Page 3 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 21 to 30 of 56

Thread: Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Mưu Sinh Trong Trại Tù Cải Tạo

    Đỗ Văn Phúc

    Khó mà nói cho thật hết hay thật rơ ràng để cho mọi người thấy được những đày ải, khổ nhục mà những người tù nhân phải chịu đựng nhiều năm trong các trại tù cải tạo sau khi miền Nam bị Bắc Việt chiếm đoạt. Những người bị giam giữ này lại không phải là thành phần h́nh sự, can án cướp của giết người; mà là hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức từng phục vụ trong chính quyền Cộng hoà Việt Nam đối kháng với Cộng sản miền Bắc. Họ được Cộng sản gọi bằng mỹ danh là các trại viên học tập cải tạo, nhưng thực ra là các tù khổ sai vô hạn định mà chủ trương cải tạo chỉ là một sự trả thù dă man của những người thắng thế đối với kẻ bại trận.

    Ai đă đọc qua cuốn sách Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của Alexander Solzhenitsyn hay đă xem cuốn phim Papillon do tài tử lừng danh Steve McQueen đóng th́ chỉ mới h́nh dung được một phần những điều mà những người tù tại Việt Nam sau 1975 phải chịu đưng. Tuy rằng hàng trăm trại cải tạo dựng nên từ Bắc vào Nam vào cuối thế kỷ 20, nhưng tất cả đều mang bản chất man rợ của thời Trung cổ và những sự tra tấn, khủng bố tinh vi hơn của Gestapo thờI Đức Quốc Xă.

    Ngoài con số ngàn đă chết trong tù v́ bệnh hoạn không thuốc men chữa chạy, v́ kiệt sức do lao động khổ sai mà không có bồi dưỡng, v́ bị tra tấn hành hạ, biệt giam; những người tù c̣n lại đă sống sót do nuôi dưỡng một tinh thần lạc quan, hy vọng và biết cách đối phó trong từng trường hợp khó khăn.

    Chúng tôi là 5 anh em sĩ quan từng sinh hoạt trong các đoàn hướng đạo Huế cùng chung một phân trại E, trại A-20 Xuân Phước. Đó là Vơ Trịnh Xuân, Cái Trọng Ty, Vơ Xuân Hy, Trần Văn Chung và tôi. Không nhớ trong trường hợp nào, và lúc nào anh em chúng tôi đă nhận ra nhau. Có lẽ do cái phong thái rất Hướng đạo của nhau chăng? Chúng tôi chưa hề quen nhau ngoài đời cũ. Nhưng một khi đă đưa những bàn tay trái nắm chặt lấy nhau, chúng tôi liền trở thành thân tín và sẵn sàng thổ lộ cho nhau những suy tư mà không hề e dè lo lắng như khi nói chuyện với các anh em khác. Trong những thời điểm khủng bố căng thẳng nhất, chúng tôi chưa thấy anh em hướng đạo nào làm điều sai quấy vừa về đạo lư, vừa về lư tưởng chính trị. Chưa thấy anh em nào bán rẻ tư cách v́ miếng ăn trong khi cơn đói, thèm vật vả. Chưa thấy anh em nào chịu quỵ lụy để được hưởng đặc ân từ cán bộ nhà giam. Chúng tôi đă thực hiện trọn vẹn ba lời hứa và 10 điều luật Hướng đạo. Và chính nhờ sự giáo dục tinh thần và kỹ năng của Hướng đạo, mà chúng tôi đă vượt thắng những trở ngại thách thức mà đủ đánh gục những con người trung b́nh.

    Các em tráng sinh và thiếu sinh tại Hoa Kỳ chắc không có dịp nào va chạm những khó khăn quá mức để cần học hỏi kinh nghiệm của chúng tôi ở trong tù. Nhưng tưởng cũng nên kể ra để ôn lại chút kỷ niệm mưu sinh trong trại cải tạo để các em thấy được khả năng ứng phó của con người trong những điều kiện ngặt nghèo nhất.

    Trong tù th́ đói triền miên năm tháng. Chất bột căn bản là khoai ḿ công nghiệp giả nhỏ đúc thành bánh cở bằng gói thuốc lá, hay xắt lát và phơi khô. Ngày có hai bữa mỗi lần là một cái bánh hoặc chục lát khoai ḿ đă luộc chín. Buổi sáng trước giờ di lao động, tù được phát chút ít lát khoai ḿ luộc. Tuy nhiên, tiêu chuẩn không đồng đều, mà tùy thuộc vào sự đánh giá hàng tháng của cai tù về các mặt lao động và chấp hành nội quy. Có người ăn một cái bánh rưởi, có người chỉ được ba phần tư cái bánh. Thức ăn th́ quanh năm chỉ toàn là nước muối. Không rau, không thịt cá trừ ba ngày lễ chính: Tết nguyên đán, 2 tháng 9, và 30 tháng 4.

    Đói như thế nên tù nhân phải t́m mọi cách để tự “cải thiện”. Hoặc lén bắt con nhái, con rắn, chuột; hoặc vặt trộm mớ rau, t́m hái các loại cỏ ăn được. Nhưng phải kín đáo đừng để bị cai tù bắt được.

    Việc cho thăm nuôi hay nhận quà từ gia đ́nh không phải là quyền lợi của tù nhân như thường thấy ở các nước tự do. Đó là một thứ ân huệ mà ban quản lư trại tù dùng để ràng buộc tù nhân phải làm việc hay tuân thủ các quy định của trại. Người tù b́nh thường, không có vấn đề với trại sẽ được phép nhận 10 kí lô quà mỗi tháng, hay được gặp gia đ́nh hai lần trong một năm. Dĩ nhiên với điều kiện là gia đ́nh có đủ khả năng kinh tế để mua quà hay đi thăm.

    Dù có quà từ gia đ́nh hay không, hầu như tất cả tù nhân đều có nhu cầu phải nấu nướng. Người có quà th́ nấu thêm chút cơm khô, hâm nóng thịt cá. Người không có quà (chúng tôi gọi đuà là Con Bà Phước) th́ luộc chút rau, hay nấu giùm cho các anh có của để được chia chút thức ăn. Khi ra hiện trường lao động, th́ cho cơm khô hay thức ăn vào một cái lon gô; đặt ké vào bếp lửa của anh tù nhân nấu nước sôi cho đội tù. Khi về trại, th́ phải nấu lén. V́ trại cấm hẳn việc nấu nướng trong nhà giam.

    Tuy trại có quy định cho phép nấu nướng vào ngày chủ nhật mỗi tuần tại một nơi nào đó ngoài phạm vi pḥng giam; quy định này cũng thất thường như mưa nắng.

    Nău nướng ngoài trời ngày chủ nhật tuy được phép cũng chẳng thoải mái như khi chúng ta đi cắm trại đâu. Th́ giờ rất eo hẹp, chỉ vài mươi phút trước khi điểm danh tối mà phải làm sao cho chín nồi cơm, soong thịt. Có lúc trời mưa như trút, gió thổi ào ào tứ bề. Mặt đất ủng nước, củi vụn ướt như vừa vớt dưới sông lên. Lửa mồi từ cục than lấy ở bếp trại, chuyền tay nhau. Vừa nhóm được chút lửa là hơi nước từ mặt đất bốc lên làm tắt ngúm. Chúng tôi phải lót một lớp dày các thứ khô ráo, chọn ba cục đá làm chân ḷ. Một hai anh cầm tấm nylon che phía trên để một anh ngồi chồm hổm bên dưới ph́ pḥ thổi lửa. Khói lùa vào mắt cay xè nhưng vẫn cố gầy lên ngọn lửa bằng cách châm thêm chất đốt bằng giấy báo hay túi nhựa. Vụa thổi, vừa quạt, vừa lau nước mắt. Nước mưa cứ tuôn ào xuống ướt đẫm cả áo quần. Những kỹ năng học được từ thời thiếu niên đi Hướng Đạo hay bài mưu sinh học được ở quân trường nay mới có dịp đem ra áp dụng thực tế. Ngoài chiến trường có cam go cũng không đến nổi như trong trại tù, vả lại đă có anh lính hoả đàu quân lo cho rồi.

    Độc đáo nhất là nấu lén trong nhà. Anh em chúng tôi đều tự làm lấy mỗi người ít nhất một cái ḷ vừa đủ cho cái lon guigoz. Lon guigoz là thứ nồi thông dụng nhất, có thể đun nước, nấu cơm hay kho thịt cá. Tù nhân làm một cái đai sắt và quai xách gắn vào khoảng phía trên thành lon. Một lon guigoz cơm là phần ăn một ngày để tạm có sức khỏe chịu đựng. Chúng tôi dùng một cái lon có đường kính lớn hơn như cỡ lon cà phê thường thấy hiện nay tại các siêu thị tại Mỹ để làm ḷ. Có hai loại ḷ: ḷ than, ḷ đun hoả tốc. Than vụn th́ ăn cắp từ bếp trại, rưới nước cho tắt đi rồi cất dấu trong nhà giam. Hoả tốc là loại nhiên liệu bằng bao nhựa gói đồ cuốn bên ngoài một nùi giẻ. Thứ nhiên liệu này rất dễ cháy, cho nhiệt cao, nhưng bốc khói đen ng̣m và khét lẹt, và phải được khều luôn để khỏi bị tắt ngũm. Lỡ xui lửa tắt, khói sẽ bay đầy nhà, mùi khét toả rất xa. Vô t́nh như thể “lạy ông tôi ở bụi này” báo động cho bọn trật tự thi đua t́m đến để bắt quả tang.

    Những người tù, khi nấu lén trong nhà thường thủ sẵn một xô đày nước lạnh ở một góc nhà. Được báo động là nhúng cả cái ḷ dang cháy vào xô nước. Có anh đẩy cái ḷ than vào dưới cái đ̣n rồi ngồi lên, làm mặt tỉnh táo đang chơi cờ hay làm một thứ ǵ đó vô hại. Lửa nóng dưới đít mà phải gồng ḿnh chịu trận cho đến khi hết sự hiểm nguy. Tôi cũng nhiều lần hú vía. Một hôm đang đun một lon nước sôi để nấu mấy vắt ḿ th́ nghe tiếng tên trật tự vang lên ngoài sân: “Có mùi hoả tốc, lại có anh nào nấu nướng linh tinh trong nhà.” Không kịp nhảy xuống dấu ḷ (và cũng quưnh quá chẳng biết dấu vào đâu), tôi cho tất cả vừa ḷ vừa lon nước gần sôi vào cái bao bàng (loại túi xách đan bằng lá các bà đi buôn thường dùng ở Việt Nam) và treo lên xà nhà. Khi tên trật tự đến gần, tôi đang làm bộ căng thẳng với một nước cờ chiếu bí. Trực, tên trật tự, dừng lại xem vừa hỏi: “ai đang nấu hoả tốc? Mùi khói bay đầy nhà.” Chảng ai lên tiếng trả lời. Trực nh́n soi mói từng góc nhà vẫn không thấy ǵ trong khi tôi ngồi bồn chồn v́ ḷ hỏa tốc có thể tắt ngấm bất cứ lúc nào; và nếu thế th́ khói sẽ bay tuôn ra như cho khói tàu lửa. Một phần sợ cái ḷ nghiêng, nhựa và lửa sẽ tràn ra cháy luôn cái túi; hoặc nước sôi trào ra sẽ tạo nên âm thanh xèo xèo là thua cuộc. Tên Trực t́m một lúc, không t́m thấy ǵ và cũng không hào hứng quan sát bàn cờ mà chẳng ai động quân nên bỏ đi sau khi buông một vài đe dọa.

    Ngoài cái nguy cơ dễ bị phát hiện, ḷ hoả tốc c̣n mang lại nguy hại cho sức khoẻ. V́ mỗi ngày phải hít vào buổng phổi loại khói độc do sự cháy của chất hoá học tổng hợp. Tuy nhiên cái đói là nguy cơ truớc mắt. Nỗi nguy xa không thắng được cái nguy gần. Vả lại, trong khoàn cảnh khắc nghiệt này, liệu chúng tôi có sống sót cho đến ngày nhận lănh cái hậu quả của khói độc không mà lo với lắng!

    Có ḷ, đă dấu diếm hàng ngày, rồi phải nghĩ cách giữ nó khỏi bị tích thu mỗi khi cán bộ khám pḥng. Việc khám pḥng xẩy ra hàng tháng, thường là bất chợt để tù nhân không pḥng bị kịp. Đang tập trung ở sân trại chờ đi lao động, th́ bị gọi lần lượt từng nhà trở về thu xếp hết hành trang đem ra sân. Tù nhân ngồi thành hai, ba dăy. Trải manh chiếu hay tấm vải ra, lôi hết áo quần đồ đạc như bày bán chợ trời, rồi ngồi chờ cai tù và trật tự đến khám từng người. Trong lúc đó, vài tên trật tự và tù h́nh sự sẽ vào nhà, lục lọi không chừa một khe hở để t́m xem tù nhân có dấu diếm ǵ không. Một viên thuốc tây nhỏ bằng nửa hạt đậu cũng không thoát với chúng nó. Ngoài sân, cai tù và trật tự nắn nót từng món đồ, vạch miệng, sờ nách, lần háng để khám xét. Chúng tịch thu các thứ bén nhọn, bật lửa, sách vở, những thức ăn bị cấm, và các loại không được phép dùng trong nhà giam. Có khi chúng tịch thu luôn những vật đă cho phép nhận, như cơm khô, soong nồi, viện lư do t́nh h́nh an ninh thay đổi. Nói chung, chúng khám xét và tịch thu rất tuỳ tiện. Là thân tù, chỉ biết cam chịu, không biết khiếu nại cùng ai.

    Ây thế mà nhiều anh em đă giữ được cái ḷ, ngay cả loại ḷ lớn kê được cái nồi hai, nồi ba. Làm thế nào ư? Cứ tuân theo nguyên tắc t́nh báo: “Chỗ sơ hở nhất chính là nơi an toàn nhất.” Tôi đă để cái ḷ ch́nh ́nh ngay giữa sân, cạnh gốc dừa. Bọn trật tự ưa nh́n các nơi kín đáo, ngóc nghách mà chẳng mấy để mắt đến chỗ rất hớ hênh. Một nguyên tắc khác đă giúp tôi giữ được bật lửa, con dao trong hàng năm trời. Đó là: đừng để bị khám th́ sẽ không mất đồ. Trung sách là nắm bật lửa, con dao trong ḷng bàn tay. Chờ tên trật tự khám xong một nửa đồ đạc của ḿnh rồi xin phép tên cán bộ cho xếp gọn thứ đă khám vào túi. Lợi dụng lúc này, thả thứ quốc cấm vào túi xách. Thượng sách là khi sắp hàng ngoài sân, nên ngồi ở khoảng giữa hay gần cuối. Sau một hồi khám xét, trật tự và cai tù sẽ bắt đầu thấm mệt. Tù khám xong thu xếp đi vào đi ra tạo cảnh lộn xộn. Ta cứ ung dung thu xếp đồ đạc cho vào túi và làm mặt tỉnh bơ đem túi xách ba lô trở vào pḥng như một người đă được khám xét xong. Đừng nói con dao cái bật lửa; ngay cả cây súng lục (nếu có) cũng dấu được. Miễn là có bản lănh và b́nh tĩnh.

    Chúng tôi đă từng đem vào trại cả buồng chuối, bó củi, chục củ khoai lang mà không hề bị tịch thu khi bị khám xét ngoài cổng trước khi nhập trại.

    Năm 1979, khi trại mua trồng hàng ngàn cây dừa con; chỉ có lác đác vài cây sống và lớn lên. Đại đa số trái dừa giống chui vào bụng tù nhân. Chúng tôi bẻ cây con cắm xuống đất, lấy trái dừa ăn tại chỗ hoặc mang về pḥng nạo lấy cơm dừa và mộng dừa. Hàng trăm vỏ và gáo dừa cứ tống lên trần nhà phi tang mà cả năm sau, bọn trật tự mới t́m thấy.

    Mưu sinh trong trại tù c̣n nhiều h́nh thái khác, để ứng phó với trong nhiều lănh vực như sức khoẻ, tâm lư, sinh lư vân vân. Tất cả đều nhằm vào mục đích tự thích nghi với các điều kiện khắt khe để sống c̣n trong một thời gian tù rất dài, có khi gần cả đời người như trường hợp nhà thơ Nguyễn Chí Thiện hay tiến sĩ Nguyễn Hữu Luyện.

    Cái đói khát và sự khủng bố về tinh thần lẫn vật chất trong nhà tù Cộng sản vượt quá giới hạn chịu đựng của con người. Phải có một ư chí, một bản lănh vững vàng mới giữ được tư cách, không bị kéo xuống hàng một sinh vật giành giật, xâu xé nhau v́ miếng ăn. Những người có thăm nuôi, có của ăn dồi dào đủ hương vị dễ dàng bỉu môi lắc đàu khi thấy bạn đồng cảnh ḿnh đánh cắp củ khoai, con gà, hayvặt ngọn rau của trại, của cai tù. Trên quan điểm chính trị và đạo lư thông thường, lấy của kẻ thù đang đày đoạ ḿnh để nuôi sống bản thân không có ǵ là sai trái cả. Chúng tôi đă thấy những người giàu có đă bán ḿnh v́ chút ân huệ của trại; ngược lại cũng thấy những anh em nghèo đói mà tự chế và tự thắng được nhu cầu bản thân, nổi bật lên như những tấm gương cao quư.

    Dĩ nhiên, con người ít nhiều có một bản năng thích ứng do thiên phú; nhưng sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu có kinh qua một quá tŕnh đào tạo từ các phong trào sinh hoạt thanh niên như Hướng Đạo, hay đuợc chuẩn bị từ các khoá học trong quân ngũ. Nhưng có những yếu tố rất quan trọng, đó là ḷng tự trọng cá nhân, niềm tự hào của quá khứ xuất thân và sự ràng buộc của những giáo dục gia đ́nh, hướng đạo, quân ngũ đă giúp cho anh em chúng tôi đứng vững vàng trong hoàn cảnh oan nghiệt.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Tội ác của đảng cộng sản Việt Nam


    Nguyễn Văn Lợi
    (VNN)

    Nhắc tới tội ác của Cộng Sản Quốc Tế (CSQT) nói chung và tội ác của Cộng Sản Việt Nam (CSVN) nói riêng, có thể nói hầu hết mọi người Việt Nam, chẳng c̣n ai mơ hồ về bản chất tàn bạo của chế độ này, v́ không nhiều th́ ít, chúng ta đều là nạn nhân của chúng.
    Bản chất tàn bạo đó đă được chính ông tổ CS là Mác Lênin xác nhận là rất cần thiết để tiến hành cuộc cách mạng xây dựng nền chuyên chính vô sản. Theo Mác, muốn xây dựng nền chuyên chinh vô sản, cần phải đạp đổ tất cả những ǵ hiện có, mà muốn đạp đổ mọi thứ th́ phải có những con người không có ǵ cả như tiền của, gia đ́nh, vợ con v.v... để mất. Do đó, cần có một đội ngũ cán bộ xuất thân từ những con người vô sản trong giới bần cố nông và công nhân. Tuy nhiên, Mác cũng nhận ra rằng, trong giới vô sản cũng có những người lương thiện không thể làm điều ác để có thể đạp đổ tất cả. Cho nên muốn xây dựng chế đô. CS thành công th́ phải sử dụng những thành phần bất lương, côn đồ, hung dữ trong giới vô sản, v́ chỉ những thành phần này mới có thể tận dụng bạo lực để trở thành cán bộ cách mạng của giai cấp vô sản.

    Ta hăy điểm qua một số thành phần lănh đạo tiêu biểu trong ĐCSVN làm ví dụ. Từ Hồ chí Minh (HCM), lănh tụ CSVN, với bản chất độc ác lưu manh, lường gạt (mà nhiều người đă biết) giống như tên bạo chúa Stalin, đến ông sú chột Lê Đức Anh, gốc cai thầu chuyên đánh đập công nhân cao su của Pháp. Từ anh thiến lợn Đỗ Mười với bản chất đồ tể có sẵn đến tên Trần quốc Hoàn, một gă côn đồ lưu manh chuyên nghề đánh thuê chém mướn ở Hải Pḥng ta sẽ thấy rơ điểm đó. Điều quan trọng cần biết rơ về HCM khi ông ta chỉ là một tên phản quốc chứ không phải là người thương dân yêu nước như có người lầm tưởng, nên dân tộc ta phải chịu biết bao khổ đau chồng chất suốt 76 năm nay. Việc HCM là tên phản quốc đă được chính văn khố của Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết tiết lộ năm 1991 sau khi Liên Sô sụp đổ. Theo tài liệu ghi rơ th́ HCM đă được Đệ Tam CS quốc tế huấn luyện có trả lương kể từ năm 1924 để thi hành việc cộng sản hoá toàn cơi Đông Dương bao gồm cả Mă Lai và Thái Lan theo lệnh của Stalin. Ta cũng thấy rơ nét bản chất phản quốc của HCM khi ông ta xin học trường Pháp để mong làm tay sai cho Pháp nhưng không thành. Cũng với bản chất tay sai, đàn em là Tố Hữu chỉ khóc Stalin khi hắn chết, mà không có một giọt nước mắt cho Tổ Tiên và đồng bào của ḿnh v.v....

    Tội ác CSVN kể ra th́ nhiều vô cùng tận và toàn là những tội rất nặng, đến nỗi lá rừng ghi không hết và nước đại dương rửa cũng không thể sạch. Đó là những tội ác mang đặc tính diệt chủng chống nhân loại. Những tội điển h́nh như vụ: Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng, Tết Mậu Thân 1968, Tù Cải Tạo sau 1975, Bán Đất Dâng Biển cho ngoại bang v.v... Dĩ nhiên, chúng ta không thể viết từng chi tiết của mỗi tội cũng như không thể viết hết tội ác của chúng trong phạm vi bài này, mà chỉ có thể kể tóm tắt một số tượng trưng mà thôi.

    Tội ác đầu tiên khi HCM vừa áp đặt chủ nghĩa CS trên đất VN là thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930-1931. Trong thời kỳ này, khẩu hiệu được áp dụng triệt để là: Trí, Phú, Địa, Hào phải đào tận gốc trốc tận rễ. Nghĩa là, CSVN chủ trương là phải tiêu diệt bốn thành phần này th́ giới vô sản như bần cố nông và giai cấp công nhân mới lănh đạo được phong trào CS trên đất nước. Trong một xă hội dân chủ pháp trị, ai giết vô cớ dù chỉ một người thôi cũng phải đền mạng. Nhưng với xă hội VN ở thời kỳ này, việc giết bốn thành phần trên khi gặp ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào mà không cần xét xử, không cần biết đúng sai tốt xấu, có tội hay không có tội, chỉ là "chuyện b́nh thường". Chính cái tưởng là chuyện b́nh thường nhưng vô cùng "dă man" ấy đă nhân tội ác lên đến trăm ngàn lần so với xă hội có luật pháp nghiêm minh.

    Tội ác kế tiếp là Cải Cách Ruộng Đất (CCRD) từ năm 1949-1956 ở miền Bắc VN. Với dân số khoảng 16 triệu người thời bấy giờ, CCRD đă giết oan 173,008 thường dân vô tội theo thống kê trong cuốn "Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000", do Viện Kinh Tế VN CS mới xuất bản trong nước. Xem thế th́ cứ chưa tới 100 người, có một người bị giết. Đây là một thời kỳ kinh ḥang cho toàn xă hội miền bắc.
    Nói đến tội ác trong CCRD, ông Nguyễn Minh Cần, cựu phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Thành Phố Hà Nội, cho biết là có bốn nét chính nổi bật nhất cần quan tâm. Đó là:

    Thứ nhất. Tội tàn sát thường dân vô tội - tội ác chống nhân loại. Người nông dân VN vốn hiền ḥa, chất phác, đang làm ăn sinh sống và hết ḷng đóng góp cho đảng, bỗng dưng bị đảng giáng cho một đ̣n chí mạng. Tầng lớp năng nổ, giỏi, biết làm ăn th́ bị gán cho là địa chủ, cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường sinh sống. Những cán bộ của đảng ở nông thôn, đă từng v́ đảng mà chịu nhiều hy sinh cũng bị quy là phản động, gián điệp, Việt gian v.v... để rồi bị trừng trị, bị bắn giết man rợ.

    Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy ngàn năm của dân tộc. Truyền thống hiếu ḥa, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, lá lành đùm lá rách đầy t́nh người, rất đậm đà ở nông thôn VN được dân ta xây dựng hàng ngàn năm đă bi. CSVN phá vỡ trong thời kỳ CCRD.
    Thứ ba. Tội phá hoại luân thường đạo lư dân tộc. Trong lịch sử dân tộc VN, chưa bao giờ đạo lư làm người bị đảo điên cách quái đản như trong thời kỳ CCRD. Con cái phải bịa chuyện gian dối đấu tố cha mẹ (mà Trường Chinh đă đấu tố cha ruột đến chết để làm gương). Vợ chồng, anh em phải đấu tố lẫn nhau. Hàng xóm láng giềng phải t́m cách vu khống, nói xấu gây căm thù, giáng hoạ cho nhau. Kẻ bị đấu tố bị trói, bắt qú gục mặt như một tội nhân trước đám đông bao quanh, chịu đủ loại cực h́nh, phải gọi người đang đấu tố ḿnh là ông là bà và phải xưng là con dù người đó chỉ là đúa con nít hay nó chính là con ḿnh. Người đứng ra đấu tố th́ gọi nạn nhân là "mày", là "thằng nọ", "con kia" rồi mắng nhiếc đủ điều thô tục v..v.. Cuối cùng nạn nhân bị giết bằng nhiều cách như xử bắn, hay chôn toàn thân xuống đất chỉ hở cái đầu, rồi dùng trâu kéo cầy cho đứt cổ nạn nhân trước sự chứng kiến của quần chúng, kể cả thân nhân cũng buộc phải chứng kiến dể tạo khủng bố tinh thần; nhiều người nhất là trẻ em bắt phải chứng kiến đă khóc ré lên rồi ngất xỉu, nhiều trường hợp người trong gia đ́nh nạn nhân bị điên loạn mất trí, con cái bơ vơ không nơi nương tựa v.v... Thật là một bi kịch hăi hung! cảnh địa ngục trần gian!!!

    Thứ Tư. Tội phá huỷ truyền thống tâm linh và văn hóa dân tộc. Trước CCRD, các nhà thờ, nhà chùa, đ́nh làng v.v.. đều có ruộng đất riêng để lo sửa sang tu bổ nơi thờ phượng, cúng tế hàng năm, cũng như nuôi sống tu sĩ, và nhân sự chăm lo việc chung... Nhờ thế hoạt động tôn giáo tâm linh, từ thiện được điều ḥa. Với CCRD, ruộng đất bị trưng thu để chia cho nông dân, các nơi thờ tự đ́nh làng trở nên điêu đứng, cuộc sống tâm linh hoàn toàn bị xóa bỏ. Chữ "thiện" chữ "nhân" chẳng c̣n ai nhắc đến.

    Tóm lại trong CCRD, nhiều người vô tội đă chết oan, có người tự tử v́ quá sợ hăi, v́ bị vu khống. Những tiếng thét oan khiên, máu đổ ra khắp nơi, nước mắt khô cạn v́ không c̣n để chảy. Nhiều người lúc ấy chỉ mơ ước được làm con chó hay con mèo cho yên thân... CCRD là một tội ác phản thiên nhiên, phản vũ trụ, v́ nó đă bắt con người, dù có trí khôn hơn con vật, phải giết chết cả những người thân yêu nhất của ḿnh như cha mẹ, vợ chồng con cái. Hành động trên c̣n thua xa cả loài lang sói, v́ lang sói không bao giờ giết chết hay ăn thịt đồng loại.

    Những năm 1956-1958, một số đảng viên trí thức như Trần Dần, Nguyễn hữu Đang, Lê Đạt bị bắt giam tù đầy trên 20 năm v́ "tội" lập ra tờ báo "Nhân Văn" và "Giai Phẩm". Năm 1959, CSVN thi hành chính sách cướp bóc tài sản và các tư liệu sản xuất dưới h́nh thức "công tư hợp doanh" ở thành thị và "hợp tác xă nông nghiệp" ở nông thôn.

    Năm 1961, CSVN đánh vào các tôn giáo và khủng bố các vị tu hành, phá chùa, nhà thờ hoặc sử dụng vào các mục đích ngoài tôn giáo.
    Trong cuộc chiến xâm lăng miền nam trước 1975, VC đă thủ tiêu hàng ngàn viên chức chính phủ VNCH ở vùng mất an ninh. Đă chôn sống hơn 3000 thường dân vô tội ở Huế hồi Tết Mậu Thân năm 1968. Đă bắn hỏa tiễn vào đại lộ kinh hoàng giết cả chục ngàn người dân vô tội vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Đă pháo kích vào trường Tiểu Học Cai Lậy giết hàng trăm em học sinh trên dưới 10 tuổi vào năm 1974. Có thể nói, người dân miền Nam sợ chúng như sợ thần chết, hễ chúng tới đâu là người ta t́m cách chạy trốn về phía quân đội VNCH để t́m sự che chở.

    Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, VC hành hạ các quân cán chính VNCH trong các nhà tù nơi rừng thiêng nước độc nguỵ trang là trại cải tạo. Tù nhân bị lao động khổ sai, bị tra tấn, hành hạ đến suy nhược cả tinh thần lẫn thể xác, thần kinh luôn luôn bị căng thẳng, lao động qúa sức lại thiếu ăn, đau không cho thuốc men, khiến cả ngàn người đă bị chết. Mặt khác, theo kết qủa điều tra của hai giáo sư đại học Jackson và Desbarats th́ có ít nhất 65,000 người bị hành quyết trong các trại tù từ 1975-1983, đó là con số khiêm nhường, thật ra nó c̣n ghê gớm hơn nữa. Trong khi chồng bị tù tội, th́ vợ con ở nhà bị tịch thu nhà cửa và đuổi đi vùng kinh tế mới, hoặc sống lê lết bên lề đường hay dưới gầm cầu cống rănh. Con trai của họ không được vào đại học dù là học sinh xuất sắc, mà bị bắt di lính. Đă có khoảng 60,000 người là con em của thành phần này bị chết trên chiến trường Cambốt hay biên giới Việt Trung, và khoảng hơn 100,000 người bị tàn phế. Trong khi con gái của họ rơi vào cảnh phải làm điếm để phụ giúp mẹ và các em.

    Cũng sau một thời gian ngắn cưỡng chiếm miền Nam, CSVN đă biến cả nước thành nhà tù vĩ dại dưới tên "Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam"; chúng tiến hành cải tạo xă hội miền nam, mà theo cựu Đại Tá cộng sản Bùi Tín, th́ đó thực chất chỉ là ăn cướp tài sản của nhân dân, xóa sạch nền kinh tế thị trường tiến bộ và phá nát hạ tầng cơ sở có sẵn của miền Nam, khiến cả nước lâm vào cảnh đói nghèo lạc hậu có ảnh hưởng cho đến ngày hôm nay. Ông Bùi Tín c̣n kết án chế đô. VC độc ác vô nhân, v́ đă hành hạ hèn mạt quân cán chính VNCH khiến nhiều người phải chết trên rừng thiêng nước độc như trên đă nói, đă phá nát nghĩa trang quân đội và thu vàng bán bến, gỉa vờ cho phép người vượt biển ra đi để tịch thu tài sản của họ, nhưng sau đó lại cho lính bắn ch́m ghe vượt biển, giết hại nhiều đồng bào vô tội.

    Giữa năm 1978, VC mở chiến dịch đánh tư sản mại bản để cải tạo công thương nghiệp, chúng đă ăn cướp tài sản của hơn 40,000 gia đ́nh của người dân miền Nam, khiến họ trở thành trắng tay và phải liều chết vượt biên vượt biển ra đi t́m tự do, tạo nên phong trào thuyền nhân bi hùng nhất trong lịch sử nhân loại; với nửa triệu người chết trên biển cả đă làm rúng động lương tâm nhân loại khi một số quốc gia đă kéo thuyền người tị nạn ra biển không cho cập bến khiến họ phải chết. May mắn thay, Liên Hiệp Quốc biết được chuyện này nên LHQ đă phải họp khẩn ở Geneve ngày 14/11/1978 gồm 71 quốc gia tham dự để t́m phương cách giải quyết. Kết qủa là LHQ đă tuyên bố vấn đề thuyền nhân VN là vấn nạn chung của thế giới và yêu cầu các quốc gia nếu có thuyền nhân cập bến th́ phải tiếp nhận và giúp đỡ dưới sự bảo trợ của LHQ

    Theo một thư tố cáo chưa được công bố, viết ngày 18/4/04 tại Virginia, HK, mà nhân chứng là Ông Trần H và Ông Hoàng Qúy cho biết th́ để tạo lư cớ xâm lăng Cam Bốt năm 1978, CSVN đă đạo diễn tấn thảm kịch cực kỳ dă man, tàn bạo và ghê tởm. Đó là, đêm 18/4/1978, VC đă tập trung mọi người vào các chùa và trường học, không phân biệt già trẻ lớn bé nam nữ và tắm máu 3,157 dân làng Ba Chúc ở biên giới Việt Miên rồi đổ tội cho Khmer Đỏ. Hành động ném đá dấu tay của bọn VC giết người nêu trên là để đánh lừa dư luận. Hành động ấy đă đến lúc cần phải được cho ra ánh sáng để công luận xét xử.

    Tội ác kế tiếp là đảng CSVN đă bán đất đai và nhượng biển của tổ tiên cho Trung Cộng. Tội ác ấy đă được Thủ Tướng CSVN Phạm văn Đồng chính thức công nhận qua văn thư nhượng đảo và biển gửi cho Thủ Tướng Trung Cộng Chu ân Lai ngày 14/9/1958: "Chính Phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính Phủ Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa". Với bản chất bán nước của CSVN, ngày 30/12/1999, Hànội đă bí mật kư kết với Trung Cộng Hiệp Định Về Biên Giới Trên Đất Liền. Và ngày 25/12/2000 kư Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá Trong Vịnh Bắc Bộ. Qua những hiệp định này, Việt Nam đă bị mất về tay Trung Cộng 720 Km vuông biên giới phía bắc VN, và 11.000 Km vuông Vịnh Bắc Việt, mất nguồn cá và các loại hải sản quan trọng nuôi sống dân VN, và mất t́ềm năng dầu khí dưới lớp thủy tra thạch trong vịnh. Tội ác bán nước được tiếp diễn khi VC bắt bỏ tù Luật Sư trẻ tuổi Lê Chí Quang khi ông kêu gọi nhà cầm quyền hiện nay trong tiểu luận nổi tiếng "Hăy Cảnh Giác Với Bắc Triều".

    Hiện tại, từ kế hoạch xuất cảng lao động ra nước ngoài đến nạn buôn bán phụ nữ làm cô dâu Đại Hàn & Đài Loan cũng như nạn buôn bán trẻ em dưới vị thành niên sang Cambốt để làm điếm, mà VC chủ trương để lấy tiền bỏ túi, đang là mối sỉ nhục lớn cho dân tộc VN mà những ai quan tâm đều cảm thấy đau xót. Rơ ràng là nhà nước VC không quan tâm đến dân tộc và đất nước mà chỉ quan tâm làm sao giữ được độc quyền cai trị để có đặc quyền đặc lợi.

    Tổng quát, kể từ khi HCM áp đặt chủ nghĩa CS phi nhân bản phản dân tộc trên đất nước ta năm 1930 cho đến nay, Đảng CSVN đă gieo rắc biết bao tai họa cho dân tộc và đất nước mà hậu qủa hiện nay là sự suy đồi về cả vật chất lẫn tinh thần với sáu nan đề chính mà dân tộc VN phải đối diện và giải quyết. Đó là: tàn phá môi sinh, băng hoại đạo đức, phân cực giầu nghèo, thiệt hại lănh thổ, bất công xă hội, và thất thoát tài sản quốc gia.

    Điều đau xót và đáng quan tâm mà mọi người Việt Nam yêu nước phải suy nghĩ là hiện tại dân tộc và đất nước VN nghèo nàn và tụt hậu nhất so với các nước láng giềng. Chính Thủ Tướng VC Phan văn Khải trong kỳ họp Trung Ương Đảng CSVN từ 6-13/1/04 đă thú nhận trước cử tọa: "...VN cần 20 năm nữa mới theo theo kịp Thái Lan...", nên nhớ Thái Lan trước năm 1975 chả hơn ǵ nếu không muốn nói là thua VNCH. Tháng 9/05, cũng chính Khải tái xác nhận trước nhiều viên chức chính phủ và một số nhà kinh doanh tại Hànội là VN cần 15 năm nữa mới theo kịp Thái Lan. Ông Khải đưa ra những dữ kiện để hỗ trợ cho kết luận trên như phiá VN có lợi tức b́nh quân đầu người (BQĐN) là 400 dollars/năm với tỉ số phát triển là 8%, trong khi Thái Lan có lợi tức BQĐN là 1650 dollars/năm với tỉ số phát triển là 5%. Thật ra qua hai lần thú nhận trên ta thấy rơ ông Khải có ba điều sai mà ông ta không biết, Thứ nhất, chưa đầy hai năm (1/04-9/05) mà VN đă phát triển và rút ngắn khoảng cách với Thái Lan được ba năm mà không chứng minh được là không đúng. Thứ hai, khi có tiền th́ sẽ đẻ ra tiền, Thái Lan giầu hơn VN, họ sẽ dùng tiền đó để phát triển nhanh hơn VN gấp nhiều lần, nghĩa là BQĐN của họ sẽ tăng chứ không phải măi măi là 1650 đôla /năm để chờ ta theo kịp họ sau 15 năm. Thứ ba, nếu ta lấy các dữ kiện ông Khải cung cấp để làm bài toán th́ ta có kết qủa là cần hơn 50 năm chứ không phải 15 năm với điều kiện là các số đó không thay đổi, đây là điều không thể xẩy ra.

    Có một điều chúng ta cần quan tâm là lănh đạo VC xuất thân từ giới nông dân & công nhân như trên Mác đă khẳng định, họ chỉ có khả năng bắn giết chứ không có khả năng xây dựng đất nước v́ kiến thức kém, nên đất nưóc bị tụt hậu như ngày nay là lẽ đương nhiên, và ông Khải có nhận thức sai cũng chỉ là điều dễ hiểu.

    Qua những dữ kiện trên, chúng ta thấy tội ác mà CSVN đă phạm thật vô cùng to lớn, và những tội ác ấy vẫn tiếp tục tái diễn nếu ngày nào CSVN vẫn c̣n thống trị dất nước. Đây là điều không một người dân VN nào có thể chấp nhận kể cả những đảng viên VC yêu nước dù dă thức tỉnh hay chưa. Điều quan trọng là phải làm sao để mọi người VN nh́n ra để không vô t́nh tiếp tay nuôi sống chế độ này. Khi mọi người nh́n thấy tầm mức tai hại của những tội ác này th́ sẽ nỗ lực tiêp tay gỡ bỏ nó. Mặt khác, với một đất nước mà đa phần là giới trẻ trong khi cộng đồng ở hải ngoại đă bước sang thế hệ thứ ba, th́ nhu cầu soi rọi sự thật lịch sử để giới trẻ thấy rơ tội ác của CSVN; và giai đoạn đen tối nhất của lịch sử đất nước trong 7 thập niên qua cần phải được chấm dứt, để đất nước có điều kiện tiến lên ngang hàng với thế giới trong thế kỷ 21 này. Đây là trách nhiệm nặng nề của tất cả con dân VN yêu nước.

    Đối với thế giới, những tội ác của CSQT cũng đă gây khốn khổ cho nhân loại không ít, và những tội ác ấy cũng đă bị nhiều người kết án. Trong tài liệu "Sách Đen Về Chủ Nghĩa Cộng Sản" của sử gia Pháp là ông Stephane Courtois, giám đốc nghiên cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu về Khoa Học của Pháp, ông Stephane đă vạch ra một cách chính xác về tội ác của CS. Đây là một bức tranh đen tối của lịch sử nhân loại mà theo ông, phải vạch ra để trả lại danh dự cho những người đă chết v́ chủ nghĩa CS. Sau khi liệt kê những lănh tu. CS tàn ác nổi tiếng trên thế giới như Lenine, Staline, Mao, Hồ chí Minh, Castro v.v..., ông đưa ra nhận xét: "... Vượt lên trên mức độ tội ác cá nhân hoặc tàn sát cục bộ địa phương theo hoàn cảnh, các chế dô. CS củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị..."

    Ngày 25/1/06 vừa qua, Hội Đồng Âu Châu (HĐÂC), một cơ chế gồm 46 nước thành viên, đă thông qua bản Nghị Quyết 1481, nhấn mạnh đến nhu cầu cả nhân loại cần lên án và phơi bầy các tội ác của những chế độ cộng sản toàn trị. Mặc dù Trung và Đông Âu không c̣n CS, nhưng HĐÂC vẫn có nhu cầu này v́ những tội ác CS vẫn chưa được điều tra và những hung thủ chưa bị đem ra xét xử trong khi một số nước vẫn c̣n bị thống trị của bọn CS ác ôn này nên vẫn là mối đe dọa cho cả nhân loại. Đối với người VN, nhu cầu lên án những tội ác của chế đô. CS không những để cho dư luận toàn thế giới biết dến, mà c̣n cho chính người VN, nhất là những người c̣n mơ hồ về tội ác của CSVN giác ngộ. Một lần nữa, kẻ viết xin mọi người cùng tiếp tay phổ biến rộng răi Nghị Quyết 1481, Qúi vị có thể vô web: queme.com để lấy tài liệu nghị quyết này.

    Tháng 12/05 những nhà đấu tranh cho dân chủ của Trung Quốc mới ra mắt một cuốn sách tại Hoa Thịnh Đốn. Sách có tên là "Cửu B́nh" tức là chín bài b́nh luận về những tội ác của chính quyền Cộng Sản Trung Quốc kể từ khi chúng thống tri. Trung Hoa, mà tác gỉa là những người có qúa khứ là cộng sản. Trong cuốn đó đă lột hết tất cả những sự lưu manh tàn ác đối với dân tộc Trung Hoa của đảng CS Trung Quốc. Sách được đưa lậu vào lục địa từ Hồng Kông và bí mật chuyển đến tay những đảng viên cộng sản. Kết qủa là chỉ trong ṿng một năm rưỡi đă có sáu triệu rưỡi (6.5 triệu) đảng viên, tức khoảng 10% đảng viên trả lại thẻ đảng. Đây là một kết qủa ngoài dự trù. Việt Nam chúng ta hiện nay cũng không thiếu những nhà đấu tranh cho dân chủ mà qúa khứ cũng từng là đảng viên của CSVN như ông Hoàng Minh Chính, Phạm quế Dương, Bùi Tín v.v... mà đa số là những người đă có những bài viết giá trị. Nếu tất cả chúng ta, mỗi ngừơi một tay cùng t́m cách chuyển những bài viết của họ vào trong nước cho cán bộ đảng viên VC cùng đọc th́ tôi tin cũng sẽ có những người trả lại thẻ đảng như đảng viên Trung Cộng đă làm. Hàn Phi Tử có câu: "Nước mất mà không biết là bất trí. Biết mà không lo liệu là bất trung. Lo liệu mà không liều chết là bất dũng". Qua gần 5000 năm giữ nước và dựng nước, cả ba cái bất trên, dân tộc anh hùng Việt Nam không có cái nào cả.

    Từ hồi chủ nghĩa CS xuất hiện trên trái đất gần 100 năm nay, chủ nghĩa ấy đă giết hại hàng trăm triệu sinh linh trên thế giới. Riêng tại Việt Nam hàng triệu đồng bào thân yêu ruột thịt của chúng ta cũng bị chết tức tưởi bởi chủ nghĩa phi nhân tàn bạo này. Chính v́ nhận thức chính xác như vậy, nên Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă gọi chủ nghĩa CS là "Con Quái Vật" (Monster). Tôi đồng ư với danh từ ấy.


    Posted by sgpn at 7:20 PM
    Labels: Toi ac Cong San

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Tại Sao Tôi Bị Đưa Ra Bắc ?

    Tháng 04 năm ngoái, lần đầu tiên kể từ khi ra khỏi nước tôi gặp lại anh TAK. Một trong những câu đầu tiên anh hỏi tôi sau những câu thăm hỏi thông thường là : « Tại sao tụi nó lại đưa toa ra Bắc ? ».

    Câu hỏi đó đă đặt ra với tôi trong suốt hơn một phần tư thế kỷ kể từ sau ngày tôi ra khỏi cái gọi là « trại học tập cải tạo Phú Sơn 4, Bắc Thái ». Hầu như bất cứ ai quen, thân hay sơ, khi gặp lại tôi lần đầu đều đưa ra câu hỏi đó.

    Cũng không có ǵ lạ khi bạn bè và người thân thắc mắc như thế. Họ đều biết quá khứ của tôi, đi học, tôi cắm đầu vào sách vở, đi làm, tôi làm công việc kỹ thuật của một kỹ sư. Chức vụ dân sự cuối cùng là Phụ Tá Giám Đốc Nha Trang bị, Công Ty Điện Lực Việt Nam. Cấp bậc quân đội tương đương binh nh́ sau khi qua đợt huấn luyện quân sự 9 tuần. Tháng 06/1975 tôi đi “tŕnh diện học tập cải tạo” với « tội danh ngụy quyền ». Với quá khứ đó, dưới con mắt của những người đặt câu hỏi, tôi không thuộc thành phần “ác ôn”. Ngay chính tôi thoạt đầu cũng phân vân tự hỏi không biết v́ sao VC lại xếp tôi vào thành phần phải đưa ra miền Bắc. Cho măi đến sau này, khi ra tù, suy ngẫm kỹ tôi mới t́m được câu trả lời. Một câu trả lời không đơn giản và không phải chỉ trong vài phút có thể diễn đạt hết được cái thâm ư và tính quỷ quyệt của VC.

    Có rất nhiều lư do được những người quen biết tôi nghĩ tới. Người th́ cho là tại tôi có thời gian dài làm việc bên cạnh các phái đoàn cố vấn Mỹ. Người th́ cho là tôi đi tu nghiệp Mỹ năm 1973, năm Việt Nam hoá chiến tranh. Người ở trong cùng tổ tù với tôi cho là tại tôi viết lư lịch quá chi tiết, kê khai tất cả gia đ́nh cha mẹ anh em mười mấy người di tản hết. Hầu hết những dữ kiện đó đều đúng. Nhưng nó không phải là lư do đă đưa tôi vào danh sách tù cải tạo bị đưa ra Bắc trên chuyến tầu Hồng Hà cuối tháng 10 năm 1976. Hay nói cho đúng hơn đó chỉ là lư do được lập luận theo cách của chúng ta, từng sống trong một xă hội pháp trị. Trong đầu của người cộng sản không có cái logic đó. VC đưa tôi ra Bắc tháng 10/1976 để rồi chưa đầy 2 năm sau, tháng 02/1978 thả cho tôi về không ǵ khác hơn là một tiểu xảo quỷ quyệt của chúng.

    Khi VC ra thông cáo « tŕnh diện học tập cải tạo », nhân viên Công Ty Điện Lực VN bị đưa vào trại cải tạo Long Thành, tổng số cả 2 đợt tháng 06 và tháng 08/1975 là 75 người. Chức vụ cao nhất là Tổng Giám Đốc, thấp nhất là Trưởng Ty và Trưởng Pḥng. Lần lượt qua vài lần « cứu xét » một số lớn được cho về. Đến tháng 09/1976 c̣n lại dưới 20 người.

    Tôi viết « cứu xét » là dùng chữ của VC, và tôi đề nghị bạn đọc cũng chỉ nên hiểu ư nghĩa của từ ngữ này theo cách của chúng. Đừng dùng cái logic của chúng ta để lập luận rằng trong mấy « đợt tha » từ Long Thành chúng đă truy lục hồ sơ, đối chiếu tờ khai lư lịch, trước khi kết luận cho ai về ai ở. Lúc công bố quyết định « tập trung cải tạo 3 năm » có thể chúng đọc kỹ hơn để phân loại, chứ c̣n trong giai đoạn mấy tháng đầu ở Long Thành tôi không tin là chúng đă làm như chúng ta nghĩ. Điển h́nh như đợt tŕnh diện đầu tiên tại trường Nữ Trung Học Gia Long. Sau 3 ngày, tổng số tŕnh diện và « đủ tiêu chuẩn học tập » lên đến hơn 1100. Vài hôm sau, có một số được gọi tên cho về. Ai cũng đoán già đoán non về lư do được thả, nào là « có công với cách mạng ». Nào là thuộc thành phần gia đ́nh « cách mạng », gia đ́nh « liệt sĩ » hoặc có giấy bảo lănh. Nhưng thực tế trong số ở lại cũng c̣n nhiều người thuộc thành phần đó. Cho đến khi có thêm đợt 2, tŕnh diện tại trường Trưng Vương, một vài người đă được thả ra hôm tháng 06, lại thấy quay vào, mọi người mới vỡ lẽ. Lư do là khả năng nhập trại Long Thành lúc đó chỉ dự trù cho 1000 người, nhưng đợt đầu tại các nơi đă có tới hơn 1100 người tŕnh diện. Chúng phải cắt bớt số dư. Tất nhiên là chúng cũng lật danh sách coi chức vụ từng người. Gặp một chức vụ không có trong ngữ vựng của chúng như « Trưởng hệ thống », hay một chức vụ được tên cán bộ lập danh sách hiểu là “nhẹ” như « Tổng thư kư … » thế là người đó được lấy tên ra cho về. Đến khi số c̣n lại vừa đúng 1000 th́ ngưng, không “cứu xét” thêm nữa. Kết quả là nhiều trường hợp 2 người chức vụ giống hệt nhau, một người về một người ở lại. Chắng phải v́ người về có bảo lănh hay “có công” ǵ cả, và cũng chẳng phải v́ người ở lại có tội trạng ǵ ác ôn hơn. Tất cả chỉ là một anh hên, một anh xui. Anh hên được chúng ḍ đến tên khi con số trong danh sách nhập trại hăy c̣n trên 1000 người. Anh xui có tên nằm đâu đó trong danh sách, chưa ḍ đến tên anh th́ đă đủ túc số, thế là ngưng. Giản dị chỉ có vậy mà đă gieo rắc bao nhiêu bàn tán, đoán già đoán non trong tù.

    “Bàn”, “đoán”, “săn tin” (tất nhiên là tin vịt) là những sinh hoạt thường trực của hầu hết mọi người tù trong những tháng đầu bị nhốt. Nếu ăn uống là nhu cầu vật chất, th́ trong tù rỉ tai là nhu cầu tinh thần không thể thiếu. VC biết rơ cái nhu cầu này, dù cấm đoán cũng không hết được nên chúng đă tương kế tựu kế, kiểm soát rỉ tai bằng cách chính chúng tung tin cho mọi người rỉ tai nhau. Tôi cũng cần nói rơ thêm một chi tiết là : trại Long Thành dành cho “ngụy quyền” ngay từ ngày đầu được giao cho đám “ḅ vàng” thuộc Cục Quản giáo bộ Nội vụ VC quản lư. Khác với những trại tù dành cho sĩ quan quân đội VNCH do Ủy ban Quân quản, thường là những đơn vị bộ đội VC, quản lư. Cách quản lư tù của bộ đội tàn bạo hơn, sẵn sàng dùng sắt máu, nhưng không quỷ quyệt và thâm độc như cách quản lư của đám quản giáo chuyên nghiệp trong ngành công an.

    Vào Long Thành tù được chia ra ở trong những dăy nhà dài, mỗi dăy từ 150 đến 180 tù, do một tên cán bộ quản giáo phụ trách. Tôi ở dăy số 3 gọi nôm na là “nhà 3” do Năm Tiêu làm quản giáo. “Nhà 2” có Tư Khâu, “nhà 6” có Ba Tơ. Dù không ở “nhà 2” hay “nhà 6”, tôi vẫn nhớ rơ về 2 tên này v́ tính cách đặc biệt của chúng. Tư Khâu nói giọng Thanh Nghệ Tĩnh, răng đen mă tấu, mặt bủng da ch́, rất hắc ám. Hắn được mệnh danh là “hung thần” v́ bất cứ một sai phạm nội qui nào của người tù cũng có thể bị hắn bắt bẻ, hành tội. Ngược lại Ba Tơ nói giọng miền Nam, một người xuề xoà có vóc dáng trắng trẻo mập mạp, bề ngoài dễ dăi trong chuyện để cho người tù « thảo luận, học tập » cũng như đề ra “chỉ tiêu lao động”. Lâu lâu giờ nghỉ buổi tối hay ngày cuối tuần Ba Tơ la cà “xuống tổ” ngồi uống trà hút thuốc, nói chuyện trên trời dưới biển với tù. Trong những lần “xuống tổ” như thế thỉnh thoảng Ba Tơ lại rỉ tai cho một vài tổ trưởng những tin tức mà mọi người muốn biết. Từ tin vô thưởng vô phạt như sắp có căng-tin bán nhu yếu phẩm cho tù, đến « tin tối mật » như sắp có đợt xét tha, bao nhiêu người được về ... Nhất nhất Ba Tơ x́ ra tin nào trúng phóc tin đó. Khi có đợt chuyển trại đầu tiên, chúng tôi chẳng ai tin lời giải thích của quản giáo « các anh các chị được đưa đến một nơi có điều kiện học tập tốt hơn ». Nhất là khi danh sách gồm rất nhiều vị chức sắc cao cấp của VNCH như Chủ Tịch Hạ Viện, Phó Thủ Tướng (trong chính phủ DVM), Trưởng Phái Đoàn VNCH tại Hoà Đàm Ba Lê ... Nhưng Ba Tơ khẳng định số người ấy được đưa về Thủ Đức chứ không đi đâu xa. Ít lâu sau tin này được kiểm chứng qua thư từ của gia đ́nh tù gửi vào, xác nhận lời Ba Tơ là đúng. Điều này khiến mọi người nghĩ rằng « chức sắc » như mấy vị đó mà chỉ bị đưa về nhốt trong nhà tù Thủ Đức thôi th́ chắc là « ḿnh được học tập » ở đây cho đến khi về chứ không bị đầy đi nơi rừng thiêng nước độc nào nữa. Chúng tôi lại càng tin như thế khi dăm ba tháng thấy có người được thả, lúc dăm ba chục, lúc đông tới con số trăm. Khiến người tù càng « yên tâm cải tạo ».

    Cứ như thế, dần dần “tin của anh Ba Tơ” trở thành nguồn tin đáng tin cậy, chẳng khác nào đài BBC, hay VOA. Ba Tơ thủ vai lường gạt một cách thật xuất sắc. Nhưng cái xảo quyệt của bọn quản giáo không dừng ở đó.

    Trong tù đề tài được rỉ tai nhiều nhất, được bàn tán sôi nổi nhất, cũng như được phân tích kỹ lưỡng nhất giữa những người tù với nhau là : thời gian cải tạo bao lâu. Thông cáo « mang theo thực phẩm đủ dùng cho 30 ngày » đă đánh lừa những người đi tŕnh diện tháng 06. Quá 30 ngày chưa thấy động tĩnh ǵ, tháng 10 có thêm những người tŕnh diện đợt 2 được chuyển vào trại. Người tù vẫn cố t́m một cách giải thích khác cho con số « 30 ngày » này là « 30 ngày sau khi khởi sự học tập ». Rồi học tập chính trị 10 bài xong chưa đủ, c̣n phải qua giai đoạn lao động cải tạo nữa. Trong khi đó lâu lâu lại có một « đợt khoan hồng », tạo cho người tù hy vọng đợt tới có thể ḿnh sẽ được về dù chưa « học tập » xong. Một trong những người luôn luôn lạc quan chờ ngày ra trại của ḿnh là anh TVA, Tổng thanh tra Xi măng Hà Tiên.

    Tôi không nhớ rơ sau khi vào tù bao lâu chúng tôi được viết thư về gia đ́nh. Địa chỉ nhận thư được ghi như sau : « Ḥm thơ số 15NV, bộ Nội vụ ». Không ai biết, cũng chẳng ai bàn tán, đoán già đoán non về cái bí số 15NV này mang ư nghĩa ǵ, nhưng nó là đầu đề khiến hai người bạn tù giận nhau. Anh KTK, Nghị Sĩ Thượng Viện VNCH đọc trại cái bí số 15NV này thành « mười năm anh về » rồi cứ thế anh nửa đùa nửa thật bàn rằng đây là cái điềm ít nhất mỗi người phải “lột đủ 10 cuốn lịch”. Điều này làm anh A. bất b́nh, cho rằng anh K. nhạo báng những lời bàn lạc quan của ḿnh.

    Tháng 07/1976 mọi người được nghe đọc « quyết định tập trung cải tạo 3 năm ». Cuối tháng 09/1976 tù được phép viết thư về nhà báo cho gia đ́nh thăm nuôi. Đây là lần đầu tiên sau hơn một năm chúng tôi được gặp mặt thân nhân. Tin thăm nuôi, tất nhiên cũng được Ba Tơ rỉ tai trước cả tuần lễ. Mọi người đều trông ngóng. Tinh thần được bơm lên cao. Rồi cái bao tử cũng được bơm theo nhờ có đồ tiếp tế.

    Đầu tháng 10 được gặp gia đ́nh, cuối tháng một số chúng tôi bị chuyển trại ra Bắc. Có người đặt câu hỏi phải chăng trong con người VC vẫn c̣n sót lại một chút « nhân chi sơ tính bản thiện », đă cho tù được gặp mặt gia đ́nh trước khi đưa đi đày. Tôi không tin như thế. Suy nghĩ kỹ mới thấy rơ được thâm ư của VC.

    Chuyến thăm nuôi nhằm mục đích bơm cho người tù một chút hơi vào cái đầu và một chút hơi vào cái bụng. Bơm hơi vào bụng để tù có sức đương đầu với một chuyến đi dài, khổ cực, và những tháng đông giá rét và đói khổ ở miền Bắc. Bơm vào cái đầu để người tù không tuyệt vọng. Cái phương thức quản lư « không dồn tù vào sát chân tường » này được cục Quản giáo của VC áp dụng một cách triệt để. Chúng không để người tù chết chẳng phải thương tiếc ǵ một vài nhân mạng. Song chúng biết tâm lư con người, khi thấy cái chết đe doạ trước mắt, người tù do bản năng sinh tồn sẽ có thể vùng lên, một thắng hai huề với chúng.

    Chiều ngày 25/10 (hoặc cũng có thể là 24, tôi không nhớ chắc) nhà bếp phát cơm sớm, mọi người được lệnh « khẩn trương » ăn uống rồi tập họp “lên hội trường học tập”. Chúng tôi hồi hộp nuốt vội vàng chén cơm, chẳng ai tha thiết ǵ tới việc nấu nướng « bồi dưỡng » như vẫn làm kể từ hôm được tiếp tế. Mấy ngày trước, “tin tuyệt mật của anh Ba Tơ” đă nói về đợt chuyển trại này, nên khi nghe nói “lên hội trường” mọi người hiểu ngay điều ǵ sắp sảy ra, chạy đi t́m nhau dặn ḍ, nhắn gửi, “nếu tôi đi …”, “nếu anh ở lại …”, “nếu anh về trước …”.

    Trên hội trường ngoài mấy tên “ḅ vàng” của ban Quản giáo trại, tôi thấy có một số mặt lạ, mặc quần áo mầu xanh. Chúng loan báo “để thi hành quyết định tập trung cải tạo, một số các anh sẽ được đưa đến một nơi có điều kiện học tập tốt hơn”, lập lại in đúng câu chúng đă nói trong đợt chuyển trại về Thủ Đức mấy tháng trước. Chúng đọc một danh sách khoảng hơn 400 người, ra lệnh về pḥng thu dọn tư trang và tập hợp lại tại hội trường. Trong tổng số gần 20 người thuộc Công Ty Điện Lực VN c̣n ở lại Long Thành lúc đó, có 3 người nằm trong danh sách. Đó là ông Tổng Giám Đốc HTP, ông Giám Đốc Hành chánh NVT, và tôi. Một vị khác, anh NQT, trung tá, Giám Đốc nha Tiếp vận đă theo đợt di chuyển đầu tiên từ mấy tháng trước về Thủ Đức.

    Ngày hôm sau VC làm thủ tục xét tư trang. Tôi không nhớ đây là lần khám xét thứ mấy trong thời gian hơn 1 năm ở trại Long Thành. Mỗi lần như thế là một lần chúng tôi bị chúng lấy đi những « món quư giá » của người tù. Mỗi người được phép giữ lại một túi nylon hoặc một túi xách nhỏ đựng đồ dùng vệ sinh cá nhân, c̣n bao nhiêu bỏ hết vào một bao bố loại 50kg do chúng cấp phát. Bao bố được chất lên xe camion chở đi trước « cho đỡ cồng kềnh », như lời chúng giải thích.

    Qua cung cách chuẩn bị như thế, ai cũng đoán lần này chuyển trại đi xa chứ không về Thủ Đức như đợt trước. Vài người c̣n dựa vào màu xanh đồng phục hải quân của đám người lạ mặt và đám tài xế xe camion, diễn giải rằng chuyến di chuyển này sẽ đi bằng tàu. Như để cho khớp với lời đồn đoán đó, « nguồn tin của anh Ba Tơ » cho biết « các anh ấy sẽ được đưa ra học tập lao động ở Phú Quốc”. Đúng quá rồi ! Phú quốc phải đi bằng tàu chứ làm ǵ có đường nào khác.Và thế là cả người sắp đi lẫn người c̣n ở lại cảm thấy nhẹ bớt nỗi lo âu, tự trấn an “dù sao Phú Quốc cũng vẫn c̣n ở miền Nam”, không bị hai chữ “ra Bắc” ám ảnh, hoang mang tinh thần.

    Đến chiều ngày thứ ba, chúng kêu tập hợp, xếp hàng đôi, điểm danh rồi c̣ng từng cặp hai người với nhau leo lên xe camion. Anh TVA và tôi chung một c̣ng. Khoảng nửa đêm chúng tôi xuống xe ở bến Tân Cảng dưới chân cầu Xa Lộ. Lại điểm danh, hai người một, vẫn c̣ng chung, bước lên con tầu có tên Hồng Hà. Chúng tôi bị dồn vào hầm chở hàng phía mũi tầu, cách mặt boong tầu khoảng 10, 12 thước, bằng toà nhà 3 tầng. Khi mọi người xuống hết, th́ hầm tầu cũng vừa chật ních, không thể ngả lưng, chỉ ngồi duỗi chân dựa vào nhau, nếu một ngựi nằm th́ một người khác phải ngồi bó gối. Nắp hầm đóng lại, bên trong tối như bưng, kín mít, ngột ngạt.

    Gần sáng tầu khởi hành. Chúng tôi cố t́m cách định hướng nhưng không được. Măi đến chiều hôm sau khi nắp hầm mở ra để tiếp tế nước uống, mặt trời rọi bóng nắng sang thành tầu bên tay mặt, mọi người không ai nói với ai đều hiểu rằng mặt trời chiều, tức hướng Tây, ở bên tay trái, như vậy là tầu đang trực chỉ hướng Bắc. Nỗi lo sợ từ gần một tuần nay, tưởng đă được « tin của anh Ba Tơ » xoá tan, nay hiển hiện trước mắt. Không ai c̣n muốn bàn tán ǵ về nơi đến sắp tới là đâu nữa. Hai chữ « ra Bắc » coi như tận cùng của đầy ải rồ́, chẳng cần phân biệt là đồng bằng, trung du hay thượng du nữa. Dù Hà Nam Ninh, Bắc Thái, Lạng Sơn, hay Đầm Đùn Thanh Cẩm, trại nào cũng thế mà thôi. Anh TVA, ngồi dựa lưng với tôi từ lúc xuống tầu, nói nhỏ « Ḿnh bị đưa ra Bắc rồi Dũng ạ ». Giọng lạc quan của anh trong suốt mười mấy tháng tôi ở chung « nhà 3 » với anh, biến mất hết.

    Đối với chúng tôi trên con tầu Hồng Hà, mặt nạ của Ba Tơ trong vở kịch lường gạt đến đây đă rớt xuống. Nhưng đối với những người c̣n ở lại Long Thành, họ vẫn đinh ninh chúng tôi được đưa ra Phú Quốc, và không biết ǵ về chuyến đi ra Bắc này cả. Sau này có anh về từ Hàm Tân c̣n so b́ rằng tôi được đi Phú Quốc, gần biển « sướng chết », đâu có cực khổ với đồng khô cỏ cháy như Xuyên Mộc, Hàm Tân.

    Hai ngày c̣n lại trên tầu, anh TVA và tôi tâm sự với nhau nhiều. Anh hỏi tôi những câu mà qua đó tôi đoán là anh muốn t́m hiểu về « thành phần » của tôi để so sánh với anh. Đại loại như ngày xưa tôi có đảng phái Dân chủ, Cần lao ǵ không, đi lính tôi đeo tới lon ǵ ? ... Nghe câu trả lời của tôi, anh thắc mắc « vậy tại sao nó lại đưa toa ra Bắc nhỉ ? ». Về sau, nói chuyện với nhiều người khác, như anh NVC, Trung tá Không quân, Dân biểu Quốc hội, ông NPQ, Viện Giám sát, ông MVA, TAB, Chánh án Toà thượng thẩm, v.v… tôi được biết thêm các quư vị ấy đều lấy làm lạ về sự có mặt của tôi trên chuyến tầu. Nhưng chính sự có mặt của tôi cũng như của một vài người tương tự như tôi, đă có tác dụng như một đám bèo mà quư vị ấy cố bám vào để gạt đi cái ám ảnh của chuyến tầu đi Bắc này là một « chuyến hàng » đặc biệt, hàng loại « A », loại sẽ đi tù mút mùa.

    Đấy cũng chính là mục đích của VC. Chúng đă thành công để cho người tù không suy luận được về những ǵ chúng sẽ áp dụng với họ, không suy luận được họ bị chúng xếp vào thành phần nặng nhẹ thế nào. Từ đó chúng dễ dàng đánh lừa về cái chúng gọi là “chính sách khoan hồng cho những người cải tạo tốt”.

    Nghĩ lại tôi thấy ḿnh thật ngờ nghệch – và chắc chắn tôi không phải là người duy nhất – không biết ǵ về cái gian trá, quỷ quyệt của VC trong việc giam giữ chúng tôi. Ngờ nghệch tin vào cái thông cáo « mang thực phẩm đủ dùng trong 30 ngày », vào Long Thành mà cứ ngong ngóng đếm từng ngày cho hết con số 30. Khi con số đó đă nhân lên gấp 3 gấp 4 lần, tôi vẫn hy vọng « một ngày về không xa », chẳng mảy may nào nghĩ tới có lúc ḿnh phải ngồi trong hầm chứa hàng của con tầu Hồng Hà, bị đưa đi đầy ải trong một trại khổ sai mang tên « Phú Sơn 4 » Bắc Thái.

    Cho đến khi nằm co ro trong giá rét và đói khát của trại Phú Sơn 4, tôi vẫn ngờ nghệch tin vào cái « quyết định 3 năm tập trung cải tạo », ngờ nghệch chờ đợi tới ngày thứ 1095 của mốc thời gian « 3 năm ». Trong khi đó VC vẫn tiếp tục lừa bịp người tù bằng những « đợt khoan hồng nhân ngày lễ lớn ». Chẳng ai ngờ được là chỉ hơn 3 tháng sau khi đặt chân lên miền Bắc, đầu năm 1977, anh MT, một Dân Biểu Quốc Hội VNCH, được thả cho về. Tất nhiên là sau đó chúng lại « lên lớp » giải thích, nào là « chính sách khoan hồng của Đảng », nào là anh MT « học tập tốt, tiến bộ », « biết ăn năn hối cải » ... & …

    Nói cho cùng, nếu tôi không ngờ nghệch, dù có kinh nghiệm về VC thế nào đi nữa, ở hoàn cảnh nằm trong rọ như vậy chưa chắc tôi đă biết ḿnh phải làm ǵ để sinh tồn. Cái hy vọng một « ngày về không xa » đă nuôi dưỡng sự chờ đợi, giúp cho tinh thần khỏi phát điên phát khùng. Suốt một năm đầu tiên ở Phú Sơn 4, không một lần được tiếp tế, chúng tôi lâm vào cảnh đói triền miên. Một buổi chiều trên đường lao động về, đi ngang chuồng ḅ thấy băi phân, trong một tích tắc đồng hồ tôi bỗng hoa mắt nh́n ra đó là cái bánh bông lan. Tuy chưa nhào tới vồ, đưa vào miệng, nhưng sau đó tôi vô cùng lo sợ. Tôi biết tôi đang ở bên bờ của khủng hoảng tinh thần, cứ đà này sẽ có ngày phát điên. Tôi cố moi t́m ra những yếu tố lạc quan trong cảnh tù tội và hy vọng. Trong mục đích này anh TVA và tôi đă giúp nhau rất nhiều. Chúng tôi sống dựa tinh thần vào nhau.

    Ăn xong cái Tết thứ nh́ ở trại Phú sơn 4, Bắc Thái, sáng ngày 17/02/1978, tôi và một anh nữa, Bác Sĩ DHM, Giám Đốc Viện Pasteur, được gọi ra khỏi hàng đang điểm danh lao động. Rồi được dẫn lên văn pḥng ban Quản giáo kư nhận « giấy tha ». Thật bất ngờ chẳng kém ǵ 17 tháng trước đó tôi bước xuống tầu trên bến Tân Cảng.

    Trái ngược lại với cái ngờ nghệch trong suốt 3 năm qua, lần này tôi nghi chúng đưa anh M. và tôi đi nhốt một nơi khác, nhưng làm bộ như chúng tôi được thả để đánh lừa những người tù c̣n lại trong trại. Kư nhận giấy tha, nhưng chưa được cầm trong tay. Ngồi trên xe com-măng-ca nhưng vẫn bị bít bùng. Từ Bắc Thái chúng đưa chúng tôi về nhốt tại trại Nam Hà gần Hà Nội. Rồi suốt 3 ngày 4 đêm ngồi trên xe lửa xuôi Nam, chúng tôi vẫn bị c̣ng vào nhau. Chưa có dấu hiệu ǵ gọi là « tự do » cả. Tại trại Nam Hà tôi gặp lại anh NQT. Té ra từ trại Thủ Đức anh đă ra Bắc trên cùng chuyến tầu Hồng Hà với tôi, anh nằm trong hầm chứa hàng phía đuôi tầu, và bị giam giữ tại trại Thanh Cẩm, Thanh Hoá.

    Để kiểm chứng cái nghi ngờ của ḿnh, tôi xin với tên cán bộ áp tải, cho tôi được gửi điện tín về Sài G̣n báo tin để vợ con tôi ở xa về đón. Tôi nói dối là gia đ́nh tôi đă đi kinh tế mới. Bị từ chối tôi càng nghi ngờ hơn. Ngồi trên chuyến xe lửa hướng về miền Nam, tôi vẫn không thấy « hồ hởi » chút nào. Cho tới khi đặt chân lên nhà ga Sài G̣n (lúc đó c̣n nằm ở địa điểm cũ trên đường Lê Lai), được tháo c̣ng, nhận « giấy ra trại » tôi mới thực sự tin là được thả.

    Tổng cộng tôi xa gia đ́nh 1018 ngày, bằng 34 lần của con số « 30 » trong thông cáo « mang theo thực phẩm khi tŕnh diện », nhưng vẫn chưa tới mốc 1095 ngày của quyết định « 3 năm tập trung cải tạo ». Tôi bị đưa ra Bắc nhưng lại được về trước hơn cả một vài anh trong số những nhân viên Công Ty Điện Lực c̣n ở lại Long Thành, như các anh TKK, PXH ...

    Có phải tôi bị đưa ra Bắc v́ tôi là thành phần « ác ôn » không ? Chắc là không.

    Có phải tôi đă « học tập tốt », đă “tiến bộ” nên được « khoan hồng trước thời hạn » không ? Chắc là không ?

    Vậy th́ tại sao ?

    Câu trả lời sẽ t́m ra nếu chúng ta lục trong cái hồ lô chứa những tṛ gian trá xảo quyệt của Việt cộng. Tôi bị đưa ra Bắc rồi từ đó cho về, chẳng qua tôi chỉ là một mồi nhử, đánh lừa những người ở lại. Cũng như chính tôi đă từng bị chúng gạt bằng những chuyến về của các bạn tôi ở Long Thành.

    Về con số 3 năm trong quyết định tập trung cải tạo công bố tháng 07/1976 : Tại sao lại 3 năm, mà không phải là 5 năm, 7 năm hay 10 năm, trong khi có nhiều người bị giam giữ gấp mấy lần 3 năm ? Theo tôi có lẽ VC đă dựa vào một bản nghiên cứu tâm lư vế khả năng chờ đợi, khả năng chịu đựng của con người để đưa ra con số này. Phương thức giam giữ tù cải tạo của chúng là không dồn tù vào sát chân tường, không để cho tù lâm vào t́nh trạng hoàn toàn tuyệt vọng. Thật vậy, ra tới miền Bắc, tôi nhắm vào cái mốc 3 năm mà trong đó tôi đă có gần 17 tháng « thâm niên » tại Long Thành, tính ra c̣n 19 tháng nữa Thôi th́ hăy rán sức chịu đựng, chờ đợi đến ngày đó, cũng chỉ dài tương đương bằng thời gian đă qua ở Long Thành.

    Mồi nhử để câu cá phải làm sao hấp dẫn cho cá cắn câu. Đối với người tù, mồi nhử của VC chắc chắn chẳng hấp dẫn ǵ, nhưng ít nhất chúng đă thành công, tạo hy vọng cho người tù dựa vào đó mà sống qua ngày, không điên khùng, không quẫn trí, không vùng lên. Và cứ thế có người đă chịu đựng 2 lần, 3 lần, và thậm chí 4 hay 5 lần 3 năm.

    Chuyến lưu đầy ra Bắc và 34 tháng tù đă « cải tạo » được cái ngờ nghệch của tôi, giúp tôi nh́n thấy rơ ràng hơn bản chất vừa xảo quyệt vừa thâm độc của Việt cộng. Tiếc thay tôi không có cơ hội chia sẻ cái kinh nghiệm này với thật nhiều người, nhất là những người vừa ngờ nghệch vừa chóng quên.

    Nguyễn Trọng Dzũng

    http://www.lyhuong.net/viet/index.ph...rticle&id=1887 1887&catid=54 :vnch&Itemid=65

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    SINH NĂM 1975.


    ( Tặng Bí 1975)
    Tôi sinh một chín bảy lăm,
    Miền Nam Việt Nam xụp đổ,
    Theo mẹ cuộc sống gian nan,
    Những tháng năm dài xa bố.
    Bố đă vào trong trại tù,
    Gọi là “Học tập cải tạo”,
    Sau ngày Ba Mươi tháng Tư,
    Đất trời buồn rầu thay áo.
    Mẹ kể đường phố tan hoang,
    Người lạ nên đường phố lạ,
    Quân lính miền Nam tan hàng,
    Bao nhiêu mảnh đời đau khổ.
    Sinh năm một chín bảy lăm,
    Tôi chưa được biết mặt bố,
    Người “tù cải tạo” xa xăm,
    Ở nơi rừng sâu cách trở.
    Đầu óc bé thơ của tôi,
    Bố vẫn là người xa lạ,
    Nào hiểu tiếng mẹ thở dài,
    Những đêm mẹ nằm không ngủ.
    Được thăm bố lần đầu tiên,
    Khi tôi vừa lên ba tuổi,
    Cùng mẹ đi chuyến xe than, *
    Đến vùng Hàm Tân, Thuận Hải.
    Đường dài quanh co đất cát ,
    Đường vào Z30C,
    Mẹ bế tôi lê từng bước,
    Gío thổi cát bay bụi mù.
    Mẹ thuê người thồ hàng hoá,
    Đôi vai vẫn nặng ân t́nh,
    Thương bố thân tù đói khổ,
    Sợ đời bất trắc tử sinh.
    Sinh năm một chín bảy lăm,
    Có đứa trẻ thơ tội nghiệp,
    Mỗi năm gặp bố một lần,
    Cũng là một điều mơ ước.
    Sinh năm một chín bảy lăm,
    Là năm đau buồn lịch sử,
    Bây giờ tôi đă lớn khôn,
    Nỗi đau vẫn c̣n như cũ.
    Nguyễn Thị Thanh Dương.
    * Xe chạy bằng b́nh than luôn được đốt nóng.

    Read more: http://www.vietlyhuong.net/2012/02/c...#ixzz1pPLd9nbq

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Anh Hùng Vơ Đằng Phương

    Tác giả : Dương Viết Điền
    Anh Hùng Vơ Đằng Phương
    Biểu-tượng bất-khuất và kiêu-hùng của một sĩ-quan QUÂN-LỰC VNCH


    Nói đến cuộc bạo-động trong tù, chúng ta không thể quên được vụ 20 tháng 04 năm 1979. xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung-tâm trại cải-tạo B́nh-Điền tại tỉnh Thừa-Thiên. Vụ này do một ban tham-mưu gồm 9 Sĩ-quan của QLVNCH chỉ-huy toàn thể 500 tù-nhân trong trại vùng dậy đ̣i cải-tổ chế-độ lao-tù.

    9 sĩ-quan trong ban-tham-mưu đó là:
    -Trung-tá Nguyễn tri Tấn: Trung-đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3BB
    -Thiếu-tá Vũ ngọc Tụng: Quân-Trấn Đà-lạt
    -Thiếu-tá Phạm-Cang: Tiểu đoàn trưởng TQLC
    -Thiếu-tá Lê quang Liển: Sĩ-quan TQLC
    -Thiếu-tá Hoàng Hưng: Sĩ-quan Bộ- Binh
    -Thiếu-tá Phan văn Lập: Chi-đoàn trưởng Thiết-giáp.
    -Đại-uư Trần-Biên : Sĩ-quan truyền-tin SĐ5/BB
    -Đại-uư Nguyễn thuận Cát : Sĩ- quan Biệt-động quân
    -Đại-uư Nguyễn đ́nh Khương :Tiểu đoàn phóTĐ120 Địa phương quân, tiểu-khu Quảng-trị.

    Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đă bị bọn công an đánh đập một cách bạo-tàn đến găy xương, trào máu, bầm gan tím ruột. Nhiều sĩ-quan đă bị chết trong tù sau những trận đ̣n dă-man vô nhân đạo như Đại-uư Nguyễn văn Báu, Đại-uư Nguyễn thuận Cát, Thiếu-uư Trần hữu Sơn. C̣n tất cả 9 sĩ-quan trong ban tham-mưu nói trên đều bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại phân trại 4 thuộc trung -tâm trại cải - tạo B́nh-Điền lúc bấy giờ (20 tháng 04 năm 1979) mới chứng kiến được cảnh công-an từ dưới ty công an thuộc tỉnh B́nh trị Thiên lên tàn sát tù-nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng đă dă-man, bạo-tàn đánh đấm liên-tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đánh, đấm, đá, đạp 3 tiếng đồng hồ, bọn công-an thợ đấm bắt đầu rút khỏi trại để lại trong trại 50 tù nhân nằm la-liệt, rên la quằn-quại trên những vũng máu như anh Nguyễn văn Thiện, anh Nguyễn văn Vy, anh Nguyễn hữu Ai, anh Đôn, anh Nguyễn trung-Việt, anh Nguyễn hữu Tứ v.v giống như cảnh ở ngoài chiến-địa hoang tàn chờ trực-thăng đến bốc xác chết và những người bị-thương vậy.

    Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù-nhân trong trại đều căm thù đến uất-nghẹn. Có một sĩ-quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất. Mang sẵn trong người gịng máu bất-khuất và anh-hùng của Lê-Lợi, Quang-Trung, gịng máu kiên-cường và dũng-cảm của Trần hưng Đạo,Trần b́nh Trọng cũng như ư-thức được Trách-nhiệm, Danh-dự và Tổ-quốc, anh nguyện dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục-tù Cộng-sản ; Tiếp-tục nuôi-dưỡng ư-chí đấu-tranh đến giọt máu cuối cùng, ngơ hầu mang vinh-quang về bồi-đắp cho quê mẹ, tô-thắm cho non sông. Bởi v́ anh ta biết rằng, chân-lư dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mĩm cười với trời xanh bất chấp cả thời-gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đoạ-đày trong kiếp tù tội thêm 10 hay 20 năm nữa, cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên-ngang bảo-vệ chân-lư đến cùng không một chút nao-núng trong ḷng : đó là Thiếu-tá VƠ ĐẰNG PHƯƠNG thuộc Lữ-đoàn 258 TQLC / QLVNCH. Nhận thấy Cộng-sản đă đối xử quá tàn-nhẫn với tù-nhân qua chế-độ lao-tù trong các trại “cải-tạo” nhận thấy Cộng-sản đối xử tàn-tệ vơí vợ con cuả tất cả các sĩ-quan cũng như của các viên chức thuộc chính-phủ Việt nam Cọng hoà trước đây, nhận thấy Cộng-sản sau khi chiếm được miền Nam vẫn cổ-xúy chiến-tranh gây hấn Kampuchia làm con dân nước Việt chết thêm hàng chục ngh́n người, nhận thấy Cộng-sản không chịu thực thi những lời cam-kết mà vẫn làm cho nhân-dân Việt-nam đói khổ sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam, Thiếu-tá VƠ ĐẰNG PHƯƠNG mặc dầu đang ở trong ngục tù Cộng-sản, quyết-định viết một bức thư gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để yêu-cầu tên thủ-tướng nầy giải-toả những vấn đề nêu trên. Anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG ở tù lúc bấy giờ đă hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt-khoát viết một bức thư gởi tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để đại diện cho nhân-dân Việt-nam yêu-cầu chính-phủ Hà-nội xét lại chính-sách cai trị nhân-dân cuả đảng Cộng-sản Việt-nam. Chính Đại-úy Nguyễn đ́nh Khương, Tiểu-đoàn phó TĐ 120 Địa-phương quân, người đă tham gia vụ 20 tháng 04, bị Cộng-sản cùm gần 5 năm mới được thả ra, đă được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Lúc anh Khương được đưa từ phân trại 2 về phân trạí 1 thuộc trung tâm trại B́nh-Điền, anh Khuơng ngủ sát chỗ nằm với anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG. Lúc bấy giờ, mỗi người chỉ được 45cm chiều ngang để nằm và phải nằm nghiêng mới đủ chỗ nên theo lời thuật lại cuả anh Khương , hai người đă cùng nhau nằm ngủ trong mền để thảo ra bức thư đó. Nội dung bức thư mà anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng như sau:

    Xét rằng :

    Sau khi Cộng-sản chiếm miền Nam Việt-nam vào ngày 30 tháng 04 năm 1975, tất cả sĩ-quan QLVNCH đều bị bắt giam trong các trại cải-tạo mà không xét xử, không tuyên án. Đây là một hành-động vi-phạm trắng trợn hiệp-định Paris năm 1973 mà chính các ông đă kư kết.

    Tất cả sĩ-quan QLVNCH trong những trại cải-tạo trên khắp lảnh thổ Việt-nam đều bị đối xử quá tồi-tệ,vô nhân-đạo. Đó là một sự trả thù hèn-hạ, thấp kém, điên-cuồng, mất cả t́nh người, không đếm xỉa ǵ đến bản tuyên- ngôn quốc tế nhân -quyền.

    Gia-đ́nh vợ con của tất cả sĩ-quan QLVNCH cũng bị đối xử quá tồi-tệ :

    -Họ bị đày lên rừng thiêng nước độc để sống trong các vùng mệnh danh là kinh-tế mới.

    Tất cả những nhà cửa, tài-sản của nhân- dân miền Nam bị tước đoạt một cách công khai, trắng trợn .

    Con cái của các sĩ-quan trong chế-độ cũ đều bị cấm vào học ở tất cả các trường v́ bị coi là con của Ngụy. Lư-lịch 3 đời bị gán cho những thành phần này khiến con cháu họ không thể làm bất cứ việc ǵ để sinh-sống được.

    Sau hơn 10 năm đất nước Việt-nam đă thống nhất, nhân-dân Việt-nam vẫn c̣n đói rách, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc. Chiến-tranh vẫn chưa chấm dứt,hoà-b́nh vẫn chưa xuất hiện trên đất nước Việt-nam. Sự tự-do dân chủ vẫn chưa được thực-thi. Nhân-dân Việt-nam vẫn sống trong lo-âu sợ-hăi. Điều này chứng tỏ Đảng và nhà nước đang thi-hành một chính sách sai lầm hoàn toàn.

    Nay yêu cầu Đảng và Nhà nước :

    Thả ngay lập-tức tất cả sĩ-quan và những nhân-viên của chế-độ cũ đang bị giam cầm trái phép và phải đối xử nhân-đạo theo bản tuyên- ngôn nhân-quyền quốc-tế.

    Hăy đối xử nhân-đạo và b́nh-đẳng với vợ con, gia-đ́nh của tất cả sĩ-quan và những viên-chức trong chế-độ cũ trước đây.

    Xét lại toàn bộ đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước để toàn dân được no cơm ấm áo và được sống trong một nước hoà-b́nh,độc-lập,tự-do, dân-chủ thực sự :

    - Thực thi hoà-giải hoà- hợp dân-tộc.
    - Phục hồi lại nền kinh-tế
    - Chấm dứt chiến-tranh
    - Giải toả lệnh bế-quan toả-cảng để thông thương với nước ngoài.

    Làm tại B́nh-Điền ngày 19 tháng 6 năm 1985


    Kư tên VƠ ĐẰNG PHƯƠNG
    Chủ-Tịch Lâm-Thời Phong-Trào Thiết-Lập Nền Đệ-Tam Cọng-Hoà.

    Sau khi viết xong bức thư, anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG có mời một số sĩ-quan đă tham-gia vụ 20 tháng 04 cùng kư vào bức thư trên. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng các anh nầy vừa tham-dự một trận chiến trong ngục-tù quá khốc-liệt nên để cho các anh ấy nghĩ dưỡng quân một thời gian đă. Thế rồi anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG quyết định kư tên một ḿnh. Sau đó anh ghi lại thành 3 bản, một bản anh gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng nhờ trưởng trại chuyển giao, một bản gởi cho tên trưởng trại cải-tạo B́nh-Điền nhờ cán bộ trực trại chuyển giao, và một bản lưu .

    Sau khi tên trại trưởng trung-tâm trại cải-tạo B́nh-Điền là trung-tá Trần văn Truyền nhận được bức thư nói trên, anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG liền bị cùm ngay rồi bị đưa vào ở trong nhà kỷ-luật khoảng 3 tháng trước khi đưa ra toà xét xử. Dĩ-nhiên bức thư của anh PHƯƠNG là một bản án chống lại chế-độ Cộng-sản Hà-nội một cách rơ-rệt nên ban tham mưu cán-bộ trại cải-tạo sau nhiều ngày họp với ty công-an B́nh trị Thiên đă quyết định đưa anh ra toà án nhân-dân để xét-xử .

    Đứng trước vành móng ngưạ, thiếu-tá TQLC VƠ ĐẰNG PHƯƠNG đă trả lời một cách khẳng-khái và hùng hồn khiến ai nấy đều cảm phục. Một số nhân-viên làm việc trong toà án đă bỏ dở công việc để chạy vào xem v́ thấy bị-cáo là một mẫu người thật khí-khái. Cứ mỗi lần quan toà hỏi câu nào, anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG không trả lời trực-tiếp, anh giả-bộ nói loanh-quanh để chưởi chế- độ độc-tài đang tác-oai tác quái trên đất nước Việt-nam. Có đoạn anh PHƯƠNG đă nói:

    _ Tôi nói đây với tư-cách của người dân thường, nói lên tiếng nói mà những người chung quanh tôi, bạn bè tôi, nhân-dân Việt- nam, không dám nói. Tôi nói có t́nh có lư, chứ không phải xử-dụng biện-pháp quân sự để đàn-áp.

    Nghe anh PHƯƠNG nói vậy, tên quan ṭa nói ngay:

    _Anh là một thằng sĩ-quan nguỵ không hơn không kém, anh là cái thá ǵ ? Một triệu nguỵ-quân và chư hầu c̣n thất-bại nói ǵ một ḿnh anh. Nhưng rồi qua một đoạn khác anh PHƯƠNG vẫn hiên-ngang :

    _ Các ông làm ǵ có luật-pháp. Luật-pháp của các ông là luật rừng. Tôi đă ở trong tay các ông th́ do các ông quyết-định.

    Thấy những lời nói hùng-hồn của bị-cáo bất lợi cho phiên-toà, tên quan-toà liền chỉ-thị cho bị-cáo nói câu cuối cùng. Biết chúng cố-ư không cho nói nhiều, anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG quyết-định cô-đọng lại những tư-tưởng quan-trọng rồi tiếp-tục ngẩng đầu cao và dơng-dạc trước toà:

    _ Ai là kẻ vi-phạm hiệp-định Paris 1973 ?
    _ Ai là kẻ đă gây ra chiến-tranh và nghèo đói ?
    _ Phạm văn Đồng phải chịu trách-nhiệm hoàn-toàn về việc xé bỏ hiệp-định Paris. Rồi đây nhân-dân Việt-nam cũng như nhân-dân thế-giới đều được biết lời nói của tôi trước toà-án này.

    Anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG đang nói thao-thao bất-tuyệt th́ tên quan toà đứng lên tuyên-bố chấm dứt phiên-toà để vào nghị-án. Sau khi nghị án, toà tuyên-án anh PHƯƠNG 10 năm tù ở sau khi thi-hành xong án tù cải-tạo v́ phạm tội âm-mưu lật đổ chính-quyền dân-chủ nhân-dân.. Theo anh Nguyễn kim Chung( đại-uư TQLC, cũng đă xuất-hiện trong phiên-toà này như một bị-cáo v́ bị nghi-ngờ có liên-hệ đến vụ này), khi nghe đọc bản án, anh Chung nghĩ rằng đây là một bài luận văn viết đâu sẵn từ trước v́ nó giống như một bài luận văn trong Quốc văn giáo-khoa thư của chương tŕnh Bộ giáo-dục cho học-sinh học. C̣n việc đưa anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG ra toà xét xử chẳng qua chỉ là một việc làm có tính cách h́nh-thức để đánh lừa quần chúng mà thôi. Như vậy từ năm 1975 đến năm bị đưa ra toà, anh PHƯƠNG đă ở tù được 10 năm. Bây giờ theo lệnh toà-án anh PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữa là 20 năm. Sau khi rời toà-án và bị c̣ng tay đưa lên lại trại cải-tạo B́nh-Điền để ở tù tiếp, tên trại trưởng trung-tá Trần văn Truyền lúc bấy giờ có khuyên anh PHƯƠNG nên nhún-nhường và phải biết điều hơn, anh PHƯƠNG đă quát vào mặt tên trại trưởng:

    _ Ông đừng có dạy đời tôi nữa, ông biết Trần b́nh Trọng trong lịch-sử Việt-nam chứ! Tôi muốn sống như Trần b́nh Trọng. !

    Dĩ-nhiên sau đó thiếu-tá VƠ ĐẰNG PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữa trong sự uất-ức và hận thù triền-miên .

    Măi đến năm 1995, anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG mới được Cộng-sản trả tự do khỏi trại cải-tạo Hàm-tân. Lúc trở lại quê nhà, anh bị bạo bệnh kéo dài và hành-hạ do những trận đ̣n tra tấn dă-man và ác-độc qua những năm tháng quằn-quại trong ngục-tù Cộng-sản để rồi sau đó, anh đă vĩnh-biệt cơi đời trong tức-tưởi và uất- nghẹn v́ thù nhà chưa trả, nợ nước chưa đền .

    Qua những hành-động đầy kiên-cường và bất-khuất của Thiếu-tá VƠ ĐẰNG PHƯƠNG nói trên, ta thấy rằng Sĩ-quan của QLVNCH là thành phần ưu-tú của dân-tộc Việt-nam. Ngay trong ngục-tù Cộng-sản, họ vẫn luôn luôn biểu-lộ tinh-thần Danh-dự, Tổ-quốc,Trách-nhiệm. Anh VƠ ĐẰNG PHƯƠNG đúng là một Sĩ-quan gương-mẫu đă vị quốc vong thân.

    Tổ-quốc và Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà vinh-danh anh .

    Dương Viết Điền

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    1. Những Ngày Tù Chung Với Ông Đạo Dừa


    * Viết theo lời kể của Joseph Cao ở Paris để tặng những chiến sĩ can trường của đất nước.

    Tôi biết về ông Đạo Dừa rất ít.
    Trước kia, có một dạo tôi hiểu lầm ông. Nói hiểu lầm th́ không đúng lắm : Tôi đă đánh giá sự đấu tranh của ông một cách phiến diện, hời hợt. Tôi được biết ông tên Nguyễn Thành Nam, một nhà trí thức tân tiến, đỗ bằng kỹ sư Canh Nông ở Pháp, có tinh thần ái quốc cao. Ông thành tài về nước, không làm việc cho Pháp, dấn thân vào cuộc cách mạng dân tộc. Vào thuở tôi c̣n mài đũng quần nơi những lớp trung học Pháp, tên tuổi của ông đă lẫy lừng, tương lai rạng ngời hào quang. Người Pháp ở Đông Dương rất ưu đăi dân thuộc địa thông thạo Pháp ngữ. Từ các công sở đến ṭa án, hễ ai nói thông được tiếng Pháp kể như nắm được chiếc ch́a khóa vàng trong tay, vào cửa nào cũng thông cũng lọt. Huống chi đối với những nhà khoa bảng xuất thân từ những đại học ở "chánh quốc" áo gấm về nước ! Với cái tài ấy, cái thế ấy, giá khéo luồn lọt một tí, làm ǵ chẳng thừa miếng đỉnh chung ?
    Nhưng ông kỹ sư Nam ấy lại không đem cái tài học của ông làm việc cho Pháp. Ông cũng không dùng cái vốn liếng văn hóa Tây phương gây lợi cá nhân, cho có được vợ đẹp con ngoan, cho có trang trại giàu sang trưởng giả, hoặc khai khẩn dinh điền màu mỡ c̣ bay thẳng cánh... Ông đă rũ bỏ cảnh phồn hoa quyến rũ, dứt ĺa văn minh vật chất ông có thể thụ hưởng thừa thăi, để về một cồn vắng... trèo lên ngồi trên ngọn cây dừa mà tu, và thành là ông Đạo Dừa !
    Tôi từng nghe mấy người anh bà con, cùng ở Pháp về chuyến tàu với ông, không ngớt bàn tán về hành động ấy của ông:
    - Kỹ sư Nam ở Bến Tre tính ǵ thế ? Toan làm chính trị ? Hay muốn chóng nổi danh ?
    - Hắn bất hợp tác với nhà cầm quyền ư ? Chủ trương tranh đấu bất bạo động như thánh Gandhi bên Ấn Độ à ? Bối cảnh chính trị ở Việt Nam khác xa với bên ấy lắm cơ mà !
    - Hay hắn lập dị ? Cũng muốn tỏ ra ta đây anh hùng cách mạng ?
    Tôi nghe nói mà chán ngắt cho mấy ông anh họ ấy. Họ c̣n ham thụ hưởng, có dám dấn thân như thế đâu. Cũng có kẻ xu thời, làm chính trị sa lông. Thứ chánh trị không tốn kém ǵ, không hy sinh nguy hiểm ǵ, mà lại được tiếng là kẻ thức thời.
    Tôi là lớp trẻ vừa trưởng thành, vừa mới hiểu biết, trong thập niên 30-40. Chúng tôi thường thao thức theo tiếng gọi thức tỉnh của hồn nước, của các bậc tiền bối yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng, ông Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ... Và cái chết oanh liệt của các bậc anh hùng Yên Bái Nguyễn Thái Học, Kư Con...đă khơi dậy ḷng yêu nước khắp nơi.
    Chúng tôi sống trong kư túc xá, giữa bốn bức tường kín học đường, song cũng biết được đại khái những hoạt động của các ông Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Hồ Văn Ngà... và vô số nhà trí thức Trung Nam Bắc... đă không chạy theo vinh hoa phú quư thuở bấy giờ mà lại dấn thân làm quốc sự. Những quyển sách quốc cấm như Phan Đ́nh Phùng, Con hùm Yên Thế Hoàng Hoa Thám, Giặc Cờ Vàng... được chúng tôi lén lút chuyền tay nhau, nửa đêm chun vào cầu tiêu, xem mê mệt không thôi. Phong Trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục với những tổ chức đưa thanh niên du học nước ngoài, những trường bí mật đào tạo nhân tài đất nước đă nhiều đêm là mộng trắng canh trường của ḷng trai háo hức dấn thân vào phiêu lưu của chúng tôi. Chúng tôi không c̣n ḷng học hành nữa. Cái học trong nước, dẫu đến cao đẳng, cũng chỉ để làm nô lệ. Chúng tôi từng chứng kiến, căm hờn và ứa lệ, khi trông thấy đang trong giờ giảng bài, vị giáo sư đáng kính mến bỗng bị lính kính, mật thám Pháp vào lớp, xích tay lại dẫn ra xe ...
    Giữa cái buổi giao thời đặc biệt ấy của đất nước, bọn thực dân cai trị cố t́nh bên trên đè ép xuống, dân chúng ở dưới ngộp ngạt trôi ḿnh, có một số thanh niên Tây học, đâm ra hoang mang mất hướng. Một số bỏ sở làm lương to, đi lên núi Cấm tu hành, hoặc toan luyện bùa phép chống lại súng đạn, hoặc toan t́m hậu duệ các tiền bối kháng Pháp thời xưa ? Một số lại ủy mị hơn, t́m quên lăng hận mất nước trong làn khói phù dung ! Một số t́m đường trốn ra nước ngoài, cố sao móc nối được một anh thủy thủ ngoại quốc có tàu buông neo ở Nhà Rồng, năn nỉ sao cho anh ta thương t́nh dấu dưới hầm tầu để đi được thoát. Nếu rủi ra khơi rồi mà thuyền trưởng hay được, bất quá hắn xiềng chân lại, chờ đến một bến cảng nào đó th́ tống khứ lên bờ, miễn đừng trong thuộc địa của Pháp thôi, là cũng sướng đời rồi ! Tuy không nói nhiều ngoại ngữ, chỉ biết tiếng Pháp rất hạn chế trong thương trường quốc tế, nhưng những thanh niên mạo hiểm vẫn tin tưởng ở sức lực và bàn tay tháo vát của ḿnh để có thể kiếm được cái ăn qua buổi, miễn không ngửa tay xin ăn. Mà dù không kiếm sống được, chết đói xứ lạ là cùng, c̣n hơn sống nô lệ nơi quê nhà vốn nổi tiếng vựa lúa Châu Á !
    Tôi có một số bạn bắt mối được với một bạn thủy thủ tàu buôn Pháp, bọn này đ̣i 50 đồng mới cho xuống tàu. Ba đứa đều là học sinh, c̣n trong cảnh cơm cha áo mẹ, làm sao có đến một số bạc to lớn như thế ? Bán cả đồ đạc, quyên góp khắp bạn bè măi mới được 40 đồng, định sẽ năn nỉ xin bớt, chắc bọn chúng cũng chịu, nhưng khi đem tiền ra bến, hỡi ôi, con tàu buôn hôm nọ đă nhổ neo, ra ḷng sông Sài G̣n rồi !
    Sở dĩ tôi nói lên việc này là để cùng quư bạn h́nh dung lại thời điểm ấy của những công dân Việt Nam, như ḍng sông Cửu Long đợt sóng này nối tiếp đợt sóng khác, đă ư thức được những việc cần phải làm của người bị trị. Quyền yêu nước không phải ở một người, ở một đảng phái nào. Bây giờ, người ta tha hồ tô hồng, chuốt lục lịch sử đảng họ. Bẻ cong cả lịch sử. Phủ nhận công ơn của những người ngoài đảng ta ! Các văn sĩ Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa tán tụng tận mây xanh về việc đi t́m đường cứu nước của "bác", làm như chỉ có "bác" của họ mới độc đáo đi nước ngoài. Ở Sài G̣n, có một dinh thự to tát và tráng lệ của thực dân Pháp bỏ lại bến Nhà Rồng, đáng lẽ thuộc về nhân dân đang thiếu nhà ở, th́ đảng lại làm thành ngôi nhà kỷ niệm nơi xuất xứ đi ra nước ngoài của lănh tụ. Để thờ những vật vớ vẩn ! Sao không thờ bao nhiêu bậc tiền hiền cách mạng trước "bác" hoặc đồng thời với "bác", tài ba hơn và sự hy sinh cống hiến nhiều hơn ?
    Cổ nhân bảo : luận anh hùng, chớ luận vào thành công hay thất bại, phải luận vào sự tiên phong khởi đầu. Những người thắp sáng, những nhà khai hoang, trong lănh vực thương nước yêu ṇi mới thực hiển hách. Cũng như nơi tuyến đầu, người lính trước tiên nhận diện được quân thù mà cảnh giác cho bạn đồng ngũ, dù có bị bắn ngă chết, vẫn giữ công đầu ! Tổ quốc Việt Nam không quên ơn những người con ấy. Dầu hiện nay, họ bị bôi nhọ, hay xuyên tạc. Trong số đó có ông Đạo Dừa. Với một năm ở tù chung ở khám Cần Thơ, tôi mới thật sự biết ông. Khâm phục ông nhẫn nại, kiên quyết và bất khuất hơn người.
    Trước kia, tôi chỉ biết ông có chí hướng hơn người. Ông t́m con đường tranh đấu riêng. Ông không theo phe này, lập hội kín nọ. Ông làm cách mạng quần chúng. Lấy số đông dân chúng làm hậu thuẫn. Ông pha màu tôn giáo vào chính trị, và ông đă khởi xướng lên một ḿnh. Một loại tôn giáo ḥa đồng. Thực chất là lấy t́nh thương bao la để khuyến dụ và cảm hóa mọi người. Ông đă gặt hái ít nhiều thành công. Lúc bấy giờ, tôi vẫn c̣n cho ông là một con người đáng tôn kính, song có phần lập dị.
    Nhân một dạo, tôi có dịp đi đ̣ máy từ bến bắc Rạch Miễu sang tỉnh lỵ Bến Tre, khi con đ̣ chạy ngang qua một cái cồn đất nọ, người đi đ̣ cùng trầm trồ trỏ tay bảo :
    - Ông Đạo Dừa ngồi trên đọt dừa đó, thấy không ? Ổng ngồi mấy năm nay rồi. Mặc nắng mưa, trưa tối !
    Một bà lăo già nói bằng giọng cung kính:
    - Ai cũng tưởng ổng chịu không nổi, mà chết rồi! Nhưng người ta vẫn thấy ông ngồi trơ trơ đó. Mà ông phải nhà nghèo hèn ǵ, con nhà giàu sang, danh giá. Vậy mà ông lại đi tu. Nói là để độ đời !
    Tôi hỏi lại:
    - Tây để cho ông làm như vậy sao? Ông ra vẻ chống đối như vậy, bỉ mặt cho người Pháp ở Đông Dương lắm.
    - Mèn ơi, họ bắt ổng giam vô tù mấy lần. Ổng tịnh khẩu, không thèm nói chuyện. Nhưng viết giấy hỏi Tây là ổng có tội ǵ mà bị bắt ? Đụng chạm nhân quyền sao đó ! Tây căi không lại lư của ổng, phải thả ổng ra. Ổng lại trèo lên cây dừa mà ngồi. Tây giận lắm, sai người đốn bỏ cây dừa của ổng. Mất cây dừa đó, ổng lại trèo lên cây dừa khác. Mèn ơi, ai trông thấy ổng trèo dừa mà hổng thương đứt ruột ! Tây lại sai người đốn dừa nữa, ổng lại ngồi trên cây khác. Đốn hết dừa cù lao này, th́ ổng sang qua cù lao kia. Bến Tre là xứ dừa mà. Không lẽ Tây đốn hết dừa của tỉnh? Thằng Tây đành chịu thua ổng luôn.
    - Rồi ổng ăn ǵ ?
    - Ổng chỉ uống nước dừa, có khi ăn thêm vài trái chuối để sống. Vậy nên người ta mới kêu ổng là ông Đạo Dừa.
    - Thời buổi lộn xộn, ổng ngồi hoài như vậy, không sợ nguy hiểm ?
    - Ổng hổng sợ. Mà dân cũng thương ổng, ngấm ngầm bảo vệ cho ổng.
    - Ổng tịnh khẩu hoài, không mở miệng nói chuyện? Không thuyết pháp sao? Vậy làm sao truyền đạo ?
    - Ổng không nói. Chỉ viết ra trên giấy. Nói chuyện cũng bằng giấy tờ. Vậy mà đệ tử đông lắm. Ở khắp nơi, đâu cũng có. Cả ở Lục tỉnh, ở miền Trung nữa. V́ đạo của ông tốt một cái là thờ kính ông bà, tôn trọng lễ nghĩa và ăn ở ḥa mục với mọi người.
    Tôi chăm chú nh́n lên ngọn dừa khi phà chạy ngang mé cồn. Trên ngọn một cây dừa cao, một h́nh bóng người nhỏ thó, mặc áo vải vàng, ngồi thu lu trên một giạt bằng cây to, trông thấy bấp bênh lơ lửng. Trời trưa nắng như hun đốt, mắt nh́n lên lóe sao. Thế mà bóng người nọ vẫn ngồi xếp bằng an tọa, tịnh nhiên. Ông ngồi như thế đă mấy năm trời? Gương kiên nhẫn của ông thật đáng phục !
    Tôi v́ bận việc ở Bến Tre, đến xế chiều mới xuống phà trở sang tỉnh Mỹ Tho. Ông Đạo Dừa vẫn ngồi trên ngọn dừa nơi cồn đất nọ. Ngọn gió chiều thổi lộng ḷng sông rộng. Cây dừa trông từ xa thấy chao đảo. Thế nhưng ông đạo vẫn ngồi bằng an, tâm tư vắng lặng vào cơi hư vô nào? Hay ông đang nghiền ngẫm một thế cờ hay để giải thoát cho đất nước, cho con người ? Bên kia bờ tỉnh lỵ Mỹ Tho đang sáng choang ánh đèn phồn hoa, lại có tiếng ca nhạc từ đài phát thanh nào đó phát ra âm điệu xa vời quyến rũ, mê ly. Như tất cả giục giă con người đừng hoài phí tuổi xuân, cứ quyện hồn vào những hoan lạc, say sưa ... Tôi bất giác ngước nh́n h́nh bóng ông Đạo Dừa ngồi nơi hoang tịch nọ. Cái bóng dáng gầy c̣m của người trí thức ngậm câm tiếng nói ấy lại có một sức mạnh huyền vi rọi xuống lương tâm con người. Cảnh giác người đời đừng mê bả béo mồi thơm mà quên hờn mất nước !
    Sau đó, tôi bị kẹt ! Măi lâu sau tôi mới lại có dịp về miệt Tiền Giang. Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường những người đàn ông có, đàn bà có, già có, trẻ có, mặc quần áo bằng vải màu vàng hoặc màu già, áo th́ là áo bà ba gài nút ở giữa hay là vạt miễng, có người để tóc dài chít khăn màu vàng. Những người ấy ăn nói lễ phép, từ tốn và thân thiện. Tôi hỏi ra mới biết đấy là đệ tử của ông Đạo Dừa. Ông Đạo chủ trương ḥa đồng tôn giáo. Ông thờ các bậc sáng thế. Phật Thích Ca ông cũng trọng, Chúa Ki Tô ông cũng kính, cả đến Lăo Tử ông cũng theo, Khổng Tử ông cũng học... Tất cả các vị có ḷng từ bi, bác ái, yêu thương nhân loại, xả thân v́ chúng sanh, ông đều phụng thờ. Đó là t́nh thương yêu phải học tập, phải noi theo. Đệ tử của ông rải rác khắp nơi. Họ hành đạo và truyền đạo với ḷng tin vững chắc, dù phải gặp rất nhiều khó khăn, cả những hiểm nguy. V́ trong cái thế giới nhiễu nhương, c̣n lắm người nhắm mắt chạy theo thế lực kim tiền, th́ trái tim thương yêu của người thiện lương dù mở rộng mấy cũng ít có người cảm thông. Rồi sau đó, tôi lại gặp một số đệ tử của ông Đạo Dừa trong cảnh nhà tù ! Hỏi đến Thầy họ, Thầy họ chắc cũng bị cầm giữ đâu đó. Họ vẫn không rời chiếc áo bà ba vạc miễng của họ. Sau lưng áo, họ vẽ hai chữ Tu Tù thật lớn. Họ lặng thinh, không nói ǵ. Ai muốn hiểu sao hiểu. Có thể bảo là v́ tu nên mới bị tù. Có thể có nghĩa ở tù vẫn cứ tu. Lại có nghĩa lấy việc ở tù làm công quả học thành đạo. Theo họ, họ bảo tu cho đất nước ḥa b́nh, con người thương yêu con người hơn. Chỉ có t́nh thương yêu mới khai trừ họa chiến tranh. Chỉ có t́nh thương yêu, mới san sớt đồng đều, mới thông cảm nhau, không cần đấu tranh giai cấp !
    Tôi hỏi người đệ tử của ông Đạo Dừa:
    - Nghe nói Thầy anh muốn làm người ḥa giải ?
    - Phải. Cậu Hai yêu nước thương dân, không nỡ nh́n triệu triệu thanh niên ở hai phía bị nướng thiêu trong nạn nồi da xáo thịt. Chiến tranh đă hơn ba mươi năm, dân chúng điêu linh, xă hội tàn hoại, đất nước nghèo khổ lắm rồi, sao người ta lại không chịu ngưng tay ?
    - Thấy anh tin là hai bên có thể ngồi lại với nhau?
    - Cậu Hai tin ai cũng có ḷng yêu nước thật sự. Ḷng yêu nước đứng trên quyền lợi của bè cánh, đảng phái.
    - Và Thầy anh tin "bác Hồ" sẽ từ bỏ đảng cộng sản? Hay đặt quyền lợi của đảng, của Nga Sô, của Trung cộng ra ngoài để cứu nước cứu dân ?
    - Nếu ông Hồ yêu nước, ông phải làm như vậy !
    Tôi khẽ thở dài:
    - Thầy anh chủ trương tốt, nhưng t́nh h́nh chính trị phức tạp lắm, lại thêm ḷng dạ tham lam của con người, tham vọng của quốc tế... Không như việc Thầy anh nuôi con mèo chung với con chuột một lồng...
    - Thú vật c̣n biết dung nhau, con người lại không thể sao? Việc nước nhà ḿnh đă đến lúc ḿnh phải tính với nhau, không cần đến anh Mỹ, anh Nga, anh Tàu chen vào nếu họ không có thiện chí giúp đỡ !
    - Tôi sợ Thầy anh ôm măi cái không tưởng ấy. Giá mà thành được như thế, người dân Việt nào lại không thích ?
    Về sau, tôi lại nghe tin ông Đạo Dừa trở về Cồn Phụng, tức là cái cồn đất ông trèo lên ngồi trên cây dừa mấy mươi năm về trước. Khi ấy cồn đă có đông dân cư tụ tập. Nhà ở khang trang. Dân t́nh dễ sống. Có văn hóa. Có t́nh người. Có trật tự. Có cả mấy người Mỹ tu ở đấy. Ai trông thấy tướng đi lênh khênh của họ trong bộ quần áo bà ba màu vàng may rộng khổ mà vẫn thấy túm bó, với đôi bàn chân đi đất rón rén của họ, đều phải che miệng cười. Nhưng là cái cười đầy thiện cảm, thân ái. Họ gặp ai cũng chắp tay cúi đầu, nói trọ trẹ :
    - Chào ông !... Chào bà !... Chào anh !... Chào chị !... Mạnh giỏi !
    Nơi Cồn Phụng c̣n treo một biểu ngữ to Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Đó là một câu sấm xưa từ mấy trăm năm, mà người ta cho là trong bài sấm Trạng Tŕnh, tiên đoán về hậu vận nước nhà. Nhưng không ai hiểu câu sấm ấy ứng vào thời kỳ nào? Sao không đánh nhau mà thành? Và cái thành ấy có lợi cho phe nào? Tôi thầm nghĩ ông Đạo Dừa đưa lên câu biểu ngữ để kêu gọi ngưng chiến.
    Nơi bến cồn có đậu một chiếc tàu sắt mà ông Đạo Dừa cho trang trí theo mỹ thuật Việt Nam và đặt tên là thuyền Bát Nhă. Trên con thuyền rộng lớn ấy, nơi phía trước, ông bầy ra nhiều hàng ghế sắt cho du khách ngồi. Nhiều phái đoàn ngoại quốc đến phỏng vấn ông, thu băng, quay phim. Ông ngồi nơi chiếc ghế đặt phía trước, có hai đệ tử đứng hai bên. Chính hai đệ tử nọ trả lời những câu hỏi của khách, thỉnh thoảng ông mới biên vào giấy cho họ phát biểu thêm những chi tiết.
    Tôi đến nhằm lúc hết giờ phỏng vấn, nhưng cũng được đệ tử của ông nói về chánh kiến của đạo. Ông nhận ra tôi, chỉ mỉm cười. Nụ cười hiền ḥa và thân thiết. Ông vẫn không ngớt tay lẫy những hột bắp, để sau đó tự ông nấu lấy ăn. Trước kia ông chỉ uống nước dừa. Dạo sau này, v́ làm việc nhiều, v́ đệ tử khuyên lơn, ông mới ăn thêm buổi ngọ (buổi trưa) bằng bắp nấu. Tôi trông thấy ông gầy ốm quá, thân h́nh nhỏ thó, đôi tay khẳng khiu, mặt thỏn như trẻ nít, song đôi mắt tinh anh sáng rực khác thường. Các phóng viên truyền h́nh ngoại quốc không ngớt tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục trước một ông già ốm tong teo như cây sậy mà lại có một mănh lực chịu đựng kiên cường. Tự ông làm ra thức ăn cho ông, tuy rằng đệ tử của ông rất đông. Nếu ông để cho họ phục dịch, chắc họ sung sướng lắm. Nhưng ông chủ trương có làm mới có ăn, ông phải tự tay làm lấy thức ăn cho ông. Nếu ông bị rủi ro nằm bệnh ngày nào, ngày đó ông nhịn đói. Không ai khuyên lơn, năn nỉ ông được một miếng nào. Tôi trông thấy những việc ông làm, ḷng vơi bớt đi những thành kiến thắc mắc về ông. Ông thật sự thể hiện t́nh thương yêu to lớn. Ông xót xa đau đớn khi thấy chiến tranh kéo dài, dân tộc điêu linh tang tóc, đất nước kiệt quệ tài nguyên, lẽ ra có thể làm dân giàu, nước mạnh! Nhưng giữa khi đôi bên say chiến, nhất quyết một được một thua, tiếng gọi ḥa b́nh của ông chỉ là tiếng gào khản trong sa mạc! Rồi đây, Cồn Phụng của ông, nơi ông tạo được một xă hội kiểu mẫu nho nhỏ ấy có được yên? Thân phận của ông và bầy đệ tử rồi sẽ nổi trôi, ch́m ngụp thế nào trong cảnh biến loạn tang thương của đất nước ?

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Những Ngày Tù Chung Với Ông Đạo Dừa - p2


    Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái ngày uất hận của người Việt tự do ! Cộng sản đă thôn tính được miền Nam Việt Nam, và chỉ qua một thời gian ngắn đă làm cho toàn quốc đói rách và sa đọa hơn bao giờ hết ! Tôi lại gặp ông Đạo Dừa trong ngục thất Cần Thơ. Đầu tiên, tôi trông thấy ông, cũng như tôi, bị liệt kê vào thành phần tối nguy hiểm và bị biệt giam. Tức là nhốt trong co-nét, thùng sắt to tướng đựng đồ viện trợ của Mỹ hồi xưa. Mỗi người một co-nét. Nằm ngồi, ăn uống, ỉa đái -- xin lỗi độc giả -- cũng tại chỗ. Cửa co-nét đóng lại, ḿnh một ḿnh trong tối bưng, trơ trọi và... thối bung ! Không trông thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Không biết ngày tháng, thời khắc. Thỉnh thoảng mới được chúng mở cửa co-nét dọn dẹp vệ sinh. Ôi mừng ơi là mừng. Mừng trông thấy được ánh sáng. Trông thấy những vật cử động sao lạ mắt quá chừng ! Mới biết rằng ḿnh c̣n sống ở nhân gian !
    Bọn cai tù, bọn cán bộ, đối xử rất tàn nhẫn. Chúng ngoài miệng nói khoan hồng mà ḷng thâm như rắn độc. Vô cớ cũng chửi rủa hạ nhục. Chúng như thể rửa hờn giai cấp bằng trút lên đầu kẻ sa cơ, thất thế dưới tay chúng. Chúng oán ghét ông Đạo Dừa vô cùng. Chỉ có ổng thản nhiên và coi thường chúng. Chúng càng đọa đầy ông bao nhiêu, ông càng quyết liệt và quật cường bấy nhiêu. Quyết không chịu thua chúng. Và lắm lần hành hạ ông măi không xong, chúng phải chịu thua ông. Ông phản đối chúng bằng cách gơ cái ca uống nước vào cửa co-nét... xèng xèng... xèng xèng... có khi cả ngày không ngớt tiếng...
    Tên lính gác bực ḿnh quát hỏi :
    - Làm ǵ om ṣm thế ? Giờ này khuya rồi, làm thế ai ngủ được ?
    Tiếng nói chậm răi và rắn rỏi của ông Đạo Dừa đưa ra sau cửa co-nét:
    - Cậu ơi, tôi thương cậu lắm...
    - Tôi chả cần ông thương !
    - Có ai ngăn trở được t́nh thương ? Cậu không cần tôi thương là quyền cậu. C̣n tôi thương cậu là quyền tôi. Tôi thương cậu chỉ là một kẻ tay sai. Như thiên lôi, lịnh trên bảo đánh đâu là phải làm vậy thôi. Thương cậu chiến đấu mấy năm trời, vào sanh ra tử biết bao lần, rốt cuộc cũng chỉ là anh lính gác, thương cậu chức vụ bé nhỏ quá, không làm sao giải quyết nổi chuyện của tôi ...
    - Nhưng ông muốn ǵ ?
    - Thương cậu quá ! Cậu không giải quyết nổi, hỏi làm ǵ. Cậu kêu người lớn hơn cậu lại cho tôi nói chuyện.
    - Giờ này mấy đồng chí cán bộ ngủ cả rồi.
    - Tôi thương cậu quá ! Nhưng khỏi cần nói chuyện với cậu.
    Ông Đạo Dừa lại gơ lanh canh... lanh canh... Gơ nhịp đều như tiếng mơ hồi một. Mấy người bạn tù gần đấy giật ḿnh thức giấc, th́ thầm bảo nhau :
    - Cậu Hai lại tranh đấu nữa rồi Bọn quản giáo, cán bộ rồi đây khổ sở với cậu không ít !
    Những người bị "học tập cải tạo" bất đắt dĩ ấy tuy phải làm lụng cực nhọc ban ngày, ban đêm cần giấc ngủ cho lại sức, song không phiền hà khi phải thức giấc v́ tiếng khua lon của ông Đạo Dừa. Trái lại, họ rất thích cảnh ông Đạo Dừa chống báng lại bọn hung tàn giết người không gớm tay ấy. Chỉ có ông Đạo Dừa mới dám làm, mới không biết sợ, không khuất phục trước uy vũ. Ông gơ lon gọi măi cho đến khi tên lính canh phải đi gọi tên cán bộ cai tù đến. Tên này quát tháo lên :
    - Ông muốn ǵ ?
    Giọng nói của ông Đạo Dừa từ trong co-nét đưa ra, mềm mỏng, ngọt ngào :
    - Tôi thương chú cán bộ quá. Thương chú đang ngủ ngon giấc mà bị dựng dậy v́ tôi. Nhưng đành phải gọi chú nửa đêm, nửa hôm như thế này là v́ tôi bị... bỏ đói !
    Bọn quản giáo, thường ngày hay sừng sộ, mắng chửi phạm nhân. Với ai dầu già lăo, bạc phơ tóc trắng, chúng cũng gọi là anh, tức là tử tế lắm rồi. Song đặc biệt chúng lại gọi ông Đạo Dừa là ông.
    Tên cán bộ bực tức bảo :
    - Ai bỏ đói ông ?
    - Không bỏ đói tôi, sao không cho tôi uống nước dừa ?
    Tên cán bộ mở cửa co-nét, chỉ tay về ổ bánh ḿ và lon sữa :
    - Không có nước dừa nhưng có bánh tây và sữa đây thôi !
    - Tôi không ăn những thứ đó. Tôi chỉ uống nước dừa.
    Ông trả lời rất quả quyết. Tên cán bộ cầm ổ bánh ḿ lên xem có bị cắn mất miếng nào hay chăng ? Lại bưng lon sữa xem xét tỉ mỉ. Hắn nghi ông Đạo Dừa giả bộ không ăn, nhưng kỳ thật đă nhấp nháp chút ít rồi giả bộ làm khó. Nhưng ổ bánh ḿ vẫn y nguyên, cả lon sữa cũng vẫn c̣n đầy. Mùi bánh và mùi sữa đưa vào mũi hắn, thơm ngon đến nỗi hắn phải nuốt nước bọt đến đánh ực một cái trong cổ họng. Hắn ăn no đầy đủ thế mà thấy ổ bánh và sữa ngọt bùi, béo bổ phải thèm rỏ dăi, thế mà lăo già ốm nhom kia lại có gan cóc tía, đă đói ră ruột, vẫn chẳng thèm rớ tới.
    Gă dằn ổ bánh ḿ và lon sữa xuống nền sắt co-nét, sầm nét mặt bảo :
    - Ngon bổ thế này mà ông chê. Chả có thứ khác đâu !
    Ông Đạo Dừa vẫn ngọt ngào :
    - Tôi thương chú cán bộ ! Chú nhỏ chức quá, không giải quyết được vấn đề của tôi. Thương đă làm mất giấc ngủ của chú. Thôi chú về ngủ lại đi. Để tôi gọi cấp trên của chú. Tôi thương chú ít quyền quá !...
    Và rồi ông lại gơ lanh canh... lanh canh... Gơ đến sáng vẫn không dứt tiếng. Tên trưởng trại phải đến gặp ông :
    - Ông đ̣i hỏi chuyện ngoài luật lệ của nhà tù.
    - Mấy chú bỗng dưng giam cầm tôi, giam cầm hàng ngàn người vô tội, có theo luật lệ nào không ?
    - Mấy người có nợ máu với nhân dân. C̣n ông là tay sai của CIA.
    - Chú có biết CIA là thế nào mà mở miệng ra là buộc tội cho mọi người. Ai làm sở Mỹ là CIA ? Tiếp xúc với người Mỹ là CIA ? Biết tiếng Ăng-lê cũng là CIA ? Học thức một chút cũng CIA. Chỉ có bần cố nông mới không là CIA ? Thế hồi Việt Minh c̣n ở chiến khu Việt Bắc, có Mỹ trợ lực cho cũng là CIA ? Bác Hồ lúc ấy cũng CIA ?
    - Này ông đừng nói bậy mà khốn !... Cứ nói đến việc ông kêu đói. Tại ông chê thức ăn đặc biệt của nhà tù cho ông dùng....
    - Ê, không phải à. Thức ăn đó Tín hữu của tôi gởi cho. Tôi thương chú Trưởng trại nói sai. Cố t́nh bóp méo sự thật. Tín hữu của tôi sợ tôi bị bỏ đói chết nên mới gởi vào cho dừa nước, bánh ḿ, sữa ... Tôi không ăn bánh ḿ sữa, chỉ muốn nước dừa thôi. Tôi thương Trưởng trại không giải quyết nổi việc này, th́ tôi gọi cấp Đảng ủy của quản giáo vậy!
    Và ông lại gơ lanh canh... lanh canh.... Bọn cai tù nghiến răng căm tức lắm mà không làm ǵ đặng ông. Chúng không muốn ông bị chết đói để khỏi bị mang tiếng. Nhưng ông Đạo Dừa cũng biết như vậy, vẫn kiên tŕ mà sống. Như thể thi gan luôn cả đến cái chết. Trưởng trại và bọn quản giáo phải họp khẩn cấp. Dừa trái th́ có sẵn do đệ tử của ông Đạo Dừa gởi vào, nhưng ai chặt cho ông uống? Lũ răng đen mă tấu chặt đầu người th́ sành, nhưng chặt quả dừa đâu có biết ! Chúng đâu dám phát dao cho ông. Nhỡ ông lấy dao rạch bụng tự tử th́ sao ? Bàn căi măi, chúng mới nẩy ư kiến t́m trong số tù gốc người Bến Tre ra chặt dừa cho ông. Chúng gọi anh NVA ra, bảo đem dừa đến cho ông uống. Anh này ngơ ngác, bảo :
    - Tôi có biết chặt dừa đâu ?
    - Anh là dân Bến Tre mà không biết chặt dừa ư ?
    - Tôi chèo đ̣. Có vườn dừa đâu mà biết chặt.
    Có anh TVT t́nh nguyện ra. Anh này trước có bán dừa, biết cách thức. Anh chỉ cần dựng đứng trái dừa, bổ ba nhát dao, chặt xéo nơi núm dừa thành tam giác, bật tung núm dừa ra, không một giọt nước sóng sánh ra ngoài. Anh bưng quả dừa đến bên ông Đạo. Tuy anh không phải là đệ tử, anh cũng cung kính bảo nhỏ:
    - Cậu Hai uống đi để mà sống.
    - Cám ơn em. Tụi này bạo phát, bạo tàn. Qua sẽ không sống đến ngày đó. Qua biết chúng quyết làm cho qua chết. Nhưng thể xác thời chết chứ tinh thần thời không !
    Bọn Việt cộng hành hạ ông Đạo Dừa đủ cách. Chúng lôi ông ra để tắm rửa cho ông:
    Ông ở dơ quá không chịu tắm rửa, không thay đổi quần áo, hôi hám kinh tởm quá. Lại chí rận, bọ chét cùng ḿnh, lây bịnh nguy hiểm cho cả khám !
    Chúng cầm ṿi nước xịt vào ông. Nước xịt rất mạnh, làm ông té lăn lốc. Ông cố gắng ḅ dậy. Lại bị nước bắn tung người đi, lăn cuồng như bông vụ. Ông không hề rên rỉ, than van một tiếng. Vẫn gượng ngồi dậy, lại té lăn. Chúng cười ầm lên. Ông vẫn cương quyết không khuất phục. Bọn tù chúng tôi nh́n ông, xót thương biết mấy, và khâm phục ông không lời nào cho xiết. Ông bao giờ cũng ngẩng cao đầu không cúi luồn. Cả đời ông bị tù đầy cũng lắm, ông sợ ǵ lũ trẻ ranh muốn giết ông mà khỏi mang tiếng này ! Chả bù trong khám, biết bao kẻ xưa kia giầu sang danh giá, oai quyền hống hách, bây giờ khúm núm sợ sệt trước lũ cán bộ ngu dốt :
    - Dạ bẩm thưa cán bộ, em lỡ lầm, lần sau không dám. Xin cán bộ rộng ḷng tha thứ một phen.
    Một điều dạ thưa, vâng bẩm, khúm núm, sợ sệt, như muốn thun người nhỏ bớt đi. Uốn lưng kḥm cong lại, cầu an, tắc trách, thủ phận ḿnh, quên đồng bạn. Lại c̣n một hạng khác, ti bỉ hơn, cam làm ăng-ten cho thù. Phản bạn, bội t́nh đồng ngũ, nghĩa bạn bè, để được một lời hứa sẽ cứu xét cho về sớm, hoặc được một vài ân huệ cỏn con... Ôi, điếm nhục !
    Tôi nh́n gương can cường của ông mà lại xấu hổ cho ḿnh. Mới bị tù đầy vài bận thôi mà tôi tưởng rằng hănh diện lắm. Tù Pháp thuộc tôi có ở. Tù Nhật Bổn tôi cũng đă nếm mùi. Rồi lại tù Việt Minh vào măn 1945, lại c̣n hai năm vướng mắc trong nhà tù của chế độ trước v́ chống nạn độc tài tham nhũng nữa ! Nay lại vào khám Cần Thơ, bị liệt vào thành phần biệt giam nguy hiểm, biết chừng nào được ra? So với các bậc cách mạng xả thân tranh đấu thời trước, tôi nào có ăn nhằm ǵ ?
    Trừ lúc ở tù Việt cộng những năm ấy ra, cảnh ngồi tù Nhật Bổn là đáng nhớ nhất. Năm ấy 1942, tôi bị Hiến binh Nhật bắt giam ở "Chambre de Commerce" ở bến sông Sài g̣n, sau này là Thượng Nghị Viện của chế độ trước. V́ tội rải truyền đơn chống thực dân, cả Pháp lẫn Nhật, mà bọn Hiến binh nghi tôi là gián điệp Trùng Khánh. Chúng giam vào pḥng Thương Mại ấy, hai bên là chỗ giam người có song gỗ chắn trước mặt, chừa một lối đi ở giữa. Mỗi sáng, 7 giờ, tụi Nhật cho chúng tôi đem thùng vệ sinh ra đổ xong lại bưng vào căn pḥng giam hẹp của ḿnh. Chúng bắt ngồi xếp bằng, thẳng lưng lên, tay để nơi đầu gối, không được nhúc nhích. Sáng ngồi tới 12 giờ trưa, được nghỉ ngơi cơm nước. Cơm th́ được phát một chén gạo Thái Lan dẻo như nếp, có nêm tí muối. Chiều 2 giờ ngồi đến 6 giờ mới được nghỉ ngơi, cơm nước như khi trưa. Tối lại phải ngồi từ 7 giờ đến 9 giờ mới có quyền nằm xuống. Khi ngồi, phải ngồi yên như pho tượng. Nếu mỏi mệt khom lưng, nghiêng quẹo người, hay lệch đầu qua bên là bị một côn gỗ gơ đánh cốp trên đầu như bị sét đánh, tá hỏa tam tinh! Đó là thằng đội Trâu, thân h́nh trùng trục như con trâu nước, đầu vấn khăn lông trắng, dưới bẹn thắt cái khố, đi qua lại nơi khoảng đường giữa, vai vác cây gậy gỗ tṛn và nặng. Nó thường đập chẩy máu đầu tội nhân. Đấy là chỉ trừng phạt sơ sài về tội ngồi không thẳng thắn thôi. C̣n khi bọn Nhật tra khảo để lấy lời cung khai th́ thật kinh khủng rởn cả tóc gáy. Cứ hai thằng Nhật thân h́nh như hộ pháp quần một phạm nhân; vật, ném, tung, hứng... nạn nhân của chúng như quả bóng rổ ! Thường th́ có máu đổ, nạn nhân chết giấc năm ba phen mới tạm được buông tha cho về khám. Khi ấy tôi c̣n trẻ, háo động, làm sao ngồi yên tĩnh như thế từ giờ này sang giờ khác được. Nên cũng đă nếm mùi côn gỗ bao nhiêu phen.
    Một hôm tôi trông thấy có một con gián ḅ ở kẹt song gỗ. Tôi mừng như bắt được vàng. Có được một sự sống động dưới mắt. Trông nó chạy tới chạy lui, cũng đỡ buồn trong cảnh hoang lương, tịch mịch. Dầu rằng khít bên đó cũng có nhiều bạn đồng cảnh, nhiều pho tượng sống ! Tôi khi ấy chưa biết trầm tĩnh, nhẫn nhục của người luyện công tĩnh tọa. Dẫu có nén lắm, ḷng vẫn xôn xao không định.
    Đến nay, trông thấy ông Đạo Dừa nhẫn nại, trầm tĩnh và xem thường bạo tàn, vũ lực của chúng, tôi mới thấy đó làm gương cho ḿnh. Quyết không ủy mị, buồn rầu, khổ đau, rên rỉ dưới bạo tàn. Ông Đạo Dừa bị xịt nước ướt loi ngoi, nằm im trong vũng nước lênh láng, da thâm tím lại. Nhưng một lát sau ông lại lồm cồm ḅ dậy. Lại ngồi xếp bằng ngay ngắn, ngẩng cao đầu. Trông thấy h́nh dáng gầy g̣, ốm nhom của ông, da bọc trơ xương như cái xác ướp khô mà đôi mắt vẫn linh động, vẫn ảnh hiện t́nh nhân đạo, vị tha bao la ...
    Ông thường chống đối bọn Việt cộng :
    - Các anh mà cách mạng cái ǵ ? Cách mạng ǵ không biết thương dân, yêu nước, cam làm tay sai ngoại bang. Cách mạng ǵ mà giam cầm hàng triệu người vô tội ? Làm hằng triệu người tán gia bại sản, tan nát gia đ́nh ? Làm cho sáu mươi triệu đồng bào phải rách rưới đói nghèo, không trông thấy ánh sáng hy vọng nào, một tương lai tốt đẹp nào. Thiên đường hứa hẹn của cộng sản các anh là hố thẳm muôn đời chôn vùi dân tộc !
    Bọn chúng giam nhốt ông vào chuồng chó. Đó là một nơi nhỏ hẹp bên ṿng rào, có mái thiếc che thấp, có giây ch́ gai bao quanh. Trước kia nơi đó nhốt chó nên có danh từ chuồng chó. Ban ngày nắng rọi xuống mái thiếc nung nóng như ḷ lửa. Đêm đêm về, gió khuya lạnh buốt như cắt da. Đến chó ở đấy c̣n chịu không nổi huống chi con người. Nhưng ông Đạo Dừa vẫn bền bỉ chịu đựng. Mềm dẻo như cây sậy giữa phong ba. Dầu cho cuồng phong, nghịch khí đến đâu, cây sậy tạm thời phải cong, phải ngả nghiêng, oằn oại trước bạo lực đàn áp hung tàn, nhưng không đổ gẫy !
    Bọn Cộng sản chỉ muốn ông Đạo Dừa khuất phục chúng, thốt ra lời hứa hẹn với chúng không tranh đấu nữa, không chống đối nữa. Chúng chẳng những buông tha ông, c̣n cho ông những ơn huệ đặc biệt, hậu hĩ hơn người. Xưa kia, Pháp không mua nổi ông, Nhật không dụ dỗ ông nổi, Việt cộng nào đáng ǵ để ông nghe theo !
    Cuối năm đó tôi bị chuyển trại. Khi đi ngang qua chỗ ông ngồi, tôi khẽ cúi đầu như chuyển lời nói qua tâm tưởng với ông:
    - Cậu Hai ráng gượng sống...
    Ông mỉm cười nhân hậu. Nụ cười ngậm ngùi vĩnh biệt!
    Mấy năm sau, tôi được trả tự do. Không tội ǵ, mà mất tự do rồi được trả ! Và sau ba chuyến vượt biên cam go, tôi thoát ra được nơi vùng trời tự do. Nhờ vẫn đeo đuổi chí hướng phục quốc, tôi lê một gị qua nhiều nơi Âu, Mỹ, cả Á Châu. Khi đến địa phương nào có trồng cây dừa, tôi bất giác nh́n lên ngọn cây, liên tưởng đến ông Đạo Dừa. H́nh bóng của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thành Nam hiện ra mờ ảo trước mắt tôi. Gầy g̣ ốm yếu, tưởng chừng gió thổi cũng bay như ông, ngờ đâu lại có ḷng sắt đá kinh người ! Tôi nghe như văng vẳng bên tai những lời nhỏ nhẹ của ông:
    - Tôi thương mấy chú lắm, mấy chú Việt Cộng ơi. Mấy chú ngu dại lắm. Mấy chú không biết bạo tàn, bạo diệt ! Chỉ có nhân nghĩa mới trường tồn !
    Năm 1988, tôi gặp một người bạn mới vượt biên sang, bảo rằng ông Đạo Dừa đă tịch ! Tôi bỗng nhiên cay xè mắt, đôi gịng lệ tiếc thương chan ḥa ... Cộng sản Việt Nam phạm rất nhiều lỗi lầm đối với Quốc gia, Dân tộc, trong đó có sự giết hại nhà chí sĩ hiếm có Nguyễn Thành Nam. Ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam là người trí thức cuối cùng đă hạ ḿnh xuống tin tưởng vào thiện chí của Việt Cộng, dẫu sao cũng có ḷng xúc động trước cảnh huynh đệ tương tàn... Nhưng ông đă mang mối thất vọng đấy xuống tuyền đài ...

    *

    Đến hôm nay, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có một thiểu số trí thức thơ ngây cụ hoặc hoạt đầu, đang toan luồn lưng, cụp gối ḥa hợp, ḥa giải với Cộng Sản Việt Nam bá quyền và ngoan cố. Các vị ấy có biết chăng đang vô t́nh nối giáo cho giặc ? Cùng a ṭng vào tội phản dân, hại nước ? Xin hăy xem gương chiến đấu can cường của ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam và vô số chiến sĩ cách mạng đă bị Việt cộng hăm hại chết, để làm đài soi lại lương tâm ḿnh !
    Kẻ hèn này, cùng đồng bào trong và ngoài nước, rất mong được vậy lắm thay !

    Hoàng Ngọc Giao

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Những ḍng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đ́nh cựu tù “cải tạo”!



    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền





    Lời người viết: Như mọi người đă biết về những cảnh ngộ của các cựu tù “cải tạo”, qua nhiều ng̣i bút, hoặc nghe kể lại. Riêng người viết loạt bài này, v́ đă từng là nạn nhân và cũng từng chứng kiến với những cảnh đời dâu bể, đă khiến cho người viết không thể nào quên được !



    Chính v́ thế, bắt đầu hôm nay, người viết sẽ dùng ngọn bút của ḿnh để tuần tự qua nhiều kỳ, ghi lại tất cả những cảnh ngộ vô cùng bi thương ấy; và dẫu cho có muộn màng; nhưng với ḷng chân thiết, người viết xin được cùng xẻ chia cùng các gia đ́nh nạn nhân, là các cựu tù năm cũ. Và dĩ nhiên, người viết chỉ ghi lại những ǵ đă xảy ra, mà không nêu tên họ thật.



    Kính xin quư vị đă từng “chết đi sống lại” trong những hoàn cảnh này, hăy nhận nơi đây, những ḍng nước mắt, khóc cho những cảnh đời tang thương - tân khổ, trong suốt những tháng năm dài sau ngày Quốc Hận: 30/4/1975.





    Một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong:



    Trước ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy, là một vị sĩ quan liêm khiết, cho nên, dù đă phục vụ tại Đặc Khu Quân Trấn tại Thành phố Đà Nẵng; nơi dễ dàng có “tư lợi”, nhưng Đại úy Thụy không có nhà cửa riêng, mà ông và vợ con đă sống ở trong Cư Xá Sĩ Quan, sống đời đạm bạc. Chị Thụy, một phụ nữ hiếm có ở trên đời, chỉ biết sống cho chồng-con, không cần để ư đến những sự cuộc sống đầy đủ của những người vợ của các sĩ quan, là bạn của chồng ḿnh.



    Sau ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy bị bắt, bị ở tù “cải tạo” tại: “Trại 1 - Trại chính, Trại cải tạo Tiên Lănh”, tức “Trại T.154”; hậu thân của “trại cải tạo Đá Trắng” đă được thành lập vào cuối năm 1959, tại thôn 3 xă Phước Lănh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sở dĩ người viết biết về trại “cải tạo” này một cách rất rơ ràng, bởi v́, chính Bác ruột của ḿnh: Ông Trần Thắng, một lương dân vô tội, và các vị đồng hương đă cùng bị du kích của Việt cộng bắt, rồi bị đưa vào nơi này giam cầm, và tất cả các vị, trong đó có Bác ruột của người viết, đều đă bị chết v́ đói và lạnh ở trong trại này vào năm 1964.



    Trở lại với gia đ́nh của Đại úy Thụy. Sau ngày 29/3/1975, khi chồng bị bắt đi tù. Lúc này, Thủ đô Sài G̣n chưa thất thủ, th́ “Lực Lượng Ḥa Hợp-Ḥa Giải Thị Bộ Đà Nẵng”, trụ sở được đặt tại Chùa Pháp Lâm, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, tức Chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Quảng Nam, Đà Nẵng; đă xông vào Cư Xá Sĩ Quan để đuổi chị Thụy và con cái ra khỏi nhà. Do vậy, không c̣n cách nào khác, nên chị Thụy đă phải ôm áo quần và d́u dắt các con ra đi, rồi phải ra nhà Ga Đà Nẵng để sống một cuộc đời gối đất, nằm sương !





    Cuộc sống của chị Thụy và các con tại nhà Ga:



    Ngày Đại úy Thụy đă phải đến “tŕnh diện” tại “Thị bộ Ḥa Hợp-Ḥa Giải” tại Chùa Pháp Lâm, số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng. Nên biết lúc này thủ Đô Sài g̣n chưa mất, tại Đà Nẵng chưa có “Ủy Ban Quân Quản”. Và, để rồi phải hơn mười năm sau Đại úy Thụy mới được trở về nhà… Ga để gặp lại vợ con !



    Xin nhắc lại, Thành phố Đà Nẵng đă bị rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội vào ngày 29/3/1975; trong thời gian này, Sài G̣n chưa mất, nên trước khi bị bắt vào tù, người viết đă chứng kiến cảnh sống vô cùng thê thảm của chị Thụy và các con tại nhà Ga Đà Nẵng. Ngày ấy, khi nghe hai bà chị họ của người viết đang buôn bán củi tại nhà Ga Đà Nẵng, số củi này được mua từ Lang Cô, chở bằng tàu lửa về Đà Nẵng để bán sỉ và lẻ, đă kể lại với người viết về hoàn cảnh của chị Thụy và các con tại nhà Ga, và c̣n cho biết chị Thụy và đứa con trai lớn cũng thường hay vác củi thuê cho hai chị. Và, người viết đă đến tận nhà Ga để gặp chị Thụy, để rồi phải chứng kiến trước mắt một cái “nhà” của chị Thụy:



    Bên cạnh một gốc cây, ở một góc đường Nguyễn Hoàng - Hoàng Hoa Thám là một cái “nhà” được che bằng hai tấm tôn, chung quanh được đắp những tấm bạt nhà binh đă rách, và những tấm vải bố được tháo ra từ những chiếc bao cát, loại dùng để làm lô cốt chống đạn của quân đội VNCH. Trong “nhà” là một chiếc chơng tre rộng khoảng hơn một mét, có trải chiếc chiếu cũ, một chiếc chăn cũng cũ. Trên chiếc chơng tre, là hai đứa con nhỏ của chị, khoảng dưới năm tuổi ngồi trên đó, v́ phía dưới, trong những ngày mưa, hoặc mùa Đông, th́ những gịng nước đen ng̣m, hôi hám đă từ phía nhà Ga chảy ra lênh láng ở phía dưới chiếc chơng, nên chị Thụy không cho hai con nhỏ bước xuống đất, mà cứ ngồi, nằm hoặc ngủ, để chờ Mẹ và Anh trai đem gạo về nấu cơm cũng ngay trong cái “nhà” này. Chị Thụy và con trai lớn đă phải vác hàng thuê không kể mưa, nắng, ngày, đêm, chỉ khi nào quá mệt, th́ lại về, để rồi phải nằm gác lên nhau trên cái chiếc chơng tre độc nhất ấy. Đó là một “mái nhà” của chị Thụy và các con !



    Về cuộc sống, chị Thụy và con trai lớn chắc khoảng trên mười tuổi đă phải ra sức để làm hết mọi việc, từ vác, xách hàng thuê cho những người đi buôn bán, hoặc khách văng lai. Chị Thụy và cháu trai không ngại khó bất cứ một công việc nặng nhọc nào. Người viết đă chứng kiến cà hai Mẹ-Con chị Thụy c̣ng lưng để vác những bao gạo, những bó củi từ những chuyến tầu lửa từ Huế chạy về Đà Nẵng, vác từ trong nhà Ga ra đến ngoài mặt đường Nguyễn Hoàng, là nơi những chiếc xe “ba gác” đang chờ sẵn để chở những bó củi đến những nơi buôn bán sỉ, hoặc chở những bao gạo đến những người bán gạo lẻ ở các chợ.



    Nên biết, là vào thời gian ấy, chị Thụy c̣n trẻ tuổi, có nhan sắc, nếu muốn, chị cũng có một cuộc sống no ấm, chứ không phải dầm mữa dăi nắng. Nhưng không, chị Thụy đă quyết giữ một ḷng chung thủy với chồng: Đại úy Thụy, và đă sống cho chồng con.



    Người viết nghĩ rằng, vào lúc ấy, khi quyết định và chấp nhận một con đường chông gai đó, chị Thụy thừa biết về tương lai của ba con thơ của anh-chị sẽ mịt mờ, đen tối, v́ chị không có “hộ khẩu”, nên các con không được đến trường để học hành; nhưng không thể để con cái phải chịu dốt không biết chữ, nên mỗi ngày chị đều tự dạy cho các con học, để biết đọc, biết viết. Ngoài những công việc như đă kể, chị Thụy đă chắt chiu từng đồng, để mua những gói quà, để rồi đă vượt hàng trăm cây số đường rừng, để đến “trại cải tạo” để “thăm nuôi” chồng đang trong cảnh đời lao lư.





    Gói quà thăm nuôi vô giá!



    Những gói quà thăm nuôi, mà chị Thụy đă từng lặn lội đem lên trại “cải tạo” để thăm chống, không như những gánh quà của các bà vợ Sĩ quan khác, mà chỉ vỏn vẹn là một gói nhỏ trên tay thôi !



    Người viết vẫn nhớ đến một lần cùng được đi thăm nuôi một lần với Đại úy Thụy. Khi vào “nhà thăm nuôi” th́ thân nhân của tù “cải tạo” đều có “giấy thăm nuôi” do phường, xă ở địa phương cấp cho, c̣n riêng chị Thụy th́ không hề có một tờ giấy ǵ cả, mà chỉ có một gói quà trên tay thôi.



    Hoàn cảnh của Đại úy Thụy là độc nhất vô nhị tại trại “cải tạo”, nên “Ban giám thị” của tại đă xét thấy nếu muốn cho Đại úy Thụy được “an tâm học tập cải tốt” th́ phải cho anh được gặp mặt vợ; Do đó, những “cán bộ phụ trách thăm nuôi” đă “linh động” cho Đại úy Thụy được gặp mặt vợ mà không có “giấy thăm nuôi”.



    Người viết vẫn nhớ như in, lần ấy, khi được phép gặp mặt Đại úy Thụy và sau khi “trật tự” xét quà thăm nuôi, khi gói quà được mở ra, th́ chỉ có mấy “bánh” đường đen, một ít “thuốc rê” loại thuốc để người hút tự vấn thành điếu để hút, và một “thẩu” mắm ruốc, ớt mà thôi.



    Khi viết lại những điều này, người viết biết rằng sẽ làm cho quư vị cựu tù sẽ xúc động, có thể rưng rưng khi nhớ lại một kỷ niệm, mà đa số vị đă biết; và tôi đă được quư vị tù trong lúc lao động ngoài đồng ruộng lúa, đă kể lại cho tôi biết: chính lần được thăm nuôi đó, khi về pḥng tù, Đại úy Thụy chắc nh́n thấy sự tiều tụy của vợ mà đau buồn, nên vẫn để gói quà nằm yên, cho đến tối, th́ Đại úy Thụy mới mở ra; và, khi cầm một “bánh” đường đen trên tay, th́, ôi ! nước mắt của Đại úy Thụy bỗng tuôn trào, anh muốn ngất đi, khi nh́n thấy những chiếc dấu răng của trẻ con đă cạp, đă cắn, sứt sứt, mẻ mẻ chung quanh chu vi của mấy “bánh” đường…



    Đại úy Thụy đă hiểu mọi sự. Th́ ra, các con nhỏ của anh v́ thèm đường, nhưng Mẹ, tức vợ của anh không cho ăn, v́ “để dành thăm nuôi Ba”, nhưng bởi c̣n quá nhỏ tuổi, nó thèm quá, nên nó đă lén mẹ để cạp, để cắn bớt chung quanh “bánh” đường cho đỡ thèm !



    Và, Đại úy Thụy đă không thể ăn được mấy “bánh” đường đen ngày đó, mà cứ để yên, cho đến khi v́ trời nắng nóng, nên nó đă chảy ra thành một đống nhăo nhoẹt rồi, th́ Đại úy Thụy mới dám ăn !



    Gói quà thăm nuôi ấy, mà cho đến hôm nay, khi nhắc lại, th́ chắc rằng, chẳng phải riêng người viết, mà chắc các quư vị cựu tù “cải tạo” cũng như quư độc giả cũng công nhận rằng: đó là một gói quà thăm nuôi vô giá.





    Ngày trở về:



    Trong suốt những năm tháng dài ở trong trại “cải tạo”, Đại úy Thụy không hề biết vợ con của ḿnh đang làm thuê, vác mướn, sống ở nhà ga Đà Nẵng, v́ chị Thụy không muốn cho anh biết, mà chỉ nói chị đang buôn bán ở đường Nguyễn Hoàng mà thôi, và các bà vợ Sĩ quan, cũng không ai biết về cuộc sống của chị Thụy, mà nếu có biết họ cũng không nói ra. Chỉ cho đến hơn mười năm sau, khi được ra tù, trở về, cứ như theo lời của vợ, Đại úy Thụy đă đi t́m vợ con dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, và khi ngược lên đến nhà Ga Đà Nẵng, th́ bất ngờ, một bóng dáng của người phụ nữ đang c̣ng lưng để vác một bó “củi cḥ” lớn trên vai. Bó củi này, là củi của chính chị của tôi, v́ chị tôi rất quư chị Thụy, thường hay nói chuyện với chị Thụy, nên mỗi khi có củi từ Lang Cô chở vào Đà Nẵng là đều nhờ chị Thụy.



    Cuộc tương phùng này, hay nói cho đúng nghĩa, là một cuộc Đoàn Viên giữa vợ chồng con cái của Đại úy Thụy, th́ người viết không thể dùng bất cứ một từ ngữ nào để có thể diễn đạt một cách cho trọn vẹn; nhưng người viết được biết, sau đó, Đại úy Thụy gặp lại một người lính cũ, và đă được người lính đă một thời thuộc quyền của ḿnh, đang làm nghề “sản xuất bia hơi”, người viết không biết uống bia, rượu, nên không biết đến loại “bia hơi” này nó ra làm sao; song được biết, người lính cũ tốt bụng này, đă giúp đỡ cho cả gia đ́nh của Đại úy Thụy có một nơi ở, lại c̣n giúp cho Đại úy Thụy mượn một chiếc xe đạp cũ, để hàng ngày Đại úy Thụy chở những thùng bia hơi mà người lính này chỉ tính giá vốn, rồi đem đến giao cho những quán ăn, để lấy tiền lời, cho đến ngày Đại úy Thụy cùng vợ con lên đường sang Mỹ theo diện tù “cải tạo”.



    Người ta thường nói, bất cứ cái ǵ, nó cũng có “cái giá” của nó. Cái giá, này th́ tùy theo sự suy nghĩ của mỗi người. Tại Đà Nẵng, đă có nhiều người vợ của các Sĩ quan đă chọn cho ḿnh bằng những cách sống, những con đường khác nhau, và tất nhiên, cho đến bây giờ, họ cũng đă biết được “cái giá” của nó như thế nào rồi. Lại cũng có người nói rằng, chị Thụy làm như thế, chỉ giữ được ḷng chung thủy với chồng, nhưng các con của anh chị phải chịu thất học, chỉ biết đọc, biết viết do Mẹ dạy, chứ nếu làm khác hơn, th́ chắc con cái sẽ không phải làm thuê, vác mướn, và bị thiệt tḥi về vật chất…



    Tuy nhiên, theo người viết, ở trên đời này, có một thứ không dễ ǵ ai cũng có thể t́m thấy được, đó là sự trọn vẹn và cao quư của t́nh yêu, v́ chỉ có t́nh yêu đích thực mới khiến cho con người vượt lên trên được tất cả, mới đạp bằng hết được những chông gai của cuộc đời. Người viết nghĩ rằng, giờ đây, anh chị Đại úy Thụy đang hạnh phúc trọn vẹn trong những năm tháng c̣n lại của cuộc đời.



    Tưởng cũng nên nhắc lại: Sau ngày 30/4:1975; các vị Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa đă bị vào các nhà tù “cải tạo”. Chính nơi đây, chính những cảnh tù đày, là những cuộc thử nghiệm về chất người. Bởi v́, nếu trước đó, những bà vợ đă lấy chồng là những vị cựu tù “cải tạo” v́ t́nh yêu chân thật, th́ t́nh yêu ấy sẽ khiến cho họ càng thương yêu chồng trong cảnh lao tù, mà không lỗi đạo làm vợ; c̣n như nếu họ đă lấy chồng v́ danh, v́ lợi, th́ tất nhiên, khi các ông chồng vào tù rồi, th́ danh hết, lợi hết, th́ t́nh cũng hết, nên họ đành đoạn bỏ người chồng đang đau khổ trong nhà tù, để ôm cầm sang thuyền khác, điều đó, không có ǵ là lạ cả.



    Nhưng những chuyện đă nói, là chuyện của những người khác; c̣n riêng chuyện của Đại úy Thụy là một chuyện thật, có bi thương, song cũng có những ngọt ngào. Có những giọt nước mắt, nhưng cũng có những giọt lệ mừng và những nụ cười thật trọn vẹn như hôm nay, khi anh chị Đại úy Thụy và gia đ́nh đă và đang được đoàn viên nơi hải ngoại. Và, riêng tôi, tôi quư, tôi phục chị Thụy: Chị là một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong.



    Trời không phụ ḷng người là vậy.



    Pháp quốc, 6/6/2012

    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Những ḍng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đ́nh cựu tù “cải tạo”!



    (Bài 2)



    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền





    Có phải là t́nh yêu?



    Tại thành phố Đà Nẵng, có rất nhiều người, nhất là những cựu tù “cải tạo” , và ngay bây giờ, khi nhắc lại, th́ sẽ khiến cho họ nhớ đến một người cùng với những tiếng rao hàng, để bán kem. V́ người này, đă quá quen thuộc với người dân tại Đà Nẵng, cho nên người viết cứ nói ra họ, tên thật của vị cựu tù “cải tạo” này. Đó là, Thiếu tá Nguyễn Ngọc Dũng.



    Trước năm 1975, Thiếu tá Dũng đă cưới một nữ sinh chỉ mới 17 tuổi làm vợ. Cô vợ trẻ này, dă được nhiều người biết đến là “người đàn bà chân không chạm đất”. Nói “chân không chạm đất”, không có nghĩa là cô ta chỉ ở măi trên ghế, trên giường, mà bởi v́ mỗi lần Th/tá Dũng muốn đưa vợ đi đâu, trong khi tài xế và xe hơi đang đợi ở trước nhà, th́ người ta thấy Th/ t Dũng luôn luôn bế cô vợ trẻ đẹp trên tay, để đem đặt ngay trên ghế của xe, rồi mới cho xe chạy. Và, đến lúc trở về, khi xe dừng trước cửa nhà, th́ Th/tá Dũng lại bước ra, để chính tay của ông mở cửa xe và lại bế cô vợ trẻ để đưa vào nhà, chứ không bao giờ để cho vợ phải đi ra xe, đi vào nhà bằng đôi chân của ḿnh. Th/tá Dũng bảo: v́ ông “cưng vợ, nên làm như thế”.



    Nhưng: Chiến trường thử lửa ḷng trai, Biệt ly mới biết ḷng người chờ mong. Sau ngày 30/4/1975, tất cả quư vị Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa, khi đă đi vào các nhà tù “cải tạo”, th́ sự “biệt ly”, không hoàn toàn có nghĩa là vĩnh biệt, v́ họ vẫn c̣n sống, họ có thể gặp mặt thân nhân của ḿnh ở những “nhà thăm nuôi”. Chỉ có những người thân đă đành đoạn bỏ rơi họ trong các trại “cải tạo”, c̣n riêng họ, vẫn từng ngày, hằng đêm đều mong nhớ đến vợ con và người thân của ḿnh.



    Nhắc lại những điều này, để nói lên cái t́nh nghĩa thân t́nh cốt nhục, mà đặc biệt nhất vẫn là t́nh nghĩa vợ chồng, v́ người ta vẫn thường nói: “Con chăm Cha, không bằng bà chăm ông”.



    Câu nói này, thật vô cùng chính xác, nhưng chỉ có một t́nh yêu chân thật, và chỉ có những người khi đă đến với nhau không v́ một lẽ nào khác, mà bắt nguồn từ tấm ḷng yêu thương tha thiết, th́ dẫu sau đó, khi người chồng có gặp hoạn nạn, người vợ sẽ không thể đành tâm mà “Trăm năm hồ dễ ôm cầm thuyền ai”; mà họ sẽ hết ḷng thương yêu chồng, thay chồng nuôi con cái. Song tiếc rằng, trước kia, đa số những người có chức quyền trong chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, đă chọn vợ bằng cặp mắt! V́ thế, sau khi bị vào tù rồi, th́ người vợ của ḿnh, cũng bị người khác chọn bằng cặp mắt.



    Và, một trong những cảnh ngộ ấy, chính là Thiếu tá Dũng. Ông đă lầm lẫn, khi cứ ngỡ rằng cứ “cưng vợ” theo cái cách “không để cho đôi chân của vợ chạm đất” như thế, th́ đương nhiên vợ của ḿnh cũng đáp lại ḷng thương yêu của ḿnh trọn kiếp!



    Quả đúng như thế, v́ mọi sự ở trên cơi đời này, nếu không có những cuộc thử nghiệm về chất người, mà cái “pḥng thử nghiệm” nổi tiếng đó, chính là các trại tù “cải tạo”, th́ các vị QCCVNCH sẽ không làm sao biết được thế nào là t́nh yêu chân thật, là t́nh nghĩa phu thê.



    Trường hợp của Th/ tá Dũng, đă là một trong nhiều cảnh ngộ khác: Ngày Th/tá Dũng đi vào tù, th́ vợ chồng ông đă có bốn con, nhưng vợ ông c̣n trẻ, đẹp; và người vợ “chân không chấm đất” năm xưa, đă không những phải “chấm đất” mà lại c̣n “chấm” luôn vào những vũng śnh của cuộc đời, rồi sau đó, đă lấy chồng, và có con. Những điều đó, đă chứng minh rằng, người vợ trẻ đẹp năm xưa đă lấy Th/tá Dũng làm chồng, không phải v́ t́nh yêu chân thật.





    Cay đắng t́nh người!



    Cay đắng, lại càng thêm cay đắng, v́ trong suốt sáu năm ở tù, Th/tá Dũng không được vợ thăm nuôi, nhưng ông không biết vợ ḿnh đă lấy chồng, v́ cứ ngỡ rằng, v́ quá nghèo, nên vợ của ḿnh không thể thăm nuôi. Do vậy, cho nên, ngày được ra tù, ông liền trở về căn nhà cũ, để t́m lại vợ con. Nhưng, chua xót, phũ phàng thay! V́ căn nhà của ông đă thay chủ tự bao giờ!



    Ngày gặp lại “người vợ chân không chạm đất”, bây giờ “bà” đă chịu “chạm đất” để đem giao hết bốn đứa con cho ông. V́ là đàn ông, nên Th/tá Dũng đă nhận hết cả bốn con của ḿnh, và đưa trở về sống tại căn nhà cũ tại Đà Nẵng.



    Nhưng theo người viết, nếu Th/tá Dũng sáng suốt, th́ sẽ không có thêm những sóng gió sau này. Song có lẽ, v́ cô dơn, v́ cần có một đôi tay, một bóng dáng của người phụ nữ, để có một “mái ấm”, cho nên Th/tá Dũng đă đón nhận một người phụ nữ, đă có năm con, nghe nói, chồng đă chết, và đưa về làm vợ của ḿnh.



    Người viết và Th/tá Dũng, thỉnh thoảng vẫn đến thăm nhau. Người viết đă chứng kiến gia đ́nh của Th/tá Dũng, gồm có con ông, con bà và một con chung; tất cả là mười hai người, mà bà vợ sau này, lại không biết làm một việc ǵ để có thể phụ giúp ông Dũng để nuôi cả hai ḍng con. Bởi vậy, nên Th/tá Dũng đă nghĩ ra một “nghề” mới. Đó là “nghề” bán kem, để nuôi cả gia đ́nh.



    Ngày ấy, hàng ngày, người dân tại thành phố Đà Nẵng, thường thấy một người đàn ông cao lớn, ngồi trên chiếc xe đạp cũ, phía sau là một thùng kem. Người bán kem đă đạp xe chạy quanh hết cả thành phố, với những tiếng rao “hàng”:



    “Cà-rem cây đây! ai mua cà-rem,… ai mua cà-rem…”



    Người bán cà-rem cây ấy, chính là Th/tá Dũng. Ông không ngại khó khăn, để đi bán kem hàng ngày, mà chỉ mong sao cho có cơm để nuôi sống cho cả gia d́nh là đủ. Nhưng thực ra, nếu không có ḷng thương của đồng bào tại Đà Nẵng, th́ Th/tá Dũng có lẽ khó có thể nuôi nổi cả gia đ́nh với những đồng tiền bán kem.



    Người viết vẫn c̣n nhớ, ngày ấy, người bán kem dạo ở Đà Nẵng rất nhiều; nhưng đồng bào ở các chợ cũng như trên đường phố, v́ đă biết rơ hoàn cảnh của Th/tá Dũng, nên họ thường dành những đồng tiền để mua kem của ông Dũng, và có khi họ không lấy những đồng tiền nếu ít, được thối lại nữa.



    Trước ngày vượt biển, người viết có đến tận nhà của Th/tá Dũng, v́ muốn đưa ông đi cùng, nhưng sau đó, không quay trở lại, v́ biết ông không thể ra đi một ḿnh, mà người viết tự biết, không thể đưa cả gia đ́nh ông gồm mười hai người đi vượt biển, v́ không phải là chủ tầu.





    Đến “miền đất hứa”:



    Sau khi vượt biển, đă định cư tại Pháp, th́ người viết đă nhận được thư của Th/tá Dũng, nói rằng sắp lên đường để đến “miền đất hứa” là nước Mỹ, theo diện tù “cải tạo”. Người viết thấy mừng cho ông, v́ nghĩ rằng, gia đ́nh ông sẽ hết những ngày gian khổ, đặc biệt, là người vợ và các con riêng của bà, sẽ hết ḷng thương -quư ông, v́ nhớ đến những ngày tháng ông mang thùng kem đi rao bán dạo trên khắp phố phường Đà Nẵng, v́ họ đă sống bằng những đồng tiền bán kem với những giọt mồ hôi của ông đă rơi xuống trong những buổi trưa hè chói chang nắng nóng.



    Nhưng không, ngày ông rời Việt Nam để sang Mỹ, chưa được bao lâu, th́ người viết lại nhận được tin là vợ và các con riêng của bà, những con người đă từng sống bằng những đồng tiền bán kem của ông đă đành đoạn bỏ ông, không cho ông được sống chung nữa! Và, một lần nữa, Th/tá Dũng đă phải nuốt nước mắt, để ra đi!



    Như vậy, cuộc đời của Th/tá Dũng, đă có hai người vợ, dù chân có chấm đất hay không, th́ theo người viết, cả hai, họ không phải đến với Th/tá Dũng bằng một t́nh yêu chân thật. Người vợ trước, đă lấy ông v́ danh, v́ lợi, để được ông bế trên tay, để “chân không chấm đất”, c̣n người vợ sau đă lấy ông, để ông phải chịu làm người bán kem, để nuôi sống cho bản thân bà và các con riêng của bà mà thôi.



    Và, để kết thúc câu chuyện của Th/tá Dũng, người viết muốn nói rằng: Để đo lường được ḷng yêu thương của đàn bà, th́ đàn ông đừng nên yêu, đừng nên chọn vợ bằng mắt; mà hăy yêu, hăy chon vợ bằng khối óc, để có được một người vợ sẽ hết dạ yêu thương chồng, cộng thêm sự kính trọng và ḷng chung thủy vẹn tuyền.



    Lời sau cùng, mà người viết muốn gửi đến Th/ Dũng: Người viết không bao giờ quên những sự quư mến của ông đă dành cho người viết và gia đ́nh. Đồng thời, ngày xưa, lúc c̣n ở tại quê nhà, người viết đă từng nghe Th/tá Dũng vẫn thường nói: “Tôi luôn luôn đặt niềm tin vào Đấng Toàn Năng”.



    Vậy th́, người viết chân thành cầu chúc cho ông sẽ luôn t́m thấy niềm tin, và niềm vui bên các con trong tay của Đấng Toàn Năng, trên suốt quăng đường c̣n lại của cuộc đời, sau hai lần đổ vỡ!



    Pháp quốc, 7/6/2012

    Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam

    Học tập cải tạo _ Tội ác chống nhân loại của CS Việt Nam
    Các chuyện sau 30-4-1975 không thế nào quên dược.
    BẮT ĐẦU NẾM MÙI MIỀN BẮC XĂ HỘI CHỦ NGHĨA


    NGUYỄN-HUY HÙNG





    Khoảng đầu tháng 6-1976, sau vụ xử tử h́nh hai bạn tù Bé và Thịnh vượt rào trốn trại, đoàn cán bộ Trung ương Hànội “khẩn trương” tới trại Suối Máu gặp Tù. Họ giải thích trấn an thêm, về chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) “trước sau như một”, cho mọi người thêm tin tưởng mà đừng dại dột có hành động chống đối hoặc trốn trại.
    Trong đợt học tập này, một số anh em tù Đại tá chúng tôi bị gọi ra văn pḥng Khu, gặp cán bộ để “làm việc”, trong đó có Tôi. Họ hỏi về tổ chức, trách nhiệm của các Cơ quan, Đơn vị, ḿnh đă phục vụ từ ngày nhập ngũ cho đến ngày 30-4-1975. Rồi đưa giấy bút cho ḿnh trở vào trong trại giam, ngồi ghi chép lại để nộp cho họ trong ṿng 3 ngày sau. Có điều thú vị là, ai bị gọi “làm việc” như vậy, đều được Cán bộ “bồi dưỡng” cho 300 gram đường cát trắng, và 1 bao thuốc lá Sapa sản xuất từ miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa (XHCN).
    Thực ra, mục đích chính của đợt học tập này, là lập hồ sơ cá nhân Tù, trước khi đưa đi các trại lao động cải tạo thật sự. Họ chụp ảnh từng người, lăn dấu các ngón tay vào bià cứng, loại thường dùng để làm hồ sơ cấp thẻ căn cước. Họ buộc mọi người khai chi tiết lư lịch cá nhân, vợ, con, anh chị em cha mẹ ruột của ḿnh, anh chị em cha mẹ của vợ, và ông bà họ hàng thân thích nội ngoại từ 2 đời trước ḿnh. Họ c̣n bắt ghi cả nghề nghiệp, nơi ở và nơi hành nghề hiện tại của mọi thân quyến nêu trên.
    Ít ngày sau đợt học tập chấm dứt, vào một đêm không trăng sao, mọi người đang an giấc, bỗng dưng đèn điện trong nhà ngoài sân bật sáng trưng. Đồng thời, loa phóng thanh ngoài cổng Khu oang oang ra lệnh, thu gói đồ đạc tư trang cá nhân ra sân tập họp đợi lệnh. Bộ đội canh tù cầm súng chạy rầng rầng chung quanh các Láng. Cán bộ Quản giáo đến đứng trước cửa từng nhà hối thúc “khẩn trương! Khẩn trương!”.
    Khoảng 30 phút sau, mọi người tay xách nách mang tư trang, tề tựu xếp hàng theo thứ tự từng Đội đầy nghẹt sân tập họp. Các Quản giáo chạy vào các Láng trống, kiểm soát lần chót để chắc chắn mọi người đă ra hết. Đồng thời, Bộ đội cảnh vệ từ bên các dẫy hàng rào kẽm gai chung quanh Khu, cũng rút lần lần vào xiết chặt ṿng vây, lăm lăm tay súng, chia nhau đứng ṿng quanh sân canh gác.
    Ban Chỉ huy Trại bắt đầu đọc tên từng người một, buộc phải trả lời “Có!”, rồi đứng lên mang hành trang của ḿnh, đi ra ngoài cổng Khu giam ngồi sát nhau, dài dài 2 bên lề đường. Độ chừng 150 người được gọi ra, trong đó có Tôi, tức là khoảng phân nửa tổng số Đại tá bị giam giữ tại đây. Những người không có tên phải ra đi, ngồi lại tại chỗ đợi lệnh.
    Người cuối cùng trong nhóm phải lên đường vừa ra khỏi cổng, th́ lệnh hô : “-Mọi người ngồi xuống dọc 2 bên lề đường, bầy hết tư trang của ḿnh ra trước mặt để Cán bộ kiểm tra”. Họ yêu cầu mỗi người phải tự “cảnh giác” vứt bớt đồ đạc của ḿnh đi, chỉ để lại những ǵ thật cần thiết cho nhẹ nhàng dễ di chuyển.
    Nhiều anh nhà khá giả được tiếp tế hậu hỹ, ngoài chiếc vali đựng quần áo c̣n 2, 3 bao ba lô đựng đầy lon gô, cóng ni lông đựng thực phẩm, phân vân không biết để cái nào vứt cái nào, thật khó xử.
    Phần Tôi nghèo nàn, chỉ có 2 món rất nhẹ nhàng. Chiếc túi vải đeo lưng, may lấy bằng vải kaki xanh nước biển, đựng quần áo, mùng, mền, 2 bọc ni lông đựng mỗi bọc 1 kí lô ḿ ăn liền vụn, keo đường thẻ, vài bọc kẹo lạc. Và một túi xách nhỏ cằm tay, loại đeo đạn phóng lựu nhặt được tại bên chân bờ rào trại Long Giao, đựng chiếc soong tôn nhỏ, do anh bạn Đại tá Trịnh Đ́nh Đăng chỉ vẽ cách g̣ lấy từ ngày về trại Suối máu này, với chiếc bi đông nhựa đựng nước uống, bộ gà mèn th́a nỉa đựng đồ ăn hàng ngày, và bộ cờ Mạt Chược đẽo bằng gỗ cao su. Nên chẳng phải bận tâm tính toán ǵ cả. Thế mà Cán bộ kiểm tra cũng nhặt chiếc soong tôn nhỏ, vứt vào đống đồ phải loại bỏ không cho mang theo. Ông ta nói : “-Tới nơi mới không cần nấu nướng riêng.”
    Sau khi mọi người ṃ mẫm cởi gói, bầy hết tư trang của ḿnh ra xong, các Cán bộ nối tiếp nhau đi qua đi lại nhiều lần, rọi đèn pin coi ai c̣n nhiều đồ cồng kềnh, th́ họ tự động lấy những thứ nào mà họ cho là không cần thiết, vất thành một đống bên vệ đường.
    Người vứt đi kẻ nhặt lại, gạn ép măi. Cuối cùng mọi người cũng được lệnh gói ghém đồ đạc c̣n lại cho gọn gàng, di chuyển ra chỗ khác theo thứ tự tên gọi, họp thành từng nhóm riêng cho mỗi xe, ngồi chờ.
    Qua tin tức truyền tai nhau, theo sự bật mí của cán bộ Trưởng Khu, được biết là anh em chúng tôi sẽ “hành quân” về hướng Hóc Môn.
    Mọi người ngồi bệt xuống đất bên vệ đường, tựa lưng vào đống hành trang riêng, ngủ gục phơi sương chờ. Măi đến khoảng 4 giờ sáng xe mới tới. C̣i hiệu giục tuưt tuưt tuưt từng hồi đánh thức mọi người. Cán bộ hướng dẫn từng Đội, đến bên từng xe theo số quy định trước, luôn mồm hối thúc “khẩn trương”.
    Đoàn xe di chuyển ra xa lộ Biên Hoà, rẽ về hướng Saigon, băng qua cầu Tân cảng Thị Nghè, tiến vào đường Hàng Sanh, Bà Chiểu, đi về hướng ngă tư Phú Nhuận. Tới ngă tư, đoàn xe rẽ qua hướng đi G̣ Vấp. Chạy tới ngă năm Trung tâm tiếp huyết cạnh Tổng Y viện Cộng Hoà, đoàn xe rẽ vào phi trường Tân Sơn Nhất, đến đậu tại khu vực có các ụ trú ẩn dành cho các Chiến đấu cơ Hoa Kỳ trước kia.
    Trời vừa mờ sáng, sương đêm c̣n dầy đặc, không nh́n thấy ǵ chung quanh xa hơn 20 mét. Mọi người được lệnh đem hành trang xuống xe ngồi chờ máy bay. Người th́ lục lọi tư trang t́m thức ăn, ngồi bệt xuống đất ẩm sương đêm dùng bữa sáng. Người th́ chạy đến bên ụ đất giải quyết việc riêng. V́ không được bỏ chỗ tập trung đi xa quá 5 mét, nên mùi xú uế của nước tiểu và phân nóng sốt trong cơ thể thải ra xông mùi nồng nặc. Nó làm ô nhiễm bầu không khí trong lành, man mát ẩm hơi sương đang bao phủ mọi người. Thật khó chịu.
    Đợi cũng chừng hơn tiếng đồng hồ, mới thấy mấy chiếc phi cơ C-130 ḅ tới. Cán bộ Trại Suối Máu bàn giao Tù cho nhóm Cán bộ khác, mặc quân trang mầu kaki vàng, đeo súng lục, mang giầy da cao cổ đen, y như loại của lính Việt Nam Cộng hoà (VNCH) cũ, vừa từ trên phi cơ bước xuống.
    Sau khi đôi bên Cán bộ thảo luận với nhau xong, mọi người được nhóm Cán bộ áp giải mới gọi tên, lần lượt vác hành trang lên phi cơ, ngồi dài dài sát bên nhau, trên 4 dẫy ghế bằng dây vải, dọc theo thân phi cơ.
    Các Cán bộ áp giải đến từng chỗ ngồi, lấy c̣ng số 8 đeo vào tay mỗi 2 người chung một chiếc. Tôi chẳng may bị c̣ng nhằm tay phải. V́ Tôi không thuộc dân thuận tay chiêu (tay trái), nên mỗi khi khát muốn lấy bi đông nước uống, cũng thật là khó khăn. Chỉ có một tay rảnh, phải kẹp bi đông nước giữa 2 đầu gối, dùng tay trái mở nắp b́nh rồi đưa lên miệng. Uống xong cũng phải kẹp bi đông giữa 2 đầu gối, dùng tay vặn đóng chặt nắp b́nh lại, rồi nhét trở lại túi xách đeo ṭng teng trước ngực. Làm không cẩn thận, lỡ vuột tay b́nh rơi xuống sàn phi cơ, th́ sẽ chẳng c̣n nước mà dùng khi cần đến.
    Sau khi mọi người đă ngồi yên chỗ, không c̣n nhúc nhích được nữa, một cán bộ đeo túi da bên hông h́nh như trưởng toán, đi một ṿng kiểm tra lại, để bảo đảm các c̣ng số 8 đă được khoá chặt chẽ, và không c̣n ai chưa bị c̣ng. Xong xuôi, anh ta mới xuống đất dẫn độ 2 phi công lên, đi từ bửng cửa mở nơi phía đuôi phi cơ, dọc qua các hàng ghế tới phía đầu phi cơ, leo lên pḥng lái. Có người nhận ra được là phi công Quân Lực VNCH cũ, nhưng không nhớ ra tên.
    Tôi không nhớ chắc có mấy cảnh vệ đi áp tải trên phi cơ. Chỉ nhớ rằng, có 2 người đứng chặn ngay nơi chân chiếc thang lên pḥng lái. C̣n những người kia đứng phía cuối phi cơ, giữa khu chất hành lư và các dẫy ghế ngồi của chúng tôi.
    Chừng dăm phút sau khi 2 phi công lên pḥng lái, thấy bửng cửa sau phi cơ từ từ dâng lên khép kín lại. Toàn thân phi cơ bắt đầu rung động, mạnh nhẹ tùy theo sự tăng giảm tốc độ của các động cơ gắn trên 2 cánh. Sau cùng thấy phi cơ lăn bánh chạy từ từ, rẽ qua phải, rẽ qua trái, ngừng lại. Giây lát sau, tiếng động cơ rú lên đinh tai nhức óc, thân phi cơ rung động mạnh, phăng phăng chạy tới mỗi lúc một nhanh hơn lấy đà cất cánh rời mặt đất, bốc lên cao.
    Sức ép của không khí do vận tốc phi cơ gây ra, làm lùng bùng tức buốt 2 màng nhĩ, ruột gan như muốn dồn lên trồi qua cửa miệng. Có người chịu không nổi, mửa ra tất cả những ǵ đă ăn vào khi sáng, lúc đang ngồi chờ phi cơ tới. Mùi chua của thức ăn chứa trong bao tử chưa tiêu hoá tuôn ra, xông nồng nặc lẫn với mùi dầu gió Khuynh Diệp và mồ hôi người, tạo thành một bầu không khí ngột ngạt làm ngộp thở, lợm họng buồn nôn.
    Phi cơ cất cánh, lượn ṿng ṿng, rồi mới bay thẳng theo hướng phải đi. Ánh nắng mặt trời chiếu từ các khung kính cửa nhỏ, bên phiá sườn phải vào trong phi cơ. Hiện tượng này cho biết, chuyến bay đi hướng Bắc, chớ không đi hướng Tây để ra Phú Quốc, như một nguồn tin đă x́ xầm hồi đang ngồi chờ dưới đất. Bay đi đâu vậy? Phải chăng lên miền Cao nguyên miền Trung, Nam phần Việt Nam?
    Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ bay đă trôi qua, phi cơ vẫn giữ nguyên cao độ. Những anh ngồi dẫy ghế sát bên thân phi cơ cho biết, cảnh phía dưới thấy toàn là biển cả mênh mông. Vậy là đúng như Tôi đă dự đoán từ hồi c̣n ở trại Long Giao, ra cải tạo tại miền đất Bắc Xă hội Chủ nghĩa. Thật là một đại họa không hy vọng có ngày về.
    Ù ù bay măi tới xế trưa, phi cơ mới đảo cánh lượn ṿng đáp xuống 1 phi trường nhỏ trên vùng cao nguyên, chung quanh toàn rừng núi, không nhà cửa làng xóm. Phi cơ run rẩy từ từ ḅ ra khỏi phi đạo, ngừng lại, bửng cửa hậu rè rè hạ xuống. Cán bộ đến mở c̣ng cho mọi người. Riêng phần Tôi, không biết điềm xui xẻo nào đang chờ, c̣ng mở không ra. Mọi người xuống hết, Tôi và anh bạn đeo chung c̣ng, đành phải nghiêng người dắt nhau kẻ trước người sau, đi ngang ngang giữa 2 dẫy ghế vải, để ra bửng cửa hậu phi cơ nhẩy xuống đất. Hai cổ tay dính chặt bên nhau, chúng tôi kéo nhau đi tới đi lui cầu cứu các Cán bộ áp tải. Hồi lâu, mới có người đem 1 chùm chià khoá tới, thử hết cái này đến cái kia, sau cùng cũng giải thoát được cổ tay khỏi chiếc c̣ng ác nghiệt.
    Thật hú vía, nếu chẳng may phi cơ gặp nạn phải đáp khẩn cấp, lửa bốc cháy, một trong 2 chúng tôi bất tỉnh, người c̣n tỉnh không biết phải làm sao. Chắc là đành ngồi chịu đựng lửa thiêu đốt, và đau đớn hành hạ ḿnh lần lần, trước khi cái chết đến giải phóng cho được thảnh thơi, hồn ĺa khỏi xác.
    Sau khi chúng tôi xuống hết, các phi cơ lạnh lùng quay trở ra phi đạo, nối đuôi nhau cất cánh bay mất hút, không một lời giă biệt.
    Cách chỗ chúng tôi đứng chừng 100 mét, có một đoàn xe đậu chờ sẵn. Gần bên đoàn xe, thấy dựng 2 chiếc dù to mầu đỏ, một chiếc bàn, và mấy người mặc quân phục kaki màu vàng. Họ tiến về phiá chúng tôi. Người đi giữa coi vẻ bệ vệ, Tướng của Sư đoàn Việt cộng “tiếp quản” giáo dục chúng tôi lao động cải tạo. Ông ta cất giọng hỏi : “-Các anh có biết đây là đâu không?” Mọi người ngơ ngác lắc đầu. Ông ta tiếp tục : “-Đây là đất miền Bắc Xă hội Chủ nghiă. Các anh được đưa ra đây có môi trường thuận lợi hơn trong Nam Bộ, để học tập cải tạo cho mau tiến bộ. Thời gian sẽ không lâu, khoảng từ 3 đến 5 năm thôi. Tuy nhiên, cũng c̣n tùy thuộc vào tinh thần học tập và sự tiến bộ của mỗi người.” Ông ta chỉ nói bấy nhiều lời, rồi đứng đó nh́n chúng tôi theo lệnh trưởng đoàn áp tải lên xe. Anh em chúng tôi cũng chẳng ai có dịp hỏi xem, đây là địa phương nào của đất miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa.
    Đoàn xe chuyển bánh, chạy ṿng vèo xuống dốc, băng rừng xuyên núi, măi mới tới 1 bến phà. Một mảnh ván nhỏ trên đầu cọc gỗ đóng bên lối dẫn xuống bờ sông, ghi 3 chữ “Phà Âu Lâu”. Bề ngang sông cũng không rộng lắm, nước chẩy cũng không xiết lắm, nên phà được mấy người lái kéo bằng tay, dựa theo sợi dây cáp căng từ bờ bên này sang bờ bên kia, chớ không dùng động cơ đẩy. Xe lần lượt qua phà từng chiếc một.
    Có vài người dân địa phương cùng xuống phà, qua sông một lượt với chúng tôi, nhưng v́ lệnh cảnh vệ áp giải cấm không được tiếp xúc với dân chúng, nên không ai giám hỏi chuyện. Khi cả đoàn xe qua phà xong, lại tiếp tục con đường độc đạo, leo ṿng vèo theo các sườn dốc núi cao, 2 bên toàn rừng rậm, khe sâu.
    Xóc lên dập xuống, lắc qua lắc lại, chạy măi đến xẩm tối, mới tới một khu nhà trên đỉnh đồi, doanh trại của Ban chỉ huy Liên trại 1. Đoàn xe vượt qua để rẽ xuống bên kia sườn đồi, đậu lại trước 2 dẫy nhà làm bằng “chổm” (một loại nứa nhỏ thuộc họ nhà tre). Mái nhà lợp bằng những tấm tranh “chổm” đập dẹp ra kết lại. Vách cũng bằng “chổm” đập dẹp đan thành phên. Hàng rào cao 3 mét vây quanh 2 dẫy nhà, cũng bằng “chổm” nguyên cây dài kết liền nhau, đóng sâu xuống đất. Có lẽ sản phẩm thiên nhiên chính của vùng này là “chổm”, nên cái ǵ cũng làm bằng “chổm” cả.
    Xuống xe xong, anh em được lệnh chia thành 2 nhóm, vào ngủ trong các căn nhà “chổm” đó. Một số anh lanh lợi tinh khôn, chạy ùa vào trước dành chỗ nằm tốt. Nhưng buồn một nỗi, sàn nằm cũng bằng phên “chổm”, nên chỗ nào cũng cồm cộm đau lưng như nhau.
    Không ai nói cho biết đây là đâu, nhưng anh em cũng đoán ra là khu trại đặc trách sản xuất gạch. V́ sát ngay bên ngoài hàng rào khu nhà, thấy lù lù cao ngất một ḷ nung gạch. Anh em x́ xầm đoán là được đưa đến đây học làm nghề sản xuất gạch. Chẳng ai nói ra, nhưng chắc chắn trong thâm tâm mọi người đều ngài ngại lo lắng. Hẳn là ai cũng đang mường tượng ra cảnh mùa đông giá lạnh, quần vắn lên tận bẹn, áo cuộn tay tới nách, quần quật lăn lộn với những hầm đất sét, nhào nặn đóng gạch, đi lấy gỗ rừng về nung đốt ḷ ngày đêm, sẽ vất vả lắm. Nhưng biết làm sao, đến lúc đường cùng rồi phải kiên nhẫn chịu đựng, lâu dần rồi cũng phải quen.
    Đi học lao động cải tạo tư tưởng, để mong tiến bộ trở thành người Công dân Xă hội Chủ nghĩa, th́ tránh sao khỏi khổ nhục nặng nề vất vả. Điều căn bản là làm sao giữ được sức khoẻ, sống được đến ngày về với vợ con, xây dựng lại cuộc đời dưới cái chế độ độc tài, mà ḿnh đă bao năm cằm súng chiến đấu chống nó.
    Sau khi ai nấy thu xếp xong tư trang tại chỗ nằm tạm của ḿnh, quay ra sân quan sát cảnh vật th́ trời đă tối mù. Thời gian giao điểm giữa ngày và đêm, trên cái vùng rừng núi cao nguyên Bắc Việt này sao mà nhanh đến thế.
    Cùng lúc đó, Cán bộ cũng chở thức ăn tối đến phát cho mọi người, theo biên chế lúc lên máy bay tại Sàig̣n hồi sáng tại phi trường Tân Sơn Nhứt. Dưới ánh đuốc chập chờn, thấy những thúng đựng thứ ǵ mầu lẫn trắng và vàng, có người cười reo cho là xôi đậu xanh. C̣n những thau nhôm khác đựng thứ có mầu nâu xậm, có người lại đoán là thịt ḅ kho. Xôi đậu mà ăn với ḅ kho, sau một ngày di chuyển vất vả th́ thật là tuyệt vời. Nhưng khi lănh rồi đem vào buồng giam chia nhau ăn, mới chưng hửng tan mộng. Bắp khô xay nhỏ nấu chín, và khoai lang luộc. Bữa ăn tối đó, ngô độn khoai, với chút muối vừng (mè).
    Có lệnh cho mọi người xuống suối tắm rửa “khẩn trương”, trước khi điểm danh vào nhà giam đi ngủ. Trời tối hu, không đèn đóm. Con đường ṃn dẫn xuống suối hẹp, dốc thẳng đứng, đất đá lổn nhổn trơn trợt, phải luồn lách cây rừng và cỏ lau 2 bên tḥ ra quẹt cứa xây sát cả mặt mày, mới tới được bờ suối. Ḍng nước cạn chỉ cao tới lưng bắp chân nhưng chẩy xiết, lạnh cóng. Ḷng suối đầy sỏi đá lớn nhỏ bám đầy rêu, đạp lên trượt đứt xước bàn chân, cổ chân, máu chẩy buốt sót đau nhói.
    Nhà vệ sinh công cộng lộ thiên, ở sát bờ rào. Ban đêm ai cần đi tiểu hoặc đại tiện th́ phải ra ngoài nhà giam. Dẫy nhà chỉ có một lối ra vào duy nhất, ở phiá đầu nhà, không cánh cửa. Mỗi lần đi ra hay trở vào, đều phải cao giọng hô lớn : “ -báo cáo anh bộ đội tôi đi tiểu, -báo cáo anh bộ đội tôi đi cầu, -báo cáo anh bộ đội tôi đi tiểu vào, v.v…”
    Tối hù chẳng thấy bóng anh bộ đội ở đâu, nhưng vẫn phải hô lớn báo cáo, nếu không, tự dưng ở đâu anh ta quát : “-anh kia đi đâu?”, là sẽ mắc hoạ lớn, bị đem nhốt ngay v́ tội “có mưu đồ” trốn trại ban đêm.
    Cả hơn trăm con người tuổi đă cao, thay nhau đi ra đi vào hô hoán suốt đêm như vậy, những người khó ngủ như Tôi đành chịu cảnh thức trắng thôi. Đă thức không ngủ được, th́ óc nghĩ ngợi lang bang nhiều chuyện thật khổ tâm.

    TRẮNG ĐÊM TRÊN ĐẤT BẮC XĂ HỘI CHỦ NGHĨA.
    Sàn tre vật vă ẩm ê,
    Lắng nghe giun dế tỉ tê nỗi niềm.
    Lao xao chuột rúc bên thềm,
    Ŕ rầm suối đổ, cú chêm nhịp buồn.
    Trăng rừng lạnh lẽo cô đơn,
    Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe song.
    Nhớ con thương vợ năo ḷng,
    Chợ đời bạc bẽo long đong một ḿnh.
    Thời gian hờ hững vô t́nh,
    Không gian khỏa lấp bao h́nh thân thương.
    Bắc, Nam, chung cảnh đoạn trường,
    Lương dân cùng khốn, Quê hương tan tành.
    Tung hoành Cộng đảng gian manh,
    Bầy tṛ giai cấp đấu tranh hại đời.
    Oán than dâng thấu tận Trời,
    Ông Cao Xanh hỡi ! nỡ ngồi làm ngơ ?
    Họa Hồng Thủy đến bao giờ?
    Mới cho dân Việt thấy bờ Tự do?

    NGUYỄN-HUY HÙNG

    Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, Phụ tá Tổng cục trường Chiến tranh Chính trị kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến trước 30-4-1975,

    Cựu Tù nhân chính trị 13 năm lao động khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của Đảng Việt Cộng và bạo quyền Cộng hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam trên cả 3 miền đất nước sau 30-4-1975.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •