Page 2 of 9 FirstFirst 123456 ... LastLast
Results 11 to 20 of 90

Thread: TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Sự kiện Tết Mậu Thân 1968

    Sự kiện Tết Mậu Thân 1968

    Sự kiện Tết Mậu Thân là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 của Quân Giải phóng miền Nam trên hầu hết lănh thổ của Việt Nam Cộng Ḥa. Đây là một sự kiện gây chấn động lớn trên thế giới và là chủ đề gây nhiều bàn căi nhất; nó c̣n có một vai tṛ và hệ quả rất to lớn trong Chiến tranh Việt Nam.

    Ba năm sau khi tham chiến trực tiếp, quân đội Mỹ đă ngăn chặn Việt Nam Cộng ḥa sụp đổ trong tay những người Cộng sản, nhưng quân Mỹ không thể b́nh định được miền Nam. Nắm được điểm yếu của phía Mỹ là quân đội của họ đă bị sa lầy không cho phép rút quân về nước, đồng thời dư luận của cả nhân dân và chính giới tại Mỹ ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn và phong trào phản chiến ngày càng lên mạnh khi quân đội tham chiến quá lâu tại nước ngoài, phía quân Giải phóng hoạch định một trận đánh gây tiếng vang lớn "Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị" (Lê Duẩn) để tạo đột phá cho chiến tranh, nhằm buộc Hoa Kỳ xuống thang chiến tranh đi vào đàm phán.



    Hoàn cảnh ra đời

    Năm 1965, với việc đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt bằng không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mỹ đă đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên quy mô và cường độ chưa từng có. Với chiến lược Chiến tranh cục bộ, sử dụng hai gọng ḱm “t́m - diệt” và "b́nh định nông thôn", Mỹ tuyên bố sẽ tiêu diệt quân Giải phóng miền Nam trong ṿng 18 tháng.

    Hầu hết các loại vũ khí trang bị cho quân Mỹ dùng trong chiến tranh đều là những loại mới, như súng trường M-16, đại bác M107 175mm, xe tăng M-48 đến máy bay trinh sát điện tử, máy bay F-111, B-52; từ quả ḿn mỏng “cây nhiệt đới”, máy ḍ điện tử đến máy phát nhiễu cực mạnh, bom vô tuyến, bom điều khiển bằng lade, bom napan và chất độc hoá học, v.v… Tướng William Westmoreland “tin tưởng rằng nước Mỹ chưa hề cho ra trận một lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến hơn lực lượng ở Việt Nam trong những năm 1966-1969”.

    Nhưng với hàng ngàn cuộc hành quân lớn nhỏ trên khắp chiến trường miền Nam, mà đỉnh cao là hai cuộc phản công chiến lược quy mô lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân Mỹ vẫn không đạt mục tiêu đáng kể nào. Không thể tiêu diệt bộ chỉ huy cũng như các đơn vị lớn nào của quân Giải phóng, mục tiêu b́nh định sau 18 tháng cuối cùng vẫn dậm chân tại chỗ.

    Cũng từ những thất bại về quân sự trên chiến trường, sự nghi ngờ về kết quả các cuộc ném bom miền Bắc và tăng quân Mỹ vào miền Nam trong nhân dân và Quốc hội Mỹ cũng tăng lên. Nhiều nghị sĩ ở Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Mỹ đă nhận thấy “tương lai không thể lường được của một cuộc chiến tranh hiện đang có tác động làm ră rời ư chí nhân dân Mỹ” [12]

    Nước Mỹ ngày càng sa lầy vào cuộc chiến tranh không có đường ra, chưa biết bao giờ kết thúc. Chính phủ Mỹ không con cách nào ngoài việc tiếp tục tăng quân, tăng chi phí quân sự. Đến cuối 1967, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên tới 480.000 quân và 68.800 quân của các nước phụ thuộc Mỹ. Nếu kể cả khoảng hơn 20 vạn quân đóng ở các căn cứ quân sự trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Philíppin, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6, đă có tới 80 vạn quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, quân đội VNCH có 552.000 quân, đến cuối năm 1968 cũng đă tăng lên 555.000 quân.

    Nếu chi phí cho cuộc chiến tranh Việt Nam 1965-1966 là 4,7 tỉ đôla, th́ năm 1967 đă tăng lên 30 tỉ, gấp 1,5 lần Mỹ đă chi cho cuộc chiến tranh Triều Tiên trong ba năm. Do chi phí lớn cho cuộc chiến tranh, nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, thâm hụt ngân sách 4 tỉ đôla, giá cả tăng vọt, lạm phát không kiểm soát được. Ngày 15-4-1967, tại Oasinhtơn, khoảng 40.000 người, có cả những cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam, tham gia biểu t́nh phản đối cuộc chiến tranh của Chính phủ Mỹ. Tháng 10-1967, nhiều cuộc biểu t́nh của nhân dân Mỹ chống chiến tranh lan rộng toàn nước Mỹ nhằm mục tiêu: đ̣i chăm lo t́nh cảnh cho người nghèo và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Chính phủ Mỹ phải lo đối phó với những khó khăn lớn về quân sự, chính trị và tài chính không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trong nước Mỹ.

    Tuy vậy, do tương quan lực lượng quá chênh lệch (quân Giải phóng chỉ có hơn 280.000 quân và không có xe tăng, trọng pháo), quân Giải phóng chỉ có thể đánh tiêu diệt, tiêu hao sinh lực Mỹ ở quy mô nhỏ. Thương vong trong 2 năm 1966-67 tăng cao, khả năng tiếp tế đạn dược cũng dần hạn chế. Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam cuối năm 1967 cũng ra thông báo: "Cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta sẽ c̣n phải diễn ra rất lâu dài và gian khổ"

    Xác định rằng không thể giành thắng lợi quyết định bằng những cách đánh thông thường, Bộ chính trị cho rằng phải t́m cách đánh khác để đập tan ư chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn.
    Kế hoạch của VNDCCH

    Tháng 6-1967, Bộ Chính trị chủ trương: "Nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ta cần chuẩn bị đánh một đ̣n quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua."

    Tháng 7 và tháng 8-1967, Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 và chỉ thị của Quân ủy Trung ương.

    Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng gợi ư cho “Tổ kế hoạch” do Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế hoạch và cách đánh khác cách đánh “truyền thống” mà lâu nay quân Giải phóng vẫn làm, th́ mới có thể giành thắng lợi quyết định. Trong khi “Tổ kế hoạch” c̣n đang suy nghĩ t́m cách đánh mới, th́ TBT Lê Duẩn khi trao đổi với Quân uỷ Trung ương về kế hoạch chiến lược năm 1968 đă đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt địch trong các thành phố, thị xă. Ư kiến của Lê Duẩn được Quân uỷ Trung ương và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng tán thành và trở thành ư định quyết tâm chiến lược năm 1968: chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn vào đô thị - nhất là Sài G̣n, Huế, Đà Nẵng. Tổng bí thư Lê Duẩn nói: “Mỹ không c̣n con đường nào khác là phát huy sức mạnh quân sự. Đối phó với âm mưu này của Mỹ, ta phải đưa hoạt động quân sự lên một bước mới, đến mức Mỹ không chịu nổi và phải chấp nhận thất bại về quân sự, cô lập về chính trị. Nếu ta thực hiện được, Mỹ sẽ phải rút khỏi miền Nam"[13]

    Trong khoảng thời gian này, sức khỏe của chủ tịch Hồ Chí Minh bị sa sút, nên phải gác lại công việc và đi Trung Quốc chữa bệnh. Tuy nhiên với bề dày kinh nghiệm uy thế to lớn trong Đảng Lao động và nhân dân, mọi quyết sách lớn vẫn phải được phê duyệt bởi chủ tịch. Do vậy Hồ Chủ tịch đă có một chuyến về nước ngắn để nghe Quân ủy Trung ương tŕnh bày kế hoạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đă lưu ư những điểm sau: 1. Dự thảo báo cáo tốt, toàn diện, nhưng cần xem báo cáo của Quân ủy có chủ quan không? 2. Tranh thủ giành thắng lợi sớm, nhưng phải chú ư đánh lâu dài. 3. Thuận lợi có nhiều nhưng phải thấy những khó khăn như mặt hậu cần bảo đảm. 4. Nói giành thắng lợi quân sự, nhưng phải chú ư đến việc giữ sức dân. 5. Phải chú ư mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường trang bị cho du kích. 6. Phải làm sao ta càng đánh càng mạnh, đánh liên tục, đánh được lâu dài (nghĩa là có khả năng thực hiện một cuộc chiến tranh lâu dài)[14]

    Tháng 10-1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp Bàn về kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 – 1968. Tham gia hội nghị này có Uỷ viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Lê Đức Thọ. Tuy nhiên cả 3 nhân vật quan trọng nhất là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn và Vơ Nguyên Giáp đều vắng mặt do phải đi chữa bệnh ở nước ngoài.

    Bộ Chính trị đề ra ba mức trường hợp:

    - Một là, giành thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, ư chí xâm lược của Mỹ bị đè bẹp, phải chấp nhận thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của VNDCCH.

    - Hai là, giành được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng Mỹ vẫn c̣n lực lượng, dựa vào các căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn - nhất là Sài G̣n để tiếp tục chiến tranh.

    - Ba là, Mỹ tăng cường lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia, buộc quân Giải phóng phải lui về thế thủ, ḥng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua về chính trị.

    Về sách lược: Bộ Chính trị đề ra tập trung mũi nhọn đấu tranh nhằm phân hoá, chia rẽ và cô lập Mỹ và chế độ Sài G̣n của Thiệu-Kỳ. Tiếp tục phổ biến thực hiện cương lĩnh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Lập mặt trận thứ hai (chuẩn bị người cụ thể trước), tiến tới lập chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, binh lính Sài G̣n đoàn kết với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trung lập Mỹ, đánh đổ Thiệu - Kỳ, thương lượng với miền Bắc. Lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần lấy Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm ṇng cốt. Các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị: cần tính đến các “yếu tố chính trị” – cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng ḥa vào tháng Chín năm 1967 và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng Mười một năm 1968.

    Về ngoại giao: nhằm phục vụ cho công kích và khởi nghĩa, Bộ Chính trị nêu rơ là phải tranh thủ cao độ sự ủng hộ của các nước xă hội chủ nghĩa. Trong t́nh h́nh Liên Xô - Trung Quốc đang có chia rẽ sâu sắc, Bộ Chính trị chủ trương giữ quan hệ tốt với cả 2 nước, tránh việc quá nghiêng về 1 bên sẽ làm xấu quan hệ với nước c̣n lại.



    Qua thực tế chiến trường, những ư đồ chiến lược đă dần dần h́nh thành, từng bước trở thành những quyết sách: Tổng tiến công và nổi dậy, đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố và thị xă. Từ Kế hoạch chiến lược năm 1968 do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị, hai cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10 và tháng 12-1967 đă ra nghị quyết và trở thành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định.[15]

    Sau khi thảo luận kỹ khả năng đánh thành phố của lực lượng vũ trang và khả năng nổi dậy của quần chúng, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo đă được Quân uỷ Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài G̣n - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh. Cụ thể là: cùng với đ̣n tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đ̣n tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xă quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài G̣n - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài G̣n, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn. Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, trước Tết Mậu Thân 10 ngày, ta sẽ nổ súng tiến công vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh để buộc địch phải chú ư tập trung điều lực lượng chủ lực ra phía bắc đối phó với ta, tạo điều kiện cho ta giữ bí mật hướng trọng điểm và tiếp tục chuẩn bị.

    Lịch sử các cuộc chiến tranh trên thế giới cũng như ở Việt Nam, theo nghệ thuật “truyền thống” th́ giai đoạn kết thúc chiến tranh, thông thường một trong các bên tham chiến thực hiện đ̣n đánh tiêu diệt chiến dịch lớn hoặc đánh tiêu diệt chiến lược lực lượng quân sự, chính trị đối phương, buộc chúng phải chịu thua. Tuy nhiên so sánh tương quan quân Giải phóng và quân Mỹ về quân số, vũ khí trang bị, sức cơ động và tính hiện đại đều thua kém nhiều lần, nên việc đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược đối với quân viễn chinh Mỹ là điều gần như không thể thực hiện được. Do đó Bộ chính trị chủ trương: "Phải t́m cách đánh mới khác cách đánh truyền thống là đánh bại ư chí xâm lược của Mỹ bằng phương pháp tổng tiến công đồng loạt đánh vào các trung tâm đầu năo chính trị, quân sự ở các thành phố, thị xă. Tiến công vào các thành phố, thị xă sẽ tạo ra bất ngờ lớn đối với địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, làm rung chuyển nước Mỹ. Qua đó, ta chứng minh cho Mỹ thấy chúng không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, chúng đang đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, do đó phải t́m giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam."
    Diễn biến
    Sự chuẩn bị của quân Giải phóng

    Trong hai năm 1967, 1968, các chiến sĩ vận tải, thanh niên xung phong, hải quân ở miền Bắc đă vượt Trường Sơn và biển cả chi viện cho chiến trường miền Nam 118.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và 42.619.081 đôla, cộng với 122.885 tấn vật chất do Trung Quốc chi viện quá cảnh qua cảng Xihanúcvin (trong ba năm 1966, 1967, 1968).

    Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ)[16]

    Phát huy thế trận hậu cần nhân dân, quân Giải phóng đă huy động được lực lượng lớn nhân dân trên địa bàn các tỉnh miền Đông tham gia phục vụ cho tổng tiến công và nổi dậy. Nhiệm vụ của lực lượng này là vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô cất giấu trước và cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra, và xây dựng “hũ gạo nuôi quân”. Lực lượng quần chúng kết hợp với các đơn vị vận tải đă chuyển được hàng trăm tấn hàng từ vùng Mỏ Vẹt xuống vùng tây nam Sài G̣n. Quân Giải phóng đă huy động hàng trăm xe ḅ chở hàng từ Mỏ Vẹt xuống Hóc Môn, G̣ Vấp. Huyện Đức Hoà có phong trào xây dựng “hũ gạo nuôi quân”. Trước Tết, mỗi gia đ́nh để sẵn năm lon gạo đón chủ lực, sau đó, cứ mỗi tuần lại quyên góp một lần (do Hội phụ nữ phát động).

    Các huyện đều thành lập đội cung cấp chuyên lo việc huy động lương thực, thực phẩm trong nhân dân phục vụ tổng tiến công và nổi dậy. Mỗi xă có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Các nhà đều đào sẵn hầm để nuôi giấu thương binh hoặc chôn giấu vũ khí. Ở Trảng Bàng, gia đ́nh bà Nguyên (Má Bảy) đào hầm chôn tới 45 tấn vũ khí tại một vị trí chỉ cách đồn của Mỹ 1 km.

    Đến đầu 1968, trước khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, quân Giải phóng đă xây dựng được 19 lơm chính trị với 325 gia đ́nh, phần lớn ở gần các mục tiêu sẽ đánh chiếm. Mỗi lơm có nhiều cơ sở để cất giấu vũ khí, ém quân.

    Do trong tháng 1 năm 1968 ngày dương lịch sát ngày âm lịch: ngày 29 (tháng 1) dương lịch là ngày 30 (tháng chạp) âm lịch và có sự lệch nhau một ngày của Tết hai miền nên có sự hiểu không nhất quán trong các cấp chỉ huy chiến trường của quân Giải phóng về thời điểm tiến công (ngày N): là ngày theo âm lịch hay theo dương lịch, là theo lịch miền Bắc hay lịch miền Nam. Sự thiếu nhất quán này đă làm cuộc tiến công ở các địa bàn Quân khu 5 Quân Giải phóng đă nổ ra sớm hơn một ngày so với các địa phương khác trên toàn miền Nam. Tuy vậy tính bất ngờ của Mậu Thân vẫn được bảo đảm.

    Mặc dù phía Mỹ cũng đă đưa ra một số dự đoán về cuộc tấn công này có thể diễn ra trước tết hoặc sau tết, và sẽ diễn ra ở phía bắc miền Nam Việt Nam (khu vực Quảng Trị). Nhưng trên thực tế nó nổ ra ngay đúng trong dịp tết, và diễn ra đồng loạt ở khắp miền Nam. V́ vậy phía Mỹ lẫn Việt Nam Cộng ḥa đều bị bất ngờ cả về thời gian lẫn quy mô của cuộc tiến công này. Đây là một thất bại lớn về mặt t́nh báo mà sẽ khiến chính phủ Mỹ nếm trái đắng trước dư luận trong trận đánh được coi là "bước ngoặt của cuộc chiến".

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Sự kiện Tết Mậu Thân 1968

    Sự kiện Tết Mậu Thân 1968

    Chiến sự Đợt 1



    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra vào đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968 (Ngày mồng một Tết Mậu Thân). Từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau các lực lượng vũ trang quân Giải phóng bất ngờ tiến công rộng khắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xă, hàng trăm quân lỵ, chiếm một số nơi, phát động quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy cơ sở của chế độ Sài G̣n ở nhiều vùng nông thôn. Hiệu lệnh mở màn là bài thơ chúc Tết của Hồ Chủ tịch:

    Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua,

    Thắng trận tin vui khắp nước nhà.

    Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,

    Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.

    Đêm 30-1-1968 (đêm 29 rạng ngày 30 tết): Các lực lượng vũ trang ở khu 5 và Tây Nguyên tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào các tỉnh lỵ, thị trấn căn cứ Mỹ - VNCH; Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 VNCH ở Đà Nẵng, Hội An, sân bay đà Nẵng, sân bay Non Nước, Nha Trang, Đắc Lắc, Plây cu, Quy Nhơn (B́nh Định).

    31-1-1968 (Đêm 30 rạng mồng 1 Tết): Tiến công bằng bộ binh, đặc công, pháo kích vào các tỉnh, thành phố Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngăi, B́nh Thuận, Sài G̣n, Chợ Lớn, Gia Định, Phong Định, Vĩnh Long, Cần Thơ.

    1-2-1968 (Đêm 1 rạng ngày 2 Tết): Các lực lượng vũ trang tiếp tục đánh vào các tỉnh lỵ khác: Kiến Hoà, Định Tường, G̣ Công, Kiên Giang, Vĩnh B́nh, B́nh Dương, Tuy Hoà, Biên Hoà, Tuyên Đức, Châu Đốc, An Xuyên.

    Để tăng tính bất ngờ, thời điểm cuộc tấn công diễn ra đúng vào giao thừa, thời điểm mà quân Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa lơi lỏng pḥng bị, nhiều lính đang nghỉ về quê ăn Tết.
    Tại Sài G̣n

    Ngay đêm tiến công đầu tiên tại Sài G̣n các đội biệt động cảm tử của Giải phóng quân đă nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, đài phát thanh, bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đă gây bất ngờ lớn cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa. Cuộc tiến công cho thấy sự bất lực của hệ thống t́nh báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng ḥa đă không tiên liệu được khả năng, tính chất cũng như thời điểm, quy mô của sự kiện mặc dù có sự khập khiễng về ngày giờ tiến công của quân Giải phóng ở các địa phương.

    Tại khu vực Bộ Tổng tham mưu QLVNCH và sân bay Tân Sơn Nhất, cụm biệt động 2 (gồm các đội 6, 7, 9) do Đỗ Tấn Phong chỉ huy đánh vào cổng 5 Bộ Tổng tham mưu và cổng Phi Long (sân bay Tân Sơn Nhất). Sau ít phút tiến công, đội chiếm được cả hai cổng. Song do lực lượng ít, Tiểu đoàn 267 (phân khu 2) và Trung đoàn 16 (Phân khu 1) bị lạc không đến kịp như dự kiến, quân Mỹ-VNCH phản kích quyết liệt, cụm biệt động không lọt được vào bên trong. Sau gần một ngày, dựa vào các toà nhà dọc phố Trương Quốc Dung, cụm biệt động đánh trả quân Mỹ quyết liệt, loại khỏi ṿng chiến đấu nhiều lính Mỹ và VNCH, bắn cháy hai xe bọc thép. Đến 14 giờ ngày 30-1-1968, bị tổn thất và hết đạn, những người c̣n lại của cụm biệt động buộc phải rút lui.



    Tại Đài phát thanh Sài G̣n, Đội biệt động số 4 (cụm 1) do Nguyễn Văn Tăng chỉ huy, sau ba phút chiến đấu đă chiếm được đài, loại khỏi ṿng chiến đấu một trung đội cảnh sát dă chiến bảo vệ. Nhưng nhân viên kỹ thuật và bộ phận chính trị phụ trách phát thanh đă bị ngăn chặn ở Phú Thọ Hoà không đến kịp nên ư đồ sử dụng Đài phát thanh làm công cụ tuyên truyền, gây tiếng vang dư luận không thực hiện được. Nhận rơ vị trí quan trọng của Đài phát thanh, ngay sau khi đài bị mất, quân Mỹ đă dùng cả trực thăng vũ trang, xe tăng yểm trợ nhanh chóng tổ chức lực lượng phản kích. Chỉ 15 phút sau khi biệt động nổ súng, quân Mỹ đă bao vây toàn khu vực. Tiểu đoàn 3 Dĩ An (Phân khu 5) không đến chi viện kịp như đă hiệp đồng. Sau ba ngày chiến đấu quyết liệt, những chiến sĩ biệt động c̣n sống sót quyết định cảm tử, dùng bộc phá phá hỏng một góc Đài phát thanh. Lực lượng biệt động thương vong gần hết (chỉ c̣n hai nữ phục vụ viên).
    Quang cảnh bên ngoài Đại sứ quán Hoa Kỳ khi đang bị biệt động Mặt trận Dân tộc Giải phóng Việt Nam đột kích.

    Ở Toà đại sứ Mỹ, lúc 2 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, 17 chiến sĩ Đội biệt động số 11 do Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy dùng xe du lịch có hoả lực B-40 yểm trợ đột nhập thẳng cổng Toà đại sứ. Sau khi diệt 4 quân cảnh Mỹ gác ở cổng, biệt động dùng thuốc nổ phá huỷ tường tiến đánh vào bên trong, chiếm gần hết tầng 1 phát triển lên tầng 2 và 3 Toà đại sứ. Một nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải bắt sống Đại sứ Bunker, nhưng các nhân viên an ninh sứ quán Mỹ đă lén đưa được Bunker rời khỏi biệt thự bằng một chiếc xe bọc thép sang ẩn nấp trong một hầm bí mật ở một địa điểm khác.

    Chỉ 20 phút sau khi Đại sứ quán bị đánh, một toán quân cảnh Mỹ đến cứu viện, nhưng bị biệt động bắn chặn nên không vào được cổng chính. 7 giờ sáng ngày 30-1-1968, một trung đội quân cảnh Mỹ lọt được vào cổng chính. Cuộc chiến đấu trong sứ quán diễn ra quyết liệt.

    9 giờ sáng ngày 30-1-1968, quân Mỹ đổ được một bộ phận lực lượng Sư đoàn dù 101 xuống sân thượng Toà đại sứ. Lực lượng tăng viện của quân Giải phóng không đến được như kế hoạch hiệp đồng. Các biệt động quân Đội 11 dũng cảm chiến đấu đến người cuối cùng. Trận đánh Toà đại sứ Mỹ kết thúc, trong 17 người của đội biệt động có 16 người thiệt mạng, chỉ c̣n đội trưởng Ngô Thành Vân bị thương ngất đi và bị bắt. Quân Mỹ cũng thiệt hại nặng: 5 lính chết tại chỗ, 17 chết sau khi đến bệnh viện và 124 bị thương.



    Việc quân Giải phóng đánh chiếm và trụ lại trong Toà đại sứ Mỹ tới hơn sáu giờ đồng hồ đă gây một tiếng vang lớn, làm chấn động nước Mỹ. Tất cả các cấp chỉ huy quân sự, ngoại giao ở Sài G̣n và cả nước Mỹ bàng hoàng, sửng sốt. 9 giờ 30 phút sáng ngày 30-1-1968, Westmoreland có mặt ở Đại sứ quán chứng kiến “khu sứ quán thật là hỗn độn, xác người Mỹ và người Việt Nam vẫn nằm ngổn ngang. Nhưng không giống như hầu hết các chiến trường, các nhà báo, các nhà quay phim vô tuyến truyền h́nh Mỹ h́nh như có mặt khắp mọi nơi. Nét mặt họ ánh lên nỗi buồn bực và tâm trạng không tin tưởng như thể sự tận cùng của thế giới đă đến nơi rồi”[17]. Westmoreland báo cáo với Johnson rằng, Mỹ đă làm chủ t́nh h́nh, nhưng tổng thống Mỹ đă nói chua chát: “Việt cộng đă đi dạo mát trong sứ quán của ta rồi”.

    Tại Bộ Tư lệnh Hải quân, 16 chiến sĩ Đội biệt động số 3 (Cụm 1) do Trần Văn Lém (Bảy Lốp) chỉ huy dùng hai xe du lịch đưa lực lượng đến trước mục tiêu lúc 2 giờ 50 phút ngày 30-1-1968. Sau khi diệt hai lính gác ở đầu cầu Cửu Long, biệt động đánh bộc phá mở cửa và đột nhập vào bên trong, nhưng bị hoả lực ngăn chặn mạnh, không phát triển được. Các chiến sĩ biệt động chiến đấu cho đến khi hy sinh gần hết, chỉ c̣n hai người về được căn cứ và Phân khu 4.

    Như vậy ở nội thành Sài G̣n, lực lượng biệt động thuộc Phân khu 6 trong ngày mùng 1 Tết Mậu Thân 1968 (theo lịch miền Nam - tức 30-1-1968) đă tiến công 6/9 mục tiêu chủ yếu. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm, song do chiến đấu đơn độc, các lực lượng tăng cường không đến kịp theo kế hoạch, nên chỉ chiếm được Đài phát thanh và Toà đại sứ, giữ trong thời gian ngắn, các mục tiêu khác không vào được bên trong. Đa số các đội biệt động tham gia tác chiến bị tổn thất nặng.

    Trong lúc đó, những trận tiến công của các sư đoàn chủ lực miền Đông và lực lượng vũ trang các huyện ngoại thành không tăng viện được cho nội thành Sài G̣n - Gia Định. Bộ đội chủ lực không tiến được vào nội đô; đặc công, biệt động và các đơn vị mũi nhọn tác chiến bên trong trở thành đơn độc, lực lượng bị tiêu hao đến 80%, một số đơn vị chiến đấu hy sinh đến người cuối cùng, cơ sở nội thành bộc lộ và tổn thất nặng, lương thực cất giấu bí mật đă hết. V́ thế, các đơn vị chiến đấu trong nội thành được lệnh rút ra vùng ven củng cố. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở trọng điểm Sài G̣n - Gia Định cao điểm 1 giảm dần và kết thúc.

    Đến ngày 17-2, th́ tại Sài G̣n - Gia Định, cao điểm 2 của cuộc tổng tiến công bắt đầu. Chủ trương của quân Giải phóng trong cao điểm 2 là: dùng pháo kích là chính, kết hợp với tiến công một vài mục tiêu nhằm tiêu diệt và làm tan ră một bộ phận quan trọng quân Sài G̣n, làm cho địch mất sức phản kích và khả năng pḥng giữ, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ. Thực hiện chủ trương này, đêm 17-2-1968, trung đoàn 96 và 208 ĐKB pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, Nha cảnh sát đô thành, căn cứ Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ ở Phú Lợi. Kết quả theo b́nh luận của Hăng tin Anh BBC sáng 18-2, ở căn cứ Phú Lợi, “có ít nhất 400 người thương vong, nhiều kho tàng, máy bay bị phá huỷ”. Đài này c̣n b́nh luận: “Đây là trận đánh khá trúng đích của Việt cộng”. Với sân bay Tân Sơn Nhất “hoả tiễn rơi đúng pḥng chờ đợi đang chật ních khách. Trong số 88 quân nhân Mỹ thuộc lực lượng tuần giang Cửu Long chờ máy bay về Mỹ, số đông bị chết, sáu máy bay bị phá huỷ”[18]

    Tại Huế

    Huế là một trong ba chiến trường chính và là một trong ba trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Đây là thành phố lớn thứ ba của miền Nam (sau Sài G̣n và Đà Nẵng). Lực lượng Mỹ và VNCH ở đây khá mạnh, toàn mặt trận Huế có khoảng 25.000 đến 30.000 quân (ṇng cốt là Sư đoàn 1 bộ binh).

    2 giờ 33 phút ngày 30-1-1968, pháo binh Quân giải phóng đồng loạt bắn phá các mục tiêu địch ở khu Tam giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Toàn, Đông Ba, mở đầu cho tổng tiến công vào Nội đô Huế. Sau loạt pháo mở màn, lực lượng ta trên hai hướng cùng lúc đánh vào 40 mục tiêu trong và ngoại thành Huế.

    Đại đội 1 (Tiểu đoàn 12 đặc công) và Đại đội 2 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh vào Mang Cá. Do không nắm chắc địa h́nh, các đơn vị phải dùng sức mạnh để đột phá vào cổng chính. Trận đánh ác liệt kéo dài, thương vong mỗi lúc một tăng. Đến 11 giờ trưa, toàn bộ lực lượng đặc công phải rút ra. Trận đánh vào Mang Cá chấm dứt.

    Trong lúc đánh Mang Cá th́ Đại đội 2 (Tiểu đoàn 12 đặc công) phối hợp với Đại đội 1 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh chiếm sân bay Tây Lộc. Được cơ sở bên trong hỗ trợ, một bộ phận đánh sân bay bí mật đột nhập qua cổng Thuỷ Quan, nhanh chóng theo sông Ngự Hà vào chiếm góc tây nam sân bay (gồm khu nhà lính bảo vệ và một phần khu vực để máy bay), phá hỏng 20 máy bay và một số xe quân sự.

    Tại khu Đại Nội, Cột Cờ, 2 giờ 40 phút ngày 30-1-1968, Đại đội 4 đột phá cửa Hữu, dùng một mũi thọc sâu nhanh chóng chiếm khu Cột Cờ lúc 4 giờ 30 phút. C̣n lại đại bộ phận của Đại đội 4 cùng Đại đội 3 theo đường Yết Kiêu, Lê Huân đánh vào khu Đại Nội. Đến 5 giờ sáng quân Giải phóng chiếm toàn bộ khu Đại Nội, diệt một đại đội thám báo và 130 cảnh sát. 8 giờ sáng, lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên trên cột cờ báo hiệu đă làm chủ trung tâm thành phố Huế. Đến ngày 1-2, phần lớn Huế với 90% dân chúng đă nằm trong tay lực lượng quân Giải phóng.



    Nh́n chung, trong những ngày đầu tổng tiến công và nổi dậy ở thành phố Huế, quân Giải phóng đánh chiếm được một số mục tiêu chủ yếu, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy giành được chính quyền ở nhiều nơi. Mặt trận Liên minh dân tộc, dân chủ và hoà b́nh thành phố ra đời, tiếp đó Uỷ ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên - Huế được thành lập. Đó là một thắng lợi chính trị to lớn. Hăng tin Pháp AFP ngày 7-2-1968 đă b́nh luận: “Sau một đêm đánh nhau, Việt cộng đă kiểm soát 90% dân chúng thành phố Huế. Ngay sáng hôm sau, bộ máy hoạt động và cổ động chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đă bắt tay vào làm việc. Rơ ràng họ có một tổ chức mạnh mẽ trong thành phố này v́ họ có thể huy động rất nhiều người ra làm việc cho họ”. C̣n Hăng tin Anh Roitơ (cũng ngày 7-2-l968) th́ viết: “Sau 5 ngày đánh nhau ác liệt giành giật từng ngôi nhà, quân Việt cộng vẫn chiếm hơn một nửa thành phố Huế và quân đồng minh tiến dần từng bước một cách vất vả. Các nhà quân sự ở đây cảm thấy rằng quân Việt cộng chứng tỏ là họ có thể vào và ra Huế bất cứ khi nào họ muốn. Cho đến nay không có dấu hiệu nào tỏ ra là họ có ư định rút lui”.

    Sau những thất bại ban đầu, từ ngày 8-2-1968, quân Mỹ bắt đầu phản kích dữ dội. Mỹ huy động cả lực lượng tổng dự bị từ Sài G̣n ra (Chiến đoàn A thuỷ quân lục chiến VNCH) và từ Vùng I chiến thuật tới. Ngày 11-2, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 5) thuỷ quân lục chiến Mỹ cũng được tăng cường cho khu Tam giác, đưa tổng số quân ở đây lên 16 tiểu đoàn, khoảng gần 15.000 quân cả Mỹ lẫn VNCH.

    Từ ngày 9-2 đến ngày 12-2, quân Giải phóng phải liên tục bị phản kích. Không c̣n khả năng tiến công, quân Giải phóng chuyển sang tổ chức pḥng ngự, ngăn chặn phản kích quyết liệt đồng loạt trên bốn cổng thành (cửa Chánh Tây, cửa Hữu, cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba) và từ quốc lộ 1 vào An Hoà.

    Ngày 16 và 17-2, quân Mỹ lại tổ chức phản kích dữ dội và chiếm được cả Đông Ba. Ngày 18-2, quân Mỹ chiếm cổng Thuỷ Quan, uy hiếp cửa Hữu, cửa An Hoà và cửa Thượng Tứ. T́nh h́nh xấu đi rơ rệt. Mỹ đă tăng cường cho khu Mang Cá và Đông Ba một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến để cùng lực lượng từ bên ngoài bao vây tiêu diệt quân Giải phóng đang giữ phần c̣n lại ở tả ngạn thành phố. Lực lượng quân Giải phóng bị đẩy lùi dần vào trong thành nội.

    Chính vào thời điểm này, Mỹ ồ ạt tăng quân lên 23 tiểu đoàn (11 tiểu đoàn trong thành phố, 12 tiểu đoàn ở ṿng ngoài) nhằm giải toả cho thành Huế. Sức ép của quân Mỹ ngày càng tăng. Trước t́nh h́nh đó, để bảo toàn lực lượng, tránh bị bao vây ngày 22-2-1968, Khu uỷ Trị - Thiên và chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng ra ngoài thành phố.

    Sau 25 ngày chiến đấu, quân Mỹ và Đồng minh có hơn 4.400 thương vong, quân Giải phóng cũng có hơn 4.000 thương vong. Tuy tổn thất lớn và phải rút lui, song với việc giữ được thành phố 25 ngày, quân Giải phóng tại Huế đă tạo thành công lớn nhất và giữ được thành phố lâu nhất so với các thành phố khác, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung về chính trị của tổng tiến công và nổi dậy trên toàn Miền.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Sự kiện Tết Mậu Thân 1968

    Sự kiện Tết Mậu Thân 1968



    Bên cạnh tác động chính trị là tác động tâm lư. Để tiêu diệt quân Giải phóng trong đô thị, quân Mỹ dùng pháo hạm và máy bay ném bom bắn phá suốt ngày đêm. Các loại vũ khí có sức sát thương hàng loạt như pháo không giật 107mm bắn đạn tạo mưa đinh, bom napalm, đạn pháo tăng, súng phun lửa... được sử dụng tối đa. Bên cạnh việc giúp tiêu diệt đối phương, những vũ khí này cũng gây tác hại rất lớn cho dân thường. Theo thống kê, sau 25 ngày chiến sự, 80% nhà cửa ở Huế đă bị bom đạn phá hủy, hàng ngàn thường dân cũng chết trong các cuộc giao tranh.[19]. Những h́nh ảnh tàn phá ghê gớm tại Huế được tŕnh chiếu đă góp phần lớn nhất thúc đẩy tâm lư phản chiến của dân chúng Mỹ.
    Đánh giá về đợt 1

    Quân Giải phóng đă đạt được những thành công sau:

    Giữ được bí mật bất ngờ về mục tiêu và thời điểm tiến công: 10 ngày trước, hai sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đă có hành động nghi binh bằng cách tấn công căn cứ của lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại Khe Sanh làm bộ chỉ huy Mỹ tập trung tâm trí và binh lực lên miền núi Quảng Trị để tránh một trận Điện Biên Phủ mới[20]. Việc lực lượng quân Giải phóng tiến công vào các đô thị không hề được lường trước làm cho Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa hoàn toàn bất ngờ khi một bộ phận sĩ quan và binh lính (kể cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu) đang về quê nghỉ Tết Nguyên đán.

    Gây cho đối phương bất ngờ về quy mô tiến công: cuộc tiến công làm sửng sốt mọi người khi mà đồng loạt tại tất cả các đô thị cùng diễn ra các trận đánh quyết liệt trong gần một tháng (chỉ riêng đợt 1) và điều bất ngờ này cho thấy 3 năm t́m-diệt của quân đội Hoa Kỳ chỉ đạt được hiệu quả thấp. Để khuếch đại tiếng vang đến mức tối đa, các lănh đạo của phía quân Giải phóng đă lựa chọn phương án mạo hiểm nhất là đánh thẳng vào hậu phương của địch, và đă tạo ra tiếng vang lớn.

    Chiếm được một số thị xă thành phố, gây thiệt hại đáng kể cho đối phương và qua đó tác động mạnh vào nhân tâm nước Mỹ: từng dăy phố bị ném bom napal và nă pháo, quân hai bên đánh nhau quyết liệt ngay trước máy quay, thậm chí từ binh bị hành quyết ngay trên phố (Xem Sự kiện Nguyễn Ngọc Loan)... Những điều này được truyền thông nhanh chóng, gây ấn tượng rất lớn lên tâm lư dư luận thế giới[21].

    Tại nông thôn, quân Giải phóng đă phá thêm 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xă mới với hơn một triệu dân.[22] Về mặt tác chiến trong số các đô thị, quân Giải phóng đă phá hủy được 1/3 vật tư chiến tranh, loại khỏi ṿng chiến hàng vạn quân Mỹ. Họ thành công nhất tại cố đô Huế (Xem Trận Mậu Thân tại Huế). Họ chiếm giữ thành phố lâu tới 25 ngày, buộc thủy quân lục chiến Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng ḥa phải đánh nhau ác liệt giành giật từng khu nhà đoạn phố.

    Quân Mỹ thương vong trong trận Mậu Thân

    Tuy nhiên qua đợt 1, bên cạnh những thành công, quân Giải phóng cũng phạm phải những sai lầm trong tác chiến:

    Trong việc lập kế hoạch cho cuộc tổng tiến công, quân Giải phóng đă có những đánh giá không đúng với thực tế t́nh h́nh và duy ư chí: họ hy vọng cùng với tiến công quân sự đánh vào các đô thị, họ có thể phát động dân chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa đánh sụp chính quyền Việt Nam Cộng ḥa và đặt Mỹ trước t́nh thế phải đi đến quyết định ra đi khỏi chiến tranh. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của quân Mỹ và Việt Nam Cộng hoà và đánh giá quá cao khả năng của họ, nên trong thực tế quân Giải phóng đă bị thương vong lớn mà không phát động được tổng khởi nghĩa của người dân ở thành thị (trừ ở một số nơi như Huế); chính quyền Việt Nam Cộng hoà ở các đô thị vẫn đứng vững.



    Một đặc điểm nữa của việc lập kế hoạch tiến công Mậu Thân 1968 là các cấp chỉ huy chiến đấu của quân Giải phóng đă không tách bạch đâu là mục tiêu chính trị thực chất của cuộc tiến công (đánh lớn gây tiếng vang hướng tới dư luận và chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán), đâu là mục tiêu được phổ biến rộng răi trong quân sĩ để cổ vũ khí thế chiến đấu (đánh dứt điểm đối phương).[cần dẫn nguồn]. Các cán bộ chiến trường khi lập kế hoạch tác chiến cũng tin tưởng vào quyết tâm đánh dứt điểm của cấp trên nên họ lập kế hoạch và tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối cùng, không lập sẵn kế hoạch pḥng thủ và rút lui, dẫn tới việc tác chiến bị lâm vào bị động đối phó.

    Điều tai hại nữa cho quân Giải phóng là họ đă không linh hoạt thay đổi tuỳ theo t́nh h́nh. Khi đợt tấn công đầu tiên kết thúc, họ đă phát động tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đă bị lộ và đối phương đă đề pḥng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của Giải phóng quân càng lớn.



    Đánh giá các sai lầm của quân Giải phóng trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân, báo Quân đội Nhân dân đă liệt kê các điểm như: đánh giá sai về tương quan lực lượng giữa hai bên dẫn đến việc đề ra mục tiêu tổng tấn công giành chính quyền một cách chủ quan, không kịp thời chuyển hướng hoạt động quân sự khi t́nh h́nh đă thay đổi.[23]

    Chiến sự Đợt 2

    Sau khi William Westmoreland bị cách chức, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc giao cho Abram làm Tư lệnh lực lượng đồng minh Mỹ ở Nam Việt Nam. Để thực hiện chiến lược “quét và giữ” có hiệu quả, giữa tháng 4-1968, Clípphớt, Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ chỉ thị cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam thực thi ba biện pháp cấp bách: một là, ra sức xây dựng tuyến pḥng thủ vững chắc ở trong và xung quanh các thành phố, các căn cứ, các tiểu khu, chi khu quân sự các điểm chốt trên các trục đường giao thông. Hai là, lập những vành đai đủ sức ngăn chặn các cuộc tiến công mới của quân Gải phóng. Đẩy chiến tranh ra xa các thành phố, thị xă quan trọng có ư nghĩa chiến lược. Ba là, mở các cuộc hành quân càn quét (kể cả các cuộc hành quân cảnh sát) để giải toả các thành thị, căn cứ, đường giao thông, ngăn chặn triệt để Quân giải phóng tiến công.

    Song song với đó, Tổng thống Mỹ Johnsơn, Đại sứ Bunker ra sức tuyên truyền cứu vớt h́nh ảnh chính trị trong dư luận Mỹ và thế giới đang lên án mạnh mẽ. Các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ và Sài G̣n ngày đêm phát đi những tuyên bố của những nhà lănh đạo Mỹ rằng: “Việt cộng và quân Bắc Việt Nam đă bị Mỹ và đồng minh truy kích; quân Mỹ và quân đội Sài G̣n đă nắm quyền chủ động chiến trường; Việt cộng đă đuối sức, hết hơi, v.v… để xoa dịu làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ và những chất vấn của Quốc hội Hoa Kỳ, đồng thời trấn an tinh thần cho quân đội, chính quyền Sài G̣n.

    Trước t́nh h́nh trên, ngày 24-4-1968, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp phân tích, đánh giá t́nh h́nh và kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, quyết định tổng tiến công và nổi dậy đợt 2.

    Cuối tháng 3-1968, sau khi sơ bộ kiểm điểm đợt 1 tiến công vào Sài G̣n - Gia Định, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền cử đại diện ra Hà Nội báo cáo về đề nghị cho chiến trường miền Đông Nam Bộ tiếp tục mở đợt 2 đánh vào Sài G̣n với lư do “yếu tố bất ngờ vẫn c̣n, mặc dù địch đă co về pḥng giữ nội thành và vùng ven, nhưng chúng c̣n nhiều sơ hở, đợt 1 ta mới sử dụng bộ phận đặc công, một số đội biệt động, du kích mật và quần chúng. Các tiểu đoàn mũi nhọn, các trung đoàn khu vực, các sư đoàn chủ lực cơ động vẫn c̣n sung sức, quyết tâm lập công cao... Nếu ta khắc phục được khuyết điểm trong đợt 1 th́ sức đột kích trong đợt 2 sẽ mạnh hơn nhiều và sẽ là một bất ngờ mới đối với địch”[24]

    Cùng thời gian này, để mở rộng mặt trận dân tộc đoàn kết chống Mỹ trong các tầng lớp nhân dân ở khắp các đô thị, ngày 20 và 21-4-1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà b́nh miền Nam Việt Nam ra đời từ trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tổ chức Đại hội bầu ra Uỷ ban Trung ương Liên minh do Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo làm Chủ tịch.

    Đúng 0 giờ 30 phút ngày 5-5-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trên toàn Miền đă nổ ra. Trong tuần lễ đầu tổng tiến công và nổi dậy (từ ngày 5 đến 12-5), quân Giải phóng đánh trúng 89 thành phố, thị xă, thị trấn, quận lỵ căn cứ địch từ Trị - Thiên đến Cà Mau, từ đồng bằng ven biển đến Tây Nguyên.

    Trên chiến trường trọng điểm Sài G̣n - Gia Định, từ hướng tiến công chủ yếu phía tây thành phố, Trung đoàn 2 gồm các tiểu đoàn 267, 269, Tiểu đoàn 6 B́nh Tân do Trung đoàn trưởng Vơ Văn Hoàng chỉ huy tiến công cụm rađa Phú Lâm, phát triển vào Cầu Tre, tập kích đánh thiệt hại một tiểu đoàn biệt động quân, phát triển đánh chiếm khu vực đường Minh Phụng và B́nh Thới.

    Trong hai ngày 7 và 8-5, đại bộ phận Trung đoàn 2 đă bám trụ chiếm lĩnh hai nhà cao tầng ở ngă tư đường Minh Phụng khống chế các điểm xuất phát tiến công của quân Mỹ từ B́nh Thới xuống đến Duy Linh. Quân MỸ-VNCH cho hàng chục lần chiếc máy bay A-37 ném bom bắn phá hai nhà cao tầng gây nhiều đám cháy. Hai tiểu đoàn biệt động quân được hàng chục xe tăng M-41 yểm trợ phản kích quyết liệt ḥng đẩy quân Giải phóng ra khỏi ngă tư. Trận đánh trên đường Minh Phụng kéo dài gần một tuần (từ ngày 5 đến ngày 10-5), sau đó Trung đoàn 2 được lệnh chia thành hai hướng. Một tiểu đoàn cơ động về hướng bắc đánh địch ở khu vực nghĩa trang Phú Thọ. Hai tiểu đoàn c̣n lại tiến xuống phía nam Cầu Gỗ đánh chiếm khu vực B́nh Tiên.

    Cũng thời điểm trên, Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) lực lượng phối thuộc của Phân khu 2, sau khi đột phá qua một số tuyến ngăn chặn ṿng ngoài đă tiến công khu vực ngă tư Bảy Hiền và một số mục tiêu xung quanh sân bay Tân Sơn Nhất. Tại khu nghĩa địa Pháp, quân dù (lực lượng dự bị chiến lược VNCH) từ trong sân bay đánh tràn ra quyết ngăn chặn lực lượng quân Giải phóng đang phát triển. Một trận đánh ác liệt đă xảy ra ở khu mả Xây. Qua hai ngày chiến đấu (ngày 5 và 6-5) 2 bên đều thiệt hại đáng kể. Ngày 7-5, trung đoàn 1 được lệnh của Phân khu 2 lui về phía tây Bà Quẹo, tổ chức pḥng ngự đánh phản kích.

    Phân khu 1 đảm nhiệm hướng tây bắc, được Trung đoàn 16 chủ lực Miền hỗ trợ, tiến công sân bay Tân Sơn Nhất và một số mục tiêu xung quanh Bộ Tổng tham mưu VNCH. Nhưng trong quá tŕnh hành quân vào nội đô, Trung đoàn 16 và các tiểu đoàn độc lập của Phân khu 1 liên tục đụng đầu với các tiểu đoàn dù 1, 5, 7 VNCH. Quân Giải phóng phải tổ chức pḥng ngự ở An Phú Đông, Tân Thới Hiệp từ ngày 4 đến ngày 7-5. Ngày 8-5, để cải thiện vị trí đứng chân, các lực lượng Phân khu 1 và phối thuộc tập kích cụm xe cơ giới ở Tân Thới Đông và Tân Thới Trung, phá hỏng 50 xe các loại, diệt và làm bị thương 230 lính.

    Cùng thời gian, hàng chục trận địa pháo hoả tiễn tiếp tục pháo kích căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, Tân Cảng, kho Long B́nh... phá huỷ nhiều kho tàng quân sự Mỹ.

    Giai đoạn 1 của cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trong nội đô đến ngày 12-5 tạm thời lắng xuống. Hầu hết các lực lượng chủ lực quân Giải phóng được lệnh rút ra vùng ven để củng cố tổ chức, vừa đánh địch càn quét vừa làm công tác chuẩn bị sẵn sàng bước vào giai đoạn 2. Những vấn đề nổi bật của giai đoạn 1 là, các phân khu thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ trên giao, diệt được khá nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh đói phương. Tuy nhiên, qua giai đoạn 1 hoạt động tác chiến trong thành phố, nh́n chung các phân khu c̣n bộc lộ nhiều hạn chế về chỉ huy và điều hành lực lượng. Một số phân khu hoạt động ở hướng tây và nam vào được khu vực trên giao, nhưng lại không bám trụ được lâu dài do bị thương vong nhiều. Một số phân khu hoạt động ở hướng bắc và đông chỉ vào được cửa ngơ nội đô, chỉ tác chiến ở những mục tiêu thứ yếu.

    Ngày 24-5-1968, quân Giải phóng thực hiện một loạt trận tiến công mới vào các mục tiêu quan trọng trong nội đô. Để mở rộng hoạt động quân sự, phân tán sự đối phó của đối phương ở hướng đông bắc, ngày 26-5, Bộ chỉ huy Miền chỉ thị cho các đơn vị đang hoạt động ở hướng tây và nam khẩn trương đưa lực lượng mở các đợt tiến công vào nội đô. Phối hợp với bộ binh chiến đấu ở nội đô, các đơn vị pháo binh từ vùng ven liên tiếp bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất, bến cảng Sài G̣n, Bộ Tư lệnh Hải quân VNCH, Toà đô chính, Sứ quán Mỹ, gây nhiều thiệt hại về vật chất và tinh thần.

    Tại Chiến trường Khu V, Sư đoàn 3 bộ binh (thiếu một trung đoàn) của quân khu bám trụ ở B́nh Định được lực lượng vũ trang tỉnh, huyện hỗ trợ, cùng một lúc tiến công tám mục tiêu trên đường số 1, đoạn từ cầu Ông Diệu đến huyện lỵ Phù Mỹ, nhằm kéo Lữ đoàn dù 178 Mỹ ra giải toả để tiêu diệt... Khoảng 23 giờ đêm ngày 6-5, một đoàn xe chạy từ Phù Mỹ ra, lọt vào trận địa phục kích của Sư đoàn 3, bị bắn cháy 32 chiếc, hơn 100 lính trên xe bị diệt. Cùng thời gian, Tiểu đoàn 53 tổ chức đánh quân Mỹ đổ bộ đường không xuống thôn Tường Lâm, Mỹ Trung (Hoài Ân), loại khỏi ṿng chiến đấu 130 lính Mỹ, bắn rơi 2 máy bay trực thăng. Ngày 24-5, một đoàn xe 26 chiếc chở quân Mỹ, được một chi đoàn thiết giáp hỗ trợ tiến vào xă Mỹ Trinh, bị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương chặn đánh diệt 16 chiếc.

    Đầu tháng 6-1968, Tiểu đoàn 40 đặc công tỉnh tập kích diệt hai đại đội Mỹ ở g̣ Ông Thường, xă Hoài Thanh và cầu Ông Tú, xă Hoài Châu. Giữa tháng 7, Tiểu đoàn 53 phục kích trên quốc lộ 1 đoạn Tam Quan đi Chợ Cát, loại khỏi ṿng chiến đấu gần 200 lính Mỹ - VNCH, bắn cháy 15 xe (có 4 xe bọc thép), 2 máy bay, 2 pháo 105 mm. Đặc công Đ10 tập kích cứ điểm tháp Bánh Ít, diệt 30 lính, đánh sập 8 lô cốt đốt cháy 2 kho xăng. Giữa tháng 6, Tiểu đoàn 50 được bộ đội địa phương huyện và du kích phối hợp, chặn đánh một tiểu đoàn Nam Triều Tiên càn quét xă Cát Thắng, loại khỏi ṿng chiến đấu gần 100 lính.



    Nổi bật nhất trong chiến sự đợt 2 ở Khu V là Trận Khâm Đức, 2 trung đoàn của Sư đoàn 2 sau 2 ngày tiến công liên tục từ 10 đến 12-5 đă tiêu diệt hoàn toàn trại quân sự Khâm Đức do gần 1.000 lính Mỹ và 500 lính VNCH trấn giữ, diệt gần 800 lính, bắt sống 104 lính và bắn rơi 9 máy bay.

    Ở mặt trận bắc Tây Nguyên đầu tháng 4-1968, Sư đoàn 1 từ hướng đường 18 - Plây Cần hành quân sang hướng tây Kon Tum đánh quân Mỹ nống ra các khu vực Chư Tang Kra, Chư Mo, Chư Tô Bla, Chư Ben... Nổi bật nhất là những trận đánh cắt giao thông trên các mạng đường quốc lộ, tỉnh lộ ba tỉnh. Sáng ngày 9-5, một đoàn xe cơ giới Mỹ chạy trên đường 14 (Plâycu - Kon Tum) bị lực lượng vũ trang Gia Lai phục kích diệt tám chiếc. Ngày 28-5, Trung đoàn 95 đánh đoàn xe quân sự Mỹ trên đường 19 (An Khê - Măng Giang) diệt 20 chiếc (có 5 xe tăng, xe bọc thép). Nửa tháng sau cũng trên đoạn đèo này, Trung đoàn 95 phục kích diệt 25 xe, loại khỏi ṿng chiến đấu gần 100 lính. Tổng kết lại, Suốt trong hai tháng 5 và 6, với các h́nh thức tác chiến phục kích, tập kích, vận động tiến công kết hợp chốt, Sư đoàn 1 đă loại khỏi ṿng chiến đấu 1.160 lính, bắn rơi 72 máy bay, phá huỷ 42 xe quân sự.

    Cuộc tổng tiến công giai đoạn hai đợt 2 kéo dài đến ngày 13-6 kết thúc. Với tinh thần “đợt sau cao hơn đợt trước”, các tiểu đoàn “cảm tử” của quân Giải phóng đă gây nhiều bất ngờ về chiến thuật và khả năng chiến đấu thọc sâu trong thành phố, tiếp tục gây nhiều thiệt hại cho quân Mỹ-VNCH. Mặc dù vậy, các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương phải chiến đấu trong khi yếu tố bí mật không c̣n, đối phương tăng cường triển khai đối phó, hầu hết các cuộc hành quân tiếp cận đều bị ngăn chặn, nhiều đơn vị không đến được mục tiêu trên giao.

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Biến cố Tết Mậu Thân 1968

    Biến cố Tết Mậu Thân 1968

    Chiến sự Đợt 3

    Sau 2 đợt của cuộc tổng tiến công, song song với việc t́m cách làm “yên ḷng” dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, tại miền Nam Việt Nam, Mỹ t́m mọi cách tăng cường sức mạnh quân sự ḥng giành lại thế chủ động trên chiến trường. Một mặt, Mỹ ráo riết thực hiện kế hoạch “b́nh định cấp tốc” ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, ra sức bắt lính, đôn quân, tiếp tục chiến tranh. Chỉ tính từ ngày 19- 6-1968, khi Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tổng động viên đến cuối năm 1968, chính quyền Sài G̣n chẳng những bù đắp đủ cho số quân đă mất, mà c̣n nâng tổng quân số từ 552.000 (11 sư đoàn, 11 trung đoàn) trong năm 1967 lên 555.000 (12 sư đoàn, 9 trung đoàn) vào cuối tháng 12-1968.

    Cùng với gia tăng quân ngụy, Mỹ đă chuyên chở một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh hiện đại vào Nam Việt Nam để bù đắp số mất mát, hư hỏng qua hai đợt tổng tiến công và nổi dậy, đồng thời thay thế một số chủng loại vũ khí cũ bằng vũ khí hiện đại hơn. Đến cuối năm 1968, tại Nam Việt Nam đă có 535.000 lính Mỹ và 65.791 lính thuộc quân đội các nước phụ thuộc Mỹ, được biên chế trong 9 sư đoàn, 5 lữ đoàn quân Mỹ, 2 sư đoàn và 3 trung đoàn quân các nước phụ thuộc.

    Về phía quân Giải phóng miền Nam, qua hai đợt tổng tiến công liên tục Tết và tháng 5 lực lượng và vũ khí, đạn dược đă bị tổn thất lớn, chưa kịp bổ sung. Bên cạnh đó, lực lượng bí mật ém trong nội thành và phần lớn cơ sở - nơi cất giấu vũ khí, trang bị, chỗ đứng chân, nơi xuất phát tiến công cho các đợt tiến công tiếp sau đă bị lộ, bị đánh phá mất gần hết. Tại Sài G̣n, mặc dù thời cơ đă mất, nhưng “Không khí tổng công kích - tổng khởi nghĩa vẫn c̣n, nhưng có kèm theo tâm lư cay cú ở một số đồng chí muốn tấn công vào Sài G̣n như hai đợt trước”[25]. Ở mặt trận Quảng - Đà (Khu V) và một số mặt trận khác, do c̣n giữ được thế và lực c̣n mạnh, nên Bộ Tư lệnh Khu V đă đề nghị Trung ương cho mở tiếp đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy[26]. Ngược lại, cũng có nhiều nơi xin tạm dừng tiến công để xốc lại đội h́nh, bổ sung, củng cố lực lượng, vũ khí trang bị

    Nhằm thống nhất chủ trương hoạt động trên chiến trường, ngày 24 và 25-7-1968, Thường trực Quân uỷ Trung ương, gồm: Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Quư Hai họp bàn kế hoạch hoạt động trong Đông - Xuân (1968 - 1969). Ngoài ra, Thường trực Quân uỷ Trung ương c̣n mời thêm Hoàng Anh, Lê Trọng Tấn, Trần Sâm, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Đôn... cùng tham dự cuộc họp.

    Bộ Chính trị xác định: "Để tạo ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam trong năm 1968, cần phải cố gắng diệt cho được 70 - 80% lực lượng dự bị chiến lược của Mỹ - ngụy". Đánh mạnh vào Sài G̣n, c̣n ở Đà Nẵng th́ tuỳ theo khả năng mà đánh ở quy mô thích hợp. Song, dù thế nào cũng phải đẩy mạnh hoạt động ở nông thôn để tạo điều kiện cho đánh lâu dài. Đồng thời, đưa lực lượng dự bị chiến lược vào đứng chân ở Tây Nguyên chờ thời cơ. Để tránh bị bất ngờ, đại tướng Vơ Nguyên Giáp đề nghị: phải có phương án dự kiến thời cơ đến trước trong kế hoạch hoạt động Đông - Xuân. Mục tiêu của đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn được Bộ Chính trị xác định: chiến trường Sài G̣n, Gia Định và miền Đông Nam Bộ, Khu V là hướng phối hợp, trọng điểm là Quảng Đà. Thời gian nổ súng được ấn định vào ngày 17-8, kết thúc vào ngày 28-9-1968.

    Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, mặc dù yếu tố bí mật, bất ngờ không c̣n, song lực lượng pháo binh, đặc công, biệt động đă phối hợp đồng loạt tiến công trên 27 thành phố và thị xă, hơn 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 47 sân bay các loại, 3 tổng kho hàng hoá quân sự 6 bộ tư lệnh cấp sư đoàn của Mỹ và Sài G̣n.

    Trên địa bàn Sài G̣n, Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, sau khi chống trả với đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5, Mỹ đă tập trung 38 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn quân các nước phụ thuộc Mỹ và 61 tiểu đoàn chủ lực VNCH, tổng cộng 90.000 quân cùng lực lượng địa phương tại chỗ tổ chức hệ thống pḥng thủ bảo vệ Sài G̣n, với chiều sâu khoảng 100 km, chia làm ba tuyến. Đứng trước t́nh h́nh này, Bộ Chính trị chấp nhận: trong đợt 3, trọng tâm tiến công được chuyển ra ṿng ngoài, hướng chủ yếu là địa bàn hai tỉnh Tây Ninh và B́nh Long, các địa bàn c̣n lại là hướng phối hợp. Riêng với nội đô Sài G̣n - Gia Định và các thành phố, thị xă khác chủ yếu sử dụng lực lượng pháo binh và biệt động, đặc công bí mật luồn sâu tập kích vào các mục tiêu quan trọng, gây mất ổn định trong các cơ quan chỉ huy đầu năo của Mỹ - ngụy; đồng thời, đưa cán bộ thâm nhập vào nội thành củng cố, ráp nối lại các cơ sở cũ, xây dựng thêm các cơ sở mới, từng bước củng cố lại phong trào.

    Ngày 17-8-1968, chiến dịch chính thức mở màn. Tại hướng chủ yếu, các trận tiến công của quân Giải phóng diễn ra như ư định và phát triển tốt. Điển h́nh là ngay trong đêm 17, Trung đoàn 3 (thiếu một tiểu đoàn) thuộc Sư đoàn 9 bất ngờ tập kích cụm cứ điểm Trà Phí, loại khỏi ṿng chiến đấu khoảng 400 lính Mỹ, phá huỷ, phá hỏng 31 xe cơ giới các loại và 6 khẩu pháo. Trên trục đường số 22, Trung đoàn 33 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích đánh ba trận liên tục đạt kết quả tốt; trong đó nổi bật nhất là trận ngày 19-8, Trung đoàn diệt một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và phá 57 xe bọc thép Mỹ.

    Tiếp đó, đêm 21-8, cùng lúc Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tập kích căn cứ Mỹ tại Trà Phí lần thứ hai, loại khỏi ṿng chiến đấu một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, phá huỷ, phá hỏng 96 xe quân sự các loại, 14 khẩu pháo và bắn rơi 4 máy bay lên thẳng của Mỹ; Trung đoàn 5 (Sư đoàn 5) tập kích cụm cứ điểm Chà Là lần thứ nhất, diệt hàng trăm Mỹ, bắn cháy, phá hỏng 140 xe quân sự các loại và 13 khẩu pháo, bắn rơi 1 máy bay.

    Trên đà thắng lợi, đêm 22 rạng ngày 23-8, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 33, Sư đoàn 5) tập kích cụm xe quân sự Mỹ ở suối Ông Hùng, phá huỷ 60 xe quân sự, bắn rơi 4 máy bay, loại khỏi ṿng chiến đấu hàng trăm lính. Ngày 2-8, Trung đoàn 88 (thiếu một tiểu đoàn) tổ chức phục kích trên đường 22 (đoạn từ Đá Hàng đến Vên Vên thuộc huyện G̣ Dầu, tỉnh Tây Ninh) đánh thiệt hại nặng một đoàn xe cơ giới 147 chiếc (trong đó có 33 xe tăng và xe bọc thép, 15 xe Jeép), loại khỏi ṿng chiến đấu 400 lính.

    Cũng trong khoảng thời gian trên, trên hướng thứ yếu chiến dịch ở tỉnh B́nh Long, các đơn vị của Sư đoàn bộ binh 7 đă tiến công Chi khu quân sự Lộc Ninh. Mỹ đưa Trung đoàn 11 thiết giáp và một bộ phận quân của Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ đến ứng cứu, giải toả. Do vậy, Sư đoàn 7 phải cùng lúc vừa tổ chức tiến công chi khu, vừa đánh quân địch đến ứng cứu, giải toả, chưa tiêu diệt được mục tiêu đặt ra là Chi khu quân sự Lộc Ninh.

    Sau một thời gian liên tục chiến đấu, đêm 31-8, quân Giải phóng quyết định kết thúc bước 1 chiến dịch trên cả hai hướng. Mỗi trung đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn để tổ chức “đợt hoạt động đệm”, đại bộ phận c̣n lại rút ra phía sau củng cố, chấn chỉnh, bổ sung quân số, trang bị, vũ khí đạn dược, chuẩn bị cho đợt 2 chiến dịch.

    Ngày 12-9, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) tập kích cụm quân Mỹ tại Lâm Vồ lần thứ hai, làm thiệt hại nặng một tiểu đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp, phá huỷ, phá hỏng 58 xe quân sự (trong đó có 39 xe bọc thép), 14 khẩu súng cối, bắn rơi 7 máy bay. Cùng ngày, trên mặt trận đường 22, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích và đánh phản kích, loại khỏi ṿng chiến đấu khoảng 350 lính, 46 xe quân sự các loại, bắn rơi 6 máy bay lên thẳng.

    Tại thị xă Tây Ninh, ngay từ đêm 10-9, các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh, các đội biệt động, đặc công, trinh sát Miền và Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2) đă đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt một số mục tiêu quan trọng trong nội và ngoại thị, gây sự hoang mang dao động mạnh về tinh thần trong nội bộ quân VNCH ở tỉnh Tây Ninh.

    Sau gần 20 ngày liên tục giữ thế chủ động bằng các chiến thuật: phục kích, tập kích, đánh bồi, đánh nhồi vào các cụm quân, tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, hoàn thành cơ bản các mục tiêu chiến dịch đặt ra, ngày 28-9-1968, ta đă chủ động kết thúc đợt 2, cũng là kết thúc toàn bộ chiến dịch. Tổng kết thành quả giành được sau 43 ngày đêm chiến đấu liên tục của chiến dịch Tây Ninh - B́nh Long (từ ngày 17-8 đến 28-9-1968 ), các sư đoàn 5, 7, 9 chủ lực Miền và du kích Tây Ninh, B́nh Long đă đánh 315 trận (có 53 trận cấp tiểu đoàn, 16 trận cấp trung đoàn), loại khỏi ṿng chiến đấu 13 tiểu đoàn, 55 đại đội, tiêu hao nặng 7 tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 1 và 25 bộ binh cơ giới Mỹ, một số đơn vị thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược VNCH và nhiều đơn vị biệt kích, bảo an tại chỗ; loại khỏi ṿng chiến đấu 18.406 lính, phá huỷ 1.507 xe quân sự, 112 máy bay, 107 khẩu pháo, thu được 24 máy vô tuyến điện, 282 súng các loại.

    Song những thắng lợi trong đợt 3 ở miền Đông cũng không làm thay đổi được t́nh h́nh nhiều, v́ lực lượng quân Giải phóng bị tổn thất nặng. Cuối năm 1968, sau ba đợt tiến công liên tục quân số, vũ khí đạn dược đă cạn kiệt, những bộ phận c̣n lại của các đơn vị được lệnh rút lên các căn cứ để củng cố và bổ sung quân số. Nhưng để lên được căn cứ, cán bộ và chiến sĩ phải tiếp tục đột phá mở đường qua các tuyến pḥng thủ bảo vệ Sài G̣n từ xa của Mỹ với chiều sâu hàng trăm km của quân Mỹ, nên lực lượng lại tiếp tục bị tiêu hao thêm.

    Nh́n lại diễn biến và kết quả của đợt 2 và đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Trung ương Đảng Lao động nhận định: “Chúng ta đă mắc một số khuyết điểm, chủ quan trong việc đánh giá t́nh h́nh cho nên đă đề ra yêu cầu chưa thật sát với t́nh h́nh thực tế lúc đó nhất là không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại t́nh h́nh và có chủ trương chuyển hướng kịp thời”[27], nên để mất đất, mất dân, lực lượng vũ trang, cơ sở cách mạng và vật chất chiến tranh bị tổn thất nghiêm trọng, gây những khó khăn rất lớn cho phong trào đấu tranh năm 1969; song, thắng lợi trong đợt 2 và 3 tổng tiến công và nổi dậy cũng rất lớn, ta không chỉ tiêu diệt được một lực lượng chiến lược của Mỹ - ngụy, mà điều quan trọng là ta đă đánh bồi liên tiếp, đập tan ư chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong bốn thành viên chính thức tham gia hoà đàm tại Pari. Những thắng lợi này góp phần cho ta thế mạnh chủ động đấu tranh ở Hội nghị Pari."

    Kết quả

    Cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 đă dẫn đến các kết quả chính trị và quân sự cho cả thời kỳ 1969-1971.
    Về chiến thuật



    Trong 3 đợt của cuộc tấn công, quân Giải phóng đă gây cho Mỹ và đồng minh những thiệt hại lớn. Theo các thông cáo chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam th́ trong cả năm 1968 họ đă loại ra khỏi ṿng chiến 630.000 quân đối phương cả Mỹ-VNCH lẫn đồng minh, 13.000 xe cơ giới, 1.000 tàu chiến, 700 kho đạn, 15.000 đồn bót; trong đó riêng 2 tháng đợt 1 đă diệt được 150 ngàn quân đối phương[28]. Tài liệu Hoa Kỳ xác nhận tổn thất trong đợt 1 là hơn 48.500 quân và 552 máy bay bị phá hủy, và năm 1968 trở thành năm đẫm máu nhất đối với quân viễn chinh Mỹ tại Việt Nam với 16.511 lính chết và 87.388 bị thương chưa kể mất tích[29]. Đối với quân lực VNCH th́ đây là năm đẫm máu thứ 2 (chỉ sau năm 1972) với 28.800 thiệt mạng và 172.512 bị thương chưa kể mất tích[30]. Nhiều đơn vị tinh nhuệ của quân đội này phải mất 1 năm để tái huấn luyện bổ sung tổn thất.

    Tuy nhiên, để đạt kết quả trên, quân Giải phóng cũng chịu thương vong hơn 11 vạn người. Tuy về số học là nhỏ hơn đối phương, nhưng đối với họ, mức tổn thất này nghiêm trọng hơn. Bởi họ bị quân Mỹ và đồng minh vượt trội về quân số (1,2 triệu so với chưa đầy 300 ngàn), do đó tỷ lệ thương vong của họ lớn hơn (hơn 1/3 quân số so với 1/5 của đối phương). Về tổn thất vũ khí cũng tương tự, tổn thất của Mỹ lớn hơn nhiều về giá trị nhưng có thể được bổ sung nhanh chóng từ kho vũ khí không lồ của họ, trong khi quân Giải phóng chỉ trông chờ vào những chuyến hàng tiếp tế đầy khó khăn từ miền Bắc.

    Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, các lực lượng chính trị bị lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn các năm trước, phải đến năm 1970 lực lượng của họ mới hồi phục lại được. Mất đất mất dân, quân đội của họ mất thế đứng chân tại nhiều nơi trên chiến trường miền Nam, phải rút về miền nông thôn, rừng núi hoặc phải sang ẩn tránh tại các vùng bên kia biên giới Lào và Campuchia. Do khó khăn về tiếp tế, đă có ư kiến trong giới lănh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và ở Hà Nội đề nghị giải tán các đơn vị cỡ sư đoàn, quay về lối đánh cấp trung đoàn trở xuống.

    Chiến trường miền Nam trở nên yên tĩnh. Trong các năm sau Mậu Thân, từ 1969 đến đầu 1970, là thời gian Quân lực Việt Nam Cộng ḥa chủ động tiến công t́m diệt quân Giải phóng, thực hiện kế hoạch Phượng Hoàng, b́nh định và triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ở nông thôn và thành thị. Vai tṛ của đấu tranh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam từ nay suy giảm đi nhiều v́ các hệ thống cơ sở chính trị của họ bị phá và với sự ác liệt không khoan nhượng của chiến tranh ở giai đoạn này không cho phép dân chúng tụ tập trên chiến trường để yêu sách chính trị.[cần dẫn nguồn] Từ đó trở đi vai tṛ của quân chủ lực chính quy mang tính chất quyết định, vai tṛ của quân du kích chỉ c̣n là thứ yếu.

    Quân giải phóng miền Nam thiệt hại trong năm 1968
    Chết 44.824
    Bị thương 61.267
    Mất tích 4.511
    Bị bắt 912
    Lạc 1.265
    Đào ngũ 10.899
    Đầu hàng 416
    Tổng (không tính đào ngũ) 113.295


    Đó là cơ sở để các tướng lĩnh Mỹ và chính phủ Việt Nam Cộng ḥa cho rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân Giải phóng đă thất bại. 40 năm sau sự kiện Tết Mậu Thân, tướng Lê Khả Phiêu lúc đó là chính uỷ kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9, đơn vị chủ lực đánh vào thành Huế và giữ Huế 25 ngày, thừa nhận: Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, chúng tôi ở chiến trường lao đao mất 2 năm rưỡi, đến năm 1972 ta mới có được những chuyền biến tích cực. Vinh quang có thật, tinh thần chiến đấu th́ anh dũng tuyệt vời, nhưng đúng là có khó khăn. Giữ được Huế 25 ngày như thế đă là "ghê" lắm rồi. Khi rút ra ngoài, cả trung đoàn chỉ c̣n đúng 5 cân gạo. [32].
    Về chiến lược, Chính trị và ngoại giao

    Trong các đợt cao trào, lực lượng vũ trang tại chỗ Quân giải phóng miền Nam cũng đă phát động nổi dậy tại nhiều nơi, giáng một đ̣n nặng vào hệ thống chính quyền cơ sở VNCH ở nông thôn. Trong đợt Tết, phối hợp với đ̣n tiến công quân sự đánh vào các đô thị, Quân giải phóng đă tổ chức nổi dậy và kiểm soát thêm 1.600.000 dân, 100 xă, hơn 600 ấp chiến lược, dinh điền. Chương tŕnh “b́nh định” của Hoa Kỳ tan vỡ từng mảng. Văn pḥng hệ thống phân tích t́nh h́nh thuộc Lầu Năm Góc th́ đánh giá: “Cuộc tiến công (Tết) h́nh như đă vĩnh viễn giết chết chương tŕnh (b́nh định)”. Chiến lược chiến tranh cục bộ của Hoa Kỳ đă phá sản sau đợt tấn công Tết.

    Thành công của Tết Mậu Thân đă giáng một đ̣n quyết liệt vào uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam, làm suy giảm vị trí và ảnh hưởng của chính quyền và quân đội Sài G̣n cả ở thành thị lẫn nông thôn, khiến cho giới lănh đạo cao cấp Hoa Kỳ phải bàng hoàng, sửng sốt. Robert Kennedy - thượng nghị sĩ em trai cố TT Mỹ đă phải thốt lên rằng: Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công. Bộ Quốc pḥng Mỹ khi tổng kết chiến tranh Việt Nam đă thừa nhận: “Nhờ nghiên cứu các phương pháp và thói quen có thể dự đoán được của Mỹ mà đối phương đă vạch ra kế hoạch nghi binh và phân tán chiến lược của họ. Trái lại sự hiểu biết của Mỹ về đường lối chiến lược của địch là nông cạn và chủ quan hơn”[33]

    Cuộc tổng tiến công đă làm dư luận Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến với nỗ lực cao đă làm căng thẳng trong xă hội Mỹ, phúc lợi giảm sút, gây nhiều hệ lụy xấu cho xă hội... mà vẫn không dứt điểm được đối phương, và trong tương lai chiến tranh không biết sẽ kéo dài đến bao giờ. Điều này đưa đến kết luận là Hoa Kỳ không thể thắng được trong cuộc chiến này. Sau này, trong hồi kư, Johnson xác nhận Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là “một sự choáng váng đối với tất cả người Mỹ”, “cố gắng của đối phương đă gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài Chính phủ”, nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta đă thất bại”

    Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và tin tưởng với giới quân sự, họ đ̣i chấm dứt chiến tranh mang quân về nước. Một mặt họ thiếu niềm tin vào hiệu quả của quân đội, mặt khác các hành động bạo liệt mất nhân tính được tŕnh chiếu trên TV đánh vào lương tâm công chúng (Xem Thảm sát Mỹ Lai, Thảm sát do đơn vị Lực lượng Mănh Hổ). Người dân Mĩ đ̣i hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức bởi họ coi chiến tranh là bẩn thỉu. Sau này, ngoại trưởng Henry Kissingger thừa nhận: “Các thế hệ tương lai có thể khó h́nh dung được cơn biến động trong nước mà chiến tranh Việt Nam gây ra... Chính cơ cấu của chính phủ đă bị tan ră. Ngành hành pháp bị choáng váng. Cuối cùng, con em của họ và con em bạn bè của họ đă tham gia các cuộc biểu t́nh... Sự kiệt sức là dấu ấn của tất cả chúng tôi. Tôi phải đi từ nhà tôi, vây quanh là đám người phản đối, đến tầng dưới của Nhà Trắng để được ngủ đôi chút”[34]

    Các chính trị gia trong Quốc hội Hoa Kỳ gây sức ép lên chính phủ đ̣i xem xét lại cam kết chiến tranh, đ̣i hủy bỏ uỷ quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh không cần phê chuẩn, thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng. Ngay các nhà lănh đạo chính phủ Hoa Kỳ cũng chia rẽ trong quan điểm sẽ làm ǵ tiếp theo. Các cố vấn hàng đầu của tổng thống và ngay Tổng thống Lyndon B. Johnson thoái chí đi đến kết luận không thể tăng quân thêm nữa theo yêu cầu của giới quân sự mà phải xuống thang, đàm phán. Giới lănh đạo Mỹ công nhận: Tết Mậu Thân 1968 đă đặt họ “trước một bước rẽ trên đường đi, và các giải pháp để lựa chọn đă phơi bày trong một thực tế tàn nhẫn”[35].

    Với sức ép của Tết Mậu Thân, cùng với việc thay Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, Tổng thống Mỹ c̣n cách chức Westmoreland, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam, đưa Abram lên thay (9-3-l968). Đồng thời, Johnson tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ tiếp theo. Cũng từ sau Mậu Thân trở đi, quyền lực tiến hành chiến tranh của Tổng thống Hoa Kỳ càng ngày càng bị hạn chế bởi Quốc hội và dư luận trong nước và quốc tế. Sự rút quân viễn chinh Mỹ về nước là không thể đảo ngược, Chiến tranh Việt Nam đi vào giai đoạn mới mà chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng ḥa phải tự bảo vệ lấy ḿnh - Việt Nam hóa chiến tranh là không thể tránh khỏi.

    Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, sẵn sàng đàm phán để chấm dứt chiến tranh, không tăng thêm quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến trường và từ chối tranh cử nhiệm kỳ tới. Tổng thống Richard M. Nixon, thắng cử v́ hứa sẽ chấm dứt chiến tranh, tuyên bố sẽ dần rút quân về nước và đàm phán với phía VNDCCH. Vấn đề của Hoa Kỳ bây giờ không c̣n là t́m cách chiến thắng cuộc chiến nữa mà là rút ra như thế nào.

    Tất cả những điều trên đă tạo cơ sở cho VNDCCH và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam khẳng định rằng: họ đă đạt được mục tiêu của cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, cho dù với giá hy sinh cực kỳ to lớn. Một chiến thắng như vậy không c̣n trong phạm trù chiến thuật, mà mang tầm vóc thắng lợi chiến lược, nó tác động toàn diện đến t́nh h́nh quân sự, chính trị, tâm lư xă hội nước Mỹ. Đây là thắng lợi mang tính chiến lược của họ: Hoa Kỳ buộc phải xuống thang và bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Các lực lượng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam suy yếu th́ sẽ hồi phục lại, c̣n Hoa Kỳ một khi đă ra đi th́ khó mà trở lại được.

    Về sự kiện Tết Mậu Thân, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21, tháng 10-1973, đă kết luận: "Mặc dù có những khuyết điểm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) vẫn giữ một vị trí to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đánh với đối tượng là một siêu cường có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trên thế giới th́ không dễ ǵ chiến thắng mà ít tổn thất. Đó là sự hy sinh, tổn thất cần thiết để dẫn đến hoà b́nh. Ta có khuyết điểm, sai lầm, nhưng cái chính và điều quan trọng là ta đă chiến thắng". Bộ Chính trị kết luận: Tết Mậu Thân thắng rất lớn, không phải chỉ ở chiến thuật mà nhất là đă đánh bại được ư chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh.. [36]

    Các nhà sử học phương Tây cũng đánh giá rất cao vai tṛ bước ngoặt của cuộc Tổng tấn công trong cuộc chiến tại Việt Nam. Nhà sử học Merle L. Pribbenow nhận định: "Cuộc tấn công Tết Mậu Thân có lẽ là sự kiện có sức nảy nở lớn nhất trong lịch sử cuộc chiến dài dặc của Mỹ tại Việt Nam. Đây là một thời điểm bước ngoặt trong cuộc chiến, một thời điểm kể từ đó không có đường lùi nữa. Chiến lược gia quân sự Trung Quốc cổ đại Tôn Tử viết: Nước lũ cuốn trôi cả đá gạch, đó là nhờ thế nước lũ; Chim ưng vồ mồi xé nát con mồi, đó là nhờ thế tiết nhanh chớp nhoáng. Trong quyết định tung cuộc Tổng tiến công Tết, quân Giải phóng đă làm theo lời chỉ dạy của Tôn Tử. Họ đă sử dụng sự “biến hóa”, và “thế tiết” của họ là hoàn hảo."[37]
    Mặt trận ngoại giao, thành quả phối hợp với chính trị-quân sự trong năm 1968

    Bài chi tiết: Hiệp định Paris

    Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson phải tuyên bố: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận đàm phán với VNDCCH. Đây là bước nhượng bộ rất lớn của Mỹ bởi trước đó, họ luôn duy tŕ quan điểm cứng rắn: VNDCCH phải ngừng chiến đấu, rút quân Giải phóng miền Nam khỏi miền Nam Việt Nam th́ mới có đàm phán ḥa b́nh.

    Cuối cùng, 2 bên lấy Pari làm địa điểm họp chính thức. Phiên họp đầu tiên được hai bên ấn định vào ngày 10-5-1968, phía VNDCCH cử Bộ trưởng Xuân Thuỷ làm Trưởng đoàn, Hà Văn Lâu làm Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hoa Kỳ cử Hariman và C.Vasner làm Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Mỹ. H́nh thức họp là 4 bên tham gia: VNDCCH - Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam - Hoa Kỳ - VNCH. Đây lại là bước nhượng bộ nữa của Mỹ bởi trước đó họ từ chối công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và coi VNCH là "chính phủ duy nhất của miền Nam Việt Nam". Tuy vậy, dù có 4 bên nhưng thực tế các phiên họp kín chỉ có 2 đoàn vốn thực sự nắm quyền điều khiển cuộc chiến là VNDCCH và Hoa Kỳ được tham dự.

    Ngày 3-6-1968, Nguyễn Duy Trinh - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, chỉ thị cho đoàn ở Pari: “Tiếp tục làm tốt việc đấu tranh công khai và chuẩn bị lúc nào thuận lợi th́ vừa nói chuyện công khai vừa nói chuyện hậu trường”

    Trong quá tŕnh diễn biến các cuộc nói chuyện ở Pari, phía Mỹ đă thường xuyên thông báo t́nh h́nh cho chính quyền Sài G̣n, và Nguyễn Văn Thiệu luôn tỏ ra chấp nhận lập trường của phía Mỹ. Nhưng khi đạt được sự dàn xếp giữa Oasinhtơn và Hà Nội th́ lại nảy sinh sự bất hoà giữa Mỹ và Sài G̣n. Ngày 29-10-1968, Đại sứ Mỹ ở Sài G̣n báo cáo về Mỹ cho biết Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận tham gia vào các cuộc thương lượng tại Pari với lư do: Thiệu c̣n phải xin ư kiến Quốc hội; không muốn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được coi là một bên; cần giải quyết xong mọi thủ tục rồi mới họp. Mặc cho VNCH phản đối, nửa đêm ngày 30-10, Trưởng và Phó đoàn Mỹ đến nơi ở của đoàn VNDCCH tại Pari để thông báo sẽ công bố lệnh chấm dứt ném bom tối 31-10, vào 7 giờ hay 8 giờ, giờ Oasinhtơn ngày 31-10-1968.

    Trải qua 28 phiên họp chính thức, 21 cuộc gặp riêng, bí mật, kiên quyết giữ đúng nguyên tắc, VNDCCH đă đạt được hai yêu cầu cơ bản:

    Buộc Mỹ phải chấp nhận chấm dứt ném bom hoàn toàn và không điều kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;
    Mỹ phải ngồi vào đàm phán với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong một hội nghị bốn bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài G̣n).

    Nhân dịp này, ngày 3-11-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Chúng ta đă đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt. Chúng nói “hoà b́nh”, “thương lượng” nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ dă tâm xâm lược của chúng... V́ vậy nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà b́nh thống nhất Tổ quốc

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    [B]Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ hái phù du sau thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế [/B]

    Hoàng Phủ Ngọc Tường,
    kẻ hái phù du sau thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế



    THẢM SÁT HUẾ MẬU THÂN NĂM 1968 NHÂN CHỨNG SỐNG PART 1



    THẢM SÁT HUẾ MẬU THÂN NĂM 1968 NHÂN CHỨNG SỐNG PART 2


    Cựu Trung Tướng Trần Độ nói về trận Mậu Thân ở Huế


    HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG,1982 HUẾ MẬU THÂN 1968


    Hoàng Phủ Ngọc Tường,
    kẻ hái phù du sau thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế

    VNNB, 1/1/05

    Hồ Đinh



    Triết Gia Đức M. Heidegger từng ví con người như một Être Pour La Mort, coi đó như một sinh thể cho tử vong tử diệt, giống như quan niệm trong triết học Phật Giáo, cho rằng đời là bể khổ trong cơi thế vốn vô thường, để rồi rốt cục ai cũng phải chết. Tóm lại sinh tử là lẽ tất yếu của con người không ai tránh khỏi, nhưng để yên tâm bước vào cơi vĩnh hằng, hầu như ai cũng cố gắng giữ trọn đạo làm người, tốt cho ḿnh, ích cho đời và lưu danh cùng sông núi.

    Sau ngày 30-4-1975, cộng sản Hà Nội huênh hoang tuyên bố tất cả những tṛ lừa bịp chính trị đă làm từ năm 1930 là thời gian mà đảng cộng sản quốc tế chính thức xâm nhập vào VN, cho tới khi dùng bạo lực cưỡng chiếm được toàn thể quê hương. Để chia chung tội danh thiên cổ đă làm hủy hoại đất nước Lạc Hồng suốt bao năm qua, VC đểu cáng, đă lôi bọn Việt gian VNCH, từng giúp giặc đâm sau lưng người lính miền nam, vào chung xuồng, tung hê ca tung bọn ăn chén đá bát này khi viết lại lịch sử cận đại bằng chủ thuyết Mác-Lê cộng với những huyền thoại hoang tưởng, về cái gọi là chiến thắng ba đại đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ..

    Trong khi đó, ngàn thảm kịch vĩ đại, vạn oan khiên tột cùng, núi xương, sông máu và những cơn giông băo nước mắt của triệu triệu nạn nhân cộng sản trong bao năm qua, bị chế độ độc tài đảng trị cùng những trí thức không tim óc tiếp tay, chôn giấu vùi dập một cách tận tuyệt trong đáy mộ thời gian. Nhưng lịch sử vốn vô t́nh và rất công bằng, nên nhiều trí thức buổi trước đă ồn ào ca tung VC, nay v́ lương tâm và trên hết là sự thật, phải thay ng̣i bút để viết lại lịch sử, lôi ra ánh sáng những uẩn khúc bi kịch, lột trần những huyền thoại của đảng cộng sản VN.

    1968-2002, bao chục năm qua nay cũng đă đủ để khai quật nấm mồ lịch sử về cuộc thảm sát của VC, mà nạn nhân đa số là dân chúng vô tội, trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.

    Theo nhận xét của học giả Nguyễn Hiến Lê th́ muốn viết lịch sử, phải sống cùng lịch sử ít nhất một thời gian. Do trên hiện có một số lớn nạn nhân sống sót sau thảm kịch Mậu Thân Huế 1968, đă quả quyết thủ phạm chính cuộc tàn sát dă man lúc đó là những thành phần trong cái mặt trận Liên Minh Dân Tộc Ḥa Giải do Hà Nội dựng lên tại Huế vào ngày mồng ba tết Mậu Thân (1-2-1968) gồm Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Đào Thị Xuân Yến, Hoàng Phương Thảo..Bia đá trăm năm có thể bị hủy diệt bởi con người và thời gian, lịch sử cũng vậy có thể cũng bị thay đen đổi trắng bởi bọn cầm quyền và đám bồi bút vô loại nhưng bia miệng th́ không bao giờ bất biến bởi chúng là những tác phẩm vô h́nh không chữ nghĩa.

    Sau năm 1975, hầu như bọn phản tặc VNCH đều bị Hà Nội cho ra ŕa, trong số này có anh em nhà Hoàng Phủ. Con người dù có trái tim cao su hay nhân tạo, đôi lúc trong một thoáng bâng quơ nào đó, cũng tịnh tâm xúc động về tội ác của ḿnh, phương chi Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là một trí thức, giáo sư, vương tôn công tư, được sinh ra và sống trên đầu hàng triệu triệu người lầm than đen đói VN, nên ông chắc cũng hàng đêm sám hối về tội phản quốc và sát nhân của ḿnh đối với đồng bào vô tội, rồi tủi phận, rồi bứt rứt, cuối cùng tâm tư đă tuôn hết trong thi phẩm "Người Hái Phù Dung", ăn năn thương tiếc tuổi hoa niên thơ mộng khi chưa lầm đường theo giặc giết hại dân tộc ḿnh:

    "Ta t́m lại trong h́nh hài hóa bướm
    Chút tự do quả thực trên đời.
    Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng
    Núi thông nhiều ta hăy rong chơi.


    1. Huế, cố đô trong ḍng lịch sử:

    Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người với các quận Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới và Nam Đồng. Tỉnh lỵ là thành phố Huế hiện nay có diện tích 380km2 với 209.043 người.

    Theo từ nguyên, Huế là do Hóa tên nôm của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa t́m được xuất xứ, ngoài tên Huế được đề cập lần đầu, trong bài văn viết bằng chữ nôm "Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn" của đại đế Lê Thánh Tôn (1460-1497). Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc VN, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna nước Columbia, vào tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ, đă công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn.

    Nghĩ về Huế, dù là địa phương hay kẻ viễn khách, ai cũng đều ưa thích những công tŕnh kiến trúc lịch sử cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 măi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Đây là một ṭa thành h́nh vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m, phía đông nam sát bờ sông Hương nh́n về phía trước là núi Ngự B́nh. Ngoại thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra c̣n có 10 cửa chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vàọ Ṭa thành được kiến trúc độc đáo, từ kiểu Vauban của Pháp cho tới nghệ thuật xây cất Á Đông, biểu hiện nét hoành tráng, lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành, vọng lầu, cửa ngọ môn.. cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu khắc hài ḥa trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.

    Ngược ḍng lịch sử, từ năm 1366 Huế đă là thủ phủ của Đàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân của Chiêm Thành, dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Những ǵ c̣n lại của Huế hôm nay chỉ là một phần công tŕnh của cố đô trong đống gạch vụn do VC và bọn Việt Gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968.

    Ngoài ra Huế c̣n nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự B́nh trước tṛn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt. Nói tới Huế để nhớ về những h́nh ảnh nổi bật dịu dàng của người dân đất thần kinh như mái tóc thề, tà áo dài trắng, chiếc nón bài thơ, những giọng ḥ, câu hát..tất cả là những nét đẹp làm Huế miên viễn sống với sông núi thời gian.

    Đến Huế để ăn những món vương giả cũng như b́nh dân tính hơn 600 món vừa chay, vừa mặn, vừa cháo, vừa chè kể cả bánh, mứt và đủ thứ dưa. Đến Huế đâu quên món bún ḅ gị heo cọng to rất cay, rồi th́ bánh khoái nơi cửa Thượng Tứ, chiều tối đi ăn cơm Âm Phủ, là thứ cơm thập cẩm đặc biệt với món dưa gan làm món chua rất ngon. Cũng đâu quên được cơm hến bến Cồn, một hương vị đặc thù của Huế, giống như nem chua An Cựu, mè xửng và ốc gạo bến Cồn, mực Thuận An và ṣ huyết Lăng Cô. Cuối cùng nhớ Huế là nhớ đến công tŕnh mở nước vĩ đại của các Chúa Nguyễn Hoàng, Sải Vương, Hiền Vương, Phúc Chu, Phúc Trú..cho ta một giải giang sơn gấm vốc tới tận mũi Cà Mau no giàu để con cháu về sau một đời sung măn.

    Những đấng tiên vương công đức và sự nghiệp ngất cao như núi trên, từ khi VC lên nắm quyền, đă bị chúng hủy diệt, để dành công, dành tiếng và dành địa vị độc tôn yêu nước trong ḍng sử Việt. Từ năm 1967, Hà Nội đă quyết định tổng tấn công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968.

    Trong số 44 tỉnh, thị tại miền nam bị đột kích, th́ Sài G̣n và Huế là quan trọng hơn cả. V́ trại Lực Lượng Đặc Biệt A-Shau rút đi, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngơ và VC đă lợi dụng dịp này để chuyển một số lớn bộ đội vào tấn công cố đô với sự dẫn đường chỉ lối của đám Việt gian VNCH tại Huế. Trận chiến mở màn vào sáng mồng hai Tết, nhằm ngày 31-1-1968, bằng hai cánh quân: Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công BTL.SD1BB tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Đại Nội. Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ phía nam, hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam. Ngoài ra c̣n có Đoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416, 418 hợp với một đơn vị mang tên Đường 12, tấn công mặt tây. Cũng nói thêm là VC đă lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965, 1966, xâm nhập hoạt động cũng như móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viên, quá mê thầy mà phản bội lại VNCH. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, v́ vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Đại Nội trong thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các ṿng vây của quân lực Hoa Kỳ và VNCH.

    Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, đă vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Đóạ Ngoài ra c̣n có Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm Nhạc Kịch Nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đă lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, c̣n Đào Thị Xuân Yến và Hoàng Phương Thảo làm phó. Ngoài ra c̣n có cái Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do Lê Văn Hảo, tiến sĩ giảng sư về nhân chủng học tại Đại Học Huế và Sài G̣n làm chủ tịch liên minh. Theo Hảo v́ trốn lính, nên 1953 qua Pháp du học và tiêm nhiễm chủ nghĩa cộng sản của Trần Văn Khê, Nguyễn Khắc Viện, nên vào các năm 1965, 1966 dù đang sống trong cảnh giàu sang, chức trọng lại được trốn lính nhưng vẫn táng tận lương tâm, theo VC nằm vùng là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm vào MTGPMN và ra bưng cuối tháng 12/1967.

    Trong Liên Minh Ma này c̣n có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Thích Đôn Hậu, Nguyễn Đóa, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân..Tóm lại, mặt trận được chỉ huy tổng quát bởi Lê Minh, Trưởng ban an ninh khu ủy Trị Thiên, c̣n Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đ́nh Bảy Khiêm th́ lo về phần thủ tiêu, giết người vô tội tại Huế.

    Theo Bảy Khiêm, chính y đă giết rất nhiều sĩ quan và cán bộ, công chức VNCH bị kẹt tại Huế, cùng các giáo sư người Đức dạy tại đại học Y Khoa, qua chỉ điểm của VC nằm vùng và sau này Lê Minh lẫn Bùi Tín đều xác nhận VC đă tận tuyệt tàn sát vô nhân đạo đồng bào vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.

    Ngay từ đầu, nhờ lợi dụng dịp hưu chiến, nhiều đơn vị cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đă chiếm được hầu hết các cơ sở hành chính, khu Đại Nội, chợ Đông Ba, cửa Thượng Tứ, An Ḥa, Chánh Tây..ngoa.i trừ BTL SD1BB tại đồn Mang Cá, cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, đài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát.

    Ngày mồng ba Tết 1-2-1968, một ngày sau đó, Chiến đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2, 7 và chi đoàn 2/7 từ phía bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC cùng 4 chiến xa M48 trong Chiến đoàn X-Ray đóng tại Phú Bài cũng về Huế tăng cường pḥng thủ MACV. Chiều ngày mồng 4 Tết, TĐ 9 Dù được trực thăng vận vào chiến trường, từ đây cho tới ngày 12-2-1968, cuộc chiến trở nên khốc liệt bạo tàn với sự tổn thất nhân mạng rất cao của cả hai phía. Cùng ngày đó, Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến VN gồm các tiểu đoàn 3, 4, 5 thay thế Chiến đoàn Dù, tiếp tục giải tỏa áp lực VC tại sân bay Tây Lộc và Đại Nội.

    Ngày 19/2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BĐQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy.

    Ngày 25/2/1968 Biệt Động Quân chiếm lại Khu Gia Hội, chấm dứt chiến cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường sá gần như tử địa với xác người nằm la liệt đă śnh thối. Tất cả chỉ c̣n là sự tàn nhẫn, thê lương, từ bàn tay đẫm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên. Tóm lại không c̣n lời nào để đủ viết về Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn đau găy sập.

    Hỡi ôi sắt thép, gỗ đá c̣n biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó lại có không ít người thản nhiên đứng vỗ tay cười.


    2. Thảm sát Mậu Thân tại Huế:

    Những hành động dă man nhắm vào dân lành tại Huế, làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cộng sản, dù chúng là ai chăng nữa, tất cả đều giống nhau v́ cùng chung một tổ, một ḷ.

    Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất v́ bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sở dĩ bị tàn sát dă man, theo một số nhân chứng, do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương v́ thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà, lôi từng người ra bắn giết theo ư muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Maoit.

    Đọc lại những trang sử của VNCH từ 1963 tới tháng 4-1975, ngày nay cả thế giới đều công nhận là VC thua VNCH trên mặt trận quân sự nhưng ngược lại chiếm được miền nam bằng thủ đoạn chính trị, qua phương cách sách động quần chúng, đồng thời vịn vào đó mà nặn ra những mặt trận ma như Giải Phóng Miền Nam năm 1960, rồi sau đó là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do phần lớn cộng sản nằm vùng lănh đạo như Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm.

    Trong số các hung thần can dự tới bữa tiệc máu tại Huế, dư luận trước sau vẫn nhắm vào Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TÀI LIỆU THAM KHẢO:
    TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968

    Hoàng Phủ Ngọc Tường,
    kẻ hái phù du sau thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế


    Năm 1966 khi c̣n là một sinh viên, Nguyễn Đắc Xuân từng tổ chức đoàn "Phật Tử Quyết Tử" quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội "Công tác thanh niên" và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt, để lập cái gọi là đoàn nghĩa binh.. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa, trái lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài..

    Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa Kỳ phản công, ngày 7-2-1968 VC giựt sập cầu Trường Tiền. Ngày 15-2 Quân Ủy cộng sản tại Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế, nhưng t́nh h́nh càng lúc càng bi đát cho VC nên Lê Minh muốn rút quân.

    Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú Văn Lâu. Nói chung cộng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội v́ vùng này bị VC chiếm lâu nhất từ ngày mùng 2 Tết đến 22-2-1968 mới được Biệt Động Quân giải tỏa, bởi vậy giặc và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội.

    Cho đến nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt t́m được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh đuổi khỏi thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Băi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh Thái, Phù Lương, Phú Xuân, Thượng Ḥa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài.. tổng cộng đếm được 2326 xác.

    Về câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến nay Hà Nội vẫn tránh né, c̣n Vơ Nguyên Giáp th́ đểu giả hơn khi bị các kư giả ngoại quốc phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đă trả lời là Bắc Việt không hề biết v́ đó chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, th́ động cơ cộng sản tàn sát dân chúng tại Huế, ngoài một lư do nhỏ là sự trả thù do hờn oán trước đây giữa cá nhân và cá nhân, th́ tàn sát theo kế hoạch phá hủy và làm rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH, điều này đă được ghi lại trong một tài liệu của cán bộ VC, bị SĐ1 Không Kỵ Hoa Kỳ bắt được tại tỉnh Thừa Thiên ngày 12-6-1968.

    Tàn sát để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng đừng ṭng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Thiên Chúa Giáo để chia rẽ sự đoàn kết tại miền nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới ngày VC cưỡng chiếm được miền Nam mới chấm dứt v́ VC độc tài đảng trị, cấm biểu t́nh xuống đường, nên bốn bên bốn phía b́nh đẳng chịu sống chung ḥa b́nh, nên gần như không thấy tự thiêu, tuyệt thức và ra báo chống đối, bêu xấu, hạ nhục chính quyền như cơm bữa thời VNCH. Tàn sát dân chúng để gây tiếng vang với thế giới.

    Trong ḍng Việt Sử, từ thời Vua Hùng dựng nước cho tới ngày nay, chỉ thấy có ghi lại một cuộc tàn sát tập thể tôn thất nhà Hậu Lư do Trần Thủ Độ gây ra vào năm 1232 bằng thủ đoạn cho giựt sập nhà trai đàn, giết chết chừng vài chục người trong tôn thất nhà Lư nhưng hành vi trên dù đă thuộc vào quá khứ, đến nay vẫn bị đời nguyền rủa, dù mặt thật của lịch sử, nếu không có Trần Thủ Độ sẽ không có Trần Thái Tông quyết chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng Đại Việt lần thứ 1 với câu nói vang danh thiên cổ: "đầu Độ chưa rơi, không thể đầu hàng giặc Mông".

    Cũng qua ḍng Việt sử, ta thấy kinh thành Thăng Long từ lúc được vua Lư Thái Tổ chọn làm kinh đô vào năm 1010 cho tới thời Pháp thuộc vào năm 1884 đă 10 lần bị giặc Tàu, giặc Chiêm cả Pháp tàn phá chiếm đóng và kinh thành Huế thất thủ năm Ất Dậu 1885 nhưng tuyệt nhiên không thấy nói tới quân ngoại quốc tàn sát người Đại Việt khi làm chủ thành.

    Tóm lại dù bị kết tội như thế nào chăng nữa, người Tàu, Chiêm, Pháp cũng c̣n nhân đạo hơn VC trăm ngàn lần, về cung cách đối xử với thường dân trong chiến tranh. Đem các biến cố năm 1885 tại Huế và 1946 ở Hà Nội để so sánh với Mậu Thân 1968 tại Huế, bỗng thấy lạnh ḿnh về những lời chạy tội của tên Đại Tá VC Bùi Tín, khi trả lời về cuộc tàn sát của VC đối với thường dân tại Huế năm 1968, theo nhận xét của Nguyễn Đức Phương trong Chiến Tranh Toàn Tập, th́ Bùi Tín không biết ǵ về qui ước Geneve dành cho tù binh chiến tranh, hoặc biết nhưng giả bộ ngây thơ không biết để có lư do bào chữa sự tàn ác dă man của cán binh VC và biết thêm về quan niệm của Hà Nội, luôn qui chụp tất cả những ai chống đối họ, đều bị gán là tù binh với kết quả như Bùi Tín nói là phải được chết để giữ ǵn bí mật quốc pḥng.

    Theo Chính Đạo trong "Mậu Thân 1968 Thắng Hay Bại" th́ sau khi các mật khu bất khả xâm phạm của VC tại Tam Giác Sắt, các chiến khu CĐ bị quân đội Đồng Minh và QLVNCH phá tan nát, khiến Nguyễn Chí Thanh trùm cộng sản Hà Nội, chỉ huy Cục R đă phải thay đổi chiến lược tại Miền Nam vào tháng 5/1967, là đưa chiến tranh vào thành phố để cứu nguy cho cán binh và cơ sở VC tại nông thôn đang sắp bị tiêu diệt.

    Nhưng rồi Nguyễn Chí Thanh đột ngột chết vào mùa thu năm đó và cái chết của y tới nay vẫn chưa được đưa ra ánh sáng v́ có quá nhiều nguồn tin và các cách chết khác nhau từ VNCH, Bùi Tín, Hoa Kỳ và Xuân Vũ, một cán binh VC hồi chánh từng sống hơn 2000 ngày tại Củ Chi và rất thân cận cũng như am tường chuyện thâm cung bí sử của vua chúa VC tại Cục R. Do trên Lê Duẩn ra lệnh cho Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng..cải tiến kế hoạch đột kích của Nguyễn Chí Thanh, thành tổng công kích và thêm vào đó là lập một mặt trận ngoại giao chính trị.

    Cũng theo Chánh Đạo, th́ việc Trần Độ năm 1968 là Phó chính ủy B2, phụ trách t́nh báo, có địa vị tại cục R rất khiêm tốn so với Phạm Hùng, Trần Nam Trung, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn.. nên dù là một trong những cấp chỉ huy trong mặt trận tại Sài G̣n vào Tết Mậu Thân 1968, cũng chưa chắc được Quân Ủy Hà Nội thông báo các kế hoạch bí mật trong Đảng và lời tuyên bố không có cơ sở, với kư giả Stanley Karnov năm 1981 rằng phản ứng của Mỹ trong cuộc chiến này, chỉ là sự may mắn không có dự liệu trước. Chỉ v́ dă tâm xâm lăng cho được VNCH, mà Hà Nội trong cuộc chiến Mậu Thân đă giết hại hàng chục ngàn người trên toàn quốc và chỉ riêng tại Huế lại chôn sống đồng bào, vậy mà tới nay từ Hà Nội cho tới bọn cộng sản tại Huế vẫn coi như không hề xảy ra một chuyện ǵ và cũng chẳng có ai nhận trách nhiệm, ngoài việc công khai đổ hết nợ máu cho Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đóa, Nguyễn Đắc Xuân.

    Năm 1998, ngày giỗ chung của gần 100.000 người VN chết trong cuộc chiến cũng là ngày VC ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, ca tụng bài thơ của Hồ viết chúc Tết đồng thời cũng là mật hiệu cho cán binh tại miền nam mở cuộc tiệc máu. Chính Bộ Trưởng quốc pḥng Bắc Việt lúc đó là Vơ Nguyên Giáp soạn thảo kế hoạch, Phạm Hùng Ủy viên Bộ Chính trị, chỉ đạo Trung Ương Cục Miền Nam chỉ huy trận tổng tấn công, vậy mà cũng chính Vơ Nguyên Giáp đă trâng tráo dám nói láo với nhà báo Tây Phương vào năm 1969 là hoàn toàn vô can, vô trách nhiệm. Đây là một tội danh thiên cổ của VC đă gây ra trong ḍng sử Việt, được các sử gia xếp chung với bốn cuộc tàn sát lớn trên thế giới cận đại như vụ quân Nhật tàn sát 300.000 người Hoa tại thành Nam Kinh ngày 13-12-1937, việc Đức quốc xă giết hàng triệu dân Do Thái trong đệ nhị thế chiến 1939-1945, kế đến là cộng sản Liên Xô tàn sát 15.000 tù binh Ba Lan năm 1940 và Khmer đỏ tàn sát hơn 2 triệu dân lành sau năm 1975 khi chiếm được Cao Mên.

    Theo Nguyễn Lư Tưởng, th́ những hành động dă man của VC, tại Thành Nội và Gia Hội, do cái gọi là Ṭa Án Nhân Dân được quyết định bởi các chóp bu trong Liên Minh Dân Chủ Ḥa B́nh, là Lê Văn Hảo, Thích Đôn Hậu, bà Nguyễn Đ́nh Chi..nhưng chủ chốt và dă man tàn bạo vẫn là bọn theo phong trào tranh đấu chống VNCH năm 1966, sau đó theo VC và quay về Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường (giáo sư), Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên y khoa), Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên sư phạm), Trần Quan Long (sinh viên sư phạm), Phan Chính Dinh hay Phan Duy Nhân (sinh viên).. dẫn an ninh VC như Tống Hoàng Nhân, Bảy Khiêm..đi lùng bắt bạn bè, thân nhân, các thành phần quân, công, cán, chính VNCH cũng như các đảng phái bị kẹt lại tại Huế.

    Hiện nay tất cả những bí mật của lịch sử gần như được khai quật trong đó có cuộc thảm sát thường dân tại Huế năm Mậu Thân. Những tội nhân thiên cổ ngoài bản án của lương tâm, đạo đức và sự nguyền rủa của đời, nên không ngớt t́m đủ mọi cách để biện minh về tội lỗi của ḿnh.

    Năm 1988, trên báo Sông Hương và được dịch đăng lại trên tờ Newsweek ở Hoa Kỳ, Đại Tá Bắc Việt Lê Minh, nguyên chỉ huy mặt trận Thừa Thiên-Huế, xác nhận và chịu trách nhiệm về việc tàn sát dân chúng Huế nhưng vẫn đưa ra lư do là lúc đó VC đang ở vào giờ thứ 25, nên không kiểm soát được.

    C̣n thủ phạm chính Hoàng Phủ Ngọc Tường th́ đổ thừa cho cục bộ, địa phương chứ không phải tại đảng, vẫn giữ nguyên ư là miền nam mất v́ cách mạng chứ không bị cộng sản quốc tế xâm lăng, và trên hết vào ngày 12-7-1997, Tường công khai chối tội là không tham dự mặt trận Huế, v́ lúc đó y đang trốn tại địa đạo trong quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. C̣n nhân vật bị bia miệng nhắc tới là Hoàng Phủ Ngọc Phan..mà người Huế tưởng lầm Lê Văn Hảo hiện đang sống tại Pháp cũng chối tội. Sau rốt chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân v́ lúc đó gần như là công an, cai tù, chánh án và đao phủ thủ..nên người Huế ai cũng nhận được, v́ vậy phải chịu tai tiếng nhơ nhớp muôn đời.

    Ngày nay ai cũng biết Tết Mậu Thân, VC thua lớn và Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử v́ đă cố t́nh tạo nên một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức, gây tử vong cho nhiều người có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật.


    3. Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ hái phù du:

    Phù Dung là một thứ hoa chỉ sống được có một ngày, nở vào buổi sáng và tàn lụn theo bóng đêm tàn, thứ hoa phù du mây nổi mà thi nhân thường mượn để ví những đệ tử của nàng tiên nâu. Hoa phù dung rất đẹp, cây cao chừng hai thước, lá to, hoa phù dung thường có ba màu đỏ, trắng và vàng. Hoa phù dung c̣n được ví với sắc đẹp của người đàn bà, như trong thơ của Bạch Cư Dị: "Phù dung như diện, liễu như mi", nghĩa là mặt tươi như hoa phù dung, mày lá liễu. Trong Kiều có câu "Bạc t́nh nổi tiếng lầu xanh, một tay chôn biết mấy cành phù dung.." nhưng thắm thía nhất vẫn là hai câu thơ trong Quan Âm Thị Kính: "Phù Dung nỡ để ĺa cành, giếng sâu nỡ để rơi b́nh từ đây". Theo triết học, th́ kiếp phù du chỉ là một cuộc phong trần không không có có, không nở không tàn, lúc có lúc không, tất cả chỉ là phù du trong cơi vô thường.

    Thơ văn là biểu tượng của con người, Tố Hữu bản chất chạy theo thời để mưu cầu quan chức, địa vị nên thơ Tố Hữu luôn mang bản chất của một con người đội trên đạp dưới. Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Văn Thiên Tường, Nguyễn Bá Trác kẻ sĩ gươm đàn nửa gánh giang sơn một bầu..cho nên thơ văn luôn thoát tục, ẩn hiện cái hào khí cao ngất của đấng trượng phu. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, chỉ riêng cái tựa của thi tập và ư thơ trong bài "Đùa chơi" nhiều lúc người đọc, nếu không biết trước y là tên phản tặc, gian ác, đem một phần đời và cả danh giá của ḍng họ tôn quư vùi dưới bùn nhơ, khi nhẫn tâm theo lệnh VC tàn sát dân chúng vô tội, rất dễ bị lầm lạc, v́ qua ư thơ, cứ ngỡ đây là một cao tăng, một thánh nhân hay ít ra cũng thuộc kẻ sĩ ngẩn mặt nh́n trời:

    "Ta t́m lại trong h́nh hài hóa bướm,
    Chút tự do quả thực trên đời
    Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng
    Núi thông nhiều, ta hăy rong chơi"

    Đọc đoạn thơ ngắn trên mới thấy lạ, và càng ngớ ngẩn với câu "chút tự do quả thực trên đời" như vậy cả một quăng đời từ năm 1963 cho tới 1975, v́ ai mà phải bỏ đời, dấn thân vào con đường man rợ, nón tai bèo, đôi dép râu, AK, mă tấu và cái lưỡi không xương lắt léo làm chuyện đổi trắng thay đen? Đă làm th́ phải nhận, phương chi hành động của ḿnh nay đă thành một tội danh thiên cổ, ngàn đời muôn kiếp, bia miệng bia đời không tha, th́ không thể "Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng" để thành tiên rong chơi trên núi thông. Hỡi ơi chỉ v́ chút phù du cuộc đời, mà phải mang mặt nạ phá đời, chẳng riêng đă hại đời ḿnh, mà c̣n làm cho thế tộc ô danh, nước non tan tác, dân chúng cả nước lầm than khổ lụy "đừng hỏi nữa em ơi, thầy lên đường đánh Mỹ" trong lúc đó bên cạnh thầy th́ đầy rẫy Nga, Tàu, Bắc Hàn, Cu Ba, Đông Đức.

    Có cái ngang trái vô thường, là nếu như Lê Khắc Quyến, Lê Văn Hảo, Lê Tuyên, Nguyễn Đắc Xuân và anh em nhà Hoàng Phủ..v́ thuộc loại dân chúng bị chế độ VNCH đè ép phải sống cùng khổ mất tự do, nên mới theo VC để may ra xoay bạch ốc thành lâu đài, ném thanh y t́m gấm vóc, đàng này th́ ai nấy đều ở trên mức thượng thừa, vậy th́ làm giặc để làm ǵ đến giờ này một chút tự do cho ḿnh, cho đời vẫn chưa có. Năm 1971, khi mà chiến trường miền nam bước vào giai đoạn tàn khốc, Hà Nội cần máu xương thanh niên nam nữ để đốt rụi Trường Sơn, mở lối vào Nam, nên cũng cần tung hê một số phản tặc của VNCH đă chạy theo, v́ vậy mới phong cho Hoàng Phủ Ngọc Tường lên chức nhà thơ VC và cho đài phát thanh phổ biến bài thơ "Tôi đi trên những con đường rừng cũ" cũng nhờ vậy mà Tường đă lọt vào mắt xanh của Lâm Thị Mỹ Dạ, cùng khóa với Dương Thu Hương tại trường viết văn Nguyễn Du ở Hà Nội năm 1972:

    "Hai mươi năm dài trên trán mẹ
    Những con đường rừng vẽ nét ưu tư"

    Thơ hay, đáng tiêu biểu cho một con người, đúng ra là một cái xác biết đi, sống như đă chết v́:

    "hai mươi năm biết ai c̣n nhớ?
    nhưng từ đó cây hoang rừng già "

    Đó mới là nỗi khổ của một đời người, người ta quên th́ ḿnh tiếc, người ta nhớ ḿnh sợ, đăm chiêu, nghèn nghẹn sống làm sao nổi đây hỡi trời?

    Quả thật suốt phần đời c̣n lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường, không bao giờ thoát nỗi ám ảnh của tội lỗi một thời gây ra, đâu đâu cũng là một địa chỉ buồn, nơi nào cũng gặp cố nhân, những người mà Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một phút phù du, đưa họ về bên kia thế giới:

    "Những chiều bến Ngự dâng mưa
    Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
    Tôi ra mở cửa đón người
    Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang."

    Tất cả giờ chỉ c̣n lại bóng tối, thời gian để hoa phù dung tàn lụn, tất cả cũng đă cạn tàu khi cái sân si biến vụt vào cơi không không. Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn nuôi ảo tưởng hăo huyền là lưu lại với đời tuổi tên, nhưng tiếc thay lầm đường lạc nẻo, theo kẻ ác làm ác, rốt cục một ḿnh thui thủi đi về trong cơi phu du, sám hối cho tới chết vẫn chưa yên hồn ./-


    Xóm Cồn 11-13-04

    Hồ Đinh

  7. #17
    chichchoe
    Khách
    Bó tay với trí thức VN, hèn, ác, chắc tại do tính t́nh háo danh, nhỏ mọn, bần tiện nên nước VN mới ra nông nỗi này. Nguyên nhân sâu xa là do bản chất người VN quá xấu, bị ảnh hưởng di truyền và tác động của chế độ phong kiến, thực dân để lại khiến cho con người thù hận, oán ghét, tư thù cá nhân. CS thành công là nhờ trí thức VN đó chứ.

  8. #18
    Member Dr_Tran's Avatar
    Join Date
    23-03-2011
    Location
    Northeast US
    Posts
    8,654
    Quote Originally Posted by chichchoe View Post
    Bó tay với trí thức VN, hèn, ác, chắc tại do tính t́nh háo danh, nhỏ mọn, bần tiện nên nước VN mới ra nông nỗi này. Nguyên nhân sâu xa là do bản chất người VN quá xấu, bị ảnh hưởng di truyền và tác động của chế độ phong kiến, thực dân để lại khiến cho con người thù hận, oán ghét, tư thù cá nhân. CS thành công là nhờ trí thức VN đó chứ.
    Các bạn ghi nhớ danh sách đám Ăn cơm quốc gia, Thờ ma Việt Cộng này:

    http://www.vietlandnews.net/forum/sh...911#post115911

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc thảm sát Huế

    Cuộc thảm sát Huế



    Từ trước năm 1966 Việt cộng đă có kế hoạch chiếm Huế làm địa bàn sinh động cho Mặt trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) với chiêu bài nhân dân Miền Nam chống chánh quyền Việt Nam Cộng Ḥa với thể chế Trung lập do chúng dàn dựng lên để ḷe bịp quốc tế, hầu dễ bề tiến chiếm Miền Nam.

    Tháng tư 1966 Việt cộng thành lập Khu ủy và bộ Tư lịnh quân khu Trị Thiên Huế tách khỏi quân khu 5 do Thiếu tướng Trần văn Quang Tư lịnh, Đại tá Lê Minh phụ tá kiêm Trưởng ban An ninh quân khu và Lê Chưởng chính ủy.

    Tháng năm 1966 Khu ủy Trị Thiên Huế lănh đạo Phong trào Phật giáo đấu tranh Huế tạo thành cơn hỗn loạn ở Huế với nhà sư đội lớp cộng sản Thích trí Quang cầm đầu nhóm Phật tử Huế theo lịnh của Trung tá Việt cộng Hoàng kim Loan, c̣n thêm Nguyễn đắc Xuân tổ chức lănh đạo Phật tử quyết tử Huế, kêu gọi quân nhân Huế và sư đoàn I Bộ binh thành lập Sư đoàn ly khai chiếm lănh nhiều cơ sở ở Huế suốt mấy ngày đêm, đ̣i hỏi Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam để cho nhân dân Việt Nam được tự quyết sống ḥa b́nh theo đường lối MTGPMN. Chúng thành lập biệt đoàn Phật giáo gồm có theo lời chúng phóng thanh: 9 ḥa thượng, 15 thượng tọa, 398 chùa, 220 tăng ni sư săi, 80,000 Phật tử.

    Chúng đốt phá Pḥng thông tin và thư viện Mỹ ở Huế, chiếm lănh nhiều quận thuộc thành phố Huế, làm cho chánh quyền Huế bị tê liệt suốt mấy ngày đêm với nhiều vị tướng tư lệnh Vùng I không giải quyết được măi đến tướng Nguyễn ngọc Loan ra nắm quyền hành, phối hợp lực lượng Cảnh sát và quân nhân các quận c̣n lại của Tiểu khu Thừa Thiên hợp lực cùng Sư đoàn I BB với Đồng minh phản công mănh liệt đánh bật chúng ra khỏi Huế, khiến cho khối ly khai trốn theo chúng tới vùng khu chiến Trường Sơn, tức tối lo lập danh sách thành phần phản động không chịu theo chúng, nhứt là khối công giáo Huế cùng những tín đồ Phật giáo trung kiên, ngoài ra chúng c̣n lập danh sách những thành phần có nợ máu với chúng mệnh danh là “Ác ôn côn đồ” hay “Cường hào ác bá”. Chúng c̣n thêm danh sách các viên chức hành chánh các cơ quan quận tỉnh và xă ấp chống đối chúng trong trận chiến vừa qua.

    Trong số những người theo cộng sản gây hỗn loạn ở Huế năm 1966 có cả Tiến sĩ Lê văn Hảo, giáo sư đại học Huế và Sàig̣n tham gia Phong trào ly khai Huế bị bắt giam sau khi Việt cộng rút lui, nhờ viện Đại học Huế bảo lănh ra khỏi tù tội sống thoái mái dạy học trở lại. Nhưng sang năm sau 1967 lại phản bội theo Hoàng phủ Ngọc Tường và Tôn thất Dương Tiềm, bọn cộng sản nằm vùng móc nối trốn vào mật khu MTGPMN lănh đạo cuộc Tổng phản công Huế năm 1968.

    Đầu xuân Mậu Thân Việt cộng chấp nhận ngưng chiến để Quân dân ăn Tết, nhưng thật ra chúng chuẩn bị cuộc Tổng công kích Huế khá đầy đủ thực lực về quân số và lương thực cùng vũ khí tối đa để tử thủ lấy Huế làm nơi ra mắt Chánh phủ MTGPMN với quốc tế. Mật lệnh ban hành khởi chiến là bài diễn văn chúc Tết của Hồ tặc trên đài truyền thông mở cuộc tổng công kích toàn quốc Việt Nam Cộng Ḥa trên 40 Tỉnh và thị xă làm diện và điểm chính là Thừa Thiên Huế, khiến cho toàn bộ quân cán chính VNCH mắc kế phải tự lực giải tỏa áp lực tại địa phương, không tiếp viện được, phải lo đầu tiên gom quân đi nghỉ phép quá đông, lực lượng pḥng vệ kém cỏi để chúng tự do hoành hành chiếm đóng khắp nơi từ 2 ngày cho đến 26 ngày lâu nhứt ở Huế.

    I.- MẶT TRẬN TẾT MẬU THÂN HUẾ.

    Trong lúc toàn dân Việt Nam Cộng Ḥa tưng bừng đón Xuân, bắt đầu giao thừa, sau khi Hồ tặc đọc xong bài diễn văn chúc Tết, tiếng súng đ́ đùng chen lẫn tiếng pháo, đặc công Việt cộng bắt đầu tấn công các căn cứ Cảnh sát, các Tiểu khu và Chi khu khắp toàn quốc VNCH chiếm đóng các vùng đông dân cư, các cao ốc và tử thủ. Tiếp theo là các đơn vị chánh qui tiếp viện tấn kích dữ dội nhứt là tại Khu ủy Thừa Thiên Huế với lực lượng hùng hậu mong chiếm đóng lâu dài, hầu chúng có thể tuyên xưng MTGPMN tŕnh diện chánh phủ với chiêu bài chánh phủ nhân dân Việt Nam đứng lên đ̣i hỏi Mỹ rút quân để dân chúng được quyền “Dân tộc tự quyết”.

    Chúng đă chuẩn bị cuộc xâm chiếm Huế với lực lượng quy mô gồm có:

    a- 2 Trung đoàn chủ lực E 6 và E 9

    b- 4 Tiểu đoàn bộ binh thuộc Quảng Trị và Thừa Thiên

    c- 4 Tiểu đoàn đặc công

    d- 2 Tiểu đoàn pháo binh

    e- 1 Tiểu đoàn công binh

    g- 1 Trung đoàn 9 tăng cường

    h- 1 Trung đoàn 2 của sư đoàn 324

    i- 3 Trung đoàn 8 - 3 - 1 của sư đoàn 325.

    k-700 cán bộ được huấn luyện thành thục chuyên nghiệp chiếm lănh hành chánh và trị an.

    Tổng cộng 7.500 quân cán và vận tải 3.000 tấn lúa gạo làm lương thực cùng vũ khí đạn dược đă được bí mật chuyển vào Huế từ trước những ngày sắp Tết. cùng với đặc công sẵn sàng trong tư thế tác chiến.

    Sau khi mật lịnh ban hành, đặc công Việt cộng đồng loạt ứng lên nổ súng bất ngờ một lượt lúc 2 giờ 35 khuya ngày 31-1-1968 tấn công đồn Mang Cá, Bộ Tư lrnh quân đoàn 1 BB, sân bay Tân Lộc, khu Cột cờ Đại Nội, khu Gia Hội, khu chợ Đông Ba từ phía Bắc tiến xuống. Cánh quân phía Nam tiến lên tấn công Tiểu khu Thừa Thiên, cơ sở Cảnh Sát, đài Phát thanh Huế, cầu Kho Rèn, Ṭa đại biểu Chánh phủ, dinh tỉnh trưởng, nhà ga, nhà lao Thừa Phủ, thả tất cả tội phạm h́nh sự và chánh trị phạm để theo chúng hoạt động mạnh mẽ trả thù ác liệt.

    Trận chiến mănh liệt với ba mặt trận:

    a-Mặt trận Thành nội (Quận Nhứt) do Đại tá Lê trọng Đấu chỉ huy chiếm lănh và tấn công các đơn vị trong phạm vi nầy, trong lúc quân trú pḥng quá kém cỏi chỉ có thủ mà thôi, nên dễ bị xâm nhập và triệt hạ nhiều đơn vị.

    b-Mặt trận quận Nh́ (Tả ngạn sông Hương) do Chính Ủy Hoàng Lanh lănh đạo chiếm giữ tất cả cơ sở hành chánh và trường học.

    c-Mặt trận quận Ba (Hữu ngạn sông Hương) bao gồm giáo xứ Phú Cam, quận Hương Thủy và Cồn Hến do Nguyễn mậu Hiên chỉ huy.

    Quân lực VNCH do Đại tá Ngô quang Trưởng Tư lệnh Sư đoàn 1 BB vẫn cố gắng chống đỡ các đợt tấn công dữ dội đồn Mang cá, cơ quan MACV của Mỹ cũng bị tấn công ráo riết, Tiểu khu Thừa Thiên do Địa phương quân trấn giữ chỉ có thế thủ mà thôi, đài Phát thanh Huế và trường Kiểu Mẫu được Cảnh sát trấn giữ hết sức cam go, Hải quân VNCH c̣n giữ được cầu tàu Hải quân để chờ các tuần dương hạm và khu trục hạm đang hành sự ở vùng biển thuộc Quân đoàn I về tiếp trơ, duyên cớ do quân lính về nghỉ phép hết phân nửa để ăn Tết với gia đ́nh, nên lực lượng trú pḥng quá yếu ớt chỉ có lo tử thủ mà thôi. Phải chờ cả tuần lễ sau, mới tập hợp lại tương đối quân số và lực lượng phản công ác liệt cùng với Đồng minh sử dụng mạnh mẽ hỏa lực tối đa, tiến đánh từng khu phố, từng cơ sở bị chiếm đóng đuổi cộng quân đi, trong lúc Hà nội ra lịnh tử thủ và tăng cường thêm Trung đoàn 141 bảo vệ các cứ điểm đă chiếm được măi đến ngày 25-2-68 mới giải tỏa được khu Gia Hội. Đại đội Hắc báo Sư đoàn I BB chiếm lại được Kỳ đài hạ cờ Việt cộng xuống thượng cờ VNCH lên trong tiếng súng nổ đ́ đùng với mấy vần thơ bất hủ:

    “Huế Phú văn Lâu ngày chiếm lại

    Dựng cờ vàng ngạo nghễ Trời xanh,

    Anh hi sinh vết đạn cờ rách

    Em vá cờ em nhớ măi anh!”

    Đại tá Trưởng đem tất cả cương quyết tái chiếm Huế không c̣n th́ giờ lo bảo vệ gia đ́nh 1 vợ 3 con ở tư dinh bị Đặc công Việt Cộng tấn công tới tấp suốt mấy ngày đêm với tiểu đội bảo vệ tư dinh bị phá sập lô cốt chết hết một chiến sĩ phải bỏ chạy tháo thân về phương Nam trốn tránh trong nhà của dân chúng, kế tiếp được Lực lượng đặc biệt tiếp đón và đưa sang trại quân đội Nhảy Dù trú ẩn. Xứng đáng một quân nhân lo tṛn trách nhiệm “Nợ nước trước t́nh nhà.”

    Sau 25 ngày đêm giao tranh ác liệt với lực lượng hùng hậu của Việt cộng mới tái chiếm hoàn toàn Huế, đuổi tàn quân Việt cộng triệt thoái thoát ra vùng núi Trường sơn và biên giới Lào Việt sau khi đă thảm sát nhân dân Huế tới trên 5.800 nhân mạng suốt cuộc chiếm đóng khắp thành phố Huế và các vùng phụ cận cùng lúc rút quân bỏ chạy.

    Trận chiến Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 trên toàn quốc VNCH quân số MTGPMN bị thiệt hại tới trên 60.000 tê liệt hoàn toàn, phải bổ sung quân số bằng quân lính Bắc Việt tăng cường từ Sư đoàn tới Quân đoàn bắt lính cả thanh niên và thiếu niên để thực hiện việc tŕnh diện MTGPMN với quốc tế bằng cách chiếm lănh Phước Long suốt mấy năm để cho Chánh phủ MTGPMN hành sự theo mệnh lệnh Bắc bộ phủ.

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    II.- MỤC ĐÍCH CHIẾM HUẾ.

    Lọt vào Huế được rồi, Việt cộng giả dạng thường dân về Huế ăn Tết với đầy đủ vũ khí và lương thực sẵn sàng tác chiến khi nhận được lịnh hành quân qua bài diễn vân chúc Tết Mậu Thận của Hồ tặc nhân dịp lễ Giao thừa. Chúng nổ súng trùng hợp với tiếng pháo nổ đ́ đùng khiến cho mọi người dân Huế vẫn tin tưởng b́nh thường ăn Tết, không pḥng bị ǵ cả. Măi đến khi bị chúng đến từng nhà xét tra, bắt bớ mới hay Việt cộng đă tràn ngập khắp nơi trong thành phố Huế chận đứng mọi sinh hoạt của thành phố suốt thời gian chiếm đóng, nhứt là quân nhân cán bộ viên chức hành chánh xă ấp, cảnh sát bị chận nghẹt khó trở về tŕnh diện đơn vị, nên bị chúng bắt đem xét xử và hành quyết ngay tại chỗ những thành phần bị chúng vô sổ b́a đen, c̣n những thành phần vô tội không có nợ máu, phản động hay ác ôn côn đồ được cho về nhà sau khi thanh lọc, nhưng cuối cùng chúng kêu gọi tŕnh diện đợt 2 rồi bắt dẫn đi theo luôn và giết chết chôn rải rác nhiều nơi tới trên 22 mồ chôn tập thể hết sức hăi hùng.

    Sáng ngày 1-2-68, chúng thành lập ngay “Liên minh Dân chủ Dân tộc Ḥa b́nh Huế” do Tiến sĩ Lê văn Hảo làm chủ tịch, bà Tuần Chi (Đào thị Xuân Yến đương kim Hiệu trưởng Trường Nữ Trung học Đồng Khánh) đảm nhiệm Phó chủ tịch với các thành phần Ủy viên:

    Ḥa thượng Thích đôn Hậu đương kim Đại diện Phật giáo Vạn hạnh.

    Nguyễn Đóa cựu Giám thị Quốc học Huế.

    Hoàng phủ ngọc Tường cán bộ cộng sản nằm vùng.

    Hoàng phủ ngọc Phan -nt-

    Nguyễn đắc Xuân -nt-

    Tôn duy Xuân -nt-

    Phạm thị Xuân Quế -nt-

    Tôn thất Dương Tiềm -nt-

    Tôn thất Dương Kỵ -nt-

    Tôn thất Dương Anh -nt-

    Việt cộng lại thành lập Ủy Ban Nhân Dân cách mạng Thành phố Huế với tiến sĩ Lê minh Hảo kiêm nhiệm Chủ tịch Ủy ban, Tuần Chi và Hoàng phương Thảo Phó chủ tịch

    Hoàng kim Hoan và Phan Nam thành lập các Ủy ban Nhân dân cách mạng ở mỗi quận thành phố Huế

    Nguyễn hữu Vấn, giáo sư trường Quốc gia Âm nhạc Huế làm Chủ tịch quận Nhứt (Thành nội) do Hoàng kim Loan phụ trách an ninh.

    Nguyễn Thiết (Hoàng Dung) làm Chủ tịch quận Nh́ (Tả ngạn Sông Hương) do Phan Nam phụ trách an ninh.

    Hoành Lanh phụ trách an ninh quận Ba (Hữu ngạn sông Hương) dồn nỗ lực bắt Việt gian đưa đi thủ tiêu chưa kịp thành lập Ủy ban, bao gồm giáo xứ Phú Cam và quận Hương Thủy.

    Tháp tùng theo quân đội chủ lực và các đại đội đặc công, các cán bộ vơ trang tuyên truyền và cán bộ an ninh do Đại tá Lê Minh phụ tá bộ Tư lịnh quân khu, kiêm Trưởng ban An ninh quân khu đóng bản doanh tại chùa Từ Đàm. Chỉ huy các toán an ninh do Hoàng Nguyên và Nguyễn đ́nh Bảy chia Thành phố Huế thành 4 khu để phân chia trách nhiệm hành động tra xét, bắt bớ, giam cầm, thanh lọc và thủ tiêu hay xử tử tại chỗ làm gương cho nhưng ai chưa chịu theo chúng:

    Khu I gồm Quận Nhứt (thành nội, do Tống hoàng Khuyên phụ trách.

    Khu 2 gồm quận Nh́ tả ngạn sông Hương, từ cầu Gia Hội kéo dài về hướng Tây qua khỏi cầu Bạch Hổ, tới An Vân bao gồm một phần quận Hương Trà do Tống hoàng Khuyên kiêm nhiệm.

    Khu 3 gồm quận Ba hữu ngạn sông Hương tới giáo xứ Phù Cam thuộc quân Hương Thủy ở phía Nam sông An Cựu do Nguyễn đ́nh Bảy phụ trách.

    Khu 4 gồm phần từ cầu Gia Hội đến Cồn Hến, phần c̣n lại của quận Ba do Nguyễn đắc Xuân phụ trách.

    Như vậy mục đích của Việt cộng là chiếm giữ lâu dài thành phố Huế với Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Huế, hầu sau nầy sẽ tŕnh làng MTGPMN với quốc tế thành lập thành phần thứ Ba, Trung Lập thân cộng, với lănh đạo của Bắc bộ phủ hầu làm hậu thuẫn cho cuộc tiến chiếm toàn cơi VNCH thống nhứt đất nước theo h́nh thức xă hội chủ nghĩa. Dă tâm của chúng là triệt tiêu thành phần quốc gia chân chính, Dân chủ, Nhân quyền trong thế giới tự do chống trả lại bọn chúng, cũng như kỳ trước 1966 biến loạn Huế, nhưng kỳ nầy chúng thẳng tay tàn sát luôn những thành phần phản động, chống đối, không phục tùng theo chúng, ngoài những thánh phần nợ máu với chúng như quân đội và cảnh sát cùng viên chức xă ấp, chúng đă vô sổ b́a đen. Chỉ có chiếm đóng 26 ngày mà chúng đă tàn sát tới 5.800 mạng người thời về sau nầy tới 1975 chúng tàn sát c̣n gấp mấy chục lần hơn dưới nhiều h́nh thức:

    Xử bắn tại chỗ những người có nợ máu, các viên chức xă ấp, cảnh sát ác ôn côn đồ, xét xử theo thù hận, giam cầm và mang theo khi tháo chạy giết hết cho rảnh tay trốn thoát theo mạng lịnh của Bắc bộ phủ.

    III.- CUỘC THẢM SÁT HUẾ

    Việt cộng cho lập sổ b́a đen ghi danh tất cả thành phần Việt gian phản động, công chức, pḥng Nh́ quân lực VNCH các cấp, cảnh sát ch́m, nhân viên sở Mỹ, ban chấp hành đảng phái đối lập cộng sản, giáo dân công giáo do ban an ninh có trách nhiệm truy lùng bắt giam giữ tra xét, thanh lọc, xử tội vội vă oan ưng, hoặc thù địch của chúng, xử tử bắn bỏ tại chỗ hay mang theo để rồi giết hết chôn lấp trong các mồ chôn tập thể hết sức kinh khủng.

    Tại quận Nhứt và tả ngạn sông Hương thuộc khu 1 và khu 2 Hoàng Nguyên giao cho 2 sinh viên Nguyễn Đóa và Nguyễn thị Đoan thanh lọc và xét xử. Trong phiên ṭa xử chỉ có bản án tử h́nh sau khi hăm dọa và kết tội. Một số bị xử tử ngay tại chỗ tức khắc để nêu gương cho những người khác chống đối chúng. Chỉ có 2 ngày là xử xong cả trăm, cả ngàn vụ nhanh chóng khiến ai cũng khiếp đảm tinh thần, chúng bắt đầu đến việc khủng bố tinh thần mọi người dân Huế: ai mở máy truyền thanh nghe lén tin tức đài phát thanh bị bắt ra bắn ngay giữa đường, sinh viên không đến lớp học để nghe hiệu triệu của chúng, bị bắt ra bắn liền không cần biết lư do, ngay cả bạn thân đồng lớp với Nguyễn Đóa không chịu hợp tác với chúng cũng bị bắt ra bắn bỏ, khiến cho toàn thể sinh viên đại học Huế bất măn, nhưng vẫn im ĺm chịu trận cho qua tang lề.

    Tại khu Gia Hội, Hoàng Nguyên giao cho Nguyễn đắc Xuân và Hoàng phủ Ngọc Tường phụ trách an ninh và xét xử, đặt trụ sở cho công chức và quân nhân đến tŕnh diện tại chùa Theravada, lập danh sách và viết tờ kiểm thảo xong được đưa qua giam giữ và xét xử thành phần Việt gian, phản động, nơi trường Trung học Gia Hội do Hoàng phủ Ngọc Tường chủ tọa các phiên Ṭa. Những du kích đặc công đi bắt tội phạm lại xử tử bừa băi và tàn bạo do cựu thù như anh em Nguyễn ngọc Lộ và Nguyễn Thiết vơ sư chuyên trách Vơ thuật thần quyền Huế bị chôn sống trên hương lộ vào trường Trung học Gia Hội, chí đến vợ con anh Nguyễn ngọc Lộ 1 mẹ 3 con: 2 gái 1 trai cũng bị chúng giết chết hết tại nhà ở xă Phú Lưu. Những nạn nhân bị thảm sát tại Gia Hội gồm có:

    -Lê văn Cư Phó giám đốc Cảnh sát quốc gia Vùng I,

    -Ông Phú, em vợ ông Cư Quận trưởng quận Nh́,

    -Ông Từ tôn Khang Thiếu tá Tỉnh đoàn trưởng XDNT tỉnh Thừa Thiên.

    -Ông Hồ đắc Cam đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng,

    -Ông Kim Phát -nt-

    -Ông Trần văn Nớp Trưởng pḥng Hành chánh Ty Cảnh sát quốc gia Tĩnh Thừa Thiên.

    Tại khu hữu ngạn sông Hương quận Ba, Việt cộng lập Ṭa án xử nạn nhân Thành nội và khu Gia Hội bị đưa về giam giữ ở chùa Từ Đàm làm tờ khai, thanh lọc và đưa đi thủ tiêu sau khi xét xử chỉ có bản án tử h́nh dù nặng nhẹ, không có trường hợp giảm khinh, chí đến thân nhân cũng chẳng dung tha.

    Tại khu Ḍng chúa Cứu thế, Nguyễn mậu Hiên cùng 2 người con tiệm thuốc Bắc Thiên Tướng đi lùng bắt tất cả quân nhân, cảnh sát, đảng phái, cán bộ XDNT trên 150 người ẩn trú nơi đây đưa ra sân tra xét giấy tờ về giam giữ cùng với hơn 500 nạn nhân khác tại chùa Từ Đàm.

    Tại nhà thờ Phú Cam, ngày 7-2-68 Việt cộng lục xét bắt được khoảng trên 600 người từ 15 tuổi đến 50 tuổi đem về giam tại chùa Từ Đàm xét xử và bắn bỏ những nạn nhân bị liệt kê phản động ở gốc cây Bồ đề và chôn tại sân chùa lối 20 xác. Qua ngày 9- 2-68, vào lúc tối chúng trói thúc ké bằng dây điện thoại, kết xâu 20 nạn nhân thành một xâu bằng dây kẽm gai dẫn tất cả đi về phía Nam Giao thủ tiêu.

    Ở bệnh viện chúng bắt nhiều người dẫn về nhà thờ Phủ Cam thanh lọc, đưa về giam tại chùa Từ Đàm kết tội và đưa về phía Tây Nam thủ tiêu tại Khe Đá Mài 428 giáo dân Phủ Cam. Việt cộng bắt nạn nhân đào hố xong quăng nạn nhân bị trói xuống chôn sống hay đập đầu bằng xà beng.

    Thân nhân các nạn nhân không được thăm nuôi ǵ cả, chỉ có ở nhà chịu trận với bao lo nghĩ âu sầu, không biết sống chết ra sao, giam giữ và di chuyển đi đâu. Người dân Huế sống thống khổ đói khát, không dám ra khỏi nhà, mọi hoạt động ngưng đ́nh lại hết và hoàn toàn tê liệt nhịp sống thường nhựt. Thực phẩm chỉ dự trữ trong dịp Tết ăn hết rồi chia chác nhau cho những cḥm xóm thiếu hụt, lại c̣n bị súng đạn kịch chiến giữa hai phe chiến đấu khốc liệt, thương tích chết chóc, nhà cửa hư hại lănh đủ, nhứt là các khu đông dân cư Gia Hội Việt cộng cố gắng bám víu vào dân tấn kích chống trả phản công của quân đội VNCH và Đồng Minh. Họ phải trốn tránh trong hầm trú ẩn tránh nạn khốn khổ nhứt là trẻ con phải chịu trốn dưới hầm nhiều ngày thiếu ăn uống dinh dưỡng và tắm rửa sanh bệnh hoạn ghẻ chốc thảm thương. Học sinh Tiểu học và Trung học không được đi học, nhưng những đứa trẻ từ 15 tuổi trở lên phải trốn tránh du kích và an ninh hết sức khốn khổ. Riêng sinh viên và thanh niên cũng đồng chung số phận nếu bị bắt là phải theo cộng sản gia nhập vào du kích hay bị đưa đi huấn luyện quân sự trong mật khu, có tới gần mấy ngàn thanh niên sinh viên và học sinh tên 15 tuổi bị bắt đi theo chúng.

    Trong suốt 26 ngày chiếm đóng Huế, ban An ninh Việt cộng đă thảm sát tới 5.800 nạn nhân gồm có:

    Nạn nhân bị thảm sát 2.810 người bị chôn tập thể gồm có:

    - 790 hội viên Hội đồng Tỉnh, Thị xă và xă với tội “Cường hào ác bá“

    - 1.892 công chức các cấp

    - 38 cảnh sát quốc gia

    - 265 thanh niên, sinh viên và học sinh

    - 1 linh mục Việt Nam (Bửu Đồng)

    - 2 linh mục Pháp

    - 2 vợ chồng bác sĩ Đức

    - 20 chuyên viên kiều dân Phi luật Tân.

    Sao nạn nhân mất tích lên tới 2990 người đến nay chưa rơ số phận.

    Nhưng trong 22 mồ chôn tập thể chỉ mới t́m thấy xác chết của 2.330 nạn nhân, như vậy số người mất tích lên tới 5.371 nạn nhân. Hiện nay thân nhân c̣n đang truy tầm nhưng chưa t́m gặp được xác chết ở đâu. Trong 22 mồ chôn tập thể 2.330 nạn nhân đă được khai quật có nhiều nơi khai quật lên không c̣n phân biệt được xác chết của ai, đành cùng làm đám di táng tập thể v́ thân thể đă bị phân hóa và cùng làm đám giỗ kỵ cơm đồng một ngày, chọn ngày Tết mỗi năm đau đớn ngậm ngùi cho nỗi bất hạnh của gia đ́nh, nhưng phải kín đáo thầm kín tỏ bày cảm nghĩ khi Tết về trên đất Huế.


    Theo tài liệu được phanh phui 22 mồ chôn tập thể đă được khai quật sau Tết Mậu Thân, có nhiều thi thể bị giết bằng đạn, bằng cuốc xẻn đập vỡ sọ, bằng dao đâm chết, và bị chôn sống không bị thương tích. Có nhiều mồ chôn c̣n nguyên y quần áo lúc bị bắt, bị xỏ xâu bằng dây kẽm gai và cột trói bằng dây điện thoại. Những mồ chôn măi tới lâu ngày mới truy tầm ra, thân xác hủy hóa không c̣n nhận diện được thân nhân, phải di táng tập thể, rải rác khắp nơi từ Huế ra tới Khe Đá Mài xa xâm:

    Mồ chôn tập thể Trường Gia Hội có 303 nạn nhân, ở Chùa Theravada 93 nạn nhân, ở Băi Dâu 26 nạn nhân, ở Cồn Hến 151 nạn nhân, ở Tiểu chủng viện 6 nạn nhân, ở Quận Nh́ 121 nạn nhân, ở Phía Đông Huế 25 nạn nhân, ở Lăng Tự Đức 203 nạn nhân, ở Cầu An Ninh 20 nạn nhân, ở Cửa chợ Đông Ba 41 nạn nhân, ở Trường An Ninh Hạ 4 nạn nhân, ở Trường Văn Chí 8 nạn nhân, ở Chợ Thông 102 nạn nhân, ở Lăng Gia Long 260 nạn nhân, ở Chùa Từ Quang 44 nạn nhân, ở Đồng Di 110 nạn nhân, ở Vĩnh Thái 135 nạn nhân, ở Phú Lương 22 nạn nhân, ở Phú Xuân 587 nạn nhân, ở Thương Ḥa 31 nạn nhân, ở Vĩnh Hưng 70 nạn nhân, ở Khe Đá Mài 428 nạn nhân.


    Tổng cộng 22 mồ chôn tập thể là 2.810 người.

    Thảm cảnh tàn sát nhân dân Huế trong dịp Tết Mậu Thân gây đau thương cho hàng ngàn gia đ́nh khốn khổ ngậm ngùi, thầm nguyền rủa bọn Việt cộng không c̣n nhân t́nh ǵ cả c̣n hơn dă thú.

    IV,- CUỘC CHIẾM HUẾ THẤT BẠI NHƯNG VIỆT CỘNG ĐĂ THÀNH CÔNG TRONG MƯU LƯỢC TÁI CHIẾM HUẾ 1975 VÀ VNCH

    Việt cộng đưa toàn bộ chủ lực quân đội, du kích, đặc công, cán bộ an ninh hùng hậu nhứt từ trước đến giờ với quân số trên 7.500, chuẩn bị cả tháng trước Tết, nào bí mật xâm nhập vũ khí đạn dược, lương thực, nào trà trộn vào dân chúng, lao động về Huế ăn Tết tá túc ở nhà các cán bộ nằm vùng, nào ḍ xét địch t́nh ở các đơn vị Huế được nghỉ phép về quê ăn Tết, nào vị trí địa h́nh địa vật các cơ sở đơn vị được nghiên cứu tỉ mỉ, nào t́nh h́nh dân chúng náo nức lo mua sắm Tết và ăn Tết hứng thú, nào những nơi có nhà giàu mua pháo nhiều ít, nhứt là ở các phố chợ pháo treo lủng lẳng ra sao. Công cuộc chuẩn bị quá tươm tất, thế mà t́nh báo VNCH không hay biết ǵ hết, mới là tai hại rất lớn, trong lúc CIA của Mỹ đă thông báo trước cho các cơ quan Mỹ và các đơn vị quân sự Mỹ biết và đề pḥng cẩn mật, cấm trại quân nhân Mỹ và tường tŕnh với chánh quyền Huế. Nhưng chánh quyền Huế nghĩ rằng hưu chiến ăn Tết nên không pḥng bị, luôn cả toàn quốc VNCH, nguy hại biết bao nhiêu, khi tiếng súng ḥa lẫn tiếng pháo giao thừa, nhiều cơ sở đơn vị bị tràn ngập, mới báo động lên thời đă trễ rồi, chúng đă chiếm lănh hết 2/3 lănh thổ Huế trong ṿng một đêm từ 2 giờ 35 đến sáng ngày 1-2-68 măi tới ngày 25-2-68 mới tút lui bỏ chạy. Các nơi c̣n lại nhờ c̣n có đơn vị trực trú pḥng cảm tử chống đỡ bảo vệ sau nhiều đợt xung phong của đặc công và chủ lực quân Việt cộng, nhứt là đồn Mang cá, bộ Tư Lịnh Sư đoàn I BB do Đại tá Ngô quang Trưởng trực tiếp chỉ huy với số quân sĩ thiếu thốn chống trả mănh liệt bảo vệ trọn vẹn, trong lúc gia đ́nh đang bị đặc công Việt cộng tấn công dữ dội tư dinh suốt mấy ngày đêm phá sập lô cốt pḥng thủ của tiểu đội bảo vệ tư dinh giết chết chiến binh tử thủ, nhưng vẫn chưa chiếm được tư dinh, khiến Tiểu đội phải bảo vệ hộ tống gia đ́nh Đại tá Trưởng bỏ trốn thoát về phương Nam trốn trong nhà dân chúng, được Lực lượng đặc biệt gần đó đến rước về trại chuyển qua doanh trại Nhảy Dù trú ẩn, cũng như bộ Chỉ huy Tiểu khu Thừa Thiên tận lực chiến đấu với quân số ít ỏi chống trả nhiều phen tấn công vũ băo của đặc công và chủ lực quân Việt cộng; và cầu tàu Hải quân cũng bị tấn kích dữ đội, nhờ các lính hải quân trú pḥng chống trả giữ vững và đánh điện kêu gọi các chiến thuyền tuần dương trở về tiếp chiến, chúng mới chịu rút quân.

    Việt cộng quá tàn nhẫn bắn chết 18 thanh niên, sinh viên, học sinh không chịu theo chúng trước mặt cả ngàn thanh niên khác, khiến họ hoảng sợ phải ríu ríu theo chúng về mật khu. Chúng gây tang tóc cho trên 5.800 gia đ́nh Huế, t́m được xác chết mới có 2.810 nạn nhân, c̣n lại 1.990 nạn nhân mất tích từ đó đến nay.

    Riêng nhóm tính đồ Phật giáo đấu tranh chống VNCH do Thích trí Quang cầm đầu theo lịnh Trung tá Việt cộng Hoàng kim Loan đă thất bại năm 1966 bỏ trốn theo MTGPMN trở lại Huế 1968 đi t́m bắt và thanh toán những người không đồng ư theo họ hay chống lại chủ trương bạo loạn Huế 1966 nhiều nhứt là giáo dân Thiên chúa giáo Huế hết sức dă man.

    Việt cộng nhận định sai lầm là diện tấn kích trên toàn lănh thổ VNCH không thể tiếp viện với nhau thuận tiện, nên điểm tấn kích chính yếu là chiếm Huế với lực lượng hùng hậu nhứt sẽ trấn đóng vĩnh viễn Huế với trang bị 700 cán bộ an ninh đă huấn luyện thuần thục chuyên nghiệp, thi hành triệt để bạo lực lung lạc tinh thần dân chúng nhứt là giới trẻ thanh niên, sinh viên và học sinh, chúng áp đảo đồn Mang Cá nơi bộ Tư lịnh Sư đoàn I BB dữ dội khiến cho Đại tá Trưởng phải trực diện chỉ huy chống trả mănh liệt mong bảo toàn được trọn vẹn hết sức khốn khổ với quân số quá ít ỏi so với lực lượng đặc công và chính quy Việt cộng gấp 5 lần. Nhờ đó mà chúng chỉ làm chủ t́nh h́nh Huế được 2/3 chiếm được 3 quận tại Huế và một số quân ngoại biên không đáng kể. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn 7 ngày sau, quân nhân các cấp trốn tránh cuộc ruồng bắt của Việt cộng thoát được về tập trung tạo được quân số vững chắc mới bắt đầu phối hợp với quân đội Đồng Minh phản công ráo riết và quyết liệt với hưởng ứng nồng hậu của quần chúng nhứt là tín đồ Phật giáo trung kiên chính đạo và giáo dân Thiên chúa giáo. Đại tá Trưởng tung tối đa toàn hỏa lực hùng mạnh, bất chấp đổ nát thành phố Huế, tiến đánh giành giựt từ khu phố, từ nhà, từ các cao ốc, từng địa điểm tử thủ của chúng khiến cho quyết định chiếm Huế làm địa bàn hoạt động cho MTGPMN của chúng thất bại, bắt buộc chúng phải rút lui cuối cùng vào ngày 25-2-68 tổn thất quá nặng nề bỏ lại trên băi chiến trên 3 ngàn tử thi rải rác khắp nơi với vũ khí đạn dược quá nhiều, nhưng bù lại chúng thảm sát tới trên 5.800 nhân dân Huế với nhiều thành phần có cả người ngoại quốc nữa 1 Pháp, 2 Đức và 20 Phi luật Tân.

    Tổng kết trận chiến, chúng nướng tới trên 60.000 cán binh MTGPMN trên toàn quốc VNCH khiến cho MTGPMN kiệt quệ lực lượng, phải chờ quân đội Bắc Việt “Sinh Bắc tử Nam” vào bổ sung quân số tới gần 400.000 quân sau Hiệp định đ́nh chiến Ba Lê năm 1973 để Mỹ rút quân tháo chạy bỏ rơi đồng minh VNCH, Bắc Việt rút tỉa kinh nghiệm trận chiến Tết Mậu Thân mang toàn lực quân đội vào Nam cả 4 quân đoàn, lấy hết lính đưa vào Miền Nam đánh quyết liệt, đến nỗi phải nhờ quân đội Trung cộng sang trấn đóng giữ ǵn tiếp nơi các Tỉnh biên giới Việt - Trung tới gần 300.000 quân giă ra quân đội Bắc Việt che đậy ḍ xét của quốc tế, măi tới 1975 mới rút về, nhưng vẫn c̣n trấn giữ vài vùng biên giới với đường hỏa xa xuyên biên giới vào Việt Nam trên 100 km để vận tải lương thực và quân đội trấn giữ thế cho Bắc Việt trong chiến tranh giải phóng Miền Nam.

    Chúng thất bại trong công cuộc chiếm Huế trong sách lược, nhưng chúng thành công rút tỉa kinh nghiệm tốc chiến tốc thắng và thẳng tay trừng phạt những thành phần không chịu theo chúng như pháo kích chận đứng đoàn dân chạy loạn, bắt buộc phải trở về chỗ cũ, nhanh chóng đuổi theo đoàn di tản chiến thuật của Vùng II và vùng I triệt thoái chiếm đóng nhanh nhẹn các Tỉnh Cao nguyên và các Tỉnh từ Quảng Trị xuống tới Huế, c̣n đuổi theo lực lượng tháo chạy của quân lực VNCH vừa chiếm lănh vừa truy kích tới B́nh Thuận đụng mặt trận Xuân Lộc của sư đoàn 18 do tướng Lê minh Đảo chống đối đến viên đạn cuối cùng phải rút lui về Biên Ḥa. Nhưng chúng chỉ để mấy sư đoàn đánh phá c̣n mấy quân đoàn kia tức tốc chuyển đi ngă khác xuống tiến đánh phủ vây Thủ đô Sàig̣n toàn thắng vào ngày 30-4-1975 cưỡng chiếm Miền Nam.

    SAGIANG
    Last edited by alamit; 09-01-2012 at 07:07 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •