4 'tử huyệt' phá tan ảo vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông

VTC News) - "Nếu cầu cứu đến Liên Hợp Quốc hoặc các tổ chức quốc tế th́ khả năng bại trận của Trung Quốc sẽ lớn hơn cơ hội chiến thắng rất rất nhiều lần. Trung Quốc đă thua trận trong cuộc chiến công luận quốc tế rồi, sẽ không c̣n bao nhiêu người có thể thông cảm cho lập trường của Trung Quốc được nữa."

Phần cuối bài phân tích của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc gia Singapore Trịnh Vĩnh Niên trên Liên hợp Buổi sáng về nguyên nhân thất bại cũng như đối sách cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Bài viết do Nghiên cứu Biển Đông thực hiện


Trung Quốc không tạo dựng không gian cho Mỹ

Rất nhiều các quốc gia Châu Á đều cần sự hiện diện của Mỹ chính là do kết quả không hành động của Trung Quốc. Ví dụ, trong vấn đề Triều Tiên th́ ngoài Triều Tiên ra, hầu hết tất cả các nước Châu Á đều bất măn với cách hành xử của Trung Quốc. Tất nhiên là cũng có những điểm khó xử riêng nhưng không thể v́ thế mà chứng minh rằng cách hành xử của Trung Quốc là hợp lư được. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản thường xuyên liệt vào trạng thái căng thẳng. Hiện nay cùng với sự trỗi dậy của Ấn Độ th́ mối quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng hàm chứa rất nhiều những nhân tố không xác định.

Mặc dù Trung Quốc và các nước khu vực Châu Á luôn có các lĩnh vực hợp tác chung, thế nhưng những cuộc xung đột dường như phát sinh ngày một phức tạp hơn. Dù thế nào đi chăng nữa, trong việc giải quyết các vấn đề khu vực Châu Á th́ Mỹ vẫn là quốc gia duy nhất đă từng nhiều lần thông qua các cuộc trải nghiệm, hơn nữa, tính quan trọng của nhân tố Trung Quốc mặc dù ngày một tăng lên nhưng chưa hề thông qua bất kỳ một cuộc trải nghiệm nào cả.



Trung Quốc và Mỹ đang dốc sức ngăn đối phương mở rộng ảnh hưởng ở khu vực Đông Á


Ở đây c̣n có môi trường nội bộ của chính bản thân Trung Quốc. Phiên họp Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ mười tám sẽ được tổ chức vào năm sau. Trong thời gian này, nhiệm vụ chính của chính quyền Trung Quốc là giải quyết công việc nội bộ, sự ổn định sẽ trấn áp tất cả mọi vấn đề khác. Có một số quốc gia phán đoán rằng trong thời kỳ này th́ Trung Quốc sẽ không thể đưa ra những điều chỉnh lớn nào về chính sách đối ngoại được cả. Điều này cũng có nghĩa rằng, trước khi một thế hệ lănh đạo mới được thành lập, Trung Quốc sẽ không thể có chính sách mới và quan trọng nào trong lĩnh vực ngoại giao, hay nói rằng phần lớn các chính sách đối ngoại được đưa ra tất nhiên đều mang tính chất phản ứng là chủ yếu.

Cách phán đoán này khiến cho các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ nhận thấy rằng đây là cơ hội để tiến hành áp dụng những phương pháp triệt để hơn cho họ.


Trung Quốc sẽ làm ǵ khi đối mặt với t́nh thế hiện tại này? Được coi là một quốc gia lớn đang trong quá tŕnh trỗi dậy, Trung Quốc chắc chắn sẽ đóng vai tṛ ngày càng quan trọng trong các vấn đề về khu vực. T́nh thế tại Biển Đông đối với Trung Quốc mà nói, mặc dù "ngày thế giới tận thế" vẫn c̣n cách xa vô cùng, nhưng họ bắt buộc phải thay đổi tính bị động đă tồn tại cho đến thời điểm hiện tại này để chuyển sang tính chủ động hơn.

Điều đặc biệt quan trọng phải nói đến rằng, vấn đề hiện nay của Trung Quốc không phải là vấn đề về nguồn tài nguyên, mà là chiến lược, chính sách và cách huy động nguồn lực. Đơn giản mà nói chính là vấn đề về đường lối tư duy của Trung Quốc. Trong tranh chấp “Nam Hải” (Biển Đông), Trung Quốc phải có một đường lối tư duy rơ ràng, minh bạch.


Cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đă cũ của Trung Quốc


Khi đề cập đến đường lối tư duy mới th́ cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đă cũ của Trung Quốc. Vấn đề cốt lơi trong đường lối tư duy truyền thống của Trung Quốc chính là phản đối "quốc tế hóa" trong tranh chấp Biển Đông. Vấn đề phát sinh nằm ở chỗ khái niệm đưa ra này không những không miêu tả được t́nh huống khách quan của quá tŕnh tranh chấp Biển Đông mà lại càng khó khăn hơn khi áp dụng đường lối tư duy này để có thể t́m ra được biện pháp giải quyết. Điều này liên quan đến nhiều cấp độ bên trong các vấn đề chính.



Bộ trưởng Quốc pḥng Trung Quốc Lương Quang Liệt trong cuộc hội đàm với người đồng cấp Mỹ

Thứ nhất là chủ nghĩa song phương. Trung Quốc yêu sách gác tranh chấp chủ quyền cùng khai thác chung. Thế nhưng cho đến nay chính sách này vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái khẩu hiệu, lư thuyết suông. Để có được mối quan hệ với các nước ASEAN, bản thân Trung Quốc không hề có kế hoạch khai thác Biển Đông nào cả, mà ngược lại chính là các nước có liên quan trong những năm gần đây tiến hành tăng cường khai thác. Thế nhưng Trung Quốc không phải đề xuất ra chủ trương cùng khai thác chung, mà chính xác phải nói là chủ trương khai thác đơn phương.

Trong vấn đề cùng khai thác chung, các quốc gia có liên quan hoặc là không tự nguyện hoặc là tinh thần tự nguyện không cao. Hay nói toạc ra th́ Trung Quốc không có đủ sức mạnh cũng như cơ chế quyền lực để thúc đẩy các quốc gia có liên quan công nhận và đi đến chấp nhận yêu sách cùng khai thác chung mà Trung Quốc đă đề xuất.


Thứ hai là chủ nghĩa đa phương, chính là mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASAEN. Vấn đề tranh chấp Biển Đông chủ yếu biểu hiện trong "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông” mà Trung Quốc cũng đă kư kết. Thế nhưng văn bản này lại không mang bất cứ tính chất ràng buộc pháp lư nào. Văn bản tuy đă được kư kết rất nhiều năm qua nhưng không có bất cứ một quốc gia nào đạt hiệu quả trong việc thúc đẩy cho văn bản trở thành một tài liệu mang tính ràng buộc pháp lư được. Nên nói rằng chính bản thân Trung Quốc cũng không nỗ lực thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của ḿnh trong đó.

Điều quan trọng của vấn đề nằm ở chỗ Trung Quốc vẫn tuân thủ chủ nghĩa song phương và phản đối đa phương hóa trong tranh chấp Biển Đông. Thế nhưng bản chất thực sự của rất nhiều vấn đề trong tranh chấp Biển Đông lại là đa phương, cho nên việc phản đối chính sách đa phương hóa đă thể hiện rơ thái độ của Trung Quốc không dám đối mặt với sự thực này.


Thứ ba là quốc tế hóa. Các quốc gia có liên quan đă đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông giao phó cho Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế. Trung Quốc tỏ ư không chấp nhận cho lắm, bởi v́ nếu cầu cứu đến Liên Hợp Quốc hoặc các tổ chức quốc tế th́ khả năng bại trận của Trung Quốc sẽ lớn hơn cơ hội chiến thắng rất rất nhiều lần. Như đă thảo luận trong phần trên, Trung Quốc đă thua trận trong cuộc chiến công luận quốc tế rồi, sẽ không c̣n bao nhiêu người có thể thông cảm cho lập trường của Trung Quốc được nữa.

Thứ tư là chính trị hóa đại quốc. Các quốc gia có liên quan trong khu vực Đông Nam Á hy vọng sẽ có sự can thiệp của Mỹ tại đây, điều này là dễ hiểu. Thế nhưng mức độ can thiệp của Mỹ sẽ sâu nông như thế nào th́ c̣n phải xem lợi ích quốc gia của chính họ trong vấn đề này.

Nhân tố Mỹ trong khu vực Đông Nam Á đă luôn tồn tại từ trước tới nay, hay nói cách khác Mỹ đă luôn là một bộ phận cấu thành trong cấu trúc khu vực này. Trên thực tế, lợi ích của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á này c̣n thâm căn cố đế hơn nhiều so với lợi ích của Trung Quốc.



Ngay từ thời kỳ khi mới bắt đầu chiến tranh lạnh th́ Mỹ đă không ngừng thiết lập mối quan hệ với các nước trong khối ASEAN, c̣n Trung Quốc chỉ măi cho đến sau thời kỳ cải cách giải phóng đất nước mới bắt đầu xây dựng mối quan hệ mang tính thực chất với các nước này. Mối quan hệ giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á là toàn diện trên các lĩnh vực c̣n Trung Quốc th́ chủ yếu chỉ dựa trên lĩnh vực kinh tế, c̣n những lĩnh vực khác mới đang thuộc thời kỳ sơ khai.

Do vậy, việc chính quyền Trung Quốc phản đối "chính trị hóa đại quốc" cũng chính là nguyên do khiến cho nước này không nhận ra bản chất thật của vấn đề tranh chấp. Khi suy ngẫm đến các nhân tố đă được nêu ở phần trên, mọi người sẽ thật dễ dàng để trả lời câu hỏi rằng "Trung Quốc nên đi những bước tiếp theo như thế nào đây?", cũng có thể xem xét đánh giá từ nhiều góc độ như sau.


Trước tiên, Trung Quốc cần đặt ḿnh đứng từ góc độ của các quốc gia láng giềng hoặc các nước có liên quan đến tranh chấp trong vấn đề Biển Đông để suy xét vấn đề. Trong suốt thời gian dài đến nay, chính quyền Trung Quốc luôn tuyên truyền lập trường với những nguyện vọng tốt đẹp của họ ra thế giới trong và ngoài nước, ví dụ như những khái niệm gọi là "trỗi dậy ḥa b́nh", "phát triển ḥa b́nh" và "láng giềng tốt", v.v...

Những điều này rất quan trọng nhưng không bao giờ có thể coi là đủ được cả, bởi v́ chính Trung Quốc đă coi nhẹ cách nh́n nhận của các nước xung quanh đối với sự trỗi dậy của họ như thế nào, hay mối quan tâm của các nước đó ra sao trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chỉ cho đến khi thấu hiểu được mối lo lắng của các nước láng giềng này rồi, th́ Trung Quốc mới hoạch định ra những chính sách thiết thực có hiệu quả được. Nếu không, không quan tâm nguyện vọng của Trung Quốc có như thế nào đi chăng nữa, hay đại loại giống như những khái niệm gọi tương tự như là "sự trỗi dậy ḥa b́nh" v.v... th́ cuối cùng vẫn biến thành những lời Trung Quốc tự nói và tự nghe.

Thứ hai, Trung Quốc bắt buộc phải phân định rơ ràng giữa vấn đề an ninh hàng hải và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Mối quan tâm của cộng đồng quốc tế đặc biệt là Mỹ nói riêng chính là vấn đề an ninh hàng hải, việc Mỹ can thiệp vào vấn đề Biển Đông cũng chính xuất phát từ căn nguyên này ra. Đối với vấn đề này, Trung Quốc cần căn cứ vào t́nh h́nh thực tế, thừa nhận và nhấn mạnh rằng an ninh hàng hải là mối quan tâm của tất cả các bên tham gia, đồng thời cũng là trách nhiệm của tất cả các bên. Trung Quốc phải t́nh nguyện gánh vác trách nhiệm này cùng với các quốc gia khác như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ hay các quốc gia ASEAN.



Trên thực tế, vấn đề an ninh hàng hải quốc tế vẫn luôn do Mỹ đảm nhiệm từ trước tới nay. Mặc dù Trung Quốc đă bắt đầu có năng lực và sức mạnh trong vấn đề này, thế nhưng khả năng gánh vác được trách nhiệm th́ vẫn c̣n quá là xa vời đối với chính họ, cho dù chỉ là vấn đề liên quan đến an ninh hàng hải trong khu vực mà thôi. Trong lĩnh vực này, hai nước Trung, Mỹ có không gian để có thể hợp tác cùng với nhau rất lớn, mà sự hợp tác như vậy cũng phù hợp với lợi ích quốc gia của chính bản thân Trung Quốc. (Đương nhiên ở đây đề cập đến một vấn đề c̣n cơ bản hơn, đó là việc Trung-Mỹ sẽ hợp tác như thế nào để xây dựng nên hệ thống an ninh trong khu vực Châu Á-Thái B́nh Dương).

Thứ ba, một cấp bậc tiếp theo nữa là mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng thể khối ASEAN. Việt Nam, Philippin, Malaysia và Bruney là những nước thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ đối với một số đảo trên Biển Đông. Điều này quyết định đến sự cân nhắc của Trung Quốc về lợi ích tổng thể của khối ASEAN cũng như mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng thể ASEAN.

Mặc dù cho tới thời điểm hiện tại, Trung Quốc không sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thế nhưng cuối cùng th́ họ bất đắc dĩ cũng phải thừa nhận, hơn nữa sự chấp nhận này càng sớm bao nhiêu th́ sẽ càng có lợi cho Trung Quốc bấy nhiêu. Hăy giả thiết một chút rằng, nếu như "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông" ngay từ những năm trước đă có tính ràng buộc pháp lư rồi th́ cục diện Biển Đông sẽ không đến nỗi phát triển như thời điểm hiện tại thế này. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, nếu Trung Quốc chấp nhận chủ nghĩa đa phương, th́ "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông" sẽ vẫn là một lối vào đầy thuận tiện.

Thứ tư, một cấp bậc cuối cùng là nên đối diện với vấn đề tranh chấp chủ quyền như thế nào. Đây là vấn đề vô cùng thiết yếu, Trung Quốc nên từ bỏ chủ nghĩa song phương truyền thống và chấp nhận chủ nghĩa song phương mới, cũng có nghĩa là một chủ nghĩa song phương mới nằm trong cấu trúc của chủ nghĩa đa phương.

Điều này nói lên rằng, Trung Quốc và các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ có thể tiến hành các cuộc họp thảo luận song phương dưới h́nh thức cấu trúc đa phương giữa Trung Quốc và ASEAN khi bàn bạc nghiên cứu về vấn đề Biển Đông. Dưới h́nh thức cấu trúc đa phương như vậy, các quốc gia không liên quan đến tranh chấp Biển Đông sẽ không tỏ rơ thái độ ủng hộ đối với bất cứ một bên nào, lập trường trung lập sẽ là lợi ích lớn nhất của tất cả các bên. Đồng thời khuôn khổ này cũng tạo động lực lớn giúp cho các nước có liên quan đến tranh chấp có thể tiến hành thương lượng thảo luận với Trung Quốc.

Lời kết


Vấn đề Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp gay gắt. Muốn một bước giải quyết nhanh gọn vấn đề này là không điều không thể xảy ra được. Nếu không giải quyết được vấn đề tồn tại, th́ phương án quản lư và kiểm soát sẽ trở thành những cách lựa chọn hợp lư. Nhưng muốn quản lư và kiểm soát được vấn đề tranh chấp Biển Đông th́ cần bắt buộc phát triển một loạt các cơ chế pháp lư.

Mặc dù hiện đang nằm trong t́nh thế bị động, thế nhưng không gian mà Trung Quốc có thể hoạt động được lại vô cùng lớn. Là một quốc gia lớn có trách nhiệm, Trung Quốc nên t́m kiếm các giải pháp để quản lư và kiểm soát vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bắt đầu ngay từ trong bối cảnh khu vực thậm chí mở rộng ra quốc tế. Nếu Trung Quốc không thể thay đổi đường lối tư duy truyền thống một cách có hiệu quả th́ không gian hoạt động của Trung Quốc trong vấn đề này sẽ ngày càng bị thu hẹp lại.

Đinh Thị Thu (dịch)
Nguồn: Liên hợp buổi sáng