Page 1 of 3 123 LastLast
Results 1 to 10 of 23

Thread: Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn

  1. #1
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn

    1)
    Vua Gia Long (vị vua sáng lập triều Nguyễn)

    2)
    Hoàng tử Cảnh (h́nh vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)

    3)
    Vua Minh Mạng, trị v́ (1820-1840)

    * Trong số hàng trăm phi tần, vua Minh Mạng chỉ sủng ái bà Hiền phi Ngô Thị Chính và và Lệ tân Nguyễn Gia Thị. Bà Ngô Thị Chính đă sinh cho vua 5 hoàng tử và 4 công chúa.

    4) Vua Thiệu Trị, trị v́ (1841 - 1847)

    *
    Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức


    5)
    Vua Tự Đức (1847-1883)

    (c̣n tiếp)

  2. #2
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn

    (tiếp theo)


    Oái oăm thay! vua Tự Đức không có con để truyền ngôi; v́ thuở nhỏ Vua Tự Đức mang bệnh Đậu mùa nên bị tuyệt tự!
    Vua Tự Đức xin nhận 3 người con trai của 2 người em làm con nuôi.

    6) Vua Tự Đức băng hà, truyền ngôi lại cho người con (nuôi) trưởng là Ưng Chân và theo di chiếu có đoạn ghi:
    "V́ tiên liệu Trẫm đă nuôi sẵn ba con. Ưng Chân lớn tuổi nhất, từ lâu đă đến tuổi trưởng thành, tuy nhiên mắt hơi có tật, dù xưa nay vẫn dấu kín, sợ sau nầy không c̣n thấy sáng, tánh lại hiếu dâm, v́ tâm tính rất xấu, không chắc đảm đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có vua lớn tuổi. Trong thời thế khó khăn nầy không dùng Ưng Chân th́ dùng ai ? ..."

    7) Ưng Chân lên ngôi lấy hiệu là Dục Đức, lên ngôi được 3 ngày, 1883 (v́ bị hai ông Phụ chính Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyết phế với sự ngầm thuận của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ).

    Truất phế Dục Đức rồi, hai ông Phụ chính Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết tôn em của vua Tự Đức là Lạng Quốc Công, tên là Hường Dật, lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hoà.

    8) Vua Hiệp Hoà, trị v́ được 4 tháng (1883), biết hai Quan Phụ chính Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết lộng quyền; Vua Hiệp Hoà t́m cách giảm bớt quyền bính của Tường và Thuyết, do đó Vua Hiệp Hoà bị ép uống thuốc độc mà chết.

    9) Dưỡng Thiện, tên là Ưng Đăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Đức lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc, trị v́ được 6 tháng (1884). Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả. Sau đó Vua Kiến Phúc bị Nguyễn văn Tường bỏ độc dược vào thuốc trị bệnh mà chết.

    10)
    Vua Hàm Nghi, trị v́ (1884-1885)

    *
    Đám cưới của Vua Hàm Nghi (1904)

    (Sau khi Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ người kế vị là Chánh Mông, con nuôi thứ 2 của Vua Tự Đức, nhưng hai Quan Phụ chính đă chọn Ưng Lịch là em ruột ông Chánh Mông mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, v́ e ngại Chánh Mông lớn tuổi sẽ không để Tường và Thuyết chuyên quyền)

    (c̣n tiếp)
    Last edited by Phú Yên; 03-01-2012 at 07:40 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    23-12-2011
    Posts
    7

    Vua Dục Đức

    Góp ư:

    Ưng Chân làm vua chỉ có 3 ngày. Bị bỏ đói đến chết. Dục Đức không phải là tên hiệu của vua (chỉ là nơi Ưng Chân ở).

    ====
    Cám ơn Tv hhk đă góp ư; tôi đă sửa lại chỗ sai .

    PY
    Last edited by Phú Yên; 03-01-2012 at 07:41 AM.

  4. #4
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn

    (Tiếp theo)

    11)
    Vua Đồng Khánh, trị v́ (1885-1889)

    (Vua Đồng Khánh là Chánh Mông, con nuôi thứ 2 của Vua Tự Đức . Chánh Mông lên ngôi vua là do ông De Champeaux (đại diện Thống tướng De Courcy) yết kiến Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, xin cho Chánh Mông kế vị Vua Hàm Nghi (v́ lúc ấy Tường & Thuyết đă đem Vua Hàm Nghi trốn ở Quảng Trị).

    12)
    Vua Thành Thái, trị v́ (1889-1907)

    (Vua Đồng Khánh băng hà, con trai mới có 3 tuổi không thể kế v́ nên triều đ́nh Huế và Khâm sứ Rheinart đồng ư tôn người con của Vua Dục Đức là Bửu Lân lên ngôi, hiệu là Thành Thái.)


    Hai người vợ của Vua Thành Thái


    Bà Nguyễn Thị Định, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái, mẹ của vua Duy Tân

    (c̣n tiếp)
    Last edited by Phú Yên; 03-01-2012 at 07:03 AM.

  5. #5
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn

    (Tiếp theo)

    Pháp biết Vua Thành Thái t́m cách chống Pháp nên chúng vu khống Vua bị điên, để rồi truất phế Vua Thành Thái và đem giam Nhà vua tại Vũng Tàu. Đến năm 1919, Pháp chuyển Vua Thành Thái sang đảo La Réunion bên Phi Châu, an trí, đi cùng là Vua Duy Tân (sau nầy).

    13)
    Vua Duy Tân (5-9-1907)


    Vua Duy Tân, trị v́ (1907-1916), h́nh chụp năm Vua Duy Tân 30 tuổi


    Bà vương phi Mai Thị Vàng, một trong những thứ phi của vua Duy Tân (năm 72 tuổi)

    (c̣n tiếp)

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Vua Dục Đức và gă ăn mày cùng chung một huyệt mộ

    Vua Dục Đức và gă ăn mày cùng chung một huyệt mộ

    Tháng 6 năm Quư Mùi (1883) vua Tự Đức mất, để di chiếu cho người con nuôi lớn của ḿnh là Nguyễn Phúc Ưng Chân lên nối ngôi. Thế nhưng ngay trong lễ đăng quan, nhiều đại thần đứng đầu là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường v́ không ưa nên vin vào cớ di chiếu có đoạn nói mắt Ưng Chân có tật, rồi giam lỏng ông, sau đó phế truất. Về danh nghĩa, Ưng Chân ở trên ngôi báu chưa đầy 3 ngày.

    Trở thành một tù nhân, Ưng Chân bị đem giam ở ngôi nhà học của ḿnh trước đây là Dục Đức Đường nên sử sách thường lấy tên đó để gọi vua là Dục Đức. Về sau ông bị giam tại ngục thất phủ Thừa Thiên, bị bỏ đói cho đến chết vào tháng 9 năm Giáp Thân (1884), thi thể bó trong một chiếc chiếu rách. Hai người lính và và một viên suất đội gánh xác đi chôn trong một ngày mưa gió. Đến đầu làng An Cựu ở ngoại thành Huế th́ dây bị đứt, xác vua rơi xuống cạnh một khe nước nông, người ta tin rằng, ông đă “tự chọn” nơi yên nghỉ của ḿnh tại đó nên chôn cất qua loa cho xong.



    V́ không được quan tâm, chăm sóc, ngôi mộ dần tàn lụi như đất bằng, chẳng ai c̣n nhớ đó là mộ vua. Không lâu sau, có một ông lăo ăn mày qua đấy bị kiệt sức và chết gục trên nấm mộ Dục Đức. Dân địa phương đă chôn người ăn mày ngay trên mộ vua mà không hay biết. Về sau, con của Dục Đức bất ngờ được lên ngôi, lấy hiệu là Thành Thái.

    Theo chỉ dẫn của những người am tường sự việc, Thành Thái t́m được mộ của vua cha. Khi cải táng, lại thấy trong mộ có hai bộ xương nên đành lấp lại và cho xây dựng lăng mộ tại đó vào đầu năm Canh Dần (1890) và đặt tên là An Lăng. Đó là lăng mộ chứa cả thi hài của ông vua xấu số và ông lăo ăn mày tốt số.

    Bee.net.vn

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Vua Bảo Đại từng bị t́nh địch bắn găy chân

    Vua Bảo Đại từng bị t́nh địch bắn găy chân

    Vua Bảo Đại là vị hoàng đế đa t́nh. Khó tính hết được đă có biết bao người phụ nữ đủ các dân tộc, quốc tịch đi qua cuộc đời ông.



    V́ đa t́nh quá mà không ít lần Bảo Đại suưt rước họa vào thân. Sau khi làm lễ cưới với bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương hoàng hậu), không lâu sau ông vua này lại đi “du hí” khắp nơi. Có lần lên Đà Lạt thăm thú cô nhân t́nh da trắng mắt xanh, Bảo Đại bị ông chồng Tây của cô ta nổi cơn ghen, vác súng đuổi bắn gẫy chân khiến cho Toàn quyền Đông Dương là Jean Decoux vội cho máy bay chở vua về Sài G̣n chữa trị và tuyên bố rằng vua đi săn, bị “vấp ngă xuống hố bẫy cọp”. V́ chuyện này mà một viên quan về hưu đă làm bài thơ trào phúng, trong đó có câu: “Bà đầm chuộng lạ cần gia vị/Hoàng thượng ăn quen hẳn bén mùi/Thôi Chử ngày xưa c̣n thí mạng/Nữa là chỉ mất tư xương thôi”.

    Tính trăng hoa của Bảo Đại không chỉ gây rắc rối cho ông mà c̣n khiến một số người khác bị vạ lây. Tác giả Lucien Bodart trong cuốn sách Chiến tranh Đông Dương – Sự nhục nhă (xuất bản năm 1973 tại Paris) có đoạn viết: “Nam Phương ghen tuông đă có ư định cho lái xe bắn lén vào những kẻ đang t́nh tự ở Đà Lạt. Bà Decoux, vợ quan Toàn quyền đă phải hi sinh thân ḿnh trong vụ đáng buồn này. Bà đă đi nhanh đến chỗ hẹn ḥ để ngăn một vụ án mạng có thể xảy ra”.



    Án mạng th́ không xảy ra nhưng phu nhân Toàn quyền v́ phóng xe quá nhanh để ngăn vụ bắn Bảo Đại và người t́nh nên đă thiệt mạng v́ tai nạn. Bà được chôn tại khuôn viên nhà thờ Vinh Sơn (nay nằm trên đường Ngô Quyền, phường 6, TP Đà Lạt )

    Bee.net.vn

  8. #8
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn

    (tiếp theo và hết)

    14)
    Vua Khải Định, trị v́ (1916-1925)


    Ngôi vị của Vua Duy Tân bị truất phế, triều đ́nh Huế và toà Khâm sứ Pháp đưa người con trưởng của Vua Đồng Khánh, Nguyễn Phúc Tuấn (Nguyễn Phúc Bửu Đảo) lên ngôi vua, hiệu Khải Định.
    Đến năm 1919, Duy Tân bị Pháp đầy đi đảo Réunion cùng với vua cha Thành Thái.


    15)
    Hoàng tử Vĩnh Thuỵ, thời niên thiếu - (Vua Bảo Đại sau này)


    Hoàng tử Vĩnh Thuỵ (1925)


    Vua Bảo Đại và đoàn hộ giá

    Vua Khải Định băng hà, Hoàng tử Vĩnh Thuỵ được tôn lên làm vua, hiệu là Bảo Đại .
    Đến ngày 24 tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, yêu cầu Vua Bảo Đại thoái vị .
    Vua Bảo Đại quyết định công bố chiếu thoái vị vào ngày 25/8; sang ngày 26/8 Vua Bảo Đại làm lễ thoái vị ở Thế Miếu; từ đó Triều đại Nguyễn chấm dứt, sau 143 năm trị v́ (1802-1945).
    Nước Việt Nam lật qua trang sử mới kế tiếp ...

    Phú Yên
    Tổng lược theo tài liệu trên internet
    Last edited by Phú Yên; 03-01-2012 at 11:03 AM.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN

    Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN



    Các bạn đă từng đọc qua sách sử Việt Nam chắc hẵn đă để ư là các ông vua có rất nhiều tên, hiệu và chắc các bạn cũng đă có lần tự hỏi là làm ǵ mà phải có nhiều tên như thế ? Trước khi đi vào phần lịch sử, tôi nghĩ cũng nên nhắc lại vài điều căn bản.

    Thời vua chúa lúc dân ta chưa biết Tây lịch, để xác định thời gian cho một dữ kiện đă xăy ra, dân ta dùng niên hiệu của ông vua đương thời.

    Niên hiệu : Khi một ông vua lên ngôi đều tự lấy cho ḿnh một niên hiệu để đánh dấu cái giai đoạn mà ḿnh trị v́ và tất cả những dữ kiện xảy ra sẽ được ghi lại so với cái niên hiệu của ḿnh. Thí dụ người ta nói "Tự Đức năm thứ 2", "Minh Mạng năm thứ 6", .... (thay v́ năm 1848, năm 1825, ...) Với cách ghi thời gian kiểu nầy th́ có cái lợi là biết câu chuyện đó xảy ra dưới thời vua nào nhưng cái bất lợi là khó mà biết được cái nào xảy ra trước cái nào xảy ra sau nếu không giỏi sử học.

    Miếu hiệu : Tên hiệu của ông vua đă chết. Khi một ông vua đă mất, ông vua sau lên kế vị và đặt miếu hiệu cho vị vua trước như là phong chức tước hay tôn vinh người quá cố. Ví dụ, miếu hiệu của vua Gia Long là Thế Tổ, miếu hiệu vua Minh Mạng là Thánh Tổ. Dĩ nhiên có nhiều ông vua không có miếu hiệu.

    Tên Húy: Tên thật do cha mẹ đặt khi mới sanh, một người có thể có nhiều tên húy, thường được người ta kiêng không gọi đến. Ví dụ tên húy của vua Minh Mạng là Đảm (Nguyễn Phúc Đảm), tên húy của vua Tự Đức là Hồng Nhậm (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm). Xưa người ḿnh thường hay kỵ húy, kiêng, tránh không được nhắc đến tên. Ví dụ vua Minh Mạng có bà phi tên là Hồ Thị Hoa. V́ kỵ húy bà nên cầu Hoa ở Sài G̣n đă được đổi tên lại là cầu Bông.

    Ngoài những loại tên nầy, các vua c̣n có thể có nhiều chức tước khác nhau !

    Mục lục:

    Vua Gia Long

    Hoàng tử Cảnh

    Vua Minh Mạng

    Vua Thiệu Trị

    Vua Tự Đức

    Vua Dục Đức

    Vua Hiệp Hoà

    Vua Kiến Phúc

    Vua Hàm Nghi

    Vua Đồng Khánh

    Vua Thành Thái

    Vua Duy Tân

    Vua Khải Định

    Vua Bảo Đại



    Niên hiệu


    Gia Long
    Năm sanh, năm mất

    1762-1820
    Giai đoạn trị v́

    1802-1820
    Miếu hiệu

    Thế Tổ Cao Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Ánh

    Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nghuyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Đàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí Tỵ (1773). Lợi dụng lúc Đàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Định, chấm dứt sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

    Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời đă tỏ ra là một con người có chí và thông minh v́ thế rất được Chúa yêu, tuy c̣n nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đă tỏ ra là một tướng cầm quân có tài.

    Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Định, Chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Định Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong và vất vả.

    Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy lại B́nh Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Định. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc.

    Nguyễn Vương vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh trong ḷng một mối thù phục quốc. Chính v́ thế nên khi biết được Giám mục Pháp Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Đàng Trong , Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đă để cho con trưởng của ḿnh là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp làm con tin.

    Trong thơ cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Để đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn đảo), và cảng Hội An (có sách nói là cảng Đà Nẵng).
    Giám mục Bá Đa Lộc kư được hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân ở Ấn Độ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Đa Lộc nên nói ra với vua Pháp và cũng v́ nước Pháp đang bị nội loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ măi không được, Giám mục Bá Đa Lộc bỏ tiền riêng để mướn một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 th́ Hoàng tử về đến Gia Định.

    Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giă mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 th́ vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Đéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương cũng chạy theo về Xiêm La lánh nạn.

    Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội) diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vă đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc B́nh Vương. Từ đó anh em Tây Sơn đă có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đă đem quân đánh nhau.

    V́ ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn đă không ngó ngàng ǵ đến các xứ Đàng Trong nhất là từ Qui Nhơn (B́nh Định) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đă cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Đinh Mùi (1787), trở về nước. Nguyễn Vương đă được dân miền Nam giúp đở rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến pḥ như Vơ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Vương đă lớn mạnh. Đông Định Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Định trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn bộ xứ Gia Định đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia Định theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong.

    Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Đức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.

    Ở Phú Xuân, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Được tin, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống lănh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín.

    Năm Nhâm Tư (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10 tuổi, v́ thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong.

    Được tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lănh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v...

    Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất Bắc, quân Tây Sơn tan ră lần hồi. Đến tháng 6 cùng năm th́ vua Gia Long đă thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.

    Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi c̣n đầu th́ đem bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ xuống sông, c̣n sọ th́ làm gáo đựng nước tiểu).

    Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng v́ đất Nam-Việt đă có bên Tàu đời nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt-Nam để cho khỏi lầm với tên củ.

    Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, th́ con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

    Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư:

    -Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc, v.v...

    -Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc, v.v...

    -Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử, v.v...

    -Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v...

    -Bộ H́nh : coi việc pháp luật, v.v...

    -Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự, v.v...

    Ngài lập Văn Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan...

    Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Đa Lộc và có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đă theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Đa Lộc. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được tổ chức vào khoăng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đă làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh".

    Nhưng vua vẫn một ḷng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đ́nh viết sớ đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đ́nh, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đ́nh và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ phạt thẳng tay những người có ư nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết.

    Ngày 19 tháng 12 năm Canh Th́n (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng Kim th́ Ngài mất năm 1819).



    Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh sanh ngày 2 tháng 3 năm Canh Tư (6-4-1780) tại Gia Định, con của Nguyễn Ánh và bà Tống Thị Lan (sau là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu).

    Năm 4 tuổi, Hoàng tử được gởi theo Giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, tới năm 1789 mới trở về với gia đ́nh. Mùa xuân năm Quí Sửu (1792) Hoàng tử lên 14 tuổi, Nguyễn Vương lập ông làm Đông Cung, phong chức Nguyên Súy Quận công, chọn các đại thần giúp đở để ông quen chuyện chính trị. Trong các phụ đạo (thầy dạy) có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Tùng Châu.

    Năm Đinh Tỵ (1797) ông theo Nguyễn Vương đi đánh Qui Nhơn, rồi đáng Quản Nam, khi quân trở về Thái tử tâu xin cho soạn Hiển trung chư thần liệt truyện để chép truyện các bậc tôi trung đời trước để khuyến khích mọi người , được Nguyễn Vương chấp thuận.

    Mùa Xuân năm Tân Dậu Thái tử bị bệnh đậu mùa và mất vào ngày 7 tháng 2 năm Tân Dậu (20-3-1801), thọ 22 tuổi. Ông có hai người con trai. Con trưởng là Nguyễn Phúc Mỹ Đường (c̣n có tên là Đán), con thứ là Nguyễn Phúc Mỹ Thùy (c̣n có tên là Kính). Ông Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là cháu năm đời của Hoàng tử Cảnh.



    Niên hiệu

    Minh Mạng
    Năm sanh, năm mất

    1791-1840
    Giai đoạn trị v́

    1820-1840
    Miếu hiệu

    Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Kiểu, Nguyễn Phúc Đảm

    Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, sanh năm Tân Hợi (1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định, con thứ tư của vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Hoàng hậu. Khi Hoàng tử Cảnh mất th́ Ngài được lập làm Thái tử, khi vua Gia Long băng hà, theo di chiếu Ngài lên nối ngôi, lúc nầy đă 30 tuổi và đổi niên hiệu là Minh Mạng.

    Ngài tiếp tục việc tu sửa lại kinh thành Huế, công tŕnh kiến trúc quan trọng nhất dưới thời Minh Mạng là cửa Ngọ Môn. Các sách đều khen ông là một nhà vua văn vơ kiêm toàn (nhưng theo một lá thư của một vị Giám mục người Pháp th́ Vua không có tài văn chương ǵ cả mà chỉ do các ông quan nịnh bợ Vua hùa theo ca tụng). Vua Minh Mạng bắt đầu một cuộc cải cách từ nội trị đến ngoại giao.

    Về mặt nội trị, nhà vua bỏ hầu hết các dinh, các trấn mà thành lập các tỉnh (31 tỉnh), thành lập Nội các và Cơ mật viện để cùng với vua bàn chuyện nước (tới thời Bảo Đại mới bị giải tán). Lập Quốc Tử Giám. Bắt đầu mở các khóa thi Hội, thi Đ́nh để lấy tiến sĩ (tới thời Khải Định mới bị giải tán). Lập Quốc sử quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Phát thưởng cho những ai t́m được sách củ hay làm ra sách mới v.v...

    Các nước láng giềng xa gần đều gởi sứ thần đến thông hiếu và vua cũng cử nhiều phái đoàn đến các nước đó để ban giao. Năm Mậu Tuất (1838) vua Minh Mạng đổi tên nước là Đại Nam.

    Ngài không thích đạo Thiên Chúa nên không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước, Ngài có ra dụ (sắc lệnh) nói rằng : "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc ḷng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo". Lúc bấy giờ không phải là một ḿnh vua ghét đạo Thiên Chúa mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ư cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cắm thế nào mặc ḷng, vẫn có người đi giảng đạo Thiên Chúa, nhà vua lấy điều đó làm trái phép nên ra dụ lần nữa nói rằng ai bắt được giáo sĩ đem nộp th́ được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và các nơi cũng rối loạn v́ sự bắt đạo và giết đạo. Việc cấm đạo nầy cứ dai-đẳng măi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.

    Cũng v́ việc cấm đạo Thiên Chúa cho nên sự buôn bán với người nước ngoài cũng bị cản trở v́ Triều đ́nh thấy thỉnh thoảng khi có chiếc tàu buôn lại th́ lại có một vài người giáo sĩ Thiên Chúa giáo trên đó nên càng lạnh nhạt với người nước ngoài. Vua từ chối không tiếp một tàu ngoại quốc nào cả ngay cả tàu Pháp. Hai ông quan người Pháp (Chaigneau và Vannier) làm trong triều đ́nh từ thời Gia Long thấy vua Minh Mạng có vẻ không thích người ngoại quốc nên cũng xin từ chức rồi đem gia đ́nh trở về Pháp.

    Sau nầy vua Pháp có gởi sứ giả sang xin ban giao với Việt Nam nhưng vua Minh Mạng không tiếp, nước ta coi như bế quan tỏa cảng từ đó.

    Vua Minh Mạng mất năm Canh Tí (1840), thọ 50 tuổi, trị v́ được 21 năm

    Niên hiệu

    Thiệu Trị
    Năm sanh, năm mất

    1807-1847
    Giai đoạn trị v́

    1841-1847
    Miếu hiệu

    Hiến Tổ Chương Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Tuyền, Nguyễn Phúc Miên Tông

    Vua Minh Mạng băng hà, người con trưởng của vua là Hoàng Tử Nguyễn Phúc Tuyền, húy là Miên Tông sinh năm Đinh Măo (1807) được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Mọi việc đều noi theo cũ không có ǵ đổi mới.

    Ông nổi tiếng là ông vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là hai bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không tŕnh bài theo lối thường mà viết thành năm cái ṿng tṛn đồng tâm, mổi ṿng tṛn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nh́n vào như một "trận đồ bát quái", vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai kiếm ra được hết.

    Dưới thời nầy đất Nam-kỳ có nhiều giặc giă, dân Chân-Lạp nổi loạn và quân Tiêm-La sang đánh phá, vua phải dùng binh đánh dẹp măi tới năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) mới yên được.

    Từ khi vua Thiệu Thị lên ngôi th́ việc cấm đạo Thiên Chúa mới nguôi đi được một ít, nhưng triều đ́nh vẫn ghét đạo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn c̣n bị giam ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroïne, ông nầy đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ năm (1845) có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.

    Năm Ất Tỵ (1847) quan nước Pháp biết rằng ở Huế không c̣n giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới. Lúc hai bên c̣n đang thương nghị về việc ấy th́ quan nước Pháp thấy thuyền của ta đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta đấp đồn lũy, mới nghi có sự âm mưu ǵ chăng bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.

    Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận vô cùng, lại có dụ (sắc lệnh) ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Vài tháng sau th́ vua lâm bệnh nặng.

    Nguyễn Phúc Hồng Bảo là con trưởng của vua Thiệu Trị (nhưng lại không phải là con của chánh phi Phạm Thị Hằng mà là con của bà phi Đinh Thị Hạnh). Bảo vốn là người ham chơi, không chịu học hành, tổi ngày chỉ lo đánh bạc. Vua Thiệu Trị có la rầy nhiều lần nhưng không được.

    Khi vua lâm bệnh nặng, cho đ̣i các quan đại thần vào trối. Trương Đăng Quế, Vơ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào chầu. Ngài phán rằng Hồng Bảo tuy lớn nhưng ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không đặng, con thứ hai là Hồng Nhậm, thông minh, ham học giống vua có thể cai trị nước được. Vua yêu cầu các quan phải thi hành tờ di chiếu của vua để lại. Triều thần khóc, bái lạy và gọi Hồng Nhậm đến trao ấn và kiếm. Hồng Bảo được tin, tức giận đem thân binh vào nhưng bị quan Phạm Thế Lịch đem quân cản lại chỉ để cho một ḿnh Hồng Bảo vào mà thôi. Hồng Bảo vào gặp vua lạy lục, vua quay mặt đi không trả lời, Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa Hồng Bảo ra hậu cung và cầm giữ ở đó. Mấy ngày sau th́ vua băng hà tại điện Càn Thành (1847), làm vua được 7 năm, thọ 40 tuổi (theo Nguyễn Phúc tộc gia phả).

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Niên hiệu

    Tự Đức
    Năm sanh, năm mất

    1829 -1883
    Giai đoạn trị v́

    1847-1883
    Miếu hiệu

    Dực Tông Anh Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Th́, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm

    Hồng Nhậm lên ngôi lúc 19 tuổi, lấy niên hiệu là Tự Đức, việc lên ngôi của Tự Đức bị nhiều người nghi ngờ nên cũng có người chống. Hồng Bảo (anh Tự Đức) âm mưu với một số người để t́m cách giành lại ngai vàng. Việc bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án tử h́nh. Tự Đức tha chết cho anh nhưng cho lệnh giam lại, nhưng không hiểu sao Hồng Bảo thắt cổ chết trong ngục (có sách viết là bị ép uống thuốc độc). Cái chết của Hồng Bảo trở thành một nghi án. Vua Tự Đức sợ sau nầy sử không chép đúng sự thật nên tự ḿnh kể lại cuộc đời của ḿnh và cho khắc vào bia đá lớn để lại cho hậu thế, bia nầy ngày nay vẫn c̣n ở trong lăng Tự Đức.

    Người ở trong nước chia ra làm bốn hạng là : sĩ, nông, công, thương. Sĩ : là hạng người chuyên nghề đi học, thầy thuốc, thầy bói, v.v... những nghề phong lưu nhàn hạ. Nông : là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Công : là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ ǵ để lấy lợi (dệt vải, làm mắm muối, v.v...). Thương : là hạng người làm nghề buôn bán.

    Đời vua Tự Đức có rất nhiều loạn lạc (giặc cờ Đen, cờ vàng, cờ Trắng, nội loạn, pḥ Lê diệt Nguyễn v.v...) và cũng là giai đoạn đầu mà Pháp đánh Việt Nam.

    Năm Tự Đức thứ 9, có chiến thuyền "Catinat" vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách triều đ́nh Việt Nam về việc giết đạo Thiên Chúa. Không được trả lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi. Có ông Giám mục Pellerin trốn được lên tàu. Giám mục Pellerin về Pháp thuật lại cho triều đ́nh Pháp cảnh các giáo sĩ Thiên Chúa giáo bị đàn áp dă man ở Việt Nam, và nói rằng chỉ cần có loạn là các tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ nổi lên đánh giúp, lại có bà Hoàng hậu Pháp Eugénie rất sùng đạo nên cũng nói giúp ông Pellerin. Pháp Hoàng mới quyết ư sang đánh nước ta.

    Tháng 7 năm Tự Đức thứ 11 (1858), Trung tướng Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu Y-pha-nho (Espagne) cả thảy 14 chiếc vào cửa Đà Nẵng bắn phá rồi hạ thành An hải và thành Tôn hải. Theo dự trù, trung tướng Rigault de Genouilly tính tiến đánh Huế sau khi hạ Đà Nẵng nhưng chờ hoài mà chẳng thấy tín đồ Thiên Chúa giáo nổi loạn lại thấy quân ta đổ xuống ngày càng đông, quân Pháp lại không quen khí hậu nên ngă bệnh cũng nhiều. Trung tướng Rigault de Genouilly gây lộn với Giám mục Pellerin và viết thư về Pháp kể t́nh h́nh, Giám mục Pellerin giận bỏ về Mă Lai. Thấy đánh Huế chưa nổi, ông trung tướng Pháp đổi ư, quay qua đánh Gia Định v́ là nơi dể lấy hơn và là vùng trù phú hơn.

    Đầu năm sau trung tướng Rigault de Genouilly dẩn quân Pháp và Y-pha-nho vào cửa Cần Giờ, đánh thành Gia Định, chỉ trong 2 ngày th́ thành vở. Quan hộ-đốc Vũ Duy Ninh tự vận. Quân Pháp san phẳng thành tŕ làm b́nh địa. Xong trung tướng Pháp lại đem quân trở ra Đà Nẵng đánh một trận ở đồn Phúc Ninh, quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải rút về giữ đồn Nại-hiên và đồn Liên-tŕ. Trung tướng Rigault de Genouilly cũng bệnh nên xin về Pháp nghĩ, thiếu tướng Page sang thay, ông đề nghị việc giảng hoà, cốt chỉ xin được tự do giảng đạo Thiên Chúa và được buôn bán với nước ta nhưng triều đ́nh Huế lúc đó chỉ c̣n những ông quan già, chỉ biết đạo Nho thà chết để giữ nước, không chịu nhục, không phải là người biết mềm mỏng trong vấn đề ngoại giao nên Vua cũng phải nghe theo.

    Đến năm 1862 th́ quân Pháp đă chiếm luôn Biên Hoà và Vĩnh Long. Triều đ́nh mới chịu phái hai ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp vào Nam giảng hoà với Pháp ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1862).

    Trong bản hoà ước ấy (12 khoăn) có những khoăn như sau :

    -Nước Việt Nam phải để cho giáo sĩ Thiên Chúa Giáo nước Pháp và nước Y-Pha-Nho được tự do giảng đạo và để dân gian được tự do theo đạo.

    -Nước Việt Nam phải nhượng đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Hoà, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường và phải để cho chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mékong (Cửu Long).

    Vua Tự Đức bắt buộc phải nhường 3 tỉnh Nam kỳ cho Pháp nhưng trong bụng vẫn muốn lấy lại v́ là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn nên đă phái ông Phan Thanh Giản, ông Phạm phú Thứ và ông Ngụy Khắc Đản đem phẩm vật sang nước Pháp và nước Y-Pha-Nho để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Nam. Vua Pháp hẹn sẽ suy nghĩ lại rồi trả lời sau, nhưng ông bộ trưởng hải quân và thuộc địa Pháp Chasseloup-Laubat không chịu trả đất cho Việt Nam nên nói ra, vua Pháp nghe lời.

    Triều đ́nh Huế cũng nghĩ là Pháp sẽ không ngừng ở đó nên sai ông Phan Thanh Giản vào trấn giữ Miền Nam. Năm Tự Đức thứ 20 (1867), thiếu tướng De la Grandière kéo quân đánh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết thế chống không nổi nên bảo các quan nộp thành tŕ cho đở đổ máu rồi uống thuốc độc tự vận. Toàn cảnh đất Nam Kỳ thuộc về Pháp, thuế má, luật lệ điều ǵ cũng do Pháp quyết định cả. Nước Pháp tạm ngừng cuộc chinh phục tại đây.

    Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ nhất : 6 năm sau, ở miền Bắc có ông Jean Dupuis (tên việt là Đồ Phổ Nghĩa) chuyên buôn bán vũ khí, ông ta t́m đường sông để chở hàng qua Tàu và kiếm ra đường sông Hồng nhưng bị quân triều đ́nh làm khó dể v́ ông ta không có giấy phép. Jean Dupuis ngạo mạn kiếm chuyện gây gổ với triều đ́nh rồi sai người phụ tá tên Millot vào Saigon t́m gặp viên Thống đốc Nam kỳ là Thiếu tướng hải quân Dupré để kể t́nh h́nh và xin trợ giúp. Thiếu tướng Dupré là người đă đễ ư tới vùng Bắc kỳ từ lâu, ông đă viết thư về Paris xin lấy luôn đất Bắc kỳ nhưng bên Pháp lúc bấy giờ đang yếu v́ chiến tranh với nước Thổ nên ra lệnh không được gây sự ở Bắc kỳ. Khi được Millot đến đốc thúc th́ ông Dupré quyết định hành động, ông viết thư cho Paris nói là xin được tự quyết định, ông không cần viện trợ, nếu chuyện không thành th́ ông sẽ lănh hết trách nhiệm.

    Dupré sai Trung úy hải quân Françis Garnier đem quân ra Hà Nội giả nói là để giải quyết chuyện xích mích của Jean Dupuis rồi kiếm chuyện để bắn vào thành Hà Nội sáng hôm rằm năm Quí Dậu (1873). Chỉ một giờ th́ thành vỡ, tướng Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, Pháp bắt tính giải về Saigon nhưng Nguyễn Tri Phương không cho băng bó và nhịn ăn chết. Thành Hà Nội thất thủ, quân ta không hiểu chuyện ǵ hết nên cứ thấy quân Pháp là bỏ chạy, chỉ trong 20 ngày mà mất 4 tỉnh.

    Lúc bấy giờ có tướng Tàu là Lưu Vĩnh Phúc đầu đảng của "giặc cờ đen" về hàng triều đ́nh Huế, vua Tự Đức phong cho chức Đề đốc để phụ đánh quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân về đánh thành Hà Nội. Françis Garnier đem quân ra nghênh th́ bị phục kích chết ở cầu Giấy. Paris biết chuyện nên triệu Thiếu tướng Dupré về Pháp trị tội, Thiếu tướng Dupré t́m cách đở tội nên trở mặt, sai ông Đại úy hải quân Philastre ra Hà Nội để trả lại thành và 4 tỉnh bị chiếm. Hai bên kư hoà ước năm Giáp Tuất (1874) trong đó triều đ́nh Huế công nhận cả miền Nam là thuộc về Pháp và Pháp cũng bồi thường lại cho Việt Nam bằng tàu bè và súng ống.

    Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ hai : Năm 1881, có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam (bên Tàu) nhưng khi đi đến Lào-Kay th́ bị loạn quân cản trở không đi được, viên Thống đốc Le Myre de Vilers bèn gởi thư về Pháp nói rằng nên chiếm luôn Bắc kỳ để bảo đảm sự lưu thông buôn bán với Tàu. Lúc đó nước Pháp đă hồi phục lại sinh lực nên cũng có ư bành trướng ở Nam Á. Năm 1882, Thống đốc một mặt gởi thư cho triều đ́nh ta nói là Vua bất lực, đất nước loạn ly, Pháp phải trấn an đất Bắc để bảo vệ quyền lợi của dân Pháp, một mặt gởi Đại tá hải quân Henri Rivière ra Hà Nội, gởi tối hậu thư cho quan Tổng Đốc Hoàng Diệu bắt phải hàng. Đúng 8 giờ sáng th́ quân Pháp tấn công, 11 giờ thành đổ, ông Hoàng Diệu treo cổ tự tử.

    Viên Khâm sai Pháp ở Huế là Rheinart sang thương thuyết, trong đó đ̣i nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ và nhường thành thị Hà Nội cho Pháp. Nhiều người trong Triều đ́nh nói rằng : "Nước ta trong c̣n Lưu Vĩnh Phúc, ngoài c̣n nước Tàu, lẽ nào bó tay mà chịu" nên từ chối. Sau đó Triều đ́nh cho người sang cầu cứu với nước Tàu, Triều đ́nh nhà Thanh được dịp bèn gởi quân qua đóng hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây. Quân Pháp thấy quân Tàu tràn qua biên giới nên cũng xua quân đánh luôn. Đại tá Henri Rivière cũng bị quân cờ đen giết tại cầu Giấy.

    Đúng lúc nầy th́ vua Tự Đức mất ngày 16 tháng 6 năm Quí-Mùi (1883) trị v́ 36 năm, thọ 55 tuổi.


    Niên hiệu

    Dục Đức
    Năm sanh, năm mất

    1853-1883
    Giai đoạn trị v́

    1883
    Miếu hiệu

    Công Tông Huệ Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Ưng Chân

    Vua Tự Đức v́ lúc nhỏ bị bệnh đậu mùa nên lớn không có con, nên vua có xin 3 người con trai của 2 người em làm con nuôi.

    Vua nhường ngôi lại cho con trưởng Ưng Chân, phong 3 ông đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tuờng và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính để giúp tân Vương. Thảm kịch bắt đầu từ mấy câu di chiếu của Vua Tự Đức viết về đạo đức và trách nhiệm của Ưng Chân:

    "V́ tiên liệu Trẫm đă nuôi sẵn ba con. Ưng Chân lớn tuổi nhất, từ lâu đă đến tuổi trưởng thành, tuy nhiên mắt hơi có tật, dù xưa nay vẫn dấu kín, sợ sau nầy không c̣n thấy sáng, tánh lại hiếu dâm, v́ tâm tính rất xấu, không chắc đảm đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có vua lớn tuổi. Trong thời thế khó khăn nầy không dùng Ưng Chân th́ dùng ai ? ..."

    Các quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng sớ lên vua Tự Đức xin bỏ mấy đoạn có liên quang đến tính nết xấu của tự quân và xin bỏ câu “không chắc đảm đương nổi việc lớn” nhưng vua Tự Đức từ chối. Nhà vua bảo:

    -Phải giữ lại câu đó để nhắc người kế vị phải tự răn ḿnh, tu tỉnh.

    Ngày 17-7-1883 Dương lịch, vua Tự Đức băng hà tại điện Càn Thành. Theo di chiếu Hoàng tử Ưng Chân vào chịu tang và coi như là vua kế vị, niên hiệu là Dục Đức.

    Ba ngày sau (20-7-1883) là lễ đăng quang của vua Dục Đức tại điện Thái Hoà. Quan Phụ chính Trần Tiễn Thành đứng ra đọc Di chiếu, tới đoạn nói về tật xấu của vua, ông hạ giọng đọc rất thấp (có sách nói là không đọc) th́ lúc bấy giờ quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhảy ra nắm áo ông và nói lớn :

    -Tại sao ông không đọc đoạn tiên đế nói đến những ǵ Ngài nghĩ về Ưng Chân ?

    Xong ông Tường cho người khác ra đọc lại di chiếu, đọc vừa xong cái đoạn nói về thói hư tật xấu của vua Dục Đức th́ ông Tôn Thất Thuyết cắt ngang lời người đọc và nói :

    -Đây là đoạn mà ông Thành đă không chịu đọc, phải xin ngưng buổi lễ để xin ư kiến của Thái Hậu và đ́nh thần xem thử phải làm ǵ !

    Sở dĩ hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dám làm vậy v́ trước đó hai ngày họ đă dâng lên Hoàng Thái Hậu Từ Dũ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Đức ba tội lớn :

    -Muốn sửa di chiếu

    -Có đại tang mà mặc áo màu

    -Hư hỏng, ăn chơi.

    Được bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ bật đèn xanh, hai ông Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết liền truất ngôi của vua Dục Đức và quản thúc ông ngay tại Dục Đức đường. Nhà học của ông bỗng trở thành nhà tù giam. Ông Dục Đức làm vua chỉ vỏn vẹn có 3 ngày. Sau đó ông bị chuyển qua giam tại Thái Y Viện và cuối cùng chết v́ đói và khát tại Ngục Thất Thừa Thiên để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. (Vua Dục Đức là cha của vua Thành Thái và là ông nội của Vua Duy Tân).

    Quan Ngự Sử Phan Đ́nh Phùng có lên tiếng can ngăn liền bị bắt giam rồi bị cách chức đuổi về quê.


    Niên hiệu

    Hiệp Hoà
    Năm sanh, năm mất

    1847-1883
    Giai đoạn trị v́

    1883
    Miếu hiệu

    .
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Thăng, Nguyễn Phúc Hường Dật

    Ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tôn em của vua Tự Đức là Lạng Quốc Công, tên là Hường Dật, lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hoà.

    Vua Hiệp Hoà thấy hai ông đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lộng hành quá bèn t́m cách loại trừ bằng cách thay đổi chức tước của hai ông cho bớt binh quyền. Hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết biết là vua không tin dùng ḿnh nên liền âm mưu lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba của vua Tự Đức lên làm vua rồi bắt ép vua Hiệp Hoà uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hoà chỉ làm vua được hơn 4 tháng.

    Ông phụ chính Trần Tiễn Thành ra tiếng phản đối nên bị hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết ra lệnh giết luôn.

    Trong lúc đó th́ Pháp vẫn tiếp tục chiếm các tỉnh của Việt Nam (cửa Thuận An, thành Hải Dương, ...), Triều đ́nh Huế thất thế xin hoà. Hoà ước Quí Mùi (1883) ra đời trong đó nước Nam chịu nước Pháp bảo hộ và phải nhường một số đất cho Pháp. Triều đ́nh ta có ra lệnh ngừng đánh, phải rút quân về Huế nhưng một mặt quân đội Tàu không nghe lệnh Triều đ́nh Huế, một mặt c̣n nhiều người yêu nước và ỷ lại Tàu nên có nhiều người không chịu rút quân mà vẩn đánh Pháp, do đó chiến tranh với Pháp vẫn tiếp diển, Triều đ́nh Huế bất lực.


    Niên hiệu

    Kiến Phúc
    Năm sanh, năm mất

    1869-1884
    Giai đoạn trị v́

    1884
    Miếu hiệu

    Giảng Tông Nghị Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Hạo, Nguyễn Phúc Ưng Đăng

    Ông Dưỡng Thiện, tên là Ưng Đăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Đức lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả.

    Có nhiều ông quan thấy vậy liền trả ấn lại cho triều đ́nh, từ quan rồi đi chiêu mộ binh mà đánh Tây.

    Có sách nói rằng Ưng Đăng được tin triều đ́nh tới rước ḿnh về làm Vua, Ưng Đăng sợ quá chui xuống gầm giường trốn, mọi người phải lôi ra, ông la hét khóc lóc thảm thiết nhưng vẫn bị đem lên kiệu đưa về cung. Ông viện đủ mọi cách để từ chối nhưng vẫn bị hai ông Tường và Thuyết ép phải lên ngôi. Vua Kiến Phúc ở ngôi được có hơn 6 tháng th́ phải bệnh mất ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884). Có sách nói rằng Vua bị ông Tường thuốc chết v́ Vua bắt gặp ông Tường đang tư t́nh với bà phi Nguyễn Thị Hương, để bịt miệng Vua, lợi dụng lúc Vua đang bệnh ông Tường bỏ thuốc độc vào thuốc trị bệnh của Vua.

    Sau khi kư hiệp ước Quí Mùi với nước ta, quan Toàn quyền Harmand ra Bắc kỳ để sửa sang sự cai trị, lập ra đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính "khố xanh" và băi đội lính cờ vàng mà Thiếu tướng Bouet đă mộ được. Quân Pháp tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Đáp cầu, Hưng Hóa, Tuyên Quang, ...

    V́ biết nước Tàu quá đông nên Pháp cũng muốn làm hoà, chánh phủ Pháp sai Trung tá Fournier lên Thiên Tân để nghị hoà với Tổng đốc Tàu Lư Hồng Chương. Hai bên kư hoà ước Fournier năm Giáp Thân (1884) trong đó Tàu chấp nhận là Pháp bảo hộ nước Việt Nam.

    Nước Pháp có sai ông Công sứ Patenôtre từ Tàu sang Huế để sửa lại tờ hoà ước của ông Harmand đă kư ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883), rồi đến ngày 13 tháng 5 năm 1884 Dương lịch, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thận Duật và ông Tôn thất Phan kư tờ hoà ước mới (hoà ước Patenôtre), trong đó Triều đ́nh Huế chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm 2 khu vực là Trung kỳ và Bắc kỳ, trên giấy tờ th́ mổi kỳ có một cách cai trị khác nhau (Trung kỳ bảo trợ chứ không phải bảo hộ) nhưng trên thực tế th́ từ từ Pháp bảo hộ tất cả, Triều đ́nh Huế chỉ là hư vị mà thôi. Pháp bắt Việt Nam phải trả cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam nhưng ông Nguyễn Văn Tường thương lượng để đem cái ấn đó ra mà nấu chảy.



    Niên hiệu

    Hàm Nghi
    Năm sanh, năm mất

    1871-1943
    Giai đoạn trị v́

    1884-1885
    Miếu hiệu

    .
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Minh, Nguyễn Phúc Ưng Lịch

    Sau khi vua Kiến Phúc mất rồi, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là ông Chánh Mông lên ngôi mới phải. Nhưng hai ông Tường và ông Thuyết sợ lập vua lớn tuổi th́ các ông ấy mất quyền hành nên chọn ông Ưng Lịch là em ruột ông Chánh Mông mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.



    Viên Khâm sứ Rheinart thấy hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cứ tự tiện lập vua không hỏi ư ông trước đúng như đă giao kết nên gởi quân vào Huế bắt Triều đ́nh phải xin phép. Ông Thuyết và Tường phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng chữ Nho (chữ Tàu), hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi.

    Năm sau (1885), Thống Tướng De Courcy được chánh phủ Pháp cử sang Việt-Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ ở Việt-Nam. Tướng De Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của ông, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đ́nh Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bật tướng lảnh là đi cửa chánh thôi cho đúng với nghi thức triều đinh, nhưng tướng De Courcy nhất định không chịu.

    Ông Nguyễn Văn Tường và ông Tôn Thất Thuyết thấy Pháp khinh mạn Vua ḿnh như thế đều giận lắm bèn nhất định tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá vào đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch, đến sáng th́ quân Pháp phản công, quân ta thua chạy.

    Ông Nguyễn Văn Tường cho người rước Vua Hàm Nghi (lúc nầy mới 13 tuổi) trực chỉ tới thành Quảng Trị để lánh nạn nhưng nữa đường th́ ông bỏ Vua ra tŕnh diện với quân Pháp. Tướng De Courcy hẹn cho ông hai tháng phải t́m cách để rước Vua về. Ông Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước Vua về nhưng ông Thuyết cản thư không cho Vua biết.

    Ông Thuyết ở Quảng B́nh làm hịch Cần Vương để kêu gọi dân chúng giúp Vua chống Pháp, dân chúng nổi dậy rất đông, đâu đâu cũng có kháng chiến nhưng v́ rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh (mạnh nhất là phong trào của Đề Thám). Có thuyết kể rằng khi ông Tường tới kêu vua bỏ trốn, vua trả lời rằng "ta có đánh với ai đâu mà phải chạy ?" nhưng quân hộ vệ đă nhào tới ôm vua bỏ lên kiệu và tuông thành trốn. Khi ông Thuyết ra hịch Cần Vương, kể tội ác của Pháp th́ vua Hàm Nghi mới trả lời rằng : "Bây giờ Trẫm mới hiểu" và từ đó đă trở thành một lảnh tụ kháng chiến dũng cảm.

    Hết hạn hai tháng th́ cả gia đ́nh ông Nguyễn Văn Tường bị ông De Courcy đài ra Côn Đảo rồi sau đó bị đưa tới đảo Haiti ở Thái B́nh Dương. Được ít lâu th́ ông Tường mất, xác được đưa về chôn ở quê nhà.

    Trong thời gian nầy, quân Tàu lại sung đột với quân Pháp ở Bắc kỳ v́ Triều đ́nh Trung Hoa không chấp nhận cái hoà uớc mà tướng Lư Hồng Chương đă kư, viện cớ là Triều đ́nh Tàu không hay biết ǵ về vụ đó (có sách nói là Tàu giận vụ Pháp bắt hủy cái ấn của Tàu ban cho Việt Nam), cuộc chiến bùng nổ dử dội ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, ... Hải quân Pháp bắn phá Phúc Châu và vây Đài Loan. Tới năm 1885, chánh phủ Tàu thấy chiến tranh không lợi nên thuận kư tờ hoà ước Thiên Tân với Pháp ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu, trong đó Tàu chấp nhận là Việt Nam thuộc Pháp chứ không thuộc Tàu nữa và bắt đầu vẽ lại một cách chánh thức biên giới Việt-Hoa. Từ đây trở đi coi như Pháp đă chiếm hết nước ta (xin coi h́nh ảnh trong trang ""Những tấm h́nh của ông Bác sĩ Hocquard").




    Niên hiệu

    Đồng Khánh
    Năm sanh, năm mất

    1864-1889
    Giai đoạn trị v́

    1885-1889
    Miếu hiệu

    Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông

    Thấy vua Hàm Nghi đă thoát ly triều đ́nh kéo cờ khởi nghĩa chống Pháp, Thống tướng De Courcy sai ông De Champeaux lên yết kiến bà Từ Dũ là mẹ đẻ của Vua Tự Đức để xin lập ông Chánh Mông lên làm Vua. Ngày 6 tháng 8 âm lịch năm Ất Dậu (1885), con nuôi thứ hai của Vua Tự Đức, tên là Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ Pháp làm lễ thụ phong, được tôn làm Vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh.

    Sách Trần Trọng Kim viết "Vua Đồng Khánh tính t́nh hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được ḷng người Pháp", nói một cách khác th́ Vua Đồng Khánh không chống Pháp.
    Lúc đó Vua Hàm Nghi vẩn c̣n ở mạn Quảng B́nh, Pháp dồn quân đánh mạnh về vùng nầy, ông Tôn Thất Thuyết thấy thế yếu, không chống nổi quân Pháp nên bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé thuộc huyện Tuyên Hóa rồi nói rằng sang Tàu xin cầu cứu. Ông Tôn Thất Thuyết ở lại bên Tàu và chết già ở tỉnh Quảng Đông, có sách nói rằng v́ nước Tàu mới kư hiệp ước làm hoà với Pháp nên không muốn giúp Việt Nam (sách Trần Trọng Kim th́ nói ông Thuyết lên Lai Châu nương tựa vào họ Điêu, đến lúc nghe tiếng Pháp lên đánh liền bỏ họ Liêu mà trốn sang Tàu).

    Vua Đồng Khánh đích thân ra tận Quảng B́nh để dụ Vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng về hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhưng không thành công.
    Đến tháng giêng năm Mậu Tư (1888), Vua Hàm Nghi bị tên hầu cận Trương Quang Ngọc tham tiền nên cùng một số người tới tấn công trại Vua ban đêm trong lúc ngủ, giết quân tùy tùng trong đó có Tôn Thất Thiệp (con của Tôn Thất Thuyết), rồi đem Vua về nộp cho Pháp để lấy thưởng. Lúc nầy vua đă 18 tuổi, từ lúc bị bắt vua Hàm Nghi không nói năng ǵ cả chỉ nhất thiết chối rằng ḿnh không phải là vua (có sách nói là quân Pháp rất bối rối v́ không biết có phải là vua Hàm nghi không, các quan lại trong vùng có đến bái mạng nhưng vua coi như không biết, nhưng khi thầy học củ của vua là Nguyễn Thuận tới thăm th́ vua Hàm Nghi vái chào, từ đó viên quan Pháp Dabat mới chắc là vua Hàm Nghi). Pháp đày Vua Hàm Nghi sang sứ Algérie, ở đó Vua lập gia đ́nh với một người Pháp, có 3 con, 2 gái 1 trai, và mất năm 1944. Hài cốt sau được chuyển về Pháp.

    (sau nầy tên Trương Quang Ngọc bị ông Phan Đ́nh Phùng -đảng Văn Thân trong phong trào Cần Vương- sai quân vây bắt rồi đem ra chém đầu để trị tội bán Vua)

    Ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tư (28-1-1889) vua Đồng Khánh thọ bệnh mà mất, ở ngôi được 3 năm, thọ 26 tuổi.




    Niên hiệu

    Thành Thái
    Năm sanh, năm mất

    1879-1954
    Giai đoạn trị v́

    1889-1907
    Miếu hiệu

    Hoài Trạch Công Hoàng Đế
    Tên Húy

    Nguyễn Phúc Chiêu, Nguyễn Phúc Bửu Lân

    Con vua Đồng Khánh mới 3 tuổi nên không nối ngôi được. Triều đ́nh Huế và Khâm sứ Rheinart đă đồng ư đưa Bửu Lân là con của vua Dục Đức lên ngôi lấy hiệu là Thành Thái ngày 2-2-1889 (lúc đó mới vừa 10 tuổi đang bị giam trong ngục với mẹ -sách TTK). Sách nói vua Thành Thái là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Nhà vua muốn áp dụng các công cuộc cải cách quốc gia (chính nhà Vua đă hớt tóc ngắn, biết lái xuồng máy và xe hơi). Nhưng trước các ư tưởng cấp tiến của nhà Vua, người Pháp lo ngại t́m cách ngăn trở. Để che mắt, Vua thành Thái giả hành động như một kẻ điên rồ. Năm 1907, Pháp biết Vua t́m cách chống Pháp nên vu khống là Vua bị điên rồi truất phế Vua Thành Thái đem giữ tại Vũng Tàu và đến năm 1919 th́ đem sang an trí tại đảo La Réunion bên Phi Châu (đi cùng một lúc với vua Duy Tân sau nầy).

    Bị giam cầm nơi quê người măi đến tháng 5 năm 1947 (sau khi vua Duy Tân mất) cựu hoàng Thành Thái mới được cho về Việt Nam và quản thúc tại Sàigon cho đến 24-3-1954 là ngày vua mất, thọ 76 tuổi.
    Last edited by alamit; 04-01-2012 at 02:52 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 29-04-2012, 10:42 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 24-09-2011, 11:01 PM
  3. Replies: 9
    Last Post: 08-04-2011, 04:20 PM
  4. Replies: 7
    Last Post: 18-03-2011, 07:49 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 04-11-2010, 05:35 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •