Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 50

Thread: Tổ Quốc Ghi Ơn

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ

    Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
    Người Tử Đạo: TRẦN Đ̀NH TỰ




    NGƯỜI TỬ ĐẠO : TRẦN Đ̀NH TỰ


    Hôm nay kỷ niệm ngày giỗ ÂL 19-3 Cố Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ. Xin thắp nén nhang cho anh trong nhạt nḥa nước mắt. Người con yêu thương của dân tộc đă dâng hiến trọn vẹn và khí tiết cho tổ quốc

    Xưa kia những người tử đạo bị bắt buộc bước qua cây Thập Tự, ngày nay quân thù bắt anh cởi bỏ Chiến bào. Hai h́nh ảnh và không gian khác nhau nhưng cùng chung 1 khí tiết. Và Họ đă thà chết, khinh thường cái chết trước mặt quân thù. Một cái chết đau đớn nhất mà Anh đă chọn lựa, cùng với Tướng Quân TRẦN VĂN HAI, một trong những anh Cả của Binh chủng Mũ nâu. Anh đă tô đậm trang sử hào hùng cho đất Việt.

    Dân tộc nào trên thế giới có những Vị tướng và chiến Sĩ kiệt xuất như Anh.

    Hồi tưởng ngày thương thảm của anh qua cây bút Thiên Lôi không ai ngăn được đôi hàng lệ nơi khoé mắt.

    Ngày Hội Tết Binh Chủng 50 năm đă gần kề. anh cùng đoàn quân Mũ nâu sẽ tham dự cùng các bạn Anh là những Niên trưởng Đồng Đội. Tấm gương anh măi măi trong tâm khảm mọi Chiến Hữu.

    Ư tưởng về thăm anh đă lâu, chỉ cần nh́n hài cốt Anh và vài câu kinh khấn nguyện cho Anh là thỏa măn rồi. Nhưng ước nguyện không thành. Những tấm ảnh này do những người thân để lại hoàn toàn không phải từ gia đ́nh anh. Giờ đây quây quần với những chiến hữu đồng đội, với những Niên trưởng bậc đàn anh kính mến, tôi bất giác nghẹn ngào thương anh vô cùng.

    Anh đâu khác với những đàn anh tôi đang sống gần trong khung trời hải ngoại tự do. Chỉ có một cái khác. Một cái khác duy nhất : Anh đă hy sinh.

    NÉN HƯƠNG L̉NG CHO ANH
    Cali 19 tháng 3 năm 2010
    RANGERS FAMILY

    Đọc thêm về Thiếu Tá Tự trên trang Quân Sử VNCH
    http://www.vietlandnews.net/forum/sh...CNH-T%E1%BB%B0

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    NÓ VÀ TÔI

    NGUYỄN KHẮP NƠI

    nguồn: http://vietluanonline.com/280809/novatoi.html

    Viết cho Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân,
    Và tất cả các Chiến Sĩ Vô Danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    logoBDQ





    Nó đây là Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    Thiếu Tá Tự là một trong những Sĩ Quan kiêu hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă không chịu nhục đầu hàng mà chọn con đường chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Tới khi hết đạn, lưỡi dao oan nghiệt của anh đă kết liễu cuộc đời chiến đấu v́ chính nghĩa Tự Do của Dân Tộc.

    Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă hy sinh v́ Tổ Quốc, tại chiến trường, vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.

    C̣n tôi, Nguyễn Hữu An, một người bạn thân của Tự từ thủa thiếu thời, hiện đang ngụ tại Tiểu Bang Victoria, Úc Đại Lợi.

    Tôi quen Tự từ ngày di cư vào Nam, tháng Bẩy năm 1954.

    “Tôi, Nó sinh ra nhằm chinh chiến,
    Mới quen nhau mà thương mến,
    Nó quê ngoài kia, từ lâu lắm chưa lần về”.

    Tôi không nhớ ngày nào của Tháng Bẩy tôi đă đến bến bờ Tự Do, chỉ c̣n nhớ là từ phi trường Tân Sân Nhất, gia đ́nh tôi đă được đưa về Trường Nữ Trung Học Gia Long. Lúc đó, đang là thời gian đi học, nhưng các học sinh đều được tạm nghỉ để trường học biến thành những trung tâm tạm trú cho dân di cư. Gia đ́nh tôi được phân phối một khoảng trống ở gầm một cái cầu thang nào đó của trường.



    Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần th́ Phủ Tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể định cự ở những vùng sau đây: Thị Nghè, Phú Thọ, G̣ Vấp, Hố Nai. Cha Mẹ tôi vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ nào tốt chỗ nào xấu? Chỗ nào cũng là bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn với nhau: Đă đi quá nhiều rồi, bây giờ chọn nơi nào gần thành phố là được rồi. Chỗ gần trường Gia Long nhất và cũng gần Sài G̣n nhất là vùng Thị Nghè, nên gia đ́nh chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương Mới. Tại đây, một lần nữa, chúng tôi lại được đưa vào tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi, gia đ́nh chúng tôi được chia một góc của lớp học.

    Mỗi ngày, cha mẹ chúng tôi được phân phối thực phẩm và gạo nước để tự nấu ăn lấy. Mỗi tuần cũng được phát thêm một ít tiền tiêu vặt. Trường học có hàng rào bao chung quanh, đám con nít chúng tôi vui vẻ chơi đùa một cách riêng biệt trong khuôn viên của ngôi trường Tiểu Học này, chưa hề biết ǵ về dân bản xứ miền Nam cả.

    Ở được vài tuần lễ th́ trung tâm tỵ nạn đóng cửa, mỗi gia đ́nh được cấp một số tiền nhỏ để tự t́m nơi ăn chốn ở lấy. Số c̣n dư th́ làm vốn sinh nhai. Những ai là công chức và giáo chức đều được tái tuyển dụng. Trong đám dân di cư ở Thị Nghè, lại có một số lớn làm giáo chức, nên chính phủ chấp thuận cho mở một trường mới, dậy ngay tại khuôn viên của trường Tiểu Học hiện tại Thạnh Mỹ Tây, đặt tên là “Trường Tiểu Học Di Chuyển Thạnh Mỹ Tây II”. Trường chính th́ học hai buổi: Buổi sáng, từ 7 giờ sáng tới 11 giờ sáng, buổi chiều từ 2 giờ 30 trưa tới 6 giờ 30 chiều. Đám học sinh “di chuyển” chen vào giữa hai buổi học này, để học từ 11 giờ 30 sáng tới 2 giờ trưa.

    Bố tôi là một trong những Giáo Viên được tuyển dụng dậy ở trường này, nên gia đ́nh chúng tôi đă mướn một căn nhà ở vùng “Sở Bông” tức là nơi trồng bông cung cấp cho Sở Thú ở sát bên (V́ Sở Bông sát cạnh sông Thị Nghè, nên sau này, Tiểu Đoàn II “Trâu Điên” đă lập doanh trại ở đây, lấy tên là Trại Nguyễn Văn Nho).

    Tôi và Tự cùng được xếp vào học Lớp Nh́ (Bây giờ gọi là lớp 4, tiếng Úc gọi là Grade 4). Cô Giáo đầu tiên của chúng tôi là Cô Giáo Đoan. Đám học tṛ gồm cả trai lẫn gái với mọi lứa tuổi khác nhau: Lớn nhất là cô Én, 16 tuổi, và nhỏ nhất là tôi, 8 tuổi (cô Én học xong lớp Nh́ th́ bỏ học để lấy chồng). Lớp có hai dẫy bàn, đám con gái được ưu tiên ngồi ở phía trong, đám con trai ngồi dẫy phía ngoài, gần cửa lớp. Tôi nhỏ con nên được ngồi bàn trên, Tự lớn con, ngồi gần cuối lớp.

    Giờ bắt đầu học và tan học được báo hiệu bằng một hồi trống dài. Lớp Nh́ Và Lớp Nhất được giao nhiệm vụ đánh trồng báo hiệu.

    Tôi và Tự quen nhau là nhờ nhiệm vụ đánh trống này. Mỗi lần đánh trống, phải có hai học sinh: Một đứa đánh trống, đứa kia làm phụ tá, vừa đứng trông chừng đừng cho ai lại gần, lỡ bị trúng dùi trống, vừa để thay thế nếu đứa đánh trống chính bị đau tay không đánh trống được, hoặc bị ốm không đi học được. Ngày thứ hai của buổi học, lớp Nh́ được giao nhiệm vụ đánh trống. Cô Đoan chọn tôi và Tự.

    Nhiệm vụ đánh trống vào thời gian đó, được coi là rất quan trọng, học sinh nào . . . có thớ lắm mới được giao nhiệm vụ này, cả trường cùng nh́n vào cái trống và người đánh trống. Tự cầm dùi trống tiến tới, nh́n quanh, thấy ai cũng đang ngừng chơi nh́n vào ḿnh, th́ . . . hơi rét, thay v́ đánh ngay một hồi trống, th́ nó lại rụt rè, đưa dùi trống lại cho tôi mà nói:

    “Mày . . . đánh trống đi, tao . . . giữ cái trống cho nó khỏi quay!”

    Tôi c̣n nhát gan hơn nữa, vội vàng dấu hai tay ra đằng sau, từ chối kịch liệt:

    “Tao sức vóc thế này, đánh trống làm sao mà kêu to được! Mày . . . cứ đánh đi, tao . . . phụ cho”

    V́ không thể nh́ nhằng kéo dài, làm chậm trễ buổi học của cả trường được, nên hai đứa đồng ư cùng hợp lực với nhau mà đánh. Hồi trống của lớp Nh́ vang lên không giống ai, v́ được đánh bởi hai cánh tay, một dài một ngắn. Từ đó, chúng tôi quen nhau.

    Sau buổi học, hai đứa ở lại lân la làm quen với đám con nít Nam Kỳ để học những tṛ chơi lạ mắt của họ. Tṛ chơi hấp dẫn nhất vào thời đó là chơi “Tạt Lon” mà cả hai đứa không thể nào phát âm theo đúng giọng của đám con nít người Nam được: “Tạc loong”.

    Tṛ chơi này tối thiểu cần có ba đứa, và càng đông con nít càng vui. Con trai con gái đều chơi chung với nhau được hết: Khởi đầu, đứa chủ chốt sẽ vẽ một ṿng tṛn ở giữa khoảng đất được chọn làm sân chơi. Những đứa khác sẽ chạy ra hai đầu vẽ hai lằn mức cách xa ṿng tṛn khoảng từ 3m tới 4m. Cả bọn sẽ tụm lại lựa đứa đầu tiên “Bị” làm nhiệm vụ giữ lon, bằng cách chơi ra dấu bằng bàn tay: Dùi, Búa, Bao, Kéo. Luật chơi sẽ như sau: Đám con nít c̣n lại sẽ chia ra làm hai phe, đứng ở phía sau lằn mức đă vẽ, có nhiệm vụ phải chạy đổi chỗ cho nhau từ đầu này qua đầu kia. Đứa giữ lon sẽ đứng kế bên ṿng tṛn để giữ lon và bắt bất cứ đứa nào chạy ngang qua cái lon. Khi nó bỏ cái lon xuống đất, sẽ bắt đầu đếm từ 1 tới 3, hai đám con nít đứng ở hai đầu sẽ phải chạy đổi chỗ cho nhau. Để khỏi bị đứa giữ lon bắt và giao lại vai tṛ giữ lon, cả hai đám con nít sẽ phải dùng một “Cục Tràm” làm bằng một miếng ngói bể, nhắm ngay cái lon mà tạt cho nó văng ra khỏi ṿng tṛn. Đứa giữ lon sẽ phải đi lượm cái lon, đặt trở lại trong ṿng tṛn th́ mới có thể bắt những đứa chạy ngang được. Bắt rất khó, v́ cả chục đứa tạt tràm vào lon, không đứa này th́ cũng có đứa khác tạt trúng cái lon văng ra xa. Vừa mới lượm được cái lon đặt vào vị trí cũ th́ lại có đứa khác tạt cái lon văng ra nữa. Đứa nào nhanh th́ vẫn có thể bắt đứa khác chạy ngang được. Đứa nào chân tay vụng về, bị bắt lượm lon đổ mồ hôi hột.

    Hai đứa tôi đứng quan sát hết một buổi trưa mới thông thuộc cách thức chơi. Sáng hôm sau, hai thằng hẹn nhau đi học sớm, thực sự là để đi ṿng ṿng kiếm cho ra mấy miếng ngói bể, gơ gơ mài mài cho nó trở thành một cục tràm ngon lành, thử đi thử lại cho thật vừa tay rồi mới cất vào cặp đi tới trường. Tan học, hai đứa đi ṿng ṿng xem đám nào ít người chơi th́ nhào vô chơi ké:

    “Tụi bay . . . cho tao chơi chung với!”

    Cả bọn đang chơi chợi dừng tay lại, nh́n chúng tôi như hai con quái vật, nhưng chưa đứa nào có quyết định ǵ hết. Chợt có một đứa con gái trong bọn la lớn lên:

    “Đừng có chơi dzới mấy thằng Bắc Kỳ, bay!”

    Thế là cả bọn nhao nhao lên:

    “Đừng có chơi dzới Bắc Kỳ”!

    “Hổng cho tụi bay chơi đâu!”

    Đứa con gái mạnh miệng nhất, chọc quê tụi tôi:

    “Bắc Kỳ cong, bỏ dzô long, kiu chít chít,
    Bỏ dzô đích hớt kiu!”

    Một đứa khác, tử tế hơn, nói nhẹ nhàng:

    “Tụi bay biếc cái ǵ mà đ̣i chơi?”

    Tôi và Tự đỏ mặt quê một cục, đứng nh́n tụi nó chơi một lúc rồi bỏ cục tràm vào cặp, đi chỗ khác.

    Hôm sau, tôi và Tự t́m ra chân lư: Trong tṛ chơi tạt lon này, đứa nào có cái lon sẽ là chủ cuộc chơi. Dĩ nhiên rồi! Không có cái lon, lấy ǵ mà tạt? Đang vui chơi, đứa chủ lon buồn t́nh xách lon đi chỗ khác, là cả đám nghỉ chơi.

    Thế là hai đứa hùng hục dắt nhau đi lùng lon sữa ḅ ở những quán bán cà phê hủ tíu của mấy chú Hoa Kiều. Ŕnh cả buổi trời mới lượm được một cái lon sữa ḅ mới tinh, ông chủ Tầu bụng phệ mới vứt ra đường. Hai thằng vội vàng chớp lấy đem về nhà lau rửa sạch bóng, thủ vào cặp sẵn sàng cho cuộc chơi ngày mai. Hôm sau, tan buổi học, hai đứa ôm cặp đi ṿng ṿng t́m dịp may. Dịp may đây rồi: Một đám con nít đang hăng say chơi tạt lon, bất ngờ có đứa tạt mạnh quá, cái lon văng tuốt ra tới giữa đường bị xe vận tải cái dẹp lép. Cả bọn x́u như cái bong bóng bể, mặt đứa nào đứa nấy xẹp c̣n hơn cái lon bị cán. Tôi vội vàng mở cặp lấy cái lon sữa ḅ đưa cao lên:

    “Tụi tao có cái lon mới, cho tụi bay mượn đó!”

    Tôi không dám đặt điều kiện phải cho tụi tôi chơi mới cho mượn lon, v́ sợ tụi nó từ chối nữa th́ quê mặt.

    Tụi nhóc Nam Kỳ đưa một mắt nh́n nhau dọ ư, c̣n con mắt kia th́ nh́n vào cái lon sữa ḅ mới tinh đang sáng chói dưới ánh mặt trời một cách thèm muốn.

    Cuối cùng, một đứa trong bọn hỏi tụi tôi:

    “Mà tụi bay . . . biếc chơi hông?”

    Tự và tôi hăm hở gật đầu. Một đứa có vẻ đầu sỏ, nh́n những đứa khác như hỏi ư, rồi ngập ngừng nói:

    “Dzậy th́ . . . tụi bay bỏ cái long xuống . . . chơi chung!”

    Thế là Nam Bắc đă chung một nhịp cầu rồi đấy!

    Tự lại chơi đẹp, chịu . . . “Bị” để cho đứa đang làm nghề giữ lon được chạy ra tạt lon. Kể từ đó, bọn con nít Nam Kỳ mới cho chúng tôi nhập bọn chơi chung và không gọi chúng tôi là “Bắc Kỳ Dzốn” nữa. Tụi nó dậy tụi tôi bí quyết mài cục tràm sao cho đi nhanh và trúng đích. C̣n tụi tôi th́ lo đi kiếm lon sữa ḅ. Có lần ham t́m lon quá mà tôi dành lon với một đứa khác. Tên này thấy tôi mặt lạ và đi có một ḿnh, th́ lên mặt ăn hiếp:

    “Cái lon đó của tao, đưa trả cho tao, lẹ lên! Không trả, tao . . . úynh thấy . . . mẹ mầy đó!”

    Tôi nắm chặt cái lon, cung tay thủ thế:

    “Tao lượm được trước, mày tới sau mà đ̣i sao được!”

    Tụi nó ỷ đông, tính nhào tới làm thịt tôi. Tự đang kiếm lon trong tiệm ăn, nghe léo xéo bên ngoài, vội vàng chạy ra, thấy tụi nó đang vây tôi, hắn liền sô bắn một thằng ra đằng sau, rồi mặt hầm hầm, xuống tấn, nạt lớn:

    “Cái lon đó tụi tao lượm được trước. Đứa nào muốn dành, tao . . . chơi liền!”

    Đám con nít thấy tụi tôi bây giờ có tới hai đứa, đứa nào cũng gan ĺ, Tự lại bự con nữa, nên không dám làm tới, t́m cách rút dù, nhưng cũng cố chọc quê:

    “Cái đầu thằng này niểng niểng, coi ngộ quá ta!”

    Tự đỏ mặt, v́ cái cổ nó bị tật, làm cái đầu bị nghiêng qua một bên thật. Nó quát lớn:

    “Kệ tao!”

    Tụi con nít Nam Kỳ vừa rút lui, vừa chọc quê:

    “Niểng . . . Niểng”

    Từ đó, tụi con nít nể mặt tụi tôi. Và cũng từ đó, Tự có cái biệt danh: “Thằng Niểng”

    Qua năm lớp Nhất, chúng tôi học với thầy Phạm Văn Cảng. Bố Mẹ tôi cũng đă thuê được một căn nhà khác rộng răi hơn, ở đường Nguyễn Văn Nhàn, c̣n gia đ́nh của Tự vẫn ở Sở Bông. Chúng tôi không mê tạt lon nữa, mà đổi qua mê Xi Nê (Movie). Có một lần, rạp Văn Cầm chiếu phim “Hiệp Sĩ Zoro Bịt Mặt”. Tôi ngày nào đi học cũng lội bộ qua rạp hát, nh́n thấy cái bảng quảng cáo to tướng, đề hai chữ Zoro là đă mê rồi, vào lớp kể cho Tự nghe. Tan học, hai đứa dắt nhau ra rạp hát, ngắm chàng hiệp sĩ Zoro mặc quần áo đen, đội mũ đen, khăn bịt mặt cũng mầu đen, một tay cầm cương ngựa, một tay múa kiếm thật là oai hùng. Nh́n h́nh đă mê rồi, nói chi tới xem phim! Hai đứa nh́n nhau: Làm sao có tiền mà xem phim? Hai đứa chưa từng bao giờ xem xi nê, và cũng chẳng bao giờ có tiền mà đi xem cả! Không riêng ǵ hai đứa chúng tôi không, cả đám con nít ở vùng Thị Nghè cũng bu đầy rạp hát, ngước cổ lên mà ngắm chàng Zoro.

    Buổi chiều Chủ Nhật, rạp mở xuất đầu tiên: Người lớn, con nít đứng chật rạp, lớp chen nhau mua vé, lớp đẩy nhau tŕnh vé vào cửa. Bán vé th́ chỉ có môt người, xoát vé tới hai người mà cũng không làm sao kịp với lớp người đông nghẹt rạp. Tự xúi tôi:

    “Mày nhỏ con, cúi thấp xuống, luồn qua người xoát vé mà chui vào. Xem được, về nhà . . . kể cho tao nghe.”

    Rồi Tự làm bộ xô đẩy những người chung quanh, t́m dịp che cho tôi chui vào rạp. Bất ngờ, tôi gặp gia đ́nh một thằng bạn cùng lớp. Cha mẹ nó cầm một đống vé đang chen chúc cùng với lũ con vào cửa. Tôi mừng quá, kề tai nó nói nhỏ:

    “Cường, cho tụi tao . . . vào chung nhe!”

    Cường mỉm cười thông cảm, nắm tay tôi giới thiệu với bố mẹ nó:

    “Bố ơi, thằng này là thằng An, con ông giáo, học cùng lớp với con đó”

    Thế là tụi tôi dính chùm lại với nhau, chen chúc vào cửa. Ông bố của Cường đưa một nắm vé ra, người xoát vé chưa kịp đếm vé và đầu người th́ tụi tôi đă chui tuốt vào trong rạp mất tiêu rồi!

    Tôi và Tự ngồi xem đă đời rồi mới đi về. Tới đầu ngơ, tôi dặn Tự:

    “Mày đi về cùng với tao, gập bố tao trước. Bố tao sẽ hỏi tao đi đâu mà lâu thế? Mày sẽ phải nói là tao đến nhà mày chơi, nhớ nghe chưa?”

    Tự khoái chí:

    “Mày cũng phải nói với bố tao là tao đến nhà mày chơi, nhớ chửa?”

    Từ đó, chúng tôi cứ theo cái mánh đó mà đi xem phim cọp. Được vài lần, ông xoát vé biết mánh của tụi tôi: Ông không tin rằng, mỗi tuần tụi tôi lại có một người cha khác nhau để đi theo vào xem hát. Có lần, ông đă nắm cứng tôi lại mà hỏi người đi kế bên tôi, có phải tôi là con của ông ta hay không? Thế là tụi tôi bể mánh, đành đứng ngoài nh́n h́nh thôi.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ



    Trường Trung-Học Hồ-Ngọc-Cẩn tọa lạc tại đầu đường Lê-Quang-Định, Gia-Định, là trường Nam Trung-Học Công Lập lớn nhất tỉnh .Trường Hồ Ngọc Cẩn được sáng lập từ tỉnh Bùi Chu, Bắc Phần. Cụ Hồ Ngọc Cẩn là vị Giám Mục thứ nh́ của Thiên Chúa Giáo Việt Nam. Cụ cũng là Giám mục tiên khởi của giáo phận Bùi Chu. Do biến cố lịch sử, trường di cư vào miền Nam sau hiệp định Geneve năm 1954.

    Trong thời gian đầu, trường tá túc tại Tiểu Chủng Viện Công Giáo tại đường Bùi Thị Xuân, cạnh nhà thờ Huyện Sĩ. Lúc bấy giờ trường chỉ gồm hai dẫy nhà lầu bằng gỗ, lợp ngói xi măng đơn giản. một phần ba thành phần học sinh là chủng sinh, chuẩn bị để trở thành linh mục.

    Đầu thập niên 60 trường đổi đến địa điểm hiện tại là một phần của trường Nam Tỉnh Lỵ Gia-Định. Sau năm 1975 trường trở thành trường tiểu học với tên mới là Nguyễn Đ́nh Chiểu.(Tài liệu của Hội Ái Hữu Cựu Học sinh Trương Hồ Ngọc Cẩn)

    Hết lớp Nhất, chúng tôi thi vào lớp Đệ Thất trường công. Hồi đó, trường công ít lắm, vỏn vẹn có vài trường: Từ ngoài Bắc di chuyển vào, cho con trai th́ có trường Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục, Chu Văn An. Con gái th́ có độc nhất một trường Trưng Vương mà thôi. Trường của phe người Nam đă có từ lâu là Vơ Trường Toản, Petrus Kư và Gia Long. Tự và đa số đám học sinh Bắc Kỳ ở quanh vùng Thị Nghè, Hàng Xanh, Bà Chiểu, Tân Định, thi và trường Hồ Ngọc Cẩn. Gia đ́nh tôi, từ bố tôi tới anh tôi đều học ở trường Bưởi (sau này đổi tên là Chu Văn An), nên mặc dù tôi ở Thị Nghè mà cũng lóc cóc nộp đơn thi ở cái trường Chu Văn An tuốt tận Chợ Lớn.



    Mặc dù học khác trường, chúng tôi vẫn gập nhau đều đều, ngày nghỉ vẫn đôi khi đi xem xi nê, ăn cà rem chung với nhau.

    Cuối năm Đệ Tứ (Lớp 9), cả hai chúng tôi đều thi đậu bằng “Trung Học Đệ Nhất Cấp”. Tự gặp tôi, tâm sự:

    “Bố tao nghỉ làm rồi, cả nhà chỉ c̣n Mẹ tao buôn bán, không được bao nhiêu nhưng cả gia đ́nh trông vào đó. Tao phải nghĩ cách học cho mau để đi làm phụ mẹ.”

    Co_Phuong_De_Tu_1961



    Thế là nó vừa học Đệ Tam (Lớp 10) ở Hồ Ngọc Cẩn, rồi học thêm Đệ Nhị (Lớp 11) ở trường tư. Cuối năm, nó cứ đi thi Tú Tài Một thử thời vận:

    Ai dè nó thi đậu!

    Tự đến gặp tôi, rủ đi xi nê ở rạp Cao Đồng Hưng (Bà Chiểu). Nhưng khi gặp bố tôi, là thầy học cũ của Tự (thầy Cảng dậy chúng tôi được nửa năm th́ mất. Bố tôi dậy thế), nó ngập ngừng một lúc rồi chào tạm biệt bố tôi để đi lính. Thời đó, chiến truờng chưa khốc liệt cho lắm, việc đi lính cũng c̣n xa vời, nên bố tôi hơi ngạc nhiên v́ quyết định của Tự, nhưng cũng chúc nó an toàn và thành công trong cuộc đời binh nghiệp. Đi xe bus đến rạp hát, thay v́ vào xem xi nê, chúng tôi ngồi ngoài quán uống nước mía. Tự lại tâm sự:

    “Tao đă nói với mày rồi, nhà tao c̣n có một ḿnh mẹ tao buôn bán nuôi cả gia đ́nh, cực quá. Tao ráng đậu cái Tú Tài để xin đi làm. Tao đi làm được hơn một tháng rồi. Tao đă có thể góp chút ít phụ với mẹ tao, nhưng thực sự thấy không hợp với cuộc sống đó. Tao không thích hợp với nghề Thư Kư quèn, nên đă làm đơn xin đi học khóa 14 Thủ Đức rồi, vài ngày nữa sẽ nhập trường. Đi lính sướng hơn, vừa ngang dọc đời trai, đánh VC bảo vệ miền Nam, vừa có tiền giúp cha mẹ. Ḿnh đă bỏ miền Bắc mà đi rồi, không bảo vệ miền Nam, lấy đất đâu mà sống!”

    Nói xong, nó móc túi rút ra một bao thuốc lá Bastos xanh, lấy một điếu hút rồi đưa bao ra mời tôi hút. Tôi ngạc nhiên, không biết nó học hút thuốc lá từ lúc nào? Riêng tôi th́ chưa (Tự lớn hơn tôi 3 tuổi, nó 18, c̣n tôi mới có 15 tuổi thôi), nên tôi lắc đầu từ chối.

    “Ngày tôi gặp nó, nét đăm chiêu đêm nhập ngũ
    Thấy thương nhau nhiều quá!”

    Ra trường, Tự đến thăm tôi vào một chiều nhạt nắng. Nó mặc bộ quân phục mới tinh, mặt mày đen xạm, rắn chắc nhưng vui tươi thoải mái. Hai thằng lại dắt nhau đi lang thang suốt buổi tối. Chúng tôi không uống nước mía nữa, mà uống cà phê đen và hút thuốc Quân Tiếp Vụ. Khi về, Tự bắt tay tôi, nắm chặt một lúc, rồi nói:

    “Đời lính nay đây mai đó, chẳng biết trước được! Khi nào nghỉ phép, tao sẽ t́m cách về thăm mày, nhưng chắc cũng c̣n lâu lắm. Thôi, tao về. Cho tao gửi lời thăm thầy.”

    “Hôm chia tay, hai đứa cùng bùi ngùi,
    Ngày mai Nó, Tôi trên ngưỡng cửa cuộc đời,
    Dặn nhau gắng vui, dù cho vành môi xe khô mấy cũng mỉm cười”.

    Thật vậy, kể từ đó, tôi chưa gặp lại Tự lần nào.

    Cuộc chiến cũng lần lần leo thang, đời lính dễ ǵ có ngày nghỉ, mà nếu có, Tự cũng c̣n thiếu ǵ chuyện để làm. Phần tôi, tôi cũng phải lo tiếp tục học hành, hết Tú Tài 1 lại đến Tú Tài II. Hết Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh, lại đến Tướng Dương Văn Minh, rồi Tổng Thống Diệm bị giết . . . Cuộc đời học sinh của tôi cũng theo đó mà lung tung cả lên. Tôi quên mất cả Tự! Có nhớ th́ cũng không biết nó ở đâu mà t́m?

    Vào khoảng năm 1968 – 1969, VC tổng tấn công. Cả nước lâm chiến. Tôi đang học cũng phải xếp bút nghiên đi quân sự học đưởng một tháng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Học xong, được giao cho khẩu súng Carabin, làm nhiệm vụ “Sinh Viên bảo vệ thành phố”.

    Trong một chuyến đi thăm chiến sĩ tiền tuyến, đám sinh viên chúng tôi đi thăm một tiểu đoàn lính vừa đi hành quân về. Đó là Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân.

    Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng có một biệt danh rất dễ sợ là . . . “Thiếu Tá Tử Thần” và bộ chỉ huy Tiểu Đoàn đón tiếp phái đoàn chúng tôi ở cổng trại và dắt chúng tôi đi thăm anh em binh sĩ đang gác ở cám trạm gác, ở tiền đồn. Khi trở về doanh trại, chúng tôi đang nghe thuyết tŕnh th́ bất ngờ có một giọng nói thật là quen thuộc vang lên. Tôi ngạc nhiên, quay ngay đầu lại: Trước mặt tôi, một sĩ quan BĐQ rất trẻ, mang lon Đại Úy, cái đầu hơi nghẹo qua một bên. Tôi mừng quá, hét lên:

    “Tự! Phải mày đó không, Tự?”

    Tự cũng mừng rỡ, đưa hai tay ra:

    “An! Mày là An đó hả?”

    Thế là hai đứa nắm tay nhau nói chuyện rối rít. Tôi nh́n Tự:

    “Mày . . . đi Biệt Động cơ à! Dám . . . dỡn mặt với Tử Thần đó hả?
    Oai quá nhỉ!
    Đă . . . Đại Úy rồi! Lên lon mau thật! Vợ con ǵ chưa?”

    Tự chỉ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, vừa cười vừa nói:

    “Tử thần đứng ngay trước mặt tao nè . . . Tao dỡn mặt với ổng hàng ngày!
    Thầy ra sao rồi? C̣n đi dậy học không?
    (Thầy tức là bố của tôi, thầy giáo của Tự)
    Mày học tới đâu rồi? Sao học hoài vậy? Đi lính đi, vào Biệt Động với tao!”

    Đang ba điều bẩy chuyện th́ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nắm vai Tự kéo ra một góc, nói vài câu ǵ đó, Tự đanh mặt lại, quay trở lại nói với tôi:

    “Có chuyện rồi, tao lại phải dẫn quân đi liền. Hẹn gặp mày kỳ tới,

    Cho tao gởi lời hỏi thăm thầy, nhe!”

    Ngày qua ngày, tôi bận rộn với việc dậy học kiếm tiền, với thi cử, bầu cử, ứng cử . . . ở trường Luật. C̣n Tự th́ chắc chắn là lại rày đây mai đó với những cuộc hành quân liên miên của người lính Biệt Động. Mỗi đứa mỗi phương trời.



    Tôi học xong Đại Học năm 1971, c̣n sót lại một ít tḥi gian hoăn dịch, cả đám sinh viên lo chạy tứ tán kiếm đường binh: Đứa th́ đi ứng cử vào Hội Đồng Xă, đứa th́ xin vào chương tŕnh “Người Cầy Có Ruộng”, Xây Dựng Nông Thôn . . . để mong được hoăn dịch. Đứa khác th́ nộp đơn thi vào Hải Quân, Không Quân. Tôi tŕnh diện nhập ngũ và được xếp vào khóa 1/72 Thủ Đức.

    Suốt khóa học, tôi học tàn tàn, với hy vọng là, sẽ được biệt phái về làm ở Nha Quân Pháp hoặc Ṭa Án Quân Sự. Nhưng hy vọng của tôi càng ngày càng tiêu tan dần với t́nh h́nh chiến trận càng ngày càng sôi động hơn lên. Kết quả là đến cuối khóa, không có ban nghành nào tuyển thêm người nữa, tất cả các Tân Sĩ Quan đều được dành cho tiền tuyến. Những Sinh Viên Sĩ Quan lựa chọn đơn vị của ḿnh theo thứ tự đậu cao thấp. Ai thích về gần nhà th́ chọn Địa Phương Quân, Sư Đoàn . . . Ai muốn sống hùng sống mạnh th́ chọn các binh chủng nổi tiếng như Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách, Biệt Động Quân . . . Phần tôi, từ hồi nh́n thấy các anh hùng Mũ Nâu đánh đuổi bọn Việt cộng ở Hàng Xanh, tôi đă khoái binh chủng Biệt Động Quân rồi, nay được dịp, tôi hăng hái cầm bút viết ngay tên ḿnh vào bảng danh sách các Tân Sĩ Quan Biệt Động Quân, chợt nhớ ra là đă có lần Tự rủ tôi vào Binh Chủng Cọp Đen này.

    Măn khóa 50 Rừng Núi Śnh Lầy, tôi được đưa đi thực tập với Tiểu Đoàn 42 Cọp Ba Đầu Rằn đang hành quân ở Takeo, Campuchia, rồi Tiểu Đoàn 44 Cọp Đen hành quân ở Kiến Phong (1). Sau khi trui luyện kỹ càng, tôi mới được khăn gói lên vùng Pleiku gió núi mưa mùa để bổ xung vào Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân Biên Pḥng (2).

    Vừa đúng lúc Trung đội Thám Sát đang thiếu Sĩ Quan chỉ huy (Sĩ Quan cũ vừa tử trận), tôi đă đuợc Đại Úy Giác, Tiểu đoàn trưởng, chỉ định làm Trung Đội Trưởng Thám Sát.

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Từ đó, tôi trở đă trở thành một người lính “Cọp Đen” chính hiệu:

    Đời Biệt Động của tôi, cũng như những anh em trong binh chủng, là những chuỗi ngày hành quân liên miên trong vùng II chiến thuật gió núi mưa mùa, với những trận đánh thật đinh tai nhức óc của đại bác 105, đại bác 130, Sky Raider và A37 . . . cùng với những trận đánh xáp lá cà im lặng tới rợn người, chỉ nghe tiếng lưỡi lê và dao rừng vung lên mà thôi (3). Chỉ ở vùng II này, mới có những tiểu đoàn BĐQ phải trở về Dục Mỹ bổ xung quân số và tái huấn luyện. Bên VC, có những Trung Đoàn, Sư Đoàn bị tan nát, xóa sổ.

    Tôi sống sót tại Quân Y Viện Ngọc Minh, với tờ giấy phân loại II và giải ngũ vào cuối năm 1974.

    Trở về cuộc sống dân sự, tôi lang thang khắp Sài g̣n Chợ Lớn xin việc. Các văn pḥng Luật Sư, các ngân hàng đều đủ người hết rồi.

    Tôi nhớ lại đời sống quân ngũ, nhớ cái mũ nâu với mầu áo hoa rừng, muốn trở lại với Biệt Động Quân. Ngồi suy tư bên khói thuốc và ly cà phê đen, tôi nhớ lại các đồng đội, nhớ lại Trần Đ́nh Tự, người bạn thủa xưa đă cùng ngồi chung với nhau trong quán nước này. Không biết bây giờ, nó c̣n:

    “Đang xông pha đèo cao núi thẳm?”

    Hay . . .

    “Đă về bên kia khung trời biền biệt trên cao?”



    Cuối cùng, tôi đă được Luật Sư Đào Văn Sáu nhận cho tập sự tại văn pḥng của ông ở Biên Ḥa (Luật Sư Sáu hiện đang định cự tại Tiểu Bang Victoria với tôi. Tôi đă gặp và chào ông). Sau đó, tôi đổi về Saig̣n, tập sự với Luật Sư Nguyễn Duy Nguyên, ở đường Gia Long. Ngày ngày, tôi xách cặp đi bộ từ văn pḥng qua Ṭa Thượng Thẩm Saig̣n mà biện hộ cho thân chủ.

    Tháng Tư năm 1975, toàn bộ Miền Nam tan hàng mà không hô “Cố Gắng” (4). Thành phố Saig̣n tràn ngập dép râu nón cối và nón tai bèo:

    “Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ,
    Chiếc nón tai bèo che phủ kín tương lai!”

    Bọn Việt cộng cai trị dân Nam bằng những trận dịch đau mắt và ghẻ lở phát không và chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản” với kết quả là biết bao nhiêu người dân phải đi vùng “Kinh Tế Mới” và hàng đoàn xe Zin và Molotova bít bùng chở chiến lợi phẩm từ Nam ra Bắc. Đám sinh viên nằm vùng trốn ra bưng ngày xưa, như Nguyễn Đăng Trừng, Trịnh Đ́nh Ban, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Nuôi . . . xuất đầu lộ diện với những chức vụ lạnh lùng: Giám đốc Sở Công An Thành Phố, Chủ Tịch Hội Trí Thức Yêu Nước . . .

    Đám Sĩ Quan Miền Nam tan hàng thê thảm. Người có phương tiện th́ nhanh chân bay qua đảo Guam. Đám không chấp nhận đầu hàng, nhất định đánh VC tới hơi thở cuối cùng để rồi chết thê thảm nơi trận tiền không ai chôn cất. Đám khác lẳng lặng buông súng nhập vào cuộc sống b́nh thường, giả dạng dân cầy, ngư phủ . . . để t́m đường vượt biên t́m Tự Do.

    Số c̣n lại chấp nhận ra tŕnh diện bọn VC để đi “Học Tập Cải Tạo”, nhưng thực sự là bị đi tù, từ ba ngày, thành ba năm, mười năm, mười bẩy năm. Có người bị xử tử, có người chết v́ bệnh hoạn, phơi thây nơi rừng thiêng nước độc, không thân nhân không bạn bè, không manh chiếu đắp.

    Năm 1981, tôi may mắn vượt biên thành công, t́m Tự Do nới xứ Úc. Cũng như mọi người, tôi nhẩy vào factory cầy túi bụi, kiếm tiền gửi về cho gia đ́nh, cho vợ con t́m đường vượt biên tiếp.

    Đến khi đoàn tụ vợ chồng, tôi mới trở lại trường học mà ráng sức học hành. Tôi không theo nghề cũ mà chuyển sang học Kế Toán.

    Khi cuộc sống đă tạm ổn, tôi mới mon men ra sinh hoạt với anh em cựu quân nhân trong tiểu bang Victoria. Tôi nhận thấy mọi quân binh chủng đều có hội đoàn riêng, chỉ có Biệt Động Quân là vắng bóng. Không phải v́ anh em Mũ Nâu bị cọp liếm hết (5), mà v́ anh em đă quá mệt mỏi rồi, không muốn hội hè ǵ nữa cả.

    Tôi ra sức quy tụ anh em cùng chí hướng và cuối cùng đă thành lập được “Hội Biệt Động Quân QLVNCH, tiểu bang Victoria”.

    Lễ ra mắt đă được cử hành long trọng vào ngày 19 02 2001 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cựu Quân Nhân, Footscray. Mục đích là tụ hội anh em mũ Nâu cũ, hàn huyên chuyện xưa và giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày tại Úc. Từ hội Biệt Động Quân này, chúng tôi đă bắt liên lạc được với những Biệt Động Quân khác trên thế giới và gia nhập “Tổng Hội Biệt Động Quân” lúc đó do anh Trần Tiễn San làm Tổng Hội Trưởng.

    Tôi nhớ lại người bạn thủa xa xưa, nhắn tin t́m Trần Đ́nh Tự trên tập san Mũ Nâu của Tổng Hội.

    Từ bên Mỹ, anh Trần Tiễn San báo cho tôi biết:

    “Đă có tin của Trần Đ́nh Tự, cấp bậc và chức vụ cuối cùng là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân.
    Nhưng Tự đă không c̣n nữa.
    Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă tử trận.
    Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă hy sinh v́ Tổ Quốc, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến”.

    “Hai năm sau mới có thư về,
    Người quen cho biết tin,



    Tôi bàng hoàng đọc đi đọc lại tin tử trận của Tự trong bài viết “Sự trả thù đê hèn và dă man” của tác giả Thiên Lôi, trong tập san Mũ Nâu số 2 và xin trích ra đây một đoạn cho tất cả cùng đọc:

    “Lúc đó là 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn:

    “Hăy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”

    “Trung Tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ, 19 năm rong ruổi vào ra vùng đạn bom, năm lần bị thương, lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng chừng như ai đang đóng ngập cái đinh muời phân vào đầu, có lẽ cắt ruột cũng chỉ đau đến thế. Ông lịm đi.



    Người sĩ quan hành quân phải gọi khẽ:

    “Trung Tá!”

    Ông gượng dậy để lấy lại bản lănh. Sau cú “Sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đă điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần lượt từng Tiểu Đoàn Trưởng:

    Tiểu Đoàn 30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan,

    Tiểu Đoàn 33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường,

    Tiểu Đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự.

    Cả ba đáp nhận. Trung Tá Toàn chậm răi, ông cố giữ cho tiếng nói của ḿnh,với âm hưởng đều đặn như mọi ngày:

    “Các anh ra lệnh cho con cái buông súng. Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi! Sẽ có đại diện của “Phe họ” đến để nhận bàn giao.
    Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn.
    Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ.
    Chúng ta đă bấy lâu cộng tác, sống chết với nhau.
    Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đă chấm dứt, tôi không c̣n trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn.
    Lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh b́nh tĩnh và chúc tất cả may mắn!”

    Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đ́nh Tự đă cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, anh quay qua Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó:

    “Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh ḿnh phải buông súng đầu



    hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh:
    Anh nói cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho! Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa (6).

    Tiếp đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội Thám Báo, nói vói họ đă có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh của Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, c̣n ai muốn ở lại chiến dầu với anh đến giờ chót th́ đứng riêng một bên.

    Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ.

    Trần Đ́nh Tự đưa tay chào Đại Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai ḿ để tiếp tục “Ăn thua đủ” với địch.

    Kết cục, cuộc chiến đấu cuối cùng cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt trói tất cả những người c̣n sống (9 người) giải về sân trường Tiểu Học gần đó.

    Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (Lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo).

    Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên:

    “Đến lúc này mà mày c̣n bướng hả? Lũ uống máu! Bọn tay sai! Những thằng ác ôn! Mày có làm theo lệnh của ông không th́ bảo? Nhân danh Cách Mạng, ông ra lệnh cho mày cởi áo quần Ngụy và nằm xuống! Chúng mày đă đầu hàng, nghe rơ chưa?”

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Tự trả lời:

    “Ai đầu hàng, nhưng tao th́ không! Mày nghe đây: Chúng mày mới là lũ ác ôn. Chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má. Bọn mày chính là những tên tội phạm của Dân Tộc Việt Nam. Hiểu không? Một lũ đê tiện!”

    Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đ́nh Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự ḷi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó c̣n ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự.

    Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn ḿnh giật từng cơn trong vũng máu.

    Đồng thời với hành động dă thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nh́n Tự rồi nói gọn:

    “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”

    Tám quân nhân c̣n lại bị dẫn ra phía sau trường đễ được bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đ́a gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi”.

    Sự đền nợ nước của Trần Đ́nh Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 38 BĐQ. Anh cũng đă hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979. Tôi gặp Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh bị VC bóp cổ chết trong ngục thất v́ sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt.

    Xường xuất thân khóa 22A Vơ Bị QGVN.

    Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự – cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng ḅ vào nhà dân, được dấu diếm, băng bó, rồi thuê xe Lam chở về Saig̣n.

    Đức đă ráng sống, ráng t́m cách vượt biên sang Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau buồn của Thiếu Tá Tự cho mọi người nghe.

    Tôi đọc đi đọc lại bài báo, nước mắt nhểu đầy trang giấy.

    Anh em sau bao năm không đuợc tin tức, lần đầu tiên đuợc tin nhau th́ lại là tin cuối!

    Ôi! Buồn làm sao!

    “Hai đứa đôi nơi, ngày đầu tiên biết tin nhau là tin cuối.
    Chát cay đầu môi chiều khu chiến mưa sụt sùi”

    Anh em sống với nhau từ nhỏ, tôi biết rơ Tự oai hùng. Tôi biết Tự dám chiến đấu tới cùng. Tôi đau thương, xót xa cho cái chết quá thảm khốc của Trần Đ́nh Tự – Một Thiếu Tá Biệt Động Quân – cầm quân đánh trận, bị bắt ngay tại mặt trận mà lại không được bảo vệ bởi Luật Quốc Tế về Tù Binh, mà lại bị xỉ vả, chửi bới thậm tệ và cuối cùng bị hành h́nh một cách dă man như vậy hay sao?

    Trần Đ́nh Tự, một Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân, lại bị giết chết một cách bi thương, bị giết chết một cách dă man như vậy sao?

    Cả Thế Giới ngoảnh mặt làm ngơ!

    Những phóng viên truyền h́nh của Mỹ, của Úc, đâu hết cả rồi? Ông phóng viên nào chụp h́nh Tướng Nguyễn Ngọc Loan đâu rồi? Ông Eddie Adams và đài truyền h́nh AP đâu? Sao không ra quay phim, phỏng vấn, làm rùm beng lên đi!

    Phóng viên chiến trường Neil Davids của Úc đâu? Sao không viết tin này lên cho cả thế giới đọc?

    Hồi Tết Mậu Thân, một tên phiến loạn không mặc sắc phục (dù là sắc phục của bọn GPMN) cầm súng bắn lại các chiến sĩ VNCH. Khi bị bắt, đương nhiên y bị coi là phiến loạn phá rối trị an. Bắt buộc là phải xử bắn tại chỗ theo đúng Hiến Pháp của VNCH. Tướng Loan xử bắn nó là đúng. Tại sao bọn nhà báo ngoại quốc lại làm rùm beng lên? Đễ đến nỗi tới chết, ông vẫn bị hàm oan!

    Những tên nhà báo này chỉ giỏi bắt nạn VNCH mà thôi, c̣n th́ sợ bọn VC bằng chết. Cả lũ im thin thít, để một người lính VNCH bị hành h́nh mà không dám có một tấm h́nh, một đoạn phim, một lời nói bênh vực?

    Công bằng ở đâu? Lẽ phải ở đâu?

    Sau khi Tướng Minh đầu hàng, đám kư giả ngoại quốc c̣n lại ở Miền Nam nhiều lắm chứ! Chắc chắn họ biết chuyện này. Có đều cả đám im lặng mà phụ họa với bọn VC mà thôi.

    Có lẽ tại tôi thương cho bạn quá mà nói càn hay chăng?

    Thôi th́, cuối cùng, Trần Đ́nh Tự cũng đă chết rồi.

    Một cái chết oan nghiệt, nhưng đó là cái chết oai hùng của một chiến binh không đầu hàng giặc.

    Cái chết danh dự của người lính ngay giữa trận tiền.

    Cái chết không có da ngựa bọc thây, nhưng gương sáng của Tự sẽ c̣n lưu lại cho đến ngàn sau:

    “Muôn lớp trai đi, ngh́n sau theo dấu chân ghi vào Thiên Lư,
    Biết bao người xong nợ xương máu không trở về.”

    Trần Đ́nh Tự, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, bạn thân của tôi từ thủa nhỏ, và biết bao nhiêu chiến sĩ vô danh khác, đă chiến đấu cho Tổ Quốc Việt Nam Cộng Ḥa tới hơi thở cuối cùng.



    Ai đó vừa quăng cái lon sữa ḅ vào thùng rác.

    Tôi nhớ tới Tự, tới tṛ chơi tạt lon ngày xưa, muốn chạy ra lượm cái lon để dành chơi.

    Nhưng Tự đă chết rồi, đâu c̣n ai để chơi tṛ chơi này nữa!

    Mới đây, rạp xi nê Rivoli cũng đă chiếu lại phim Zoro. Tôi cũng tới rạp đứng xem h́nh quảng cáo, cứ tưởng tượng đâu đây, Tự đang đẩy vai tôi chui vào rạp hát coi cọp.

    Nhưng Tự đă chết rồi, đâu có đẩy vai tôi được nữa!

    Tự ơi,

    Mày chết ở đâu? Tao cũng không biết. Tới khi biết tin mày chết, tao cũng không thắp được cho mày một nén nhang.

    Tao cũng ráng t́m thân nhân, bạn bè của mày, để, nếu được, nhờ họ thắp một nén nhang cho mày, nhưng măi đến bây giờ cũng chẳng t́m được ai.

    Tao có hai thằng bạn Biệt Động nữa, là thẳng Châu và thằng Đạm. Người quen cũng cho biết tin về hai đứa đó. Thằng Đạm c̣n sống, đang mở nhà hàng ở ngay Orange County, bên Mỹ, nhưng thằng Châu th́ cũng đă chết rồi. Có điều tao may mắn đă liên lạc với vợ con của nó, để nhờ thắp cho nó một nén nhang.

    Mới đây, có anh Sơn, cũng là người ở cùng xóm với mày hồi xưa, cũng đang ở bên Mỹ, có cho tao biết một ít tin tức về mày:

    “Năm 2008, Sơn có trở về lại xóm cũ vào dịp TẾT , th́ gia đ́nh anh Tự đă không c̣n ai ở đó hết. Hàng xóm có kể cho sơn nghe, là anh Tự đă bị Việt cộng giết tại chỗ v́ anh không chịu đầu hàng , gần cận chiến 30-04 đúng như anh đă viết trong Việt Luận và take2tango. Ba má anh Tự đă mất hết chỉ c̣n người em trai tên Lộc và cô em gái út tên Tâm đă dọn về Thủ Đức.

    Đó là phần về anh Tự, c̣n chị Mỹ vợ và con anh Tự th́ Sơn không biết đă đi về đâu?”



    Đài tưởng niệm chiến tranh duy nhất trên thế giới có Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay suốt ngày đêm củng với 6 lá cờ của những quốc gia đă trực tiếp gởi quân tham chiến giúp Việt Nam Cộng Ḥa, và chiếc trực thăng đă từng tham chiến ở Việt Nam, bao quanh tượng đồng hai chiến sĩ Úc, Việt trong thế tác chiến.

    Anh em cựu quân nhân Úc tham chiến ở Viêt Nam cũng với anh em lính chiến nhà ḿnh, thuộc Tiểu bang Victoria, nơi tao ở, cũng đă gom công góp sức xây được một Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Úc để tưởng nhớ những “Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân” trong đó có mày.

    Vào ngày khánh thành bức tượng, 30 tháng Tư năm 2005, tao và các bạn đă thắp cho mày và những chiến sĩ vô danh khác một nén nhang. Ấm ḷng rồi nhé!

    Các bạn lính chiến của tôi ơi,

    Các bạn bè ở hậu phương của tôi ơi,

    Hăy đến tượng đài Chiến Sĩ Úc Việt ở Dandenong, Victoria Australia, hoặc đến bất cứ Tượng Đài Chiến Sĩ ở bất cứ nơi nào trên thế giới, vào ngày 30 tháng Tư, thắp cho Trần Đ́nh Tự và những chiến sĩ vô danh khác của QLVNCH một nén nhang tưởng niệm, bạn nhé!

    “NGƯỜI ĐI VÀO TỐI VẪN LƯU DANH CHO ĐỜI MĂI,
    NÓ ANH HÙNG NGÀY MAI”.

    Người Việt của tôi, là thế đấy!

    NGUYỄN KHẮP NƠI.

    Người lính già xa Quê Hương.

    Ghi chú:

    (1) Thực tập tại chiến trường:

    Từ Khi Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai nhận chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, ông đă cho các Tân Sĩ Quan BĐQ đi thực tập bằng cách đi theo các Sĩ Quan thâm niên của những Tiểu Đoàn BĐQ đang hành quân. Mục đích là để họ học cách chỉ huy và làm quen với chiến trường. Tôi được đi thực tập hai tuần lễ, với TĐ 42 ở Takeo (Campuchia) và Tiểu Đoàn 44 ở Kiến Phong. Sau đó mới đi chọn đơn vị ở Pleiku.

    (2) Biệt Động Quân Biên Pḥng:

    Những tiểu đoàn BĐQ biên pḥng, trước đây có tên là “Biệt Kích Mỹ” do lực lượng đặc biệt Mỹ tuyển và huấn luyện tại chỗ, đóng ở các trại biên pḥng. Khi Mỹ rút quân, các trại biên pḥng này được chuyển qua QLVNCH và đổi tên thành Biệt Động Quân Biên Pḥng. Các Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan được đưa đi huấn luyện đặc biệt ở Thủ Đức hoặc Đồng Đế để có thêm kiến thức quân sự. Sau này, Liên Đoàn 6 BĐQ mới được thành lập để bao gồm những tiểu đoàn biên pḥng.

    (3) Phân biệt bạn, thù trong đêm tối:

    Lính VNCH mang dây ba chạc giữ dây lưng TAB, chỉ có hai sợi dây nhỏ ở đằng trước ngực và hai sợi phía sau lưng. Mọi thứ cần thiết đều được máng vào dây TAB đeo quanh bụng: Bao đạn, lựu đạn, biđông nước, áo poncho . . . Lính VC đeo bao đạn thật lớn ở ngay trước ngực, giống như áo giáp. Trung đội Thám Sát của tôi đi đột kích ban đêm, không có trăng sao và hỏa châu, lính ta không mang ba lô, chỉ đeo dây ba chạc mà thôi. Khi đụng địch, lính hai bên đánh xáp lá cà, chỉ có thể phân biệt giữa ta và địch bằng cách lần mó phía trước: Hễ rờ thấy người trước mặt bỏ trống ngực, đó là phe ta. C̣n nếu có có bao đạn trước ngực th́ biết ngay đó là VC, đâm lút cán liền.

    (4) Tan Hàng, Cố Gắng:

    Lính VNCH, sau khi tập họp nhận lệnh, cấp chỉ huy hô “Tan Hàng”, tất cả đồng thanh hô “Cố Gắng” rồi mới tan hàng ra về.

    (5) Cọp Liếm:

    Theo truyền thuyết, Cọp ŕnh mồi, nếu không thể bắt được con mồi, sẽ đi chung quanh liếm bóng của con mồi, làm cho con mồi bị say, bị thôi miên, tự động đi kiếm cọp để bị bắt ăn thịt. BĐQ từ hồi thành lập, mặc dù có Bộ Chỉ Huy riêng, nhưng các Liên Đoàn và Tiểu Đoàn lại do các Quân Khu điều động, để được tăng phái cho mọi nơi. Do đó, lính BĐQ đánh trận mệt xỉu. Huy chương nhiều, lên chức mau, và . . . lên bàn thờ càng mau hơn nữa. Tỷ số thương vong của BĐQ cao hơn các binh chủng khác rất nhiều, v́ thế, những chàng Trai nào đăng lính Biệt Động, được người đời khóc trước, bằng cách gọi họ là những người . . . Bị . . . Cọp Liếm!

    (6) Thà chết, không đầu hàng:

    Hồi đánh trận ở Quảng Trị, Tự mang cấp bậc Đại Úy, Đại Đội Trưởng. Khi đơn vị rút qua sông Mỹ Chánh, Tự và Đại Úy Tiểu Đoàn Phó t́nh nguyện ở lại chặn hậu. Khi VC ập tới, hai anh c̣n ba lô súng đạn đầy ḿnh, mặc dù đă nhẩy xuống sông, nhưng bơi chưa đủ xa, bị VC bắt làm tù binh. Tới năm 1973 trao trả tù binh hai bên, Tự được thả trở về. Anh đă quá kinh nghiệm sống với VC nên thà chết chứ không đầu hàng giặc.

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh

    Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh

    Người Chết Ở Giờ Thứ 25

    ::: Đông Phương :::

    Từ xưa tới nay, khi nói về một chiến công, khi ca tụng một anh hùng, người ta thường có thói quen nhắc nhở đến những vị tướng tá trong quân đội hoặc những người có tiếng tăm trong xă hội mà nhiều người biết đến, chứ ít ai nhắc nhở hay đi t́m hiểu những hành động anh hùng của những con người, mà tên tuổi của họ c̣n xa lạ với mọi người… mà thực ra, nếu chúng ta đem những hành động dũng cảm của họ ra so sánh, chưa hẳn ai đă hơn ai. Tôi cho đây là một sự thiếu sót lớn lao của những người cầm bút, của những nhà viết sử trong thời gian qua.

    Nếu viết về những hành động dũng cảm, gương hy sinh của những chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QL/VNCH) suốt 20 năm cầm súng chiến đấu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của bọn Cộng Sản phương Bắc, th́ không phải chỉ có những sự hy sinh của cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, Trung Tá Phạm Phú Quốc… mà theo tôi, sự hy sinh của những vị tướng, tá trên đây cũng không khác ǵ những hành động và sự hy sinh đầy quả cảm của trên nửa triệu chiến sĩ QL/VNCH khác đă nằm xuống trên khắp chiến trường từ miền Nam ra đến miền địa đầu giới tuyến trong suốt 20 năm chiến đấu chống giặc vừa qua.

    Cũng như tất cả mọi người, tôi khâm phục những hành động gan dạ, dũng cảm và ca tụng những chiến công hiển hách của những anh hùng đó, dù biết trước khi bước vào cuộc chiến sẽ gặp biết bao hiểm nguy, có thể hy sinh tính mạng. Thế nhưng, họ vẫn hăng hái vào cuộc, chấp nhận những rủi may và thua thiệt cho ḿnh không ngoài mục đích cao cả: Ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản, bảo vệ sự Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do cho toàn dân.

    Chiến tranh là những bất trắc, hiểm nguy luôn luôn ŕnh rập vây quanh. Người chiến sĩ đă chấp nhận vào cuộc là đă chấp nhận đoạn kết của những sự rủi may xảy đến cho bản thân ḿnh bất cứ lúc nào. Hành động lao lên phía trước trong lưới đạn của quân thù của người binh nh́ bộ binh cũng có giá trị tương đương như hành động phác họa kế hoạch hành quân và thị sát mặt trận để chỉ huy của một ông tướng. Hai nhiệm vụ tuy khác nhau, nhưng đều có chung một mục đích: t́m và diệt quân thù!. Quân đội rất cần những cấp chỉ huy giỏi và cũng không thể thiếu những anh chiến sĩ gan dạ, kiên cường.

    Nhân tưởng niệm 30 năm mất nước 1975-2005, tôi xin được kể về cái chết của một người lính chiến, một cái chết hào hùng ở vào giờ thứ 25…


    ***

    Là người quân nhân, trong cuộc đời lính chiến của ḿnh, ai không một lần được chứng kiến những chiến công hiển hách của đơn vị hoặc một sự hy sinh anh dũng của đồng đội ḿnh. Bởi vậy, suốt hơn 5 năm sống trong quân ngũ, tôi đă được chứng kiến khá nhiều gương hy sinh của cấp chỉ huy, bạn bè và những thuộc cấp của ḿnh. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu sắc nhất vẫn măi măi in đậm trong tâm hồn tôi cho đến bây giờ, chính là cái chết của Thượng Sĩ Ánh, người trung đội trưởng trẻ tuổi và tài năng của Đại Đội tôi…

    Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, 21 tuổi, Trung Đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 15, Sư Đoàn 9 Bộ Binh có lẽ là một Thượng Sĩ trẻ nhất của QL/VNCH.

    Gặp và biết được Ánh, khi tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 3/15, và được Tiểu Đoàn đưa xuống làm đại đội trưởng Đại Đội 4, thay thế cho vị ĐĐT tiền nhiệm vừa thuyên chuyển nhận công tác khác.

    Cũng như các đơn vị trưởng khác, trước khi tiếp xúc với anh em binh sĩ trong đại đội, tôi cho mời tất cả các cấp chỉ huy từ Tiểu Đội trưởng trở lên, để làm quen và t́m hiểu tâm t́nh của anh em binh sĩ trong đại đội. Ấn tượng in đậm trong tâm hồn tôi mạnh nhất là h́nh ảnh một anh lính rất sữa: nhỏ con, dáng dấp trắng trẻo như một thư sinh, rụt rè, bẽn lẽn khi phải tự giới thiệu về ḿnh: E…m, em Trung Sĩ Nhất Nguyễn Ngọc Ánh, số quân…

    Trong lúc cậu ta đang tự giới thiệu về ḿnh, Thiếu Úy Quang (ĐĐ phó) nói nhỏ vào tai tôi:

    - Nó th́ lúc nào cũng như con gái vậy, nhưng trung úy coi chừng lầm chết… mỗi lần đụng địch là tự nhiên nó ĺ lợm và dữ như cọp vậy.

    Từ ấn tượng ban đầu tốt đẹp đó, dần dần t́nh cảm tôi dành cho Ánh không c̣n đơn thuần là t́nh cảm của một cấp chỉ huy đối với một thuộc cấp, mà tôi coi nó như một người em ruột của ḿnh. Ngược lại, Ánh cũng rất qúi trọng và không hề giấu diếm tôi điều ǵ về cuộc đời và gia đ́nh Ánh:

    - Trung úy biết không?…

    Tôi ngắt ngang:

    - Lại Trung úy, em quên những điều anh dặn rồi à?

    - Dạ, em nhớ, nhưng tại em quen miệng… Thưa anh, ba em bị Việt Cộng giết chết (v́ ông là Phó Xă trưởng An Ninh) lúc em mới 16 tuổi, mỗi lần nghĩ đến cái chết của ổng là em không sao học được nữa. Anh biết không, bọn nó tàn ác lắm, nó đập đầu ổng chết rồi c̣n tàn nhẫn moi óc ra ngoài… Sau khi chôn cất ba em xong, em đă t́nh nguyện nhập ngũ 3 lần, nhưng không ai nhận em cả v́ họ cho rằng em c̣n quá nhỏ, và họ khuyên em lên về nhà tiếp tục đi học. Đằng đẳng 2 năm, nói là đi học chứ thật ra đầu óc em lúc nào cũng chỉ ẩn hiện những h́nh ảnh về cái chết thương tâm của người cha, và những căm thù món nợ máu phải trả cho ông già. 18 tuổi, em t́nh nguyện ngay vào sư đoàn 9, và được cho đi học khóa Hạ Sĩ Quan tại TTHL/Đồng Đế Nha Trang. Ra trường em may mắn được đổi về Tiểu đoàn này cho đến ngày nay…

    Ánh không kể về những chiến công của ḿnh, về sự gan dạ và cái lon Trung Sĩ Nhất đặc cách được gắn tại mặt trận của ḿnh, chỉ sau một năm có mặt tại đơn vị. Càng gần gũi Ánh, càng chứng kiến sự gan dạ, khôn ngoan và tài lănh đạo chỉ huy của Ánh, tôi càng khâm phục và thương nó nhiều hơn. Có nhiều lúc, chứng kiến những hành động quá hăng say của Ánh trong chiến đấu, tôi đă phải kêu máy dzũa cậu ta một cách thậm tệ. Cũng v́ cậu ta v́ quá hăng say chiến đấu, đôi lúc đă quên ḿnh là cấp chỉ huy, lao lên tuyến đầu làm nhiệm vụ của một người lính khinh binh. Bất luận lúc nào, khi nghe tiếng súng nổ là cậu ta như con hổ dữ lao lên phía trước với hai trái lựu đạn trong tay, nhào vào những dăy hố pḥng thủ của địch, mặc cho lưới đạn đan kín tứ bề. Chỉ tội cho cậu hiệu thính viên, vừa phải khó nhọc bám theo Ánh truyền và nhận lệnh, vừa phải nghe những lời la hét giận dữ của tôi… và lần nào cũng như lần ấy, điệp khúc: Xin Alfa thông cảm, em thấy mục tiêu ngon quá, phải tấn công nhanh mới kịp…

    Có một điều khá lạ lùng là, như có một phép mầu nào đó che chở: chẳng có một viên đạn nào thèm đụng đến cậu ta. Và một lần nữa, TSI Nguyễn Ngọc Ánh nhận cấp Thượng Sĩ đặc cách tại mặt trận sau một trận đánh giải tỏa tỉnh lộ từ quận Cai Lậy (Định Tường) vào tỉnh Kiến Tường, với thành tích: Tiêu diệt trọn vẹn một trung đội súng nặng của Việt Cộng. Tịch thu hàng chục cây súng, trong đó có 1 súng cối 82 ly, 1 Đại liên 12 ly 8, 2 B.40… trong lúc cậu ta vừa tṛn 21 tuổi.

    Khi tiếng súng đă im bặt, Ánh lại trở về thế giới rụt rè, e lệ cố hữu. Nếu ai chưa từng chứng kiến những hành động gan dạ và dũng cảm của Ánh ngoài mặt trận, khó có ai lại tin được rằng cậu bé với dáng dấp thư sinh đó, lại là một cấp chỉ huy khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, đă gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại đáng kể cho bọn Cộng Sản xâm lăng…

    Nếu tất cả chỉ muốn viết những hành động gan lỳ, những chiến công và tài lănh đạo của một HSQ trẻ của quân đội, và nếu cuộc chiến vẫn c̣n tiếp diễn, ngày quốc hận 30/4/75 không xảy đến cho dân tộc Việt Nam th́ tôi không viết bài này. Bởi, tôi không thích ca tụng người c̣n sống, kinh nghiệm đă cho ta thấy: có biết bao nhiêu những vị tướng, tá… khi c̣n quyền thế trong tay th́ tha hồ khua môi, múa mỏ. Đến lúc quốc biến th́ co ṿi, rút cổ, cao bay xa chạy bỏ mặc bạn bè, thuộc hạ sống chết mặc bay… Trong tù th́ xum xoe, bợ đỡ nịnh hót kẻ thù, qua được nước thứ ba th́ lại bắt đầu giở thói kẻ trên người trước…

    Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, tuổi đời c̣n quá trẻ và cấp bậc th́ quá nhỏ nhoi trong quân đội. Thế nhưng, anh có đủ tư cách, phẩm chất của một người lính chân chính. Hành động của anh thật xứng đáng là hành động của một anh hùng: Anh đă dùng súng tự kết liễu đời ḿnh, sau khi nhận được lệnh tùy nghi của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, do tôi ban lại. Anh đă hành xử đúng phẩm cách của một cấp chỉ huy: thà tự xử ḿnh, chứ không để kẻ thù xử ḿnh.

    Tiếng súng đă nổ lúc 10 giờ 25 phút, ngày 1/5/1975 tại phi trường Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường của cố Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh đă để lại ấn tượng không phai trong tâm hồn tôi, và là bài học nhắc tôi luôn nhớ: là chiến sĩ QL/VNCH, tôi phải luôn luôn sống xứng đáng với tâm niệm Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.

    Đông Phương

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG

    Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG

    Cái Bóng Của

    HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN

    hay

    Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn

    VŨ TIẾN QUANG

    (Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)

    Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tṛn một năm. V́ có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư kư ṭa hành chánh. Nhờ đồng lương thư kư, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

    Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung b́nh trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ư đi t́m người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suưt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Ḿnh phải như anh Minh”.

    Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho ḿnh nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, v́ Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh th́…nguy lắm. Bà không đồng ư. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân th́ cha phải thuộc chủ lực quân, c̣n cha Quang là địa phương quân th́ không được. Minh từ chối:

    - Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử th́ ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, th́ tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đ́nh, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.

    Chiều hôm ấy Quang t́m đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đă không giúp bà Đức th́ chớ, Minh c̣n đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến pḥng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong pḥng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ư, th́ ḿnh sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng tŕnh bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.

    Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu tŕnh diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

    Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. C̣n học văn hóa th́ Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đă có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.

    Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :

    “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
    Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh”
    (Người ta sinh ra, ai mà không chết.
    Cần phải lưu chút ḷng son vào thanh sử).

    Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.

    Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần B́nh Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hăi, lại c̣n tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.

    Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang t́m đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để tŕnh diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:

    Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đă đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoăn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.

    Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Pḥng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống th́ hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

    Trung đội tiến vào trong làng th́ lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút th́ Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai th́ Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng vơ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng vơ trang. V́ được học địa h́nh, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng vơ trang nă vào pḥng tuyến địch, coi như Hummer c̣n sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ c̣n khoảng cách 20-30 thước.

    Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, th́ chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân ḿnh 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt t́nh thân hữu, đă đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào pḥng tuyến địch, dù cách ḿnh 20 thước. Quang đă được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng vơ trang nă vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân ḿnh, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

    Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hơm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không th́ Quang đă ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không th́ Quang thành thái giám.

    Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:

    - Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?

    V́ được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng ḿnh là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới ḷi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đă uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

    Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra ṭa v́ “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính t́nh phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lư tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !

    Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đă thành sự thực.

    Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến tŕnh diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.

    Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:

    - Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, th́ mày thuộc loại ḿnh đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?

    - Dạ, đạn Việt-cộng th́ không đau. Nhưng vuốt anh cấu th́ đau.

    - Móng tay tao, đâu phải vuốt?

    - Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Th́ vuốt của anh phải sắc lắm.

    - Hồi đó suưt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?

    - Nếu khi ra trận anh sợ th́ em mới sợ. Cái ḷ Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?

    - Thằng này được. Thế mày đă tŕnh diện anh Thời chưa?

    - Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.

    Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, th́ quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân th́ lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.

    Bấy giờ tin Trần Minh đă đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lư tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

    Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đă quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa tŕnh diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui ḷng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!

    Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đă được Đại Ttá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:

    “Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, th́ chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, th́ chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, th́ sẽ dẫm phải ḿn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. V́ vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, th́ dùng vũ khí cộng đồng nă vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, th́ tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. C̣n như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.

    Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đă tấn công vào trong làng. Vừa tới b́a làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, th́ phi pháo không can thiệp được nữa, v́ quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:

    ” Lát nữa khi chúng xung phong th́ dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hăy bắn trả “.

    Sau gần 20 phút, th́nh ĺnh địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ pḥng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, v́ bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh ḅ lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :

    - Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.

    Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.

    Đến đây trận chiến chấm dứt.

    Th́ ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG

    Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng ṿng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đ́nh đính ước với nhau. Họ cùng đồng ư : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, th́ cho cưới nhau.

    Nhưng mối t́nh đó đă đi vào lịch sử…

    T́nh h́nh toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lănh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ c̣n mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đ́nh. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện tŕnh diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :

    - Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-ḥa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đ́nh. Một vài đơn vị lẻ lẻ c̣n cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-g̣n ngừng lúc 9 giờ 7 phút.

    Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đă nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ c̣n tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:

    “Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hăy tiếp tục chiến đấu”.

    Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, v́ quân ít, v́ hết đạn v́ mất tinh thần. Chỉ c̣n lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, th́ đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ c̣n một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.

    Bấy giờ đúng 15 giờ.

    Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:

    - Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?

    Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.

    Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:

    - Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. V́ anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, th́ tôi không thể căi lệnh.

    Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:

    - Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.

    Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:

    - Đại tá có lư tưởng của đại tá, tôi có lư tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; c̣n tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lư tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?

    Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:

    - Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ th́ mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?

    - Xưa nay súng đạn trong tay ai th́ người đó có lư. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, c̣n đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.

    - Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?

    - Tôi có chính nghĩa th́ tôi không thể là ngụy. C̣n Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần B́nh Trọng, như Nguyễn Biểu.

    Quang cười ngạo nghễ:

    - Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao th́ mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Th́ mày trả lời sao?

    Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngă bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên c̣n nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ư nghĩa nụ cười đó là nụ cười ǵ? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cựi đó mang ư nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa măn?

    Ghi chú :

    Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học tṛ của tôi, cư trú tại Marseille.

    Cái lúc mà Quang ngă xuống, th́ trong đám đông dân chúng ṭ ṃ đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đă thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.

    Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, th́ thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.

    Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-g̣n, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, t́m lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dăi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đă t́m ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền th́ mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lăng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái ḥm. Bodoret hoan hô ư kiến của sư phụ.

    Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:

    “Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
    An giấc ngàn thu cùng
    Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
    Nở nụ cười thỏa măn v́ thực hiện được giấc mộng”

    Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa măn nở nụ cười v́ mối t́nh trọn vẹn.


    Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
    Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan

    Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan

    Tưởng niệm Anh Hùng
    NGUYỄN THANH QUAN


    Cuối hè năm 1974 , khi chiến truờng trở nên sôi động trở lại , các mặt trận diễn biến theo một chiều hướng mới , nhưng không ai biết được đây là một chiều hướng bất lợi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa . Trong thời điểm này , một số hoa tiêu quan sát vừa măn khóa được bổ sung về Phi Đoàn 110 , Sư Đoàn 1 Không Quân – Đà nẵng . Đây là những hoa tiêu trẻ , hăng say , đầy nhiệt huyết , thầm ước mơ thực hiện hoài bảo của ḿnh bằng những chiến công hiển hách trong công cuộc bảo vệ miền Nam thân yêu trước họa xâm lăng của Cộng Sản . Thiếu úy Nguyễn Thanh Quan là một trong số các hoa tiêu trẻ đó . Thiếu úy Nguyễn Thanh Quan sinh năm 1953 , gia nhập Không Quân khóa 72 , tốt nghiệp khóa Hoa Tiêu Quan Sát tại TrungTâm Huấn Luyện Không Quân – Nha trang . Sau khi miền Trung lọt vào tay Cộng sản ,Thiếu úy Nguyễn Thanh Quan theo đơn vị di tản vào Sài G̣n và tiếp tục chiến đấu .

    Ngày 30-4-75 , Tổng Thống Dương văn Minh Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa ra lệnh buông súng . Quá uất ức trước sự kiện bi thảm này , cảm thấy ḿnh không hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ đất nước của người trai trong thời chiến và nhất là không muốn lọt vào tay Cộng sản với những bộ mặt sát máu và man rợ khi tiến vào Thủ đô Sài G̣n Thiếu úy Nguyễn Thanh Quan , với khẫu súng P 38 của ḿnh Anh đă tự sát tại nhà với một phát đạn ngay tim vào lúc 3giờ 15 cùng ngày .



    Một đám tang được cử hành lặng lẻ trong một gia đ́nh đơn ch́ếc. Mải về sau các bạn cùng khóa đă t́m về và góp sức xây dựng cho Anh một ngôi mộ tươm tất . Hiện nay gia đ́nh Anh Quan chẳng c̣n ai ngoài một người chị đang tu xuất .

    Một Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân trong số hàng trăm ngàn Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa , góp phần tô điểm cho lịch sử vẻ vang của dân tộc vốn có từ ngàn xưa .

    Khi không giữ được thành , các Vị tướng lănh , các Sĩ quan và cả binh sĩ đă tự sát theo thành . Đây là một hành động hào hùng , một sự kiện trọng đại và hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam và cả Thế giới .

    Sau ngày 30-4-75 , đơn vị tan tác , kẻ ra nước ngoài người bị vào trại tù cải tạo , ngậm ngùi cho số phận đất nuớc , khóc thương cho bạn bè đồng đội . Phải hơn 30 năm sau mới biết trong đơn vị có ngườ́ đă tự sát để giữ tṛn tiết tháo . Đau thương thay , cảm phục thay và cũng xót xa thay , vị anh hùng vị quốc vong thân này lại là đứa em út của đơn vị .

    Chúng ta hăy kính cẩn nghiêng ḿnh trước vong linh của Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân Nguyễn Thanh Quan . Chúng ta tự hào v́ các Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă góp phần tô điểm tinh thần hào hùng , bất khuất và vẻ vang cho chiều dày trang sử của dân Việt .

    Chúng ta đừng quên rằng , chính những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân đă vinh danh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa mà những người c̣n sống đang thừa hưởng .

    Chúng ta tự hào nhưng không quên căm phẩn về những hành động phá hoại dân tộc , hành vi bán nước trước sau như một của Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay . Nhân ngày quốc hận 30-4 , một phút mặc niệm cho Anh hùng Vị Quốc Vong Thân Nguyễn Thanh Quan , đồng thời tưởng nhớ đến các Ch́ến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đă Vị Quốc Vong Thân , tưởng nhớ đến các bằng hữu và đồng bào đă bỏ ḿnh trong trại cải tạo và trên đường t́m tự do .

    Mùa Quốc Hận 30-4-09

    KQ Dương B́nh Phê

  10. #30
    Member
    Join Date
    29-09-2011
    Posts
    28
    Chào chủ thread alamit,
    B́nh tĩnh nghe tôi hỏi :
    Anh Hùng Tuẫn Tiết ĐẶNG SỸ VINH TRUNG TÁ hay THIẾU TÁ ? (thậm chí có web phe ta phong luôn Đại Tá ! bó tay !)

    Anh Hùng Vị Quốc Đại Tá HỒ NGỌC CẨN hay HỒ NGỌC CẬN ?

    (một người bạn thân của tôi biết rơ Cố Đại Tá tên gốc đúng là Hồ Ngọc Cận, nhưng từ lâu anh em vẫn gọi thành tên thân quen là Hồ Ngọc Cẩn, vậy tôi sẽ gọi Cố Đại Tá là Hồ Ngọc Cẩn, chuyện này chỉ là nhỏ, nhưng dưới đây là chuyện lớn)

    Tấm h́nh nguyên bản này có phải người thanh niên bị xử đó là Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ?





    1) Nh́n cho kỹ, đối chiếu với post #4 của alamit : alamit đă cắt xén những hàng chữ, tôi không biết có phải cố ư ?
    (Về hàng chữ cho rằng kẻ đứng trên cao nhất là Trịnh Công Sơn, tôi không bàn)

    2) cũng post #4 của alamit, ở tấm h́nh thứ 02, alamit đă ghi :
    Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về ... và phủ xác ông bằng lá quốc kỳ VNCH ... mà cố Đại Tá đă suốt đời phục vụ .
    Cũng chính tấm h́nh đó, alamit đă đem cắm lên quan tài Cố Tử Sĩ Đặng Sỹ Vinh ở post #20 !

    Đùa với ai vậy, alamit ? vô ư hay cố ư đưa cái ngu cho CS nh́n thấy ?
    Hay VL là vườn trẻ ?

    -----------------------
    Mod coi lại trang chủ dùm, tôi vừa đọc thấy ngay hàng đầu Hack vcoin, Hack vcoin cf, hack vcoin au, hack xu zing, hack vcoin online, hack vcoin vtc
    Có phải VL đang bị hack ?

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 29
    Last Post: 19-03-2012, 02:26 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 18-03-2011, 11:49 AM
  3. Replies: 4
    Last Post: 02-03-2011, 12:46 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •