Page 24 of 33 FirstFirst ... 14202122232425262728 ... LastLast
Results 231 to 240 of 326

Thread: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

  1. #231
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến dịch Lam Sơn 719
    P3

    QDNDVN/CS BẮC VIỆT CHUẨN BỊ SẲN CHIẾN TRƯỜNG


    Theo bài viết trên
    http://www.vnmilitaryhistory.net/ind...ic,132.30.html


    Trong thực tiễn diễn biến, khi cao nhất – ngày 10/3/1971 quân Mỹ đă tăng tổng số quân từ 9000 tên dự kiến lên đến 15.000 tên, bao gồm điều động cả thảy 5 tiểu đoàn thiết giáp (tăng 1 tiểu đoàn) và 4 tiểu đoàn pháo binh (tăng 1 tiểu đoàn) để hỗ trợ trực tiếp cho quân nguỵ; điều động khẩn cấp 3 lữ đoàn bộ binh trong 2 ngày 23 và 24 tháng 2 năm 1971 từ Thừa Thiên ra vùng Quáng Ngang, Mai Lộc, điểm cao 241, Khe Sanh (tức là Lữ đoàn 11 bộ binh Mỹ, 2 lữ đoàn dù thuộc sư đoàn 101 dù Mỹ) và cả thảy 4 tiểu đoàn pháo binh (tăng hơn dự kiến 2 tiểu đoàn) để bảo vệ phía sau cho quân nguỵ. Đây là không kể hơn 300 máy bay lên thẳng được điều thêm để phục vụ cho cơ động và vận chuyển lực lượng.

    Để phục vụ cho kế hoạch hành quân chính thức, ngay từ tháng 11 năm 1970 địch đă tiến hành một kế hoạch nghi binh lớn, tung tin chuẩn bị tiến công ra miền Bắc (quân khu 4) nhằm phân tán sự chuẩn bị và kế hoạch đối phó của ta trên hướng tiến công chính của chúng.

    Tổ chức phân chia sử dụng lực lượng của quân nguỵ như sau:

    1. Cánh giữa đi dọc đường 9 là cánh chủ yếu do 1 chiến đoàn đặc nhiệm phụ trách. Chiến đoàn đặc nhiệm này gồm có lữ đoàn 1 dù, 2 thiết đoàn 11 và 17 (sau tăng thêm lữ đoàn 2 dù), có nhiệm vụ đánh chiếm Bản Đông, Sê Pôn và khu vực Đông Bắc, Tây Nam Sê pôn.

    2. Cánh Bắc do lữ đoàn 3 dù và liên đoàn 1 biệt động quân phụ trách, có nhiệm vụ bảo vệ sườn Bắc từ Ta-púc đến Tây Bắc điểm cao 530 (Đông Bắc Sê pôn).

    3. Cánh nam do sư đoàn bộ binh 1 (đủ 3 trung đoàn), sau tăng cường 2 lữu đoàn thuỷ quân lục chiến (147, 258), phụ trách, có nhiệm vụ bảo vệ sườn nam từ Lao Bảo đến nam Sêpôn, chiếm lĩnh khu vực Sađi - Mường Noọng và các điểm cao 640, 550, 462, 723, 748.

    4. Lực lượng dự bị phía sau có lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến và trung đoàn 54 bộ binh thuộc sư đoàn 1 bộ binh.

    Địch hy vọng, với kế hoạch tác chiến như trên, chúng sẽ đạt mục đích cuộc hành quân, sẽ nhanh chóng chặn được tiếp tế, phá được kho tàng của ta, tránh được tác chiến lớn với chủ lực của ta, v́ chúng dự liệu rằng đối tượng tác chiến chủ yếu của chúng ở đây là bộ đội bảo vệ hành lang và kho tàng, c̣n chủ lực của ta không thể nào điều động đến kịp.

    E. Những điểm mạnh và yếu của địch
    III. Đặc điểm chiến trường

    1. Khu vực từ Cửa Việt đến Lao Bảo
    2. Khu vực từ Tây Lao Bảo đến Thà Khống - Nà Bo
    3. Khu vực từ Tây Sê pôn đến Mường Ph́n


    IV. CHủ trương chiến lược và Quyết tâm chiến dịch của ta

    A - CHủ trương chiến lược

    B - Chủ trương của Quân uỷ Trung ương

    Từ mùa hè năm 1070, Quân uỷ Trung ương đă có chủ trương tiến hành ráo riết chuẩn bị mọi mặt trên các chiến trường Trung Hạ Lào và miền Nam quân khu 4, đồng thời chỉ thị các Bộ Tư lệnh chiến trường B2 và B3 (Nam Bộ và Tây Nguyên) tiến hành chuẩn bị chiến trường ở Đông Bắc Cam-pu-chia và ở vùng Ba biên giới. Chấp hành chủ trương của Quân uỷ trung ương, Bộ Tổng tham mưu đă tích cực triển khai kế hoạch chuẩn bị mọi mặt như sau:

    1. Về chuẩn bị lực lượng

    Trên cơ sở dự kiến đối tượng tác chiến trong chiến dịch sắp tới là Mỹ và nguỵ, nhưng chủ yếu là quân nguỵ được Mỹ chi viện về không quân và về mọi mặt đảm bảo khác, từ đầu năm 1970 ta đă tổng kết kinh nghiệm đánh Mỹ, đánh nguỵ nói chung, đặc biệt chú trọng tổng kết nghiên cứu việc đánh tiêu diệt chiến đoàn quân nguỵ có sự yểm hộ của không quân Mỹ. Tiếp theo đó, cán bộ được học tập về đường lối quân sự của Đảng, về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, chú trọng học cách đánh tiêu diệt từng chiến đoàn nguỵ, cách đánh tiêu diệt tiểu đoàn địch đóng ở điểm cao có công sự pḥng ngự tương đối vững chắc bằng tác chiến hiệp đồng binh chủng.

    2. Về tổ chức chuẩn bị chiến trường

    - Từ tháng 6 năm 1970, Bộ đă tăng cường cán bộ và cơ quan cho đoàn 968 để trực tiếp tiến hành việc tổ chức chuẩn bị chiến trường ở Trung Hạ Lào. Phần lớn cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở lên thuộc đủ các lực lượng tham gia chiến dịch đều được đi nghiên cứu địa h́nh và đề ra kế hoạch tác chiến. Các lực lượng này bao gồm lực lượng tại chỗ thuộc quyền Bộ Tư lệnh 559, lực lượng các quân chủng, binh chủng pḥng không, pháo binh, xe tăng, các sư đoàn chủ lực của Bộ và của quân khu 5 lúc đó đang tập kết ở địa bàn này.

    - Đến tháng 9 năm 1970, một số đơn vị chủ lực của Bộ và Quân khu 5 có mặt tại khu vực địa bàn chiến dịch, đă xác định phương án tác chiến của ḿnh và diễn tập theo phương án.

    - Đến giữa tháng 10 năm 1970, việc nghiên cứu địa h́nh, chuẩn bị kế hoạch tác chiến đă xong một bước cơ bản ở chiến trường Trung Hạ Lào.

    Trong lúc đó t́nh h́nh sẵn sàng chiến đấu ở quân khu 4 chưa thật tốt. Để đảm bảo miền Bắc xă hội chủ nghĩa được vững chắc trong mọi t́nh huống trước mọi hành động phiêu lưu của tập đoàn Nich-xơn, Bộ chủ trương: song song với việc tích cực hoàn thành chuẩn bị chiến trường ở Trung Hạ Lào, phải khẩn trương chuẩn bị chiến trường ở quân khu 4, nhất là ở Nam quân khu 4. Do đó Bộ đă chỉ thị cho các lực lượng tại chỗ và các lực lượng chủ lực cơ động của Bộ hiện đang đứng chân ở đất quân khu 4 phải năng thêm một bước tŕnh độ sẵn sàng chiến đấu để đối phó với địch tại chỗ.

    3. Về tổ chức chỉ huy

    - Tháng 7 năm 1970, Quân uỷ Trung ương quyết định sát nhập Bộ Tư lệnh đoàn 968 và Bộ Tư lệnh đoàn 559 với nhau để thống nhất lănh đạo và chỉ huy việc vận chuyển chiến lược và việc tác chiến ở Trung Hạ Lào

    - Tháng 10 năm 1970, Bộ quyết định thành lập Binh đoàn 70 gồm các sư đoàn 304, 308, 320 và các đơn vị binh chủng trong biên chế để làm lực lượng cơ động ṇng cốt của chiến dịch.

    - Trước khi chính thức mở chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào, Bộ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Đường 9 – Nam Lào (bí danh Bộ Tư lệnh 702) để chỉ huy mọi lực lượng tham gia chiến dịch.

    4. Về kế hoạch tác chiến
    Để sẵn sàng đánh bại địch, ta có kế hoạch tác chiến tiêu diệt địch trên các hướng: Đường 9, Đông Bắc Cam-pu-chia và vùng ba biên giới. Riêng ở hướng đường 9 kế hoạch tác chiến được chuẩn bị cụ thể, chu đáo và khẩn trương hơn.

    Quân uỷ trung ương xác định mục đích của chiến dịch đường 9 là: Tiêu diệt phần lớn lực lượng địch; bảo vệ bằng được con đường vận chuyển chiến lược; đồng thời phối hợp đắc lực với các chiến trường khác để đẩy mạnh hoạt động chung.

    Trong kế hoạch tác chiến ở đường 9 ta đă dự kiến khu vực tác chiến chủ yếu ở bản Đông – Lao Bảo – Khe Sanh, trong đó lấy Bản Đông – Lao Bảo làm khu vực quyết chiến. Ta c̣n xác định phải kiên quyết chặn và tiêu diệt địch ở bản Đông, phải nhanh chóng tiêu diệt địch trong trường hợp chúng tiến ra Sêpôn và khi chúng rút lui. Trong lúc đánh địch ở các khu vực tác chiến nói trên, phải tăng cường lực lượng đánh địch ở trên đường 9 phía bên đất Việt Nam và phía sau lưng địch.

    Bên cạnh kế hoạch tác chiến ở đường 9 gồm cả Trung Hạ Lào, ta c̣n có kế hoạch tác chiến của binh đoàn 70 đánh tiêu diệt địch nếu chúng liều lĩnh tiến công ra quân khu 4. Ta c̣n dự tính có thể sử dụng binh đoàn 70 chủ động tiến công vào một chiến trường khác trong trường hợp địch gặp khó khăn, không đánh ra đường 9 hoặc quân khu 4. Ngoài ra, c̣n có kế hoạch tác chiến của lực lượng B5 và của lực lượng trực thuộc Bộ tư lệnh 559, chủ động đánh trước địch, khi chúng chưa tiến công ra Trung Hạ Lào.

    Alamit:

    Chiến dịch Lam sơn 719:
    Mỹ chủ trương muốn CS Bắc việt có tiếng nói trong Hội nghị Paris nên sắp xếp mọi việc. Cho "Điệp viên 2 mang" thông báo chiến dịch trước với CS Bắc việt. Thêm vào đó "Nội gián - Cố vấn QS Phủ Tổng thống" cung cấp chi tiết kế hoạch hành quân.

    CS Bắc việt được t́nh báo mật báo chuẩn bị sẳn chiến trường, nhưng tỉ số thương vong lại rất cao "không dám tiết lộ", tại sao vậy?. Vào đầu trận TQLC VNCH có bị phục kích, nhưng sự chiến đấu dủng cảm của các chiến sỉ VNCH làm CS Bắc việt bị co cụm lại, sau đó được tiếp viện, chiến trường đảo ngược t́nh thế?

    Cuối cùng, Quân đội VNCH rút lui, c̣n CS Bắc việt có lẻ ... không c̣n sức hay không dám rượt theo? Qua đó, thắng thua c̣n tùy theo đơn vị tác chiến tại chổ, trận nào, ngày nào trong chiến dịch, chỉ có nội bộ ...cảm thấy đau ...mà không dám ho thôi.

    Xem đoạn film "Sự Thật Vn" post lên cho thấy t́nh "Binh đệ chí binh", tính nhân bản cao cả của Quân lực VNCH, luôn cứu thương binh và bằng mọi giá mang xác đồng đội về đơn vị lo hậu sự khác hẳn với CS Bắc việt, bắn chết thương binh, bỏ mặc xác bộ đội, bằng chứng cho đến nay c̣n 300 - 500000 mất tích?!! Làm sao CS Bắc việt cho đồng bào của họ theo dỏi thực tế t́nh h́nh chiến sự như chính phủ VNCH.

  2. #232
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tài liệu CS Việt nam: Trận tiến công cứ điểm Làng Vây 1968



    Sử dụng trinh sát trận tiến công cứ điểm Làng Vây của Trung đoàn bộ binh 24
    Ngày 6 tháng 2 năm 1968


    Tiến công cứ điểm Làng Vây là trận đánh hiệp đồng binh chủng cấp trung đoàn bộ binh lần đầu tiên ta sử dụng xe tăng tiêu diệt cứ điểm tiểu đoàn địch pḥng ngự trong chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh Xuân Hè năm 1968. Trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, tiêu diệt và bắt nhiều quân địch, thu nhiều vũ khí, trang bị, chiếm giữ được mục tiêu, thực hiện được ư định của cấp trên. Trận đánh đă để lại nhiều bài học quư báu về sử dụng trinh sát nắm địch, có thể nghiên cứu vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

    I. T́nh h́nh chung

    A. Địa h́nh, thời tiết

    Cứ điểm Làng Vây nằm ở phía tây nam Tà Cơn 8km, cách thị trấn Hướng Hoá 6km và cách đông Lao Bảo 7km, thuộc vùng rừng núi tỉnh Quảng Trị. Cứ điểm Làng Vây nằm trên 2 điểm cao 320 và 230, xung quanh có cỏ tranh xen kẽ rừng cây non lúp xúp, tương đồi trống trải, tiện quan sát theo dơi hoạt động của địch. Bắc cứ điểm 3km có điểm cao 503, đông nam cứ điểm 3km có điểm cao 420, nam cứ điểm (nam sông Sê Pôn) có điểm cao 570 và 841; các điểm cao này tiện cho ta bố trí đài quan sát, vẽ sơ đồ, cảnh đồ cứ điểm trên các mặt bắc, đông và nam. Gần cứ điểm, cách hàng rào 40 đến 50m, địch ủi hết cây cối nên rất trống trải, gây khó khăn cho trinh sát tiếp cận để tiềm nhập vào bên trong.

    Phía bắc cứ điểm có suối Làng Vây; phía đông nam cứ điểm 2km có suối Làng Trài; phía tây nam cứ điểm khoảng 2km có sông Sê Pôn.

    Thời tiết khi diễn ra trận đánh là mùa khô nên các sông suối trong khu vực nước cạn, ít ảnh hưởng đến hoạt động của trinh sát.


    B. T́nh h́nh địch

    Địch ở cứ điểm Làng Vây thuộc lực lượng đặc biệt của quân ngụy, do Mỹ trực tiếp tổ chức huấn luyện và chỉ huy, làm nhiệm vụ biệt kích, thám báo bảo vệ cho tuyến pḥng ngự của chúng trên đường số 9.

    Lực lượng trong cứ điểm: Bộ phận chỉ huy có 25 tên cố vấn Mỹ (A101) và khoảng 20 tên sĩ quan ngụy. Bốn đại đội đặc biệt: 101, 102, 103, 104 (quân số mỗi đại đội từ 61 đến 72 tên), đại đội tân binh (83 tên), đại đội biệt kích (150 tên) chủ yếu là người Thượng, 4 toán trinh sát, 1 tiểu đội chiến tranh tâm lư và một số phân đội phục vụ, bảo đảm.

    Trước ngày ta tiến công, có khoảng 350 tên từ cứ điểm Huội San chạy về Làng Vây nên quân số trong cứ điểm có khoảng 1.074 tên. Vũ khí, trang bị gồm có 4 khẩu cối l06,7mm, 4 khẩu cối 81mm, 16 khẩu cối 61mm, 2 khẩu ĐKZ 57mm, 1 khẩu ĐKZ 75mm, 27 khẩu M79 một số M72 và nhiều súng tiểu liên, trung liên, đại liên.

    Bố trí cụ thể: Khu A có Đại đội 102 và trận địa cối 81mm; khu E có bộ phận chỉ huy và trận địa cối 106,7mm; khu G bố trí kho trạm hậu cần; khu B có Đại đội 103, trận địa cối l06,7mm, cối 81mm; khu C có Đại đội 104 và trận địa cối 81mm; khu D có Đại đội 101 và trận địa cối 81mm. Công sự gồm có 3 hầm ngầm, mỗi cái rộng 3m, dài từ 6,8 đến 14m, chia thành nhiều ngăn, được đúc bằng bê tông dày 20cm, trên nắp xếp bao cát; 17 lô cốt đúc bằng bê tông cốt thép, phía trên xếp bao cát, xung quanh có lỗ châu mai; 13 ụ súng làm bằng gỗ đất, bao cát...; trong từng khu c̣n có hầm ngủ của lính đúc bằng bê tông nửa ch́m, nửa nổi, trên nóe xếp bao cát. Xung quanh cứ điểm có từ 5 đến 6 lớp hàng rào kẽm gai, gồm 1 lớp hàng rào mái nhà cao l5m, rộng 2m; 1 đến 2 lớp hàng rào cũi lợn cao 1,5m, rộng 3m; 1 đến 2 lớp hàng rào bùng nhùng (chồng 3 cuộn); 1 lớp hàng rào nhặng bộ binh cao 0,4m, rộng 1,6m; 1 lớp hàng rào đơn mắt cáo cao 2m. Các hàng rào được bố trí kết hợp với cát băi ḿn và hệ thống máy báo động. Bên trong cứ điểm có các hàng rào phân khu. Cứ điểm tiền tiêu được bố trí trên điểm cao 230, cấu trúc h́nh tṛn, đường kính khoảng l00m, do 2 tiểu đội thuộc Đại đội 103 pḥng ngự. Trong cứ điểm có 3 lô cốt, 1 nhà hầm, xung quanh có 3 lớp hàng rào kết hợp các loại ḿn và hệ thống máy báo động.

    Quy luật và thủ đoạn hoạt động của địch: Khi ta chưa mở chiến dịch, chúng thường dùng lực lượng khoảng trung đội, cao nhất là đại đội lùng sục ra vùng phía tây - tây bắc cứ điểm và nam đường 9, có lúc đến biên giới Việt - Lào. Khi bị ta phát hiện và tiêu diệt một số tên th́ chúng co lại, chỉ sục sạo xung quanh cứ điểm. Từ sau trận Huội San, địch chỉ lo củng cố cứ điểm, tăng cường canh gác và phục kích trong hàng rào, không dám lùng sục ra bên ngoài. Các vị trí canh gác và phục kích thường xuyên thay đổi. Ban đêm chúng thường ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên, có lúc bắn pháo sáng ra trước tiền duyên. Đây là khó khăn lớn đối với trinh sát ta khi tiềm nhập. Đồng thời chúng sử dụng hỏa lực pháo binh, không quân đánh vào những nơi nghi ngờ ta tập kết lực lượng như các điểm cao 841, 519, 503 và dọc đường 9 lên Lao Bảo.

    Địch liên quan: đông bắc Làng Vây 8km có căn cứ Tà Cơn, hướng tây và tây bắc Tà Cơn có 2 cứ điểm ở điểm cao 845, 832. Hướng bắn Tà Cơn có cứ điểm Động Tri. Hướng đông có căn cứ pháo binh 241 trực tiếp chi viện cho các lực lượng địch pḥng ngự ở khu vực Khe Sanh.

    Nh́n chung, cứ điểm Làng Vây là nơi pḥng ngự mạnh của địch, có quân số đông, hỏa lực mạnh, công sự vững chắc, vật cản dày đặc, lực lượng biệt kích, thám báo thông thạo địa h́nh. Tuy nhiên, cứ điểm nằm trong thế cô lập dễ bị bao vây, chi viện cho nhau khó khăn.

    Tóm lại: Địch pḥng ngự có thời gian chuẩn bị, các mục tiêu tương đối ổn định trinh sát ta đă theo dơi bám nắm chúng từ đầu; các hoạt động của chúng thường thành quy luật, ta dễ phán đoán và chủ động theo dơi.

    Tuy nhiên, địch bố trí vật cản dày đặc tổ chức cảnh giới chặt chẽ nên khó khăn cho trinh sát trong quá tŕnh tiềm nhập điều tra. Các mục tiêu được chúng ngụy trang kín đáo, nhất là hệ thống hầm ngầm gây khó khăn cho trinh sát trong việc xác định vị trí, đặc điểm. Cứ điểm cấu trúc phức tạp, có nhiều hàng rào, trinh sát phải vào bên trong mới xác định được cụ thể. Giai đoạn chuẩn bị chiến trường tiến hành trong điều kiện chiến dịch đă nổ súng nên định đă đề pḥng, rất khó khăn cho trinh sát hoạt động. Chúng tăng cường cảnh giới, bố trí thêm ḿn các loại ở phía bắc và tây nam cứ điểm, khó khăn cho trinh sát điều tra xác minh.


    C. T́nh h́nh ta

    Trung đoàn bộ binh 24 là đơn vị chủ lực của Bộ đă được huấn luyện cơ bản; cán bộ, chiến sĩ có ư chí quyết tâm cao. Cùng phối hợp chiến đấu với Trung đoàn bộ binh 24 c̣n có Trung đoàn bộ binh 9 bố trí ở phía đông và Trung đoàn bộ binh 6o bố trí ở bắt Làng Vây.

    T́nh h́nh trinh sát: Do kế hoạch chiến đấu thay đổi nên đơn vị chiến đấu và lực lượng trinh sát chuẩn bị chiến trường ở Làng Vây cũng thay đổi, cụ thể như sau:

    Từ đầu tháng 11 năm 1967, một phân đội thuộc Đại đội 2 1 trinh sát Mặt trận và 9 cán bộ đặc công từ tổ trưởng 3 người trở lên) thuộc ĐàI đội 40 Đoàn 33 đặc công mặt trận bắt đầu điều tra t́nh h́nh cứ điểm.

    Đến giữa tháng 12 năm 1967 có thêm tiểu đội trinh sát của Trung đoàn bộ binh 9 thuộc Sư đoàn 304 tham gia hoạt động. Từ ngày 10 tháng 1 năm 1968, trinh sát và đặc công của Sư đoàn 304 bắt đầu tham gia chuẩn bị.

    Từ ngày 20 tháng 1 năm 1968 trinh sát Trung đoàn bộ binh 24 nhận nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường ở Làng Vây. Đại đội trinh sát Trung đoàn bộ binh 24 gồm 3 trung đội, quân số khoảng 70 đồng chí. Cùng tham gia hoạt động c̣n có trinh sát pháo binh, công binh, xe tăng và tiểu đội trinh sát Trung đoàn bộ binh 101 của Sư đoàn bộ binh 325.

    Tóm lại: Tham gia chuẩn bị chiến trường cho đánh trận Làng Vây gồm có nhiều thành phần lực lượng; trinh sát Trung đoàn bộ binh 24 tuy lực lượng ít song được nhận bàn giao một số kết quả điều tra của trinh sát đặc công sư đoàn và mặt trận. Cán bộ, chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 24 có ư chí quyết tâm cao, quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, đă có một số kinh nghiệm trong điều tra cứ điểm địch. Tuy nhiên, đến ngày 20 tháng 1 năm 1968 do phương án tác chiến thay đổi cơ bản, trước đây chủ yếu chuẩn bị ở hướng bắc và đông, chỉ có một bộ phận chuẩn bị ở hướng tây nam, nay chủ yếu chuyển xuống hướng nam, do vậy trinh sát gặp nhiều khó khăn.

    T́nh h́nh lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương: Liên quan đến nhiệm vụ nắm địch, địa h́nh cho trận tiến công cứ điểm Làng Vây có Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương huyện Hướng Hoá và dân quân du kích ở tây nam cứ điểm Làng Vây. Họ có khả năng giúp đỡ trinh sát như dẫn đường, cung cấp t́nh h́nh, lập bàn đạp để hoạt động. Nhân dân quanh vùng giải phóng sống bất hợp pháp với địch; số dân trong ấp chiến lược Làng Vây cũ bị địch kiểm soát, không cung cấp được t́nh h́nh cho trinh sát. Từ tháng 7 năm 1967 một số cơ sở của ta trong ấp chiến lược Làng Vây bị mất liên lạc.


    II. Tổ chức, chuẩn bị chiến đấu

    A. Chủ trương, ư định của cấp trên

    1. Ư định của chiến dịch

    Sau khi ta tiêu diệt cứ điểm Khe Sanh và Huội San, địch vẫn chưa ra ứng cứu, giải tỏa. Trước t́nh h́nh đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh ra lệnh cho Sư đoàn bộ binh 304 khẩn trương tiến công cứ điểm Làng Vây. Phối hợp chiến đấu với Sư đoàn bộ binh 304 ở phía bắc có Sư đoàn bộ binh 325 (thiếu) vây ép cứ điểm 832 và 84 dùng pháo binh khống chế cụm cứ điểm Tà Cơn đẩy quân địch vào t́nh thế nguy khốn, buộc dự bị chiến lược của chúng phải ra ứng cứu giải tỏa để tạo điều kiện cho cuộc Tổng tiến công nổi dậy ở đồng bằng và đô thị.

    2. Ư định của sư đoàn

    Sử dụng Trung đoàn bộ binh 24 (thiếu) và lực lượng được tăng cường tiến công cứ điểm Làng Vây.

    Sử dụng Trung đoàn bộ binh 66 sẵn sàng đánh địch ứng cứu giải tỏa từ Tà Cơn xuống Làng Vây và địch đổ bộ đường không xung quanh khu vực Làng Vây.

    Trung đoàn bộ binh 9 sẵn sàng đánh địch ứng cứu, giải tỏa bằng đường bộ theo đường 9 lên Khe Sanh và địch đổ bộ đường không xung quanh khu vực Khe Sanh. Sau khi Trung đoàn bộ binh 24 hoàn thành tiến công cứ điểm Làng Vây, sẵn sàng đưa lực lượng vào vây ép ở nam và đông nam cụm cứ diềm Tà Cơn.


    B. Nhiệm vụ của trung đoàn

    Trung đoàn bộ binh 24 (thiếu 1 tiểu đoàn) được phối thuộc Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 101 thuộc Sư đoàn bộ binh 325, Đại đội đặc công 4 của Sư đoàn bộ binh 304, đại đội đặc công mặt trận, tiểu đoàn tăng (thiếu 1 đại đội), 1 đại đội súng máy pḥng không 12,7mm, 1 trung đội súng phun lửa nhẹ và một số đơn vị bảo đảm khác. Quá tŕnh chiến đấu được tiểu đoàn pháo Đ74 và 2 tiểu đoàn công binh của mặt trận trực tiếp chi viện. Có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây trong đêm 6 rạng ngày 7 tháng 2 năm 19o8. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, để lại một phần lực lượng chốt giữ điểm cao 320; lực lượng c̣n lại cơ động về phía đông nam Làng Vây 2km cùng với Trung đoàn bộ binh 9 sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không xuống điểm cao 420.


    C. Ư định chiến đấu

    1. Cách đánh

    Dựa vào thế trận của cấp trên và của đơn vị bạn, bí mật cơ động lực lượng vào xây dựng trận địa xuất phát tiến công ở phía nam, tây, đông bắc cứ điểm, cách hàng rào địch khoảng 200m, xong trước 23 giờ ngày 6 tháng 2 năm 1968. Thực hành hỏa lực chuẩn bị 30 phút, mở nhanh 3 cửa mở. Phát huy sức mạnh hiệp đồng binh chủng đột phá chọc thủng pḥng ngự của địch. Nhanh chóng đánh chiếm mục tiêu chủ yếu, vận dụng linh hoạt các thủ đoạn chiến đấu tiêu diệt từng bộ phận, đánh bại phản kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch, hoàn thành nhiệm vụ được giao trong đêm, sẵn sàng chiến đấu ban ngày. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ để lại một bộ phận chốt giữ trận địa đă chiếm, lực lượng c̣n lại cơ động về đông nam cứ điểm 2km sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.

    2. Mục tiêu, hướng tiến công, cửa mở

    Mục tiêu tiến công chủ yếu: bộ phận cố vấn Mỹ ở khu E.

    Hướng tiến công chủ yếu: phía nam cứ điểm theo đường ô tô vào bộ phận cố vấn Mỹ.

    Hướng tiến công thứ yếu 1: hướng tây cứ điểm đánh vào khu B, khu A, phát triển vào khu E.

    Hướng tiến công thứ yếu 2: hướng đông bắc cứ điểm đánh vào khu D, phát triển vào khu E.

    Hướng đón lơng: đông cứ điểm.

    Cửa mở: 3 cửa mở (số 1 và 2 cho xe tăng) .

    3. Tổ chức hỏa lực tiêu diệt định

    Hỏa lực chi viện cho hành quân chiếm lĩnh xây dựng trận địa xuất phát tiến công: tiểu đoàn pháo Đ74 của mặt trận bắn phá hoại từ 17 giờ đến 17 giờ 45 phút ngày 6 tháng 2 năm 1968.

    Hỏa lực chuẩn bị 30 phút: từ 2 giờ đến 23 giờ 30 phút ngày 6 tháng 2 năm 1968; chi viện cho bộ binh, đặc công chuẩn bị mở cửa, đánh chiếm đầu cầu.

    Hỏa lực chi viện trong quá tŕnh tiến công, làm chủ trận đánh và rời khỏi chiến. đấu.

    4. Tổ chức, sử dụng lực lượng

    Trung đoàn tổ chức lực lượng thành các bộ phận:

    Bộ phận tiến công trên hướng chủ yếu: Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 101 thuộc Sư đoàn bộ binh 325 được phối thuộc 2 đại đội đặc công (thiếu) và Đại đội tăng 9.

    Bộ phận tiến công trên hướng thứ yếu 1: Tiểu đoàn bộ binh 5 được phối thuộc 2 tiểu đội đặc công và Đại đội tăng 3.

    Bộ phận tiến công trên hướng thứ yếu 2: Tiểu đoàn bộ binh 4 (thiếu 2 đại đội).

    Bộ phận đón lơng: Đại đội 2 của Tiểu đoàn bộ binh 4.

    III. Diễn biến chiến đấu, kết quả

    A. Diễn biến chiến đấu

    1. Giai đoạn chuẩn bị chiến trường

    Đây là trận đánh quan trọng có ư nghĩa lớn về mặt chiến dịch cho nên được sư đoàn trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến trường. Đồng thời được mặt trận và sư đoàn tăng cường lực lượng tnnh sát và đặc công để thực hành điều tra cứ điểm.

    Ngày 2 tháng 11 năm 1967 tnnh sát và đặc công bắt đầu hành quân, thiều ngày 3 tháng 11 đến hậu cứ Đại đội 2 Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương huyện Hướng Hoá nắm t́nh h́nh sơ bộ, thảo luận kế hoạch bảo đảm hậu cần và một số vấn đề cần thiết khác. Ngày 5 tháng 11 hành quân xuống bản Ta Cơi chuẩn bi hậu cứ, sau đó liên hệ với huyện Hướng Hoá nắm t́nh h́nh và xin người dẫn đường. Huyện Hướng Hoá cho 3 đồng chí bộ đội địa phương dẫn đường. Riêng t́nh h́nh về cứ điểm Làng Vây th́ huyện không nắm được.

    Từ ngày 10 tháng 11 năm 1967 bắt đầu điều tra cứ điểm. Trước hết trinh sát lên cao điểm 570 quan sát, vẽ sơ đồ, cảnh đồ mặt nam cứ điểm và sang bắc đường 9 quan sát vẽ sơ đồ, cảnh đồ mặt bắc cứ điểm. Sau đó thực hành trinh sát 3 lần (2 lần đi nghiên cứu xung quanh cứ điểm, một lần tổ chức thành 2 mũi tiềm nhập vào hết hàng rào 2 và 3 phía bắc cứ điểm.

    Từ giữa tháng 12 năm 1967, trinh sát và đặc công ngoài việt tiếp tục điều tra t́nh h́nh cứ điểm c̣n có nhiệm vụ giúp đỡ trinh sát pháo binh, công binh, xe tăng nắm t́nh h́nh địch, địa h́nh, đường cơ động, vị trí tập kết.

    Từ ngày 6 tháng 1 năm 1968, trinh sát các đơn vị theo nhiệm vụ được phân công đ́ sâu chuẩn bị trên hướng đơn vị ḿnh đảm nhiệm. Cụ thể: trên hướng bắc, trinh sát mặt trận đă tiềm nhập được thêm 2 lần qua hàng rào thứ 4. Hướng nam, trinh sát Sư đoàn bộ binh 304 tiềm nhập 2 lần vào qua hàng rào thứ 2 và 3. Hướng đông nam trinh sát Trung đoàn 9 của Sư đoàn bộ binh 304 cũng đă tiềm nhập qua các hàng rào thứ 2 và 3.

    Một số t́nh huống xảy ra:

    Ngày 17 tháng 12 năm 1967, đoàn cán bộ Trung đoàn 9 Sư đoàn bộ binh 304 đi trinh sát thực địa mặt nam cứ điểm đă bất ngờ gặp địch phục kích; nguyên nhân do giao nhiệm vụ cho bộ phận trinh sát đi trước cảnh giới không cụ thể nên không nắm được địch.

    Đêm 7 tháng 1 năm 1968, đặc công Sư đoàn bộ binh 304 sau khi tiềm nhập ra, thấy 1 dù hàng ở hàng rào ngoài cùng đă lấy về, nên địch biết có ta vào trinh sát đă tăng cường phục . kích, cảnh giới gây khó khăn cho những lần tiềm nhập sau.

    Tối 12 tháng 1 năm 1968, trinh sát Sư đoàn bộ binh 304 dẫn cán bộ vào nghiên cứu cứ điểm, khi tới làng Trài gặp địch phục kích, đồng chí trung đội phó trinh sát hy sinh. Trinh sát được lệnh đánh bọn địch phục kích để tiếp tục dẫn cán bộ vào trinh sát; nhưng địch đề pḥng, chúng tăng cường cảnh giới và đánh phá bằng hỏa lực, ta không trinh sát được. Nguyên nhân bị phục kích bất ngờ là do ta tiềm nhập quá lộ liễu và không tổ chức theo dơi thường xuyên, liên tục, nhất là thời điểm từ ngày chuyển sang đêm nên không nắm được lch mới ra phục kích.

    Từ ngày 20 tháng 1 năm 1968, phương án tác chiến của . Sư đoàn bộ binh 304 thay đổi cơ bản, trước đây chủ yếu chuẩn bị hướng bắc, đông nam và một bộ phận chuẩn bị . hướng tây nam, nay chủ yếu chuyển xuống phía nam. Thời gian chuẩn bị cho phương án này rất gấp, dự định ngày 24 tháng 1 năm 1968 Trung đoàn bộ binh 94 sẽ tiến công cứ điểm, nhưng không kịp, phải lùi lại đến ngày 6 tháng 2 năm 1968. Trinh sát Trung đoàn bộ binh 24 nhận nhiệm vụ muộn, thời gian chuẩn bị ngắn nhưng được tnnh sát đặc công mặt trận và sư đoàn bàn giao mục tiêu, hướng dẫn, . giúp đỡ, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ nên đă nhanh chóng nắm bắt được t́nh h́nh; đă thực hành vẽ sơ đồ cứ điểm trên các mặt nam, tây nam và bắc. Tổ chức tiềm nhập trên các hướng nam, tây nam và đông bắc, đặc biệt trên các hướng nam và tây nam, các tổ trinh sát đă tiềm nhập được qua các hàng rào 3 và 4, đă bổ sung được nhiều tin tức về địch và thực hành đưa dẫn cán bộ đ́ tnnh sát thực địa. Ngoài ra, trinh sát trung đoàn c̣n_ phối hợp với tnnh sát công binh, xe tăng nghiên cứu t́nh h́nh dọc sông Sê Pôn để t́m đường cơ động bí mật cho xe tăng ở hướng nam và nắm t́nh h́nh địa h́nh, đường cơ động, vị trí tập kết, tuyến triển khai của bộ binh, xe tăng, pháo binh.

    2. Giai đoạn cơ động lực lượng chiếm lĩnh, xây dựng trận địa xuất phát tiến công

    Lực lượng trên các hướng cơ động chiếm lĩnh tương đối thuận lợi.

    Hướng chủ yếu: xe tăng số 8 bị tắc ngầm phải nằm lại.

    Hướng thứ yếu 1: tổ bộc phá bị địch phục kích ném 2 quả lựu đạn, buộc tiểu đoàn phải đưa bộc phá dự bị lên thay thế. Lúc 20 giờ ngày tháng 2, địch ở đồn chính dùng cối 61mm bắn mạnh ra hướng nam.

    Hướng thứ yếu 2: do thông tin rải dây xuống Tiểu đoàn bộ binh 4 bị thiếu 500m nên Tiểu đoàn 4 phải sử dụng vô tuyến điện để liên lạc.

    Các lực lượng trinh sát trung đoàn tiếp tục bám sát địch trong cứ điểm, đồng thời sử dụng lực lượng dẫn đường, cảnh giới cho bộ binh, xe tăng vào chiếm lĩnh, triển khai. Đài quan sát trên hướng chủ yếu theo dơi nắm chắc t́nh h́nh bắn phá của địch. Lúc 17 giờ 30 phút, trinh sát trên hướng thứ yếu 1 phát hiện khoảng 20 tên địch ra phục kích ở tây đồn tiền tiêu, trinh sát ta nổ súng, địch chạy về đồn, cối trong đồn bắn trả rất mạnh. Toán trinh sát cơ động sục sạo trên hướng thứ yếu 1, do không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, c̣n ở xa hàng rào không phát hiện được có lực lượng địch mới nống ra phục kích ở sát hàng rào ngoài cùng, nên khi tổ bộc phá ta vào đă bị địch ném lựu đạn.

    3. Hỏa lực chuẩn bị, mở cửa, xung phong đánh chiếm các mục tiêu

    Hướng chủ yếu: Mở cửa gặp nhiều khó khăn, địch tập trung hỏa lực ngăn chặn quyết liệt, tổ bộc phá bị thương vong 17 đồng chí. Tiểu đoàn bộ binh 3 đă dùng bộc phá dự bị mở xong cửa lúc 5 giờ ngày 7 tháng 2 năm 1968. Từ 5 giờ, các lực lượng xung phong đánh chiếm các mục tiêu quy định. Địch chống trả quyết hệt, tập trung hỏa lực bịt lấp cửa mở ngăn chặn các hướng, mũi tiến công của ta. Đến 2 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2, ta đă chiếm được các khu E, G, C và liên lạc được với hướng thừ yếu 1 ở khu cột cờ.

    Các tổ trinh sát trên hướng chủ yếu đă bám sát hàng rào, nắm chắc mọi thay đổi về địch bảo đảm cho trung đoàn mở cửa, đánh chiếm đầu cầu. Tuy nhiên, khi đột kích 1 vượt qua cửa mở, phát triển vào khu cột cờ, trinh sát đă không bám sát và không nắm được địch ở khu vực đầu cầu, khi đột kích 2 bước vào chiến đấu, bị địch phục hồi ngăn chặn quyết liệt.

    Hướng thứ yếu 1: Lúc 23 giờ 15 phút, mũi Đại đội bộ binh 7 lên đánh bộc phá, quá tŕnh tiếp cận gặp một máy báo động của địch, địch bắn trả, ta bị thương 1 đồng chí. Lúc 23 giờ 40 phút, Đại đội bộ binh 7 mở cửa xong, nhanh chóng vượt qua cửa mở, phát triển đánh chiếm được điểm cao 230 lúc 23 giờ 55 phút.

    Mũi Đại đội bộ binh 6: Lúc 23 giờ 15 phút tiến hành mở cửa bằng bộc phá liên tục, quá tŕnh mở cửa bị địch ngăn chặn quyết hệt, tổ bộc phá bị thương vong nặng, tiểu đoàn phải đưa lực lượng dự bị lên thay thế, đến 0 giờ 20 phút ngày 7 tháng 2 năm 1968 mở cửa xong. Đột kích 1 vượt qua cửa mở, phát triển đánh chiếm các mục tiêu, sau 5 phút đă tiêu diệt xong địch ở khu B, khu A. Lúc 0 giờ 30 phút, đột kích 1 phát triển vào khu trung tâm, đột kích 2 bước vào chiến đấu, đến 2 giờ 30 phút bắt liên lạc được với hướng chủ yếu.

    Lực lượng trinh sát trên hướng thứ yếu 1 tuy lúc đầu không bám sát được địch gần sát hàng rào, nhưng sau đó đă được bổ sung nhiệm vụ, cơ động bám địch kịp thời, đă cùng bộ binh bắt tù binh, khai thác tin tức.

    Hướng thử yếu 2: Lúc 23 giờ 15 phút, Đại đội bộ binh 4 bắt đầu mở cửa, địch chống trả quyết liệt, hỏa lực ở lô cốt đầu cầu kiềm chế mạnh, tổ bộc phá bị thương vong. Đại đội phó Đại đội bộ binh 4 và đại đội trưởng Đại đội bộ binh 3 lên chỉ huy mở được cửa nhưng bị hy sinh, chính trị viên Đại đội bộ binh 3 bị thương nặng; lúc 1 giờ 30 phút đột kích 1 xung phong, đến 2 giờ 30 phút ta làm chủ khu D.

    Toán trinh sát trên hướng thứ yếu 2 giai đoạn đầu chưa nắm chắc các hỏa điểm đầu cầu của địch nên khi bộ đội ta vào mở cửa gặp khó khăn; nhưng sau đó đă nhanh chóng bám nắm địch kịp thời bảo đảm cho Đại đội bộ binh 4 chiến đấu.

    4. Đánh địch cố thủ trong hầm ngầm, làm chủ trận đánh và lui quân

    Lúc 3 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2 ta bắt được tù binh ở điểm cao 320, biết được có hầm ngầm và trong đó c̣n địch nên trung đoàn đă nhanh chóng tổ chức đánh địch cố thủ trong hầm ngầm.

    Từ 6 giờ, không quân địch oanh tạc mạnh vào cứ điểm, lúc 12 giờ 30 phút có 36 tên địch phản kích từ Làng Vây cũ ra điểm cao 320, kết hợp với quân địch từ trong hầm ngầm bắn lại ta, trung đoàn buộc phải tổ chức đánh địch phản kích và đến 17 giờ ngày 7 tháng 2 bọn địch này đă bị tiêu diệt. Trong giai đoạn này, các lực lượng trinh sát đă tích cực bắt tù binh, thu tài liệu của địch; đồng thời, vẽ sơ đồ tổ chức, bố trí của địch ở điểm cao 320. Tuy nhiên, lực lượng trinh sát chưa khẩn trương khai thác tù binh và phương pháp khai thác chưa tốt nên không kịp thời nắm được hăm ngầlh và t́nh h́nh địch trong đó.


    B. Kết quả trận đánh

    Trung đoàn đă tiêu diệt 401 tên, bắt 253 tên địch; thu nhiều vũ khí và quân trang, quân dụng khác.

    Về ta: hy sinh 77 đồng chí, bị thương 191 đồng chí và bị hư hỏng một số vũ khí, khí tài.

    Mời đọc thêm link dưới đây:
    http://www.history.army.mil/books/Vietnam/7-ff/Ch6.htm













    Trong link này th́ số liệu tổn thất do phía ta (CS) cung cấp về 1 số trận ở Khe Sanh như sau:

    Điểm cao 861, 20/01: d4/e95C/f325C: 20 hy sinh, 68 bị thương.
    Điểm cao 881 Bắc, 20/01: d6/e95C/f325C: 15 hy sinh, 95 bị thương.
    Hướng Hóa, 20/01: e66/f304: 154 hy sinh, 486 bị thương.
    Huội San (Tà Mây): e24/f304: 29 hy sinh, 54 bị thương.
    Điểm cao 861A, 03/02: phía ta không nhắc ǵ đến trận này. C̣n theo phía Mỹ th́ "đếm được" khoảng 100-150 xác bộ đội ta.
    Làng Vây, 06/02: 90 hy sinh, 220 bị thương.
    Điểm cao 64, 08/02: 1d thuộc e101D/f325C: 58 hy sinh, 71 bị thương.
    Giai đoạn bao vây (thiếu số liệu của 1e): >320 hy sinh, 982 bị thương.
    Tổn thất của pháo binh: 185 thương vong.
    Tổn thất của cao xạ: 88 thương vong.

    Trong tài liệu phía ta, điểm cao 861 được gọi là 832, 881 Bắc là 845, 881 Nam là đồi Không tên.

    Nguồn:
    http://www.vnmilitaryhistory.net/ind...c,6116.20.html

  3. #233
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Có tin lính việt cộng bị xích vào xe tăng trong trận chiến Làng Vây ( Lang Vei)

    Quote Originally Posted by alamit View Post
    Tài liệu CS Việt nam: Trận tiến công cứ điểm Làng Vây 1968

    Link:http://www.freerepublic.com/focus/f-news/875133/posts

    Thread: BRITISH TROOPS KNOCKOUT 20 IRAQI TANKS (Basra)


    Trích đoạn:
    To: VOA
    Wasn't it at the battle of Lang Vei that they found the NVA tankers chained inside their machines? Wonder if we have a repeat?
    20 posted on Tuesday, March 25, 2003 10:47:18 AM by x1stcav (HooAhh!)

  4. #234
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    II. SOLDIERS CHAINED TO THEIR TANKS OR WEAPONS
    http://www.vietvet.org/pushback.htm
    I was surprised by the intensity of the NVA's opposition, considering the punishment they'd just received from the B-52's. Upon further reflection, however, I
    realized they probably had little choice in the matter, chained to their weapons as some undoubtedly were. As soon as we landed, I crawled out to inspect the
    damage. I found it was from a high-explosive round from an anti-aircraft gun, not a missile strike. A clean hole had entered the nose of the Cobra just above the
    turret, where the projectile then traveled inside the wall a few feet before exploding between the copilot and me.
    Xạ thủ Bắc Vn chiến đấu tới chết v́ bị xích vào súng.
    http://jobrelatedstuff.com/archive/t...&f=5&t=1161527
    Lính xe tăng Bắc VN muốn chạy cũng không được v́ bị xích vào xe tăng.
    On one rather humorous occasion, one Blue Max pilot rolled his Cobra in on an NVA tank and fired a perfect pair of the new rockets toward one of the armored
    beasts and it appeared that he would indeed score another kill. The spread between the rockets was just enough to put one on either side of the lumbering giant
    and they exploded only feet away, but caused very little actual damage, certainly not fatal. Suddenly though the tank stopped, the hatches came up and the crew
    all exited, running quickly away before another set of rockets arrived. Unfortunately for them, they instantly became excellent targets for every machine gunner
    around and they were quickly cut down in their tracks. The abandoned T-54 tank was captured by the ARVN completely intact with the engine still idling. After
    that incident, some NVA tank crews were found chained inside their burned-out tanks. The enemy commanders had solved the problem of their tank crews
    making early, unauthorized exits.
    ( NVA : North Vietnamese Army)
    http://www.ibiblio.org/173abn/2bat/Issue5.pdf
    VC bị xiềng cổ vào súng máy.
    “I later wrote up Vose and Renfro for the Distinguished Service Cross for their heroic actions that morning. Renfro eventually received a Silver Star. Sometime later
    he went AWOL to Europe for two months to be with his wife. When he came back he got busted, made the rank of Sergeant again, and was later killed. Following
    the battle a dead VC was found shackled by his neck and chained to the heavy machine gun Vose and his men took out. Bill and his men were awarded Bronze
    Stars for their heroic actions.” Gus Vendetti
    http://www.literotica.com/s/the-artifact
    Tài xế xe tải bị xích vào tay lái.
    The new trail was more like a road. Many of the trees showed evidence that their branches had been trimmed back so that large trucks could get through; but I
    saw no evidence of recent travel. The parts of the trail were wide enough for two large trucks to pass side by side. While I was following alongside the road I saw
    several more craters, and two burned out trucks that had been pushed off the road, into the jungle. When I looked into the cab of the truck, I saw the burned
    skeletons of the truck drivers that had been chained into their trucks. I noticed that there were a couple of places that parking places were cut into the jungle

  5. #235
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu

    Nhảy Toán Nha Kỹ Thuật / Họ là ai ?


    Cho những anh em mang CAR15, Swedish K, ḿn chống chiến xa, dây bắt tù binh, đạn dược, lương khô, gạo sấy, lội bộ ngày đêm xâm nhập trên núi rừng Bắc Việt những mật khu trong Nam và đặc biệt cho những Chiến Sĩ VNCH chiến đấu anh dũng v́ lư tưởng Tự Do đă vĩnh viễn nằm xuống trên quê hương thân yêu.





    Mục đính của người viết bài này không ngoài hoài băo cung cấp cho các cựu quân nhân và cựu nhân viên dân chính đă từng phục vụ trong các đơn vị trực thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH (Nha Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu/Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa) hiện định cư tại Hoa Kỳ cũng như tại các quốc gia khác trên thế giới tự do, một sự hiểu biết tổng quát về sự tổ chức cũng như những hoạt động đặc biệt của đơn vị này. V́ tính cách đặc biệt về tổ chức và nhiệm vụ của Nha Kỹ Thuật/BTTM, ngay chính những quân nhân phục vụ tại một đơn vị của Nha Kỹ Thuật/BTTM cũng không hiểu rơ trọn vẹn về đơn vị này. Do đó, nếu có sự hiểu lầm hay một sự hiểu biết thiếu chính xác của một số đơn vị bạn cũng không phải là một điều ngạc nhiên.
    Danh hiệu Nha Kỹ Thuật/BTTM chỉ là một danh hiệu "vỏ bọc" để bảo vệ những hoạt động thực sự đối với Cộng Sản cũng như đối với các đơn vị bạn khác. Nha Kỹ Thuật/BTTM có danh xưng chánh thức gọi là Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ, được phân cấp ngang hàng với một sư đoàn tổng trừ bị, và được chỉ huy bởi một sĩ quan ở cấp bậc thiếu tướng.
    Nha Kỹ Thuật/BTTM trải qua rất nhiều lần cải danh và thay đổi về tổ chức và nhiệm vụ, tùy theo sự biến chuyển về t́nh h́nh chính trị quốc nội cũng như t́nh h́nh quân sự trên chiến trường. Trước khi đi sâu vào vấn đề này, tác giả xin mạn phép tŕnh bày sơ lược về cá nhân và sự liên hệ đối với Nha Kỹ Thuật/BTTM kể từ năm 1961 cho đến ngày chính thức giải tán đơn vị này (28 tháng 4 năm 1975) do khẩu lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng/QLVNCH, trước khi đại tướng từ chức vụ Tham Mưu Trưởng.
    Vào cuối năm 1960, trong khi phục vụ tại một đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh (BB) đồn trú tại Quảng Trị, tôi đă được lệnh cấp tốc tŕnh diện Phủ Tổng Thống. Thật là một ngạc nhiên to lớn đối với một cấp úy nhỏ như tôi. Sau khi được chỉ huy trưởng đơn vị cấp sự-vụ lệnh, tôi được một vị đại diện Phủ Tổng Thống từ Huế ra đón và đưa thẳng về Đà nẵng. Tại đây, tôi lại được một đơn vị khác tiếp xúc, bắt tôi thay thường phục và đưa ra phi trường đáp phi cơ Air Việt Nam về Saigon. Tại Phi trường Tân sơn nhất, tôi lại được một đơn vị khác đón và đưa về một căn nhà tại khu Tân Định, nằm trong một ngơ hẹp. Dù tôi có ư gợi chuyện trong lúc đi đường, các vị này đều có vẻ huyền bí và rất ít nói chuyện.
    Tại căn nhà này, tôi lại càng ngạc nhiên hơn v́ lần đầu tiên tôi được gặp và giới thiệu với một số nhân viên Hoa Kỳ. Tôi không biết các vị này cả Việt lẫn Mỹ, thuộc đơn vị hay cơ quan nào. Tôi cũng chưa biết vị chỉ huy tôi là ai, quân nhân hay dân sự. Một nhân viên Hoa kỳ có vẻ ngạc nhiên về khả năng Anh văn của tôi. Tôi cho ông ta biết là tôi đă tốt nghiệp khóa 6 tháng thông dịch viên Anh ngữ tại Hội Việt Mỹ vào đầu năm 1958. Tôi muốn nhắc đền sự việc này v́ nhờ sự hiểu biết về anh văn mà tôi được giữ những chức vụ có liên quan đến việc tiếp xúc với cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ sau này. V́ nhân viên Hoa Kỳ này cho tôi biết là ngày hôm sau tôi sẽ được tham dự khóa "t́nh báo đặc biệt" do các nhân viên t́nh báo Hoa kỳ đảm trách hướng dẫn. Người Mỹ gọi là khóa "Clandestine Operation" được huấn luyện cho các nhân viên điệp báo hoạt động tại hậu tuyến địch. Nói tóm lại đây là khóa huấn luyện gián điệp. Tôi có hỏi sau khóa này tôi sẽ làm ǵ nhưng không ai xác định ǵ cả. Họ chỉ cho biết là sau khóa huấn luyện tôi sẽ trở thành một "Case Officer" hay là "trưởng công tác." Danh xưng của tôi được đổi thành Emile, cũng như các học viên khác là Leon, Antoinne, Charles, v.v.
    Thật ra các tên tây phương này được đặt ra để giúp cho người Mỹ dễ nhớ trong khi huấn luyện cũng như khi hợp tác làm việc sau này. Ngoài các tên này, chúng tôi được gọi bằng những bí danh khác với mục đích bảo vệ lư lịch, đề pḥng đối phương theo dơi trong thời gian liên hệ với công tác t́nh báo. Đây chỉ là một trong những nguyên tắc căn bản của ngành điệp báo. Sau khóa học kéo dài 4 tuần lễ, tôi được các vị huấn luyện viên Hoa Kỳ khen thưởng về sự cố gắng và thông suốt các nguyên tắc của ngành t́nh báo. Sau đó, tôi được tŕnh diện đầu tiên với người chỉ huy trực tiếp của tôi là Trưởng Pḥng 45 của Sở Khai Thác Địa H́nh trực thuộc Phủ Tổng Thống. Tôi rất mừng rỡ v́ người chỉ huy trực tiếp của tôi là Đại Úy B́nh ("B́nh" là bí danh của Đại Úy Ngô Thế Linh) mà tôi đă làm dưới quyền tại Pḥng 3/Quân Đoàn 1 tại Đà Nẵng vào đầu năm 1958.
    Sự nghiệp quân sự của tôi, giai đoạn có ư nghĩa nhất là bắt đầu khóa học t́nh báo đặc biệt này cho đến ngày cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) vào cuối tháng 4 năm 1975. Với hơn 14 năm được phục vụ tại một đơn vị đặc biệt, giữ những chức vụ tuy nhỏ nhoi nhưng được gần gũi với các cấp chỉ huy cao cấp và được sự tin tưởng của các vị này, cũng như các vị cố vấn Hoa Kỳ cao cấp, tôi đă theo dơi và chứng kiến các hoạt động của Nha Kỹ Thuật/BTTM, sự cải danh của cơ quan này, từ vị trí của một pḥng-sở nhỏ trở thành một đại đơn vị có tầm mức chiến lược quan trọng.


    H́nh chụp các binh sĩ Việt-Mỹ trong toán biệt kích Idaho


    Sự bành trường và lớn mạnh của Nha Kỹ Thuật/BTTM đều tùy thuộc và ảnh hưởng bởi các biến chuyển của t́nh h́nh chiến sự quốc nội, t́nh h́nh chính trị trên thế giới, đường lối chỉ đạo của Hoa Kỳ đối với chiến cuộc tại Việt Nam và cuối cùng là khả năng hoạt động của các đơn vị thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM.
    Những tài liệu tŕnh bày sau đây đều dựa theo trí nhớ của tôi. Do đó, về thời gian và không gian có thể có một vài sự sai lầm nhỏ hoặc một chút thiếu sót. Tôi nghĩ rằng dù nếu có một vài sự thiếu sót, ư nghĩa và mục đích của bài này sẽ không sai lạc và các điểm chính yếu tôi muốn nêu ra vẫn được bảo đảm.
    Sở Khai Thác Địa H́nh trực thuộc Phủ Tổng Thống, lúc bấy giờ do Đại Tá Lê Quang Tung là Chỉ huy trưởng. Đơn vị này được giao phó rất nhiều công tác t́nh báo quan trọng, về quốc nội cũng như quốc ngoại, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu và Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Trong các cơ cấu t́nh báo, Pḥng 45 hay Pḥng E được đặc trách hoạt động thu thập tin tức t́nh báo tại miền Bắc Vĩ Tuyến 17, với các hệ thống điệp báo nằm vùng xâm nhập từ Miền Nam hoặc từ đệ tam quốc gia bạn. Tại nội bộ đơn vị, Sở Khai Thác Địa H́nh, cũng được gọi là KHIÊM QUANG, mỗi chữ biểu hiệu cho một pḥng của đơn vị. Pḥng E sau này c̣n được gọi là SB (viết tắt cho Sở Bắc). Kể từ năm 1960 trở đi, hoạt động điệp báo tại miền Bắc được đặc biệt chú trọng v́ nhu cầu tin tức chiến lược nhằm ước tính khả năng của Cộng Sản, hầu ngăn chặn mưu đồ xâm lược của miền Bắc.
    Để yểm trợ tài chính và kỹ thuật cho các công tác đặc biệt này, cơ quan Combined Studies thuộc ṭa đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon được giao phó phối hợp và đảm trách. Công tác t́nh báo và các hoạt động đặc biệt đều do Cơ Quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ (tức cơ quan CIA, Central Intelligence Agency) cố vấn và tài trợ v́ vấn đề kỹ thuật phức tạp và phí tổn to lớn. Cơ quan Combined Studies cung cấp chuyên viên, tin tức t́nh báo căn bản, các tài liệu và vật dụng cần thiết, cũng như nhu cầu tài chính để hoàn thành công tác.
    V́ bài này chỉ giới hạn về tổ chức và nhiệm vụ tổng quát của Nha Kỹ Thuật/BTTM và các tổ chức tiền thân, nên tôi sẽ không đề cập đến chi tiết các hoạt động, cách tổ chức các toán công tác cũng như thành quả của các toán này. Tôi mong rằng sẽ có cơ hội tŕnh bày trong những bài kế tiếp.
    Vào đầu năm 1963, Sở Khai Thác Địa H́nh được biến cải thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), với hai đơn vị chiến đấu ṇng cốt là Liên Đoàn 77 và Liên Đoàn 31. Đại Tá Lê Quang Tung cũng là vị tư lệnh đầu tiên của đơn vị này. Sở Bắc vẫn tiếp tục hoạt động và duy tŕ sự phối hợp với cơ quan Combined Studies của Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ, trong khuôn khổ tổ chức của Bộ Tư Lệnh LLĐB mới thành lập. Sau cuộc chính biến năm 1963, Đại Tá Lê quang Tung bị sát hại, Lực Lượng Đặc Biệt sau đó được chỉ huy bởi một số tướng lănh trong quân đội, sau đó dời về Nha Trang.
    Cũng trong thời gian này, Sở Bắc cũng được cải danh là Sở Khai Thác/BTTM và tiếp tục duy tŕ công tác đặc biệt, tách rời khỏi Lực Lượng Đặc Biệt. Vị sĩ-quan chỉ huy trưởng và giám đốc đầu tiên của đơn vị này là Đại Tá Trần Văn Hổ. Ngoài việc đảm trách công tác văn pḥng, liên lạc phối hợp với ban Cố Vấn Hoa Kỳ, tôi vẫn tiếp tục tổ chức các toán với tư cách sĩ quan trưởng công tác. Một thời gian sau, Đại Tá Hổ chỉ định tôi làm Chánh Văn Pḥng. Song song với sự cải tổ về phía Việt Nam, Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (tức "MACV," viết tắt của Military Assistance Command Vietnam) thay thế cho cơ quan MAAG (viết tắt của Military Assistance and Advisory Group, tức Bộ Quân-Viện và Cố Vấn) của Hoa Kỳ, cũng được thành lập. MACV-SOG là viết tắt của các chữ MACV-Studies and Observations Group, nhưng chính danh là Special Operation Group, được chỉ định cố vấn và yểm trợ cho các công tác đặc biệt.
    Ngoài các toán t́nh báo dài hạn xâm nhập miền Bắc bằng không-vận hay hải-vận và công tác Biệt Hải tập kích đánh phá các mục tiêu thuộc miền Bắc duyên hải. Sở Khai thác lại được lệnh tổ chức các toán thám sát ngắn hạn hoạt động tại vùng biên giới Việt-Lào nằm về phía bắc Vĩ Tuyến 17 cho đến Vĩ Tuyến 20. Các toán này được gọi là các toán STRATA (viết tắt của các chữ Short Term Reconnaisance and Target Acquisition teams). Hai đoàn công tác chính yếu của công tác không vận lúc bấy giờ là Đoàn 68 đảm trách các công tác dài hạn và các công tác đặc biệt, khác với Đoàn 11 phụ trách các công tác ngắn hạn.
    Cũng trong thời gian này, v́ nhu cầu khẩn cấp của chiến trường, Sở Khai Thác được chỉ thị huấn luyện các Toán Thám Sát đặc biệt mệnh danh là Shinning Brass tại căn cứ huấn luyện Long Thành, sau này gọi là Trung Tâm Huấn luyện Quyết Thắng. Sở Liên lạc/BTTM cũng được thành lập trong thời gian này để đảm trách các công tác ngoại biên Việt-Miên và Việt-Lào. Đây là các toán "Lôi Hổ" có nhiệm vụ thám sát, phá hoại các mục tiêu trọng yếu của địch, cùng với các công tác chỉ điểm mục tiêu cho các phi vụ không kích hoặc đánh phá xử dụng các lực lượng khai thác (exploitation forces). Vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Đại Tá Hồ Tiêu, trước phục vụ tại Sư Đoàn Nhảy Dù. Sau đó Sở Liên Lạc được tiếp tục chỉ huy bởi các vị chỉ huy trưởng thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù. Các cuộc hành quân thám sát biên giới phát triển mạnh mẽ vào các năm 1966-72, đặc biệt dưới sự chỉ huy của Đại Tá Liêu Quang Nghĩa. Các vị chỉ trưởng sau này là Đại tá Nguyễn Văn Minh và Đại Tá Nguyễn Minh Tiến.
    Huy hiệu Lôi Hổ

    Sở Liên Lạc (Biệt Kích Lôi Hổ) gồm có một Bộ Chỉ Huy và 3 chiến đoàn tại Saigon, và 3 chiến đoàn khác đồn trú tại các khu vực khác để thích hợp với khu vực hoạt động. Những chiến đoàn biệt-kích gồm có: - Chiến Đoàn 1 đồn trú tại Đà Nẵng - Chiến Đoàn 2 đồn trú tại Kontum - Chiến Đoàn 3 đồn trú tại Ban mê Thuột
    Song song với các chiến đoàn này, MACV-SOG cũng có những cơ sở hành quân riêng rẽ đồn trú chung cùng doanh trại với các chiến đoàn. Kế hoạch hành quân được phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ Chỉ Huy Hoa Kỳ và Việt Nam liên hệ. Mỗi chiến đoàn có nhiều liên-toán và mỗi liên-toán gồm có nhiều toán nhỏ hơn. Các toán này được tổ chức huấn luyện và hành quân theo kỹ thuật của Lực Lượng Đặc Biệt. Sự khác biệt là các toán của Sở Liên lạc có nhiệm vụ hoạt động vượt biên giới, ngoài lănh thổ, và ngay trong ḷng địch.
    Khoảng năm 1965-66, Sở Khai Thác/BTTM lại được đổi danh là Sở Kỹ thuật và sau đó không bao lâu, sở này được nâng lên thành Nha Kỹ Thuật/BTTM, chỉ huy bởi một vị giám đốc, cho phù hợp với tổ chức mới. Lúc bấy giờ Nha Kỹ Thuật gồm có các đơn vị hoạt động trọng yếu như sau:- Sở Liên Lạc với Đoàn 11 và Đoàn 68 (Sở Công Tác được thành lập sau này) - Sở Không Yểm - Sở Pḥng Vệ Duyên Hải - Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng - Sở Tâm Lư Chiến (tuy là một sở của Bộ Chỉ Huy nhưng sở này có tầm hoạt động rộng lớn và quan trọng)
    Sở Công Tác sau này được thành lập với hai đoàn công tác 11 và 68. Sau khi Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, Nha Kỹ Thuật được tăng cường sĩ quan cán bộ cũng như nhân viên toán hành quân. Các đoàn kế tiếp được thành lập là Đoàn 71, 72 và Đoàn 75. Thời gian đầu tiên, Bộ Chỉ Huy Sở đồn trú tại Nha Trang sau đó dời ra Đà Nẵng. Các Đoàn 11, 71 và 72 đồn trú tại Đà Nẵng. Đoàn 75 tại Ban Mê Thuột. Đoàn 68 vẫn tiếp tục duy tŕ tại Saigon, gần Bộ Chỉ Huy Nha.
    Đoàn 68 được giao phó tổ chức và hướng dẫn các toán t́nh báo dài hạn tại miền Bắc. Các toán được xâm nhập bằng trực thăng từ lănh thổ đệ tam quốc gia hoặc nhảy dù vào khu vực mục tiêu tại miền Bắc. Một số toán hoạt động tại vùng duyên hải đông-bắc được đặt kế hoạch xâm nhập bằng hải vận. Nhiệm vụ chính yếu của các toán này là thiết lập căn cứ hoạt động, quan sát và thám sát các mục tiêu, báo cáo về trung ương để nhận chỉ thị hoạt động.
    Các khu vực mục tiêu trọng yếu nằm dọc theo biên giới Hoa Việt, khu vực đông-bắc Cao Bắc Lạng, khu vực Tây Bắc, Sơn La, Lai Châu, khu vực Bắc vĩ tuyến, Thanh Nghệ Tĩnh B́nh. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là quan sát và báo cáo mọi chuyển quân của Bắc Việt trên các trục giao thông qua biên giới và xuống miền Nam. Các hoạt động trên bắt đầu giảm sút kể từ năm 1968.
    Các toán thám sát ngắn hạn thuộc Đoàn 11 lại được gia tăng và chú trọng hơn trong khi lực lượng chính quy Bắc Việt ào ạt xâm nhập miền Nam qua các hành lang biên giới. Tuy vậy Đoàn 68 vẫn tiếp tục đảm trách các công tác đặc biệt khác, nhằm đánh lừa địch qua việc sử dụng các hồi chánh viên cũng như tù binh chính quy, phối hợp với Sở Tâm Lư Chiến.
    Kể từ 1972 trở về sau, địa bàn hoạt động của các Toán thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM được thu hẹp lại cho thích hợp với nhu cầu chiến trường. Do đó, các đoàn và chiến-đoàn công tác đều được tăng phái cho các quân-đoàn và thực hiện những cuộc hành quân thám sát nội biên sau hậu tuyến địch, nhằm mục đích cung cấp cho Quân Đoàn những tin tức xác thực để khai thác.
    Vị chỉ huy trưởng đầu tiên của Sở Công Tác là Đại Tá Ngô Thế Linh, nguyên Phó Giám Đốc Nha Kỹ Thuật/BTTM. Các vị chỉ huy kế tiếp là Đại Tá Nguyễn Văn Hai và Đại Tá Ngô Xuân Nghị trước phục vụ tại Sư Đoàn Nhảy Dù.
    Để yểm trợ cho các toán hành quân không-vận của Sở Liên Lạc và sở Công Tác, Sở Không Yểm có nhiệm vụ liên lạc với Bộ Tư Lệnh Không Quân, đáp ứng nhu cầu hành quân của Nha Kỹ Thuật. Các nhu cầu này gồm phương tiện trực thăng xâm nhập và triệt xuất, các phi vụ thả toán xử dụng phi cơ từ C-47 đến C-123 và C-130 do phi hành đoàn Không Quân Việt Nam thực hiện.
    Các phi vụ quan sát bằng phi cơ L-19 hay L-20, các phi vụ bảo vệ bằng A-1 Skyraiders hay khu-trục cơ F-5. Các đơn vị Không Quân này không trực thuộc Nha Kỹ Thuật nhưng các phi vụ đặc biệt này đều được ưu tiên thực hiện theo nhu cầu. Đặc biệt, Phi Đoàn Trực Thăng 219 được thường xuyên tăng phái cho Nha Kỹ Thuật/BTTM. Đơn vị này đồn trú tại Nha Trang. Những phi vụ đặc biệt, ngoài khả năng của Không Quân Việt Nam đều do Không quân Hoa kỳ đảm trách, xuất phát từ các căn cứ trên lănh thổ Đệ Tam Quốc Gia.
    Trước năm 1964, một số phi vụ thả các toán biệt-kích vào lănh thổ Bắc Việt được thực hiện với các phi hành đoàn ngoại quốc do cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đảm trách và hoạch định qua hăng Air America tại Saigon. Sĩ quan liên lạc Không Quân và cũng là chỉ huy trưởng Sở Không Yểm từ năm 1961 cho đến tháng Tư năm 1975 là Đại Tá Dư Quốc Lương.

    Nói về các hoạt động đặc biệt của Nha Kỹ Thuật mà không đề cập đến các công tác hải-vận là một thiếu sót đáng kể. Công tác hải-vận đưa đón các quân nhân Biệt Hải của Nha Kỹ Thuật/BTTM được giao phó cho Sở Pḥng Vệ Duyên Hải. Tiền thân của Sở này là căn cứ "Pacific," trong hệ thống tổ chức của Pḥng 45 thuộc Sở Khai Thác Địa H́nh. Sở Pḥng vệ Duyên Hải được chính thức hoạt động Khoảng cuối năm 1964 và đầu 1965. Trước đó phương tiện xâm nhập các nhân viên điệp báo và các toán tại các vùng duyên hải Bắc Việt đều xử dụng các thuyền máy đánh cá, sửa chữa lại theo kiểu thuyền miền Bắc. Các thuyền này được đưa về Đà Nẵng để huấn luyện và thực tập về công tác xâm nhập cùng với nhân viên hay toán hoạt động.
    Sau này v́ khả năng có giới hạn của các thuyền này và v́ nhu cầu tốc độ và khả năng chiến đấu để bảo vệ, cơ quan t́nh báo Hoa kỳ đă cung cấp cho Nha Kỹ Thuật/BTTM các loại chiến đỉnh SWIFT và NASTY, do một số thủy thủ đoàn ngoại quốc chỉ huy. Các chiến đỉnh này có tốc dộ nhanh và được vơ trang để tự vệ nếu bị Hải Quân Bắc Việt tấn công. Tuy vậy, các tàu này chỉ có tầm hoạt động ngắn, không qua Vĩ Tuyến 20. Sau này, sau khi MACV-SOG đảm trách yểm trợ Nha Kỹ Thuật/BTTM, Sở Pḥng vệ Duyên Hải được tăng cường các chiến đỉnh lớn PTF (viết tắt của chữ Patrol, Torpedo, Fast tạm dịch "thủy-lôi giang tốc đỉnh" hay "thủy-lôi duyên tốc đỉnh.") có tầm hoạt động xa, tốc độ nhanh và trang bị hỏa lực mạnh. Các loại tàu này không những có khả năng tự vệ mà c̣n có khả năng đánh phá và tấn công các mục tiêu Cộng Sản nếu cần. Bộ Tư lệnh Hải Quân cũng được chỉ thị cung cấp các thủy thủ đoàn cho các chiến đỉnh này. Các hoạt động đặc biệt do Sở Pḥng Vệ Duyên Hải thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát và trách nhiệm của Nha Kỹ Thuật/BTTM, không có liên hệ nào đối với Bộ Tư Lệnh Hải Quân và hoàn toàn được bảo mật tối đa. Các thủy thủ đoàn này đều nằm trong Lực Lượng Hải tuần trực thuộc Sở Pḥng Vệ Duyên Hải. Sở này được một vị sĩ quan cấp tá do Bộ Tư Lệnh Hải Quân biệt phái chỉ huy. Vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Ngô thế Linh (từ năm 1964 đến 1966), sau đó là Trung Tá Hồ văn Kỳ Thoại, sau này được thăng cấp đề đốc. Các toán người nhái và hoạt động được gọi là Lực Lượng Biệt Hải và thuộc Lực Lượng Biệt Hải của sở này. Các toán này được huấn luyện và thi hành những công tác đặc biệt tương đương với các toán biệt-hải SEAL (Sea Air Land) của Hải Quân Hoa Kỳ. Các toán viên Biệt-Hải được huấn luyện về bơi lội, xử dụng đồ lặn scuba, nhảy dù, và những kỹ thuật hành quân đặc biệt khác.
    Các toán có thể xâm nhập bằng cách nhảy dù xuống các vùng mục tiêu dọc theo miền duyên hải, xử dụng băi nhảy sát bờ biển hay cả trên mặt nước. Sau khi hoàn thành công tác, các quân nhân Biệt-Hải có thể triệt xuất bằng cách bơi ra khơi để được tàu tiếp đón và đưa về căn cứ ở miền Nam. Các công tác này rất nguy hiểm nên phải được thiết kế một cách chi tiết và thận trọng. Sau Hiệp Định Paris, hoạt động của Sở này bị giảm thiểu đáng kể và sau đó được tăng phái hành quân cho các quân đoàn để thi hành một vài công tác đặc biệt tại các vùng do Cộng Sản kiểm soát tại miền Nam.


  6. #236
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu

    Nhảy Toán Nha Kỹ Thuật / Họ là ai ?
    P2


    Nhảy Toán / Họ là ai ?
    Nhảy Toán Nha Kỹ Thuật phải nói đến nhũng Chiến Sĩ đă âm thầm viết lên trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam lao ḿnh vào chốn hiễm nguy, hy sinh mạng sống cho đại nghĩa cho Quốc gia và Dân Tộc.

    Nhảy Toán họ là ai?

    Ngoài các đơn vị hành chánh, t́nh báo, yễm trợ, tiếp vận cơ cấu của các Toán được Tổ Chức như sau:

    Nha Kỹ Thuật trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và được tăng phái các Quân Đoàn 1,2 và 3 với những công tác thám sát, thâu thập tin tức liên quan đến chiến sự hầu giúp các vị Tư Lệnh Sư Đoàn và Tồng Tư Lệnh Quân Lực quyết định cho t́nh h́nh chiến sự.

    Sở Công Tác / Nha Kỹ Thuật / Bộ Tổng Tham Mưu / QLVNCH gồm có 5 Đoàn Công Tác:
    - Đoàn 68 tăng phái cho Quân Khu 3
    - Đoàn 75 tăng phái cho Quân Khu 2
    - Đoàn 11, 71 và 72 tăng phái cho Quân Khu 1

    Sở Liên Lạc gồm có 3 Đoàn Liên Lạc.
    - Đoàn 1 tăng phái cho Quân Khu 3
    - Đoàn 2 và Đoàn 3 tăng phái cho Quân Khu 2

    Mỗi Đoàn Công Tác và Liên Lạc có 3 Liên Toán mỗi Liên Toán có 3 Toán và mỗi toán có 12 ngựi gồm một Toán trưởng một Toán phó và 10 Chuyên viên, các Trưởng Toán thường là Sĩ quan và chuyên Viên là Hạ sĩ quan tuy nhiên có vài trường hợp chuyên viên là binh sĩ được căi tuyễn từ các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu "Biệt Kích Quân" và họ có rất nhiều kinh nghiệm trong những chuyếến xâm nhập. Ngoài ra toán công tác có thể 6 ngựi hoạt it hơn trong những mục tiêu ngắn hạn và dễ dàng trong việc thám sát hơn .



    Thời gian hoạt động của mỗi chuyến công tác là 10 ngày cho các Toán thuộc Sở Công Tác trường đặc biệt trong những công tác cần thời gian xâm nhập lâu hơn là 15 hoặc 20 ngày cho những mục tiêu và công tác đặc biệt thời gian có thể tăng 15 cho đến 20 ngày

    Trưởng toán công tác ngoài phụ trội nguy hiểm, bằng Nhẩy dù c̣n được thêm phụ trội tương đương với Đại Đội Trưởng của các đơn vị tác chiến và Liên Toán Trưỡng tương đương với Tiểu Đoàn Trưởng riêng Chỉ Huy Trưởng Đoàn Công Tác tương đương với Trung Đoàn Trưởng .

    Một bộ phận hoạt động quan trọng khác trong hệ thống trách nhiệm của Nha Kỹ Thuật/BTTM là Sở Tâm Lư Chiến. Tuy rằng trong thành phần tổ chức của Bộ Chỉ Huy Nha, Sở Tâm Lư Chiến là một đơn vị hoạt động không phải thuần túy tham mưu. Sở này sử dụng đa sồ chuyên viên dân sự để điều khiển các hệ thống phát thanh và các công tác chiến tranh chính trị khác nhằm yểm trợ cho cho hoặt động đặc biệt tại miền Bắc. Sở có trách nhiệm điều khiển hai hệ thống phát thanh. Đài Tiếng Nói Tự Do là một hệ thống phát thanh "xám," tiếng nói của những người mến chuộng tự do chống đối hệ thống tư tưởng Cộng Sản. Một hệ thống phát thanh bí mật khác là đài "Gươm thiêng ái quốc," tiếng nói của Mặt Trận Giải Phóng Miền Bắc, nhằm hỗ trợ cho các công tác của các toán đặc biệt nằm trong lănh thổ miền Bắc. Ngoài công tác phát thanh, Sở Tâm Lư Chiến/NKT đă thực hiện nhiều công tác ly gián, lừa địch, sử dụng các hồi chánh viên và tù binh chính quy Bắc Việt.
    Hai đài phát tuyến Cồn Tre tại Quảng Trị và Thanh Lam tại Huế có tầm hoạt động rộng lớn bao gồm cả lănh thổ Bắc Việt cho đến biên giới Hoa Việt. Phần lớn các hoạt động tâm lư chiến và phát thanh đều được cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ tài trợ và cố vấn về kỹ thuật. Sau này, "Đài Gươm Thiêng Ái Quốc" chấm dứt hoạt động v́ t́nh h́nh chiến sự và chính trị thay đổi. Đài "Mẹ Việt Nam" được nối tiếp để duy tŕ công tác phát thanh của Nha Kỹ Thuật.


    Vũ trang chuẩn bị ứng cứu khi phi vụ nhảy toán bị bạI lộ



    Đại Tá Trần văn Hổ nhậm chức Giám đốc Nha Kỹ Thuật/BTTM kể từ năm 1964 cho đến tháng 8 năm 1968. Chính trong thời kỳ này rất nhiều kế hoạch và hoạt động đặc biệt nhằm vào lănh thổ miền Bắc được thực hiện. Sau vụ tấn công của Cộng Sản trong kỳ Tết Mậu Thân và các cuộc ḥa đàm giữa Hoa Kỳ và Bắc việt tại Paris, hoạt động đặc biệt lần lần bị giảm thiểu, nhất là những công tác ngay trong lănh thổ Bắc Việt. Các công tác này được tập trung và gia tăng tại các vùng giáp tuyến và các vùng biên giới Việt-Lào, Việt-Miên. Đại Tá Đoàn Văn Nu được đại tướng tổng tham mưu trưởng bổ nhiệm làm giám đốc thay thế Đại Tá Trần văn Hổ vào khoảng tháng 8 năm 1968 và tiếp tục chỉ huy Nha Kỹ Thuật cho tới ngày cuối cùng của Nha.
    Trong thời kỳ này, t́nh h́nh chiến sự và chính trị thay đổi, đặc biệt nhất là đường lối của Hoa kỳ đối với chiến trường Việt Nam không c̣n quyết tâm như trước, do đó các công tác đặc biệt không c̣n được hỗ trợ mạnh mẽ như từ trước năm 1968. Tuy vậy, Nha Kỹ Thuật/BTTM vẫn tiếp tục thực hiện nhiều thành tích đáng kể. Các toán hoạt động tuy không phải xâm nhập vào lănh thổ Bắc Việt hoặc sâu vào biên giới Lào và Cam Bốt, nhưng được trực thăng vận ngay vào các khu vực địch kiểm soát. Các cuộc hành quân này cũng không kém phần quan trọng và c̣n nguy hiểm hơn nhiều. Các toán này đă gây trở ngại và làm chậm mức xâm nhập của Cộng Sản trong ư đồ đánh chiếm miền Nam.
    Các toán hành quân của Nha Kỹ Thuật, dù thuộc một đơn vị nào cũng luôn luôn chứng tỏ tinh thần dũng cảm, đầy nhiệt huyết, xem sự chết nhẹ tựa lông hồng, chiến đấu oai hùng trong mọi nguy hiểm và hoàn cảnh khó khăn. Cuộc chiến đấu chống Cộng tuy đă chấm dứt vào cuối tháng 4 năm 1975, nhưng tinh thần của cuộc chiến và những giờ phút oai hùng đó không dễ ǵ phai mờ trong tâm trí cũa những cựu chiến sĩ Nha Kỹ Thuật này.
    Trung Tá Lữ Triệu Khanh
    Viết tại Winston-Salem, tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ



    Sở Liên Lạc


    Sở Công Tác


    Phi Đoàn 219 Long Mă


    TEAM VERMONT CCC

  7. #237
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu

    Nhảy Toán Nha Kỹ Thuật / Họ là ai ?
    P3




    SINH NAM . . . TỬ BẮC
    Kinh dâng anh linh các Chiến hữu:
    Nguyễn Chuyên - Đinh Như Khoa - Nguyễn Hữu Thảo
    và các Chiến hữu đă yên nghỉ trong ḷng đất mẹ. Cá ḱnh NGUYỄN VĂN TÂM
    (Sở Bắc và Sở Khai Thác Địa H́nh)


    Buổi chiều cuối Hạ bên bờ biển Mỹ Khê, trong ngôi nhà nghỉ mát yên tịnh. Nó không ồn ào rầm rộ như một cuộc hành quân qui mô, nhưng rất quan trọng, tỷ mỷ cẩn thận với những trang bị đặc biệt và ḿn định giờ.
    Tại căn cứ nầy có anh Ba là người điều khiển và huấn luyện Toán Công Tác cùng với ba người Mỹ tên Bil, Dan và Bob phụ trách kỹ thuật và thực tập. Anh Phan điều khiển và huấn luyện Toán Biệt Hải.
    Toán Công Tác người nhái có nhiệm vụ phá hoại gồm bốn người: Tôi (anh Tư) và anh Năm, hai đứa chúng tôi từ Liên Đoàn 77 Sở Khai Thác Địa H́nh, c̣n anh Sáu và anh Bảy do Hải Quân gởi qua. Toán Biệt Hải gồm mười hai người có nhiệm vụ lái tàu hoặc thuyền đưa Toán Công Tác đi hoạt động dẫn đường đi và đón về.
    Sau nhiều tháng thực tập, nghiên cứu địa h́nh, địa thế, không ảnh, kiểm soát lại dụng cụ, hôm nay là thời điểm xuất phát vào cuối mùa Hạ năm 1962.Dưới ánh sao lờ mờ, một chiếc thuyền lớn trang bị máy chạy dầu với lưới đánh cá nằm gọn dưới cột buồm. Thủy bàn gần tay lái. Một chiếc thuyền cao su chưa bơm hơi và chiếc thuyền gỗ nhỏ sức chứa độ mười ngưới. Ở giữa thuyền gỗ có một lỗ vuông tḥng xuống nước là chỗ để gắn máy nổ nhỏ cho Toán Công Tác và người hướng dẫn di chuyển trong sông. Thuyền được cải trang thành thuyền đánh cá của ngư dân trong vùng trên bờ nh́n xuống không thể phân biệt được là thuyền của Toán Công Tác. Toán nầy thương xuyên công tác ở Vịnh Hạ Long, Móng Cái, Bạch Long Vĩ. Toán Công Tác được trang bị gọn và nhẹ gồm: Hai đèn bấm điện tử để liên lạc giữa hai thuyền. Súng lục để tự vệ khi cần. Ḿn đặc biệt định giờ có thể sử dụng từ 5 phút đến 30 ngày. Một đơn vị hỏa lực nhỏ cho tập thể sử dụng khi cần để tháo chạy.
    Màn đêm phủ xuống, những bóng đen bắt tay từ giă trong tiếng "Good luck" của ba anh bạn Mỹ.
    Tiếng sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền nghe lách tách,thuyền hướng mũi ra khơi. Bầu trời đầy sao, nh́n quanh là biển cả bao la, với bản tính tự tin, dày dạn với công tác thường xuyên nên một số đă an giấc. Riêng mấy anh em chúng tôi c̣n ngồi hướng tầm mắt về phía trước tuy chưa phải lúc cảnh giác địch v́ một đêm và một ngày sau thuyền mới tới địa điểm công tác. Mặc dù vậy, chuyến đi bí mật vào đất địch, đầu óc luôn suy nghĩ kỹ lại những việc phải làm trong đêm mai. Đang triền miên suy nghĩ, có tiếng nhắc nhở các anh nên nghỉ đi để đêm mai mà công tác chứ.
    Chiều ngày hôm sau, th́ anh thuyền trưởng và thợ máy nói đến rồi. Lúc nầy thuyền c̣n đang ngoài hải phận quốc tế từ từ tiến vào bờ, khi nh́n thấy lờ mờ một giải màu xanh đậm th́ đúng chín giờ tối. Thuyền lớn thả neo, thuyền máy nhỏ đă được hạ thủy. Nhanh nhẹn mà không gây một tiếng động. Bốn chúng tôi qua thuyền nhỏ cùng ba người hướng đẫn viên nhắm cửa Sông Gianh tiến vào. Tiếng máy nổ rất nhỏ mà thuyền lướt đi rất nhanh đă qua khỏi khu Phà, chúng tôi quan sát thấy trên bờ mấy bóng đèn như đom đóm.
    Yên tâm, chúng tôi bắt đầu mang trang bị, dụng cụ sẵn sàng. Khi chúng tôi nh́n qua ống ḍm thấy bóng đèn xanh nhỏ phía trước. Nếu không để ư kỹ, nó như một ngôi sao trong đêm tối phía dưới là ba bóng đen đậm, đúng là tàu hải quân Cộng sản rồi, chúng đang neo tại vị trí đúng như trong không ảnh. Cho thuyền chạy qua để quan sát thật kỹ, trở lại ghi nhận điểm tiếp đón, rồi quay lại điểm thả. Anh Bảy xuống trước, đến tôi, sau cùng là anh Sáu. Lặng lẽ bơi đến gần tôi thấy rơ mục tiêu mới lặn để khỏi lạc vị trí. Tôi lặn tới gắn ḿn vào thân tàu phía dưới gần chân vịt là nơi có buồng máy.
    Khi tôi bắt đầu t́m hướng lặn ra xa th́ th́nh ĺnh một tiếng nổ lớn vang lên. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng rồi bất tỉnh một hồi lâu. Khi tỉnh lại tôi biết là ḿn nổ quá sớm. Nhờ những lườn tàu nằm cách nhau khá xa nên tôi đă thoát chết. Kế hoạch đă bị lộ. Tôi cố gắng trấn tĩnh tinh thần lặn tới vị trí tiếp đón. Khi đă xa vừa nhẹ trồi đầu lên để quan sát th́ thuyên tiếp đón đă không c̣n nữa, lại nghe một tiếng la thất thanh ở trên bờ và tiếng chân chạy vội, tôi liền lặn ra xa bờ. Lúc nầy đầu c̣n choáng váng căng thẳng, chưa tính lên bộ hay tiếp tục đi dưới nước. Quyết định là phải thoát bằng đường bộ, ngày trốn nghĩ tối đi. Từ vị trí công tác vào sông Bến Hải chỉ có một trăm cây số.
    Càng lo khi nghe tiếng máy động cơ của tàu địch. Nguy rồi, đèn của địch chiếu sáng rọi quét toàn vùng và di chuyển dần ra cửa biển. Khoảng cách giữa tôi và tàu không quá ba mươi thước. Hễ khi ánh đèn quét về phía tôi, th́ tôi lặn xuống, ngửa mặt nh́n lên khi không c̣n ánh sáng, ngoi lên mặt nước quan sát. Cứ thế nhiều lần như vậy. Giữa khoảng thời gian nầy tôi nh́n thấy hai chiếc xà lan không người tôi liền đứng vào giữa khe ẩn nấp. Aùnh sáng đèn vẫn t́m kiếm, càng lúc tàu chạy càng xa dần cho đến khi yên lặng. Tôi lần ṃ ra phía sau. Cuối xà lan th́ giật ḿnh v́ hai chiếc thuyền của dân cột gần đó. Im lặng quan sát hồi lâu th́ ra trên thuyền không có người. Bơi nhẹ đến gần. Một chiếc có mui kín, chiếc bên cạnh không mui, nh́n vào khoan thuyền, một tia hy vọng mỏng manh, tôi liền nhẹ nhàng nhổ cây sào lên, đẩy ra giữa gịng sông mới trèo lên thuyền. Dưới cái nón lá là cái rổ có ít tôm, rổ thứ hai là cá nhỏ, thực phẩm đây rồi. Nắng nóng mùa Hạ cứ phơi khô, gặm nhắm dần cũng được mấy ngày. Dấu vật dụng xuống dưới chổ đứng, tôi lắp chèo vào. Lúc nhỏ tôi đă thạo chèo ghe. Cứ chèo ra ngoài hải phận quốc tế th́ yên tâm. Trong người độc nhất chiếc quần xà lỏn. Lấy nón đội lên, nhờ xuôi nước nên thuyền đi khá nhanh.
    Trời đêm ba mươi tối đen như mực, thuyền đă ra gần cửa biển. Bất th́nh ĺnh hai ngọn đèn pha chiếu sáng ngay vào thuyền của tôi. Nguy rồi, bọn chúng đă đón ở cửa sông. Thoáng nghĩ nhanh. Ngồi xuống thả b́nh hơi, thủy bàn, đồng hồ chỉ c̣n lại cây súng lục. Dự tính ít nhất cũng hạ được mấy tên, dành cho ḿnh một viên. Suy nghĩ đổi thế th́ lỗ quá. Qua bao nhiêu tháng, năm được đào tạo, học tập, huấn luyện mà trả với cái giá như thế sao? Đến lúc nào đó quá sức chịu đựng th́ tự sát. Nhưng ánh đèn pha chói sáng choang không nh́n thấy tên nào cả, đành phải thả súng xuống nước luôn.
    Có tiếng hỏi từ trên tàu: Ai? Đi đâu đó? Tôi trả lời: Tôi đi mừng lưới. Hỏi: Tại sao đi có một ḿnh? Trả lời: Hôm nay vợ con bệnh, mừng chung với người ta. Dưới ánh sáng đèn pha chúng đă phát hiện ra cái áo cao su và chân vịt (chưa kịp thả, có thả nó cũng nổi trên mặt nước) dưới chổ đứng của tôi nên chúng la lên tên Biệt Kích đây rồi. Không biết bao nhiêu tiếng lên đạn, sẵn sàng nhả nạn nếu tôi có hành dộng ǵ. Chưa tính ra phải làm ǵ trong lúc cùng, th́ bốn, năm tên nhảy qua thuyền đánh đập tới tấp vào người tôi, bảo đầu hàng.
    Bọn chúng lấy giây trói khuỷu cánh tay tôi lại đưa vào bờ. Hai tên cầm súng chỉa vào tôi và cầm chắt sợi giây thừng khoảng cách 3, 4 thước. Trời vẫn chưa sáng. Hừng đông dẫn tôi đi, sáng ra th́ chúng bịt mắt. Trong lúc khập khễnh từng bước, bên tai nghe tiếng nói của dân đi làm hỏi ai đó các anh : Biệt Kích đó. Có tiếng ồ, to béo quá, đen thui. Đến khi chúng nó bảo dừng lại, ngồi trên chiếc ghế, trói vào một cây cột. Không nghe tiếng nói, mà chỉ nghe tiếng chân đi lại nhiều. Chiều th́ chúng đưa tôi lên vào trại Quảng B́nh. Pḥng nhỏ hôi hám, lại bị cùm cả hai chân, chúng mới mở mắt cho tôi. Phần ăn là bát cơm gạo lức đỏ, mấy cọng rau muống, làm sao nuốt vô được. ôn lại càng thắc mắc. Tại sao qua bao nhiêu ngày tháng tôi và Bill đă kiểm tra thử đồng hồ rất chính xác. Vậy tại sao?
    Không kể ngày đêm chúng đều kêu lên hỏi cung. Trước mặt là cái bàn nhỏ, bàn đối diện là năm tên hỏi cung, hết tốp nầy đến mấy tên khác. Chúng hỏi đơn vị, nơi xuất phát, bao nhiêu người, nhiệm vụ làm ǵ ? Tôi chỉ trả lời ra thám sát bến phà Sông Gianh, đo độ dốc bờ sông, mức nước, độ sâu. Trách nhiệm cấp trên giao cho tôi chỉ có vậy thôi. C̣n để làm ǵ th́ tôi không biết. V́ tôi bị bắt tại cửa sông mà.
    Mở ngoặc ở đây một tí. Chúng hỏi tôi trong Nam ăn tiêu chuẩn bao nhiêu? Ngẫm nghĩ hồi lâu tôi trả lời: Tiêu chuẩn là ǵ? Xă hội tự do làm ǵ phải có tiêu chuẩn. Tên ngồi giữa đập bàn cái rầm, làm ǵ có ăn uống bừa băi vậy. Rơ ràng mấy tên nầy đều bị mù quáng cả trong sinh hoạt.
    Trải qua đă hơn mười ngày. Chúng không khai thác được ǵ ở tôi. Cuối cùng chúng đưa toàn bộ vật dụng h́nh ảnh ra chứng minh và nói rằng anh là một người đại ngoan cố, tất cả đều bị bắt hết rồi. Gây tội lỗi trong Nam chưa đủ c̣n ra phá hoại thành quả Xă Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc! Cuối cùng tôi nhận là ra phá tàu hải quân.
    Một tṛ hề mà tôi đă ư thức được như sau: Một người độ hơn 50 tuổi, tự giới thiệu là luật sư, cùng đi với một người nữa độ chừng 30 tuổi, xưng là thư kư. Mỉa mai quá! Thư kư mà mang xắc cốt công an. Tôi cũng thừa biết CS làm ǵ có luật để mà căi chứ, mà có phát biểu cũng phải nói theo đường lối CS mà thôi. Ông ta nói một hơi. Tôi liền trả lời. Việc tôi làm đă rơ ràng, không cần phải biện hộ. Tự bản thân tôi trả lời cũng đủ rồi. Mấy lần sau trong câu nói của luật sư như khẩn thiết, cho nên tôi nói nhiệm vụ của ông được họ giao phó th́ tùy, hiểu biết như thế nào th́ nói như thế đó, tôi không xin xỏ, không bào chữa, v́ tôi làm việc cho Tổ Quốc, thi hành nghiêm chỉnh kỷ luật Quân đội đă giao phó. Hai mươi ngày sau th́ mở phiên ṭa.
    Tám giờ sáng, chúng c̣ng tay tôi và dặn nếu trên đường đi mà đồng bào có hành động ǵ th́ không được chống đối lại. Đến đây tôi mới biết mọi người đều bị bắt. Không có anh Năm và anh Bảy. Sau nầy ở chung trại tôi mới biết anh Bảy chết tại chỗ v́ ḿn nổ, c̣n anh Năm tử thương sau khi chống trả quyết liệt với chúng trên biển. Các anh kể lại rằng khi biết bị lộ, nhân viên thuyền nhỏ chạy ra thuyền lớn nhổ neo chạy thoát. Thuyền chạy cả máy lẫn buồm suốt đêm hôm đó cho đến gần trưa hôm sau th́ tàu Hải quân CS chạy máy lớn hơn nên đuổi kịp, ban đầu th́ chúng nó bắn bao vây, cố ư muốn bắt sống tất cả. Anh em trên thuyền bắn trả lại bằng trung liên BAR, súng phóng lựu. Hai bên vừa chạy vừa bắn nhau như trong phim.Vũ khí trên tàu CS th́ lớn hơn và đầy đủ, con bên thuyền th́ chỉ bắn để pḥng thân, cuối cùng hết đạn. Lúc nầy anh Năm trúng đạn, vài người khác bị thương, quyết định của thuyền trưởng là lao mũi thuyền đâm vào tàu địch, hai bên cùng tan vỡ. Vị trí lúc nầy gần Cồn Cỏ, nơi ranh giới Nam - Bắc. Tàu Hải quân máy mạnh, nên nhanh hơn. Thuyền của ta luồn lách măi sau cùng bị tàu địch càn lên ch́m. Lập tức chúng bắt những người c̣n sống đưa lên bong tàu phủ bạt kín, vội vă trở ra Bắc.
    Thường trong cái xui, c̣n có cái hên cho một người. Anh ta lặn núp vào trong cánh buồm. V́ đây là ranh giới giữa hai bên, bọn chúng sợ quân ta có thể tấn công nên vội vàng rút lui. Anh ta sống lênh đênh trên biển cả một ngày một đêm với một tấm ván thuyền, và vớt được vài trái cam. Nhờ tàu Hải Quân ḿnh đi tuần, anh ta cởi áo lót vẫy và được Tàu Hải Quân ta cứu thoát.
    Trở lại phiên ṭa quân sự Quân Khu IV. Viên Trung tá chánh án, hai Đại úy phụ thẩm, viên Thiếu tá Viện Kiểm Sát, một Thư kư, hội trường đông nghẹt người. Chúng bắt loa ra cả sân Vận Động cho dân chúng nghe. Quay phim, chụp h́nh. Mục đích của chúng bày tṛ cho thật to chuyện để nói với thế giới là miền Nam xâm phạm miền Bắc.
    Ghê rợn nhất là lời buộc tội của viên công tố, thôi th́ đủ điều để mà phát biểu, gán ghép bao nhiêu điều ác cho Chánh phủ VNCH. Hai luật sư biện hộ cho hơn mười người đều nói theo bản luận tội, nói là biện hộ cho nó có lệ thôi, chớ chế độ Cộng Sản làm sao dám đưa luật ra mà căi, dám nêu lên cái đúng cái sai nếu không muốn gỡ lịch hàng năm. Phiên ṭa kéo dài hai ngày đêm. Trước khi nghị án, tôi phát biểu một công dân sống trong chế độ phải làm tṛn nhiệm vụ, kỷ luật Quân đội, phải thi hành trách nhiệm được giao phó. Việc tôi làm đă rơ ràng. Ṭa xử như thế nào th́ tùy ṭa mà thôi.
    Uất ức, tức tối muốn điên cả cái đầu. Nếu phá được cả ba chiếc tàu không bị lộ th́ phiên ṭa hôm nay dành cho bọn chúng, chứ không phải mà anh em Chiến hữu chúng tôi. Kết thúc phiên ṭa: Tôi, tù chung thân; anh Sáu, tù 20 năm; thuyền trưởng, tù 16 năm; thuyền phó, tù 6 năm; thợ máy kiêm hướng dẫn viên, tù 18 năm; hai anh tù 5 năm; bảy anh tù 3 năm; một anh tù 2 năm v́ anh này chưa đến 18 tuổi. Bản án là một tṛ hề. Hai năm hay chung thân đều cùng chung một số phận ở tù từ 18, 20, 22 năm mới ra tù..
    Sau đó chúng đưa đi các trại tù lao động khổ sai. Thôi th́ không kể xiết những cảnh lao lư cực h́nh mà bọn chúng đă hành hạ chúng tôi. Đúng! Ai có nếm mới biết mùi. Tôi muốn nêu lên vài điểm để làm sáng tỏ vấn đề thực tế cho những ai c̣n mơ tưởng về chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa nó ác độc như thế nào.
    Chúng tôi đă trải qua các trại như Sơn Tây, hai lần trại Hà Giang thường gọi là cổng trời. Hà giang Bắc một đi có, về không. Trại Phú Lu Lào Cai, Tuyên Quang là trại cuối cùng. Về đây v́ CSVN sợ Trung Quốc tấn công.
    Quá tŕnh mấy chục năm trong lao tù tàn độc dă man của CSVN, tôi nêu lên đây những t́nh thần tranh đấu bất khuất, những thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong hoàn cảnh cùng chung số phận. Điển h́nh và quyết liệt nhất là vụ tuyệt thực bảy ngày năm 1973 của anh em chúng tôi tại Phu Lu, Lao Cai.
    Ngày ấy lên hội trường họ cho chúng tôi biết đă kư Hiệp Định Paris. Lúc nào phần thắng cũng thuộc về CSVN. Theo chủ trương của Đảng. Chánh phủ, một số cán bộ lên hướng dẫn cho chúng tôi học tập, trong đó có vấn đề gọi là bồi dưỡng, rêu rao là nhân đạo nhằm mục đích nếu sau nầy có được trao trả bớt phần nào với bộ xương cách trí, da bọc xương, một bóng h́nh c̣n di động được tố cáo tội ác dă man của chế độ lao tù Cộng Sản. Họ đủ điều thuyết phục chúng tôi, bày tṛ bàn thờ Tổ quốc rồi tuyên thệ không gây thêm tội ác, cũng như phá hoại các công việc của chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa.
    Trước mặt họ chúng tôi cũng ừ hữ, gật, cũng hứa hẹn, v́ đang c̣n trong cái thế phải vờ chấp nhận. Làm thế nào mà họ có thể hiểu hết được trong tiềm thức của chúng tôi. Miễn làm sao được đặt chân lên miền Nam cái đă.
    Họ giết chết cha mẹ, họ hàng, anh em, vợ con của những người dân vô tội trong dịp Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968. Mối thù không đội trời chung với Cộng sản.Lúc nầy là thời điểm căng thẳng, bốn phía cḥi canh bốn cây đại liên sẵn sàng nhả đạn tiêu diệt, nếu chúng tôi bạo động, và toán tù h́nh sự sẽ là vật hy sinh trước. Sở dĩ v́ sao chúng tôi biết được tin tức nhờ anh em chúng có liên lạc được với tù là những phần tử bất măn, oán hờn chế độ Cộng Sản thông tin cho chúng tôi biết để đề pḥng. Từ đó chúng tôi tuyệt thực tranh đấu đ̣i trao trả, v́ anh em đă nghe đơn vị Dù được trao trả rồi. Hàng ngày tên công an trực đưa thức ăn vào đều bị anh em la ó, phản đối, tên công an đă nói rằng tôi vào đây để nghe các anh chửi bới, các anh không ăn th́ đưa về. Sau đó chúng dở tṛ thâm độc ly gián anh em để hành động dă man hầu dập tắt tinh thần đấu tranh đang dâng cao. Tên công an tự giới thiệu là người của Bộ đưa xuống tuyên bố "hôm nay các anh chuyển trại" bắt tất cả hơn trăm người tập hợp, chung quanh là bộ đội có vơ trang với tư thế sẵn sàng để đàn áp. Chúng kêu tên từng người lên xe, năm chiếc xe bắt đầu chuyển bánh. Chúng sắp đặt trước, chiếc xe đầu chở 21 người, chúng nghi là có khả năng lănh đạo, trong đó có tôi chạy thẳng lên trại Quyết Tiến Hà Giang. Mấy tiếng đồng hồ sau, bốn xe kia quay trở lại trại, lùa tất cả vào pḥng khóa cửa.
    Anh em tranh đấu cho rằng Cộng Sản đưa số anh em đó đi thủ tiêu rồi. Chúng kêu từng người nói là lên sinh hoạt, thật chất là đưa vào pḥng kỷ luật c̣ng chân lại, dùng thủ thuật hành hạ dă man. Chúng đánh ông già Tŕnh thuyền trưởng rụng cả hai hàm răng, các anh em khác người bầm ngực, bầm lưng, hộc máu mồm không được săn sóc chữa trị chi cả. Chúng lại chuyển tiếp một số anh em đợt hai lên Hà Giang. Pḥng kỷ luật chật hẹp, tường đất dày 5 tấc, nền nhà luôn có nước đọng, khí hậu âm u rét buốt có ngày xuống 4 độ âm, mỗi ngày ăn một chén bắp độ chừng 5 đến 60 hạt, vài hột muối trắng. Mục đích của chúng hành hạ cho đến chết th́ thôi. Số chết ở trại nầy hơn ba chục anh em.
    Trong một buổi sáng tên công an vào cho sinh hoạt, trước khi bắt đầu, nó bảo các anh hát một bài đi. Một anh liền trả lời: Chúng tôi chỉ biết hát nhạc vàng, không biết hát nhạc đỏ. Chúng liền đưa anh bạn ấy đi vào hầm và cùm hết chín tháng. Bản thân tôi hai lần ở trại Quyết Tiến Hà Giang. Trại nằm sâu trong rừng. Khí hậu ở đây vô cùng khắc nghiệt. Một năm cộng lại có hơi nắng vài ba tháng, c̣n lại là mưa gió, sương mù cách nhau 3 thước không nh́n thấy nhau. Những lúc này chúng tôi đều bị nhốt trong pḥng. Mỗi lẫn có gió mùa Đông Bắc thổi về cơn lạnh thấu xương. Đói lạnh, ghẻ lở vô cùng cực khổ. Làm mà không đủ mức ấn định chúng dùng h́nh thức vô nhân đạo hạ mức ăn. Lao động khổ sai nên bị cụp xương sống, rối loạn thần kinh.
    Một lần tôi bị kỷ luật cùm một tháng. Nguyên nhân là cái khăn lau mặt của tôi có ba sọc đỏ đem phơi ngoài trời. Một tên nào đó báo cáo với tên công an nói tôi treo cờ VNCH. Sau buổi sinh hoạt kiểm điểm chúng kết luận tôi c̣n mong đợi Chánh phủ miền Nam. "Lúc này là thời kỳ oanh tạc miền Bắc". Kể về tội ác của Cộng Sản th́ không giấy bút nào có thể tả hết những thâm độc của chúng.

    Hồi tưởng lại gần một phần tư thế kỷ bị giam cầm, hơn mười ba năm sống dưới ách thống trị độc tài tàn ác của chế độ Cộng Sản, con người là cái xác không hồn, già yếu và bệnh tật. Viết bài này tôi không có tham vọng nói lên điều sai hay đúng, chỉ mong mỏi những người c̣n lại, bạn đồng đội đốt nén hương để tưởng nhớ, thương tiếc và tri ơn các bạn đă hy sinh cho Tổ Quốc.
    Cá Ḱnh Nguyễn Văn Tâm

  8. #238
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu
    LÔI-HỔ
    và Chiến Dịch Đột Kích sang Lào và Cam Bốt

    Tác giả: Vương Hồng Anh


    CCC SLAM COMPANY B


    Tổng Tham Mưu


    Sở Pḥng Vệ Duyên Hải



    Lực lượng Lôi Hổ ( The Thunder Tiger - Liaisons Service Commandos ) lên đường cho một chuyến công tác tạI Lào
    Như đă tŕnh bày trong bài viết về đơn vị Nghiên Cứu và Quan Sát "SOG," [1] một đơn vị thống thuộc Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV, hay Military Assistance Command Vietnam) được thành lâp vào đầu năm 1964 với cái tên gọi tắt là MACV-SOG, từ khi khởi sự hoạt động vào tháng 2 năm 1964, các toán t́nh báo chiến lược của đơn vị này đă xâm nhập vào nhiều khu vực quân sự của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Miền Bắc, và thu thập được nhiều thông tin có giá trị.

    [1] SOG là viết tắt của các chữ Studies and Observation Group, dịch sang Việt ngữ là "Nhóm Nghiên Cứu và Quan Sát." Đây là những toán biệt-kích được huấn luyện để tự ḿnh riêng-rẽ hoạt động trong ḷng địch. Mọi công tác của họ đều thuộc loại kín đáo, bảo-mật, bao gồm những cuộc hành quân nguy hiểm như đột kích, dọ thám, và quan sát địa h́nh .

    Ngoài hoạt động của đơn vị SOG trong ḷng địch, từ năm 1966, Đại Tướng Williams Westmoreland đă nhận xét rằng cần phải có các cuộc hành quân quy mô để triệt hạ các căn cứ địa của Bắc Việt tại Lào và bên kia giới Việt Nam - Cam Bốt. Do đó vị tướng này đă ra chỉ thị cho bộ tham mưu của ông nghiên cứu kế hoạch thực hiện các cuộc hành quân nới rộng hoạt động hành quân ngoại biên khi được Hoa Thịnh Đốn (Washington, D.C.) cho phép.
    Có tất cả ba kế hoạch đă được soạn thảo trong các năm 1966 cho đến 1968 nhưng không tiến hành được (chi tiết về các kế hoạch này sẽ được tŕnh bày trong bài viết Liên Quân Việt Mỹ, 3 kế hoạch tấn công mật khu CSBV tại Lào). Theo tài liệu của Đại Tướng Westmoreland, khi ông Henry Cabot Lodge trở lại Việt Nam vào mùa hè 1965 để đảm nhận chức vụ đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Ḥa lần thứ hai, ông rất hăng hái muốn xúc tiến ngay kế hoạch này nhưng Tổng Thống Johnson và Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ c̣n ngần ngạị

    CHIẾN DỊCH SHINING BRASS VÀ KẾ HOẠCH PHÙ ĐỔNG
    Trong thời gian chưa được phép tiến hành những cuộc hành quân quy mô bằng các đại đơn vị bộ chiến để tấn công quân Bắc Việt trên đất Lào, Đại Tướng Westmoreland đă xin Hoa Thịnh Đốn cho phép lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam phối hợp với quân đội VNCH tiến hành các cuộc hành quân trinh sát thu nhập tin tức địch quân ở phía bên kia biên giới (Việt-Lào). Sau khi đề nghị này được chấp thuận, vào tháng 9/1965, liên quân Việt-Mỹ khởi động chiến dịch quân sự mang tên Shining Brass với các cuộc hành quân t́nh báo trinh sát xâm nhập vào các căn cứ địa của Cộng Sản Bắc Việt trong đất Lào. Trong chiến dịch này, các toán Lực Lượng Đặc Biệt Việt-Mỹ đă trực tiếp giao chiến với quân Bắc Việt và Cộng Sản Pathet Lào. Luôn cả các pháp đài B- 52 cũng đă được gọi đến oanh tạc. Kế hoạch này là quy mô hóa, hệ thống hóa các hoạt động thám kích, tấn công, oanh-tạc, nhằm ngăn chận các đơn vị Bắc Việt xâm nhập qua ngă Lào vào miền Nam Việt Nam mà trước đó bộ phận SOG chỉ có những hoạt động ở tầm mức nhỏ, không đáng kể.


    Một toán NKT Thời gian xâm nhập là 20 ngày với lương khô dự trữ 30 ngày. Toán SOG sẽ mang thức ăn dự trữ và chôn dấu tại một địa điểm bí mật. Sau 10 ngày, tất cả sẽ quay trở về điểm chôn dấu thức ăn để tái tiếp-tế.

    Đến năm 1967, chiến dịch Shining Brass được gọi là Prairie Fire, và sau đó được gọi là cuộc hành quân Phù Đổng. Ngày 26 tháng 1 năm 1967, Đại Tướng Westmoreland cho tiến hành thêm kế hoạch mở rộng hơn với các cuộc hành quân trinh-sát nhằm xâm nhập sâu và ở lâu tại Lào để gầy dựng một tổ chức kháng chiến trong nội bộ một số người sắc tộc. Đến giữa tháng 3, ông Ellsworth Bunker, 74 tuổi, nguyên đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Dương được cử sang thay đại sứ Cabot xin từ chức.
    Vị tân đại sứ này ngần ngại nên kế hoạch mở rộng chiến dịch Prairie Fire bị khựng lại, nhưng các cuộc hành quân trinh sát dọc theo biên giới do các đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt Việt-Mỹ làm nỗ lực chính vẫn được tiếp tục. Tuy nhiên các đơn vị Mỹ bị Quốc Hội Hoa Kỳ cấm không cho vượt biên qua Lào như trước đây.

    CHIẾN DỊCH DANIEL BOONE CỦA LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT VIỆT-MỸ
    Cùng với cuộc hành quân Prairie Fire tiến hành trên đất Lào, từ tháng 6 năm 1966, Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ tại Hoa Thịnh Đốn cho phép Đại Tướng Westmoreland lập kế hoạch mở rộng chiến dịch hành quân trinh sát ngoại biên sang khu vực bên kia biên giới Việt Nam - Cam Bốt bằng việc sử dụng Lực Lượng Đặc Biệt. Ngày 27 tháng 6 năm 1966, kế hoạch này được thi hành qua chiến dịch bí mật mang tên Daniel Boone.
    Theo lệnh của Đại Tướng Westmoreland, các đơn vị tham dự cuộc hành quân không được hoạt động bao trùm cả khu biên giới, chỉ quanh quẩn ở khu sông Se San măi cho đến tháng 5 năm 1967. Đến tháng 10 năm 1967, chiến dịch Daniel Boone mới tiến hành các cuộc tuần thám đi sâu vào đất Cam Bốt 20 km dọc theo biên giới, và sau đó được phép đi sâu vào 30 km. Đường biên giới chia thành 2 vùng: Vùng Alpha từ Lào chạy xuống Snoul, vùng Bravo chạy dài từ Snoul xuống tới Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên các hoạt động thám báo tại vùng Bravo đặc biệt phải được sự chấp thuận của Tổng Thống Hoa Kỳ.
    Theo tài liệu của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ th́ các tin tức t́nh báo gửi về cho MACV-SOG đă không được khai thác và sử dụng. Suốt năm 1967, các toán Lực Lượng Đặc Biệt tham dự cuộc hành quân Daniel Boone đă báo cáo rằng quân Bắc Việt đă tăng cường lực lượng pḥng thủ để biến khu Lưỡi Câu nằm giữa Cam Bốt và Nam Việt Nam thành một hậu cần mạnh để sau đó trở thành nơi xuất phát và chỉ huy cuộc tổng tấn công của họ trong Tết Mậu Thân 1968.
    Sau khi nhận được báo cáo của Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tại Việt Nam (Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt), Đại Tướng Westmoreland đă xin phép Hoa Thịnh Đốn cho ông được điều động khẩn cấp Lực Lượng Đặc Biệt vượt biên sang tiêu diệt khu hậu cần Lưỡi Câu của Cộng Sản Bắc Việt nhưng đă bị từ chối. Sau đó, kế hoạch Daniel Boone được đổi tên là Salem House và đến tháng 12 năm 1968, mọi giới hạn công tác của kế hoạch được giải tỏa. Khu biên giới Cam Bốt được chia thành 3 vùng, trong đó vùng Bravo được chia làm hai. Vùng mới được gọi là Charlie, hoặc là miền Trung Salem House, chạy dài từ Snoul đến thị xă Prey Veng, trong khi khu Bravo, hoặc miền Nam Salem House, chạy dài từ Prey Veng xuống tới Vịnh Thái Lan.
    Lực Lượng Đặc Biệt được tự do hoạt động ở khu Alpha phía bắc giáp ranh Lào nhưng ở khu Bravo phải được phép của Tổng Thống Hoa Kỳ như đă tŕnh bày ở trên. Trong năm 1969, Tổng Thống Nixon đă cho phép Lực Lượng Đặc Biệt một lần hành quân vào khu vực này.
    Ngày 8 tháng 4 năm 1971, kế hoạch Salem House được đổi thành kế hoạch Thốt Nốt. Ngoài hai kế hoạch Salem House và Prairie Fire, Lực Lượng Đặc Biệt c̣n gửi các toán xâm nhập Vùng Phi Quân Sự gần Bến Hải với các kế hoạch Nickel Steel và kế hoạch Bright Light có toán chuyên cứu tù binh và t́m người thất lạc, vượt ngục.

    CÁC CUỘC HÀNH QUÂN DO MACV-SOG ĐIỀU HÀNH


    Để tiến hành các kế hoạch t́nh báo chiến lược, Bộ Chỉ Huy MACV-SOG sử dụng các trại biên giới do Lực Lượng Đặc Biệt phụ trách để xuất phát các cuộc hành-quân mật, ngoài ra c̣n một số nơi khác như Nakhon Phanom bên Thái Lan cũng được dùng để chuẩn bị đưa người xâm nhập. Các trung tâm huấn luyện tại Khâm Đức và Long Thành huấn luyện Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam và người sắc tộc thiểu số để sử dụng trong các chuyến công tác cảm tử. Trong khi đó, người địa phương được tuyển chọn theo quy chuẩn trung thành và tác chiến rừng rậm xuất sắc, một số đại đội pḥng thủ và phản công đều chọn từ lực lượng Mike Force [2] đưa qua.



    [2] Mike Force là ám danh của chữ Mobile Strike Force, dịch sang Việt ngữ là "Lực Lượng Đột-Kích Lưu Động" (có tài liệu dịch là "lực lượng viễn-thám đặc biệt"). Đây là những đơn vị được thành lập từ năm 1965 với đa số các binh sĩ được tuyển mộ từ những bộ-tộc sắc dân thiểu số (người Thượng). Nhiệm vụ chánh-yếu là yểm trợ cho các trại Lực Lượng Đặc Biệt gần biên giới. Trong trường hợp một trại nào đó bị tấn công, lực lượng Mike Force sẽ được huy động để truy-kích địch quân. Từ năm 1965, các lực lượng Mike Force đều do phía Hoa Kỳ điều hành. Năm 1970, Hoa Kỳ giảm bớt mức độ chinh-chiến. Lực lượng Mike Force được chuyển giao cho quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Tất cả đều được sát nhập vào binh chủng Biệt Động Quân, và thường được gọi là Biệt Động Quân Biên-Pḥng.


    Ngày 1-11-1967, hai kế hoạch Omega và Sigma được sát nhập làm một và tái cấu trúc lại với ba bộ chỉ huy phụ trách ba vùng biên giớ. Một ở Đà Nẵng, một ở Kontum và một ở Ban Mê Thuột.
    Các toán công tác đặc nhiệm thuộc quyền điều động của MACV-SOG thường được giao những nhiệm vụ như sau: ḍ đường bộ, đường sông, đặt ḿn, quấy rối và phục kích, bắt tù binh, gài bom, chụp h́nh, gài giây truyền tin, hướng dẫn pháo binh và phi cơ oanh kích, hạn chế giao tranh với Cộng quân. Mỗi toán gồm 3 binh sĩ Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ, 9 Biệt kích quân người Thượng Việt Nam, mỗi chuyến công tác, toán được bốn trực thăng hỏa lực và một phi cơ quan sát yểm trợ. Về chuyển vận có 4 trực thăng đổ quân gồm một trực thăng CNC, một trực thăng đổ quân, hai trực thăng trừ bị sử dụng để bốc phi hành đoàn và toán đổ quân trong trường hợp trực thăng đổ quân bị rớt hoặc gặp phải hỏa lực mạnh của đối phương.

    Tuy nhiên khi cần, bộ chỉ huy MACV-SOG cũng có thể điều động các toán thành một đơn vị tác chiến, từ một đến ba trung đội, để tấn công và phục kích địch, an ninh tuần tiểu giữ an ninh cho các căn cứ, tiếp cứu các toán t́nh báo khi nhận được sự yêu cầu yểm trợ khẩn cấp. MACV-SOG cũng c̣n một bộ phận Nhảy Dù mang tên SOG-36 thi hành các nguyên tắc công tác vượt biên t́nh báo. Đến ngày 23-2-1970, Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ quyết định chấm dứt chương tŕnh này, nên ra lệnh cho MACV-SOG ngưng các chuyến công tác nói trên.
    Nhận định về hoạt động của các chuyến công tác và t́nh báo của các đơn vị nói trên, Đại Tá Roger M.Pezzelle, một sĩ quan cao cấp của MACV-SOG đă phát biểu như sau: "Sự thật là suốt lịch sử MACV-SOG, cuộc chiến tranh không quy ước đă không được thi hành trọn vẹn v́ một số lư do. Lư do quan trọng nhất là thời hạn phục vụ một năm quá ngắn gây hậu quả không tốt khó tránh khỏi cho lối chiến tranh quy ước này. Đại diện cho MACV-SOG, tôi phải nói rằng các chuyến công tác t́nh báo và các nhiệm vụ khác tuy chưa được công bố nhưng bảo đảm thành công mỹ măn."
    MACV-SOG là một mô thức áp dụng Lực Lượng Đặc Biệt lần đầu tiên vào công tác t́nh báo chiến lược trên bộ và phá hoại địch. Thành công của Lực Lượng Đặc Biệt trong mô thức này được các phối hợp với các kế hoạch pḥng thủ trong và ngoài với quan niệm mở rộng phạm vi thám báo càng xa căn cứ th́ càng an toàn bấy nhiêu.


    MACV-SOG -Nha Kỹ Thuật BTTM

  9. #239
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu
    Những người lính không có số quân
    Trung Tá Nguyễn Văn Vinh



    Toán Biệt Hải gồm những thành viên t́nh nguyện từ binh chủng TQLC cùng cố vấn Mỹ - Đà Nẵng .1964

    VNCH đă giữ vững được cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi nhưng đầy gian truân, máu và nước mắt, đầy sự hy sinh của biết bao nhiêu người.
    Trong số những sự hy sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của người lính Biệt Kích Dù hoạt động tại Bắc Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt tại Bắc Việt. Bảng tổng kết sơ khởi cho biết trong số những Biệt Kích Dù được thả ra miền Bắc có 7 người đă bị CS tuyên án tử h́nh vàđă bị hành quyết, 9 người tử trận, 21 người chết trong các trại tù khổ sai miền Bắc, 7 người chết sau khi được thả về, 2 người mất tích khi thi hành nhiệm vụ, 11 người bị chỉ định phải định cư tại các nông trường hay hợp tác xă miền Bắc. Đa số những người c̣n lại đều bị tra tấn dă man và bị bắt lao động khổ sai trong những trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao hầu hết các biệt kích thả xuống miền Bắc đă bị CS bắt?
    Bài viết sau đây là của Trung Tá Nguyễn Văn Vinh, người trực tiếp phụ trách các toán Biệt Kích Dù được thả xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại cương về tổ chức các đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của họ vàcách thức điều hành của cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ.

    Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt

    Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc hay Sở Khai Thác, tiền thân của Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu. Đó là những bí danh của một cơ quan t́nh báo chiến lược, được thành lập từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống và nằm trong mạng lưới chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH. Cơ quan này được Hoa Kỳ yểm trợ cả về tài chánh lẫn các phương tiện cần thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không quy ước chống miền Bắc CS.

    Sau Hiệp Định đ́nh chiến Geneva, vĩ tuyến 17 được chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới thiên nhiên, ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, dưới áp lực của Hoa Kỳ, đă phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhường chỗ cho quốc kỳ VN tung bay tại dinh Độc lập vừa được đổi tên và đổi chủ. Để đáp lại, quân đội Pháp đă không nương tay, xóa sạch mạng lưới t́nh báo mà họ đă khổ công gầy dựng trong nhiều năm tại miền Bắc. Đây là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành t́nh báo non trẻ của miền Nam. Trong khi đó, CS đă để lại tại miền Nam vô số cơ sở t́nh báo mà họ đă gầy dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp, trong đó phải kể đến các thân nhân của các cán bộ và bộ đội tập kết. Thêm vào đó, các khuyết điểm to lớn chồng chất của 2 chế độ lỗi thời Thực dân dân và phong kiến đă làm mồi nuôi dưỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất thuận lợi cho các cán bộ CS nằm vùng khai thác.

    Dù vậy, ngành t́nh báo miền Nam, tuy phải xây dựng trễ và phải đặt nền móng từ đầu, nhưng lại được hưởng ứng nồng nhiệt v́ đa số người Việt thời ấy, nhất là đồng bào di cư, các bộ lạc dân tộc thiểu số, các đảng phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đă thấy rơ bộ mặt gian dối của CS. Có người đă chứng kiến những vụ tàn sát hay đấu tố dă man các thành phần quốc gia yêu nước nhưng bất đồng chính kiến với CS và có khi họ chính là thân nhân của các nạn nhân đó. Ngoài ra, những tài liệu sống động như cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống đă gây được một ấn tượng ghê tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam.

    Nắm được các yếu tố thuận lợi trên đây, Sở Bắc đă gấp rút gửi nhân viên đến các trại định cư, liên lạc với các vị lănh đạo tinh thần cũng như các bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt t́nh yêu nước c̣n thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đưa về huấn luyện và tạo vỏ bọc thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động.

    Từ những năm đầu tiên đến năm 1966, các toán xâm nhập miền Bắc thường xử dụng một trong những phương cách sau đây:

    - Nhảy dù đêm vào vùng mục tiêu.
    - Xâm nhập đường biển bằng thuyền mẹ, và từ đó xử dụng thuyền con bơi vào vùng công tác.
    - Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vượt sông Bến Hải và lén lút đi bộ vào điểm công tác, móc nối với thân nhân đă nằm vùng, hoặc giới chức được tín nhiệm tại địa phương. Trường hợp sau này thường phải xử dụng "bona fides" để nhận nhau.
    -Cử chuyên viên phục vụ tại Ṭa Đại Sứ của một vài nước thứ 3 như Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hồng Kông... rồi từ đó tuyển mộ và huấn luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc thích hợp cũng như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền Bắc hoạt động. Phương pháp này đă được điều nghiên tỉ mỉ, nhưng v́ quá tốn kém nên chỉ được thực hiện từng giai đoạn.

    Tuy có nhiều h́nh thức xâm nhập khác nhau như vừa tŕnh bày trên, nhưng trong bài này, tôi (Trung Tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin đề cập đến những toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không mà thôi, v́ đây là phần việc mà chính tôi đă đảm nhận trong nhiều năm tại cơ quan t́nh báo chiến lược này.

    Những chuyến bay đêm
    Các toán Biệt Kích Dù thường được thả xuống miền Bắc vào những đêm trăng. Mùa trăng thuận lợi cho công tác này bắt đầu từ ngày mồng 10 - 20 âm lịch hằng tháng. Giờ giấc được chọn tùy thuộc vào điều kiện an ninh và thời tiết tại vùng công tác. Để có đủ phương tiện đối phó với các bất trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt Kích Dù phải mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề. Ngoài súng tiểu liên Swedish K. của Thụy Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị ống giảm thanh và 3 đơn vị hỏa lực, họ c̣n phải đèo thêm các dụng cụ khác trên 20 món, nào bidon nước, bản đồ vùng mục tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3 ngày lương khô, đèn bấm, pamean, dao găm, túi cứu thương cá nhân, càmèn, pháo hiệu (pen flare), đồng hồ đeo tay, radio, v.v...

    Các dụng cụ này thường được mua ở các nước thứ 3 và không một trang cụ nào được mang nhăn hiệu Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các đồ trang bị tập thể nhưng dụng cụ phá hoại, đồ cứu thương, lương thực dự trữ dùng cho 3 tháng, v.v... đều được đóng thành kiện. Máy truyền tin dự trữ và máy beacon là máy phát tín hiệu có tầng số nhất định, được đặt tại kiện hàng số 1.

    Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm, chiếc dù có thể bị ảnh hưởng của gió, bạt ra xa cách băi thả 1-2 km. Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ có thể dễ dàng bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về hướng tập trung.
    Thông thường, các nhân viên quê quán vùng vào được thả về mục tiêu vùng đó. Để bảo đả an ninh cho công tác, mục tiêu và nhiệm vụ của toán chỉ được thuyết tŕnh vào giờ chót, trước khi lên máy bay. Các chuyến xuất phát trong những năm đầu đến năm 1964, chính cơ quan Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ đă yểm trợ cho các chuyến bay bí mật này và lộ tŕnh duy nhất được xử dụng là Tân Sơn Nhất - Đà Nẵng - Vùng mục tiêu.

    Tại Đà Nẵng, đợi lúc trời tối, phi cơ cởi bỏ hết mọi huy hiệu trước khi khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân. Phi cơ được xử dụng là loại DC7 hoặc DC6. Phi hành đoàn thường là người Trung Hoạ Tuy nhiên, cũng có lúc phi hành đoàn là người VN, được tuyển chọn trong số sĩ quan có khả năng và được tín nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam. Phó TT Nguyễn Cao Kỳ hồi c̣n mang lon Đại úy, đă nhiều lần làm phi công chính thức cho các phi vụ đặc biệt này. Đến cuối năm 1966, Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối, nhường chỗ cho MAC-SOG, một cơ quan t́nh báo quân sự, thay thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật.

    Khi cường độ chiến tranh VN đi đến giai đoạn khốc liệt nhất th́ nhu cầu tin tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt Kích Dù hoạt động phải được tăng cường nhiều hơn. Các phương tiện xâm nhập cũ được thay thế bằng C123 hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum, một sân bay nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay don nằm ở phía Đông-Bắc Thái Lan. Từ các nơi đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển qua trực thăng CH3 để bay băng qua lănh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt. Cũng có lúc mục tiêu được lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt.

    Trực thăng là phương tiện xâm nhập vừa rẻ tiền vừa tiện lợi nhưng lại là phương tiện kém an toàn nhất, v́ tiếng động cơ quá lớn, địch dễ phát hiện. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân thất bại của công tác Biệt kích tại miền Bắc? Vấn đề này đă được phía VN quan tâm và nêu lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng phía đối nhiệm không quan tâm.

    Số phận những con chim lạc loài
    Đến cuối năm 1968, trong số gần 40 toán được cho xâm nhập bằng đường hàng không và đường bộ để hoạt động dài hạn, chỉ con có 5 toán là c̣n giữ được liên lạc với Trung ương, đó làcác toán Tourbillon (1962), Ares (1962), Remus (1963), Easy (1963) và Eagle (1963). Theo đánh giá chung của các chuyên viên hữu trách Việt-Mỹ. th́ cả 5 toán này h́nh như đă bị địch kiểm soát, nhưng cá nhân tôi vẫn c̣n tin tưởng một toán, đó là toán Ares. Sự tin tưởng này có thể đúng v́ lư do sau đây:
    Vào những năm đầu ở trại cải tạo, tôi thường bị cán bộ, không biết thuộc cơ quan nào và cấp nào, đă thay nhau thẩm vấn tôi về các toán Biệt Kích. một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi bị 3 tên cùng một lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không c̣n sức chịu đựng, tôi đă bị gục ngă v́ tức giận và xây xẩm. Họ cho người dẫn tôi về pḥng, nhưng 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn. Họ dùng đủ tṛ ma giáo "hỉ, nộ, ái, ố",... lúc th́ mời tôi hút thuốc lá "có cán" (tức loại thuốc có đầu lọc, một loại thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng, khinh bỉ. Họ chưa bao giờ đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đă dùng những lời rất cộc cằn và thô lỗ để áp đảo tinh thần tôi.

    Một điều làm tôi quan tâm hơn cả là họ hỏi tôi rất nhiều về toán Ares, như trưởng toán tên ǵ, quê quán ở đâu, tuổi tác độ bao nhiêu, dáng điệu bên ngoài như thế nào, có những đặc điểm ǵ, những liên hệ gia đ́nh, địa chỉ của các người thân lúc ở miền Nam, v.v...

    Tôi thầm nghĩ nếu Ares đă thật sự nằm trong tay họ th́ mắc mớ ǵ họ phải hỏi tôi những chuyện thừa thăi ấy. Tôi có lư do để không trả lời họ, v́ Ares đă xuất phát năm 1962, trước khi tôi được thuyên chuyển về Sở Bắc. Tuy nhiên, hôm nay tôi xin nói ra đây những ǵ tôi có thể nói ra được. Một vài chi tiết khác tôi thấy chưa thể tiết lộ lúc này v́ có thể phương hại đến sự an toàn của toán đó, nếu quả thật toán đó đến nay vẫn c̣n giấu được tung tích.
    Ares hay Hạ Long có tên thật là..., một cán bộ trung cấp và là đảng viên CS bị khai trừ v́ bất măn. Anh đă theo đoàn người di cư vào Nam năm... và được một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô Đ́nh Nhu, Tổng Thống Diệm, ông Nhu đă lưu tâm và giúp đỡ cho người này. Sau dó, Sở Bắc đă cử người đến tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh trở về Bắc hoạt động. Anh đồng ư và đă được đưa xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962, rồi từ đó tiến dần về cảng Hải Pḥng và nhà máy điện Uông Bí.

    Đây là 2 mục tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dơi và báo cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ ra rất tích cực trong mọi nhiệm vụ giao phó, và điều rất kỳ lạ là anh đă mộ mến Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm một cách khác thường. Hàng năm, trước ngày Song Thất hoặc 26/10, anh đều đánh điện chúc mừng TT Diệm và nguyện trung thành phục vụ tổ quốc.

    Khi nghe tin TT Diệm bị giết qua đài phát thanh, anh rất thắc mắc và sau khi được Trung ương xác nhận, anh đă tỏ ra chán nản tột độ. Dù vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách chu đáo. Những chuyến tàu cập bến Hải Pḥng, nhất là các tàu chở vũ khí hay quân dụng, đă được anh theo dơi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ trên, anh c̣n báo cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau như cầu Hàm Rồng và nhà máy điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Pḥng.

    Để giúp anh thi hành nhiệm vụ trong thời gian anh bị bịnh sốt rét, Trung ương đă chấp thuận đề nghị của anh, tuyển mộ thêm người em ruột và một hai người khác trong họ hàng, để phụ anh thực hiện quan sát các mục tiêu ở xa.

    Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh sốt rét của anh trở nên trầm trọng, nhưng Trung ương không tiếp tế cho anh được v́ địa điểm nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đă bị lộ. Thêm vào đó, vùng biển Hải Pḥng bị Mỹ gài ḿn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho anh đều không thể thực hiện được.

    Khoảng giữa năm 1968, do lời yêu cầu của phía VN, Hoa Kỳ đă t́m được kế hoạch tiếp tế cho Ares. Trung ương báo ngay cho anh tọa độ một số băi thả tiếp tế và yêu cầu toán đến tận nơi nghiên cứu và báo ngay địa điểm ưu tiên được chọn. Sau khi nhận phúc đáp, Trung ương đă hướng dẫn các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng như dự liệu.

    Đến ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đă xuất hiện bắn phá một số mục tiêu ở Hải Pḥng, cùng lúc đó một phản lực cơ khác đă bắn một thùng "container" đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đă ấn định và được Ares đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng như đă chỉ thị. Cách tiếp tế này đă được thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả mong muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương thực, thuốc men, áo quần c̣n có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men mỗi khi cần đến. Ngoài các vật dụng trên, c̣n có 4 lá thơ, trong đó có một lá thơ thăm hỏi của Trưởng công tác, c̣n 3 lá thơ khác được dán b́ kín. Toán được chỉ thị dán tem vào và tuần tự gởi đến một địa chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi lá thơ đều có dấu hiệu riêng mà toán không được biết lư do.

    Chỉ trong một thời gian ngắn, 2 thơ có nội dung thường đă đến tay người nhận, thơ c̣n nguyên si không bị mở, nhưng lá thơ thứ 3 có "gài" một tài liệu bí mật giả tạo lại không đến tay người nhận. 2 tháng sau, khi dược Trung ương hỏi về lá thơ này th́ toán cho biết, trên đường di tới bưu điện, bị c̣i báo động, đương sự phải chạy t́m hầm trú ẩn, không may đánh rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đă không gửi. Lư do này đă khiến bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ ḷng trung thành của Ares.

    Nhiệm vụ mới
    Đến năm 1968, sau đợt tấn công của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật phải lănh nhận thêm rất nhiều công tác ngoại biên với những toán mới được thành lập:

    - Các toán STRATA là những toán quân nhân được huấn luyện thuần thục để thi hành những công tác đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm trên lănh thổ Bắc Việt.



    - Các toán PICK-HILL là những toán người Miên gốc Việt hoạt động trong lănh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá hoại các căn cứ địa của VC nằm trên lănh thổ nước láng giềng Cam-bốt.

    - Các toán EARTH-ANGEL, c̣n được gọi là Đề Thám, là những toán được thành lập với thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán này hoạt động rất đắc lực, được trang bị như bộ đội chánh quy miền Bắc. Nhờ đó họ len lơi vào vùng địch khá dễ dàng và đă nhiều phen lập được nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau đó đă gia nhập Quân đội VNCH.

    - Các toán SINGLETON hoạt động riêng biệt từng cá nhân. Họ là những Việt kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, được móc nối trở lại hoạt động nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba Thu, v.v... Đây là những nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất mạnh. Các nhân viên này có nhiệm vụ theo dơi, báo cáo hoạt động địch và hướng dẫn phi cơ oanh tạc lúc cần thiết.

    Ngoài các toán hoạt động như trên, c̣n có chương tŕnh công tác lừa địch và ly gián địch, được gọi là chương tŕnh Borden, mà toán viên là những tù binh bộ đội Bắc Việt cứng đầu. Họ được học nhảy dù vài hôm trước khi được trang bị như một toán viên rất trung thành của miền Nam: một bản đồ, lệnh hành quân, thơ giới thiệu, v.v... Các thứ này được giấu kín trong áo nhảy và chỉ được trao cho toán viên tù binh cứng đầu mặc vào trước khi được thả dù xuống vùng địch chiếm đóng.

    Các chương tŕnh mới này đă đem lại những kết quả hết sức khích lệ, nên phía Hoa Kỳ đă yêu cầu phía VN chấm dứt liên lạc với 5 toán c̣n lại ở miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy t́m cách xâm nhập qua Lào, tŕnh diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam... Tuy nhiên, nhiều tháng sau khi lệnh được ban hành, không một toán nào xuất hiện.

    Hướng về những người anh em kiêu hùng
    Các Biệt Kích Dù bị CS bắt đă phải chịu đủ thứ cực h́nh. Tuy vậy, họ vẫn giữ vững tinh thần quốc gia và đồng đội. Thái độ cương quyết của họ đă phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những người "không cải tạo được". Măi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị chiếm đóng, CS mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích. Người được trả sớm nhất đă phải ở tù suốt 15 năm và người lâu nhất trên 20 năm. Khi họ trở về, chúng ta đă biết thêm được nhiều chuyện đă xảy ra khi họ công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn c̣n một số toán bặt tin, trong đó có toán VOI do anh Trần Hiếu Ḥa làm trưởng toán cùng với 4 toán viên. Toán Ares mà tôi đă đề cập ở trên và một vài toán khác nữa, cũng đang nằm trong danh sách những toán mất tích này. Phải chăng họ đă bị thủ tiêu hay đă hy sinh trên đường thi hành nhiệm vụ. "Hy sinh trong bóng tối, tất cả v́ Tổ quốc", đó là phương châm hành động mà mọi Biệt Kích đă chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này.

    Tôi c̣n nhớ năm 1970, các sĩ quan trong Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đă được xem một cuốn phim mà một đơn vị VNCH vừa tịch thu được của bộ đội Bắc Việt khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt. Cuốn phim ghi lại phiên ṭa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson, hoạt dộng tại vùng Nghệ Tĩnh. Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng, nào là tay sai đế quốc Mỹ, tay sai Ngô Đ́nh Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ chính quyền vàphá hoại tài sản nhân dân, v.v...

    Toán Jackson đă bị bắt toàn bộ với tất cả vũ khí và chất nổ khi toán phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Ḷ. Hầu hết toán viên đă lănh án tử h́nh, chỉ 1-2 người lănh án chung thân.

    Điều làm anh em chúng tôi xúc động và hănh diện, là được chứng kiến thái độ hiên ngang và b́nh tĩnh của các toán viên khi bản án tử h́nh được tuyên đọc. Theo lời một nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho biết, 6 người lănh bản án tử h́nh đă bị bắn ngay sau đó, và lời nói cuối cùng của họ là: "Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm! Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm muôn năm!"

    Anh em chúng tôi là những người đă đi qua nhiều trại cải tạo ở miền Bắc và đă được nghe nói rất nhiều về những việc làm đáng phục của anh em Biệt Kích. Trong số đó có các vị linh mục, đại đức tuyên úy, các bạn bè của tôi đă sống chung trại với các anh ấy. Ngoài ra, các tù h́nh sự miền Băc mà đa số chúng tôi thường gọi họ bằng danh từ "bọn h́nh sự", v́ phần đông họ thuộc thành phần bất hảo, trộm cướp, đâm chém, giết người... Khi được hỏi về anh em Biệt Kích th́ họ tỏ vẻ rất khâm phục. Họ nói với tôi: "Các anh Bê Ka là những người rất hào hùng, cán bộ trại cũng phải nể, các anh ấy rất kỷ luật và đoàn kết với nhau, họ thương nhau và giúp đỡ nhau. Khi một người bị biệt giam được thả hay bị ốm, là các anh khác t́m cách giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ nhịn bớt phần ăn để bồi dưỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm. Đă có những anh Bê Ka cướp súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có nơi các anh toàn bộ đứng lên làm reo tuyệt thực không đi lao động, nhưng cán bộ trại cũng đành phải làm ngơ..."

    Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm cải tạo, đă không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao giờ quên những con người hào hùng cùng chung lư tưởng đă cùng chung sống với nhau trong t́nh huynh đệ chân thành. Tôi là người đă từng sống chung với họ ở trại huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đường đi công tác. tôi đă tiễn chân hoặc nhiều khi đă cùng với họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập, đưa tay vẫy chào họ khi họ rời máy bay... Những kỷ niệm đó khó quên được.

    Những kỷ niệm khó quên
    Tôi nhớ lại năm xưa, có lần trước ngày lên đường công tác, tôi lái xe đưa một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối người bạn gái, hay nói đúng hơn, một người yêu, có nhà ở hẻm xứ Bùi Phát, trên đường Trương Minh Giảng, nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Đến nơi, người thanh niên ấy vội vă bước xuống xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quư báu c̣n lại... Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với người bạn gái đi theo tiễn chân, trên tay anh c̣n mang một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của người yêu. Họ nh́n nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi buồn chan chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn...
    Xe chạy được một quăng đường, người thanh niên ấy quay nh́n tôi, vừa nói vừa mở món quà: "Đây, anh xem, quà cô ấy tặng em".
    Tôi liếc nh́n, thấy một nắm tóc thề được gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về trại.

    Lần khác, một nhân viên của tôi cũng sắp lên đường, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng thơ khá dày đă đề b́ sẵn và nói: "Anh Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng em đă không dám nói thật với mẹ em. V́ vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao cho mẹ em một bức thơ này, nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về để mẹ em yên tâm".

    Tôi xúc động nh́n người thanh niên ấy với tất cả ḷng yêu thương và mến phục. Tôi đă nhận thơ anh giao và hàng tháng, tôi đă đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức thư của con bà... Nhưng đau đớn thay, lá thơ cuối cùng của anh đă được trao mà "khóa học" của anh vẫn chưa măn.

    Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa kể trên đây, cả 2 đều trở về từ cơi chết, sau gần 20 năm sống trong lao tù CS, một anh hiện đang sống ở Cali, đó là anh Lâm, em ruột của anh Nguyễn Ngọc Trâm, c̣n người kia, trước ngày tôi rời Saigon, anh ấy đang vất vả hành nghề thợ mộc ngoài Vũng Tàu. Hy vọng một ngày không xa, anh Độ cũng như bao nhiêu anh hùng Biệt Kích khác c̣n ở VN sẽ được đoàn tụ với chúng ta tại quê hương thứ hai này.

    Trung Tá Nguyễn Văn Vinh

  10. #240
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu
    Những chuyến đi định mệnh
    Biệt Hải Hồng Phúc
    (Tưởng nhớ cố Trung Sĩ I Nguyễn Văn Tiến mắc nạn trên đường rút lui và cố trưởng toán Nimbus Nguyễn Văn Ấn)




    Toán Nimbus chúng tôi vừa học xong lư thuyết những loại vũ khí thường được sử dụng mỗi lần đi công tác. Tan giờ, mọi người ra ngồi đứng đợi sẵn sàng chờ xe chạy tới chở ra xạ trường thực hành tác xạ. Bất chợt thấy chiếc xe Jeep do một cố vấn Hoa Kỳ phụ trách liên lạc của toán từ Bộ Chỉ Huy lái xuống dừng lại tắt máy, đậu ngay trước cửa pḥng ngủ của toán. Sau đó ông ta hối hả đi vào gọi riêng trưởng toán đi họp. Trước khi cùng viên cố vấn bước ra khỏi cửa, người trưởng toán ngồi lại dặn ḍ chúng tôi: "Các anh ở đây chờ tôi đi họp về". Rồi ông tất tả lên xe cùng viên cố vấn đi khuất. Nhận thấy sự việc sáng nay chương tŕnh được biến đổi một cách đột ngột, thay v́ chở ra băi tập th́ nay phải ngồi tại pḥng chờ đợi. Thấy thế, có anh vội vă lên tiếng: "Theo t́nh h́nh này, thế nào bọn ḿnh cũng có công tác và chắc chắn thuộc loại công tác CADO xâm nhập". V́ công tác LOKI là khám thuyền bắt người nên ít khi cấp trên gọi trưởng toán đi họp một cách khẩn cấp như vậy.
    **************

    Khoảng hai giờ sau, đúng như dự đoán của mọi người trưởng toán đi họp về. Ông vào pḥng vội vàng ra lệnh tập họp anh em và cho biết toán Nimbus được lệnh cấp trên kể từ hôm nay, tất cả mọi người đặt trong t́nh trạng cấm trại hành quân chuẩn bị cho chuyến công tác xâm nhập sắp tới. Theo ông, nhiệm vụ chuyến này có phần phức tạp và đầy khó khăn. Bằng phương cách nào đó, toán phải t́m bắt cho được một cán bộ cao cấp của Bắc Việt trong làng. C̣n những chi tiết khác chẳng hạn như địa điểm công tác hoặc t́nh h́nh nơi chốn sắp sửa thi hành th́ chúng tôi không được trưởng toán cho biết. Đồng thời, ông tự ḿnh tuyển chọn chín nhân viên trong số nhiều anh em hiện diện.
    Đặc biệt chuyến này trưởng toán c̣n chỉ định hai tiền sát viên có thổ âm gốc người miền Bắc Trung phần (Nghệ-Tĩnh-B́nh). Không khí buổi họp sáng nay diễn ra hết sức nghiêm trọng. Những tiếng đùa giỡn hằng ngày của các tay quậy phá bây giờ biến mất, nhường chỗ cho sự căng thẳng suy tư của số anh em được chọn đi công tác. Vài ư kiến được nêu lên về nhân sự tham dự lần này quá ít, nhưng được ông trả lời vắn tắt: "Càng ít chúng ta càng dễ dàng xoay xở".
    Vấn đề điều hành công tác hiện vượt ngoài khả năng và thẩm quyền của mỗi nhân viên. Từ vùng xa xôi miền Nam gửi toán ra hoạt động tận ngoài làng xă miền Bắc đâu phải là chuyện dễ dàng! Tất cả phong cảnh địa thế hoàn toàn khác lạ. Đặc biệt công tác được thi hành vào lúc ban đêm, chẳng khác chi như đám "người mù sờ voi". Chưa nói đến vấn đề pḥng thủ hết sức nghiêm ngặt mà chính quyền Cộng Sản Bắc Việt đang áp đặt lên dân chúng miền Bắc bằng phương pháp kiểm soát hộ khẩu từng thôn ấp, từng địa phương hết sức tinh vi khắc nghiệt. Ngay trong các ghe đánh cá ngoài khơi cũng có các cán bộ của hợp tác xă ngư nghiệp hoặc công an đi theo kiểm soát. Bằng chứng là một số tù binh cán bộ Bắc Việt khi bị bắt đưa về giải giao căn cứ Phượng Hoàng thuộc Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc họ đều khai báo mọi mặt, đủ cho biết đời sống dân chúng miền Bắc thời đó rất khác xa với đời sống trong miền Nam tự do.
    Vào thời điểm này hệ thống pḥng thủ nhân dân miền Bắc đă được kiện toàn hết sức chặt chẽ, khiến mọi toán viên chúng tôi thật rất lo lắng nhất là khi nghe trưởng toán đề cập tới nhiệm vụ vào làng t́m bắt cán bộ, tức là đă tự "t́m vào cái bẫy của chúng". Tuy rằng ngoài mặt ai nấy vẫn tỏ thái độ hết sức trầm tĩnh, cốt không để lộ t́nh cảm dao động, nhưng ai nấy cũng dư hiểu và ư thức cao độ chuyến đi lần này được thành công an toàn trở về đều do ở tinh thần liên đới của đồng đội. Bằng ngược lại th́ hậu quả thật khó đo lường.
    Bắt đầu từ chiều hôm đó, cứ mỗi buổi tối khi mặt trời đă tắt bóng và màn đêm phủ xuống, chín nhân viên kể cả trưởng toán là mười và số cố vấn SEAL huấn luyện, tất cả âm thầm đi ra bờ biển cách cổng trước của trại 9 lực lượng Biệt Hải khoảng 500 thước thực tập. Có đôi lúc toán được học tập phía cổng sau sát gần chân núi. Trong giờ huấn luyện, tuy không ai nhắc nhở cho ai nhưng tất cả đều ư thức và chăm chú học tập. Lúc th́ ở ngồi khơi dùng thuyền cao su bơi vào bờ, khi th́ tập di hành rất xa trên nhiều địa h́nh khác biệt. Có nhiều đêm, cả toán bất ngờ t́m cách đột kích chớp nhoáng vào các pḥng ngủ của trại Dân Sự Chiến Đấu, là đơn vị pḥng thủ của doanh trại Biệt Hải hay pḥng ốc của các cố vấn Hoa Kỳ, t́m bắt những ai hiện diện trong đó giả như tù binh và dẫn tất cả ra ngoài bờ biển, hầu giúp cho nhân viên toán làm quen với phần vụ trách nhiệm y như lúc thi hành thật sự.
    Vài ngày cuối cùng trước khi chính thức thật sự ra đi, toán Nimbus chúng tôi được các chiến đỉnh PTF chở đến thực hành công tác tại những vùng dân cư xôi đậu nằm phía trong bờ biển Cửa Đại, Hội An-Quảng Nam, hoặc dọc bờ biển Quảng Ngăi đi vô. Những vùng này ban đêm hoàn toàn do du kích Cộng Sản kiểm soát. Mục đích là cấp trên muốn đo lường khả năng ứng phó của toán, và đồng thời giúp nhân viên trong toán quen với t́nh huống của mục tiêu miền Bắc sau này. Đa số những toán thực tập vào vùng xôi đậu đều đă chạm địch và thỉnh thoảng cũng xảy ra thương vong. Thời gian huấn luyện trôi qua thật nhanh và ngày giờ công tác thật sự đă điểm!
    Giữa Tháng Sáu năm 1967 vào buổi chiều, trước giờ khởi hành tất cả nhân viên công tác đều có mặt tham dự một buổi thuyết tŕnh ngắn gọn. Toán gồm mười anh em, chia nhau ngồi ṿng tṛn trong văn pḥng của toán Nimbus. Các lần thuyết tŕnh công tác như thế này hoàn toàn không có cố vấn Mỹ tham dự mà do nhân viên Việt Nam phụ trách. Thỉnh thoảng mới có các cán bộ cao cấp của sở xuống dự thính.
    Trước mặt mọi người đặt một sa bàn do pḥng hành quân thiết kế hết sức tỉ mỉ. Trong đó hiện lên những con đường quanh co dẫn tới b́a làng, địa thế sông rạch, cây cối, nhà cửa tất cả đều được dẫn giải hết sức đầy đủ. Phía trên tường treo hơn chục tấm không ảnh U2 trắng đen, tất cả đều lờ mờ không mấy rơ ràng do máy bay thám thính trên cao chụp được và ghi theo số thứ tự. Bên cạnh một tấm bảng đen có ghi ngày, tháng đề rơ mục tiêu thuộc tỉnh... Bắc Việt.
    Theo thuyết tŕnh viên trưởng toán, đêm nay chúng ta nhận nhiệm vụ đi vào Quảng B́nh t́m bắt một cán bộ cao cấp từ Hà Nội mới tới theo nguồn tin t́nh báo cho biết.
    Thoạt nghe, tất cả đều tưởng tượng như truyện trinh thám nhưng khác ở chỗ đây là lệnh công tác thật sự mà mọi người bắt buộc phải thi hành. Tất cả anh em có mặt trong pḥng thảy đều hồi hộp im lặng và cố lắng nghe, ghi tâm những lời tŕnh bày hết sức mạch lạc của người trưởng toán qua lời lẽ đầy vẻ cương quyết khiến không khí căn pḥng bây giờ trở nên yên tĩnh khác thường. Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ông nh́n không chớp. Thỉnh thoảng, vài câu hỏi được nêu ra từ những thắc mắc của các toán viên nhưng không kém phần nghiêm túc. Cuối cùng, mọi người đều thấu hiểu về tầm quan trọng của chuyến công tác đêm nay. Trước khi chấm dứt ông tiếp, tất cả cấp trên họ đều mong muốn chúng ta hoàn tất nhiệm vụ, mọi người có mặt đồng loạt đáp lại "cố gắng".


    Máy bay thám thính U2 của không lực Hoa Kỳ

    Toán rời trại đúng bốn giờ chiều cùng ngày gồm mười toán viên với hai xuồng cao su được đặt trên một trong hai chiếc GMC đều mang số xe ẩn tế màu xanh lá cây, có chữ T ở đầu. Đến phiên mọi người lặng lẽ nối gót leo lên ngồi đối diện hai bên thành ghế. Trần xe sau đó được người tài xế Mỹ kéo xuống bao phủ kín mít. Lần này cũng do hai người tài xế cố vấn của toán chở thẳng xuống cầu tàu ở bên kia đường, cách trại Trần Hưng Đạo của lực lượng Hải Tuần khoảng vài trăm mét. Đoạn đường này chúng tôi từng đi qua nhiều lần nên đă quá quen thuộc. Thời gian hơn nửa tiếng đồng hồ ngồi trên xe ai nấy bất động. Thỉnh thoảng chỉ nh́n nhau một cách trầm ngâm như ngầm chia sẻ nỗi khó khăn bất trắc trong những giờ sắp đến. Quả thật t́nh đồng đội chưa lúc nào cảm thấy trân quí như lúc bấy giờ và nó đă tự vượt ra ngoài khuôn khổ t́nh cảm của gia đ́nh vợ con. Trong thời gian vỏn vẹn vài giờ nữa thôi, con tàu định mệnh sẽ chuyên chở mọi người âm thầm chạy qua khỏi vĩ tuyến 17 để thi hành một phần vụ hết sức táo bạo và nguy hiểm. Trong ḷng tôi chợt nghĩ dại, biết đâu trong số anh em và cả chính tôi sẽ không có may mắn để gặp lại người thân sáng sớm hôm sau!
    Nhận xét chung của anh em chúng tôi là mỗi lần có tên đi thi hành công tác th́ ai nấy đều tâm trạng xôn xao, hồi hộp. Nhưng có một điều thật lạ lùng và khó hiểu là khi đă đặt chân trên phần đất địch th́ sự lo sợ ban đầu bỗng nhiên tiêu tan. Bấy giờ chỉ biết hoàn tất nhiệm vụ nhanh chóng để kịp thời gian trở ra điểm hẹn.
    Mải suy nghĩ vẩn vơ, hai chiếc GMC chạy tới bến tàu lúc nào không hay và hiện dừng lại trên một khoảng đất trống, gần cầu tàu bên cạnh văn pḥng hành quân của Sở. Người trưởng toán ngồi trước cạnh viên tài xế Mỹ vội vàng nhanh nhẹn mở cửa xe, đi thẳng vào pḥng Bộ Chỉ Huy hành quân họp bàn lần cuối cùng với những sĩ quan cao cấp Việt-Mỹ và các hạm trưởng PTF tham dự. Mục đích là để mọi phía phối hợp chặt chẽ cho chuyến công tác xâm nhập của toán tối nay. Phía ngoài, nhân viên chúng tôi cặm cụi chuyền mang hành lư cá nhân, phụ khiêng xuồng cao su, máy, b́nh xăng v.v..., tất cả dụng cụ được mang xuống đặt trên boong tầu của chiếc PTF phụ trách chở toán.
    Đúng năm giờ chiều, một hồi c̣i trên đài chỉ huy tàu PTF hú vang báo hiệu đoàn tàu sắp sửa rời bến. Thời tiết Tháng Sáu bắt đầu chuyển sang Mùa Hè nên bầu trời trở nên trong xanh và quang đăng, không một gợn mây. Quanh vùng vịnh của Tiên Sa đều sóng êm gió lặng khiến tất cả anh em đều muốn ngồi lại trên boong phía sau pḥng lái cố nh́n ngắm cảnh sắc lần cuối. Xa gần, một số ghe thuyền dân chúng hành nghề đang chạy xuôi ngược nom thật vui mắt. Mọi người đang được hít thở không khí trong lành của gió biển thổi tới, khác hẳn với những lần mưa to gió lớn khi mọi người đành phải chui xuống hầm tàu chật chội, ngửi toàn mùi dầu máy bốc ra rất khó chịu, cộng thêm với tiếng máy chạy đinh tai nhức óc làm mọi người dễ bị say sóng. Trong lúc đó, ba chiếc chiến đỉnh PTF nhờ thời tiết thuận lợi vẫn lầm lũi thả hết tốc độ phăng phăng tiến lên phía Bắc. Nhiều đợt sóng lớn nhỏ ầm ầm ập tới nhưng không đủ sức mạnh để ngăn cản đoàn ḱnh ngư từ phương Nam đang chở mười chiến sĩ Biệt Hải tiến vào mục tiêu. Lợi dụng thời gian tầu đang hải hành, mọi người cố t́m cho ḿnh một chỗ khuất gió nằm tĩnh dưỡng dỗ dành giấc ngủ, hầu tăng thêm tinh thần và niềm tin trong những giờ sắp đến.
    Khoảng chín giờ đêm, một hồi c̣i ngắn từ pḥng lái vang lên báo cho nhân viên biết giờ sẵn sàng đổ bộ. Hiện con tàu sắp sửa tiến vào điểm mục tiêu của công tác. Sau khi hồi c̣i chấm dứt, trong pḥng bây giờ chẳng ai gọi ai, từ trưởng toán đến nhân viên, mọi người nhất loạt ngồi dậy kiểm soát lại cho ḿnh lần cuối, tất cả dụng cụ mang theo như súng đạn, áo phao, đèn pin, súng hỏa châu đeo vào cổ để bắn báo hiệu cấp cứu khi cần thiết. Trong khoảng khắc, mọi thứ xong xuôi chỉ đợi hạm trưởng ra lệnh.
    Đang loay hoay đứng trông vào bờ t́m kiếm vị trí, bỗng ai đó bên cạnh (trời tối nên tôi không nhớ rơ) vỗ vai trao tôi điếu thuốc đang cháy dở dang, bảo hít vài hơi trước khi xuống thuyền cho đỡ thấm lạnh. Nhận điếu thuốc đúng trong lúc ḷng đang thèm khói, tôi vội vàng rít liên tục mấy hơi liền, ḷng thầm cám ơn ḷng tốt của người bạn nhưng trong đầu vụt lên ư nghĩ, tí nữa đây vào bờ nếu chẳng may gặp nạn liệu ta c̣n có cơ hội để hưởng giây phút thần tiên này nữa hay không?
    Vừa lúc đó, tiếng hạm trưởng từ pḥng lái dùng loa phóng thanh ra lệnh thả toán đă vội kéo tôi về với thực tại. Hai thuyền cao su được mọi người phụ giúp tḥng dây cho thả nhẹ nhàng xuống nước. Tiếp đến, nhân viên phụ trách lái thuyền nổ máy. Vài tiếng ơi ới của anh phụ trách lái thuyền từ dưới vọng lên nhờ các bạn Hải Tuần trên tàu mở dây. Trưởng toán Ấn với hải bàn trên tay chỉ hướng cho thuyền cao su trực chỉ chạy ngay vào bờ biển Quảng B́nh. Một lúc sau ngoảnh đầu nh́n lại thấy các PTF xa dần rồi thoáng chốc biến mất hẳn trên mặt biển tối đen.
    Hiện giờ trong đất liền thấp thoáng nhiều đám cháy đang lập ḷe mỗi lúc một lớn dần theo hướng tiến của hai chiếc thuyền cao su đang đà chạy vào. Tất cả đám cháy này đều phát xuất do các phi vụ do không lực Hoa kỳ từ hạm đội bay vào oanh tạc. Phía dưới đất, nhiều đường đạn lửa pḥng không của bộ đội Bắc Việt bắn lên cùng lúc. Tiếp theo là ánh sáng hỏa châu từ các phản lực cơ lần lượt bung ra để ngăn cản hỏa tiễn tầm nhiệt trong đêm khiến cho vùng trời Quảng B́nh rực sáng đă giúp chúng tôi ở ngoài thuyền trông thấy một cách dễ dàng. Mọi người trên thuyền đều nghĩ không ngờ chiến trường miền Bắc cũng sôi nổi tang thương, đâu thua kém ǵ chiến trường trong miền Nam hiện thời.
    Trưởng toán Ấn ngồi cạnh cầm máy liên lạc báo thẩm quyền ngồi PTF biết hiện hai thuyền cao su đă tiến gần sát mục tiêu. Bất chợt, ông bảo người lái thuyền tắt máy rồi ra dấu cho mọi người lấy dầm chèo tay chèo nhè nhẹ cho thuyền tiến vào bờ v́ sợ tiếng máy trên xuồng cao su gây nên tiếng động tạo sự chú ư cho những toán dân quân bộ đội đang tuần tiễu trên bờ.
    Khi thuyền cao su cách bờ khoảng 1,000 mét ông bèn cắt hai người ở lại giữ thuyền và dặn ḍ họ phải bảo vệ cẩn thận. C̣n lại tám người, chân nhái súng đạn nhẹ nhàng lao ḿnh xuống nước, bám nhau bơi thẳng vào bờ. Khi chân chấm đất, hai tiền sát vội chia hướng chạy lên phía trước quan sát địa thế. Hồi lâu, một trong hai người đứng trên ra dấu an toàn bằng đèn hiệu. Nhận đúng ám hiệu, trưởng toán Ấn cho lệnh tất cả chạy nhanh về hướng tiền sát đang đợi.
    Theo sự hoạch định ở pḥng thuyết tŕnh th́ toán có bổn phận len lỏi t́m kiếm đến nhà cán bộ, nhưng khổ nỗi trước mắt hiện thời quang cảnh hoàn toàn khác hẳn những ǵ đă được mô tả trong pḥng thuyết tŕnh. Từ thời tiết đến cảnh vật, tất cả đều lạ lẫm th́ làm sao t́m đến được nhà cán bộ trú ngụ lúc này! Giờ th́ "một phút lỗi lầm, ngàn năm di hận".
    Sau mấy phút suy nghĩ, trưởng toán Ấn nhanh chóng quyết định, gọi hai tiền sát đến bảo nhỏ, hai anh cố bám theo đường ṃn đi lần tới b́a làng rồi t́m vào căn nhà đầu tiên ráng bắt cho được một người, bất luận đàn ông hay đàn bà rồi khôn khéo dụ hỏi may có thể t́m ra manh mối.
    Hai người tiền sát y lời cùng sáu anh em âm thầm ṃ mẫm lần tới. May thay họ đă gặp được một căn nhà lá xiêu vẹo nằm trơ trọi đầu xóm, sát bên lề đường. Theo lời căn dặn của trưởng toán, Thi và Tiến len lỏi vào đứng trước cửa nhà gơ cửa. Ở trong có tiếng vọng ra hỏi lớn: "Ai đó?" ù ù. Với giọng phát âm rất đúng địa phương Quảng B́nh, Thi lên tiếng: "Tụi tui là công an của huyện, yêu cầu đồng chí mở cửa". Cánh cửa phên từ từ hé mở. Một người đàn ông lớn tuổi đứng trong ló đầu ra ngoài, trên tay đang cầm một ngọn đèn dầu đốt bằng tim bấc. Khi ông này nh́n thấy hai người tiền sát tất cả đều mặc áo quần bà ba đen, quần xắn ống cao ống thấp lộ hẳn đôi dép râu B́nh Trị, trên vai cả hai đều mang AK-47 như thể các công an của huyện xă thứ thiệt làm cho người đàn ông tưởng thật không tỏ vẻ nghi ngờ. Sẵn đó, hai anh liền yêu cầu ông ra trước sân nhà nói chuyện cho tiện. Lúc đó tổ bắt tù binh ai nấy bố trí sẵn sàng trong các lùm cây bên hông nhà. Vừa trông thấy người đàn ông lững thững đi ra, nhanh như cắt tất cả nhảy ra cùng một lượt mạnh tay đè người đàn ông này xuống, lấy c̣ng khía vào hai cổ tay và đồng thời dí súng vào bên hông dẫn người thường dân kia vừa đi vừa chạy, thoát nhanh khỏi căn nhà một quăng khá xa.
    Lúc ấy cả thân người ông run lên bần bật, miệng thốt không thành tiếng. Từ trong bóng đêm, trưởng toán đi lại ghé sát tai người thường dân và hỏi: "Đồng chí có biết chỗ ở của người cán bộ mà hiện chúng tôi muốn gặp hay không? Hăy suy nghĩ và nên thành khẩn khai báo sự thật, nếu cứng đầu la lên e rằng khó toàn tánh mạng".
    Theo kinh nghiệm các chuyến trước đây, lúc này nhất cử nhất động của người đàn ông đều được anh em trước sau để mắt theo dơi. Chúng tôi được ông chấp nhận hướng dẫn toán băng qua nhiều căn nhà trong xóm. Từ năy đến giờ tính ra khá lâu, có lẽ v́ sự nôn nóng của chúng tôi, phần nữa v́ không thấy ông dừng lại nghỉ đă làm mọi người lắm lúc đâm ra hồi hộp. Cũng may chưa nghe được tiếng chó sủa trong xóm. Th́nh ĺnh mọi người thấy ông đứng lại trước mặt một căn nhà cuối xóm rồi lấy tay chỉ vào và nói: "Nè nhà của eng (ông) cán bộ các eng muốn hỏi ở chỗ nớ tề".
    Giờ phút này chúng tôi mới thật sự an tâm v́ đă đến được mục tiêu nhưng rồi âu lo chuyện khác v́ không biết kết quả sắp tới thế nào? Từng tổ tự động chia ra nằm ngồi chờ đợi khoảng ba phút, cốt để theo dơi t́nh h́nh chung quanh rồi mới quyết định. Phía trong căn nhà hiện vẫn hoàn toàn vắng lặng. Ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu leo lét trong nhà tỏa không đủ sáng. Ở chỗ chúng tôi đang nằm, ôi thôi từng đàn muỗi đói chúng đánh được mùi đă rủ nhau nhanh nhẹn bay tới vo ve bên tai mỗi lúc càng đông, liên tục sà xuống đâm vào da thịt mọi người hết sức ĺ lợm. Tất cả anh em bắt buộc phải cắn răng chịu đựng v́ sợ gây ra tiếng động lúc này th́ hỏng mọi chuyện.
    Khi thật sự đă nắm vững t́nh h́nh chu vi trong ngồi căn nhà, trưởng toán ra dấu cho từng tổ t́m cách đi sát vào gần nhà rồi chia nhau nằm án ngữ các lối ra vào. Lúc này, bổn phận hai anh Thi và Tiến là đi sát vào gần rồi lấy tay gơ nhẹ trên vách thành cửa và đồng thời lên tiếng: "Tụi tui thuộc bộ đội công an huyện, được lệnh về đây để hợp tác làm việc với đồng chí".
    Tức thời trong nhà có người đi ra mở cửa. Lợi dụng lúc bất ngờ sơ hở, tổ bắt tù binh đồng loạt đạp cửa xông vào nhà nhưng chỉ trông thấy một ḿnh người cán bộ. Phần v́ bất ngờ, phần v́ tổ bắt tù binh ra tay quá nhanh và mạnh khiến tên cán bộ không kịp phản ứng. Mọi người hè nhau xáp lại dùng thế kẹp cổ, c̣ng tay bịt miệng lôi y dẫn chạy ra ngoài. Anh em c̣n lại trông thấy tất cả hiểu ư vội rời mục tiêu. Sau khi rời khỏi căn nhà của tên cán bộ chưa đầy mười phút, chúng tôi chợt nghe thấy tiếng mơ, tiếng phèng la gơ báo động liên tục khắp nơi. Tiếp đến, nhiều loạt đạn của toán dân quân bắn đuổi theo về phía chúng tôi đang di chuyển.
    Biết toán đă bị bại lộ, mọi người càng ra sức thúc hối vừa đi vừa chạy, cố t́m hướng thẳng ra bờ biển thoát thân. Trong phút giây hiểm nguy gần kề anh em không thể dẫn theo hai người tù binh cùng một lúc. V́ sợ không kịp thời gian nên trưởng toán Ấn quyết định thả người thường dân cho về và chỉ dẫn tên cán bộ chạy theo toán trên đường rút lui. Riêng tổ hậu vệ đi sau thỉnh thoảng phải đứng lại bắn trả nhiều loạt AK truy cản cho toán phía trước.
    Đang lúc cấp bách thập phần nguy hiểm ấy, một cơn mưa giông đột nhiên xuất hiện rồi ào ạt trút nước xuống như thác khiến bầu trời đang tối lại càng tối thêm, vô t́nh đă gây ra không biết bao nhiêu trở ngại cho toán trên đường rút lui.
    Phía trước, hai tiền sát vẫn lầm lũi xông xáo t́m đường đi ra. Tuy nhiên, bây giờ đường lối trở nên trầy trụa và trơn ướt v́ bị cơn giông vừa rồi làm tiền sát viên Nguyễn Văn Tiến trong lúc bất ngờ trợt chân té ngă cả người xuống một hố sâu, ước chừng 15 đến 20 thước. Không rơ hố này có phải là hố bom do phi cơ oanh tạc hay là hố của dân chúng đào để ẩn tránh máy bay bỏ lại.
    Ngay lúc đó trên miệng hầm, một số anh em nghe được phía dưới báo lên cho biết hiện anh Tiến đă găy một chân không c̣n đứng vững được nữa. Cùng lúc đó, tiếng súng lẫn tiếng mơ, tiếng dân quân biên pḥng la hét chạy đến t́m cách bao vây chúng tôi mỗi lúc một gần thêm. Trưởng toán Ấn ra lệnh phân nửa toán ṿng ngoài bắn chận hậu, cốt kéo dài thời gian. Số anh em c̣n lại cố t́m phương cách giúp kéo anh Tiến lên khỏi miệng hầm nhưng cuối cùng vẫn không đạt được kết qủa. Thông thường, tổ phụ trách tù binh chỉ mang theo tối đa là 7 hoặc 10 thước dây, vừa đủ trói và dẫn dắt tù binh. Sợi dây này c̣n được dùng để kéo tù binh từ bờ ra thuyền cao su. Nhưng hiện giờ, sợi dây đang được dùng để cột người tù binh cán bộ và chiều dài đoạn dây cũng không đủ để tḥng xuống phía dưới cứu anh Tiến lên. Mọi người đành đứng trên miệng hố thúc thủ!
    Trước nghịch cảnh hiện tại không phương kế cứu cấp, c̣n người bạn ở dưới th́ đang ngước lên chờ đợi từng phút từng giây. Trong lúc đó, dân quân bộ đội của chúng đang huy động từ từ siết chặt ṿng vây. Vài anh em động ḷng thương cảm lấy đèn pin rọi xuống hố thấy h́nh bóng của anh Tiến dưới đó lờ mờ ngước trông lên mà ḷng càng thêm tê tái! Hoàn cảnh sao xảy ra trớ trêu đến thế, không đầy một tiếng đồng hồ nữa thôi, anh Tiến và chúng tôi tất cả sẽ xuống thuyền trở ra tàu về Nam, được gặp lại vợ con và những người thân thuộc.
    Trong khi tất cả ở trên lính quưnh suy tính t́m cách, bỗng nghe anh Tiến từ dưới vọng lên: "Giờ phút này các bạn không c̣n cách ǵ cứu tôi được nữa! V́ an toàn và trách nhiệm các anh cứ về đi". Mới cách vài tiếng đồng hồ trước đây, anh cùng chúng tôi san sẻ hiểm nguy với nhau, thế mà bây giờ định mệnh lại cố t́nh ngăn cách làm kẻ dưới người trên bờ âm thầm tuyệt vọng. Làm sao có thể đành tâm bỏ anh một ḿnh trong hoàn cảnh bức thiết thế này?
    Trên mặt kim đồng hồ hiện điểm gần 5 giờ sáng, giờ báo hiệu hối thúc anh em hăy mau t́m đến gặp nhau tại điểm hẹn. Trước t́nh thế lưỡng nan đó, trưởng toán đành miễn cưỡng đi lại miệng hầm, cúi xuống thay mặt anh em nghẹn ngào nói lời từ biệt, rồi ra lệnh dẫn tên tù binh tiếp tục mở đường tháo chạy.
    Khi tất cả đă lội ra được ngoài thuyền cao su đầy đủ, trưởng toán Ấn gọi báo cáo t́nh h́nh cho thẩm quyền ở ngoài chiến đỉnh PTF và tŕnh bày sự việc. Các hạm trưởng khuyên toán hăy gắng đậu lại chờ thêm thời gian, biết đâu sẽ thấy được dấu hiệu anh Tiến. Nhưng giây phút trôi qua càng lúc càng nhanh mà tin tức về Biệt Hải Nguyễn Văn Tiến th́ mỗi lúc càng thêm biền biệt. Ngước nh́n hướng Đông, vầng thái dương sắp ló dạng lên cao nên toán chúng tôi không thể nán đợi thêm nữa. Ở phía trong bờ, bộ đội dân quân biên pḥng Bắc Việt vẫn đang đi t́m kiếm lùng bắt. Cuối cùng, tất cả đành hướng vào bờ như một lời vĩnh biệt âm thầm tiễn anh Tiến lần cuối. Cả hai thuyền cao su đều trực chỉ chạy ra hướng PTF.



    Sáng hôm sau về đến trại 9, theo đúng thủ tục, Bộ Chỉ Huy Sở Pḥng Vệ Duyên Hải đă phái nhân viên qua tận địa chỉ nhà vợ của Trung Sĩ I Nguyễn Văn Tiến báo cho thân nhân gia đ́nh biết anh đă bị mất tích trong khi thi hành công tác. Sau đó vài hôm, tất cả toán Nimbus chúng tôi đă tới giáo xứ Tam Ṭa, Đà Nẵng tham dự lễ cầu b́nh an cho anh. Chúng tôi luôn tin tưởng và hy vọng anh vẫn c̣n sống. Nhưng sau năm 1975 và măi đến bây giờ, vài anh em đôi lần có dịp ghé đến nhà chơi hỏi thăm tin tức về anh nhưng được gia đ́nh cho biết từ đó đến nay không c̣n nghe thấy tin tức ǵ về anh cả! Thật sự Biệt Hải Nguyễn Văn Tiến đă không bao giờ trở lại, như chính anh đă từng chấp nhận trước khi gia nhập đơn vị, thề xin chọn cái chết trên phần đất quê hương Quảng B́nh, nơi đă sinh ra và cưu mang anh lớn khôn như lời trăn trối trước khi giă từ bạn bè. Trong thân thương âm thầm của mỗi nhân viên Biệt Hải cho dù bất cứ ở đâu, chúng tôi vẫn một ḷng một dạ nhớ thương và quí trọng anh. Đặc biệt đối với tất cả các Chiến Sĩ Vô Danh đă Vị Quốc Vong Thân như anh th́...
    C̣n hay mất vẫn một đời oanh liệt
    Mộng ḱnh ngư chưa thỏa chí anh hùng.
    Sau thời gian đó không lâu, toán Nimbus chúng tôi lại được Sở Tâm Lư Chiến chỉ định và giao phó một phần vụ công tác để chuyển đưa một số đồ chơi ra vùng Thanh Hóa, Bắc Việt vào dịp Tết Trung Thu năm 1967. Đối với lực lượng Biệt Hải, bất kỳ chuyến công tác nào cũng thuộc vào loại quan trọng. Nhưng đặc biệt chuyến này có thêm vài điểm hết sức khác lạ hơn những chuyến khác rất nhiều. Bởi v́ trong một lúc, toán phải thi hành cả hai nhiệm vụ: Đó là bắt cóc cán bộ tại các địa phương miền Bắc đưa về Nam để giao lại cho Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc khai thác tin tức. Ngoài ra, toán Nimbus c̣n được Sở Tâm Lư Chiến trao thêm trách nhiệm "chiến tranh tâm lư" nữa. V́ lúc đó đúng vào dịp Tết Trung Thu nên toán phải mang những gói quà biếu tặng của PTGTAQ, gồm các thứ kẹo bánh, đồ chơi v.v..., tất cả được đem ra theo chuyến công tác để trao lại cho những gia đ́nh có con em tại một số vùng thuộc miền duyên hải Thanh Hóa.
    Tất cả những thứ này đă được Sở Tâm Lư Chiến gói sẵn trong các bọc nylon nhiều lớp hết sức kín đáo v́ sợ bị thấm nước. Sáu anh em toán Nimbus chúng tôi chỉ biết thi hành để hoàn tất nhiệm vụ. V́ thế nên chuyến này toán được thực tập hết sức kỹ càng và chu đáo. Ngoài bản đồ và sa bàn, mọi người c̣n được cấp trên cho xem nhiều tấm không ảnh U2 chụp trong một vùng rất nhiều xóm nhà sát biển nghèo nàn. Cũng như những chuyến trước, vấn đề phương tiện chuyên chở các toán Biệt Hải để thi hành công tác lần này cũng thế, dĩ nhiên đều do các chiến đỉnh PTF của Lực Lượng Hải Tuần đảm trách chở từ Đà Nẵng ra đến vùng biển Thanh Hóa, rồi từ đó các toán mới dùng loại xuồng nhỏ cao su chạy vào các địa điểm công tác.
    Đúng hai giờ sáng, chúng tôi đến mục tiêu mà cấp trên đă chỉ định. Đó là một xóm nhà lá chài lưới trông rất nghèo nàn thuộc vùng duyên hải Thanh Hóa. Khi đến nơi, trước tiên chúng tôi dọ hỏi t́m đến nhà trú ngụ của viên cán bộ nhưng không thấy hắn ở nhà. Anh em chỉ gặp toàn là ông già bà lăo và một số em nhỏ. Tiện đó, chúng tôi đem ra phân phát những gói quà Trung Thu cho một số gia đ́nh. Tiếp đến, vài anh em trong toán t́m cách cắm cờ Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc trong khu xóm rồi ngầm ra hiệu cấp tốc rút lui trở ra bờ biển, đề pḥng trong nhà sẽ có người đi báo cáo công an.
    Trong giây phút gặp gỡ chuyện tṛ ngắn ngủi đó, anh em đă nghe một số dân chúng nói lời cám ơn rối rít sau khi nhận quà và luôn gọi sáu anh em chúng tôi là cán bộ Mặt Trận. Cùng lúc có vài người trẻ bạo miệng xin được đi theo chúng tôi. Nhưng chuyến này anh em toán không có lệnh bắt thường dân đưa về Nam khai thác tin tức như mọi lần trước đây nên vội từ chối nói khéo "Mặt Trận", tức chúng tôi sẽ đến gặp lại họ trong những lần tới. Theo cảm nghĩ của anh em trong chuyến, với cuộc sống cơ cực đầy khó khăn thế này không biết số quà mà mọi người vừa nhận có được cất giữ để dùng hay lại bị công an của phường, xă tịch thu?




    Những phi vụ tối mật thả đồ tiếp liệu cho những toán Biệt Hải hoạt động trong vùng địch


    Cho đến bây giờ, ít có người biết được một cách đầy đủ về hoạt động của các toán Biệt Hải chúng tôi trong những chuyến công tác đặc biệt tại những vùng duyên hải miền Bắc Việt Nam. Ngay trong nội bộ Sở PVDH, mọi tin tức cũng đều được giữ kín. Các nhân viên Biệt Hải vẫn chưa bao giờ được chia xẻ những giây phút hiểm nguy bậc nhất trong cuộc đời của ḿnh mà vẫn phải giữ kín cho đến ngày hôm nay. Hy vọng bài viết này đă nói lên được một vài điều bí mật về cuộc chiến Việt Nam.
    Biệt Hải Hồng Phúc
    (Thành viên toán Nimbus trong thời điểm 1965-1968)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 4 users browsing this thread. (0 members and 4 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •