa sử liệu về quốc kỳ Việt Nam đang trở thành cần thiết. Với định hướng đó, trong bài sưu khảo này, người viết có tâm nguyện tŕnh bày những dữ kiện khách quan về lịch sử những lá cờ từng được toàn thể hay một phần dân Việt sử dụng làm "quốc kỳ". Những tài liệu góp nhặt sau đây, tuy dựa vào các sử liệu đă hiện hữu, nhưng được kèm theo những đối chiếu, phân tích, giải thích, và chọn lọc, để mỗi dữ kiện có được căn nguyên trung thực của nó. Ước mong rằng đóng góp nhỏ mọn này sẽ phần nào được hữu dụng cho các thế hệ mai sau.


    II. Những Lá Quốc Kỳ Từ Đầu Thế Kỷ 19 Đền Nay



    Thế hệ trẻ Việt Nam ngày hôm nay muốn t́m hiểu về lá quốc kỳ chính thống của dân tộc Việt Nam trong hơn 100 năm qua đă và đang bối rối v́ sự tương phản cũng như nguồn gốc và ư nghĩa của mỗi lá cờ. V́ vậy, đi t́m nguyên khởi của mỗi lá cờ đó là t́m về lịch sử biến thiên của dân tộc. Sau đây là tóm lược bối cảnh lịch sử cấu thành và ư nghĩa của mỗi lá cờ được t́m thấy trong một hay nhiều tài liệu trích dẫn ở cuối bài.



    1. Long Tinh Kỳ: Quốc Kỳ nguyên thủy của triều đ́nh Nhà Nguyễn



    Đối chiếu với các tài liệu được tham khảo th́ lá quốc kỳ đầu tiên trong thời nhà Nguyễn đă được đặt tên bằng tiếng Hán là "Long Tinh Kỳ". (Ghi chú cho tuổi trẻ Việt Nam: Ư nghĩa của các chữ Hán như sau: Kỳ là cờ. Long là Rồng, biểu tượng cho hoàng đế, có màu vàng. Râu tua màu xanh dương chung quanh tượng trưng cho Tiên và cũng là màu đại dương, nơi Rồng cư ngụ. Tinh có nghĩa là ngôi sao trên trời, mà cũng có nghĩa là màu đỏ. Màu đỏ c̣n biểu tượng cho phương Nam và cho ḷng nhiệt thành. Long Tinh Kỳ là Cờ Rồng có chấm Đỏ viền tua xanh, biểu hiệu cho một dân tộc có nguồn gốc Rồng Tiên ở phương Nam vùng nhiệt đới.)


    Long Tinh Kỳ (1802-1885)

    * Nền vàng biểu hiệu hoàng đế và sắc tộc dân Việt

    * Chấm đỏ biểu hiệu phương nam

    * Tua xanh biểu hiệu đại dương, vẩy rồng



    Cờ Long Tinh đă có từ thời vua Gia Long khi mới thống nhất sơn hà và lên ngôi hoàng đế vào năm 1802. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn chưa có bang giao quốc tế với các nước Tây phương, nên Long Tinh Kỳ được xem là "Đế Kỳ". Đế kỳ khác quốc kỳ ở chỗ :



    - Đế kỳ là cờ của nhà vua, vua ở đâu th́ đế kỳ treo hay dựng nơi đó.

    - Quốc kỳ là biểu tượng của quốc gia, treo tại các nơi có cơ quan công quyền chứ không chỉ ở chốn hoàng triều.

    Năm 1863, sau khi Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản thụ mệnh vua Tự Đức đi sứ sang Pháp trở về, thấy Pháp chào quốc kỳ Tam Tài trong các buổi lễ, nên ư niệm dùng Long Tinh Kỳ làm "quốc kỳ" mới khởi đầu.

    Năm 1885, trước âm mưu đô hộ của thực dân Pháp đă lộ liễu quá rơ, triều đ́nh nhà Nguyễn không c̣n chịu nổi áp lực ngoại xâm, Phụ Chính Đại Thần Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công quân Pháp. Cuộc tấn công bị thất bại, thủ đô Huế bị thất thủ. Ông pḥ vua Hàm Nghi trốn chạy khỏi hoàng thành, ra Quảng Trị, rồi sau đó lên căn cứ Tân Sở, miền núi Trường Sơn, giáp biên giới Lào-Việt, để tiếp tục chống Pháp. Triều đ́nh mang theo lá cờ Long Tinh để thể hiện sự hiện diện của vua Hàm Nghi và cũng để hiệu triệu quốc dân hưởng ứng phong trào "Cần Vương" (Cần Vương nghĩa là cứu viện vua). Nhiều nhà ái quốc đă hưởng ứng phong trào Cần Vương, và nổi lên chống Pháp khắp nơi từ nam chí bắc, mà lịch sử cận đại c̣n ghi rơ như các cuộc khởi nghĩa của các anh hùng Phan Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật ... Họ dựng lên những lá "Long Tinh Kỳ" tại bộ chỉ huy cũng như tiền đồn, để xác quyết sự hưởng ứng của họ đối với hịch Cần Vương. (Ghi chú Việt Sử Toàn Thư Trang 467 : "Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi"). Chính v́ vậy mà sử sách thế giới mới ghi nhận sự hiện hữu của lá Cờ Long Tinh vào năm 1885, mặc dù nó đă được dùng làm đế kỳ từ đầu thế kỷ 19.


    2. Đại Nam Quốc Kỳ

    Nước Việt ta từ thời lập quốc đến đầu triều Nguyễn đă có nhiều quốc hiệu. Từ năm 1010, vua Lư Thái Tổ khai sáng triều đại nhà Lư th́ đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thời Đinh Bộ Lĩnh thành ra Đại Việt. Quốc hiệu này vẫn được giữ nguyên qua nhiều triều đại Trần, Hồ, Lê, cho đến cuối triều đại Tây Sơn vào đầu thế kỷ 19. Tuy vậy, các triều đại Trung Hoa không hề chấp nhận quốc hiệu Đại Việt mà vẫn gọi nước ta là "An Nam", ngụ ư một nước Nam được trị cho yên và tùng phục người Hán, không c̣n quật cường nữa. Khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802, nhà vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin lấy quốc hiệu là Nam Việt. Tuy nhiên, Thanh triều nghĩ đến tên Nam Việt vốn là quốc hiệu từ thời vua Triệu Đà vào năm 207 trước Công Nguyên (BC). Lúc bấy giờ, Nam Việt c̣n bao gồm hai tỉnh lớn Quảng Đông, Quảng Tây, và đảo Hải Nam. Sau Công Nguyên (AD) th́ các đất ấy đă bị người Hán chiếm mất. Đến thế kỷ 18, Quang Trung Hoàng Đế, một anh hùng bách chiến bách thắng của dân tộc Việt đă định đ̣i nhà Thanh trả lại các vùng này, song chưa thành công th́ ông đă tạ thế lúc mới 40 tuổi. Khi vua Gia Long thống nhất sơn hà, muốn đổi quốc hiệu thành Nam Việt, Thanh triều nhớ lại lời yêu sách của vua Quang Trung, nên lo ngại và không chấp thuận. Để giữ ḥa khí, Thanh triều mới tráo đổi chữ Việt ra trước chữ Nam để cho khỏi lầm với tên cũ. V́ thế, nước ta có quốc hiệu là Việt Nam kể từ năm 1804. Năm 1820, vua Minh Mạng nối ngôi cha, mở mang bờ cơi rộng lớn về phía tây và phía nam. Minh Mạng cũng sai sứ sang Tàu xin tấn phong và xin đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ư một nước Nam rộng lớn.

    Tuy nhiên Thanh triều đă không chính thức chấp thuận cho vua Minh Mạng đổi quốc hiệu mới thành Đại Nam Quốc. Măi đến gần hai thập niên sau, nhân nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng đă quyết định đơn phương đổi tên nước thành Đại Nam và chính thức công bố tên mới vào ngày 15 tháng 2, 1839. Quốc hiệu này đă được dùng trong đời vua Tự Đức và các đời vua kế tiếp. Một số tác phẩm nổi tiếng vào thời đó đă mang tên Đại Nam. Điển h́nh là bộ sách "Đại Nam Thực Lục Chính Biên" và bộ "Đại Nam Nhất Thống Chí" do Quốc Sử Quán triều vua Tự Đức soạn ra, tổng hợp các công tŕnh sử sách từ các đời vua trước.

    Trong lúc đó, th́ người Pháp cũng theo sử sách của Tàu, vẫn gọi nước ta là "Annam", và cũng cùng ngụ ư tương tự như người Tàu, để "yên trị" người Việt.

    Năm 1885, v́ cờ Long Tinh theo vua Hàm Nghi vào bưng kháng Pháp, nên người Pháp không chấp thuận cho vua Đồng Khánh dùng Long Tinh Kỳ làm quốc kỳ nữa. Triều đ́nh Đồng Khánh phải chế ra lá cờ mới. Lá cờ mới cũng có nền vàng, nhưng màu đỏ th́ gồm hai chữ Hán "Đại Nam" mang tên quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ, tức là "Đại Nam Kỳ". Tuy nhiên, những người tinh thông chữ Hán, khi nh́n thoáng qua lá cờ mới đều nhận thấy không hoàn toàn giống các nét chữ "Đại" và "Nam", nên không ai có thể quả quyết rằng lá cờ ấy liên hệ với quốc hiệu Đại Nam.

    Sau đây là h́nh lá cờ Đại Nam, được t́m thấy qua tài liệu của người Tây phương.


    Đại Nam Kỳ (1885-1890)

    * Nền vàng

    * Hai chữ Đại Nam màu đỏ & xoay 90o ngược vị trí đối diện

    Đại Nam
    Last edited by alamit; 21-02-2012 at 04:28 AM.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa
    Tài Liệu Đặc Biệt : Quốc Kỳ Việt Nam
    Nguồn Gốc & Lẽ Chính Thống

    Kỹ Sư Nguyễn Đ́nh Sài

    Bây giờ hăy thử xoay chiều, chữ Đại xoay 90 độ ngược chiều kim đồng hồ và chữ Nam xoay 90 độ theo chiều kim đồng hồ:


    Đại (xoay 90 độ) Nam (xoay 90 độ)


    Bây giờ, chúng ta mới nhận thấy hai chữ Đại và Nam xoay chiều theo kiểu trên khá giống lá quốc kỳ nước ta vào năm 1885-1890. Tuy vậy, chữ bên trái trên lá cờ khá giống chữ Đại, trong khi chữ bên phải trên lá cờ không hoàn toàn giống chữ Nam. Nguyên do có thể là v́ người ngoại quốc đă không rành thuật viết chữ Hán, nên đă thiếu sót vài nét khi chuyển thành h́nh vẽ của chữ Nam trên các websites của họ. Cũng có thể đó chỉ là sự cố ư của triều đ́nh Đồng Khánh khi thực hiện lá cờ, v́ vua Đồng Khánh do Pháp đưa lên ngôi, là một ông vua bù nh́n, thể chất yếu đuối, thiếu tinh thần tự chủ, nên không dám làm mất ḷng nhà Thanh cũng như chính phủ bảo hộ Pháp. V́ thế triều đ́nh đành phải xoay đổi đi một chút.



    3. Quốc kỳ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ dưới hai triều đại Kháng Pháp 1890-1920



    Vua Đồng Khánh ở ngôi được 3 năm th́ băng hà v́ bạo bệnh vào ngày 25/12/1888, lúc mới 25 tuổi. V́ các con của ông c̣n nhỏ nên triều đ́nh lập hoàng tử Bửu Lân, con vua Dục Đức lên ngôi năm 1889, lấy hiệu là Thành Thái.



    Vua Thành Thái là một vị vua thông minh, hiếu học, c̣n nhỏ tuổi mà sớm có ư chí tự cường dân tộc và có tinh thần canh tân đất nước. Ông thích t́m cơ hội sống gần dân, thường ra khỏi hoàng thành giả dạng đi chơi hay săn bắn, thậm chí về sau c̣n giả điên, nhưng thật ra là để tiếp xúc với các nhà chí sĩ cách mạng.



    Trước đó, vào tháng 08/1883 đời vua Hiệp Ḥa, Pháp tấn công vào cửa Thuận An, gởi tối hậu thư bắt ép triều đ́nh phải kư hoà ước Quư Mùi 1883, công nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, c̣n Trung và Bắc Kỳ thuộc quyền bảo hộ của Pháp (có nghĩa là mất tư cách độc lập về ngoại giao và quốc pḥng). Từ đó cho đến năm 1945, nước ta không c̣n là một lănh thổ nguyên vẹn từ Nam chí Bắc.



    Cảm thông tâm trạng bất măn của nhân dân thể hiện qua những tiếp xúc với các sĩ phu ngoài hoàng thành, vua Thành Thái đă không những không thỏa măn các đ̣i hỏi của chính quyền bảo hộ, mà c̣n trọng dụng nhiều nhân tài thanh liêm và đức độ như các ông Ngô Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bài, với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước. Năm 1890, nhà vua xuống chiếu thay đổi quốc kỳ chữ Hán bằng quốc kỳ mới. Lá cờ nền Vàng Ba Sọc Đỏ lần đầu tiên được cấu tạo và được dùng làm quốc kỳ.


    Đại Nam Quốc Kỳ (1890-1920)

    * Nền vàng

    * Ba sọc đỏ bằng nhau biểu hiệu bắc nam trung bất khả phân




    Có thể nói Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ - gọi tắt là "Cờ Vàng" - là lá "quốc kỳ" đúng nghĩa đầu tiên của dân tộc Việt, v́ nó hàm chứa nguyện vọng độc lập và thống nhất của lănh thổ Việt.

    Sự kiến tạo lá quốc kỳ mới ấy có nhiều ư nghĩa vô cùng quan trọng :


    - Thể hiện ư chí đấu tranh, bác bỏ hiệp ước Quư Mùi, "chia để trị" của thực dân Pháp, đă tao ra t́nh trạng Nam Kỳ thuộc địa, Trung Bắc kỳ bảo hộ.

    - Xác quyết sự toàn vẹn lănh thổ của Đại Nam Quốc, ba miền đều có tư thế chính trị giống nhau và bất khả phân trong nền tảng màu Vàng của dân tộc Việt ở phương Nam.

    - Nêu cao tinh thần "quốc gia dân tộc", bằng cách đoạn tuyệt với sự liên hệ của chữ Hán, cũng như thoát ly ra khỏi nền bảo hộ Pháp và triều cống Tàu.

    Chính v́ các ư nghĩa trên mà lá Cờ Vàng c̣n được mệnh danh là cờ "Quốc Gia". Như vậy, từ ngữ "quốc gia" có từ cuối thế kỷ 19, đối nghịch với "thuộc địa", chớ không chỉ mới có vào bán thế kỷ 20 khi từ ngữ "cộng sản" xuất hiện.

    Lá cờ Quốc Gia đă được tồn tại suốt triều vua Thành Thái. Năm 1907, v́ tánh khí quật cường, không chịu làm một ông vua bù nh́n và không nghe theo các đề nghị của Pháp, vua Thành Thái bị Pháp biếm nhục là ông mắc bệnh "điên" và truất phế ông, rồi đưa ông đi quản thúc ở Vũng Tàu. Con vua Thành Thái là hoàng tử Vĩnh San được triều đ́nh pḥ lên ngôi, lấy hiệu là Duy Tân. Cũng như vua cha, vua Duy Tân tuy c̣n nhỏ tuổi mà đă tỏ ra là một người ái quốc can đảm. V́ thế, lá cờ Quốc Gia vẫn c̣n tồn tại cho đến khi chính vua Duy Tân cũng bị bắt v́ tội tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp rồi bị đày sang đảo Réunion ở Phi Châu cùng với vua cha vào năm 1916.

    Ghi chú: Dữ kiện là Cờ Vàng hiện hữu từ 1890-1920 được t́m thấy trên website của World Statemen. Chủ website này là Ben Cahoon, một chuyên gia Mỹ, tốt nghiệp đại học University of Connecticut. Muốn biết thêm về ông, xin vào đây : <http://www.worldstatesmen.o rg/AUTHOR.html>


    World Statemen là một website khổng lồ, chứa các lịch sử chính trị của hầu hết quốc gia trên thế giới, trong đó có VN. Tài liệu trong website này vô cùng phong phú, khá chính xác về các phần khác của VN, như các triều vua, các đời quan toàn quyền Pháp ... với sự đóng góp của nhiều giáo sư danh tiếng.

    Người viết nghĩ rằng ngoài sự căn cứ vào các tài liệu, các sử gia c̣n cần phải cân nhắc, phân tích các sự tường thuật có khi mâu thuẫn, đối chiếu các biến cố thời sự để t́m ra các dữ kiện hợp lư nhất, với ư hướng rằng việc ǵ cũng có cái nguyên ủy của nó chứ không phải tự nhiên mà có. Lịch sử VN từ ngàn năm trước được viết bởi các sử gia thời hiện đại, mỗi người mỗi khác, và cũng khác với sử kư do người Hoa viết (như bộ Sử Kư Tư Mă Thiên chẳng hạn). Những sử gia thời sau dùng các sử liệu của người thời trước cho công tŕnh nghiên cứu của ḿnh, có khi lại thêm những khám phá mới. Đó là sự phát kiến về lịch sử vậy. Phát kiến (innovation) là t́m ra sự kiện mới dựa trên tài liệu cũ, chứ không phải phát minh (invention), hay bịa đặt sự kiện (fabrication). Các bộ sử của Sử Gia Phạm Văn Sơn viết gần đây nhất, rất dày, có nhiều chi tiết khá lư thú và mới lạ, không hề t́m thấy nơi sách khác, có lẽ đă được viết theo phương pháp "phát kiến" ấy.

    Sau khi đối chiếu với các sử sách, bằng vào trí thức và sự chân thành của Ben Cahoon, người viết không nghĩ tác giả website đă bịa đặt ra sự kiện Cờ Vàng đă hiện hữu năm 1890-1920, cũng như Cờ Đại Nam bằng chữ Hán xoay 90 độ nghịch chiều. Hiển nhiên Cahoon đă t́m thấy trong hàng đống tài liệu hay thư khố Pháp và Mỹ hoặc các đại học, nhưng lại không trích dẫn rơ ràng tài liệu nào. Riêng cờ chữ Hán "Đại Nam" th́ ông cũng không trích dẫn xuất xứ và diễn tả là ǵ (có lẽ v́ không hiểu chữ Hán), nên lúc nh́n qua không ai hiểu được là ǵ. Về sau, loay hoay xoay chuyển các chữ Đại và Nam, người viết mới khám phá ra cái thâm ư của tiền nhân triều Nguyễn.

    Trong tinh thần tôn trọng các sách sử và các bài viết của các bậc trưởng thượng, mới đầu người viết cũng có sự nghi hoặc về dữ kiện Cờ Vàng hiện hữu từ 1890, v́ không thấy sách Việt sử nào ghi lại chi tiết này. Nhưng về sau th́ người viết thấy dữ kiện ấy rất hữu lư khi đối chiếu với lịch sử vào thời điểm nước ta mới bị Pháp ép kư các Hiệp Ước 1883 và 1884, cắt miền Nam cho Pháp làm thuộc địa. Tiếp theo, Pháp đày ải các vua Thành Thái và Duy Tân, v́ hai vua này chủ trương toàn vẹn lănh thổ. Các sự kiện này rất phù hợp với ư nghĩa của Cờ Vàng.

    Trên đây là sự đối chiếu và chọn lọc của người viết để đi đến kết luận là tài liệu của World Statesmen có tính xác thực và khả tín. Tuy nhiên, nếu độc giả không thỏa măn với tài liệu của World Statesmen th́ nên trích dẫn tài liệu phản bác lại.

    4. Cờ Bắc Trung Kỳ trong thời miền Nam thành thuộc địa Pháp

    Sau khi hai vua Thành Thái và Duy Tân bị Pháp bắt đày đi Phi Châu, con của vua Đồng Khánh là Khải Định lên ngôi. Giống như cha, Khải Định cũng là một vua bù nh́n và nổi tiếng nịnh Tây. V́ vậy, đến năm 1920 th́ Khải Định tuân lời quan bảo hộ Pháp, xuống chiếu thay đổi Cờ Vàng Quốc Gia tượng trưng cho ba miền thống nhất, thành Cờ Vàng Một Sọc Đỏ, chỉ tượng trưng cho hai miền Bắc và Trung của triều đ́nh Huế mà thôi (c̣n miền Nam th́ trở thành thuộc địa và có "quốc kỳ" riêng).


    Long Tinh Kỳ (1920 - 10/03/1945)

    * Nền vàng

    * Một sọc đỏ lớn

    * Biểu tượng cho Bắc và Trung kỳ mà thôi.

    * 10/03/1945 là ngày cáo chung của chế độ bảo hộ Pháp



    Lá Cờ Vàng Một Sọc Đỏ, cũng được gọi là cờ "Long Tinh", v́ nó biến thể từ Long Tinh Kỳ nguyên thủy trong mấy chục năm đầu của nhà Nguyễn. Nền vàng có h́nh chữ nhật tương tự như quốc kỳ của các quốc gia khác. Chấm đỏ được kéo dài ra thành sọc đỏ ở giữa. Tua xanh không c̣n nữa. Đây là lá cờ biểu hiệu cho một quốc gia chỉ c̣n hai miền Bắc và Trung, thuộc quyền bảo hộ Pháp. Lá cờ này trải qua đời vua Khải Định và tồn tại trong đời vua Bảo Đại, sau khi vua Khải Định băng hà vào năm 1925. Sau khi lên ngôi vào đầu năm 1926 lúc mới 12 tuổi, vua Bảo Đại trao hết quyền cho "Hội Đồng Phụ Chính" với sự chỉ đạo của Toàn Quyền Pháp rồi trở sang Paris tiếp tục học cho đến 1932 mới trở về chấp chính. Lá cờ Long Tinh vẫn được tiếp tục dùng làm biểu tượng của triều đ́nh Huế, lúc bấy giờ chỉ c̣n thẩm quyền cai trị hai miền Bắc và Trung dưới sự bảo hộ của Pháp.



    5. Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa (miền Nam thuộc địa Pháp)

    Trong khi đó, từ năm 1923, Nam Kỳ đă chính thức thành thuộc địa Pháp "Nam Kỳ Quốc", có chính phủ riêng, quân đội riêng và đă có "quốc kỳ" khác với Long Tinh Kỳ. Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa có nền vàng, với h́nh cờ Tam Tài của "mẫu quốc" Pháp nằm trên góc trái, như h́nh ảnh dưới đây.

    Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa (1923 - 10/03/1945)

    * Nền vàng

    * Cờ Tam Tài, màu xanh trắng đỏ nằm trên góc trái.

    * 10/03/1945 : Nhật đảo chính Pháp

    Cờ này tồn tại đến 10/03/1945 th́ cáo chung sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương.



    6. Long Tinh Kỳ trong thời Nhật chiếm Đông Dương, 11/03/1945 - 08/1945

    Một ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp, vua Bảo Đại đăng đàn tại Huế vào ngày 11-3-45, tuyên bố hủy bỏ ḥa ước Quư Mùi 1883 và Giáp Thân 1884, Việt Nam thống nhất và độc lập, theo chế độ Quân Chủ tân thời như một số quốc gia Tây Phương, và ủy nhiệm cho học giả Trần Trọng Kim thành lập chính phủ. Sau đó, vua Bảo Đại phân định cho Long Tinh Kỳ trở lại cương vị của Đế Kỳ, chỉ treo nơi Hoàng Thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du. Long Tinh Đế Kỳ cũng tương tự như Long Tinh Quốc Kỳ trong thời Pháp bảo hộ, nhưng nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ Quẻ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim.


    Long Tinh Đế Kỳ (11/03 - 30/08/1945)

    * Nền vàng,

    * Sọc đỏ bằng 1/3 cờ.

    * 11/03/1945: Bảo Đại tuyên bố VN độc lập, Long Tinh Kỳ trở thành Đế Kỳ

    * 30/08/1945: Bảo Đại thoái vị, Đế Kỳ cáo chung



    6. Cờ Quẻ Ly của quốc gia Việt Nam trong thời Nhật chiếm Đông Dương

    Để biểu trưng cho Quốc Gia trong chế độ Quân Chủ, Bảo Đại kư sắc lệnh chấp thuận đề nghị của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, lấy lại quốc hiệu Việt Nam mà nhà Thanh đă chấp thuận trong thời vua Gia Long, và sáng tạo ra một quốc kỳ mới. Đó là lá cờ có nền vàng tương tự như Long Tinh Đế Kỳ nhưng vạch đỏ được chia làm ba vạch nhỏ bằng nhau, riêng vạch giữa th́ đứt khoảng, tương tự như quẻ Ly, một quẻ trong bát Quái.

    Không có tài liệu nào ghi lại lời giải thích của chính học giả Trần Trọng Kim về ư nghĩa của Cờ "Quẻ Ly". Tuy nhiên, cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, trong bài viết dưới tựa đề "Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam" đă giải thích như sau :


    "Ly là một quẻ của bát quái. Cũng như màu đỏ, nó tượng trưng cho phương nam. Trong vũ trụ quan của Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa, tượng trưng cho mặt trời hay lửa; quẻ Ly cũng tượng trưng cho mặt trời, cho lửa, cho ánh sáng, cho nhiệt lực và về mặt xă hội th́ tượng trưng cho sự văn minh. Về h́nh dạng th́ quẻ Ly trên cờ của chánh phủ Trần Trọng Kim gồm một vạch đỏ liền, một vạch đỏ đứt và một vạch đỏ liền. Do đó, bên trong quẻ Ly, hiện lên một nền vàng gồm hai vạch liền và một vạch đứng nối liền hai vạch ấy. Trong Hán văn, đó là chữ Công. Chữ công này được dùng trong các từ ngữ công nhơn, công nghệ để chỉ người thợ và nghề biến chế các tài nguyên để phục vụ đời sống con người. Vậy, ngoài ư nghĩa văn minh rạng rỡ, quẻ Ly c̣n hàm ư ca ngợi sự siêng năng cần mẫn và sự khéo léo của dân tộc Việt Nam trong các ngành hoạt động sản xuất kỹ nghệ".


    C̣n tài liệu của Cơ Sở Việt Tộc Paris th́ ghi :


    "Theo Kinh Dịch (khoa học đông phương nói về quy-luật biến-hóa của vạn vật) th́ Quẻ Ly thuộc cung Hỏa ở phương Nam. V́ thế nên chữ LY phải mang màu đỏ của lửa. H́nh-thể lá cờ tượng-trưng cho lảnh-thổ nên phải là h́nh vuông (trời tṛn đất vuông); nay biến thành h́nh chữ nhật cho phù-hợp với quy-ước quốc-tế. V́ vậy nên lá cờ mang quẻ ly đă nói lên vị-trí của một Quốc-Gia ở phương Nam, tức nước NAM. Nay nước Nam th́ ai làm chủ ? Màu vàng giải trên toàn thể lá cờ mà ngày xưa gọi là Hoàng Địa, nay ta gọi là Nền Vàng, có nghĩa là dân Việt làm chủ trên mảnh đất đó".

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa
    Tài Liệu Đặc Biệt : Quốc Kỳ Việt Nam
    Nguồn Gốc & Lẽ Chính Thống



    Cờ Quẻ Ly thời Nhật (11/03-05/09/1945)

    * Nền vàng, ba sọc đỏ, sọc giữa đứt khoảng hơi giống h́nh Quẻ Ly

    * Quốc kỳ chính thức thời Nhật, đồng thời với Long Tinh Kế Kỳ


    Như vậy, ư nghĩa Cờ Quẻ Ly là sự thống nhất, độc lập cả ba miền thành một khối và theo chế độ quân chủ. Tuy vậy, trên thực tế, chính phủ Trần Trọng Kim chỉ được Nhật trao thẩm quyền điều hành hai miền Bắc và Trung mà thôi. C̣n miền Nam Việt Nam hết lệ thuộc vào Pháp th́ lại lệ thuộc vào Nhật.

    Mặc dù Cờ Quẻ Ly có ư nghĩa tốt đẹp, nhưng bị nhiều người chỉ trích là "lệ thuộc vào kinh dịch, tức là c̣n nô lệ văn hóa của người Hán", tương tự như Đại Nam Kỳ bằng Hán tự trong thời vua Đồng Khánh gần cuối thế kỷ 19.



    7. Cờ Đỏ Sao Vàng của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà"

    Hai quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống lănh thổ Nhật ngày 6 và 9 tháng 8, 1945 đă đưa đến hậu quả là Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Hậu quả này tạo nên một t́nh trạng hỗn độn chính trị chưa từng có tại Việt Nam suốt trong tháng 8. Các tổ chức cách mạng liên tiếp tổ chức những cuộc biểu t́nh giành độc lập, và chính phủ Trần Trọng Kim bị xem là "chính phủ thân Nhật", nên không ai dám hợp tác và Thủ Tướng Trần Trọng Kim đă phải từ nhiệm.
    Trong t́nh trạng hỗn độn, Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh, lập ra "Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời" của nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà", do ông Hồ Chí Minh lănh đạo. Nhờ khôn lanh mưu lược, Việt Minh đă tranh thủ được quyền điều hành đất nước qua những biến cố sau đây :


    - Ngày 19/08/1945, tại Hà Nội, Việt Minh tổ chức biểu t́nh trước ṭa Khâm Sứ và "cướp chính quyền" trước hàng chục ngàn dân Hà Nội.

    - Ngày 22/08/1945, tại Thuận Hóa, Việt Minh hạ cờ Ly trước toà hành chánh của chính phủ Trần Trọng Kim, treo cờ Đỏ Việt Minh.

    - Ngày 24/08/1945, tại Sài G̣n, Việt Minh thuyết phục các tổ chức cách mạng nhường cho Việt Minh quyền "tiếp thu vũ khí của Nhật", và lập ra "Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ Lâm Thời".

    - Ngày 30/08/1945, tại Huế, trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn người, Việt Minh nhận ấn tín của hoàng đế Bảo Đại trong Lễ Thoái Vị, hạ cờ Long Tinh xuống, treo cờ Đỏ lên, chấm dứt chế độ quân chủ Việt Nam.

    - Ngày 02/09/1945, tại quảng trường Ba Đ́nh Hà Nội, trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn người, ông Hồ Chí Minh đọc "Tuyên Ngôn Độc Lập" của nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa" và tŕnh diện thành phần "Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời", gồm tất cả thành viên là đảng viên Cộng Sản Đông Dương hoặc tổ chức ngoại vi của đảng. Riêng ông Hồ Chí Minh, trước đó không ai biết là nhân vật nào, cũng đă lộ diện là Nguyễn Ái Quốc hay Lư Thụy, đảng viên CS.

    T́nh trạng đất nước sau ngày 2-9-45 có thể được tóm lược như sau:

    - Ngày 05/09/1945, tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh kư sắc lệnh số 5 hủy bỏ cờ Ly và dùng cờ Đỏ Việt Minh làm "Quốc kỳ", chính thức cáo chung sự hiện hữu của Cờ Quẻ Ly.

    - Ngày 06/01/1946, bầu cử Quốc Hội do chính phủ Hồ Chí Minh tổ chức, kết quả là Việt Minh chiếm đại đa số trong tổng số 356 dân biểu. Tiếp đó, Quốc Hội nhóm họp khóa đầu tiên ngày 2-3-46 và công nhận Cờ Đỏ làm Quốc Kỳ.

    - Ngày 20/02/1946, nhân dân Hà Nội biểu t́nh phản đối kết quả bầu cử có nhiều bằng cớ gian lận, đả đảo chính phủ Hồ Chí Minh, yêu cầu cựu hoàng Bảo Đại ra cầm quyền để kếp hợp toàn dân.

    - Ngày 02/03/1946, trước áp lực của dân chúng và trước nguy cơ bị Pháp tái đô hộ, Hồ Chí Minh lập nội các mới, gọi là "Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến" với một số nhân vật thuộc các tổ chức "cách mạng quốc gia" như Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Tường Tam ... và mời cựu hoàng Bảo Đại làm "Cố Vấn Tối Cao". Được nửa năm th́ thế "liên hiệp" tan vỡ với các cuộc đàn áp Việt Nam Quốc Dân Đảng, bắt đầu công khai kể từ ngày 12/07/1946.


    Cờ Mặt Trận Việt Minh (05/09/1945 - 20/12/1946)

    * Nền đỏ, sao vàng, cạnh sao hơi cong.

    * 05/09/1945: Hồ kư sắc lệnh số 5 dùng cờ Việt Minh làm Quốc Kỳ, thay thế cờ Quẻ Ly.

    * 20/12/1946: Việt Minh rút vào bưng kháng chiến chống Pháp. Cờ Việt Minh tạm mất tư thế Quốc Kỳ.



    - Trong suốt năm 1946, quân đội Pháp càng ngày càng chiếm ưu thế trên các cuộc đụng độ với quân đội Việt Minh. Đến 20/12/1946, Pháp chiếm được Bắc Bộ Phủ, Hồ Chí Minh tuyên bố rút vào bưng kháng chiến. Dần dần, Pháp chiếm đóng và kiểm soát các thành phố, quận lỵ, và các làng xă đông dân; c̣n Việt Minh th́ đồn trú tại các vùng quê, rừng núi hẻo lánh. Như vậy, Cờ Đỏ Việt Minh bị xem như tạm thời mất tư thế "quốc kỳ" kể từ ngày 20/12/1946 là ngày Pháp chiếm Bắc Bộ Phủ cho đến ngày 20/07/1954 là ngày đất nước chia đôi và Việt Minh trở lại cầm quyền trên miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở lên.



    8. Cờ Vàng sọc Xanh của Chính Phủ Lâm Thời "Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc"

    Riêng tại miền Nam, kể từ 09/10/1945 sau khi giải giới Nhật, Anh chính thức giao quyền cho Pháp quản nhiệm hành chánh miền Nam vĩ tuyến 16. Kế đến Pháp trở cờ, tái lập "Cộng Đồng Liên Bang Đông Dương". Ngày 01/06/1946 nước "Cộng Hoà Nam Kỳ" ra đời, với nội các Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh. Lá cờ "Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc" có nền vàng bao bên ngoài ba sọc xanh ở giữa, chen giữa ba sọc xanh là hai sọc trắng. Ư nghĩa của ba sọc xanh là ba phần Việt, Miên, Lào trong liên bang Đông Dương sống ḥa b́nh thịnh vượng (màu xanh và trắng). Chế độ "Nam Kỳ thuộc địa" tồn tại được 2 năm th́ cáo chung với sự thành lập Quốc Gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc Trưởng kể từ 02/06/1948.


    Cờ Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc (01/06/1946 - 02/06/1948)

    * 1-6-46: Nam Kỳ CH Quốc trong Liên Bang Đông Dương.

    * Nền vàng, ba sọc xanh, hai sọc trắng

    * 02/06/1948: Bảo Đại lập Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, thống nhất ba miền.





    9. Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của "Việt Nam Quốc" và "Việt Nam Cộng Hoà"

    Tại Hà Nội, sau khi Việt Minh rút vào bưng kháng chiến chống Pháp, th́ nền hành chánh của miền Bắc và Trung tạm thời rơi vào tay người Pháp. Kế đó, cựu hoàng Bảo Đại được các đảng phái cách mạng cũng như người Pháp mời ra điều khiển đất nước với tư cách "Quốc Trưởng". Ông đ̣i hỏi Pháp phải công nhận cho Việt Nam được quyền độc lập và thống nhất ba miền, rồi thành lập "Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam", cử tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng để điều hành đất nước và thương thảo với Pháp. Tiếp theo, Hội Đồng Đại Biểu Chính Phủ Nam Việt Nam của "Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc" gởi kiến nghị tán thành chính phủ trung ương, chấp nhận sự độc lập và thống nhất thật sự của ba miền. V́ thế ngày 02/06/1948, chính phủ Nguyễn Văn Xuân công bố Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam trong liên hiệp Pháp, áp dụng cho cả ba miền Nam, Trung và Bắc Kỳ.

    Lá Quốc Kỳ mới cũng có nền vàng với ba sọc đỏ giống hệt như Đại Nam Quốc Kỳ trong thời khoảng 1890-1920. Nhưng đây là lần đầu tiên, Cờ Vàng được chính thức dùng cho "Quốc Gia Việt Nam", một chế độ không c̣n thuộc Đế Chế của Triều Nguyễn.


    Bàn về xuất xứ của lá Cờ Vàng của chế độ mới, cố GS Nguyễn Ngọc Huy cho biết lá cờ này đă "do một hoạ sĩ nổi tiếng thời Đệ Nhị Thế Chiến là Lê Văn Đệ vẽ và đă được Cựu Hoàng Bảo Đại chọn trong nhiều mẫu cờ khác nhau được tŕnh cho ông trong một phiên họp ở Hongkong năm 1948". Tuy nhiên, một số tài liệu khác cho thấy không phải ngẫu nhiên mà Bảo Đại chọn lá cờ ấy, cũng không phải chỉ v́ lá Cờ Vàng "đẹp và ư nghĩa". Nguyên do chính là v́ hoạ sĩ họ Lê đă vẽ lại một lá quốc kỳ từng hiện hữu trên quê hương từ 50 năm về trước, suốt trong thời kỳ hai vị vua ái quốc Thành Thái và Duy Tân c̣n tại vị. Điều này đă được giải thích tường tận ở mục "3- Quốc Kỳ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ dưới hai triều đại Kháng Pháp 1890-1920"


    Cờ Vàng Quốc Gia VN (2 Jun, 1948 - 20 Jul, 1954)

    * 02/061948 : Chính Phủ Trung Ương dùng Cờ Vàng làm quốc kỳ giống như Đại Nam Kỳ thời 1890-1920.

    * 20/07/1954 : Đất nước chia đôi theo Hiệp Định Genève. Từ đó, Cờ Vàng vẫn được dùng làm Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà từ 20/07/1954 đến 30/04/1975.



    Vào năm 1948, Bảo Đại không muốn tái sử dụng Long Tinh Kỳ v́ đó là Đế Kỳ của một đế chế mà ông đă chấm dứt vào tháng 08/1945. Một ông vua tha thiết với nền độc lập và sự toàn vẹn lănh thổ, đến nỗi chịu thoái vị v́ quyền lợi tối thượng của đất nước, hẳn dư biết nguồn gốc của lá Cờ Vàng. Ngoài ra, một vài chi tiết lịch sử quan trọng khác cũng đă góp phần vào việc chọn lựa Cờ Vàng : Đó là cái chết oan ức tại Phi Châu vào cuối năm 1945 của hoàng tử Vĩnh San, tức là cựu hoàng Duy Tân, và sự hiện diện tại Sài G̣n từ năm 1947 của cựu hoàng Thành Thái, thân sinh của Duy Tân. Cờ Vàng đă được dùng làm Quốc Kỳ lần đầu trong triều đại của hai vị vua này. Cả hai đă là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập vào đầu thế kỷ 20, mà hậu quả là cuộc xử tử các thủ lănh Quang Phục Hội như anh hùng Thái Phiên, Trần Cao Vân vào năm 1916, và án lưu đày Phi Châu của hai vị vua ái quốc ấy. Năm 1942, hoàng tử Vĩnh San gia nhập quân đội Pháp (cánh De Gaulle), đến năm 1945 được thăng cấp Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng. Khi Thế Chiến thứ 2 kết thúc, Tướng De Gaulle về Pháp cầm quyền, dự định cho ông về Việt Nam. Nhưng sau đó, có người tố cáo cho De Gaulle biết Vĩnh San luôn luôn ấp ủ chủ trương Việt Nam độc lập và thống nhất Nam, Trung, Bắc. V́ vậy, trong lần hội kiến với De Gaulle vào ngày 14/12/1945, ông bị khiển trách nặng nề và bị tước mất cấp bậc. Ông đă tâm sự với người bạn thân rằng ông lo ngại sẽ bị hại. Ngày 24/12/1945, ông bị đưa về lại đảo Réunion. Hai hôm sau, ông bị tử nạn máy bay tại Trung Phi. Cái chết đầy nghi vấn của cựu hoàng Duy Tân đă làm dư luận Việt Nam xúc động và thương tiếc vị vua ái quốc. Năm 1947, cha ông là cựu hoàng Thành Thái lúc bấy giờ đă 68 tuổi, được Pháp cho về Sài G̣n, với điều kiện là ông không giữ bất cứ một trách nhiệm chính trị nào cả. Dù vậy, sự hiện diện của cựu hoàng Thành Thái cùng với cái chết của cựu hoàng Duy Tân hiển nhiên đă gợi lên tinh thần tôn kính hoài băo của hai vua. Chắc chắn Bảo Đại có đến thăm bậc Thái Thượng Hoàng khả kính của ông, và hội ư trong việc chọn Cờ Vàng làm Quốc Kỳ, nhưng ông không thể tiết lộ ra, v́ sẽ phạm vào điều kiện của De Gaulle khi cho cựu hoàng Thành Thái về VN, là không được tham dự vào chính trị phục quốc. Sự rao truyền rằng Cờ Vàng do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ ra mà không nhắc đến sự hiện hữu của Cờ Vàng 50 năm trước, cũng có dụng ư. Đó là v́ nhu cầu bảo vệ an nguy của cựu hoàng Thành Thái. V́ thế, việc Quốc Trưởng Bảo Đại lựa chọn Cờ Vàng của thời chống Pháp làm Quốc Kỳ cho tân chế độ là một quyết định sáng suốt và hợp chính nghĩa.

    V́ nguồn gốc kháng Pháp hào hùng của Cờ Vàng, mà năm 1955, Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm tổ chức "trưng cầu dân ư", lập ra chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà, quốc hội mới vẫn giữ nguyên quốc kỳ của một chế độ đă cáo chung. Cuộc đảo chánh năm 1963, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, lập nên Đệ Nghị Cộng Hoà, Cờ Vàng vẫn được giữ nguyên là Quốc Kỳ cho đến khi miền Nam bị miền Bắc thôn tính.



    10. Cờ Đỏ Sao Vàng của "VN Dân Chủ Cộng Ḥa" và "Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa VN"

    Năm 1954, Hiệp Định Genève được kư kết, đưa đến việc chia hai lănh thổ, từ vĩ tuyến 17 (ranh giới Quảng Trị và Quảng B́nh) trở ra Bắc thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh. Việt Minh, lúc bấy giờ đă hoàn toàn lộ diện là đảng Cộng Sản Việt Nam, trở lại Hà Nội và tái lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Lá cờ được dùng làm "quốc kỳ" của miền Bắc vẫn là cờ nền đỏ sao vàng, gọi là Hồng Kỳ - Cờ Đỏ. Tuy nhiên, các cạnh của ngôi sao không c̣n là đường cong như cờ Việt Minh nữa mà là đường thẳng.

    Theo các websites của đảng CSVN, đặc biệt là : http://www.sfc.keio.ac.jp/apd/minh/f...em_anthem.html, th́ lá cờ Đỏ do ông Nguyễn Hữu Tiến vẽ ra và đă từng xuất hiện lần đầu vào ngày 23/11/1940 tại miền Nam.

    Cuốn Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 của Chính Đạo cũng ghi "lần đầu tiên CS dùng Cờ Đỏ Sao Vàng làm kỳ hiệu" trong cuộc "tổng khởi nghĩa" ngày 23/11, kéo dài cho đến đầu tháng 12 năm 1940. Cuộc "tổng khởi nghĩa" đă được đảng Cộng Sản Đông Dương phát lệnh tại Sài G̣n, Gia Định (23/11) và một số tỉnh miền Nam như Cần Thơ, Chợ Lớn, Sóc Trăng (24/11), Mỹ Tho, Vĩnh Long, Tân An (27/11), Long Xuyên, Kiến An (30/11).

    Cuộc khởi nghĩa của Cộng Sản bị Pháp dẹp tan, với hàng ngàn người bị bắt cầm tù và 106 lănh tụ CS bị xử tử h́nh. Biến cố này cho thấy Cờ Đỏ nguyên là cờ của đảng CSĐD trước khi được sửa đổi và dùng làm cờ của Việt Minh.


    Cờ Đỏ Sao Vàng của VNDCCH và CHXHCNVN

    20/07/1954 - hiện nay

    * Tương tự cờ Việt Minh, nhưng cạnh ngôi sao vẽ thẳng để giống Liên Sô và TG
    * Nguyên là cờ đảng Cộng Sản Đông Dương, xuất hiện lần đầu ngày 23/11/1940 trong cuộc "khởi nghĩa" tại Nam Kỳ.

    * Tháng 07/1976, thống nhất đất nước, vẫn dùng Cờ Đỏ

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa
    Tài Liệu Đặc Biệt : Quốc Kỳ Việt Nam
    Nguồn Gốc & Lẽ Chính Thống






    11. Cờ Mặt Trận GPMN


    Ngày 30/04/1975, CSVN chiếm được miền Nam. Vài tháng đầu, để trấn an "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam", CSVN lập ra "Chính Phủ Lâm Thời" của chế độ "Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam", có "quốc kỳ" riêng là nền đỏ nửa trên, nền xanh nửa dưới, chính giữa có ngôi sao vàng, tương tự như cờ của Bắc Việt. Sang năm 1976, ngày 02/07, th́ đảng CSVN thống nhất hai miền thành "Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam", khai tử Cờ MTGP Miền Nam, và dùng Cờ Đỏ (Sao Vàng) làm Quốc Kỳ trên toàn quốc cho đến nay.


    Cờ Mặt Trận GPMN (Nam VN)

    30/04/1975 - 02/07/1976

    * Tương tự cờ Bắc Việt, nhưng một nửa nền dưới thành màu xanh.

    * Bị khai tử năm 1976 khi hai miền thống nhất



    Điểm đáng ghi nhận là Cờ Đỏ của CHXHCNVN hầu như rập theo khuôn mẫu các "hồng kỳ" của Liên Sô và TC, nghĩa là cũng cùng nền đỏ, cũng có sao vàng. Cờ Liên Sô nền đỏ, trên đầu góc trái có h́nh búa liềm và một nôi sao viền vàng. Cờ Trung Cộng cũng một nền đỏ, trên đầu góc trái có một ngôi sao vàng lớn và 4 ngôi sao vàng nhỏ h́nh cánh cung phía bên mặt. Ngôi sao lớn tượng trương cho Trung Hoa Lục Địa, bốn ngôi sao nhỏ là bốn chư hầu: Triều Tiên, Việt Nam, Lào và Miên (không kể Đài Loan và Tây Tạng, được xem là lănh thổ của Hoa Lục). C̣n cờ đảng CSVN có nền đỏ và h́nh búa liềm vàng, tương tự như cờ Soviet Union. Như vậy, khác hẵn với ư nghĩa độc lập thống nhất của Cờ Vàng, Cờ Đỏ mang ư nghĩa "Việt Nam là một trong những chư hầu trong khối cộng sản".


    Cờ Liên Bang Soviet Union Cờ TC Cờ đảng CSVN và cờ Nhà Nước VC

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa

    Lịch-Sử Quốc-Kỳ và Quốc-Ca Việt-Nam Cộng Ḥa
    Tài Liệu Đặc Biệt : Quốc Kỳ Việt Nam
    Nguồn Gốc & Lẽ Chính Thống




    12. Cờ Vàng của "Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại"



    Kể từ ngày 30/04/1975 đến nay, hàng triệu người Việt không muốn sống dưới chế độ CHXHCNVN, đă t́m mọi cách thoát ra khỏi nước. Suốt gần ba thập niên qua, tại khắp nơi trên các nước tự do, Cờ Vàng luôn luôn được dùng làm biểu tượng của dân tộc VN trong mọi cuộc lễ nghi, hội họp. Từ dịp vui mừng ngày hội Tết, cho đến dịp kỷ niệm ngày 30/04, Cờ Vàng luôn luôn được kéo lên, không phân biệt ban tổ chức thuộc đảng phái chính trị hay hội đoàn xă hội nào.


    Cờ Vàng của CĐ Việt Nam Hải Ngoại

    1975 - đến nay

    * Tương tự Cờ Vàng của :

    - Thời Cần Vương kháng pháp 1890-1920

    - Thời Quốc Gia Việt Nam 1948-1955

    - Thời Đệ Nhất Cộng Ḥa 1955-1963

    - Thời đệ Nhị Cộng Ḥa 1963-1975


    Sau đây là vài h́nh ảnh tiêu biểu trong hàng ngàn cảnh tượng tại hải ngoại suốt gần ba thập niên qua, trong đó Cờ Vàng luôn luôn được xem là biểu tượng của quốc gia và dân tộc Việt Nam.

    III. Phân Tích Về "Chính Nghĩa" Của 2 Lá Cờ Vàng & Đỏ



    1. Tính cách "chính thống" của Cờ Vàng



    Gần đây, tại Hoa Kỳ, Cờ Vàng đă được một số cơ quan công quyền tại các địa phương như thị xă, quận hạt và tiểu bang chấp nhận như "Cờ Tự Do và Truyền Thống của Cộng Đồng Việt Nam" (The Freedom and Heritage Flag of the Vietnamese Community). Phong trào "Vinh Danh Cờ Vàng" được phát khởi và đạt thành quả tốt đẹp là v́ trong ḷng của đại đa số người dân Việt đang định cư tại hải ngoại đều cho Cờ Vàng vẫn là lá "quốc kỳ" chính thống của Tổ Quốc Việt Nam. V́ thế mà phong trào đă được sự hưởng ứng của đồng bào, các hội đoàn, nhân sĩ Việt Nam, tích cực nhất là của Ủy Ban Vận Động Chính Trị Người Mỹ Gốc Việt (Vietnamese-American Political Action Committee - VPAC).



    Trước t́nh trạng đó, nhà cầm quyền Hà Nội đă phản ứng mạnh mẽ bằng các phương tiện ngoại giao. Bộ Ngoại Giao của CHXHCNVN đă gởi phái đoàn tới gặp các viên chức chính quyền để vận động thu hồi các nghị quyết về Cờ Vàng. Lư luận của các viên chức của chế độ được tóm gọn trong câu "Cờ Vàng đă cáo chung theo chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, nên không thể được vinh danh hay treo lên tại các công sở của các quốc gia khác."



    Thế nhưng, h́nh như họ đă không lưu ư đến lịch sử và pháp lư để hiểu rằng :


    - Cờ Vàng không chỉ là Quốc Kỳ trong thời VNCH, mà c̣n được dùng làm Quốc Kỳ của các chế độ trước đó. Trong thời Pháp thuộc, miền Nam bị cưỡng bách phải dùng cờ Tam Tài làm Quốc Kỳ và hát quốc ca Pháp, nhưng dân Việt vẫn không chấp nhận và đă tranh đấu không ngừng để loại chế độ thuộc địa đi, đồng thời tái sử dụng Cờ Vàng làm Quốc Kỳ.

    - Chế độ CHXHCHVN không đại diện cho tập thể người Việt hải ngoại, về mặt pháp lư cũng như về tinh thần. Nhà Nước Việt Nam chỉ có thể đ̣i hỏi chính phủ Liên Bang Mỹ phải tôn trọng Cờ Đỏ, mỗi khi có sự tiếp đón ngoại giao. Nhưng Hiến Pháp Hoa Kỳ không cho phép chính phủ Liên Bang Mỹ bắt buộc dân chúng hay các cơ quan công quyền địa phương phải tôn trọng những ǵ mà họ không chấp nhận, nhất là trên phương diện chính trị và tư tưởng.

    - Việc vinh danh Cờ Vàng thể hiện tinh thần bất khuất, yêu chuộng độc lập, tự do và dân chủ của dân tộc Việt Nam, từng được biểu dương trong thời chiến đấu chống lại chính sách thuộc địa của thực dân Pháp. Tinh thần đó cao quư hơn sự hiện hữu của các chế độ. Mọi người Việt không phân biệt khuynh hướng chính trị, quốc gia hay cộng sản, đều phải hiểu như thế, chứ không thể lư luận rằng khi chế độ VNCH cáo chung th́ Cờ Vàng phải bị loại bỏ.

    Một cáo buộc khác cũng đă được các cán bộ Ngoại Giao của Hà Nội sử dụng khi vận động các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ hủy bỏ Nghị Quyết Cờ Vàng, đó là "Cộng đồng người Việt hải ngoại có âm mưu ngăn chặn Cờ Đỏ xuất hiện tại hải ngoại và phục hồi chế độ VNCH, tạo lại cuộc chiến đă trôi qua 30 năm trước."

    Sự kiện cộng đồng người Việt hải ngoại chỉ muốn thừa nhận Cờ Vàng mà không muốn nh́n thấy lá Cờ Đỏ đă thể hiện bằng hành động công khai từ trên nhiều thập niên qua, không có ǵ dấu diếm để bị cho là "âm mưu." Tất cả các cuộc tập họp, lễ lạc như hội chợ Xuân, Lễ Quốc Tổ Hùng Vương, các tiệc liên hoan khánh tiết, kỷ niệm ngày 30-4, v.v... người Việt hải ngoại đều công khai treo cờ Vàng khắp thế giới. Mới đây, tháng 12 năm 2003, để phản đối đài truyền h́nh SBS ở Australia về việc truyền h́nh chương tŕnh "Thời Sự", một sản phẩm của Hà Nội, trên 12 ngàn người Việt đă đội mưa biểu t́nh với rừng Cờ Vàng chen lẫn Cờ Úc, cho thấy ư dân quá rơ ràng, nơi đâu cũng cùng một ḷng bảo vệ Cờ Vàng và không chấp nhận Cờ Đỏ. Vụ Trần Trường mấy năm trước, muốn treo Cờ Đỏ tại Nam California đă bị cộng đồng VN tự động phản đối mạnh mẽ, cũng là một bằng chứng cho ư nguyện của người dân, không chấp nhận Cờ Đỏ. Đối với họ, Cờ Đỏ tượng trưng cho sự lệ thuộc vào chủ nghĩa cộng sản lỗi thời và phi dân tộc, nằm trong quỹ đạo của Trung Cộng.

    Mặt khác, dù chế độ Đệ Nhị VNCH trước năm 1975 có tự do dân chủ hơn chế độ CHXHCNVN hiện nay gấp bội lần, nhưng không ai muốn "phục hồi" chế độ ấy cả. Đa số người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ, đều mong muốn đất nước có được một chế độ công bằng, nhân bản, tự do, dân chủ, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, lo cho hạnh phúc dân chúng thay v́ phục vụ sự vinh thân của giới lănh đạo. Tất cả mọi người dân trong cũng như ngoài nước, ngoại trừ một số đảng viên cao cấp của CSVN, đều nhận thấy chế độ hiện nay không đáp ứng quyền lợi của người dân, nên cần phải được thay thế bằng mọi cách. Đó là nguyện vọng chính đáng và hợp đạo lư dân tộc.

    Tóm lại, nếu lúc này trong nước mở cuộc trưng cầu dân ư, thực sự cho người dân lựa chọn mà không trả thù họ, th́ Cờ Đỏ sẽ bị loại trừ và bị thay thế bởi Cờ Vàng lập tức. Đó là điều vô cùng thực tế và là một thách thức cho chế độ!

    Chính v́ sự thiếu thốn tài liệu trung thực, mà việc nghiên cứu bối cảnh lịch sử trong thập niên 1940 rất cần thiết trong lúc này, không những để cho thế hệ trẻ trong và ngoài nước được biết, mà c̣n để cho cả những viên chức trẻ của chế độ CSVN hiểu rơ ngơ hầu chấm dứt những vận động xóa bỏ Cờ Vàng, thay vào đó là cố gắng cùng sát cánh với toàn dân trong việc bảo vệ truyền thống cao quư của Việt Nam.



    2. Tính chất "phi dân tộc" của Cờ Đỏ.

    Từ đầu thế kỷ 20 đến đầu thập niên 1940, t́nh h́nh thế giới biến chuyển nhanh chóng qua hai cuộc thế giới đại chiến. Tại Việt Nam, anh hùng Yên Thế Hoàng Hoa Thám bị kẻ nội gian hạ sát vào năm 1913. Kế đến, vua Duy Tân bị Pháp bắt đày đi Phi Châu cùng với Phụ Hoàng Thành Thái v́ ḷng ái quốc thương dân. Trước thái độ bù nh́n nịnh Pháp của vua Khải Định, phong trào Cần Vương bắt đầu suy tàn. V́ thế, các tổ chức cách mạng liên tiếp ra đời, theo đuổi mục đích phục quốc, thay v́ cần vương hồi phục nhà Nguyễn. Kỳ cựu và nổi tiếng nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ). Năm 1930, Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí bị bắt và lên máy chém, th́ VNQDĐ với lănh tụ mới là ông Vũ Hồng Khanh đă trải qua thời kỳ khốn khổ v́ bị Pháp truy lùng. Tiếp theo đó, đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) được ông Nguyễn Sinh Cung (tức là Nguyễn Tất Thành, Lư Thụy, Nguyễn Ái Quốc, Lucius, Lin, Hồ Quang, Hồ Chí Minh) thành lập và bí mật phát triển nhân sự một cách nhanh chóng.

    Đến tháng 08/1934, VNQDĐ kết hợp với một số nhân sĩ cách mạng như Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lăm và đảng CSĐD thành tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, với tên tắt là Việt Minh. Tuy nhiên đến cuối năm 1935 th́ VNQDĐ rút ra khỏi tổ chức liên kết v́ cảm thấy Việt Minh dần dần bị thao túng bởi các đảng viên của đảng CSĐD. Từ đó, Việt Minh trở thành tổ chức b́nh phong của đảng CSĐD.

    Vào cuối thập niên 1930, Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ, lan sang Á Châu. Nhân đó, nhiều tổ chức cách mạng liên tiếp ra đời như Đại Việt Quốc Dân Đảng (đảng trưởng là Trương Tử Anh), Đại Việt Dân Chính (Nguyễn Tường Tam), Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội (Hoàng thân Cường Để), Đại Việt Duy Dân Đảng (Lư Đông A), và một số các tổ chức nhỏ khác. Sau đó, các tổ chức này lại kết hợp với Việt Minh thành một tổ chức mới, là Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, viết tắt là Việt Cách, do các ông Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công và Vũ Hồng Khanh giữ trách nhiệm lănh đạo. Trong lần kết hợp này, Việt Minh không c̣n có nhân sự trong thành phần lănh đạo cao cấp nữa, nên Nguyễn Ái Quốc với tên mới là Hồ Chí Minh quyết định tách ra và tập họp Hội Nghị lần thứ 8 đảng CSĐD vào tháng 05/1941 tại Pac-Bó, tỉnh Cao Bằng, công khai hoá Mặt Trận Việt Minh để tiến hành cuộc "cách mạng quốc tế vô sản" dưới lá Cờ Đỏ Sao Vàng, với lực lượng vơ trang là "Vệ Quốc Quân". Về phía Việt Cách, để tiến hành cuộc "cách mạng quốc gia", họ cũng công khai hóa "Mặt Trận Quốc Dân", dùng cờ hiệu là Nền Đỏ Sao Trắng, với lực lượng vơ trang gọi là "Quốc Dân Quân".

    Ôn lại các sự kiện trên để thấy rằng ngày từ thuở phôi thai, đảng CSĐD không hề phục vụ dân tộc. Ngược lại, họ đă dùng chiêu bài "cách mạng dân tộc" để phục vụ cho lư tưởng Chủ Nghĩa Cộng Sản đồng thời sử dụng sách lược của Đệ Tam Quốc Tế để cướp chính quyền. Chính v́ lá Cờ Đỏ đă được khai sinh bởi lư tưởng Cộng Sản và đến nay vẫn phục vụ cho lư tưởng Cộng Sản, nên Cờ Đỏ không hề mang tính "dân tộc".



    3. Tính chất "phi cách mạng" của cuộc chính biến tháng 08/1945 tại Hà Nội

    Bàn về Cờ Đỏ mà không phân tích về các biến chuyển thời sự vào tháng 08/1945, thiết tưởng là một thiếu sót, v́ Cờ Đỏ gắn liền vói cuộc chính biến lịch sử này.

    Sau khi Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập từ tháng ba, năm 1945, tồn tại cho đến khi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử trên đất Nhật hai vào ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, đưa đến sự đầu hàng vô điều kiện của Nhật. Tiếp theo đó, khắp ba miền, các biến chuyển thời sự dồn dập cho đến cuối tháng 8.

    Ngày 12/08/1945, Phong Trào Phụng Sự Quốc Gia của ông Trần Văn Cương tổ chức biểu t́nh tại Hà Nội, hô hào dân chúng đoàn kết cứu nước. Tại Thuận Hóa, ông Trần Trọng Kim không mời được người tham gia chính phủ mới v́ không ai muốn phục vụ dưới chế độ thân Nhật nữa.

    Ngày 14/08/1945, tại Sài G̣n, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt ra đời gồm Cao Đài, Hoà Hảo, Liên Đoàn Công Chức, Thanh Niên Tiền Phong, Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng của quư ông Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân.

    Ngày 16/08/1945, ông Hồ Chí Minh cùng các đảng viên kỳ cựu của đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế như các ông Vơ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Chu Văn Tấn, Phạm Văn Đồng, v.v..., dưới b́nh phong là Mặt Trận Việt Minh, triệu tập "Đại Hội Quốc Dân" tại Tuyên Quang, tuyên bố thành lập nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa" và phát động cuộc "tổng khởi nghĩa". Lúc bấy giờ rất ít người biết đến tung tích đích thực của những người này, nhưng tin đồn về Mặt Trận Việt Minh "tổng khởi nghĩa" tràn lan khắp nước.

    Ngày 17/08/1945, tại Thuận Hoá, vua Bảo Đại chủ toạ buổi họp chính phủ Trần Trọng Kim. Buổi họp đưa đến một số quyết định quan trọng của Bảo Đại như sau :


    * Chấp thuận bản dự thảo thông điệp kêu gọi các quốc gia Đồng Minh giúp đỡ, bảo đảm nền độc lập của Việt Nam.

    * Ban hành đạo dụ số 105 t́nh nguyện trao quyền điều hành đất nước cho một chính phủ "cộng ḥa dân chủ" và sẵn sàng tuân theo thể chế mà nhân dân quyết định.

    * Xuống chiếu tuyên bố cùng toàn dân rằng nhà vua đặt hạnh phúc của nhân dân lên trên ngai vàng nhà Nguyễn, "muốn làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nưóc nô lệ", và kêu gọi toàn dân đoàn kết, tham gia việc nước.

    Cũng cùng ngày hôm đó, công chức Hà Nội tổ chức biểu t́nh để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng được nửa buổi th́ bị đảng viên Cộng Sản thuộc Mặt Trận Việt Minh trà trộn vào đoàn biểu t́nh, phất cờ đỏ sao vàng, bắn súng thị uy và lái cuộc biểu t́nh thành cuộc biểu t́nh hoan hô Việt Minh.

    Ngày Chủ Nhật 19/08/1945, Tại Hà Nội, Việt Minh vận động hàng ngàn đồng bào cầm nhiều Cờ Đỏ Sao Vàng, kéo tới quảng trường Ba Đ́nh, trước dinh của Khâm Sai Phan Kế Toại để biểu t́nh. Tại đó, các cán bộ Việt Minh dùng súng uy hiếp bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, "Giám Đốc Ủy Ban Chính Trị Miền Bắc" phải ra lệnh cho binh sĩ Bảo An mở cửa dinh. Cán bộ Việt Minh tước khí giới của họ, chiếm Khâm Sai Phủ và Toà Thị Chính. Sau đó, cuộc biểu t́nh biến thành buổi ra mắt "Mặt Trận Việt Minh Cứu Quốc". V́ biến cố này, nhóm chữ "Việt Minh cướp chính quyền" bắt đầu được dùng tới, đối nghịch với nhóm chữ "Cách Mạng Tháng 8" mà các sử gia đảng Cộng Sản Việt Nam sử dụng sau này.

    Cũng trong ngày 19/08/1945, tại Sài g̣n, Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia ra đời. Tổ chức này chủ trương giao thiệp và tiếp nhận khí giới cùng các công cụ do Nhật bàn giao. Tuy nhiên, không được bao lâu th́ cán bộ Việt Minh đă thuyết phục họ rằng Việt Minh được Đồng Minh xem là tổ chức "kháng Nhật", nên để cho Việt Minh tiếp thu vũ khi Nhật th́ mới được Đồng Minh tiếp tục ủng hộ. Nhờ đó, Việt Minh đă gấp rút thành lập các Ủy ban Nhân Dân địa phương. Đến ngày 24-8-45 th́ Việt Minh thực sự nắm chính quyền ở Sài g̣n, với sự ra đời của "Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ Lâm Thời".

    Theo cuốn SAIGON (Anthoney Grey), sau khi tuyên bố "Tổng Khởi Nghĩa" tại Cao Bằng th́ ông Hồ Chí Minh cùng bộ chỉ huy kéo về Hà Nội, dẫn theo một số người Mỹ. Họ vốn là những điệp viên OSS đă nhảy dù xuống vùng thượng du Bắc Việt vào đầu năm 1945, để tiếp tế vũ khí và huấn luyện cho bộ đội Việt Minh t́m cứu các phi công Mỹ bị Nhật bắn hạ. Ông Vơ Nguyên Giáp đă phái những toán bộ đội Việt Minh đi trước mở đường. Họ hô hào dân chúng ra đón tiếp, để người Mỹ tưởng là Việt Minh được nhân dân ủng hộ, đồng thời để nhân dân tưởng rằng Việt Minh được Hoa Kỳ ủng hộ. Họ cũng đốt phá các làng mạc nào không chịu ra đón tiếp họ và vu cáo hành động tàn phá cho Việt Quốc (VNQDĐ). Vơ Nguyên Giáp c̣n phái các toán Việt Minh đi sau phá cầu đường để ngăn chặn cuộc trở về Hà Nội của Việt Cách và "Quốc Dân Quân". Phần th́ bị các chướng ngại ngăn trở, phần th́ yếu thế hơn Việt Minh, lực lượng Việt Cách đă kẹt ở biên giới Việt Trung từ khi Nhật đầu hàng cho đến đầu tháng 09 mới theo quân đội Trung Hoa Quốc Gia do Lư Hán thống lănh về Hà Nội. V́ thế các cuộc biểu t́nh tại Hà Nội trong tháng 8, 1945 đă không có sự tham dự của các lực lượng cách mạng quốc gia.

    Những cuộc vận động của Việt Minh nhằm tiếp thu chính quyền quốc gia được kể là hoàn tất khi vua Bảo Đại ban hành chiếu thoái vị vào ngày 25/08 tại Huế, và "nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một chính phủ dân chủ cộng ḥa." Bảo Đại kết thúc chiếu thoái vị với hai câu khẩu hiệu: "Việt Nam độc lập muôn năm!" và "Dân chủ cộng ḥa muôn năm!"

    Ngày 30/08/1945, lễ Thoái Vị được cử hành trọng thể vào lúc 12 giờ trưa trước cửa Ngọ Môn, đến 2 giờ chiều đă có hàng vạn người. Sau khi vua Bảo Đại đọc xong chiếu thoái vị, th́ Long Tinh Đế Kỳ được kéo xuống và Cờ Đỏ Sao Vàng của Việt Minh được kéo lên. Trong cuốn hồi kư "Con Rồng Việt Nam", cựu hoàng Bảo Đại tóm lược t́nh trạng bấy giờ như sau: "... lợi dụng sự tuyên truyền phóng đại và đe dọa, người của Việt Minh như đoạt được quyền hành trên toàn quốc, trong mười lăm ngày sau khi quân Nhật đầu hàng."

    Xuyên qua các dữ kiện lịch sử nêu trên, một vấn đề khúc mắc được nêu lên từ 1945 đến nay: Cuộc chính biến tháng 8 năm 1945 do Việt Minh chủ động có phải là một cuộc "cách mạng chân chính" hay không ?

    Để giải đáp rốt ráo vấn đề này, trước hết, ta hăy xem lại các định nghĩa về danh từ "cách mạng".

    Theo nghĩa chữ Hán, "cách" là "thay đổi, bỏ đi", "mạng" hay "mệnh" là "sự sống"; chữ "cách mạng" viết kép nghĩa là "thay đổi triều vua".

    Theo nghĩa Tây Phương, "cách mạng" là "revolution", nghĩa là "a political movement which seeks to overthrow a government", một phong trào chính trị nhằm loại bỏ một chính phủ.

    Như vậy, một cuộc "cách mạng chân chính" cần hội đủ các đặc tính: Tính "thay cũ đổi mới", tính "dân tộc", tính "độc lập", tính "tự chủ", tính "quần chúng", và tính "đoàn kết". Sau đây ta thử xét xem các đặc tính trên có trong cuộc chính biến tháng 08/1945 hay không.

    - Tính "thay cũ đổi mới" : Biến cố tạo nên hậu quả cáo chung một chế độ cũ và thay thế bởi một chế độ mới.

    - Tính "độc lập" : Biến cố tự phát sinh mà không do sự hỗ trợ biểu kiến của một ngoại bang nào.

    - Tính "tự chủ" : Biến cố không bị kềm chế hay ảnh hưởng trực tiếp bởi một lực lượng ngoại lai nào.

    - Tính "quần chúng" : Biến cố được sự tham dự của nhiều người. Sự tham dự này có thể là do tự nguyện, được vận động, hay bị ép buộc.

    - Tính "dân tộc" : Biến cố được phát khởi từ một hay nhiều thành phần dân tộc để phục vụ dân tộc chứ không nhằm phục vụ một ư thức hệ nào.

    - Tính "đoàn kết" : Biến cố tận dụng các tài nguyên của đất nước như thời Kháng Nguyên của Nhà Trần và Kháng Minh của nhà Lê thuở trước.

    Xét về mặt biểu kiến, cuộc chính biến tháng 8 năm 1945 do Việt Minh chủ động có một số đặc tính "cách mạng", v́ những sự kiện sau :

    - Sự thật 1 : Nó có tính "thay cũ đổi mới", đưa đến sự cáo chung triều đại quân chủ nhà Nguyễn để tiến dần đến các chế độ mới sau này.

    - Sự thật 2 : Nó có tính "độc lập", thể hiện ḷng khát vọng của toàn dân, kể cả hoàng đế Bảo Đại, muốn thấy đất nước được độc lập, không c̣n bị đô hộ bởi thực dân Pháp nữa. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội từ lúc thành lập đă có chủ trương chống cả Pháp và Nhật để dành độc lập cho nước nhà. Nhiều người không cộng sản đi theo Mặt Trận Việt Minh từ tháng 8, 1945 về sau cũng v́ tán thành chủ trương độc lập đó.

    - Sự thật 3 : Nó có tính "tự chủ". Vào thời điểm tháng 8, 1945, tại Đông Dương có ba lực lượng ngoại bang: Pháp, Nhật, và Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch. Mặt Trận Việt Minh không dựa vào Trung Hoa Dân Quốc, Pháp cũng như Nhật.

    - Sự thật 4 : Nó có tính "quần chúng". Với kỹ thuật sách động và hù họa dân chúng của Việt Minh, hàng vạn người đă tham gia các cuộc biểu t́nh 19/08 và 02/09, tạo nên khi thế quần chúng chưa bao giờ có.

    Đọc đến đây ắt có người về phía "Quốc Gia" sẽ tranh luận ngay rằng cuộc chính biến tháng 08/1945 không thể có tính "độc lập" hay "tự chủ". Họ sẽ nêu ra dữ kiện rằng "Thành phần chính phủ mà Hồ Chí Minh công bố ngày 02/09/1945 hết thảy là cộng sản Việt Nam, là tay sai của Liên Sô và Trung Cộng, nên cuộc chính biến tháng 8 bị lệ thuộc vào lực lượng ngoại bang."

    Sự tranh luận ấy không đúng theo lịch sử. Vào giữa thập niên 1940, thế lực chính trị của Liên Sô c̣n yếu. Lực lượng quân sự của Liên Sô đang dồn vào mặt trận Đông Âu, không có chút ảnh hưởng nào tại Đông Dương ngoài việc huấn luyện ư thức hệ cho các đảng viên đảng Cộng Sản Đông Dương. Trung Hoa c̣n thuộc chế độ Cộng Hoà của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, từ Tôn Dật Tiên chuyển xuống Tưởng Giới Thạch, đang vất vả chống Nhật ngay trên lănh thổ của họ và phải nhờ Hoa Kỳ trấn giữ các căn cứ chiến lược vùng đông nam Hoa Lục. Lực lượng Trung Cộng của Mao Trạch Đông chỉ mới phôi thai ở miệt tây bắc Trung Quốc, lúc ấy chưa hề bén mảng đến miền nam; măi đến năm 1949, dành được Hoa Lục, mới bắt đầu ảnh hưởng vào vùng Đông Dương. Lúc bấy giờ Mặt Trận Việt Minh cũng là một trong những thành phần dân tộc, cho dù họ là "thành phần xấu" đi nữa, và sự tham gia của quần chúng quả thật là xuất phát từ khát vọng độc lập của họ, không bị Liên Sô và Trung Cộng trực tiếp ảnh hưởng. Việt Minh cướp chính quyền hoàn toàn là do sức của Việt Minh và quần chúng VN, th́ phải gọi biến cố ấy có tính "tự chủ". (Ảnh hưởng của hai đảng Cộng Sản Liên Sô và Trung Quốc chỉ mới có từ thập niên 1950 trở đi, đặc biệt là việc cung cấp vũ khí cho Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ và cuộc xâm chiếm miền Nam.) Mặt khác, nếu nói đến "ảnh hưởng" về vật chất, tư tưởng, và tinh thần th́ phải kể đến ảnh hưởng trực tiếp của Hoa Kỳ qua ba sự kiện quan trọng: Thứ nhất, toán điệp viên OSS (Office of Strategic Services) của Hoa Kỳ đă cung cấp vũ khí, đạn dược, và luấn luyện cho Việt Minh. Thứ hai, khi đoàn quân Việt Minh rời Cao Bằng về Hà Nội từ ngày 20 đến 25 tháng 8, toán OSS đă đi theo bên cạnh Hồ Chí Minh (lúc ấy là điệp viên OSS với bí danh Lucius) và Vơ Nguyên Giáp. Thứ ba, bản "tuyên ngôn độc lập" mà Hồ đọc trước quảng trường Ba Đ́nh ngày 2-9 đă phỏng theo bản "Declaration Of Independence" ngày 04/07/1776 của Hoa Kỳ. Ba sự kiện này đă tạo cho dân chúng cảm tưởng là Việt Minh được Hoa Kỳ hỗ trợ. Nhờ thế mà dân chúng đă theo Việt Minh lúc đó và sau này. Dù vậy, những ảnh hưởng đó chỉ là phụ thuộc, không v́ thế mà mất đi tính "tự chủ" của cuộc chính biến, hoặc cho rằng nó bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ, bởi v́ tất cả những kế hoạch và hành động "dành chính quyền" đều do người Việt Nam (Mặt Trận Việt Minh) chủ tŕ, chứ Mỹ, Nga, Tàu, Nhật, và Pháp không có ảnh hưởng ǵ cả.

    Tuy nhiên, phân tích kỹ hơn, cuộc chính biến tháng 8, 1945 dù có một số đặc tính "cách mạng" biểu kiến, nó lại không xứng đáng để được vinh danh là một cuộc "cách mạng dân tộc" đúng nghĩa, tức là "thay thế chế độ cũ xấu bằng chế độ mới tốt hơn" (Hán-Việt Từ-Điển Đào Duy Anh). Lấy một ví dụ dễ hiểu: Một người có dáng vẻ là nhà tu hành, chưa hẳn người đó đích thực là người tu hành. Ngoài nhân dáng, y phục, người ấy c̣n phải hành đạo theo như giới luật của một nhà tu hành, th́ mới đúng là nhà tu hành.

    Cuộc chính biến tháng 08/1945 thiếu các đặc tính sau đây :

    - Sự thật 5: Nó thiếu tính "dân tộc". Như phần III.2 đă tŕnh bày, chính phủ được ông Hồ Chí Minh công bố ngày 02/09/1945 đều là đảng viên Cộng Sản Đệ Tam. Họ chỉ có mục đích tối thượng là phục vụ cho lư tưởng Quốc Tế Đại Đồng theo Duy Vật Biện Chứng Pháp. Họ chỉ mượn chiêu bài "dân tộc" để tiến hành sách lược đó mà thôi.

    - Sự thật 6: Nó thiếu tính "đoàn kết". Như chúng ta đă biết, trước khi Nhật đầu hàng, các tổ chức cách mạng đă kết hợp thành Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, mà Việt Minh là một thành phần. Không được bao lâu th́ Việt Minh tách ra, tạo nên mầm mống chia rẽ giữa Việt Minh và các tổ chức. Rồi khi Nhật đầu hàng, th́ Việt Minh cho ra đời "Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời" ngày 19/08/1945 chỉ toàn là cán bộ Cộng Sản. Danh sách này đă được ông Hồ công bố ngày 02/09/1945 cộng thêm một vài người thuộc tổ chức ngoại vi của đảng CSĐD. C̣n các tổ chức "quốc gia" th́ không có đại diện trong chính phủ ấy. Việt Minh cũng gia tăng sự chia rẽ và bất tín đối với nhà cầm quyền với cuộc "bầu cử Quốc Hội gian lận" ngày 01/06/1946. Chính v́ sự "độc chiếm chính trị" này mà nhiều thành phần dân chúng đă nổi dậy biểu t́nh chống chính phủ hàng ngày gần như cơm bữa, nhất là sau khi Mặt Trận Việt Cách và Việt Quốc về đến Hà Nội. Ngoài ra, sau khi dành được chính quyền, Việt Minh quay ra tiêu diệt các tổ chức cách mạng như Việt Cách và Việt Quốc. Hành động tàn nhẫn ấy đă khởi đầu cho cuộc tương tranh dài 30 năm trường, tiêu hao xương máu của hàng triệu người dân lành của cả hai miền Nam và Bắc. Cho đến này nay, đảng CSVN tự đặt cho ḿnh nhiệm vụ vĩnh viễn độc tôn lănh đạo đất nước, không bao giờ chấp nhận các đảng phái khác. V́ vậy mà "cuộc chính biến tháng 8" không có tính đại đoàn kết dân tộc.

    Xét thêm về tính độc lập, nền độc lập biểu kiến đạt được vào tháng 08/1945 cũng không phải là công lao của một ḿnh Mặt Trận Việt Minh, tức là đảng CSĐD, v́ :

    - Sự thật 7 : Chính vua Bảo Đại tuyên bố vô hiệu hóa Hiệp Ước 1884 và tuyên bố Việt Nam Độc vào ngày 17/08 tại Thuận Hóa, sau đó ông thoái vị để "được làm dân một nước độc lập". Nói cách khác, nếu Việt Minh không "cướp chính quyền" vào ngày 19/08 th́ đất nước cũng sẽ tiến đến t́nh trạng độc lập và dân chủ, theo như lời tuyên bố của Bảo Đại, sẵn sàng nhường quyền điều hành đất nước lại cho một chính phủ "cộng hoà dân chủ".

    - Sự thật 8 : Ngày 02/09/1945, lúc ông Hồ Chí Minh đọc "Tuyên Ngôn Độc Lập" tại Hà Nội, đất nước vẫn chưa thực sự được "độc lập". Quân đội Nhật chưa bị giải giới. Miền Nam vẫn c̣n chính phủ riêng và lại lệ thuộc vào Pháp ngay sau khi Anh và Pháp giải giới Nhật.

    - Sự thật 9 : Trên phương diện "công pháp quốc tế", nền độc lập của toàn đất nước chỉ chính thức đạt được vào năm 1948, với sự ra đời của "Quốc Gia Việt Nam" có "Quốc Trưởng" và "chính phủ". Dù vậy, Việt Nam chỉ được thực sự "độc lập" sau khi Pháp rút quân về theo Hiệp Định Genève năm 1954.

    Mặt khác, ư niệm "cách mạng" cũng không nhất thiết chỉ cô đọng vào "mùa thu" hay "tháng Tám" năm 1945 như các sử gia cộng sản vẫn vinh danh là "Cách Mạng Mùa Thu" hay "Cách Mạng Tháng Tám", v́ :

    - Sự thật 10 : Tinh thần "cách mạng" đă được phát khởi đầu tiên bởi VNQDĐ năm 1928 với chủ trương "do dân, bởi dân và v́ dân", chứ không phải do đảng cộng sản Đệ Tam Quốc Tế phát khởi. Tinh thần "cách mạng" được thể hiện qua sự vị quốc vong thân của đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học vào năm 1930, và được tiếp tục nuôi dưỡng bởi nhiều tổ chức kháng Pháp trong suốt các thập niên 1930 và 1940.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •