Page 5 of 9 FirstFirst 123456789 LastLast
Results 41 to 50 of 90

Thread: TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968

  1. #41
    lave33
    Khách
    Đọc chơi thôi.....


    http://web.archive.org/web/200605171...iz/porter.html
    1.10 Ghi chú

    Vụ "thảm sát tại Huế" năm 1968

    Tác giả: D.Gareth Porter. Tạp chí: "Indochina Chronicle", số 33 ngày 24/6/1974.

    Sáu năm sau sự kiện Mậu Thân 1968, một trong những chuyện hoang đường dai dẳng của Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai vẫn chưa được thách thức: cuộc "thảm sát" của Cộng sản tại Huế. Phiên bản chính thức về những ǵ đă xảy ra tại Huế đă là Mặt trận Giải phóng Dân tộc (MTGPDT) và Bắc Việt đă giết không chỉ các quan chức có trách nhiệm mà cả các nhân vận tôn giáo, trí thức và dân thường một cách cố ư và có hệ thống, và rằng các địa điểm chôn cất được t́m thấy sau đó đă để lộ khoảng 3000 tử thi, phần lớn nhất trong tổng số 4700 nạn nhân của việc hành quyết do Cộng sản thi hành.

    Tuy c̣n nhiều điều chưa được biết về những ǵ đă xảy ra ở Huế, nhưng có đủ bằng chứng để kết luận rằng câu chuyện được chuyển tới nhân dân Mỹ bởi các cơ quan tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam khác xa với sự thật, mà trái lại, là kết quả của một chiến dịch chiến tranh chính trị của chính quyền Sài G̣n, được hỗ trợ bởi chính quyền Mỹ và được chấp nhận bởi báo chí Mỹ một cách không phê phán. Một nghiên cứu kỹ lưỡng về một bên là câu chuyện chính thức về vụ "thảm sát" tại Huế, và bên kia là các bằng chứng từ các nguồn tin chống Cộng độc lập, đem lại một thoáng nh́n khám phá vào trong các nỗ lực của báo chí Mỹ nhằm nuôi sống nỗi sợ hăi về một cuộc "tắm máu" lớn. [1] Đây là một .chuyện hoang đường đă phục vụ lợi ích của chính quyền Mỹ trong quá khứ, và tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ của nhân dân hiện nay.

    VAI TR̉ CỦA TIỂU ĐOÀN CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ (POLITICAL WARFARE) SỐ 10

    Để làm sáng tỏ câu chuyện chính thức về Huế, người ta phải lần lại nguồn gốc của các thông tin nguyên gốc mà đă được chuyển tới nhân dân Mỹ về sự việc.

    Cơ quan của chính quyền Sài G̣n được trao hoàn toàn trách nhiệm cho việc biên soạn dữ liệu về vụ được cho là "thảm sát" và công bố thông tin không phải Bộ Xă hội (Ministry of Social Welfare and Refugees) hay Bộ Y tế, như người ta có thể mong đợi, mà là Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa (QLVNCH). Câu chuyện về vụ "thảm sát" được báo chí Mỹ đưa tin trong các năm 1968 và 1969 đă được lấy cơ sở từ lời của đơn vị này - lực lượng mà nhiệm vụ cụ thể của họ là làm mất uy tín của MTGPDT bất kể sự thật như thế nào. Cả số lượng tử thi t́m được và các nguyên nhân tử vong đều chưa từng được khẳng định bởi các nguồn tin độc lập. Trái lại, như chúng ta sẽ thấy, bằng chứng từ các nguồn độc lập thách thức phiên bản sự thật của Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10.

    Tường tŕnh chính thức của Sài G̣n về vụ được cho là thảm sát xuất hiện lần đầu vào ngày 23-4-1968, khi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị công bố một báo cáo rằng hơn một ngàn người đă bị hành quyết bởi những người Cộng sản trong nội thành và quanh Huế. Báo cáo của Tiểu đoàn đă được lặp lại chi tiết bởi United State Information Service (dịch?) nhưng báo chí Mỹ lờ đi [2] . Một tuần sau, US Mission công bố một báo cáo của chính ḿnh, bản báo cáo này về bản chất là diễn đạt lại báo cáo của QLVNCH. Báo cáo của US Mission được nói là đă là kết quả của một cuộc điều tra "của các cơ quan chức năng Mỹ và Nam Việt Nam" [3] . Nhưng vai tṛ của các cố vấn Mỹ trong báo cáo có vẻ như chỉ là thứ cấp; theo hăng tin của chính quyền Sài G̣n, Vietnam Press, báo cáo được dựa trên dữ liệu cung cấp bởi Cảnh sát Quốc gia ở Huế, các cố vấn Mỹ, các cuộc phỏng vấn các quan chức Thông tin và Tỵ Nạn của Nam Việt Nam, và "các hồ sơ của Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10," nơi cung cấp các thống kê cơ bản về các vụ được coi là hành quyết [4] . Vietnam Press c̣n báo cáo rằng "một sỹ quan của Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 có tham gia điều tra về các vụ hành quyết ước lượng rằng gần như một nửa số nạn nhân t́m thấy đă bị chôn sống."

    Trong các tháng Ba và Tư, khi các tử thi được cho là của nạn nhân các cuộc hành quyết của Cộng sản đang được khai quật, chính quyền Sài G̣n không cho phép bất kỳ phóng viên nào xem các địa điểm có mộ hay các tử thi, mặc dù tại thời điểm đó có rất nhiều phóng viên nước ngoài đang có mặt tại Huế. Cuối tháng Hai, Đại tá Tỉnh trưởng Pham Van Khoa tuyên bố rằng 300 thường dân là viên chức chính phủ đă bị Cộng sản hành quyết và đă được t́m thấy trong các ngôi mộ tập thể ở phía đông nam thành phố [5] . Nhưng không một phóng viên nào được đưa đến thăm những nơi được cho là mộ đó. Thực tế, nhiếp ảnh gia người Pháp, Marc Riboud, người đă vài lần yêu cầu được nh́n thấy những ngôi mộ, đă liên liếp bị từ chối cấp phép. Khi cuối cùng anh ta dùng trực thăng để đến địa điểm đă thông báo th́ phi công từ chối hạ cánh với lí do là vùng đất đó "không an toàn" [6] . Riboud không bao giờ nh́n thấy địa điểm đó, và đến khi danh mục chính thức theo thời gian của các phát hiện và bản đồ tọa độ của các địa điểm có mộ được công bố, không có địa điểm nào giống với cái mà Đại tá Khoa miêu tả [7] .

    Cuối tháng Ba, phóng viên Steward Harris của tờ Thời báo Luân Đôn có mặt ở Huế để viết về cái được cho là các vụ hành quyết tập thể, đúng vào thời điểm mà theo danh mục chính thức đă có khoảng 400 tử thi được t́m thấy trong khu vực các lăng vua ở phía nam Huế. Nhưng thay v́ đưa anh ta đến địa điểm đó, người sĩ quan chiến tranh chính trị Mỹ lại đưa anh đến một địa điểm mộ tại khu Gia Hội, nơi các tử thi đă được chôn cất lại từ lâu [8] . Do đó, anh ta phải dựa vào lời của các quan chức Mỹ và Việt về những ǵ được t́m thấy tại các địa điểm mộ.

    Hơn nữa, Pḥng Chiến tranh Chính trị của QLVNCH đă công bố các báo cáo mâu thuẫn nhau về số lượng tử thi đă được t́m thấy. Ví dụ, tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với b́nh quân 9 tử thi mỗi mộ [9] . Nhưng khi Steward Harris được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150 [10] . Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này c̣n làm giảm tổng số hơn nữa [11] .

    MÂU THUẪN VỚI KẾT QUẢ T̀M HIỂU CỦA MỘT BÁC SỸ

    Tính chất lảng tránh của các con số của Sài G̣n là đáng kể khi xem xét lời chứng của Alje Vennema, một bác sỹ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngăi, người t́nh cờ có mặt tại bệnh viện tỉnh Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân và là người đă tự thẩm tra các địa điểm mộ [12] . Vennema công nhận rằng có 14 mộ tại trường Gia Hội, nhưng ông nói rằng trong các ngôi mộ đó tổng cộng chỉ có 20 xác. Vennema c̣n khẳng định rằng tại hai địa điểm c̣n lại trong khu Gia Hội chỉ có 16 tử thi thay v́ 77 như chính quyền tuyên bố, và rằng tại những địa điểm trong khu vực lăng vua ở tây nam Huế chỉ có 29 tử thi thay v́ 201 như được tuyên bố trong các báo cáo chính thức.

    Theo Vennema, do đó, tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đă được tuyên bố chính thức. Ngoài ra, tuy không khẳng định rằng không có ai trong số các tử thi này đă là nạn nhân bị MTGFDT hành quyết, nhưng ông nói rằng các bằng chứng cho thấy hầu hết họ là nạn nhân của các cuộc giao chiến trong vùng chứ không phải do giết chóc chính trị. Trong trường hợp các địa điểm trong khu lăng vua, ông khẳng định rằng hầu hết các tử thi có dấu vết của quân phục. Ông kể rằng đă hỏi chuyện các dân làng gần đó, họ nói rằng trong các ngày 21 đến 26 tháng Hai khu vực trung gian đă bị bom và pháo dữ dội. Và, trái với các tuyên bố của chính phủ rằng nhiều nạn nhân đă bị chôn sống tại đó, Vennema nói rằng tất cả các tử thi đều có các vết thương.

    Các t́nh tiết của phiên bản chính thức - nguồn gốc chiến tranh chính trị của nó, sự từ chối cho phép sự khẳng định của báo chí từ quan sát trực tiếp, các thống kê đáng đặt dấu hỏi - và lời chứng của một bác sỹ y khoa, (người mà khi đó đă có mặt), tất cả đều chỉ đến sự miêu tả sai lạc sự thật của chính quyền Sài G̣n trong bản báo cáo tháng Tư năm 1968 của họ. Trong thực tế, các bằng chứng cho thấy rằng Tiểu đoàn Chiến tranh chính trị có thể đă thổi phồng con số của các vụ hành quyết thực sự của MTGPDT lên mười lần hoặc nhiều hơn.

    CÁC CUỘC KHAI QUẬT NĂM 1969

    Trong năm 1969, khi có thêm nhiều tử thi được khai quật tại các ngôi làng xung quanh thành phố Huế, một chương khác trong chiến dịch của chính quyền Sài G̣n được thi hành bởi tiểu đoàn chiến tranh chính trị. Tử thi đầu tiên được t́m thấy ở đông nam Huế, khi cuộc khai quật được diễn ra dưới sự giám sát của "Ủy ban t́m kiếm và chôn cất các nạn nhân Cộng sản" đứng đầu bởi quận trưởng, thiếu tá Trung. Một lần nữa, các nhà báo không được mời tới chứng kiến công việc khi đang diễn ra, nhưng sau đó được mời bởi thiếu tá Trung, người nói rằng Ủy ban đă t́m ra 135 thi thể tại xóm Vinh Luu của thôn Phu Da và 230 thi thể trong 7 hố chôn tại thôn Phú Xuân. [13]

    Điều mà ông quận trưởng không nói với phóng viên, đó là toàn bộ những vùng t́m thấy các hố chôn là chiến trường trong nhiều tuần của năm 1968. MTGPDT đă tiếp tục giữ nhiều làng nhỏ ngay cả sau khi đă bị đẩy ra khỏi thành phố, và một số làng vẫn nằm trong quyền kiểm soát của họ trong hàng tháng, khi các máy bay ném bom của Mỹ đánh phá họ dữ dội.

    Một trong bốn địa điểm được phát hiện cuối tháng Ba năm 1969, nơi được coi là chứa 22 tử thi, nằm giữa hai làng Phú Mỹ và Tuy Vân [14] . Làng Phú Mỹ, chỉ cách Huế 3 dặm về phía đông, là một trong các làng đă bị các đơn vị Cộng sản chiếm giữ trong cuộc tổng tấn công, khi nhiều nam giới trẻ nằm trong tuổi quân sự đă được gọi vào Quân Giải Phóng. Theo một cuộc phỏng vấn sau này với một người dân làng, máy bay Mỹ đă liên tục ném bom làng, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và làm dân thường thiệt mạng.

    Ba địa điểm c̣n lại, được t́m thấy cuối tháng Ba và đầu tháng Tư, theo danh sách của Lầu Năm Góc có chứa 357 thi thể, nằm tại làng Phú Xuân và tại làng Phú Đa cách đó một đoạn đường ngắn [15] . Một lần nữa, Phú Xuân, cách Huế 13 dặm, đă là chiến trường của các cuộc giao tranh dữ dội, trong đó có sự sử dụng mạnh của không lực Mỹ, trong các tuần nối tiếp cuộc Tổng tấn công. Trong một trận chiến kéo dài cả ngày mà các bom Mỹ đă được dùng đến, khoảng 250 lính Cộng sản đă bị thiệt mạng, theo một phỏng vấn với trưởng làng Phú Xuân được đăng trên tờ Tiền Tuyến - tờ báo của chính Pḥng Chiến tranh Chính trị [16] .

    Khẳng định của Sài G̣n rằng các tử thi t́m thấy là xác của các nạn nhân bị Cộng Sản hành quyết đă không thuyết phục ngay cả các quan chức trong chính quyền Sài G̣n. Bộ trưởng Y tế, Trần Lưu Y, sau khi đi thăm các địa điểm chôn cất vào tháng Tư năm 1969, đă thẳng thắn thông báo với Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên quan điểm của ông rằng các tử thi có thể là của những người lính MTGPDT bị chết trong các trận giao tranh [17] . Báo Pḥng Chiến tranh Chính trị lập tức lên án ông Bộ trưởng v́ thái độ hoài nghi này [18]

    Những thông tin ít ỏi được đưa ra về các thi thể chắn chắn hỗ trợ cho nghi ngờ rằng chỉ có rất ít nạn nhân quả là đă bị Cộng sản hành quyết. Xét riêng một điều, báo cáo của chính Thiếu tá Trung về số tử thi t́m thấy trong quận của ḿnh chỉ khẳng định 9 nhân viên dân sự và 14 lính quân đội Sài G̣n trong tổng số 365 [19] . Người ta biết rất rơ rằng một số lượng đáng kể tử thi là của phụ nữ và trẻ em. Một sỹ quan Mỹ tại Huế đă thừa nhận với một phóng viên tờ _Washington Post_ tại một lễ tang tập thể cho những người chết: "Một số có thể đă đơn giản là bị kẹt lại [trong các cuộc giao tranh]" [20] . Thật sự không có ǵ lạ nếu MTGPDT đă chôn nhiều phụ nữ và trẻ em bị chết do bom và pháo tại các làng mà họ đă kiểm soát ở gần Huế.

    Một phát hiện chủ yếu khác vào tháng Chín năm 1969 về các thi thể tại khe Đá Mài, một vùng rừng rậm cách Huế 10 dặm về phía nam, vẫn bị bao quanh bởi các mâu thuẫn và sự mơ hồ. Thậm chí số tử thi được t́m thấy đến nay vẫn là một cái ǵ đó bí ẩn. Tường tŕnh chính thức của Lầu Năm Góc cho rằng con số vào khoảng 250 [21] . Nhưng một vài tháng sau, khi Douglas Pike, chuyên gia về Việt Nam của U.S. Information Agency, báo cáo về kết quả t́m kiếm, con số đă tăng lên 428 [22]

    Hơn nữa, người "chiêu hồi" được Sài G̣n đưa ra để chứng thực về cái được coi là vụ thảm sát của Cộng sản đă kể hai câu chuyện rất khác nhau và đầy mâu thuẫn về sự việc. Trong một cuộc phỏng vấn được sắp xếp bởi chính quyền Sài G̣n với tờ _Baltimore Sun_ cuối năm 1969, người "chiêu hồi" chứng rằng một chỉ huy Cộng sản khu vực, người đă từ là bạn của anh ta, đă nói với anh ta rằng gần 600 người từ Phú Cam và Tu Dam đă giao cho những người dân tộc miền núi theo Cộng sản để bị họ giết. Lư do, như anh ta giải thích với tờ Sun, là rằng họ đă là "những tên phản bội cách mạng" [23] . Nhưng cũng chính người đàn ông này, trong một cuộc phỏng vấn với thông tín viên của _Tiền Tuyến_ vài ngày sau đó đă nói rằng cũng chính người chỉ huy khu vực đó đă kể với anh ta rằng 500 "tên ác ôn" đă bị đưa lên núi, không phải để giết mà để cải tạo." [24]

    Một lần nữa, có một mâu thuẫn trực tiếp và quan trọng giữa các phiên bản của Pike và phiên bản chính thức của Lầu Năm Góc về việc các nạn nhân là ai và họ từ đâu đến. Phiên bản của Pike nói rằng họ là một nhóm người bị bắt trong một nhà thờ tại khu Công giáo Phú Cam ở Huế ngày 5 tháng Hai năm 1968, và bị giải về năm dặm về phía nam, nơi 20 người trong số đó bị hành quyết bởi một ṭa án nhân dân và sau đó bị chuyển giao cho một đơn vị Cộng sản địa phương, đơn vị này đưa họ thêm 3 dặm rưỡi ra xa Huế trước khi giết họ. [25] . Tuy nhiên, tường

  2. #42
    lave33
    Khách
    ...... ] . Tuy nhiên, tường tŕnh của Bộ Quốc pḥng [Mỹ] viết rằng một nhóm thường dân bị đưa đi khỏi nhà thờ Phú Cam với số lượng chỉ gồm từ 80 đến 100 người, không phải 400 như Pike viết. [26] . Hơn nữa, một bản tường tŕnh nguyên được đăng tại một tờ báo bán chính thức _Viet-Nam Magazine_ và được in lại bởi Đại Sứ quán Sài G̣n tại Washington, khẳng định rằng tất cả mọi người ngoại trừ 20 người bị hành quyết bởi ṭa án nhân dân đă được cho phép trở về Huế với cảnh báo rằng MTDTGPMN một ngày nào đó sẽ quay lại Huế, và rằng dân chúng nên cư xử cho thích hợp. [27]

    Các mâu thuẫn trên rất quan trọng khi xét nỗ lực của Pike khi lư luận rằng những bộ hài cốt tại Đá Mài chắc chắn là nạn nhân do Cộng sản giết hại v́ họ là nhóm người đă bị đem đi từ Huế với danh nghĩa tù nhân. Trong thực tế, có bằng chứng rằng hầu hết những người rời khỏi Phú Cam với Cộng sản hoàn toàn không phải tù nhân, mà họ bị ép phục vụ với vai tṛ người khiêng cáng thương, tải đạn, và thậm chí cả với vai tṛ binh sĩ cho MTDTGPMN. [28] . Như Hăng Thông tấn Pháp tường thuật từ Huế trong thời gian diễn ra trận đánh chiếm thành phố, một số nam thanh niên, đặc biệt từ vùng Phú Cam, đă nhận được súng hoặc được sử dụng như là những người khiêng cáng thương để vận chuyển thương binh về phía những nơi đóng quân trên núi. [29]

    Một lần nữa, các bằng chứng gián tiếp đă hàm ư mạnh mẽ rằng 250 bộ hài cốt t́m được tại khe Đá Mài (không phải 400 như Pike tuyên bố) cũng đă bị giết trong chiến trận hoặc bởi bom B-52 của Mỹ. Bài báo tại _Viet-Nam Magazine_ ghi chú rằng địa điểm "nằm trong vùng lân cận nơi Cộng sản đă đánh trận lớn cuối cùng với quân đồng minh (từ 30-4 đến 2-5-1968)" [30] -- một sự kiện mà người đọc của báo chí Mỹ chưa từng được biết. Giải phóng Quân đă luôn luôn chú trọng vào việc mang xác của những người lính của họ ra khỏi chiến trường rồi mới chôn nhằm mục đích phủ nhận các thông tin t́nh báo chiến thuật của đối phương về thương vong.

    Nói ngắn gọn, những điểm không nhất quán và các điểm yếu khác của nhiều tài liệu chính thức, sự thiếu bằng chứng khẳng định, và sự có mặt của các bằng chứng mâu thuẫn với các lời giải thích chính thức, tất cả hàm ư rằng đại đa số các thi thể t́m được trong năm 1969 trong thực tế là các nạn nhân của không lực Mỹ và của giao tranh mặt đất đă diễn ra ác liệt trong các ngôi làng, chứ không phải do MTDTGP hành quyết.

    DOUGLAS PIKE: NGƯỜI THAO TÚNG BÁO CHÍ XUẤT SẮC

    Phần lớn nhờ công của một người mà vụ "thảm sát" Huế đă nhận được sự theo dơi đáng kể và b́nh luận rộng răi của báo chí Mỹ trong các năm 1969 và 1970. Người đó là Douglas Pike, chuyên viên của US Information Agency. Pike là người đă đến Nam Việt Nam tháng 11 năm 1969, có lẽ do sự gợi ư của Đại sứ Ellsworth Bunker, để chuẩn bị một báo cáo về Huế [31] Trong hai tuần cuối tháng Chín, Pike đă gợi, trực tiếp hoặc gián tiếp, cho một số bài báo khác nhau về Huế và đề tài "tắm máu" nói chung. Chính Pike đă tóm tắt lại cho một số phóng viên phiên bản của ông ta về sự chiếm đóng Huế của Cộng sản, và cùng lúc đó lan truyền bản dịch của một tài liệu bắt được của Cộng sản mà ông ta đă t́m thấy trong hồ sơ - cái mà ông cho là một lời thừa nhận về vụ giết hàng loạt các thường dân vô tội trong thời gian chiếm đóng Huế.

    Tài liệu đă là chủ đề của một số câu chuyện trên báo chí Mỹ. Ví dụ, tờ Washington Post đăng bài của Associated Press về tài liệu đó với tiêu đề "Quân Đỏ giết 2900 người ở Huế trong Tết, theo tài liệu bắt được của địch". [32] . Bài của thông tín viên báo Christian Science Monitor, dưới tiêu đề "Cộng sản thừa nhận giết người", mở đầu rằng "Vụ thảm sát của Cộng sản tại Huế đầu năm 1968 đă thể hiện sự cực điểm của tính toán kĩ càng. [33] . Cả hai bài báo đều trích dẫn từ câu sau của bản dịch như là một bằng chứng của sự thừa nhận: "We eliminated 1892 administrative personnel, 20 second lieutenants, and many non-commissioned officers".

    Không có bài báo nào đặt vấn đề về tính xác thực của tài liệu hay tính chính xác của bản dịch mà họ nhận được. Nguyên bản tài liệu tiếng Việt, một bản sao mà tôi nhận được từ US Command tại Việt Nam tháng Bảy năm 1972 cho thấy rằng tác giả vô danh không nói những ǵ mà báo chí và công luận đă được đưa đến chỗ tin rằng anh ta đă nói. [34] Trong nguyên bản tiếng Việt, câu được trích dẫn ở trên không hỗ trợ tin chính thức của Mỹ rằng Cộng sản thừa nhận đă giết hơn 2600 thường dân tại Huế. Trước hết, ngữ cảnh của câu trên không phải là một bàn luận về chuyện trừng phạt những người được coi là tội phạm hay "kẻ thù", mà là một tường tŕnh tổng quan về cuộc tấn công trong việc tiêu diệt quân đội và chính quyền Thừa Thiên. Tại hai đoạn văn trước đó, tài liệu nói đến việc thiết lập một "lực lượng chính trị với nhiệm vụ là tuyên truyền và kêu gọi quân địch mang vũ khí ra hàng". Tài liệu gợi lại rằng các lực lượng tự pḥng vệ (self-defense) đă hoảng sợ đến nỗi khi quân của Mặt trận tấn công, họ đă cố vượt sông và kết quả là 21 người trong số họ đă bị chết đuối. Đoạn viết về khu Phú Vang ghi lại sức mạnh của các lực lượng chống đối và địa điểm của cuộc tấn công, và nói về việc bắt được 12 xe tải chở lương thực và 60 cuộn vải cờ.

    Câu tiếp theo có ghi "We eliminated 1892 administrative personnel" trong bản dịch chính thức. Nhưng từ "diệt", ở đây được dịch là "eliminate", phải được hiểu là có nghĩa "destroy" hoặc "neutralize" theo nghĩa quân sự, thay v́ "kill" hay "liquidate" như Pike và các bài báo đă viết. Như được sử dụng trong các thông cáo quân sự cộng sản, từ này đă được dùng để bao gồm giết, làm bị thương hoặc bắt sống đối với các lực lượng đối địch. Ví dụ, Thông cáo Đặc biệt thứ Ba của Quân Giải Phóng Nhân dân, phát hành vào cuối cuộc tổng tấn công đă viết "Ta đă _diệt_ một phần lớn lực lượng địch: theo thống kê ban đầu, ta đă giết, làm bị thương và bắt sống hơn 90000 quân địch..." [35] . Cần lưu ư rằng "diệt" không mang nghĩa "giết" trong bất cứ sử dụng tiếng Việt thông thường nào, và rằng bản dịch chính thức rất không theo quy tắc (irregular).

    Hơn nữa, từ "tề", được dịch là "administrative personnel" trong phiên bản được lưu hành cho các phóng viên, thực ra có một nghĩa rộng hơn, theo một từ điển Bắc Việt chuẩn, là "puppet personnel", bao gồm cả thường dân và nhân viên quân sự. [36] . Trong thực tế, khi tài liệu chỉ cụ thể đến nhân sự của chính quyền Sài G̣n, người viết dùng một từ khác: ngụy quyền. Do đó, cả ngữ cảnh và cách sử dụng hàng ngày của các từ đang được nghi vấn đều trái với ư nghĩa mà Pike đă thành công trong việc thuyết phục báo chí sử dụng.

    TÀI LIỆU "NHỮNG KẺ THÙ CỦA NHÂN DÂN" CỦA PIKE

  3. #43
    lave33
    Khách
    TÀI LIỆU "NHỮNG KẺ THÙ CỦA NHÂN DÂN" CỦA PIKE

    Nếu sự biểu đạt sai của tài liệu có thể được giải thích bởi kết hợp của sự dịch tồi và sự sốt sắng của chính Pike trong việc t́m bằng chứng hỗ trợ cho luận cứ của chính quyền, chính Pike phải nhận hoàn toàn trách nhiệm cho một trường hợp thứ hai tương tự xảy ra gần như trong cùng thời gian. Pike đă đưa cho một số phóng viên được chọn lọc từ trước một danh sách 15 phạm trù của cái mà ông ta gọi - và đă được gọi như vậy trên báo chí - là "kẻ thù của nhân dân", những ǵ được coi là mục tiêu cần tiêu diệt của Cộng sản. Danh sách có cả hai loại với hàm ư rằng Cộng sản có ư giết các lănh đạo tôn giáo và địa chủ hay tư bản: "leading key members of religious organizations still superstitious" (các thành viên quan trọng của các tổ chức tôn giáo mê tín dị đoan ), và "members of the exploiting class" (các thành viên của tầng lớp bóc lột). Tài liệu đă được đặt vào vị trí quan trọng tại các bài báo của tờ Los Angeles Times và Washington Daily News về những thứ được cho là kế hoạch của Cộng sản cho một cuộc "tắm máu", và một lần nữa được nhắc đến trong các câu chuyện nói đến cuốn sách nhỏ của chính Pike [37] . Nhưng một lần nữa, dù tài liệu có thể có tính xác thực, nhưng những giải thích được đặt lên trên nó rơ ràng đă có ư ngụy tạo. Trước hết, chính tài liệu đó không nói ǵ về "kẻ thù của nhân dân" [38] . Thứ hai, nó không nói hay ám chỉ rằng 15 loại người này phải bị trừng phạt, chưa nói ǵ đến chuyện tiêu diệt, như Pike đă nói với các phóng viên và về sau đă viết trong cuốn sách nhỏ của chính ḿnh về Huế. [39]

    Thực ra, tài liệu đó, với tiêu đề "15 tiêu chuẩn cứu tập", chỉ đơn giản là khái niệm của một cán bộ địa phương về các loại người cần phải theo dơi. [40] . Các loại người được đánh dấu cho việc trấn áp của MTDTGPMN khá là khác so với những ǵ trong danh sách được Pike lưu truyền, danh sách đó không bao gồm cả "leading key members of religious organizations still superstitious" (các thành viên quan trọng của các tổ chức tôn giáo mê tín dị đoan ), hay "members of the exploiting class" (các thành viên của tầng lớp "leading key members of religious organizations still superstitious" (các thành viên quan trọng của các tổ chức tôn giáo mê tín dị đoan ), và "members of the exploiting class" (các thành viên của tầng lớp bóc lột). Và chắc chắn Pike phải nhận biết được điều đó, do một tài liệu khác liệt kê những loại người cần trừng phạt đă được công bố bởi US Mission vào tháng 10 năm 67. [41]

    Một nhân tố khác được gợi ư bởi sự có mặt của Pike tại Sài G̣n là lời chứng của một người "chiêu hồi", hay đào ngũ, từ phía MTDTGP về vấn đề tắm máu. Kỹ thuật trưng bày hàng binh trước các cuộc họp báo đă được Pḥng Chiến tranh Chính trị sử dụng nhiều lần để chứng minh một vấn đề chính trị mà nếu không th́ không thể được ghi lại một cách thuyết phục. Tuy các nhà báo có kinh nghiệm nhất ở Sài G̣n luôn hoài nghi trước các tuyên bố của những hàng binh được Sài G̣n trưng bày, nhưng luôn có những nhà báo bị lôi cuốn bởi ư tưởng phỏng vấn một cựu cộng sản thực thụ. Do đó, người ta đă sắp đặt để Le Xuan Chuyen, người nhận là đă là trung tá của Quân đội Nhân dân Việt Nam trước khi đào ngũ vào tháng Tám năm 1966, được phỏng vấn bởi các thông tín viên của Washington Daily News và Los Angeles Times để công bố quan điểm của ông ta về các kế hoạch của Cộng sản về một cuộc tắm máu hậu chiến. Chuyen ước lượng rằng một danh sách "nợ máu" Cộng sản bao gồm khoảng 5 triệu người Nam Việt Nam, trong đó khoảng 500 000 người sẽ bị giết. [42]

    Một ghi chú ngắn về quá khứ của Chuyen sẽ giúp đặt lời chứng này dưới một góc nh́n đúng đắn. Ngay cả trong cuộc thẩm vấn đầu tiên, người tự xưng là "trung tá" (một cấp bậc mà người thẩm vấn muốn hỏi) đă thể hiện một vẻ cơ hội chính trị đáng ghi nhận. [43] Ông ta đă chần chừ ca ngợi Thiệu và Kỳ là các nhà lănh đạo "can đảm, yêu nước và có tinh thần dân tộc cao," và thậm chí trước cả khi được hỏi. [44] . Trong ṿng vài tháng, Chuyen đă được đề cử làm giám đốc Trung tâm Chiêu Hồi của chính quyền Sài G̣n - một vị trí đă không hề được nhắc đến trong các tường tŕnh báo chí về các tuyên bố của ông ta về các chính sách được cho là của Cộng sản [45] .

    Người hàng binh được cho là cao cấp thứ hai, thiếu tá Tran Van Dac, tại thời điểm đó thực ra đang là Cố vấn Kế hoạch (Planning Adviser) cho tổng giám đốc (general directorate) chiến tranh chính trị của QLVNCH. Đây khó có thể là một nhân chứng vô tư. [46] . Phát biểu năm 1969 của ông ta rằng có 3 triệu người Việt Nam trong danh sách "nợ máu" đă tiếp tục được những người biện hộ của chính quyền Mỹ lấy làm cơ sở, trong đó có ngài Robert Thompson và chính Pike. [47]

    CHO HỌ MỘT CON SỐ ...

    Thành công chính của Pike là đưa ra "ước lượng" chính thức hay con số 4756 là số thường dân bị MTDTGPMN giết ở Huế và các khu vực lân cận. Đây là một kỳ công không hề nhỏ, v́ để có được con số này, Pike đă phải dùng thống kê làm biến mất hàng ngàn dân thường là nạn nhân của bom Mỹ tại Huế. Sự thật không thể phủ nhận là bom và rốc-két của Mỹ, chứ không phải các cuộc ám sát của Cộng sản, đă gây ra thương vong lớn nhất tại Huế. Sự đổ máu và tàn phá đă lay động ngay cả những người ủng hộ lâu năm cho các nỗ lực chống Cộng. Khi đó, Robert Shaplen đă viết, "Trong chiến tranh Triều Tiên hay trong chiến tranh Việt Nam cho đến giờ, tôi chưa bao giờ nh́n thấy cái ǵ khủng khiếp, nếu tính về sự tàn phá và tuyệt vọng, như tôi đă thấy ở Huế." [48] . Sau khi sự chiếm đóng của Cộng sản tại Huế kết thúc, Don Tate của Scripps-Howard Newspapers miêu tả những hố bom rộng 14m và sâu 6m rải rác trên những con phố gần thành cổ và "những tử thi xếp chồng lên nhau 5 xác một trong những hố chôn." [49] 9.776 trong số 17.134 ngôi nhà ở Huế đă bị phá hủy hoàn toàn, 3.169 ngôi nhà khác được chính thức xếp vào loại "bị hư hại nghiêm trọng". (Trong phần c̣n lại của tỉnh Thừa Thiên, 8000 ngôi nhà khác bị hủy hoại quá nửa. [50] ). Ước lượng ban đầu của Nam Việt Nam về số dân thường bị chết trong cuộc giao tranh đẫm máu là 3.776 [51] .

    Tuy nhiên, khi các chuyên gia chiến tranh chính trị VNCH bắt tay vào việc, ước lượng ban đầu này, được ghi trong một báo cáo tháng Ba của văn pḥng tỉnh về Dịch vụ Xă hội và Tỵ nạn, bằng cách nào đó đă bị thay bởi một ước lượng mới là con số 944, được công bố trong cuốn tài liệu của Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10. [52] Và đây là tất cả những ǵ Pike cần để biến hàng ngàn dân thường thiệt mạng thành nạn nhân của một cuộc "tàn sát của Cộng sản".

    Trong một sơ đồ mà ông gọi là một "bản kê tóm tắt lại" về những người chết và mất tích, Pike bắt đầu không phải bằng cách liệt kê số lượng thương vong từ nhiều nguyên nhân khác nhau, mà bằng một tổng số 7.600, con số mà ông ta nói là "ước lượng tổng số thương vong dân thường tại chiến trận Huế" của chính quyền Sài G̣n. [53] . Tuy nhiên, ước lượng nguyên gốc của chính phủ một lần nữa do Văn pḥng Xă hội của tỉnh cung cấp, lại chỉ là hơn 6.700 - chứ không phải 7600 - và được dựa trên ước lượng 3776 thường dân bị chết tại chiến trường Huế. [54] . Thay v́ sử dụng số liệu của Văn pḥng Xă hội, Pike dùng con số 944 của Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10. Đem trừ con số đó và con số 1900 người nằm viện v́ các vết thương chiến tranh, Pike thu được con số 4756 mà ông ta cho là tổng số nạn nhân của thảm sát do Cộng sản, bao gồm cả 1945 trường hợp "mất tích" bằng phương pháp tính toán kỳ quặc này. Nói ngắn gọn, toàn bộ quy tŕnh thống kê này có mục đích duy nhất là đạt đến một con số thiếu trung thực 4756 nạn nhân của một vụ "thảm sát".

  4. #44
    lave33
    Khách
    PIKE VIẾT LẠI CHÍNH SÁCH CHO MTGPDT.

    Trọng tâm của phân tích của chính Pike là cái mà ông ta gọi là một "giả thuyết" về chính sách của lănh đạo MTDTGPMN tại Huế trong thời gian chiếm đóng thành phố. Ư chính của "giả thuyết" như sau: chính sách của MTDTGPMN trải qua 3 giai đoạn rơ ràng, tương ứng với các pha khác nhau của cuộc chiếm đóng: trong những ngày đầu, MTDTGPMN chỉ kỳ vọng vào việc giữ quyền kiểm soát tạm thời và nhiệm vụ của họ không phải là thiết lập chính phủ của chính họ mà là phá hủy cấu trúc chính quyền Sài G̣n. Trong giai đoạn này, với các danh sách đen, các cán bộ MTDTGPMN đă hành quyết không chỉ các nhân viên dân sự và quân sự mà c̣n cả các lănh đạo tôn giáo và xă hội. Tiếp theo, sau ngày thứ ba hoặc thứ tư, lănh đạo Cộng sản quyết định rằng họ có thể giữ thành phố lâu dài, do đó, theo lời Pike, họ đă bắt đầu một "thời kỳ tái cơ cấu xă hội" và t́m diệt tất cả những ai không có lư tưởng vô sản và thành phần xuất thân vô sản, đặc biệt là các lănh đạo Phật giáo, Cơ Đốc giáo và trí thức. Cuối cùng, khi họ chuẩn bị rời khỏi thành phố vào cuối tháng Hai, họ giết bất kỳ ai có thể nhận diện các cán bộ của họ trong thành phố. [55]

    Trong khi Pike mơ hồ nhắc tới các mẩu bằng chứng khác nhau mà ông cho rằng chúng hỗ giả thuyết đó, ông ta không đưa một dẫn chứng nào trong tài liệu được xuất bản của ḿnh. Trong bất cứ trường hợp nào, mọi bằng chứng hiện có đều mâu thuẫn giả thuyết của Pike từ đầu đến cuối. Trước hết, các tài liệu bắt được của MTDTGPMN hàm ư rằng Mặt trận có nhiệm vụ không chỉ phá hủy chính quyền Sài G̣n mà c̣n xây dựng tại Huế một chính quyền cách mạng và đặt kế hoạch giữ thành phố càng lâu càng tốt. Trong thực tế, chính tài liệu mà Pike sử dụng để khẳng định sự thừa nhận trách nhiệm của Cộng sản về vụ giết hàng loạt dân thường đă chỉ rơ rằng Giải phóng Quân có "nhiệm vụ chiếm giữ Huế càng lâu càng tốt để một chính quyền cách mạng có thể được thành lập." [56]

    C̣n về các danh sách đen cho hành quyết, khẳng định của Pike rằng danh sách dài và bao gồm cả các quan chức cấp thấp và các nhân vật không nằm trong chính quyền mâu thuẫn với không ai khác ngoài chính chỉ huy trưởng cảnh sát mật của Huế, Le Ngan, người cũng có tên trong danh sách. Năm 1968, ngay sau khi tái chiếm thành phố, Le Ngan kể với cựu nhân viên tổ chức T́nh nguyện Quốc tế Len Ackland, người đă làm việc ở Huế trước cuộc tổng tấn công, rằng danh sách đen cho khu Gia Hội chỉ bao gồm các sĩ quan của bộ máy cảnh sát mật của khu. [57]

    Các danh sách khác là về những người được chọn không phải để hành quyết mà là để bắt giữ và cải tạo. Những người bị bắt - tuy không nhất thiết bị hành quyết, theo một tài liệu có tên "Bản kế hoạch công kích và khởi nghĩa của mũi A" mà tôi nhận được từ Joint US Public Affairs Office tháng 6 năm 1971 - được giới hạn trong một số lượng tương đối nhỏ các quan chức Mỹ và Việt. [58] . Tài liệu nói rằng "Về tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng, các sĩ quan từ đại tá trở lên, các sĩ quan t́nh báo Mỹ và các trưởng các bộ phận, nếu t́nh h́nh thuận lợi, một số bị bắt lúc 12 giờ, họ phải nhanh chóng thuyết phục những người khác không trốn tránh và kêu gọi họ đầu hàng ... và sau đó ta phải đưa họ ra khỏi thành phố." Theo kế hoạch, những người bị bắt cần được giữ trong các nhà tù bên ngoài thành phố cho đến khi hồ sơ của họ được nghiên cứu và các phán quyết được đưa ra cho từng trường hợp cụ thể. Nó nhấn mạnh rằng không một người nào trong số các quan chức cao cấp Việt và Mỹ bị giết trừ khi t́nh h́nh chiến trận trong những giờ đầu tiên không thành công và không có cách nào đưa họ ra khỏi thành phố - một hoàn cảnh rơ ràng đă không xảy ra.

    Tiếp theo, tài liệu loại trừ các viên chức cấp thấp ra khỏi diện bị bắt hoặc trừng phạt: "Về những nhân viên dân sự làm việc cho địch v́ kế sinh nhai và không chống đối cách mạng, giáo dục họ và nhanh chóng giao cho họ trách nhiệm để tiếp tục làm việc phục vụ cách mạng."

    Có một loại thứ ba: những người không phải quan chức cấp cao, cũng không phải nhân viên dân sự thông thường mà là những người đă từng có lần chủ động tham gia bộ máy bán quân sự của chính quyền. Tuy những cá nhân này không được giao việc, nhưng bằng chứng cho thấy kế hoạch là cải tạo họ chứ không phải hành quyết, miễn là MTGPDTMN giữ được quyền kiểm soát thành phố. Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng, họ đă được lệnh khai báo với hội đồng địa phương nhưng rồi đă được phép trở về nhà. [59]

    Điều đó không có nghĩa không có các vụ hành quyết tại Huế trong giai đoạn đầu của cuộc chiếm đóng. Len Ackland và thông tín viên tờ Washington Post Don Oberdorfer đă ghi lại các trường hợp của các cá nhân đă bị hành quyết khi họ cố trốn tránh Mặt trận hoặc chống đối chính phủ mới theo cách này hay cách khác. [60] . Nhưng những biện pháp cứng rắn này, mà trong nhiều trường hợp có thể đă phản ánh những hành động cá nhân của quân lính hoặc cán bộ thay v́ một quyết định chính sách của Mặt trận (như khi một người bị bắn v́ kháng cự khi bị bắt), không hề giống với sự trừng phạt hàng loạt đối với các vị trí quan chức hay thái độ chính trị mà Douglas Pike đă khẳng định. Và số vụ hành quyết cũng tương đối nhỏ, theo lời các cư dân Huế đă được Ackland phỏng vấn.

    MỤC SƯ VÀ CÁC TRÍ THỨC TỰ HÀNH QUYẾT

    Luận cứ của Pike rằng có một giai đoạn "tái cơ cấu xă hội" đánh dấu bằng một đ̣n trừng phạt các nhân vật tôn giáo và trí thức mâu thuẫn với không những logic của chiến lược chính trị của MTDTGPMN mà c̣n bởi các tài liệu bằng chứng. Như chính Pike đă chỉ ra trong cuốn sách của ḿnh, "Chiến tranh, ḥa b́nh, và Việt Cộng", xuất bản năm 1969, chính quyền cách mạng tại Huế trong thời kỳ chiếm đóng đă bao gồm một số lănh đạo của Phong trào Đấu tranh năm 1966 chống chính quyền Kỳ - chính các lănh đạo trí thức và Phật giáo mà về sau ông ta đă khẳng định vào năm 1968 MTDTGPMN muốn tiêu diệt một cách có hệ thống. [61] . Những người này không phải những người cách mạng vô sản hăm hở trả thù hệ thống Phật giáo và tầng lớp học thức, như Pike đă gợi ư, mà là đại diện của những hội nhóm ở Huế đă chủ động phản đối chính phủ Thiệu-Kỳ và sự chiếm đóng của quân đội Mỹ. Chính trên những tầng lớp này mà MTDTGPMN đă đặt cơ sở cho chiến lược chính trị của họ về một mặt trận thống nhất rộng lớn nhất có thể tại Huế.

    Do đó, chủ tịch Ủy ban Cách mạng tại Huế là Le Van Hao, nhà dân tộc học nổi tiếng của Đại học Huế, người trước đó đă biên soạn Struggle Movement's publication _Vietnam, Vietnam_. Một phó chủ tịch là một cao tăng Phật giáo của miền Trung Việt Nam, Thich Don Hau. Các lănh đạo khác của Phong trào Đấu tranh năm 1966 quay trở về làm thành viên của Ủy ban Cách mạng bao gồm Hoàng Phủ Ngọc Tường, cựu giáo viên trường Quốc học, người đă trở thành tổng thư kư của ủy ban mới; Nguyễn Đắc Xuân, người đă được Phong trào Đấu tranh ở Huế phân công tổ chức "student commandos" tại Đà Nẵng năm 1966; và Ton That Duong Ky, một giáo sư Đại học Huế.

    Những người đă từng tham gia phong trào Phật giáo năm 1966 cũng được đưa vào chính quyền cách mạng bởi các nhân vật nổi tiếng khác từ các trường viện giáo dục tại Huế, chẳng hạn bà Nguyen Dinh Chi, cựu hiệu trưởng của trường nữ sinh Đồng Khánh danh tiếng, người là một nữ phó chủ tịch của nhóm "Liên minh" được thành lập muộn hơn vào năm 1968. Ton That Duong Thien, một thày giáo tại trường trung học Nguyễn Du, đă chỉ huy các hoạt động tại khu Gia Hội, và nhiều người khác thuộc tầng lớp trí thức Huế đă nhận các vị trí có trách nhiệm trong chính quyền cách mạng.

  5. #45
    lave33
    Khách
    Kế hoạch công kích và khởi nghĩa" c̣n khẳng định rằng chiến lược chính trị của Mặt trận là dựa vào các sư tăng và tín đồ Phật giáo để được hỗ trợ tại Huế. Trong một mục nói cụ thể về các nhóm tôn giáo, tài liệu viết: "Chúng ta phải t́m kiếm mọi cách để đoàn kết và giành được sự ủng hộ của các tín đồ và sư săi Phật giáo."

    Về những người Công giáo ở Huế, bằng chứng từ cả các tài liệu của Cộng sản và nhân chứng cho thấy chính sách của MTDTGPMN không hướng về phía chống lại Giáo hội Công giáo. Tài liệu "Kế hoạch công kích và khởi nghĩa" bắt được nói đến việc "cô lập (isolate) những tên phản cách mạng lợi dụng Công giáo tại Phú Cam". Tuy nhiên, trong thuật ngữ tiếng Việt của Cộng sản, "cô lập" có nghĩa hành động để cắt đứt các ảnh hưởng của các cá nhân nói trên ra khỏi các sự vụ của cộng đồng. Nó không có nghĩa hành quyết hay thậm chí không nhất thiết có nghĩa bỏ tù, trái với những ǵ mà các chuyên gia chiến tranh chính trị có thể thuyết phục.

    Tài liệu chỉ ra rằng chỉ có các mục sư bị phát hiện "che dấu địch" mới là đối tượng trừng phạt, và mức độ trừng phạt cụ thể c̣n tùy vào mức độ mà chống đối cách mạng của cá nhân đó trong quá khứ.

    Tại khu Gia Hội, nơi MTDTGPMN đă kiểm soát trong 26 ngày, một linh mục Công giáo nói với Len Ackland rằng không một ai trong số các giáo dân của ông bị MTDTCPMN hại. [63] . Hai nhân vật Công giáo duy nhất được xác nhận bởi chính quyền Sài G̣n là đă bị giết bởi MTDTGPMN là hai linh mục người Pháp ḍng Benedictine, Cha Guy và Cha Urbain. Tuy nhiên, các nguồn tin từ tu viện Thiên An báo cáo rằng quân MTDTGPMN đă chiếm giữ tu viên vài ngày khi Cha Guy và Cha Urbain vẫn có mặt ở đó, và rằng không ai trong số hai người đó hay một linh mục nào khác bị hại. Hăng Thông tấn Pháp đưa tin rằng hai người đă chạy khỏi tu viện để tránh bom Mỹ vào ngày 25 tháng 2 - hai ngày sau khi quân MTDTGPMN đă rút. [64] . Địa điểm nơi xác của hai người được t́m thấy là tại khu vực mà bác sỹ Vennema nói rằng dân làng đă về các trận bom dữ dội của Mỹ vào thời điểm mà hai linh mục được cho là bị giết. [65] . Hơn nữa, cuốn sách nhỏ của Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị khẳng định rằng cả Cha Urbain và Cha Guy đă bị bắt và buộc phải tháo bỏ trang phục linh mục trước khi bị đưa đến khu vực các ngôi mộ Đồng Khánh (the area of the Dong Khanh tombs), nơi họ bị giết và chôn. Nhưng những mục sư t́m thấy xác của Cha Urbain được trích lời trong chính cuốn sách nhỏ đó rằng ông ta nhận ra xác do số hiệu giặt trên áo của vị linh mục!

    Khái niệm của Douglas Pike về một kế hoạch của MTDTGPMN về việc thanh trừng xă hội Việt Nam qua các cuộc hành quyết hàng loạt kỳ quặc và không liên quan đến thực tế của chính sách MTDTGPMN đến mức nó cho chúng ta biết nhiều về chủ ư của chính Pike hơn là về hoạt động mà ông ta cho rằng ḿnh đang miêu tả. Cũng như vậy, khi ông ta có ư rằng Mặt trận cố gắng trừ khử bất cứ ai biết danh tính của những cán bộ đă hoạt động bí mật tại Huế, có vẻ như ư đó được dựa trên khái niệm của Pike về hoạt động của Mafia hơn là dựa trên bất cứ hiểu biết nào về hoạt động của MTDTGPMN. Rơ ràng, các cán bộ mà danh tính đă được công khai không thể ở lại thành phố khi MTDTPGMN rút đi. Những người khác, những người đă không để lộ ḿnh ngay cả sau khi MTDTGPMN đă chiếm được Huế, vẫn ở lại, điều đó không có ǵ để nghi ngờ. [66]

    Có vẻ như Pike đă không nỗ lực thẩm tra về các sự kiện đă xảy ra trong giai đoạn sau của thời gian Cộng sản chiếm đóng. Năm 1968, các quan chức chính quyền Sài G̣n tại Huế đă nói với Len Ackland rằng những người bị MTDTGPMN giết khi họ chuẩn bị rời thành phố trước áp lực quân sự của Sài G̣n và Mỹ là các quan chức và các lănh đạo chính trị chống Cộng, những người trước đó đă có trong danh sách cải tạo. [67] . Tại thời điểm đó, MTDTGPMN đối mặt với các lựa chọn: để các cá nhân này tiếp tục chiến tranh chống lại Mặt trận, hoặc trừ khử họ trong khi MTDTGPMN vẫn c̣n nắm quyền kiểm soát thành phố, hoặc đưa họ ra khỏi thành phố để cải tạo. Không nghi ngờ ǵ, một số trong số những người trước đó bị đánh dấu để cải tạo đă bị hành quyết trong giai đoạn sau của cuộc chiếm đóng, tuy số lượng có vẻ ít hơn nhiều lần con số mà chính quyền Sài G̣n và Douglas Pike khẳng định. Những người khác trong số những người bị đánh dấu để cải tạo đă được đưa ra khỏi thành phố, về phía núi để cho mục đích đó. Lời cáo buộc rằng những người tù này đă bị giết một cách có hệ thống không hề được hỗ trợ bằng bằng chứng hay logic.

    Do đó, "giả thuyết" của Pike phải được đánh giá là không xứng đáng được xem xét nghiêm túc. Nó thể hiện sự suy đoán méo mó không được đặt trong khuôn khổ của việc chú trọng đến các bằng chứng tài liệu sẵn có, lại càng không theo các chiến lược và chiến thuật cách mạng mà Pike tự cho ḿnh là một chuyên gia. Tuy vậy, cuốn sách nhỏ của Pike phải được xem là một thành công lớn trong chiến tranh chính trị, do cách giải thích của ông ta về các sự kiện tại Huế vẫn là một cách giải thích nổi trội hơn cả đối với các nhà báo và các nhân vật của quần chúng.

    KẾT LUẬN

    Vấn đề mà các nhà sử học phải cân nhắc về thời gian Mặt trận giải phóng dân tộc Miền Nam chiếm giữ Huế không phải là các vụ tử h́nh có xảy ra hay không, mà là chúng đă là các hành động bừa băi hay là kết quả của một sự "thanh trừng" có kế hoạch đối với toàn xă hội - như các chuyên gia chiến tranh chính trị (political warfare specialists) của các chính quyền Mỹ và Sài G̣n. Cũng quan trọng tương đương là câu hỏi cái ǵ đă gây ra cái chết cho hàng ngàn thường dân Huế trong các trận đánh trong thành phố, Mặt trận giải phóng dân tộc Miền Nam hay bom và pháo của Mỹ

    Các bằng chứng hiện có - không phải từ các nguồn của MTGPDTMN mà là từ các tài liệu chính thức của Mỹ và Sài g̣n và từ các quan sát viên độc lập - cho thấy rằng câu chuyện chính thức về một vụ tàn sát bừa băi những người được coi là không đi theo phía MTGPDTMN là một sự ngụy tạo hoàn toàn. Không chỉ số lượng tử thi được phát hiện ở trong và quanh thành phố Huế đang để ngỏ cho các câu hỏi, mà quan trọng hơn, nguyên nhân của cái chết có vẻ như đă bị dịch chuyển từ chính trận đánh sang chuyện tử h́nh của MTGPDTMN. Và các tường tŕnh "có thẩm quyền" và chi tiết nhất về các vụ được cho là tử h́nh được kết nối với nhau bởi chính phủ không đứng vững trước thẩm tra.

    Ngày nay, hiểu biết về các kỹ thuật bóp méo và diễn đạt sai mà các nhà tuyên truyền của Sài G̣n và Mỹ thực hành trong khi tạo dựng một chiến dịch chiến tranh chính trị từ thảm kịch của Huế cũng có tầm quan trọng trong kém khi quân Mĩ vẫn c̣n tham chiến tại Việt Nam. Nó đi vào tận gốc rễ của vấn đề đối mặt với sự thật về cách mạng Việt Nam và các nỗ lực của Mỹ nhằm trấn áp nó bằng vũ lực. Tầm màn sai trái được dựng lên quanh cuộc Tổng tấn công Mậu Thân tại Huế đă và sẽ là một cơ chế pḥng vệ khác của chính phủ Mỹ cũng như phần lớn công luận Mỹ để tránh phải đối mặt một cách thành thực với tính chất thực của cuộc đấu tranh ở đó.

    Ghi chú

    1. ▲ Về một nghiên cứu về chiến lược này, Xem D. Gareth Porter, "Bloodbath; Myth or Reality?" Indochina Chronicle No. 19, September 15, 1973. 2. ▲ Joseph Dees, "Survivors Relate Communist Mass Murders of 1,000 in Hue," IPS (USIS) dispatch, April 23, 1968. 3. ▲ New York Times, May 1, 1968; Washington Post, May 1, 1968. 4. ▲ Vietnam Press, May 1, 1968. The UPI story on the report indicated that it was based solely on information supplied by the police, failing to mention the role of the Political Warfare Battalion. Washington Post, May 1, 1968. The New York Times did not mention the source of the information. It is safe to say, therefore, that no American newspaper reader learned that the ARVN Tenth Political Warfare Battalion played the key role in compiling the story. 5. ▲ New York Times, February 29, 1968. 6. ▲ Le Monde, April 13, 1968. 7. ▲ "Chronology of Graves Discovered, Vicinity of Hue (Civilian Deaths in Tet 1968)," obtained from the Office of the Assistant Secretary of Defense for Public Affairs, February 1970. 8. ▲ New York Times, March 28, 1968. 9. ▲ "Chronology of Graves Discovered." 10. ▲ New York Times, March 28, 1968. 11. ▲ Vu Cuong Sat cua Viet Cong tai Co Do Hue (Communist Murder in Hue), Tenth Political Warfare Battalion of ARVN, 1968, p. 13. 12. ▲ Alje Vennema, "The Tragedy of Hue," unpublished manuscript, 1968, pp. 19-23. 13. ▲ "Chronology of Graves Discovered," site 22. 14. ▲ "Villagers Returning to Hue," UPI, in San Francisco Chronicle, December 8, 1968; "South Vietnamese Farmer Stoically Works Fields," Washington Post, January 4, 1970. 15. ▲ "Chronology of Graves Discovered," sites 21, 13 and 14. 16. ▲ Tiền Tuyến, ngày 27-1-1969. 17. ▲ Tiền Tuyến, ngày 3-5-1969 18. ▲ Ibid 19. ▲ Vietnam Press, April 12, 1969 20. ▲ Washington Post, May 5, 1969. 21. ▲ "Chronology of Graves Discovered," site 25. 22. ▲ Douglas Pike, The Viet-Cong Strategy of Terror (Saigon: U.S. Mission, Vietnam, 1970), p. 29. 23. ▲ Baltimore Sun, October 12, 1969. 24. ▲ Tiền Tuyến, 17-10-1969. 25. ▲ Pike, op. cit., pp. 28-29. 26. ▲ "Chronology of Graves Discovered." 27. ▲ Embassy of Viet-Nam, Washington, D.C., Vietnam Bulletin, Viet- Nam Information Series, No. 28, April, 1970, p. 6. 28. ▲ Agence France-Presse dispatch, February 15, 1968, in L'Heure Decisive (Paris: Dossiers AFP-Laffont, 1968), p. 153. 29. ▲ Ibid. 30. ▲ Vietnam Bulletin, loc. cit. 31. ▲ Pike đă nói điều này với Benedict Stavis của Đại học Cornell trong một cuộc phỏng vấn ngày 10-9-1973. Letter from Stavis to the author, September 10, 1973. 32. ▲ Washington Post, November 25, 1969. 33. ▲ Christian Science Monitor, December 1, 1969. 34. ▲ Tien Chien Thang Hue tu Ngay 31.1, 23.3" (Information on the Victory in Hue from January 31 to March 23), xerox copy obtained from the Combined Documents Exploitation Center, Saigon. The document, it should be noted, is far from being a high-level report or analysis of the Tet Offensive in Hue. It is handwritten, sketchy, and clearly done at the local level for local consumption. 35. ▲ Nhân Dân, February 28, 1968. 36. ▲ Từ Điển Tiếng Việt (Vietnamese Language Dictionary) (Hanoi: Nha Xuat Ban Khoa Hoc, 1967), p. 927. 37. ▲ Los Angeles Times, November 20, 1969; Washington Daily News, November 25, 1969 38. ▲ Pike, op. cit., p. 16; news articles cited above. 39. ▲ The paragraph immediately preceding Pike's mention of the document refers to a whole class of villagers being "wiped out," op. cit. 40. ▲ "15 Tieu Chuan Cuu Tap" (Fifteen Criteria for Investigation), bản sao xerox nhận được từ Đại sứ quán Mỹ tại Sài G̣n. Tài liệu này được sao lại tại "Viet-Nam Documents and Research Notes", Document No. 97, August 1971, Part II. 41. ▲ "Repressing Counterrevolutionari es: The Viet Cong System of Punishment," Viet-Nam Documents and Research Notes, Document No. 5, October 1967. 42. ▲ Washington Daily News, November 5, 1969. Trên tờ Los Angeles Times, November 20, 1969, Chuyen đă đưa ra con số 3 triệu. 43. ▲ Trong báo cáo về cuộc thẩm vấn Chuyen, người thẩm vấn đă đặt dấu chấm hỏi sau chức vụ và các nhiệm vụ trong quá khứ trong VPA mà Chuyen đă nhận. U.S. State Department, Captured Documents and Interrogation Reports (1968), item no. 55, "Interrogation of Le Xuan Chuyen." 44. ▲ như trên 45. ▲ Phát biểu của Tran Van Do, Troi Nam, No. 3, 1967, p. 13. 46. ▲ Vo Van Chan, The Policy of Greater Unity of the People (Saigon: Minister of Chieu Hoi, Republic of Vietnam, 1971), p. 19. 47. ▲ See Pike, op. cit., p. 18; Sir Robert Thompson, "Communist Atrocities in Vietnam," New York Times, June 15, 1972. 48. ▲ "Letter from Vietnam," The New Yorker, March 23, 1968. 49. ▲ Washington Daily News, March 1, 1968. 50. ▲ "Status of Refugees," official report by Office of Refugees, U.S. Agency for International Development, May 2, 1968. 51. ▲ Saigon Post, March 17, 1968 52. ▲ VC Carnage in Hue, Tenth Political Warfare Battalion, 1968, p. 8. 53. ▲ Pike, op. cit., pp. 30-31. 54. ▲ Saigon Post, March 17, 1968. 55. ▲ Pike, op. cit., pp. 30-31. 56. ▲ "Information on the Victory in Hue." 57. ▲ Len Ackland and D. Gareth Porter, "The Bloodbath Argument," Christian Century, November 5, 1969. Reprinted in Paul Menzel, ed., Moral Argument and the War in Vietnam (Nashville: Aurora Publishers, 1971), pp. 141-46. 58. ▲ "Ban Ke Hoach Con Kich va Khoi Nghia cua Mu A" (Plan for an Offensive and General Uprising of Mui A), xerox copy obtained from Office of Special Projects, JUSPAO, Saigon, June, 1971. 59. ▲ Len Ackland, "Resist and They Die," unpublished manuscript, 1968, pp. 5-6. 60. ▲ Như trên., pp. 15-19; Washington Post, December 7, 1969; and Don Oberdorfer, Tet (New York, Avon Books, 1971), pp. 216-53. 61. ▲ Pike, War, Peace and the Viet Cong (Cambridge, MIT Press, 1969. 62. ▲ Ackland, op. cit., p. 8; Christian Science Monitor, May 8, 1968; Vennema, op. cit., p. 10; notes from interviews in Hue by Francois Sully of Newsweek, March, 1968. 63. ▲ Ackland and Porter, op. cit., p. 145. 64. ▲ Agence France-Presse dispatch, March 3, 1968, in Vietnam Press Special Reports, March 5, 1968. 65. ▲ Vennema, op. cit., p. 26. 66. ▲ Vu Cuong Sat cua Viet Cong tai Co Do Hue, pp. 2, 18-21. 67. ▲ Cộng sản Trung Quốc đă gặp t́nh huống tương tự năm 1947, khi họ chiếm được một tỉnh và các quan chức và chính quyền ngầm của họ lần đầu tiên nổi lên công khai. David Gulala kể về chuyện ḿnh đă hỏi một chính ủy về chuyện ǵ sẽ xảy ra khi Hồng Quân phải rời thị xă. "Họ cũng sẽ rời đi và tiếp tục hoạt động bí mật," ông ta trả lời. "Ông không sợ rằng họ sẽ mất giá trị v́ đă để lộ ḿnh sao?" Gulala hỏi. Chính ủy trả lời, "Chúng tôi có những điệp viên bí mật trong thành phố, những người đă không lộ mặt khi chúng tôi lấy được nó. Chúng tôi thậm chí không biết họ là ai. Họ sẽ ở lại khi chúng tôi đi." Galula, Counterinsurgency Warfare: Theory and Practice (New York: Praeger, 1964), pp. 56-57.

  6. #46
    lave33
    Khách
    Đọc đế so sánh.....xem ai xạo giỏi......

  7. #47
    lave33
    Khách
    Đọc tiếp.....Mỹ là vua về "dàn cảnh"......holly wood usa....


    http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB...AFc_B%E1%BB%99

  8. #48
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968

    TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968
    TỘI ÁC HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN VÀ NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH





    Hoàng Phủ Ngọc Phan (ngồi)

    Hoàng Phủ Ngọc Phan tên thật là Hoàng Ngọc Hợp

    Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam (UBTTTACSVN)

    Kính gởi:

    Đồng bào trong nuớc và hải ngoại
    Các hệ thống truyền thông
    Các Diễn Đàn Internet
    Các hội đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại
    Các hội đồng hương người Huế tại hải ngoại.

    Thưa quư vị,

    Nhằm phổ biến rộng răi và truy t́m mọi tin tức liên hệ đến tội ác của đảng Cộng Sản Việt Nam, Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam xin gởi đến công luận lời tường thuật của một nhân chứng và cũng là nạn nhân vụ tàn sát Mậu Thân, hiện c̣n sống, về hành động giết người man rợ của hai tên sát nhân Việt Cộng nằm vùng: HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN, và NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH
    Bà Nguyễn thị Thái Ḥa Là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế, gia đ́nh trước 1975 ở tại đường Hàm Nghi, Huế, vừa là nạn nhân và thân nhân của những nạn nhân đă bị Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh sát hại tại Huế trong Mậu Thân năm 1968. Bà hiện đang sống tại hải ngoại

    Chúng tôi xin tóm tắt lư lịch của hai tên nầy như sau:

    1-HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

    Thời điểm năm Mậu Thân 1968 Hoàng Phủ Ngọc Phan là sinh viên y khoa năm thứ 2, đại học Y Khoa Huế.

    1966 Phan là thành viên tranh đấu đắc lực trong lực lượng tranh đấu lănh đạo bỡi Thích Trí Quang, trực thuộc lực lương Sinh Viên Quyết Tử của Nguyễn Đắc Xuân.

    Y là cơ sở VC nằm vùng trong Tổng hội Sinh viên Đại Học Huế, cán bộ điều khiển y là Trung Tá điệp viên VC Ḥang Kim Loan.

    Cuối tháng 6 năm 1966, lực luợng phản loạn miền Trung của Thích Trí Quang bị Chính Phủ trung ương dẹp tan, Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng với anh là Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ly lên mật khu.

    Mậu Thân 1968 Phan cùng với Tường nằm trong đoàn An Ninh Bảo vệ Khu Phố theo chân quân chính quy của Quân Khu Trị Thiên và ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên của Tống Hoàng Nguyên cũng như Ban An Ninh Tỉnh Thị Ủy Huế của đại Tá Công An Nguyễn Đ́nh Bảy trở lại thành phố Huế, thẳng tay tàn sát đồng bào. Y là ṭng phạm trong vụ bắt và đem đi chôn sống 4 giáo sư Y khoa người Đức, là giáo sư Y khoa của trường Đại Học y khoa Huế, họ cũng chính là thầy dạy của y.

    Cũng cần nói thêm, anh ruột của Y là giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, cơ sở trí vận của cơ quan Thành ủy Việt Công Huế từ trước 1963. Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia trong phong trào Phật Giáo đấu tranh lật đổ Đệ I Cộng Ḥa, hoạt đông tích cực cho Trí Quang trong cuộc dấy loạn miền trung năm 1966. Tháng 6/1966 thoát ly lên mật khu. Mậu Thân 1968 trở lại Huế với chức vụ Tổng Thư Kư Lực Lượng Liên Minh Dân Chũ Ḥa B́nh mà Giáo Sư Lê văn Hảo là chủ Tịch, bà Đào Thị Xuân Yến, tức Tuần Chi làm phó chủ Tịch.

    Quan trọng hơn cả chính Ḥang Phủ Ngọc Tường ngồi nghế chủ tịch Ṭa án Nhân Dân tại trường Trung học Gia Hội và đă ra lệnh cho Ban An Ninh và Đội Tự Vệ khu phố của Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan chôn sống 204 thường dân vô tội tại trong khuôn viên của trường.

    Hiện Tại th́ Hoàng Phủ Ngọc Tường bị bán thân bất toại, sống tàn tạ tại Huế.

    Hoàng Phủ Ngọc Phan sau 1975 được làm ở Ban kiễm duyệt báo chí của Thành Ủy Sài G̣n

    2-NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH:

    Y thị là sinh viên dược khoa Đại Học Sàig̣n, trước Mậu Thân 1968. Y thị về Huế nghỉ Tết để nhận trách nhiệm trong Mậu Thân. Y thị tham gia đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan. Cha của y thị là Nguyễn Đóa, Anh rễ là Tôn Thất Dương Tiềm . Cả ba, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Duơng Tiềm đều là những tên đại đồ tể, những kẻ giết người không kể xiết trong Mậu Thân 1968 tại Huế.

    C̣n nhớ rơ trong suốt thời gian Việt Cộng chiếm Huế, y thị mặc bộ đồ màu hồng , mang súng AK 47, đi xe Honda lùng bắt Ngụy Quân Ngụy quyền. Gặp bất cứ thanh niên , đàn ông nào, y thị cũng chận lại xét hỏi. Nếu ai vô phúc trả lời là Quân Nhân hay Cảnh sát, y thị nổ súng hạ sát ngay lập tức.

    Sau Mậu Thân, y thị thoát ly ra Bắc, tiếp tục học dược khoa. Sau 1975 vào sinh sống tại Sài G̣n. Hiện nay Nguyễn Thị Đoan Trinh là một đại thương gia giàu có, sống nhỡn nhơ trên tội ác năm Mậu Thân

    Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam thiết tha mong mơi sự hợp sức của quư vị , bằng cách phổ biến sâu rộng mọi nơi, mọi giới đồng bào, lời tự thuật của Bà Nguyễn Thị Thái Hoà.

    Những ai biết thêm về hành động sát nhân của Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, hoặc những tên khác, xin cung cấp tin tức cho chúng tôi, hầu có thêm những dữ kiện, bằng chứng cụ thể để, chúng tôi thiết lập hồ sơ đưa các tên sát nhân này ra ṭa án H́nh Sự Quốc tế và các ṭa án quốc tế khác

    V́ trách nhiệm phải bảo vệ an toàn cho nhân chứng, Ủy Ban chúng tôi không thể công khai phổ biến địa chỉ và số phone của bà Thái Ḥa trong lúc này. Trong tương lai, bà Thái Ḥa sẽ ra trước công luận để tŕnh bày với quư vị và ṭa án

    Mọi chi tiết quư vị, nhất là các hệ thống truyền thông có uy tín, muốn biết thêm hoặc nói chuyện qua phone với bà Thái Ḥa, xin liên lạc với UBTTTACS để sắp xếp

    Email: uybantruytotoiaccong san@gmail.com
    Hoặc email cá nhân tôi: nguyenphuclienthanh@ gmail.com

    Trân trọng

    Thừa Ủy Nhiệm Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam

    Liên Thành.

    Thừa ủy nhiệm UBTTTACS, chúng tôi xin gởi đến đồng bào Việt Nam khắp thế giới nguyên văn lời khai của một nạn nhân vụ Mậu Thân, bà Nguyễn Thị Thái Ḥa, nguyên sinh viên trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế, trước ngụ tại đường Hàm Nghi quận 3, thị xă Huế

    http://vntv.wordpress.com/2010/03/04..._thi_thai_hoa/

  9. #49
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968

    TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968
    Mậu Thân- Huế, đi t́m những phản đề

    Tường An, thông tín viên RFA


    Trận chiến Mậu Thân vẫn là một trải nghiệm nghịch lư giữa hai miền Nam Bắc khi nh́n lại con người và sự kiện. Trên Wikipedia, cuộc chiến về Tết Mậu Thân vẫn có hai định đề khác nhau.


    Wiki-Commons photo

    Hài cốt nạn nhân bị tàn sát tập thể- Wiki-Commons photo

    Trong khi một trang đặt tên là "Thảm sát Huế Tết Mậu Thân" đưa lên những con số về các nạn nhân đă bị giết hoặc chôn sống trong các hố chôn tập thể th́ ở một trang khác của Wikipedia được gọi rất nhẹ nhàng là "Sự kiện tết Mậu Thân" chỉ nói đến nguyên nhân, quá tŕnh cũng như kết quả của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968.

    Trang “Thảm sát Tết Mậu Thân” gọi cuộc thảm sát này là “hành động tàn bạo ở quy mô lớn đă được thi hành ở Huế và vùng lân cận trong 4 tuần do quân giải phóng miền Nam chiếm giữ” C̣n trang “Sự Kiện Tết Mậu Thân” lại cho rằng “số đông thường dân bị giết chết trong cuộc chiếm lại thành phố Huế bởi đạn pháo kích của Mỹ”


    Vợ khóc chồng- quanvan.net photo

    Ngay cả những con số về cả các chiến binh tử trận cũng không thống nhất. Trang “Thảm sát Tết Mậu Thân” cho biết “Quân đội Hoa Kỳ và QLVNCH chịu khoảng 4 ngàn 400 lính thương vong và MTDTGPMNVN cũng tổn thất trên 4 ngàn quân” th́ ở trang “Sự Kiện Tết Mậu Thân” lại đưa ra bảng thống kê với 44 ngàn 824 bộ đội chết và 4 ngàn 511 mất tích.

    Về số thường dân bị chết trong Tết Mậu Thân Huế, số liệu từ các nguồn khác nhau cũng không thống nhất. Có nguồn nói là 6 ngàn 700, có nguồn lại đưa ra con số 7 ngàn 600 người chết.

    Biến cố Mậu Thân đă ghi lại một vết chém lịch sử trong ḷng người dân cố đô. Cư sĩ Trí Lực, người đă chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân không bao giờ quên được nổi kinh hoàng lúc đó:

    “Khi đó tôi đang ở chùa Thiên Mụ, tôi về thăm gia đ́nh ngày mùng một Tết, dân chúng cố đô Huế ăn Tết b́nh thường, nhưng khuya mùng một rạng mùng hai Tết th́ tôi thấy bộ đội Cộng Sản miền Bắc lũ lượt từng đoàn kéo nhau vào.

    Vùng tôi ở là Tây Lộc, họ đi vào cửa Chánh Tây nườm nượp. Đúng vào ngày hôm sau th́ máy bay hai bên giáp chiến. Cà nông, đại bác diễn ra một trận chiến tranh kinh hoàng. Tôi và gia đ́nh đi tản ở vùng Tây linh, cách vùng Tây lộc khoảng 2 cây số. Trên đường đi tản cư th́ tôi thấy rất nhiều xác chết của bộ đội miền Bắc cũng như dân chúng và binh lính Việt nam Cộng Ḥa.

    Hai mươi sáu ngày sau, sau khi cố đô Huế b́nh định trở lại th́ tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Băi Dâu Gia Hội, những người xấu số đă bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát. Cảnh kinh hoàng là cảnh Cộng sản đă chôn sống bao nhiêu người dân vô tội.

    Khi đó tôi theo hầu Thầy làm lễ cầu siêu th́ tôi chứng kiến hàng trăm cỗ quan tài được khai quật lên từ Băi Dâu Gia Hội, Sau đó làm một đám tang tập thể đưa từ trường trung học Gia Hội lên nghĩa trang Ba Đồn. Khi đó tôi thấy một cuộc chiến tranh hết sức là kinh hoàng. Bây giờ bốn năm mươi năm nhớ lại tôi vẫn c̣n in rơ mồn một trong trí của tôi. Thật là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn”

    Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống tại Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân:

    “Gia đ́nh của tôi của vùng Phủ cam là một, vùng An vân thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi là gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chổ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”

    Cho đến nay vẫn c̣n có những nghi vấn về trách nhiệm của những người đă nhúng tay vào cuộc thảm sát Mậu Thân Huế. Hai trong những người được nhắc đến nhiều nhất là hai người con của Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) và Nguyễn Đắc Xuân (NĐX)

    Trong một dịp đến Pháp năm 1997 ông HPNT đă trả lời phỏng vấn của bà Thụy Khuê :“Trong “Giải Khăn Sô cho Huế” Nhă Ca nói rằng Phủ (tức HPNT) không về Huế và nếu có về th́ cũng không giết người, thành thật cám ơn chị Nhă ca đă dành cho tôi điều thành thật rất quan trọng này”

    Và ông tiếp:

    “Đă không có mặt th́ làm sao tôi – HPNT- lại có thể làm cái việc ghê gớm gọi là “đồ tể” Mậu Thân ở Huế được”

    Đúng thế, ở chương 7 của “Giải khăn sô cho Huế", nhà văn Nhă ca có viết “Tôi hỏi gặng măi em gái tôi có nh́n thấy Phủ không. Có ai nh́n thấy Phủ không? Nó quả quyết là nó không thấy, cả bạn bè của nó đi họp cũng nói không thấy. Tôi hơi yên tâm và mừng thầm cho kẻ phản bội”


    Những hài cốt chưa nhận ra căn cước- WikiCommons photo

    Trong một bài phỏng vấn do phóng viên Dương Minh Long thực hiện cách đây 4 năm mà trang nhân dân VN đă đăng lại, ông Nguyễn Đắc Xuân khẳng định HPNT không hề có mặt ở Huế mùa Xuân 1968:

    “Nhiều dư luận và cả sách báo lâu nay ngộ nhận rằng nhà giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đă có mặt ở Huế trong tết Mậu Thân 1968. Nhân đây tôi xin đính chính: Suốt thời gian chiến dịch mở ra, nhà giáo (nay là nhà văn) Ḥang Phủ Ngọc Tường đều ở tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà để làm việc với các vị nhân sĩ trong Mặt trận Liên Minh chứ không hề bước chân về chiến trường Huế. Cho nên tất cả những “thông tin” nói nhà giáo Ḥang Phủ Ngọc Tường làm việc này việc nọ ở Huế trong những ngày tết Mậu Thân 1968 đều là thông tin bịa đặt”

    Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường là thầy dạy Việt văn trung học của ông Nguyễn Phúc Liên Thành, theo ông Liên Thành thầy giáo HPNT dạy môn Triết và Việt văn rất giỏi, ông giảng rất hay và không bao giờ nh́n vào sách. Ông Liên Thành rất ngưỡng mộ thầy giáo HPNT. Ông Liên Thành nguyên là Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt trong những năm 68. Ông đưa ra 4 bằng chứng để chứng minh ông HPNT đă có mặt ở Huế vào Tết Mậu Thân :

    “Tôi xin đưa ra 4 trường hợp để chứng minh HPNT đă không thành thật về việc nói y không có mặt tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân :
    Thứ nhất, năm 72 tôi bắt được tên trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan, chính Hoàng Kim Loan khai rằng y và Hoàng Lanh như là Hoàng Phương Thảo là Ủy viên thành phố Huế. Khi thành lập ṭa án Nhân dân tại Huế th́ chính ba cán bộ thành ủy này đă đề cử HPNT vào ghế Chánh án ṭa án Nhân dân tại trường trung học Băi Dâu Huế.

    Cái thứ hai, theo lời tường tŕnh của một số nhân chứng xác nhận rằng kẻ ngồi xử tại ṭa án Nhân dân Huế tại trường trung học Gia Hội vào năm 1968 và kết quả sau đó chúng tôi đă khai quật 204 xác nạn nhân tại trường trung học. Cái người ngồi xử đó chính là giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường nguyên là giáo sư về môn Triết và Việt văn ở Huế.

    Cái xác nhận thứ ba: Định là sinh viên y khoa năm thứ hai Huế, cũng là bạn của Hoàng Phủ Ngọc Phan, em HPNT, xác nhận rằng, trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân th́ chính HPNT và HPNP đă đến nhà ông Định ở đường Nguyễn Du để t́m bắt ông Định. Chính HPNT đứng ở ngoài và HPNP vào nhà để t́m bắt nhưng cha ông Định đă nói một cách để che chở, cuối cùng ông Định trốn trong nhà mà không bị bắt.

    Nhưng cái điều quan trọng là chính HPNT đă xác nhận có mặt trong thời gian biến cố Mậu Thân xảy ra. HPNT có trả lời phỏng vấn với một nhà làm phim Mỹ, phim “VietNam Television History” của ông Burchett. Y nói rằng y đă từng đứng ngay trong một bệnh viện tại vùng Gia Hội, bệnh viện này đă bị Mỹ thả bom và trong đêm đó y dẵm lên một vũng bùn, y tưởng đó là bùn, khi mà y bật đèn th́ thấy toàn là máu cả. Điều đó cho thấy sự hiện diện của HPNT tại bệnh viện ở trường trung học Gia Hội”

    Riêng về sinh viên Nguyễn Đắc Xuân, năm 66 là trưởng đoàn thanh niên quyết tử và năm 68 là trưởng đoàn Thanh niên vũ trang thành phố Huế c̣n gọi là Lực lượng an ninh và bảo vệ khu phố. Trong giải khăn sô cho Huế, nhà văn Nhă ca có nhắc đến sinh viên NĐX đă giết một người tên là Mậu Tư, ông Liên Thành cũng khẳng định chi tiết này:

    “Nguyễn Đắc Xuân sử dụng hầu hết các cơ sở nằm vùng, chia ra từng toán, lục soát từng nhà một t́m bắt ngụy quân, ngụy quyền và nhiều cuộc xử bắn đă xảy ra.

    Sau này NĐX có chối tội nói rằng là trong trận đánh Huế th́ tôi ở tuyến sau chứ không ở tuyến đầu. Nhưng nhiều nhân chứng đă kể lại những hành động dă man của NĐX trong đó NĐX đă bắn người bạn rất thân của nó là sinh viên Lê Mậu Tư v́ nghi Lê Mậu Tư làm việc cho cơ quan t́nh báo của Việt Nam Cộng ḥa hoặc là đảng viên đảng Đại Việt.

    Ngoài ra những cuộc hành quyết tại quận nhất, quận nh́ và quận ba đều là do lực lượng an ninh bảo vệ khu phố của NĐX thi hành. Như bà Thái Ḥa đă nói chính HPNP và NĐX đă bắn hai người anh của cô ta và bắn luôn ông nội của cô ta trước sự chứng kiến của bà Nguyễn thị Thái Ḥa.

    ôi hy vọng một ngày rất gần, Ban Truy tố tội ác đảng CS do tôi đang lập hồ sơ để truy tố những tên này ra ṭa án Quốc tế để nó phải trả lời trước dư luận Quốc tế và mong rằng đem lại sự công bằng, công đạo cho những người đă chết trong Mậu thân 68 Huế”

    Câu hỏi vẫn thường được đặt ra là : Ai là kẻ thắng, người thua sau cuộc chiến này?

    Quân lực VNCH và đồng minh đă thắng v́ đă đánh bật quân Bắc Việt ra khỏi Sài G̣n và Huế. Hay quân đội Bắc Việt đă thắng v́ sau tổng tiến công Mậu Thân, VNDCCH đă áp lực được Mỹ ngồi vào bàn hội nghị? Trong cuộc chiến này, có lẽ không có kẻ thắng hay người thua mà chỉ có người dân là nạn nhân, oằn ḿnh chịu đựng bao nỗi oan nghiệt của chiến tranh.

    Nhà báo Bùi Tín, nguyên phó Tổng biên tập báo QĐND, cho biết quan điểm của ông:
    “Mậu thân th́ tôi đang công tác ở Hà Nội. Riêng về Tết Mậu thân th́ ư kiến của tôi như thế này: Cuộc tổng tiến công và nổi đạy của phía Bắc Việt là thất bại nặng nề. Tất cả các đơn vị đều bị đánh ra khỏi các đô thị. Với cái tổn thất mà đến 2 năm sau mới phục hồi được, như vậy đánh giá về thực chất th́ Bắc Việt đă thất bại rất nặng nề, do chủ quan, do không nổi dậy, do có tập kích rộng răi những không giữ được do đó thiệt hại rất nặng đến 2, 3 năm sau.

    Các cơ sở lộ hết, nhất là ở đô thị cơ sở mất hết và ở nông thôn cũng mất từng mảng lớn và phải tạt qua tận Cam-bốt. Do đó mà phía đồng minh đă thắng, nhưng đă không duy tŕ được chiến thắng, t́nh báo kém lại bị cái tuyên truyền phản chiến ở Mỹ thổi phồng chiến thắng của Việt Cộng lên nên Quốc hội Mỹ rút khỏi chiến tranh VN.

    Do đó mà chiến thắng không được phát huy. Thực chất là chiến thắng nhưng lại chuyển thành thất bại. Chiến tranh là thất bại của nhân dân cả hai phía. Tôi thấy là cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn mà trong lịch sử chưa bao giờ mà cả hai bên chết đến như thế.

    Sinh mạng chết nhiều như thế mà nếu đất nước thống nhất mà có Tự do, Dân chủ th́ đó cũng là điều an ủi. Đằng này tổn thất đến như thế, ḥa b́nh trở lại, thống nhất được đất nước mà cũng không có hạnh phúc, không có ḥa hợp dân tộc, cái tội của đảng Cộng sản rất là lớn, rất là nặng nề là như thế"


    Khai quật xác người bị CS tàn sát- Wiki-Commons photo

    Trả lời nhà phê b́nh văn học Thụy Khuê về trách nhiệm thuộc về ai cho cuộc thảm sát ở Huế, HPNT cho biết ông Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân nói rằng:

    “Trách nhiệm đó thuộc về những người lănh đạo mặt trận Mậu Thân…. Điều quan trọng có thể làm và phải làm bây giờ, là những người kế nhiệm ở Huế phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đ́nh nạn nhân Mậu Thân Huế, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”

    Trong khi chờ đợi những thân nhân của những nạn nhân Mậu Thân Huế được trả lại công bằng và quyền công dân như nguyên Tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân đă nói th́ xin coi những hồi tưởng này, theo lời của nhà văn Nhă Ca, như “một bó nhang đèn góp giỗ. Và góp cho một ngày giỗ tương lai tại quê hương, nơi từng biết thế nào là t́nh yêu thương, sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hóa, lịch sử"

  10. #50
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968

    TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968
    Thảm sát tại Huế
    (Trích từ Viet Cong Strategy of Terror – Chiến lược khủng bố của Việt Cộng, tr. 23-29).



    Huế là một trong những thành phố buồn nhất trên trái đất chúng ta, không phải chỉ v́ những ǵ đă xảy ra ở đấy vào tháng 02-1968 mà vốn không thể tưởng tượng. Đó c̣n là một lời khiển trách thầm lặng đối với tất cả chúng ta, những kẻ thừa hưởng 40 thế kỷ văn minh nhưng trong thế kỷ này, lại đă cho phép những quan điểm tập thể hóa đẩy chúng ta vào những tội lỗi hiện đại xấu xa nhất, từ thờ ơ đến vô nhân đạo.

    Những ǵ đă xảy ra ở Huế làm cho mọi ai c̣n là văn minh trên hành tinh này phải dừng lại suy nghĩ. Nó phải được khắc ghi để khỏi bị quên lăng cùng với những hành xử vô nhân đạo khác giữa loài người với nhau vốn đă rải rác ghi dấu lịch sử nhân loại. Huế là một minh chứng khác về việc con người có thể đẩy ḿnh đến chỗ làm những ǵ khi nó không đặt giới hạn cho hành động chính trị mà lại vô t́nh theo đuổi giấc mơ về một xă hội hoàn hảo nào đó.

    Những ǵ đă xảy đến tại Huế có thể được mô tả cụ thể qua vài con số thống kê. Một lực lượng Cộng sản lên tới 12,000 người đă xâm chiếm thành phố Huế đêm mồng một Tết, ngày 30-01-1968. Họ đă ở lại 26 ngày và sau đó bị quân đội (Việt Nam Cộng Ḥa và đồng minh) đánh bật ra khỏi. Sau cuộc tấn công dịp Tết này, 5,800 thường dân Huế đă bị giết hại hoặc mất tích. Nay người ta biết phần lớn trong họ đă chết. Xác của phần lớn họ từ đó đă được t́m thấy trong những nấm mồ cá nhân và tập thể khắp tỉnh Thừa Thiên vốn bao quanh thủ đô văn hóa của Việt Nam này.

    Đấy là những sự kiện cơ bản, những thống kê quan trọng. Thế giới không tọc mạch biết được ǵ về Huế th́ cũng chỉ như thế, v́ đó là những ǵ đă được báo chí thế giới ghi lại cách khiêm tốn sơ sài. Xem ra nó đă chẳng ảnh hưởng ǵ lên lương tri hay lương tâm của thế giới cả. Đă không có những phản đối mạnh mẽ, những cuộc biểu t́nh trước các ṭa Đại sứ Bắc Việt khắp năm châu. Trong một cung giọng hết sức cay đắng, người dân ở đây sẽ nói với bạn rằng thế giới không biết chuyện ǵ đă xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết th́ cũng chẳng bận tâm.

    Trận chiến

    Trận chiến tại Huế là một phần chiến dịch Đông-Xuân 1967-1968 của Cộng sản. Toàn bộ chiến dịch được chia làm ba giai đoạn:

    Giai đoạn I bắt đầu trong tháng 10, tháng 11, tháng 12 năm 1967 và đ̣i hỏi những “phương pháp chiến đấu phối hợp”, nghĩa là những trận đánh khá lớn, kiểu cổ điển nhắm vào các căn cứ quan trọng (của QLVNCH) hay những nơi tập trung quân Đồng minh. Các trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh B́nh Long, ở Dakto tỉnh Kontum và ở Cồn Tiên tỉnh Quảng Trị, cả ba tại các vùng đồi núi Nam Việt gần biên giới Cam Bốt và Ai Lao, đều là những trận đánh điển h́nh và do đó là yếu tố quan trọng của Giai đoạn I.

    Giai đoạn II diễn ra trong tháng 01, tháng 02, tháng 03 năm 1968, và kéo theo việc dùng “những phương pháp chiến đấu độc lập”, nghĩa là nhiều trận đánh do những đơn vị khá nhỏ thực hiện cùng lúc trên một diện tích lớn và sử dụng những chiến thuật du kích tiên tiến, tinh luyện. V́ rằng Giai đoạn I đă thực hiện chủ yếu với các toán quân chính quy Bắc Việt (lúc ấy khoảng 55.000 đang ở miền Nam), Giai đoạn II thực hiện chủ yếu với các toán Cộng quân miền Nam (tức Lực lượng Vũ trang Giải phóng). Cao điểm của Giai đoạn này là cuộc Tấn công Tết Mậu Thân trong đó 70,000 quân đánh vào 32 trung tâm dân cư lớn nhất của Nam Việt, kể cả thành phố Huế.

    Giai đoạn III, diễn ra trong tháng 04, tháng 05 và tháng 06 năm 1968, đầu tiên là phối hợp những phương pháp chiến đấu độc lập và hiệp đồng, kết thúc là một trận đánh lớn cố định đâu đó. Đây là điều mà các tài liệu bắt được đă thận trọng nhắc đến như “đợt sóng thứ hai”. Có thể đó đă là Khe Sanh, căn cứ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nằm ở góc cực Bắc của Nam Việt. Hoặc có thể là Huế. Đă không có đợt sóng thứ hai chủ yếu là v́ trong Giai đoạn I và II, các biến cố đă không phát triển như mong đợi. Mặc dù vậy, cuộc chiến đă đạt tới độ đẫm máu nhất trong tám năm hồi ấy, suốt thời gian kể từ trận đánh Huế vào tháng 02 tới cuộc giải vây cho Khe Sanh vào mùa hè.

    Suốt ba tháng ấy, tổn thất của Hoa Kỳ trung b́nh vào khoảng 500 binh sĩ tử thương hàng tuần; tổn thất của Nam Việt gấp đôi; c̣n tổn thất của Việt Cộng (cả Bắc lẫn Nam) gần tám lần của Hoa Kỳ. Trong chiến dịch Đông Xuân, Cộng sản bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy miền Bắc và du kích miền Nam. Suốt 9 tháng, họ mất (v́ tử thương hay tàn phế vĩnh viễn) khoảng 85.000 người.

    Chiến dịch Đông Xuân là cố gắng toàn lực của Cộng sản nhằm đánh găy lưng Quân lực Nam Việt và dồn chính phủ Việt Nam, cùng với các lực lượng Đồng minh, vào trong các khu vực pḥng thủ ở thành phố. Nói cho đúng, Trận đánh Huế thuộc Giai đoạn I hơn Giai đoạn II v́ nó đă sử dụng “các phương pháp chiến đấu hợp đồng” có lôi kéo quân đội Bắc Việt hơn là các du kích quân miền Nam. Về phía Cộng sản, chủ yếu là hai sư đoàn kỳ cựu của Bắc Việt trong đó có Sư đoàn 324-B, được tăng cường bằng các tiểu đoàn chính quy và một vài đơn vị du kích với khoảng 150 chính ủy và cán bộ dân sự địa phương.

    Tóm lại, trận đánh Huế gồm ba bước phát triển lớn sau đây: Cuộc tấn công khởi đầu của Cộng sản, chủ yếu do hai tiểu đoàn 800 và 802, đă đủ lực và đà để tiến vào Huế. B́nh minh ngày đầu tiên, Cộng sản đă kiểm soát toàn thành phố ngoại trừ Bộ Tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh và khu vực các cố vấn quân sự Mỹ. Việt và Mỹ đă điều động quân tiếp viện với mệnh lệnh tới hai điểm c̣n cầm cự đó để củng cố cho họ. Cộng sản liền điều động một tiểu đoàn khác, tiểu đoàn 804, với mệnh lệnh ngăn chận lực lượng tiếp viện. Việc này thất bại, hai điểm cầm cự đă được củng cố và không bao giờ c̣n bị đe dọa trầm trọng nữa.

    Từ đó, trận đánh mang tính cách một cuộc bao vây. Cộng quân ở trong Thành Nội và ŕa tây thành phố. Quân Việt và Mỹ tại ba mặt c̣n lại, bao gồm phần phía Nam Huế của con sông (Hương), đă quyết tâm đánh bật chúng ra khỏi, với hy vọng ban đầu là dùng hỏa pháo và không kích. Nhưng Thành Nội được xây quá kiên cố và người ta đă sớm thấy rơ rằng nếu Cộng quân được lệnh cầm cự, th́ chúng chỉ có thể bị đánh bật bằng chiến tranh thành phố, đánh chiếm từng nhà và từng khối, một h́nh thức chiến đấu đắt giá và chậm chạp. Lệnh đă được ban ra.

    Qua tuần thứ ba của tháng 02, việc bao vây Thành Nội đă tiến triển tốt đẹp và Quân đội VNCH lẫn Thủy quân Lục chiến Mỹ tiến từng thước qua Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng 02, lính Sư đoàn I Bộ Binh giật xuống lá cờ VC đă treo 24 ngày trên ṿng thành ngoài và thượng lá cờ ḿnh lên. Trận chiến đă toàn thắng, dù thỉnh thoảng c̣n tiếp tục đánh nhau bên ngoài thành phố. Khoảng 2.500 cộng quân chết suốt trận đánh và 2.500 tên khác chết khi những thành phần Cộng sản bị truy đuổi bên ngoài Huế. Tử trận của Đồng minh là 357 người

    Những cuộc phát hiện

    Trong cảnh hỗn loạn tiếp theo sau cuộc chiến, mệnh lệnh đầu tiên cho công việc dân sự là cấp cứu, dưới h́nh thức cung cấp thực phẩm, ngăn ngừa bệnh dịch, săn sóc y tế cấp thời v.v… Tiếp đến là nỗ lực xây dựng lại nhà cửa. Chỉ sau đấy Huế mới bắt đầu lập bảng kê các thương vong của ḿnh. Đă chẳng có một cuộc kiểm kê dân số thực sự ngay sau cuộc tấn công. Đến tháng 03, các viên chức địa phương mới báo cáo rằng 1.900 thường dân đă nhập viện với những vết thương chiến tranh và họ ước lượng rằng khoảng 5.800 người đă không t́m ra tung tích.

    Khám phá đầu tiên về các nạn nhân của Cộng sản là tại sân trường Trung học Gia Hội ngày 26-02: rốt cục 170 thi thể đă được t́m thấy.

    Trong những tháng kế tiếp, thêm 18 địa điểm chôn người được t́m thấy, lớn nhất là Tăng Quang Tự (67 nạn nhân), Băi Dâu (77), vùng Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), khu vực các lăng tẩm (201), Thiên Hàm (khoảng 200) và Đông Gi (khoảng 100). Tổng cộng gần 1,200 xác đă được t́m thấy trong những ngôi mộ đào vội vă, lấp sơ sài.

    Ít nhất một nửa trong họ đă cho thấy bằng chứng bị giết cách thảm khốc: hai tay bị trói bằng dây sau lưng, giẻ rách nhét đầy miệng, thân thể vặn vẹo không thương tích (cho thấy bị chôn sống). Gần 600 nạn nhân c̣n lại mang nhiều vết thương nhưng chẳng có cách nào xác định họ đă chết v́ bị xử bắn hay v́ lạc đạn.

    Nhóm phát hiện lớn thứ hai nằm trong bảy tháng đầu tiên của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Độn Cát và Lệ Xá Tây), quận Hương Thủy (Xuân Ḥa, Vân Dương) vào cuối tháng 03 và tháng 04. Thêm nhiều địa điểm chôn xác khác cũng đă được t́m thấy tại quận Vinh Lộc trong tháng 05 và quận Nam Ḥa trong tháng 07. Lớn nhất trong nhóm này là các phát hiện ở Độn Cát tại ba địa điểm Vinh Lưu, Lê Xá Đông và Xuân Ổ, trong các cồn cát nhấp nhô với cỏ mọc thành búi gần biển Đông. Ngăn cách bởi những thung lũng đầm lầy nước mặn, các độn cát này thật lư tưởng để làm mộ địa. Trên 800 thi thể đă được phát hiện ở đây.



    Trong cuộc phát hiện ở Độn Cát, kiểu chung là trói các nạn nhân thành từng nhóm 10 hoặc 20 người, xếp hàng họ trước một con mương được dân công lao dịch địa phương đào rồi hạ sát họ bằng súng máy (một trong những kỷ vật trân quư của địa phương là một viên đạn súng máy đă bắn của Nga lấy được từ một ngôi mộ). Thường th́ người chết bị chôn thành ba bốn lớp, khiến cho việc nhận diện hết sức khó khăn.

    Tại quận Nam Ḥa là phát hiện thứ ba, hay c̣n gọi là phát hiện Khe Đá Mài, cũng được gọi là Phủ Cam tử bộ (dead march), diễn ra ngày 19-9-1969. Ba hồi chánh viên VC đă kể cho các sĩ quan t́nh báo của Lữ đoàn 101 Không vận HK rằng họ đă chứng kiến cuộc thảm sát vài trăm người tại Khe Đá Mài, cách phía nam Huế khoảng 10 dặm, vào tháng 02-1968. Vùng này rất hoang vu, không người ở và gần như bất khả xâm nhập. Lữ đoàn đă phái đi một nhóm thám sát, họ báo cáo rằng khe suối chứa rất nhiều xương người. Bằng việc ghép lại các mảnh thông tin, người ta xác định được những ǵ đă xảy ra tại Khe Đá Mài như sau: Vào ngày mồng 5 Tết tại Phủ Cam, nơi sinh sống của khoảng ba phần tư trong số 40.000 người Công giáo thành phố, một số lớn cư dân đă t́m nơi lẩn trốn trận đánh tại ngôi nhà thờ địa phương, một phương pháp lánh nạn chiến tranh thông thường tại Việt Nam. Nhiều người trong đó thật ra không phải là Công giáo.

    Một chính ủy Cộng sản đă đến nhà thờ và ra lệnh cho khoảng 400 người, một số th́ đích danh, một số xem ra v́ ngoại diện của họ (trông giàu có hoặc nh́n như thương gia đứng tuổi, ví dụ vậy). Y nói họ sẽ đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày để học tập cải tạo, sau đó ai nấy có thể về nhà.

    Họ đă đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi Cộng sản thiết lập bộ chỉ huy. Tại đó 20 người bị kêu ra khỏi nhóm, tập hợp trước một ṭa án quân sự dă chiến, bị xét xử, bị tuyên tội, bị hành quyết và chôn trong sân chùa. Số c̣n lại bị dẫn qua qua bên kia sông và được giao lại cho một đơn vị Cộng sản trong một sự trao đổi có giấy biên nhận đưa cho viên chính ủy. Có lẽ viên chính ủy định rằng tù nhân của y sẽ được cải tạo rồi trở về, nhưng với chuyện bàn giao, mọi chuyện thoát khỏi sự kiểm soát của y.

    Suốt nhiều ngày kế tiếp, chính xác bao nhiêu không ai biết, những người bị bắt và những kẻ bắt người lang thang vùng nông thôn. Và rồi đến một điểm nào đó, Cộng sản địa phương đă quyết định thủ tiêu các nhân chứng: Các tù nhân bị dẫn qua sáu cây số của một trong những vùng đất gồ ghề lởm chởm nhất miền Trung Việt Nam, đến khe Đá Mài. Tại đấy họ đă bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ và xác của họ bị để cho trôi đi theo gịng nước chảy. Nhóm binh lính lo nhiệm vụ chôn cất của lữ đoàn 101 Không vận thấy rằng không thể vào tới khe bằng đường bộ, v́ đường không có hoặc không thể đi qua. Tán lá nơi khe là cái mà tại Việt Nam gọi là nhị tầng, nghĩa là hai lớp, lớp một gồm những bụi rậm và cây thấp sát đất, lớp hai gồm những cây lớn với cành lá xoè rộng trên cao. Bên dưới là ánh sánh thường xuyên lờ mờ. Công binh lữ đoàn đă bỏ hai ngày để mở một lỗ xuyên qua hai tầng lá bằng cách cho nổ các quả ḿn lúc lắc cuối những sợi dây dài dưới các trực thăng lượn lờ của họ. Việc này đă tạo ra một mặt phẳng cho các trực thăng chở quan tài hạ xuống. Rơ ràng đây là nơi mà xác chết dễ dàng bị che giấu không cần phải chôn cất.

    Ḷng khe Đá Mài, dài khoảng một trăm thước Anh tính ngược lên hẻm núi, để lộ nhiều sọ, nhiều bộ xương và nhiều mảnh xương người. Xác chết đă bị để trên đất (đối với những người thờ vật linh giữa họ, điều ấy có nghĩa là hồn họ sẽ lang thang trên trái đất hiu quạnh măi măi, v́ đó là số phận của kẻ chết không được chôn táng) và 20 tháng trong ḍng suối chảy đă rửa sạch trắng những bộ xương.

    Nhà chức trách địa phương sau đó đă phổ biến một danh sách gồm 428 người mà họ nói đă được nhận diện từ những ǵ c̣n lại ở ḷng khe. Lư do căn bản Cộng sản đưa ra về cách hành xử thái quá của họ chính là tiêu diệt các “phần tử phản cách mạng”. Danh sách 428 nạn nhân được phân ra như sau: 25 phần trăm là quân nhân: hai sĩ quan, c̣n lại là hạ sĩ quan và binh sĩ; 25 phần trăm là học sinh sinh viên; 50 phần trăm là công chức dân sự, viên chức làng xă, nhân viên phục vụ đủ loại và công nhân b́nh thường.

    Nhóm phát hiện thứ tư hay Phát hiện Ruộng muối Phú Thứ là vào tháng 11-1969, gần làng đánh cá Lương Viện, khoảng mười dặm về phía Đông của Huế, một nơi hoang vu khác. Quân đội chính quyền từ đầu tháng đă bắt đầu một nỗ lực tập trung nhằm dọn sạch khu vực tàn quân của tổ chức Cộng sản địa phương. Dân làng Lương Viện, khoảng 700 người, từng giữ im lặng trước sự hiện diện của quân đội suốt 20 tháng trời, sau đấy xem ra cảm thấy đủ an toàn khỏi bị CS trả thù nên đă phá vỡ im lặng và dẫn các sĩ quan đến chỗ phát hiện mộ. Dựa trên các mô tả của những dân làng mà trí nhớ không phải luôn luôn rơ ràng, các viên chức địa phương đă ước lượng số thi thể tại Phú Thứ ít nhất phải 300 và có thể tới 1000.

    Câu chuyện không hoàn tất. Nếu sự ước lượng của nhà chức trách Huế gần đúng, th́ khoảng 2,000 người vẫn c̣n mất tích.
    Lư do căn bản của Cộng sản

    Việc giết người tại Huế cho thấy cuộc thảm sát ở đây đă vượt xa mọi việc tàn ác của CS trước đó tại Nam Việt về số lượng. Điểm khác biệt không chỉ ở mức độ mà c̣n ở thể loại. Đặc tính của sự khủng bố nhận thấy từ việc nghiên cứu Huế hoàn toàn khác với những hành vi khủng bố của CS ở chỗ khác, dù thường xuyên hoặc tàn bạo. Cuộc khủng bố tại Huế không phải là một hành vi nâng cao tinh thần (Cộng quân) v́ đă thọc sâu và nhanh vào hang ổ đối phương để chứng minh chỗ yếu nhược của kẻ thù, sự toàn năng của du kích, tính khác biệt với việc bắn gục thường dân trong những vùng do du kích kiểm soát. Đó cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để quảng cáo chính nghĩa, để gây bối rối và cách ly cá nhân về tâm lư, v́ phần lớn các cuộc chém giết đều thực hiện trong bí mật. Đó cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để triệt tiêu các lực lượng đối nghịch, dù có giết vượt quá sổ đen. Huế đă chẳng theo mô h́nh khủng bố nhằm khiêu khích phản ứng thái quá của chính phủ Nam Việt v́ nó đă chỉ dẫn đến cái gọi là sự trợ giúp của chính phủ thôi. Có nhiều yếu tố khách quan, chân thực, nhưng không yếu tố nào giải thích được kiểu cách giết người rộng khắp và đa dạng mà Cộng sản đă thực hiện.

    Điều được đưa ra đây là giả thuyết cho rằng có lôgic và hệ thống đằng sau những ǵ xem ra là một cuộc tàn sát ngẫu nhiên và đơn giản. Trước khi đề cập đến nó, chúng ta hăy xem xét ba sự kiện vốn thường xuyên xuất hiện với một du khách đến Huế để khám phá chính xác cái đă xảy ra tại đó và quan trọng hơn nữa, chính xác tại sao nó đă xảy ra. Cả ba sự kiện này lởn vởn trước ư thức thông thường và ở một mức độ nào đó, mâu thuẫn với những ǵ đă được viết ra. Ngay cả khi ḍ hỏi đủ mọi nguồn -tỉnh trưởng, cảnh sát trưởng, cố vấn Hoa Kỳ, nhân chứng tận mắt, tù nhân bắt được, cán binh hồi chánh hay một số ít người thoát chết cách kỳ lạ- ba sự hiện ấy vẫn nổi lên đi nổi lên lại.

    Sự kiện thứ nhất, mà có lẽ quan trọng nhất, là bất chấp những dáng vẻ bên ngoài, không cuộc giết người nào của CS là do thịnh nộ, thất vọng hay hoảng loạn khi Cộng sản cuối cùng phải rút lui. Những lối giải thích như thế thường được nghe, nhưng nếu xem xét cẩn thận th́ không đứng vững. Ngược lại th́ có, v́ truy nguyên bất cứ vụ giết người đơn lẻ nào, sẽ khám phá ra rằng hầu hết đều là kết quả của một quyết định có suy nghĩ và biện minh được trong tâm trí Cộng sản. Quả thế, phần lớn những cuộc hành quyết đều từ tính toán, mệnh lệnh của Cộng sản.

    Sự kiện thứ hai : trong chừng mực xác định được, gần như như tất cả các vụ hành quyết đều do cán bộ CS địa phương chứ không phải do quân đội Bắc Việt hoặc quân lực Cộng ḥa hoặc những tay CS bên ngoài nào khác. Khoảng 12,000 binh lính VNCH đă tham gia trận đánh Huế và đă giết một số thường dân trong tiến tŕnh chiến đấu nhưng đó chỉ là ngẫu nhiên trong nỗ lực quân sự của họ. Đa phần trong số 150 cán bộ dân sự CS hoạt động nội thành đều là người địa phương, nghĩa là từ khu vực tỉnh Thừa Thiên cả. Chính họ đă ra những lệnh tử h́nh. Mà cho dù họ đă hành động theo các chỉ thị từ bộ chỉ huy cao hơn (theo hệ thống tổ chức CS, ai nấy phải đảm nhận những ǵ ḿnh đă làm) th́ những chỉ thị đó như thế nào, cho đến nay chẳng ai biết rơ được.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •