Page 25 of 33 FirstFirst ... 15212223242526272829 ... LastLast
Results 241 to 250 of 326

Thread: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

  1. #241
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu


    Đoàn Khánh Ḥa 13



    Toán OHIO FOB2 KONTUM 1966-1967
    Hàng đứng (từ trái sang phài)
    Văn Minh Huy, Wong A Cầu, MSG Richard J. "Dick" Meadows, 1st Lt. Lê Minh, SFC James A Simpsons, SFC N. "Chuck" Kerns, Trần Can và Trương Dậu
    Hàng quỳ (từ trái sang phài)
    Liêu A Sáng, Nguyễn Kim Trạch, Trương A Nhục và Lư A Dưỡng


    Để tưởng nhớ đến:
    • Trung Úy Phan Nhựt Văn (Sở Liên Lạc)
    • Đại Úy Dick Meadows (MACVSOG)
    • Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa (Phi Đoàn 219 KingBee)
    • cùng các Chiến Hữu Nha Kỹ Thuật đă phục vụ và hy sinh trong cuộc chiến tại Việt Nam.

    Lê Minh


    Đối với người Âu Châu, con số 13 là số xui xẻo, con số tối kỵ. Nếu con số này lại rơi vào ngày thứ Sáu th́ càng tối kỵ hơn nữa. Riêng về phần tôi, dạo c̣n đi học hay thời gian trong quân ngũ, tôi cũng chẳng kiêng cữ ǵ với số 13 này cả… Thứ Sáu ngày 13 nếu là ngày không tốt, nếu là ngày xui th́ chỉ dành riêng cho người Âu Châu mà thôi… Nhưng đối với Đoàn Khánh Ḥa 13 này, con số 13 là con số mạt rệp, con số xui xẻo tận mạng, con số đau thương tang tóc.
    Tháng 6 năm 1966, buổi sáng thời tiết ở Kontum thật là mát mẻ. Bầu trời trong xanh và cao thăm thẳm. Tôi có thói quen ngày nào cũng phải nh́n trời để rồi liên tưởng đến thời tiết mỗi ngày. Buổi sáng trời trong xanh, trần mây cao như thế này thật là lư tưởng cho những chuyến hành quân xâm nhập hay triệt xuất. Thật ra các chuyến công tác xâm nhập thường vào buổi chiều, mà buổi chiều ở vùng Tam Biên thay đổi thất thường. Trời đang cao thăm thẳm không một tàn mây, rồi mây đen ở đâu bỗng ùn ùn kéo tới thật thấp, tưởng chừng như là đà ngọn cây. Tầm nh́n cao và xa không qúa 100 thước, do đó thường gây trở ngại cho các chuyến hành quân nhưng lại là yếu tố thuận lợi cho các đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt trên hành lang Trường Sơn vùng 3 biên giới.
    Tôi vừa nhận được lệnh hành quân chiều hôm qua. Sáng nay khoảng 10 giờ th́ bay không thám. Bây giờ mới 7 giờ rưỡi sáng, c̣n sớm qúa! Tôi muốn trở vào giường nằm nán thêm ít phút để suy nghĩ về những ngày phép sắp tới, khi chuyến hành quân này chấm dứt. Niềm vui của những ngày về phép Sàig̣n, những ngày được sống cạnh Liên khiến tôi bỏ ư nghĩ vào giường nằm lại. Tôi quay về pḥng lấy gói thuốc lá và bước qua Câu Lạc Bộ uống cà phê. Đang ngắm những giọt cà phê từ từ rơi xuống đáy cốc và nghĩ đến bức thư của Liên vừa nhận được hôm qua, cho biết là đă mang thai được 2 tháng và hỏi tôi muốn đặt tên con là ǵ? Tôi th́ thích con trai, Liên th́ muốn con đầu ḷng là con gái… Đang mải suy tư bỗng giật ḿnh v́ tiếng của Trung Sĩ Phát HSQ Ban 3:

    -o- Trung Úy, 10 giờ sáng nay Trung Úy bay không thám. Xe Jeep Ban 3 đă chuẩn bị sẵn sàng chở Trung Úy ra phi trường đang đậu ở TOC. Trung Tá nhắc Trung Úy ra phi trường đúng giờ, đừng để tụi Mỹ nó chờ!
    -o- ”Con c…” – Tôi muốn chửi thề tiếp theo nhưng vội tốp lại. Tại sao ông xếp nào cũng có tính lo xa? Các ông ấy đâu có biết những điều thiếu tế nhị đó thường làm bọn Sĩ Quan trẻ chúng tôi tổn thương tự ái. Rồi tôi tự nhủ ”Quân Đội là vậy đó. Buổi sáng trời đẹp như thế này x́ nẹt làm ǵ?”. Nghĩ thế tôi bèn cười và nói với Trung Sĩ Phát:

    -o- Ngồi xuống đây, c̣n sớm mà… Cà phê sữa nhé?

    Qua phút ngượng v́ tôi x́ nẹt bất tử, Trung Sĩ Phát ngồi xuống nói:

    -o- Bản đồ đă làm xong. Em đă khoanh tọa độ các băi đáp theo như không ảnh dự trù. Có điều các băi đáp đều qúa xa mục tiêu!

    -o- Tao biết… Ban 2 và Ban 3 đă thuyết tŕnh hôm qua rồi. Mày sợ ở vùng mục tiêu không có băi đáp triệt xuất phải không?

    V́ bảo mật, các mục tiêu hành quân chỉ giới hạn cho một số người biết. Hạ Sĩ Quan Ban 3 như Trung Sĩ Phát th́ chỉ biết làm bản đồ hành quân, c̣n nhiệm vụ hành quân và tin tức t́nh báo th́ biết một cách hạn chế. Nhưng v́ phục vụ ở Ban 3 Chiến Đoàn từ lâu, phụ trách đánh máy giải tŕnh các cuộc hành quân, do đó Phát cũng đoán được tính chất của mục tiêu và nhiệm vụ cuộc hành quân này. Thật ra nhiệm vụ chính của cuộc hành quân này vẫn là thám sát, báo cáo và hướng dẫn phi cơ oanh kích. Nhiệm vụ phụ là ”bắt tù binh”. Có điều tôi thấy hơi khác lạ là trước nay thường có lệnh chuẩn bị hành quân từ trước. Sau đó, toán được đưa vào Khu Cấm, nội bất xuất – ngoại bất nhập. Xong đâu đó, Toán Trưởng mới nhận được lệnh hành quân; tham dự thuyết tŕnh với các Sĩ Quan Ban 2 và Ban 3 với các không ảnh mới nhất; sau đó đi bay không thám để chọn băi đáp. Ở nhà Toán Phó tùy theo tính chất mục tiêu và nhiệm vụ hành quân, liên lạc với Ban 4 để trang bị đầy đủ theo nhu cầu.



    Toán ở trong Khu Cấm thường th́ 2 hay 3 ngày. Trong thời gian này, chỉ có Toán Phó và Toán Trưởng bận rộn thôi. Toán viên chỉ lo lau chùi vũ khí, chuẩn bị các quân dụng cần thiết mang theo cho phù hợp với nhiệm vụ chuyến công tác. Trước khi đi hành quân, cả toán được xe chở ra sân bắn để thử súng. Ngoài ra, cả ngày toán chỉ ở trong Khu Cấm, nằm nghe nhạc, thục bi-da và xem báo PlayBoy. Báo PlayBoy th́ các HSQ cố vấn toán cung cấp không thiếu.
    Lần hành quân này, nếu hôm nay tôi bay không thám, chọn được băi đáp rồi th́ chiều nay là ”go” ngay. Mấy thằng em tôi trưa nay mới phải vào Khu Cấm, trang bị và thử súng cũng nội trong buổi chiều. Gấp qúa nhưng tụi nhỏ nó khoái. Làm sớm nghỉ sớm! Tôi lại nghĩ đến buổi thuyết tŕnh chiều qua. Nh́n vẻ mặt thật quan trọng của Trung Tá Cold Cố Vấn Trưởng và Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng sau khi được SQ Ban 2 và Ban 3 cho biết là mức độ xâm nhập của địch vào vùng Benhet rất cao. H́nh ảnh do vệ tinh chụp được cho thấyxe vận tải và bộ binh của địch di chuyển rất rơ. Tin tức t́nh báo như thế này th́ xếp vào loại A rồi! Nhiệm vụ chuyến hành quân này là: quan sát, chỉ điểm cho khu trục oanh kích các đoàn quân xa và các đơn vị địch. Ngoài ra c̣n t́m các kho tiếp liệu quanh vùng này.
    Tin t́nh báo cho biết địch sẽ chuẩn bị tấn công vào quận Tân Cảnh hoặc thị trấn Dakto. Tôi cũng khoái nhiệm vụ của cuộc hành quân này, v́ không phải trang bị nặng cho các mục tiêu cần chất nổ hay ḿn đặt trên đường. Có điều làm gấp như thế này sợ mấy thằng em của tôi thiếu chuẩn bị. Tôi quay qua Tr/Sĩ Phát:

    -o- Anh chạy xuống toán gọi Thương Sĩ Sơn giùm tôi. Tôi chờ anh về uống cà phê và ăn sáng luôn. Phải dặn Th/Sĩ Sơn vài điều mới được…

    Tôi đi bay sớm nhất cũng 1-2 giờ trưa mới về. Buổi chiều c̣n biết bao nhiêu việc phải làm và tôi lại nghĩ đến Thượng Sĩ Cố Vấn toán mới vừa đổi về hơn 3 tuần. Chúng tôi đă đi hành quân 5 ngày thực tập tuần trước. Tên này rất có kinh nghiệm trong ngành Lực Lượng Đặc Biệt. Nghe nói hắn là HSQ xuất sắc nhất của Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ. Toán tôi có 3 tên Mỹ, tên nào cũng có từ 10 đến 15 năm kinh nghiệm trong LLĐB. Cố Vấn Trưởng Thượng Sĩ Richard J. Dick Meadows. Hai Trung Sĩ kia là James A. Simpson và Trung Sĩ Charles N. Chuck Kerns. Hai Trung Sĩ này, một người là chuyên viên ḿn bẫy và phá hoại, c̣n người kia là chuyên viên truyền tin kiêm cứu thương. Các Cố Vấn đối với toán rất thân mật, vui vẻ và cởi mở. Không biết đây là tiêu lệnh trên chỉ thị, hay là v́ vào sanh ra tử chung với chúng tôi nên họ sống rất ḥa ḿnh với anh em toán.
    Thượng Sĩ Sơn bước vào Câu Lạc Bộ cùng lúc với mấy Sĩ Quan trực thăng H-34. Tôi đẩy ghế và vẫy tay gọi họ lại ngồi chung, cùng lúc Trung Úy Huệ hỏi:

    -o- Ê Minh Đen, cà phê sớm qúa vậy? Mày chuẩn bị hành quân phải không?

    Tôi không trả lời vội, gọi mấy cô Câu Lạc Bộ xếp thêm ghế cho họ ngồi vây chung quanh bàn tṛn rồi trả lời:

    -o- Ừ có lẽ chiều nay, nếu thời tiết tốt.

    Tôi quay qua Trung Úy Nghĩa, Trưởng Biệt Đội:

    -o- Tụi mày xắp đổi Crew chưa? Sau lần hành quân này tao đi phép về Sàig̣n, tụi ḿnh rủ thằng Tuấn-con đi chơi.

    Các Sĩ Quan trực thăng trong Phi Đoàn Long Mă 219 này nh́n vào chẳng giống các Sĩ Quan Không Quân khác một chút nào cả. Mặc đồ Biệt Kích, đồ Beo! Súng Colt 9 ly đeo xệ xệ, chẳng có lon lá ǵ cả. Nếu trong tay không cầm nón bay th́ chẳng ai biết đây là những Sĩ Quan Không Quân hào hoa phong nhă. Nếu các binh chủng có sự đoàn kết sống chết với nhau th́ phải kể đến các Phi Hành Đoàn này với các đơn vị hành quân của chúng tôi, như câu châm ngôn truyền tụng: ”Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”. Trong các chuyến hành quân ”Ra Đi Không Hẹn Ngày Về” của các toán Lôi Hổ, qua chiến công của các toán Biệt Kích mang về, một phần lớn cũng nhờ vào những phi vụ cảm tử của các phi công trẻ này. Với những nick-name mà các toán thường nhắc nhở như: Hùng Râu Kẽm, Nghĩa Lùn, Hiếu Chết, An Cào-Cào, v.v… Bất chấp hỏa lực pḥng không của địch, bất chấp các toán Biệt Kích đang bị địch truy kích và sắp sửa bị tiêu diệt, những chàng trai này vẫn liều mạng đáp xuống.



    Không những các toán Lôi Hổ coi các phi hành đoàn này như anh em, mà các phi công Hoa Kỳ yểm trợ hành quân chung cũng phải giở nón cúi đầu trước các phi vụ ”uống thuốc liều” của các chàng trai trẻ này. Chúng tôi thường nói đùa: Họ là những chàng trai hành quân mang dép… Lạnh cẳng, cần mang giầy, mang vớ th́ đi chỗ khác chơi! Do đó, tuổi thọ của những chàng trai này thường ”gẫy cánh” ở luới tuổi dưới 30! Hôm nay, không có toán nào trong vùng hành quân nên bọn họ c̣n nhởn nhơ ở đây. Mỗi ngày, nếu có toán hành quân trong vùng th́ 6 giờ sáng phải bay lên căn cứ yểm trợ Dakto ứng chiến rồi.
    Tôi dặn Thượng Sĩ Sơn vài điều cần thiết rồi quay sang hỏi tiếp Nghĩa:

    -o- Hôm nay mày được bao nhiêu ”chỉ” rồi? Tao nghĩ vài bữa nữa tụi mày đếm chỉ lia lịa đó.

    Nếu người ngoài nghe câu này chắc chẳng hiểu ǵ cả. Không biết danh từ này do ai đặt ra, đến nỗi các bà lái phi công ở nhà cũng biết và xài danh từ này! V́ đảm trách các cuộc hành quân mà phi vụ nào cũng rất hiểm nghèo, do đó các Phi Đoàn H-34 và các Phi Đoàn O2 to BTL/KQ biệt phái sang, mỗi lần bay vượt biên giới đều được thưởng 3000 đồng. Số tiền này so với thời giá th́ cũng khá lớn. Tuy nhiên, rất xứng đáng với nhiệm vụ nguy hiểm mà họ phải đảm trách.

    -o- Nghĩa cười: ”Nướng hết rồi”.

    Tên này coi chậm chạp và ít nói như con gái, nhưng bay bổng, mạt chược và binh xập xám th́ một cây! Tôi xem đồng hồ và đứng lên nói: ”Thôi, tao đi trước!”, rồi quay sang bà Chủ Câu Lạc Bộ hô: ”Ghi sổ hết cho tôi”.

    Sau hơn 2 giờ bay không thám trở về, vừa xuống xe đă thấy Thượng Sĩ Sơn đứng chờ sẵn. Tôi đưa ngón cái lên, ngầm cho Sơn biết là việc lựa chọn băi đáp đă OK. Cầm lon Coke lạnh Thượng Sĩ Sơn đưa tới, tôi vừa đi vừa uống rảo bước xuống TOC. Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Cố Vấn Trưởng, các Sĩ Quan Ban 2, Ban 3, các phi công O2, trực thăng vơ trang, các trưởng phi cơ Việt, Mỹ đă có mặt ở dưới này rồi. Teo nheo mắt và bắt tay Thượng Sĩ Meadows. Cả hai cùng nói: ”Good afternoon!”.
    Buổi thuyết tŕnh này chỉ chú trọng về phần yểm trợ của Không Quân. Ư niệm hành quân cũng như lộ tŕnh di chuyển của toán do Toán Trưởng dự trù. Thường th́ Sĩ Quan Không Trợ Mỹ cho biết các lực lượng Không Quân yểm trợ cuộc hành quân cũng như các quy định thường lệ. Sĩ Quan FAC thuyết tŕnh, chỉ định điểm hẹn 1, cho biết tần số liên lạc với khu trục A1-E đang trong vùng ở địa điểm 2. Lần này, toán chúng tôi hành quân đủ cấp số 12 người. Do đó, xâm nhập phải cần tới 2 trực thăng.
    Vào tới địa điểm 1 – Biệt Đội 6. Chiếc trực thăng H-34 chỉ có Lead 1 và 2 theo hướng dẫn của FAC vào mục tiêu. Số 4 chiếc c̣n lại chờ ở điểm hẹn 1. Trường hợp gặp hỏa lực phi cơ bị rớt th́ thứ tự các Rescue 1 rồi 2 vào tiếp cứu. Sau đó, trực thăng vơ trang sẽ bắn rocket chung quanh băi để H-34 xuống tiếp cứu. Trong trường hợp t́nh h́nh qúa nặng th́ FAC sẽ điều động phi cơ khu trục A1-E ở điểm hẹn 2 vào tiếp. Nếu toán xâm nhập an toàn th́ biệt đội trực thăng H-34 bay về Dakto ứng chiến. Trực thăng vơ trang sẽ ở lại điểm hẹn 1 thêm 45 phút nữa. Sau đó, nếu mọi việc an toàn th́ cũng bay về Dakto ứng chiến. Cuối cùng, khu trục A1-E sẽ giải tỏa bom đạn ở target G.



    FAC luôn luôn có mặt trên vùng khoảng 30 dậm cách mục tiêu. Ngoài trường hợp khẩn cấp, toán sẽ báo cáo với FAC vào mỗi đầu giờ. 4 giờ 30 chiều th́ báo cáo công điện trong ngày và vị trí dự trù đóng quân đêm. Thường th́ công tác tuần tự như thế. Nhưng v́ buổi sáng nay khi bay không thám, nh́n thấy bên dưới đường ṃn chi chít như màng nhện. H́nh ảnh không thám chụp từ mấy ngày trước bây giờ thấy xuất hiện thêm rất nhiều con đường mới. Nơi có ghi những con suối, bọn Công Binh của địch đă đổ đá và kè cây liền nhau cho xe vượt qua, dấu vết rất mới mẻ. Viên phi công FAC, người đă bay rất quen thuộc với vùng này cũng xác nhận các đường ṃn này chỉ mới xuất hiện nội trong 1-2 ngày nay thôi. Ngoài ra khi bay không thám, tôi thấy các ngọn núi cao trong vùng đều có đặt tổ báo động. Tôi nghe súng trường ba tiếng một vang từ chỏm núi này sang chỏm núi khác.
    Để có yếu tố bất ngờ, tôi đề nghị: ”Từ điểm hẹn 1, FAC hướng dẫn 2 trực thăng chở toán xâm nhập bay thật thấp, vào tới mục tiêu th́ đáp luôn.”. Thiếu Tá Hoa Kỳ bay FAC nh́n các Sĩ Quan H-34 như hỏi ư kiến rồi ông nói: ”Từ điểm hẹn 1 vào mục tiêu khá xa, tôi đề nghị khi đi được khoảng 2/3 đường th́ trực thăng mới bắt đầu hạ thấp cao độ. Như vậy cũng đủ yếu tố bất ngờ rồi. V́ băi đáp khá lớn nên khi tôi lắc cánh ra dấu hiệu Bingo-Bingo-Bingo th́ trực thăng 1 đáp xuống; khi chiếc này bốc lên th́ trực thăng 2 đáp xuống.”. Đề nghị này rất khó cho phi hành đoàn v́ FAC bay thật cao, hướng dẫn cho trực thăng lúc này đang bay rất thấp nên có thể sẽ không thấy được băi đáp. FAC hướng dẫn Lead 1: Hướng 12 giờ 1000 thước, 800 thước, 600 thước, 400, 200, 100… Sau đó, FAC từ trên cao chúi xuống lắc cánh và gọi ám hiệu của máy bay ”Bingo-Bingo-Bingo”. Khi FAC lấy cao độ bay lên cũng là lúc Lead 1 đáp xuống. Khi Lead 1 bốc lên th́ Lead 2 cũng vừa bay tới và đáp xuống luôn.
    Như đă nói ở trên, trường hợp này băi đáp phải lớn. Nếu băi đáp nhỏ th́ Lead 2 phải bay ṿng lại để đáp cho đúng chiều, và nếu như vậy th́ sẽ không c̣n yếu tố bí mật nữa. Nếu trong vùng băi đáp không có các tổ báo động của địch th́ chúng tôi giữ yếu tố bí mật được khoảng 80-90% rồi.
    Sau đó, tôi lên bục thuyết tŕnh, cho biết ư định hành quân của tôi mà tôi đă có ư niệm từ lúc ngồi trên chiếc O2 trên đường bay không thám về. Tốc độ di chuyển mỗi ngày, dự trù các điểm đóng quân đêm từ ngày N đến ngày N+4 trên đoạn đường từ băi đáp đến mục tiêu. Ngày N+5 sẽ thám sát các tọa độ tại mục tiêu mà không ảnh đă cung cấp. Dự trù sẽ triệt xuất ngày N+6. Băi đáp triệt xuất được dự trù ở tọa độ 200(th) hướng Đông-Nam, điểm đóng quân ngày N+4. Trường hợp chạm địch hoặc phải triệt xuất khẩn cấp th́ băi đáp sẽ tùy theo địa thế. Dấu hiệu cho phi cơ nhận toán là pano mầu cam trên chỏm nón. Dấu hiệu an toàn là pano mầu đỏ h́nh chữ T, mũi quay về hướng Bắc. Khói vàng là băi đáp an toàn. Tôi hỏi: ”Ai có ư kiến ǵ nữa không?”. Tất cả đều chúc toán ”good luck”.
    Bốn chiếc trực thăng vơ trang vừa bay vượt qua dẫy núi hướng Tây-Bắc Dakto. Trực thăng chở toán 6 chiếc cũng bay theo. Trước đó vài phút, 4 chiếc khu trục A1-E bay đảo một ṿng quanh băi đáp trực thăng như ngầm cho biết ”Chúng tôi đă sẵn sàng chờ các bạn”, xong cũng bay khuất vào những mỏm núi cao hướng Tây-Bắc. Thời tiết chiều nay thật lư tưởng. Mặt trời đă gần sụp xuống ở chân trời nhưng hướng Tây trời vẫn c̣n sáng. Dự trù trực thăng bay khoảng 40 đến 45 phút, như vậy chúng tôi sẽ đến băi đáp khoảng gần 6 giờ chiều. Xâm nhập mục tiêu trong thời gian này, xuống đất chúng tôi chỉ cần di chuyển khỏi băi đáp chừng 300 đến 400 thước là có thể đóng quân. Địch dù đoán được có Biệt Kích xâm nhập nhưng tối rồi cũng khó mà theo dấu của chúng tôi.
    Ngồi bên cửa trực thăng bỏ chân ra ngoài, tôi ngắm nh́n những cánh rừng cây cao xanh ngút ngàn điểm đầy những hố đỏ thẫm, dấu vết của những trân mưa bom B-52. Phi cơ tôi chở 6 người, gồm 2 tiền sát viên, tôi, Thượng Sĩ Meadows, 1 toán viên y tá và Trung Sĩ Charles mang máy truyền tin. Trực thăng thứ hai chở Toán Phó, Trung Sĩ James, 2 nhân viên phá hoại và 2 hậu vệ. Trời mới đó mà xụp tối rất nhanh. Gió tạt vào người tôi mát lạnh đến tê da. Trực thăng đến điểm hẹn 1, đảo ṿng lấy hướng về băi đáp và bay với cao độ thấp dần rồi giữ cao độ là đà trên ngọn cây cho đến băi đáp. Cả đám xuống băi đáp an toàn. Trời cũng vừa tối hẳn. Sau khi làm thủ lệnh kiểm soát tất cả đă an toàn, tiền sát viên bắt đầu di chuyển theo hướng đă định.
    Đêm đó, chúng tôi đóng quân an toàn cách băi đáp khoảng 500 thước. Tất cả toán chúng tôi t́m một địa thế cao, có cây không qúa to rồi đứng thành ṿng tṛn, mỗi người cách nhau một cánh tay dang ngang, đầu quay vào trong, xong đâu đó quay 180 độ ngược ra ngoài. Chúng tôi đóng quân quay thành h́nh tṛn. Mỗi khi có báo động, chúng tôi đă có đội h́nh pḥng thủ 360 độ. Ba-lô kê đầu, lưng lót poncho, dây đạn chỉ cởi khoen nhưng không tháo khỏi lưng, nằm ngủ súng luôn để trên bụng. Những ngày hành quân chúng tôi đều ngủ như thế.
    Thay phiên nhau mỗi người gác một giờ. Đôi khi cảnh giác, chúng tôi cũng chăng giây báo động; một loại giây rất nhỏ bằng bao thuốc lá, vận hành bằng pin. Ban đêm chăng giây này cách mặt đất khoảng 3-4 tấc. Giây đứt, micro sẽ kêu lên, to nhỏ tùy theo volume đă được điều chỉnh từ trước. Tối ngủ, một người chỉ cần móc cái khoen của hộp báo động vào quai vai áo. Hệ thống báo động này rất nhạy, tuy nhiên cũng gây phiền phức không ít khi thú rừng đi vướng, hoặc cây khô ban đêm rơi xuống làm đứt giây.
    Tôi tuyệt đối không bao giờ cho căng vơng hoặc che lều. Trời có mưa th́ trùm poncho chịu trận suốt đêm! Che lều đêm sương xuống lều sẽ phản chiếu ánh sáng, ở xa trông rất rơ. Ngủ vơng đêm lúc trở ḿnh sẽ khua động cành cây. Tôi cảnh giác cao như thế nên sau 2 năm hành quân, toán tôi chỉ bị theo dơi mấy lần nhưng chưa lần nào bị địch tấn công lúc đóng quân đêm cả. Địch thường theo dơi lúc toán mới xuống băi đáp hoặc trong khi di chuyển, chờ lúc toán đóng quân là tấn công ngay. Buổi tối, chúng tôi không được phi cơ yểm trợ nên địch sẽ được lợi thế hơn. Nhiều toán đă bị đi đứt trong khi đóng quân đêm v́ đồ đạc cởi bỏ lung tung, gây ồn ào hoặc hút thuốc lá, hay dùng C4 nấu cà phê.
    Chúng tôi thường có câu: ”Đường ṃn là mồ chôn Biệt Kích”. Hành quân cứ theo đường ṃn mà đi hoài th́ trước sau ǵ cũng lảnh thẹo. Hành quân mà hút thuốc lá là vô t́nh để cho địch theo dơi. Hút thuốc trong rừng ban ngày thôi, khói thuốc cũng bay từ 15 – 20 thước. Thuốc lá thơm th́ mùi sẽ c̣n dễ nhận ra hơn nữa. Cả toán anh nào cũng là dân ghiền thuốc nên tôi cũng du-di, nhưng mỗi lần hút chỉ được hút phân nửa điếu đă được cắt đôi. Trong khi hút thuốc phải che điếu thuốc bằng nón vải. Nhả khói ra là lấy nón quạt khói tan ngay. Chỉ được hút 3 lần trong một ngày, mỗi lần hít vài hơi cho đỡ ghiền. Hút xong xé tan phần c̣n lại, bốc một nắm đất trộn đều xơ thuốc lại rồi rải xuống đất.
    Không được hút thuốc có đầu lọc v́ đầu lọc khó xé nhỏ, dễ để lại dấu vết. Tôi ở nhà hút mỗi ngày cũng gần một gói nhưng đi hành quân th́ tôi nhịn. Chỉ tội nghiệp Trung Sĩ Charles, suốt cuộc hành quân miệng không ngớt nhai thuốc lá. Tôi cũng thuộc loại các Toán Trưởng chịu chơi, thường che chở và bật đèn xanh cho tụi nhỏ muốn làm ǵ th́ làm, nhưng đi hành quân th́ tuyệt đối phải giữ đúng tiêu lệnh chung. Tôi biết tụi nhỏ cũng than lắm, nhưng chịu khó vài ngày mà được trở về an toàn bộ không sướng hơn sao?



    Ngày N+1
    Phi cơ lên vùng rất sớm. Chúng tôi báo cáo trong đêm vô sự và bắt đầu di chuyển theo lộ tŕnh. Đường đi rất khó v́ B-52 oanh tạc, cây cối đổ ngổn ngang cùng hướng tiến của chúng tôi. V́ phải đi qua các hố bom đường kính trên 15-20 thước nên di chuyển rất chậm v́ phải định hướng lại hoài. Buổi trưa trên con đường ṃn nhỏ, trên đỉnh của một ngọn núi thấp chạy theo hướng Tây-Bắc – Đông-Nam, chúng tôi phát giác gần 25 cái cḥi nhỏ, vuông, mỗi cạnh khoảng 3 thước. Sạp được lót bằng tre cách mặt đất khoảng 5 tấc. Các cḥi này được bọc quanh bằng phên tre phết đất, cao khoảng 1 thước, bên trong chứa đầy lúa khoảng 8 tấc. Phần 2 tấc bên dưới chứa trấu. Ngăn đôi giữa lúa và trấu là một lớp lá rừng. Các cḥi có nóc cao hơn 2 thước, lợp tranh, mái cḥi chạm đất. Cḥi đă thấp, lại được làm dưới tầng cây cao nên phi cơ quan sát khó thấy được. Tôi báo cáo lên FAC xin chỉ thị ở nhà và được lệnh cứ tiếp tục di chuyển. Hướng dẫn cho FAC thấy mục tiêu xong, chúng tôi sẽ di chuyển để FAC hướng dẫn khu trục đến oanh tạc bằng bom Napalm.
    Tôi cho đốt một cḥi để FAC thấy. Sau đó, toán chúng tôi di chuyển nhanh xuống triền núi. Lúa gặp tranh và phên tre nên bùng cháy rất nhanh. Lúa chỉ đổ tràn xuống thôi chứ không cháy được. Không biết bom Napalm có làm cháy hết số cḥi lúa này không? Chung quanh không có rẫy trồng lúa. Di chuyển số lượng lúa này từ xa đến đây chắc địch phải mất rất nhiều ngày và nhân lực. Khi đến chân núi, chúng tôi thấy 2 chiếc F4-C Phantom từ trên cao bổ nhào xuống, thụt bom Napalm rồi bay vụt qua đầu chúng tôi. Tôi mong cho những đồi lúa bị cháy. Lúa đổ xuống đất chỉ cần có mưa hoặc sương đêm cũng đủ làm cho lúa nẩy mầm là không dùng được rồi. Buổi tối hôm đó chúng tôi đóng quân cạnh một con suối nhỏ. Trời vừa xụp tối đă nghe có tiếng xe di chuyển ở hướng Tây. Tiếng xe hú to chứng tỏ là xe đang phải chở nặng, hoặc cố vượt qua các dốc cao hay suối cạn. Tiếng bom B-52 nổ suốt đêm về hướng Bắc khiến mặt đất và cây cỏ rung lên từng chập sau mỗi đợt tiếng nổ. Tuy nhiên, sau đó đêm yên tĩnh…



    Ngày N+2
    Vừa di chuyển theo suối khoảng 200 thước, chúng tôi cặp dọc theo 2 bên con suối trong một khu rừng thấp và phát hiện một chỗ đóng quân cho khoảng từ 150 đến 200 người trở lên. Mỗi chỗ đóng quân cá nhân gồm có 2 cây thiên nhiên hoặc 2 cây trụ, đuợc chôn khoảng cách vừa tầm để buộc vơng. Phía trên 2 cây có buộc một cây ngang để máng lều cá nhân. Hai cây ngang tôi đoán dùng để gác súng và một sạp nhỏ để ba-lô. Chung quanh thật sạch sẽ, không một ngọn cỏ, không một chiếc lá, chứng tỏ là được dùng đóng quân thường xuyên. Có lẽ đây là một binh trạm đóng quân của chúng giữa 2 chặng đường. Chắc chắn gần đây phải có nhà hoặc có cơ sở của binh trạm này. Tôi chụp h́nh và cho lệnh lục soát rất kỹ. Qủa nhiên trên một ngọn đồi thấp, cạnh con đường ṃn lớn không có dấu vết xe di chuyển, chúng tôi phát giác 1 căn nhà sàn nhỏ và 4 căn nhà trệt nằm dưới cây cổ thụ cao. Chúng tôi dè dặt tiến vào. Đúng là một binh trạm rồi! Đồ đạc vất vương văi, dép râu, điếu cày, mấy cái chén xanh và một cái tô mép mó. Dưới đất có 2 bếp nhỏ và mấy đôi đũa… chứng tỏ là địch đă bỏ đi thật gấp.
    Một bàn viết làm bằng tre, ghế cũng bằng tre. Trên bàn có một lọ mực tím. Trên phên vách treo mấy cái áo trận đă rách, một tấm lưới bắt cá, lưỡi và dây câu. Chúng tôi lục soát thật kỹ và t́m thấy một tờ giấy nhỏ như giấy học tṛ, viết bằng mực tím. Giấy bị ướt nên chữ nḥe đi, không đọc được ǵ cả. Bốn căn nhà trệt có lẽ dùng để chứa lương thực v́ thấy có ít gạo và bắp rơi xuống đất. Chúng tôi đốt tất cả 5 căn nhà này. Tiếng tre nứa cháy nổ ầm ầm như đụng trận. Chúng tôi di chuyển thật nhanh và t́m chỗ đóng quân đêm. Tối hôm đó vẫn c̣n nghe tiếng xe di chuyển măi gần đến khuya mới dứt.



    Ngày N+3
    Buổi sáng hôm đó, FAC bay lên và chuyển cho chúng tôi một công điện: Cứ giữ hướng di chuyển cũ, chú ư lục soát kỹ, bung rộng trong trục tiến quân v́ hướng này là một nhánh hay một xương sườn của đường ṃn Hồ Chí Minh chạy vào Tam Biên. Công điện cũng cho biết thêm là trục tiến quân của địc vào Benhet chỉ chung quanh đây thôi. Tôi bàn với Thượng Sĩ Meadows, nếu lục soát rộng sẽ làm chậm sự di chuyển của toán. Meadows đề nghị chia toán ra làm đôi; lục soát rộng 2 bên bờ suối, cặp theo con đường ṃn nhỏ mà chúng tôi đă gặp hôm qua. Tôi không đồng ư v́ nếu chia đôi toán ra th́ khó liên lạc và yểm trợ cho nhau. Trước nay, chúng tôi thường để một nửa toán nằm lại tại chỗ, c̣n một nửa toán kia đi lục soát để biết có điểm hẹn mà trở về. Chia đôi th́ không đúng nguyên tắc, mặc dù có thể lục soát một chu vi rộng hơn.
    Tôi vẫn giữ đội h́nh cũ và di chuyển chếch về hướng Bắc v́ 2 đêm liền đều nghe thấy có tiếng xe di chuyền ở hướng này. Khoảng gần trưa, chúng tôi phát giác 2 căn nhà cất thật thấp trên một diện tích 8 x 10 thước. Nền nhà được đào sâu xuống khoảng gần một thước, đất được đắp chung quanh. V́ mái nhà cất chạm đất và lại ở dưới tàn cây cao nên đến gần chúng tôi mới phát hiện. Một thang gỗ khoảng 3 bậc dùng để lên xuống, hai bên là 2 dăy xạp tre. Đầu nhà phía bên kia cũng có thang lên xuống. Một phía đầu nhà có một chái nhỏ dùng làm bếp, có hai cái ḷ, một ḷ kẹp 2 con cá nướng c̣n đang nằm trên bếp. Cá đă cháy khét. Tôi tḥ tay vào tro thếy c̣n hơi âm ấm. Có lẽ tụi chúng đă bỏ đi chiều hôm qua. Căn nhà bên kia khoảng 4 x 8 thước, bên trong có một bàn viết, sạp ngủ làm bằng tre. Một quyển sổ b́a xanh loại giấy học tṛ ghi tên tuổi các bệnh binh. Có lẽ đây là một bệnh xá thuộc binh trạm mà chúng tôi đă phát hiện ngày hôm qua. Sổ ghi bệnh nhân phần nhiều là phù thủng, sốt rét và kiết lỵ. Tôi đếm và cộng lại sổ ghi mỗi tháng thấy có từ 17 đến 25 tên có mặt ở trạm xá này. Tổng số chết cũng gần chục tên. Bệnh xá có ghi tên một bác sĩ và hai hộ lư, đều là tên đàn ông. Như vậy, hộ lư và y tá cũng c̣n có tên riêng là nữ cán bộ, dùng để phục vụ sinh lư cho các cán bộ cao cấp địch. Chúng mày bỏ của chạy lấy người th́ chúng ông đốt nhà chúng mày vậy. Chiều nay lại được dịp nghe tre nứa cháy nổ ầm ầm như pháo Tết! Đêm hôm đó nghe tiếng xe di chuyển gần chúng tôi hơn…

  2. #242
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu


    Đoàn Khánh Ḥa 13
    P2









    Ngày N+4
    Buổi sáng sau khi báo cáo với FAC trong đêm an toàn, chúng tôi bàn với nhau: Qua phát hiện trong 2 ngày nay, chắc chắn tuyến đường xâm nhập vào vùng Tam Biên phải ở gần đây. Tuyến đường này gần như nằm song song với trục tiến quân của chúng tôi. Có thể là hướng Bắc của con suối hay nằm ở phía Nam con suối. Tôi quyết định đổi hướng và toán di chuyển về hướng Bắc, không tiến vào mục tiêu như đă dự trù. Tôi liên lạc với FAC cho biết ư định mới của toán và chiếu gương xin FAC xác nhận vị trí điểm đứng của toán. FAC cho tọa độ hiện tại của toán, so với tọa độ chúng tôi xác định th́ chỉ cách nhau không qúa 100 thước. Chúng tôi tiến về hướng bắc di chuyển khoăng 200 thước; toán phát giác một đường ṃn nhỏ bề ngang khoăng hơn một thước láng, sạch, không có một cọng cỏ. Theo kinh nghiệm th́ đường ṃn như thế này phải được sử dụng hàng ngày rồi. Tôi bước dọc theo lề đường khoảng 10 thước, nh́n về phía Tây khoảng 100 thước th́ bị che khuất. Có lẽ đó là khúc quanh mà con đường chạy theo đoạn cong của ḍng suối.
    Quan sát về phía Đông của đường ṃn thấy xa hơn khoảng 200 thước th́ con đường đi xuống thấp dần, v́ đường ṃn chạy theo triền đồi thoai thoải xuống. Vừa định lấy máy h́nh ra chụp, tôi bỗng nghe có tiếng ồn ào về hướng Tây. Vội thụt lui vào phía trong th́ đă thấy một đoàn người vừa xuất hiện ở khúc quanh con đường. Dẫn đầu là một tên quần xanh, áo trận vàng, đầu đội nón cối, tay cầm một cây gậy dài, vai quàng một miếng vải dù bông, vừa chạy vừa hô: ”Khẩn trương – Khẩn trương – Khẩn trương”. Phía sau là một đoàn người gần như chạy lúp xúp mặc đồ trận xanh, nón cối, giầy vải, khiêng những khúc dài được bọc bằng giấy mầu ô-liu, không biế là sơn pháo hay pḥng không. Có tên gánh, có khi cả 2 tên khiêng một thùng gỗ hoặc thùng sắt. Tôi đứng như trời trồng v́ chỉ cách chúng không đầy 5 thước! Bờ suối th́ cũng cách tôi khoảng chừng 5 thước.
    Tôi nhích dần, nhích dần xuống suối. Nếu trời xui khiến chỉ cần có tên nào dừng lại là thấy tôi ngay. Tôi nh́n Thượng Sĩ Meadows và 2 tiền sát viên Lư A Dưỡng và Ẉng A Cầu đang nằm bẹp bên bờ suối, nước tới thắt lưng, mặt người nào cũng nghệt cả ra. Cuối cùng, tôi cũng thụt lui tới mép suối. Tôi vừa ngồi thụt xuống bờ suối th́ đoàn quân của địch cũng vừa vượt qua. Tôi nhích dần về phía Thượng Sĩ Meadows, đưa ngón tay ra dấu hiệu đúng là mục tiêu rồi. Tôi hỏi nhỏ: ”Mày đoán xem đoàn quân vừa đi qua độ chừng bao nhiêu?”. Nó đoán khoảng hơn 150 người. Tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu nói khoảng 300. Tôi đoán trên dưới cũng khoảng 200 thôi. Tôi ra dấu cho Thượng Sĩ Meadows trở về phía bên kia suối bảo Trung Sĩ Charles liên lạc với FAC báo cáo hiện t́nh. Để thằng Dưỡng ở lại với tôi, tôi bảo thằng Cầu cho toán nhích sâu vào trong thêm 15 thước trên một ngọn đồi nhỏ. Chờ khoảng không hơn 20 phút sau cũng không thấy toán quân địch nào di chuyển qua. Thượng Sĩ Meadows lội sang, tay cầm máy quay phim. Cùng lúc này, tôi nghe tiếng phản lực cơ gầm thét cùng với tiếng ầm ầm ở hướng Đông mà đoàn quân xâm nhập của địch vừa đi tới. Thượng Sĩ Meadows nói nhỏ vào tai tôi: ”Tôi đă liên lạc với thằng FAC, nó điều động các phản lực cơ đang có mặt ở trong vùng ưu tiên đánh cho bọn ḿnh. FAC cũng cho biết đă xin các phi xuất từ Đà Nẵng đang trên đường đi yểm trợ theo lời yêu cầu và hướng dẫn của toán.”. Nó c̣n cho biết thêm là đă cẩn thận trải panô bên kia bờ suối khoảng 10 thước và FAC đă thấy tọa độ của ḿnh rồi. Tôi cũng khoái. Như vậy là chắc ăn như bắp. FAC cũng khôn, nó chỉ bay ở xa xa chứ không ở trên đầu chúng tôi.
    Ở bờ suối bên này chỉ có tôi, Meadows và thằng Dưỡng. Thằng Meadows gần như nằm hẳn xuống suối, từ thắt lưng trở xuống ngâm hẳn dưới nước suối. Nó để máy quay phim ghếch ống kính lên chờ quay. Tôi đứng rùn người, hơi nghiêng bên cạnh thân cây gỗ mục chờ chụp h́nh. Khoảng 15 phút sau, ở khúc quanh hướng Tây xuất hiện một toán khoảng chừng 15 tên, vượt qua chỗ chúng tôi đang núp với những bước chân sải thật dài. Cũng quân phục xanh, nón cối, giầy vải và dép râu lẫn lộn, lưng mang balô có vắt nhánh cây. Tên nào cũng chống một cây gậy nhưng không thấy mang vũ khí hay khiêng vác vật ǵ cả, khác với toán vừa vượt qua. Toán này tất cả đều sồn sồn khoảng 40-50 tuổi.
    Mặc dù tiếng suối chẩy ŕ rào nhưng tiếng máy chụp h́nh của tôi cũng nghe rơ mồn một. Tôi quay sang Meadows, mặt nó đỏ ngừ, đang loay hoay với cái máy quay phim bị trở ngại sao đó. Nó nhích dần về phía tôi nói nhỏ: ”Tôi đem máy trở qua bên kia cho thằng Charles coi lại, không hiểu tại sao máy lại tự nhiên không ”run” ?”. Tôi ra dấu cho nó ngầm bảo được rồi và đưa máy chụp h́nh ra nói nhỏ: ”Đừng lo, c̣n có cái này.”. Khoảng 10 phút trôi qua, chúng tôi lại thấy một toán nữa xuất hiện. Quân phục cũng giống như toán vừa vượt qua lúc đầu. Cũng khá đông, gần 100 tên. Không biết thuộc đoàn vừa qua rớt lại phía sau, hay chúng chia ra từng nhóm nhỏ để tránh phi cơ quan sát thấy. Đặc biệt nhóm này không có tên dẫn đường. Toán này vượt qua được gần 20 phút rồi mà vẫn không thấy thằng Meadows quay trở qua. Tôi ra dấu cho thằng Dưỡng trở về bờ suối bên kia. Thằng Meadows đang nhăn nhó lắc đầu cho biết máy quay phim của nó không sử dụng được. Tôi nói: ”Tao chụp được nhiều h́nh lắm rồi”. Trong lúc đó phản lực cơ đang thả bom ầm ầm ở hướng Đông. Tiếng bom nổ như sát bên cạnh chúng tôi. Lúc này đă hơn 12 giờ trưa, mấy thằng nhỏ của tôi chắc cũng có ǵ bỏ bụng rồi. Tôi ra dấu cho thằng Meadows kiếm ǵ ăn đi. Nó lắc đầu và đưa bi-đông nước lên làm dấu. Tôi thấy thằng này đi hành quân ăn rất ít, thường thường chỉ một hộp trái cây nhỏ cho cả ngày.
    Tôi liếc một ṿng thấy mấy thằng nhỏ đang ẩn nấp thật kỹ sau những thân cây to. Tôi, thằng Meadows và Charles bắt đầu hướng dẫn cho FAC đánh chính xác hơn. Giờ phút này, ở con đường ṃn phía bên kia bờ suối lại thấy xuất hiện một toán quân khác. Đoàn này trang phục cũng quần áo trận xanh, lưng đeo ba-lô vắt lá ngụy trang. Đặc biệt tất cả đều mang vũ khí cá nhân, phần nhiều là AK-47, không thấy có súng lớn như đoàn đầu tiên. Chúng gần như dồn cục vào nhau, vừa đi vừa chạy. Nhờ tấm pa-nô trải làm dấu phía sau chúng tôi nên FAC thấy vị trí toán rất rơ. Do đó, lần này khu trục đánh bom con đường ṃn trước mặt chúng tôi không qúa 50 thước. Nghe tiếng khu trục gầm thét, bọn chúng ngừng lại và đứng tạt ra hai bên đường. Một tràng đại liên từ khu trục bắn cày dài theo mặt đường tới bờ suối bên kia. Bị khu trục bắn thẳng vào đoàn quân nên chúng chạy náo loạn và kêu la ầm ĩ. V́ rừng già nên bên dưới rất trống trải nên thấy có rất nhiều xác chết nằm rải rác trên đường. Một số tạt về phía bờ suối hướng toán chúng tôi đang đứng phục kích. Lần này, khu trục bắn nhiều tràng đại liên dọc theo bờ suối. Lại nhiều tên nằm bên bờ suối bị ngă gục.
    Về hướng Bắc cây cối thưa hơn nên chúng tôi quan sát thấy có thêm một toán địch mới xuất hiện. Chúng bị dồn cục lại và nằm phục 2 bên con đường. Thằng Meadows vội giành lấy ống liên hợp trong tay thằng Charles, hướng dẫn FAC đánh mục tiêu hướng Tây Bắc và hướng Bắc. Có lẽ chúng thấy khu trục chỉ bắn con đường ṃn và phía bờ suối nên đổ dồn về phía này.



    Hết khu trục A1-E rồi phản lực F4-C thay phiên nhau quần thảo phía Bắc con suối, cách chỗ chúng tôi khoảng 50-60 thước. Tiếng bom, tiếng đạn và tiếng la vang từng chập. Tiếng bom đạn vừa ngừng là bọn chúng lại chạy về hướng Đông của đường ṃn. Chưa bao giờ tôi thấy khu trục yểm trợ ngoạn mục như vậy. Nhiều tràng đại liên cài dọc theo con suối chỉ cách chúng tôi không qúa 50 thước. Tôi nghĩ chỉ cần một viên đạn ”bụi đời” bỏ đi bậy bạ là toán chúng tôi có người bỏ mạng rồi. Phi cơ đánh từ Đông sang Tây phía trước mặt chúng tôi. Hướng Bắc không nh́n thấy địch nhưng về hướng Tây trên một ngọn đồi thấp có nhiều tảng đá to, tôi thấy địch đang tập trung và ẩn nấp quanh mấy ḥn đá lớn lố nhố.
    Tôi ra dấu cho Thượs Sĩ Meadows lại gần chỉ cho nó thấy và nói: ”Mày gọi FAC và xin 2 phi xuất Napalm đi”. Nó nói OK và ḅ lần về phía thằng Charles. Trong lúc đó ở hướng Đông Bắc bỗng có đại liên pḥng không 37 ly nổ ”chụp chụp”. Từng cụm khói trắng bung lên mỗi lần phi cơ đảo xuống. Không biết FAC có điều động không nhưng tôi thấy có một khu trục tách ra, lao về hướng có pḥng không vừa bắn lên. Sau mấy loạt đạn và 2 tiếng bom nổ, súng pḥng không này im luôn. Không biết bị tiêu diệt hay tụi nó sợ không bắn nữa.
    Thượng Sĩ Meadows ḅ lại cho biết sẽ có trực thăng vơ trang bay lên yểm trợ. Tôi nói ”Good!”. Vừa nói xong th́ tiếng lạch bạch của 4 trực thăng vơ trang Cobra cũng vừa lao tới. Hai chiếc bay ṿng bên ngoài, hai chiếc kia lao vào phụt rocket và đại liên. Hỏa lực trực thăng cũng mạnh lắm nhưng tụi địch không ngán trực thăng, v́ chúng tôi nghe thấy nhiều tràng AK bắn lên phi cơ. FAC có lẽ được trực thăng báo cho biết có hỏa lực bên dưới bắn lên nên nó bay vào vùng mục tiêu và đảo trên đầu chúng tôi. Mấy tên sống sót từ trưa đến giờ nhờ núp bên mấy khe đá, thấy ngọn đồi bên phía chúng tôi đang đứng không bị oanh kích cho nên tôi nghe tiếng la: ”Tất cả tiến sang bên phải”. Hai, ba tên lụp xụp bám thành suối leo lên chạy về hướng ngọn đồi chúng tôi đang bố trí. Hai thằng chạy đầu vừa lên khỏi bờ suối bên này th́ ”rẹt rẹt”, thằng Dưỡng nhả 2 loạt súng giảm thanh. Hai tên này gục xuống. Thằng thứ ba vội tụt xuống, lui lại nấp vào ḥn đá to giữa suối. Thằng Dưỡng khạc thêm mấy loạt đạn nữa nhưng đạn chỉ chạm vào đá rồi rớt xuống suối nghe bụp bụp. Bỗng tên này la to ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Thằng Sáng lanh lẹ thẩy một trái mini sau lưng tên này. Tiếng nổ của lựu đạn mini hất tung nó lên, phơi nửa người nằm trên phiến đá.
    Sau tiếng lựu đạn, tôi nghe có nhiều tiếng la ở hướng Tây ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Tôi ra dấu cho cả toán chuẩn bị. Chúng tôi đă bị địch phát giác rồi. Có thêm mấy bóng theo các thân cây khum khum tiến về phía chúng tôi, bắn mấy loạt đạn AK ḍ dẫm. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn dẫn bán tổ rút trước về hướng Nam. Bán tổ c̣n lại cũng rút chầm chậm theo. Giờ này ở bờ suối bên này đă có khoảng mười mấy tên ḅ lên đồi rồi. Thằng Meadows từ sáng tới giờ chắc cũng ngứa tay nên chồm lên nhả nguyên một loạt đạn. Tiếng AK bắn ào ào xả vào chúng tôi lúc chúng tôi vừa yểm trợ cho nhau vừa rút.



    Bốn chiếc trực thăng đảo qua đảo lại, bắn đại liên ngăn chặn phía sau chúng tôi. Vỏ đại liên và sắt két đạn rơi lên đầu lên cổ chúng tôi nóng bỏng. Có lẽ tụi trực thăng thấy chóp mũ chúng tôi có dấu hiệu mầu cam nên tụi nó bắn thật chính xác, không sợ lầm vào quân bạn. Mặc dù trực thăng yểm trợ rất mạnh, thế mà tụi nó cũng đuổi theo chúng tôi hơn 500 thước. Lúc này cũng gần 6 giờ chiều. Bây giờ chúng tôi mới bắt đầu thấy đói và khát. Tôi ra dấu cho toán ngừng lại để bố trí ăn cơm. Từ sáng đến giờ, v́ qúa mệt và căng thẳng nên tôi chỉ nuốt trôi nửa lon Fruit-Cocktail.
    Trong công điện buổi trưa chúng tôi nhận được th́ Chiến Đoàn cho lệnh ngày mai chúng tôi phải t́m băi đáp triệt xuất gấp. Tôi đoán B-52 sẽ ”tapi” vùng này khi chúng tôi triệt xuất ra xong. Sau khi dùng cơm chiều, chúng tôi chờ trời tối hẳn mới di chuyển khỏi nơi này khoảng 200 thước t́m chỗ đóng quân. Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi nghe từng tràng tiếng nổ ầm ầm. Mỗi lần sau tiếng nổ là ánh sáng lóe lên, sáng như ban ngày. Thằng Meadows cho biết máy bay C-47 đang ”chụp h́nh” tụi nó bằng bom! Lần đầu tiên tôi mới nghe như thế. Cuộc chiến này có nhiều điều thật mới lạ. V́ sợ tụi VC theo dơi đột kích trong đêm nên tôi cứ chập chờn không dám ngủ.

    Ngày N+5
    Buổi sáng báo cáo với FAC xong, chúng tôi cho biết là băi đáp triệt xuất chưa có. FAC hướng dẫn chúng tôi về phía Tây Nam khoảng 300 thước thấy có một băi đáp nhỏ, có thể dùng để triệt xuất được. Trong lúc chuẩn bị di chuyển, tôi nh́n về phía Đông Nam khoảng 300 thước thấy h́nh như có một làn khói nhỏ lơ lửng bay lên. Tôi chỉ cho thằng Meadows, nó nói có lẽ là sương. Buổi sáng nắng lên làm tan phần sương trên ngọn cây nên nh́n thấy có ánh sáng mầu vàng lợt. Nhưng nếu nh́n từ mặt đất trở lên 2-3 thước th́ thấy sương mù c̣n lăng đăng. Quan sát một hồi, thằng Meadows nói có lẽ là khói. Tôi cũng c̣n chưa quyết định hẳn đây là sương hay khói. Nếu là khói th́ có lẽ v́ các đám cháy do bom đánh ngày hôm qua tạo ra. Nhưng sau khi quan sát kỹ, tôi thấy làn khói bay lên thẳng như tạo ra bởi một đống lửa nhỏ, giống như khói bếp vậy. Hướng này là hướng con đường ṃn chạy bọc theo suối, trải dài về hướng Đông mà các phi tuần phản lực đánh chặn địch ngày hôm qua. Thay v́ di chuyển về hướng Tây Nam theo phi cơ quan sát chỉ để t́m băi đáp, tôi cho toán di chuyển về hướng Đông Nam, tiện việc lấy nước ở suối và quan sát xem đó có phải là khói không?
    Chúng tôi thấy cạnh con suối có một căn cḥi nhỏ. Kích thước cḥi này cũng giống như những căn cḥi mà chúng tôi phát hiện có lúa mấy ngày trước. Cḥi không có lúa, chỉ c̣n lại toàn trấu. V́ được cất gần suối nên sàn nhà cao hơn một thước. Chúng tôi tản ra và chuẩn bị ăn sáng. Từ hôm đi đến nay mới nghe thằng Charles mở miệng: ”Nếu được phép ngủ, tôi sẽ nằm dưới cḥi này ngủ 3 ngày liền”. Trong toán, nó là thằng phải mang nặng nhất. Ngoài những trang bị như mọi người, nó c̣n cơng thêm một máy truyền tin PRC-25, một máy ngụy tần số gắn liền với PRC-25 cộng thêm một cục pin trừ bị. Nghe nó nói muốn ngủ, mắt tôi cũng muốn sụp xuống! Tôi tháo ba-lô ra, tṛng giây súng vào cổ, bước lên một thân cây to đổ vắt ngang qua suối để ra giữa suối khoát nước rửa mặt. Vừa ngồi xuống, chưa kịp đưa tay khoát nước, nh́n về phía trái khoảng 15-20 thước tôi chợt thấy có móc 3-4 chiếc vơng. Có chiếc c̣n căng poncho làm lều. Tôi đưa tay ra dấu có địch, nhưng ngoái lại chẳng thấy có đứa nào nh́n thấy thủ hiệu của tôi cả. Ai nấy đang chuẩn bị ăn sáng! Tôi vừa thụt lui nhưng mắt vẫn quan sát mấy cái vơng, tay vẫn đưa ra sau làm dấu có địch. Chân tôi vừa đặt suống đất th́ Thượng Sĩ Sơn cũng vừa ngó thấy thủ hiệu có địch của tôi. Nó chồm tới phát vào vai thằng Dưỡng và thằng Meadows ngồi gần đó, ra dấu có địch. Bây giờ th́ cả toán đă được báo động. Tôi cho toán biết là quan sát thấy có 3-4 cái lều vơng nhưng không thấy có người. Tôi cho lịnh rất nhanh: Tôi, thằng Dưỡng và thằng Meadows ḅ qua trước. Thượng Sĩ Sơn, thằng Cầu, thằng Sáng yểm trợ. Phần c̣n lại bố trí bên này.
    Buổi sáng nước lạnh như nước đá, cũng may nước chỉ cao hơn đầu gối một chút thôi. Chúng tôi ḅ lên khỏi bờ suối khoảng ba thước th́ thấy một tên từ vơng ngồi dậy. Thằng Dưỡng hốp tốp kêu: ”Đứng dậy – Dơ tay lên!”. Tên này đang lúng túng, có lẽ c̣n vướng một chân trên vơng nên chưa ḅ xuống được. Tôi và thằng Meadows vọt nhanh tới. Thằng Meadows nắm vai tên này lật té xuống đất. Hai tên khác vụt bỏ chạy. Hai tên này đang ngồi khuất dưới đất nên chúng tôi không thấy. Thật nhanh, thằng Dưỡng đưa nguyên một băng giảm thanh. Một thằng ngă, c̣n thằng kia chúng tôi thấy nó phóng xuống đất, nhưng khi chạy đến t́m th́ không thấy có máu và người đâu cả. Tên kia bị bắn trúng, lănh cả gần chục viên ở bụng. Tôi quay trở lại chỗ thằng Meadows th́ thấy nó đă c̣ng tay tên vừa bắt được bằng c̣ng nylon, miệng dán băng keo xanh.
    Bỗng tôi nghe tiếng Thượng Sĩ Sơn hô: ”Đứng lên! Đưa 2 tay lên khỏi đầu”. Th́ ra cách chúng tôi khoảng 5-6 thước có một tên khác đang đi cầu. Thấy lộn xộn nó ngồi im tại chỗ, nhưng không ngờ bị Thượng Sĩ Sơn phát giác. Tên này đứng lên, 2 tay đưa lên đầu nên không kéo quần lên được, để ”Bác Hồ” ḷng tḥng coi tức cười qúa. Thượng Sĩ Sơn bước đến, chĩa súng sau lưng nó nói: ”Cài quần lại!”. Tên này lúng túng kéo quần lên, miệng hỏi: ”Các đồng chí ở đơn vị nào?”. Thằng Cầu nạt: ”Im mồm mày!”. Nó được dẫn lại gần chỗ tôi và thằng Meadows đang đứng. Thấy thằng Meadows to lớn như con gấu, râu ria 5-6 ngày chưa cạo th́ nó biết ngay chúng tôi là ai rồi nên không hỏi nữa. Thằng Meadows kéo tay nó xuống, quặt ra sau lưng tṛng dây c̣ng vào. Nó dẫy dụa nói: ”Các anh phải đối xử tử tế với tù binh”. Thằng Cầu đá vào đít nó rồi nói: ”Con c… ông nè chứ tử tế. Tụi mày bắt được tụi tao có tử tế không?”. Thằng Meadows trong tay đă cầm sẵn miếng băng keo chụp dán miệng tên đó câm luôn.



    Tôi ra dấu rút. Trong lúc Thượng Sĩ Sơn và tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu hối hả tháo vơng và lều bỏ vào ba-lô tụi nó, nh́n thấy cây AK dựng ở góc cây, tôi chỉ thằng Sáng cho nó cầm luôn. Chúng tôi trở qua cḥi họp toán lại rồi bắt đầu rút. Thằng Meadows nói nhỏ với tôi: ”Sir, chờ tôi báo cáo với FAC biết ḿnh đă bắt được 2 tù binh rồi hăy di chuyển”. Trông gương mặt nó vui như được kẹo. Tôi lẩm bẩm trong bụng “Tiên sư anh. Có chiến lợi phẩm anh gọi tôi bằng Sir ngọt sớt.”. Tôi nói OK và tính rất nhanh trong đầu. Nếu di chuyển đến băi đáp do FAC chỉ lúc ban sáng th́ qúa xa. Vướng 2 tên tù binh không di chuyển nhanh được, lỡ chạm địch lại càng thêm rắc rối. Nếu mấy tên này thuộc toán tiền tiêu của đơn vị địch th́ tên chạy thoát vừa rồi về sẽ báo cáo, và lúc đó địch sẽ truy kích chúng tôi ngay.
    Thằng Meadows đưa ngón tay cái lên làm dấu là đă báo cáo cho FAC xong. Tôi cho nó biết ḿnh phải phá cây làm băi đáp cho trực thăng xuống. Nó không suy nghĩ nói OK ngay. Tôi quan sát thấy hướng Đông Nam có đám rừng thưa, toàn là cây chồi, không to lắm. Tôi cho lịnh toán tiến về hướng đó. Đi được khoảng 200 thước th́ thấy dưới triền đồi hơi thoai thoải, rừng thưa, cây to chỉ bằng bắp vế. Đảo mắt nhanh một ṿng, ước lượng chu vi rộng đủ cho một trực thăng đáp xuống được mà cánh quạt phải không chém vào cây, tôi quyết định chọn nơi này làm băi đáp. V́ là triền đồi nên nước chẩy xuống tạo thành một khe khá sâu như một con suối cạn. Tôi bảo đẩy 2 thằng tù binh xuống dưới đó. Định tọa độ xong, đưa cho thằng Charles gửi lên cho FAC. Một mặt, tôi cho lấy giây chuyền nổ quấn chung quanh các thân cây, định bụng sẽ cho nổ mấy cây này trước vài phút để lấy chỗ cho trực thăng đáp xuống. Nuôi quân 3 năm, xài trong 15 phút. Với tay nghề của thằng James và 2 toán viên của tôi, việc dọn băi trực thăng bằng chất nổ là 1 trong 15 bài dễ nhất của khóa “”Ḿn bẫy & Phá hoại”. FAC cho biết trực thăng đă cất cánh. Nh́n đồng hồ, tôi tính phải 40 phút nữa trực thăng mới tới.
    Đi một ṿng thấy mấy thằng nhỏ bố trí và cảnh giác cao nên tôi ngoắc thằng Meadows lại chỗ con mương, nơi Thượng Sĩ Sơn đang giữ 2 tù binh. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn lên, tôi và thằng Meadows nhẩy xuống. Tôi phải khai thác tụi này vài câu mới được. Nhỡ khi bị địch truy kích, chắc chắn là phải thanh toán 2 tên này. Biết được vài tin tức, ít ra cũng được một vài tin để báo cáo. Trong 2 tên th́ tên lớn tuổi bị bắt lúc đi cầu đang dăy dụa như muốn tháo dây c̣ng, miệng cứ ú ớ hoài. Thượng Sĩ Sơn nói: ”Nó đi cầu chưa chùi nên thúi hoắc à”. Meadows ngó tôi hỏi Sơn nói ǵ? Tôi nói “Nó bảo kỳ này về mày sẽ được lên lon”. Thằng Meadows cười, biết là tôi nói đùa với nó.
    Tôi gỡ băng keo khỏi miệng 2 tên tù binh rồi nói: ”Các anh hăy ngoan ngoăn, đừng có chống cự ǵ cả. Bắt buộc v́ an toàn, chúng tôi mới phải c̣ng các anh lại thôi”. Tôi nh́n tên lớn tuổi nói tiếp: ”Loại c̣ng này anh tuột không thoát được đâu. Càng dăy dụa, răng cưa càng xiết chặt. Bây giờ tôi muốn mở ra cũng không được, v́ răng cưa vào th́ xuôi, c̣n tháo ra th́ ngược. Đợi về đến nhà có kềm tôi sẽ cắt ra”. Tôi chỉ vào tên nhỏ tuổi nói: “Ngoan ngoăn như thế này có phải tốt không?”. Tôi hỏi bọn nó có muốn uống nước không? Chỉ có tên nhỏ gật đầu. Tôi lấy bi-đông cầm cho nó uống. Hỏi có muốn hút thuốc không? Tên nhỏ gật đầu. Tôi ra dấu xin Thương Sĩ Sơn điếu thuốc. Thượng Sĩ Sơn đưa cho tôi một nửa điếu thuốc Pall-Mall. Tôi mồi lửa rồi cầm cho tên tù binh nhỏ tuổi hút. Tôi hỏi nó: ”Thuốc lá của Đế Quốc Mỹ đó, có ngon không?”. Nó gật đầu.



    Tôi bắt đầu hỏi tên tuổi và đơn vị tên nhỏ trước. Nó cho biết tên là Nguyễn Tiến Hùng, 19 tuổi, quê ở Phú Thọ, thuộc đoàn Khánh Ḥa 13. Từ ngày khởi hành xâm nhập vào Nam, tính đến ngày hôm nay bị bắt đúng 2 tháng. Nó cũng cho biết ngày hôm qua, đoàn của nó bị phi cơ oanh kích, thiệt hại rất nặng. Nó vàmột nhóm chạy toán loạn nên đă thất lạc đơn vị. Nó cũng nói thêm là đoàn của chúng nó bị thiệt hại nặng v́ có Biệt Kích gián điệp chỉ điểm. Nó cho biết đoàn của nó là đơn vị vào Nam để bổ sung thôi. Lúc ra đi quân số là 300. Gần 100 tên rơi rớt lại tại các binh trạm, bị phù thủng, sốt rét, kiết lỵ và ”B quay”. B quay là đào ngũ, bỏ trốn về lại miền Bắc. Tôi mở ba-lô của nó ra xem th́ thấy ngoài tấm bạt nylon c̣n có vơng, một bộ đồ xanh ô-liu, một chăn mỏng mầu vàng, một mặt nạ pḥng hơi độc, hai thỏi lương khô, một chén nhôm xanh, tất cả đều có dấu sản xuất tại Trung Cộng. Đặc biệt trong ba-lô có một tờ giấy thuộc loại nylon, không thấm nước, không bị mục và không bị mối ăn. Đấy là một loại truyền đơn mà chúng tôi thường bắt gặp, rải rất nhiều trong rừng. Trong đó có một bài thơ lục-bát, nội dung nói đại ư là người con vào Nam ngồi nhớ mẹ nơi đất Bắc, không biết số phận của ḿnh và của mẹ già ra sao? Bài thơ được in chồng lên h́nh người lính Bắc Việt đang ngồi ôm súng gục đầu. Có lẽ truyền đơn này của một cơ quan tuyên truyền Hoa Kỳ, v́ bài thơ có nhiều chữ không bỏ dấu. Nếu thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị th́ chắc chắn không có khuyết điểm này.
    Tên lớn tuổi quê ở Thái B́nh, 24 tuổi, tên Lê Văn Thành. Tôi hỏi: ”Các anh nói thất lạc đơn vị sao không đi t́m mà c̣n đóng quân ở đây?”. Nó nói phải chờ xem có c̣n bị phi cơ oanh kích nữa không, rồi mới t́m đường trở về binh trạm hôm trước chờ giải quyết, v́ nếu không có giao liên th́ không biết đường tới binh trạm sắp đến. Tôi xếp sổ tay lại, thấy hỏi như vậy cũng đủ rồi. Tôi không có đủ thời giờ, vả lại nên dành cho Ban Thẩm Vấn Tù Binh v́ họ có kỹ thuật và kinh nghiệm nhiều hơn. Nh́n đồng hồ thấy c̣n gần 5 phút nữa trực thăng mới tới, tôi hỏi vớt tên Hùng thêm một câu: ”Ngoài Bắc anh có thấy cố vấn Nga không?”. Nó lắc đầu và cho biết: “Nghe nói các cố vấn người Nga chỉ ở các đội tên lửa mà thôi”. Tôi quay sang thằng Meadows nói tóm tắt cho nó biết. Thôi đủ rồi. Quăng ba-lô của 2 thằng tù binh lên trước, tôi và thằng Meadows leo lên sau rồi đưa tay kéo 2 đứa chúng nó ra khỏi rănh nước.



    Tiếng trực thăng H-34 nghe phành phạch từ xa. FAC đảo thật thấp trên đầu chúng tôi. Trực thăng vơ trang cũng vừa tới, tuôn đại liên và rocket chung quanh băi đáp. Thằng James và tụi thằng Cầu, thằng Sáng nhào ra tới các thân cây đă quấn giây chuyền nổ sẵn để giựt kíp nổ. “Ầm – Ầm – Ầm”. Năm sáu cây ào ào ngă xuống. Theo tiêu lệnh, 2 tù binh và bán tổ của toán lên trực thăng đầu tiên. Nhóm của tôi và thằng Meadows luôn luôn xuống trực thăng trước và lên trực thăng sau cùng. Thằng Nghĩa đáp xuống, tḥ đầu ra cửa sổ đưa tay vẫy tôi và đưa một ngón tay cái lên. Tôi cười và vẫy tay ra dấu đáp lại. Cây cối ngă ngổn ngang nhưng nó đáp xuống cũng đẹp lắm. Bánh xe trực thăng đặt gần chạm đất, do đó tụi tôi đỡ 2 tù binh bị trói tay bước lên bậc thang trực thăng cũng dễ. Trực thăng của thằng Nghĩa vừa kéo lên khỏi ngọn cây th́ chiếc kia của thằng Hiếu cũng đáp xuống liền trong tích tắc.
    Ngồi trên trực thăng bay về Dakto tôi nghĩ thầm: ”Khi giải tŕnh hành quân, tôi sẽ cho biết địch bị phi cơ oanh kích chết hai, ba trăm tên. Không biết mọi người có tin không?”. Ôi mà cần ǵ? Hai tên tù binh này sẽ trả lời thay tôi. Tôi liên tưởng tới Đoàn Khánh Ḥa 13 gần như bị tiêu diệt hết. Con số 13 đúng là xúi quẩy. Mặc dù tiếng cánh quạt trực thăng và tiếng gió thổi ào ào nhưng thằng Meadows ngồi ở cuối trực thăng cũng cố gào to:

    -o- Tối nay 7 giờ, tôi chờ Sir ở Câu Lạc Bộ nghe?

    -o- Tôi đáp: “OK”.

    Lê Minh

  3. #243
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu




    Chỉ Huy Trưởng các Đoàn Liên Lạc và Công Tác
    Chỉ Huy Trưởng Đoàn 1 Liên Lạc Thiếu Tá Tống Hồ Huấn
    Chỉ huy Trưởng Đoàn 2 Liên Lạc Thiếu Tá Lê Minh
    Chỉ Huy Trưởng Đoàn 3 Liên Lạc Thiếu Tá Đoàn Kim Tuấn
    Chỉ Huy Trưởng Đoàn Công Tác 11 Thiếu Tá Lê Hữu Minh
    Chỉ Huy Trưởng Đoàn Công Tác 68 Trung Tá Trương Như Tài
    Chỉ Huy Trưởng Đoàn Công Tác 71 Trung Tá Bùi Văn Thiện
    Chỉ Huy Trưởng Đoàn Công Tác 72 Thiếu Tá Nguyễn Phan Tựu
    Chỉ Huy Trưởng Đoàn Công Tác 75 Trung Tá Nguyễn Thanh Văn

    Trang Bi toán Sở Công Tác và Sở Liên Lạc / Nha Kỹ Thuật / BTTM /QLVNCH
    Trang Bị Toán Công Tác

    (có thễ thay đổi tùy nhiệm vụ trong lệnh hành quân)
    1- CAR15 hoạc AK47 hậu vệ CAR15 ống phóng và cấp số M79)
    1- Balô loại vải không khung
    5- Bidong nước cho 5 ngày hành quân (công tác 10 ngày sẽ lấy nước vào ngày thứ sáu)
    1- Cấp số đạn 250 vien ( 10 băng cong )
    1- Dây mini
    5-Lựu đạn M67
    1- Ḿn Claymore, dây điện và kíp nổ
    1- Flair và 5 viên chiếu sáng
    1- Panel 2 mặt đỏ và cam
    1- Địa Bàn
    1- Máy chụp h́nh Penn 72 tấm h́nh 36 Pô.
    1- Máy cấp cứu URC-10 tầng số báo động
    1- Đồng hồ và địa bàn đeo tay
    2- Khăn tam giác quấn đầu và đeo cổ chống vắt.
    1- Lưong khô 3 ngày trong áo mưu sinh
    1- Cuốn bang keo đen (chống gây tiếng động)
    1- Túi cấp cứu (morphin) thuốc cầm máu, đau bụng, băng cá nhân.
    1- Pile dựự trữ cho máy truyền tin PRC-25
    1- Gạo sấy và lương khô cho 10 ngày hành quân
    3- Ngày phụ trội lương thực (thời tiết xấu)
    1- 3 gói Basto xanh
    1- Kem đánh răng, bàn chải, kim băng, kim chỉ.
    1- Dao Găm
    1- Day bắt tù binh
    1- Bộ Khoen chử D
    1- Bàn đồ hành quân
    1- Đèn pile .
    1- Đèn strobe light
    1- Viết và giấy
    1- Bao instant Cafe muoi , tieu va duong
    1- Ống nḥm.
    1- Chai thuốc muổi ( trị muổi và vắt)
    1- Cặp bao tay
    1- Bộ đồ chống lạnh
    1- Diêm quẹt
    1- 2 đôi vớ, giấy vệ sinh.
    1- Tấm vải dù choàng cổ, và vơng cá nhân.
    1- Poncho
    1- Kiếng chiếu












    Trang Bi Toan Xam Nhap Mien Bac
    - 1 Áo vest mang vào người để đựng các đồ trang bị cho cá nhân
    - 1 súng tiểu liên Thụy Điển hoặc tiểu liên Sten của Anh hoặc Uzi của Do Thái hoặc tiểu liên Đức có ṇng giảm thanh và ba băng đạn.
    - 1 súng lục 9 ly của Thụy Điển
    - 1 bi đông nước
    - 1 túi cứu thương cá nhân
    - 1 bộ đồ...
    - 1 dao găm
    - 1 mũ nồi
    - 1 bộ đồ bà ba đen hoặc nâu
    - 1 đôi giày nhảy
    - 1 dao bỏ túi
    - 1 pen place
    - 1 kính chiếu để liên lạc với phi cơ hay trực thăng
    - 1 đèn pin để di chuyển trong đêm
    - 1 máy radio National
    - 1 bao thuốc lá Aka và diêm quẹt
    - 1 lược chải đầu
    - 1 bàn chải đánh răng và thuốc đánh răng
    - 1 bản đồ
    - 1 địa bàn
    - 1 cuốn sổ và bút ch́
    - 1 gamen
    - 1 đồng hồ đeo tay hiệu Rado hoặc Seiko
    - 1 chai thuốc trừ muỗi hay vắt
    - 1 toile de tent
    - 1 mền ngủ
    - 1 túi xắc mang trên vai
    - 1 panneau để liên lạc với phi cơ
    - và 3 ngày lương thực dự trữ cho mỗi cá nhân
    Riêng Trưởng Toán c̣n được cấp phát một 6.35 và hai nhân viên truyền tin c̣n phải mang theo máy truyền tin RC 1 khá nặng nhảy dù theo người. Đó là trang bị cá nhân.
    Trang bị cho toán, nằm trong các kiện hàng thường có:
    - 3 tháng lương thực dự trữ cho các Toán
    - Máy truyền tin RC 1 (dự trữ)
    - 3 tháng đạn dự trữ
    - Áo quần, mền dự trữ
    - Thùng đồ phá hoại
    - Bộ đồ hớt tóc
    - Thùng thuốc chữa trị các bệnh thông thường
    Last edited by alamit; 12-10-2012 at 09:39 AM.

  4. #244
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu


    Đoàn 1 Liên Lạc / Chiến Đoàn1 Xung Kích
    Đời Nhảy Toán / Lôi Hổ


    Các Toán Thuộc Chiến Đoàn 1 Xung Kích - Đoàn 1 Liên Lạc
    KBC 3998 :
    Tên các toán Thám Sát VN thành lập cuối năm 1969
    1- Hải Điểu (Nguyễn Văn Mỹ California)
    2- Hải Long (Khánh Đoàn San Jose CA, Bach Nguyen Stockton CA.)
    3- Hải Sơn
    4- Hải Yến (Nguyễn Bác Ái Portland Oregon, Nguyễn Ḥa Hiệp Buon Mê Thuộc VN)
    5- Hải Vân

    Năm 1971 thành lập thêm :
    6- Hải Mă
    7- Hải Ngư (Thanh Đen- Nam CA)
    8- Hải Phong
    9- Hải Sư (Na Nguyễn)
    10- Hải Thủy





    1
    Tiểu đoàn Phi-Hổ Nùng . Lúc này chỉ c̣n một đại đội. Người Mỹ đă sa thải một số Biệt-kích-quân không đủ khả năng. Riêng tôi sau chuyến hành quân tập kích vừa qua. Được chấp nhận trong cuộc thi tiếng Anh. Với chức vụ thông ngôn và theo lời tôi yêu cầu...
    Cuối năm 1969, tôi thuyên chuyển sang Đại-đội-thám -sát (Recon
    Company) và nhận thông ngôn Toán Indiana. Toán này đang chờ bổ sung bởi chuyến xâm nhập vừa qua, toán chỉ c̣n trở về người toán phó Mỹ và hai Biệt-kích-quân.
    Thời điểm này, đầu năm 1970. Chương tŕnh Biệt-kích của Nha-kỹ-thuật không c̣n ở mức quan sát viên như trước. Chuyển qua giai đoạn hành động. Những sĩ quan, hạ sĩ quan đến trại mỗi ngày một đông. Hai toán chờ bổ sung. Indiana và Idaho được chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật với tên mới Thăng-Long và Bắc-b́nh.
    Toán chúng tôi, Indiana bổ sung quân số xong, đươc nhận tên mới
    Thăng-long. Toán trưởng Thiếu úy Bửu-Chính, toán phó Trung sĩ Lê Nam. Toán được đưa về Trung-tâm-huấn-luyện Long-thành ở thành phố Biên-ḥa thụ huấn.
    Trở lại trại CCN-Đà-nẵng, cái nắng hầm hập của ngày hè thật khó chịu. Gio biển không đủ để đẩy lùi cái nắng nóng. Cầm tờ phép năm ngày công thêm hai ngàn đồng tạm ứng trên ban lương.Toán tha hồ vung vít ngoài phố. Riêng tôi và Thiếu úy Bửu Chính có chương tŕnh riêng. Ngày đầu về Phước-tường thăm nhà tôi, rồi sáng hôm sau trực chỉ Huế. Xe đến Nam-ô, nh́n ngọn núi cao vợi án ngữ mà khâm phục ông cha ta với công mở cơi. Xe đợi giờ để lên qua đèo. Gio biển hắt thêm cái nóng từ cát trắng và những cụm phi lao thấp tè chẳng che được mát trộn lẫn mùi tanh nồng của biển theo gió hắt lên đi qua cái làng chài bên tay mặt. Chiếc xe gầm gừ leo dốc chậm chạp, mặt đường nhỏ hẹp bên vách đá thẳng đứng và vực thẳm bên này. Dưới chân nước biển xanh ngắt. Ngồi nghỉ trên trạm dừng chân đỉnh đèo, không khí trong lành, cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Bằng cảm nhận giây phút chợt đến, ḷng tôi như thoát tục lâng lâng bay bổng, nhẹ tênh cùng cảnh vật. Tiếng ơi ới gọi nhau lên xe làm tôi bừng tỉnh ngất ngây. Bửu Chính sau lưng nắm tay tôi "Làm chi mà đừ người ra rứa, bộ lạ lắm sao..."Trấn tỉnh, tôi cười nói với hắn "Cảnh đẹp quá, tớ đang nghĩ tới Hoàng-thân Tôn-thất-Mỹ, tới được đỉnh đèo ngài tức cảnh sinh t́nh, cùng phu nhân thoát tục, h́ hụp. Kết quả thượng mă phong, để lại tiếng khóc của phu nhân..."Nghe động đến gia tộc của hắn, nhăn mặt miệng chửi thề kéo tôi vào xe xuống đèo nhưng xe cũng chậm như lúc lên.
    2



    Ngồi trong xe lắm lúc giật ḿnh, tưởng tượng chỉ cần một sơ sẩy hoặc xe hư là có thể lao thẳng xuống núi tắm biển. Phía tay mặt xuất hiện bên dưới phong cảnh tuyệt vời. Một cái lơm biển chạy ṿng dài theo núi, mây lăng đăng dấn trôi, cát trắng mịn leo lên như muốn lấn đá núi, xa xa thấp thoáng vài con tầu cá điểm lồng vào mầu xanh biển cả. Ba ngày vui chơi ở Huế, Bửu Chính đáng mặt thổ địa...Ngạc nhiên đầu khi về tới nhà hắn. Mọi người đều gọi hắn là mụ, mụ Chính. Hàng cây cảnh tuyệt đẹp ngoài sân chạy theo dăy hàng hiên vắng lặng treo những lồng chim. Dưới tàn xanh xum xuê cây Ngọc-lan tỏa mùi thơm ngào ngạt. Cảnh tĩnh lặng như muốn dấu đi hay hắt bỏ mọi cuộc sống náo nhiệt. Ngồi trên sập gụ. Hai mẹ con đối đáp hỏi nhau bằng giọng điệu hết sức nhẹ nhàng, tiết kiêm lời nói và người đàn ông đứng tuổi sau lưng, khi đặt ba tách trà rồi lui đứng đó im ĺm. Bà mẹ Bửu Chính quay sang hỏi
    chuyện tôi. Trong sự e dè tôi chậm răi trả lời. Vài cái bánh trong cái dĩa to được đưa lên và những người trong nhà nghe chuyện chạy lại thăm cũng chỉ nói ít, phần đông ṿng tay cúi đầu chào, khép nép. Cả buổi chiều dành cho gia đ́nh tôi chứng kiến nhiều phong tục cũng như lễ nghi, phép tắc khác thường. Tỏ ra người lớn Bửu Chính nét mặt luôn trang nghiêm, cử chỉ khiêm tốn. Có những ông bà đă già gặp hắn vẫn phải cúi đầu, gập ḿnh chào hỏi. Bữa cơm tối gia đ́nh, lần đầu tiên tôi mới thưởng thức được cái mùi trong chất gạo ngọt nồng hương lúa, dai, dẻo của gạo đặc sản xứ Huế, gạo De An-cựu. Ăn với chim sẻ quay ḍn. Trên chiếc Honda dame xanh. Bửu Chính chở tôi thăm thú kinh thành, lăng tẩm, hồ vọng...Có khi xa tít ngoại thành qua những đồng lúa, ao sen, e ấp quanh hàng cây cao chạy dài xa tận đồi dốc thoải, ngắm mà mê
    cả mắt. Bầy chim trắng bay theo đội h́nh chữ V xa xa một con vẻ già yếu, đang cố theo sau.
    Buồi chiều sông Hương vắng lặng, trên bờ thưa thớt, người ta đợi nắng khuất. Đúng như vậy, mọi sinh hoạt đều đổ dồn ra, chả mấy chốc mà náo nhiệt, những đôi gánh đặc trưng bán đồ ăn quà, đến cái thúng đội trên đầu bán hột vịt lộn, mà cô hàng chỉ rao có một tiếng, nghe lầm tưởng đến cái danh vật muôn thủa mà phát ớn, mặt đỏ bừng...Dưới ḍng sông đ̣ cũng tấp nập chẳng kém, inh ỏi trao đổi thuê mướn, ngă giá. Tay chỉ bên kia sông nơi sản xuất thứ gạo de nổi tiếng. Trên đồi chùa Thiên-mụ cô đơn lặng lẽ.

    3



    Hai đứa bước xuống con đ̣ thuê, khá lớn so với đ̣ xung quanh. Ra giữa gịng, đ̣ xuôi về hướng hạ lưu. Không gian êm đềm, sông nước tạo cảnhhữu t́nh. Trăng đă lên, sao sáng lung linh. Chiếc ghe con cập vào conđ̣ đang neo, mang lỉnh kỉnh những thức ăn cùng hai kiều nữ sông Hương, bạn học của Bửu Chính lúc hắn chưa đi lính. Qua màn giới thiệu, với ánh mắt linh hoạt, nhưng cử chỉ e thẹn nhẹ nhàng...Người đàn ông chủ đ̣ sáp xếp đồ ăn cùng rượu và hai tiểu thư bắt đầu vào cuộc vui đờn hát. Ly rượu đầu trang trọng giao hảo với tiếng cười không ngớt. Bầu không khí nhịp nhàng chuyển động. Bửu Chính tỏ ra thích thú hết cỡ với
    những bài hát ḥ đặc giọng, đôi lúc nhẩy nhổm lên với tiếng mơ đúng điệu nhịp, tay vỗ vẻ suưt soa...Chưa quen với bàn tiệc kiểu này, tôi chỉ biết làm theo và bắt chước. Ngừng tiếng đàn hát hai ả chia nhau tôi và Bửu Chính...Nói cười ngọt lịm chẳng thua tiếng hát...Có lẽ c̣n dễ nghe và khoan khoái hơn...Rót vào tai êm ả, mê ly...Cùng rượu nồng thi nhau biến hết. Chả mấy chốc,đêm vắng lặng, bóng trăng đă ngả xuyên qua lỗ vách liếp đ̣...Cả bốn người có vẻ khật khừ, những câu hát chợt nổi, ngắn không bài bản, tuôn ra tùy hứng...Tự nhiên bàn tay sôi nổi đi t́m cảm giác rồi những tiếng cười ré lên "Nhột, mần chi mà nhẽo rứa" Cứ thế, trong đỉnh của sự cợt nhă...Lúc ngối lúc lăn. Ông chủ đ̣ đă mang ra chai rượu thứ hai. Dĩa gà luộc to lớn và chén muối tiêu chanh ngổn ngang như chiến trường tàn cuộc. Cái phao câu gà cứ bị đẩy qua lại tênh hênh một ḿnh như thách thức. Vai đă gh́ vai và miệng mặt cũng gần nhau phà hơi thớ nóng chẩy...Thoạt tiên ngần ngại, dần dà
    bạo dạn hẳn lên. Ngọn đèn chao đi theo con gió đêm lạnh và đỉnh điểm cuộc vui bày ra trong những cái lắc lư, sóng vỗ mạn đ̣...Đờn một bên, mơ một nẻo, quấn lấy nhau trong tiếng kêu trầm thống, thịt gọi thịt, da gọi da, nhịp tim gọi nhịp tim hào hển, háo hức, nồng nă. Ngọn đèn gió đă tắt đi từ bao giờ, ngoài kia ánh trăng soi rơ làn sương mù như đang e ấp với gịng sông. Đ̣ đêm nay, lần đầu tiên khám phá mê cung, tôi mất đi cái đáng nhớ cuộc đời... Nhưng dù sao nét lăng mạng, hoành tráng của cuộc chơi đă xóa ngay trong trí những băn khoăn, thẫn thờ...Lăn tùm xuống sông trong nước lạnh giá, tôi khoan khoái tháo bỏ những vết sước trên thân thể. Bơi hai ṿng quanh đ̣, thầm nghĩ đă sạch sẽ. Vào trong khoang nằm vật xuống ngủ lăn như chết.



    4
    Năm ngày nghỉ phép, tràn đầy những cuộc vui, tâm hồn thoải mái. Toán cũng đă dần tề tựu. Sáng nay thiếu úy Chính được gọi lên pḥng hành quân (TOC) Nhận mục tiêu và dự thuyết tŕnh sơ khởi. Chiều đến lên kho lănh đồ trang bị hành quân. Sau cơm chiều, chiếc xe jeep đưa toán nhập khu cấm (Isolation). Nghĩa là từ giờ phút này cho đến lúc kết thúc hành quân. Toán không được giao tiếp với bên ngoài. Cuộc thuyết tŕnh hành quân chính thức bắt đầu vào lúc tám giờ tối. Thiếu úy Bửu Chính và Trung sĩ Lê Nam dự thuyết tŕnh. Bốn đứa tôi coi TV và tán gẫu chờ đợi. Khoảng hai tiếng sau Chính và Nam trở về thông báo hành quân và phân nhiệm vụ cho mỗi người...Toán chúng tôi sẵn sàng hành quân với thành phần: Hai cán bộ thuộc Nha-kỹ-thuật và bốn Biệt-kích-quân
    (Special Commando Unit) SCU. Toán Thăng-long cùng tám chiếc Kingbee H34 vừa mới đến băi trực thăng trại lên đường bay ra Quảng-trị. Nơi đặt Căn-cứ-xuất-phát nắm trong khu vực Sư-đoàn 101 nhẩy dù Mỹ...Khoảng mười giờ sáng, một Trung sĩ người Mỹ đến thông báo toán trưởng chuẩn bị đi xem băi đáp xâm nhập.
    Thiếu úy Bửu Chính cử tôi đi thay thế. Ngồi trên xe ra phi trường.
    Chiếc OV10 đậu sẵn chờ đợi...Lần đàu tiên tận mắt tay sờ...Ḷng thán phục nền kỹ thuật tuyệt vời, nét thiết kế mỹ thuật, kiến trúc vững chăi và mọi vật hoàn hảo đến từng chi tiết...Người Đại úy phi công dẫn tôi leo lên buồng lái phía sau, tay chỉ vào cái khoen mầu vàng chữ D ngang,chốt an toàn mầu đỏ bên dưới. Hệ thống cáp cứu này nằm dưới giữa chân ghế của phi công và giảng giải...Mệnh lệnh tôi sẽ truyền cho bạn, hăy nh́n vào gương chiếu hậu trước mặt tôi. Trường hợp khẩn cấp, tiếng báo động reo vang và xin để ư khi nào tôi hô "Emergency...go" bạn hăy rút cái chốt an toàn dưới khoen vàng đồng thời nắm khoen chữ D kéo mạnh lên trên. Đó là ghế thoát hiểm. Rời phi trường chiếc Covey lên cao bỏ lại sau lưng biển xanh. Núi cao trước mặt và dăy đồi xanh ngắt bất chợt dâng lên dăy núi đá loang lổ. Ngọn núi lẻ loi dẫn vào ḷng chảo Khe sanh. Không hổ danh là loại trinh sát cơ hiện đại. Từ ghế ngồi, phi công có thể quan sát mọi hướng, kể cả dưới bụng phi cơ. Chính sự thon nhỏ đă lấy hẳn sự che khuất tầm nh́n, đáng nói hơn bao phủ trên đầu hoàn toàn bằng kiếng trong...Đặc biệt không có cửa hông, người phi công phải leo qua thành máy bay đề vào ghế ngồi. Tiếng gọi trong mũ bay,nh́n lên kiếng chiếu hậu phía trước, gương mặt Đại úy phi công nh́n tôi tay chỉ và giọng nói trong mũ bay "Sửa soạn vào mục tiêu thả toán Lôi-hổ" Tôi cười ra dấu hiệu tốt, ḷng thích thú v́ ở vào vị trí đi Covey thả toán...Nhớ lại buổi chiều khi toán tôi vào khu cấm, cũng là lúc toán của Đại úy Minh, sau này là Chỉ huy trưởng Đoàn 2...Cùng toán phó Trung sĩ Ban (Phạm văn Ban) và bốn Biệt kích quân lên xe ra phi trường. Chiếc Covey
    đang ṿng trên khu vực băi đáp. Sáu chiếc trực thăng lộ rơ dần. Tiếng người phi công gọi tôi "Chú ư chuẩn bị, tôi xuống để chĩ điểm băi đáp" Toàn bộ trực thăng đă ở trên mục tiêu. Covey đang liên lạc với trực thăng và lao nhanh xuống. Tôi nghe thấy tiếng chú ư và tiếng hô Bingo của phi công và trên những chiếc trực thăng nh́n xuống. Covey là điểm c̣n tiếng Bingo là băi đáp. Covey lao vút lên và đảo ṿng. Dưới kia chiếc Gunship đang bắn dọn băi. Nhanh và chuẩn cuộc thả toán xâm nhập chỉ trong ṿng mười phút



    5
    Covey và trực thăng đang ṿng ṿng, chờ báo cáo của toán, tín hiệu tốt đẹp. Sự yên tĩnh dần được trả lại cho bầu trời. Covey đưa tôi đi xem băi đáp. Bầu trời xanh ngắt, ánh nắng vào trưa chói chang. Dưới kia hiện ra dăy đồi núi đá loang lổ và cây cao thưa thớt. Đó là sườn của ngọn núi đá cao, vách thẳng đứng một bên, phía dưới một mầu xanh ŕ chạy dài tít mù...Nh́n lên phi công theo tiếng gọi "Hải, băi đáp là hố bom" theo tay chỉ. Toàn bộ băi đáp tôi nhận ra ngay...Lác đác xung quanh là những cây cao cạnh cái hố bom rộng."Đại úy, bay lại một lần nữa để xem địa thế". Quan sát với địa thế như vậy, toán phài thật nhanh chóng ẩn ḿnh. Tôi chọn đám bụi rậm chạy dài theo hướng nam để ẩn nấp trước khi lấy lại phương hướng xâm nhập mục tiêu. Trên đường về, cảm giác nhẹ nhơm, tự măn được trên chiếc Covey. Một dịp hiếm có và hănh diện v́ rất ít mục tiêu phải cần đến bay không thám. Tường tŕnh với toán về băi đáp, chúng tôi thống nhất cách hành động... Thiếu úy Bửu Chính lúc này mới thổ lộ "Tau không chịu nổi những
    cú xuống nhanh và lên gấp của máy bay". Qúa trưa ngày hôm sau Thiếu úy Chính và Trung sĩ Nam lên dự thuyết tŕnh không quân. Sau thuyết tŕnh (Briefing) toán chúng tôi có một tiếng đống hồ chuẩn bị. Mọi người phải thắt đai dây ś líp qua hai háng, móc sắt sẵn sàng trước bụng. Đôi găng tay được phát đề chống cái nóng cọ sát giữa tay nắm và giây tụt. Bốn chiếc UH1 Huey và hai Huey
    Gunship trên sân, phi hành đoàn lục tục lên máy bay. Thiếu úy Bửu
    Chính và tôi (Nguyễn văn Hải) lên chiếc đầu. Cón lại Trung sĩ Nam (Lê Nam) cùng Sơn (Lê văn Sơn) Mẫn (Đặng văn Mẫn) Phùng (Trần Phùng)...Sơn, Mẫn, Phùng và tôi đều là Biêt-kích-quân...Theo thuyết tŕnh Chính và tôi trên một trực thăng đổ bộ trước, tiếp đến chiếc thứ hai sẽ đổ bốn người c̣n lại. Dây tụt dài ở mức ba mươi mét. Một Thượng sĩ Mỹ kiểm soát xem móc sắt trước bụng đă được gài vào dây tụt hay chưa...Mọi việc hoàn tất bằng cái dấu hiệu number one của Thiếu-tá Trưởng căn cứ. Đoàn trực thăng cất cánh. Ánh nắng chiều xuyên ngang rọi trực tiếp mầu vàng khè chói lọi vào cứa trực thăng, quang cảnh bên dưới một mầu xanh thẫm chứa dấu bí hiểm.
    Quay sang phía cửa bên kia ra dấu hỏi Chính tốt chưa? Ông toán trưởng mới toanh của toán tôi mà cả buổi chiều qua Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) Đại đội trưởng Đại đội Thám-sát đặc biệt lưu tâm và truyền thêm nghề "Nhảy Toán"...Đoàn trực thăng và cả Covey đang trên mục tiêu, tôi nhận ra rơ khoảng núi đá thẳng đứng mà bên kia mới là băi xâm nhập. Chiếc Gunship lao xuống, loạt rocket phóng xuống băi đáp đồng thời cây đại bác 20ly bên hông khạc ra những loạt lửa dài. Ngưới Thượng sĩ Mỹ ra hiệu. Trưc thăng từ từ đứng trên hố bom. Tay trên tay dưới trong sợi dây tụt, chân chạm càng máy bay, búng người lao xuống mắt hướng về
    phía dưới. Tay mặt nhấp siết hai lần dây tụt để giảm bớt lực xuống và rồi theo mắt nh́n dưới đất, gh́ sợi dây một lần nữa, chân vừa chạm đất. Đưa tay tháo cái móc sắt khỏi dây tụt. Bên kia Chính cũng vừa xong. Trực thăng kế tiếp và bốn người c̣n lại xuống đất an toàn...Đúng như dự đoán cách băi đáp không xa, khu rừng chồi quả là nơi che chắn lư tưởng. Thật nhanh chúng tôi biến vào khu rừng và yên tâm với địa thế hiện tại, nghe ngóng động tĩnh. Tôi báo cáo với Covey toán an toàn và đang di chuyển...Muỗi nhiều, tiếng vo ve săn đuổi. Toán phải dừng lại thoa thuốc muỗi. Tôi nói với Sơn đi đầu quan sát t́m chỗ ngủ.

  5. #245
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu

    Đoàn 1 Liên Lạc / Chiến Đoàn1 Xung Kích
    Đời Nhảy Toán / Lôi Hổ
    P2



    6
    Trung sĩ Nam và Phùng vừa gài xong hai trái ḿn Claymore pḥng thủ. Trời tối đen như mực, bên một ḥn đá lớn, dựa lưng vào ba lô, nghe tiếng nhạc rừng trời đêm. Cảm giác lẻ loi một ḿnh chân bỗng run lên lành lạnh. Dù rằng quanh đây đồng đội luôn phát ra những tiếng cựa quậy, đổi thế nằm. Thiếu úy Chính đang ho vào vặt áo bịt lên miệng, kèm theo hắt hơi đứt quăng, khô trong họng. Hắn đang dị ứng với núi rừng đêm lạnh.
    Một vệt ánh sáng mờ vừa chiếu qua, nhỏm người dậy nh́n lên chợt hiểu. Trên đồi bên kia, địch đang truyền tin cho nhau bằng ánh đèn pin. Tiếng ầm ́, ầm ́ như mỏng manh trong gió vọng lại có lẽ c̣n nhỏ hơn nhiều so với cái cựa ḿnh của đồng đội. Ánh đèn pin trên kia vẫn lúc mở lúc tắt theo cái khóa truyền tin. Bầu trời muôn ngàn sao, bất chợt một sao xẹt tạo một vệt ánh sáng đâm xuống hướng nam. Tiếng xe chạy mỗi lúc một rơ dần. Vẻ nặng nề chở nặng hay xe đang lên dốc. Ngọn đèn pha loang loáng có lúc bị che khuất bởi vật cản hay lùm cây bên đường. Ánh đèn pha lúc này rọi thẳng về hướng chúng tôi chỉ cách nhau khoảng một trăm mét...Chúng tôi đang ngủ cạnh con đường. Tiếng động cơ tạo sự rung động lan truyền theo đất và cả không khí âm vang dậy núi rừng. Thấp thoáng bóng người đi bộ theo hai bên xe. Nhờ ánh đèn pha, nh́n kỹ
    có người đeo súng quần áo bộ đội xen lẫn đám người ăn mặc thường tay cuốc tay sẻng. Ngang tầm chỗ toán đang ẩn núp. Bốn chiếc xe và đoàn người đột nhiên dừng lại. Đă có lệnh truyền trong cái lao xao tiếng người nhưng chẳng rơ họ đang nói ǵ ?...Lại gần Thiếu úy Chính, tôi bàn định...Phải di chuyển ngay trong đêm, cứ thẳng hướng mục tiêu. Để trành xa cái con đường nguy hiểm này. Nam và Phùng đă tháo xong hai trái ḿn . Toán lên đường ṃ mẫn trong đêm tối. Ánh sáng lân tinh từ chiếc la bàn của Sơn thi thoảng chợt lên rồi lại tắt...Tiếng gà gáy từ bên dưới núi vang lên, vọng lại xa hơn tiếng thú rừng vẻ buồn t́nh hay cả hứng t́nh hú gọi, gầm gừ hoặc vui thú reo vang. Di chuyển trong đêm tối thật vất vả, nhưng nhờ vào địa thế trống trải không phải mở đường, cái khó và mệt trong lúc này chính là độ dốc. Núi mỗi lúc một cao làm tŕ nặng đôi chân. Một tiếng hú lớn ngân vang, phía trên xa có tiếng
    đáp lại, đồng ca với đàn gà gáy dồn dập dưới dốc núi ngụ ư như đón chào ngày mới... Mệt th́ nghỉ rồi lại leo... Nhắc Thiếu úy Chính căn hướng đi cho đúng, thầm nghĩ sao mục tiêu cứ ở măi trên cao...Làn gió lạnh buốt hắt cuộn vào như ôm chặt chúng tôi, kèm theo mây mù giăng giăng trong cái sáng mờ mờ, đầu tiên của một ngày. Ngồi nghỉ lại bên tảng đá lớn quanh gốc cây. Toán chuẩn bị lương thực cho một ngày. Đun nước sôi trong cái ca nhôm, đổ nước vào hai bịch gạo sấy pha cà phê và tận hưởng điếu Capstan...Thèm muốn chết...Bửu Chính đang lo soạn bức điện và định hướng trên bản đồ vị trí con đường đêm qua. Ăn sáng xong
    toán bắt đầu di chuyển. Cây rừng không rậm cũng chẳng thưa tạo được tầm nh́n tốt nhưng cũng rất dễ để lộ tung tích...Đành vậy c̣n hơn khu rừng thưa đêm qua. tiếng ̣ ̣ của Covey bao vùng, chiếc O2 (FAC) c̣n nếu OV10 th́ ấm hơn ́ ́. Toán dừng lại , tôi bảo Mẫn bật điện đàm...Covey đang gọi tôi trả lời và chuyển ngay bức điện...Tiếp tục di chuyển theo triền dốc thoai thoải, khu rừng này có cái sướng là không có lấy mợt con vắt...Tiếng người ho làm chúng tôi theo tự nhiên ngồi thụp xuống, nh́n vào chỗ phát ra tiếng ho, chả thấy ǵ?. Lại ho nữa, lần này sặc sụa...



    7
    Rồi tiếng nói như c̣n ngái ngủ, chậm răi "Ho măi vậy để tớ ngủ, đắp cái khăn vào cổ đi" Chúng tôi đồng nh́n nhau, tôi tự hỏi chẳng lẽ là ma, mà ma sao nói được... Chợt hiểu tôi lấy tay chỉ chỉ xuống đất và những cái gật đầu đồng t́nh. Phất tay ra hiệu lẩn trốn, di chuyển trong thế khum khum...Một bóng người chui ra từ đất phía bên kia triền dốc vừa ngáp vừa sững sờ nh́n chúng tôi. Người gần nhất là Trung sĩ Nam. Cây Car 15 cùa hắn nổ khoảng nửa băng, phát một. Bóng người đổ ra sau. Toán lập tức ra sức nhắm chạy theo nhau mau mau thoát càng xa càng tốt...Một địa thế có vẻ thuận lợi cho tác chiến. Tôi gọi mọi người dừng lại, đổi ba lô cho Mẫn rồi bật máy liên lạc với Covey...Ngay tức khắc có tiếng trả lời, tôi báo đụng địch và xin trợ giúp khẩn cấp...Covey trả lời đến ngay. Chúng tôi tiếp tục di chuyển, càng đi dốc càng cao, cây ít nhưng đá th́ nhiều. Lúc này Covey đă trên đầu và gọi...
    - Zulu Romeo đây Oscar November, cho xin số nhà đi.
    Cái ánh nắng buổi sáng bởi những tảng sương mù che khuất nên tôi đành nói với thiếu úy Chính cho một người cầm panel ra khoảng trống mé ngoài phía thung lũng chờ máy bay...Nhớ mật hiệu mầu cam.
    - Oscar november, tôi đang ở hướng tám giờ, anh ṿng sang phải qua thung lũng, ngay trên núi.
    -Oscar november đây Zulu Romeo, cứ tiến tới hướng 11 giờ...12 giờ. Panel mầu cam đang chờ trước mặt.
    -Ok thấy rồi bạn nên cố lên phía trên, có những tảng đá cao, ít cây
    rất dễ cho không trợ, sẽ có ngay đồ chơi, đang xin cho bạn triệt xuất. - Cám ơn Oscar november, thoát.
    Chúng tôi đi thêm 100 mét, quả đúng những tảng đá mọc chen cùng cây thấp. Băi lư tưởng để câu dây trệt xuất. Lập ngay vị trí pḥng thủ. Bời chắc chắn địch sẽ theo chân chúng tôi. Trungsĩ Nam vừa gài xong trái Claymore và hai trái ḿn M14... Toán chờ đợi. Trái ḿn M14 nổ tung và rồi những tràng đạn tới tấp, sối sả của địch bắn vào. Cây M79 của Phùng nổ ác liệt tạo nên bụi khói che chắn tầm nh́n. Với vị trí lúc này ở vào địa thế cao chơi từ từ lựu đạn là tốt nhất...Một tiếng nổ lớn và rồi loang theo những lửa và sức nóng. Trái B40 của địch nổ tung trên tảng đá lớn. Loạt hơi nóng bao trùm đánh bạt cái lạnh ban sáng. Chúng tôi ở vào vị thế vượt trội và sau màn lựu đạn và M79. Địch có vẻ chững lại, cùng lúc chiến trường yên ắng nặng nề. Liên lạc báo cáo nhanh với Covey. Tôi nhắc Trung sĩ Nam "Coi chừng trái Claymore, tụi nó sắp tấn công". Một tiếng xẹt, vèo ngay trên đầu, cây 79 của Phùng vừa phát hiện tên xạ thủ B40 của địch. Ôm trọn trái 79, rồi tiếng nổ và tên địch gập xuống như ai đó gấp tờ giấy...Không nghe tiếng nổ trái B40 của địch...Có lẽ đang xuống thung lũng. Vẫn cái bấm ḿn trước mặt, Trung sĩ Nam đang loay hoay móc thêm lựu đạn. Tiếng
    hô xung phong vang dội, đám địch xuất hiện vừa ḅ vừa bắn dữ dội lên trên. Những cây Car 15 giờ đây mới nổ ḍn...Xác người xấp ngửa thấy rơ làn đạn cày sới cùng những co giật thân ḿnh. Lợi thế trên cao quả là tuyệt vời. Qua đi những khói bụi đám đông lố nhố dăng hàng lum khum, tay súng nổ ḍn nhào lên. Trái ḿn Claymore nổ tung khói lửa bụi mù. Bên này địch vẫn tiếng hô, thét áp đảo. Thiếu úy Chính đứng hẳn lên hô : Chạy lên phía trên mau. Rồi không đợi ai hắn tiến lên trước. Đúng với chiến thuật ḿn nổ là lúc mở đường máu...Chạy một đỗi, chiếc Covey đang trên đầu...Xa xa hai chiếc Khu trục A1 Skyraider...Tôi đề nghị với Chính. Lập ngay pḥng thủ gài luôn trái ḿn của Phùng đang gọi Covey xin không kích. Tôi thấy Phùng từ nơi gài ḿn hớt hăi chạy lên, bỗng quay lại nổ một trái 79.



    8
    Tôi hét vào trong máy.
    - Oscar november, tôi đang bị bao vây, địch tấn công . Oanh kích ngay vào trái khói vàng... Tháo trái khói đeo nơi ngực, tôi liệng thẳng xuống hướng địch. Ngay lập tức tấm panel vàng cũng được căng lên giữa toán... Loạt đạn 20 ly phầm phập nổ liên tục. Chiếc A1 như ngừng lại, nh́n thấy cả tia lửa nơi ṇng súng...Chiếc thứ hai cũng đang từ từ chúc đầu nổ ḍn đạn 20 ly. địa thế quá gần để không thể thả bom chùm... Bên trên chiếc Covey bỗng lao vụt xuống phóng một trái khói. Chiếc A1 đầu tiên lúc này tách ra tấn công vào vị trí Covey mới phát hiện. Tiếng bom nồ đinh tai
    không dứt kèm theo bên trận tiếng hô xung phong lanh lảnh...Bỗng chốc địch tràn ngập. Súng nổ ầm vang. Cạnh tôi Phùng thét nghe rợn người, cây M79 văng khỏi tay hắn, lồng ngực thấm đẫm máu...Nằm lăn người qua một bên, tôi quăng vài trái lựu đạn và vội tiếp vào súng băng đạn mới...Cả hai bên cùng nấp vào những phiến đá chơi tṛ cút bắt. Bên kia Thiếu úy Chính ra dấu Sơn chết rồi. Hai chiếc A1 vẫn tấn công vào mục tiêu. Khẩu pḥng không bị Covey phát hiện giờ đây im tiếng. Trong máy Covey đang gọi.
    - Zulu Romeo, bạn chuẩn bị triệt xuất di chuyển nhanh lên phía trên 100 mét. A1 sẽ can thiệp phía sau, bỏ lại hai người chết.
    Thông báo cho Thiếu úy Chính. Ṃ tay vào túi bi đông đựng lựu đạn tôi lấy hết số lựu đạn của Phùng, rồi nắm lấy cái bấm ḿn chờ lệnh...Những trái bon napalm tạo một vệt lửa chạy dài, cách chúng tôi chỉ vào khoảng 50 mét...A1 đă quen với vị trí mục tiêu...Nhờ vào địa thế và khẩu B40 của địch đă bị diệt, thêm vào sự tham chiến của hai Khu trục cơ. Toán chúng tôi mới giằng co được cho tới lúc này...Sáu trực thăng đă có mặt trong vùng, tạo nên sự sinh đông phấn khởi. Hai chiếc Huey Gunship thế chỗ cho Khu trục cơ.Trên kia Covey dục Toán cố di chuyển...Bằng một hiệu lệnh gật đầu đồng ư. Trái Claymore nổ tung, khói và bụi đất che chắn sau lưng. Toán vội vă chạy lên đỉnh cao hơn. Đành bỏ lại Sơn và Phùng. Hai Gunship thay nhau yểm trợ...Đến được một phiến đá bằng rộng, đường kính khoảng 10 mét. Đưa tấm panel lên làm ám
    hiệu, Mẫn đang ngửa cổ nh́n trực thăng...Súng địch tới tấp từ hông của toán...À, tụi này đi ṿng mong chiếm đỉnh cao, nhưng sợ máy bay phát hiện...Giật ḿnh nh́n lại ,Mẫn chân vẫn c̣n qú nhưng người gập xấp trên phiến đá. máu tuôn ra lai láng...Tôi gọi Covey báo cáo, nhưng sao máy câm nín...Hiểu rồi lúc ngă xuống v́ bị tấn công, nhớ lại một cái ǵ như ai đánh vào vai rất mạnh, nh́n qua sau vai, cời bỏ cái ba lô để kiểm soát...Đạn cày nát nắp ba lô tạo một đường rách dài lộ ra phần trên máy truyền tin nát bét...Rút vội cái máy P90 mở làn sóng cấp cứu...Có ngay tiếng hỏi "làn sóng cấp cứu nào lên với tần số"
    - Đây Zulu Romeo, máy truyến tin của tôi bị bắn nát. Xin chuyển làn sóng cấp cứu...Thêm một toán viên chết.
    - Ok Zulu Romeo nhận rơ, trực thăng sẽ câu bạn lên khi nào t́nh h́nh cho phép, chuẩn bị sẵn sàng, móc và đưa người chết về.
    - Oscar November, roger that.
    Sự can thiệp chính xác vào địch bên hông vị trí toán. Viên phi công
    trực thăng đă thấy rơ địch quân bên dưới...Đă ngớt tiếng súng, thi
    thoảng thẩy vài trái lựu đạn pḥng ngừa, chúng tôi gh́m súng chờ đợi. Chiếc Gunship vừa vút lên cũng là lúc Covey gọi tôi.
    - Zulu Romeo, chuẩn bị trực thăng đang xuống băi.

    9
    Đưa tấm panel mầu cam về phía trực thăng đang từ từ tiến đến. Ba người đă chuẩn bị cho câu dây. Hai chiếc móc dây đai dù qua háng đă được gài. Trung sĩ Nam gài móc dây cho xác Mẫn đang nằm dài trên phiến đá. Ở bên này theo gió mùi máu tanh ḥa lẫn khói thuốc súng tạo cảm giác nôn nao lợm giọng. Chiếc Gunship vụt qua. Khẩu đai liên tự động sáu ṇng văi như mưa đạn xuống bên sườn đồi. Trực thăng đứng trên đầu đang thả xuống bốn sợi dây câu, bỗng chao đi đầu chúc thẳng xuống thung lũng. Tiếng súng lại vang lên pha lẫn tiếng rocket nổ ầm ầm của chiếc Gunship theo sau...Bất giác nh́n xuống thung lũng một đám lửa khói bốc
    cao, thầm nghĩ những người chiến sĩ đang đi lên với Thượng-đế...Có tiếng Covey.
    - Zulu Romeo, bỏ lại người chết bạn có mười phút để ra khỏi nơi tồi tệ đó. sẽ dùng hỏa lực...Thoát mau đi.
    Đứng vội lên tôi nói với Nam và Chính chạy đi mau lên...Băng nhanh vào hàng đá núi, chúng tôi chạy dần lên cao, mặc cho địa thế hiểm trở, nhưng nơi đây nơi lư tưởng cho tác chiến. Phân thành ba góc, Trung sĩ Nam trải ngay tấm panel. Tôi gọi Covey.
    - Oscar november địa điểm mới, anh thấy thế nào?.
    -Zulu Romeo tốt chuẩn bị triệt xuất.
    Một chiếc UH1 Huey đang gần lại chúng tôi. Hỏa lực trên Gunship đạn cày sới tung tóe nhiều nhánh cây chồi gẫy gập. trực thăng đang ở trên đầu, sức gió từ cánh quạt vẹt hẳn hàng cây...Chiếc Gunship thứ hai bắn ra những trái rocket có tiếng nổ phụ...Loại rocket phóng ra những đinh kim để chống biển người, cốt che chắn cho trực thăng. Người Mỹ phụ trách thả, rước toán đang buông dây câu...Rơ như ban ngày, người xạ thủ trực thăng rời tay súng, người gập thẳng vào giá súng, tay soăi lỏng, ngay chỗ tôi đứng chờ dây câu những giọt máu tong tong chảy xuống in đậm vào hàng đá tảng dưới chân. Lập tức trực thăng rú lên cất thẳng lên cao rồi vụt biến. Điên cuồng Gunship lúc này xuống thấp hơn. loạt đại liên và đạn 40 ly tự động tựa mưa rào trút xuống. Cùng lúc tiếng súng của địch bên dưới ầm vang...Vội thẩy mấy trái lựu đạn.
    Tiếng Covey gọi tôi.
    - Zulu Romeo, bạn hăy cố cầm cự, Gunship sẽ ở cùng bạn, mọi thứ sẽ trở lại ngay...Cố lên.
    -Oscar november, nhận rơ xin bạn cố gắng. hỏa lực của tôi đang hết dần. Hai trực thăng vẫn trút xuống thép và lửa nhưng thời gian tác xạ lâu dài hơn không tới tấp như trước...Nó đang câu giờ.
    Chiếc Covey O2 sơn mầu rằn ri lao nhanh xuống phía đồi và đang thắng vút lên. Một trái khói trắng bốc cao.Chiếc F100 cũng sơn mầu ràn ri, không biết đến từ lúc nào lao nhanh xuống từ bụng phi cơ ba trái bom được nhả ra ngay trái khói chỉ điểm. Ba tiếng nổ dậy đất ầm vang cột khói bốc cao đen kịt. Tôi c̣n thấy rơ đường đạn đỏ theo máy bay...Những tiếng nổ tiếp theo sau liên tục. Một cột khói đen như cái nấm khổng lồ, bên trong nh́n rơ ngọn lửa sắc lẻm tung hoành. Chiếc F100 đă đánh trúng mục tiêu, bằng ngay mấy trái bom đầu.

    10
    Thật ngoạn mục khi chứng kiến cảnh những ḥn than lửa bắn nối đuôi nhau vào chiếc F100 đang lao xuống bung ra một lúc ba trái bom mà không thèm bốc lên cao, đang bay gần như sát cụm rừng. Tiếng nổ ầm vang như sấm. Một biển lửa bao phủ mục tiêu. Phi cơ dần vút lên cao, giờ chỉ c̣n chấm nhỏ rồi mất hẳn trên bầu trời. .. Trận không kích thành công.
    Nơi chúng tôi chận chiến bỗng ngưng hẳn...Một cuộc chơi mới
    chăng?...Đă có tiếng trực thăng từ hướng đông vọng lại. Những đốm đen từ bầu trời to dần. Sáu chiếc trực thăng đang bay tới.
    - Zulu Romeo, bạn thấy chiếc OV10 chưa? hắn sẽ thay tôi giúp bạn. Tôi ch́ c̣n đủ xăng để bay về, tạm biệt.
    Ngay sau đó tiếng Covey gọi.
    - Zulu Romeo, tôi thấy quả cam của bạn rồi. Chờ dọn băi, hăy chuẩn bị trực thăng sẽ đến từ thung lũng, ghé vào bốc bạn ra. Không sử dụng dây câu.
    - Oscar november. Roger that.
    Chiếc Cobra bổ xuống trút những viên đại liên, rồi tiếng nổ của đạn 40 ly(M79). Tiếng súng của địch bên dưới vẫn từng chặp sối sả cặp kè theo chiếc Cobra...Bốn chiếc Kingbee H34, thuộc phi đoàn 219. Không quân Việt Nam Cộng Ḥa. Phi đoàn được mệnh danh "Thần Phong" bởi thành tích anh hùng, rất liều mạng trong chuyến thả và rước toán Biệt-kích...Huyền thoại về những phi công được danh xưng Cowboy hay Mustachio được loan truyền và măi là những hiệp sĩ hào hùng bất diệt. Mặc cho tầng đạn từ Cobra. Bên dưới địch quân vẫn bắn lên như mưa mỗi khi trực thăng xuống tác xạ. Người phi công Cobra như hiều được t́nh h́nh và đă quen mục tiêu...Bây giờ họ đổi chiến thuật. Xạ kích từ trên cao rồi quay ngoắt về hướng thung lũng...Tiếng súng chát chúa rồi thấy rơ những vết đạn xoáy tung những ḥn đá nhỏ rớt trên đầu và cổ. Nh́n ra hai tên địch vừa ḅ lên nằm im bất động. Lựu đạn lại được tận dụng...Cũng may loại lựu đạn đặc chế cho Biệt kích là loại nhỏ, nhẹ nên mỗi người chúng tôi có thề mang theo hành quân khoảng ba mươi trái...
    - Zulu Romeo, bạn có hai phút chuẩn bị, trực thăng đang đáp.
    Chiếc Kingbee bay theo sườn núi phía thung lũng sát những cây chồi rừng. Người xạ thủ đang văi đạn trên đường hạ xuống. Chỉ c̣n vài mét nữa, cố chịu sức gió từ cánh quạt, chúng tôi khom lưng lao thẳng về phía cửa trực thăng. Chỉ c̣n cách trong gang tấc. Bỗng trực thăng nhổm lên, phía sau đuôi kêu ầm ầm...Vội nằm lăn xuống đá...Trực thăng giống như con diều mất gió ngửa bụng lao về hướng thung lũng xoay tṛn như con cù...Rớt dần...dần cho đến khi ánh lửa và khói bốc cao...Chứng kiến sự việc, tự dưng ứa nước mắt. Nằm đây mà hồn tôi nao nao. Một nỗi buồn khôn tả ập vào tâm trí. Trong thân thể sức lực gần như chẳng c̣n...Đành nằm buông xuôi ăn vạ vậy...Đạn và rocket từ Cobra vẫn bốc lên những tầng khói, gió hắt lên bao trùm chiến trường mùi thuốc nổ khét lẹt ḥa lẫn cây rừng tỏa hương ngai ngái, nồng nă. Ba chiếc Kingbee c̣n lại đang quần đảo bên trên chiếc Covey...Họ đang bàn tính ǵ chăng?. Hai chiếc Cobra vẫn thay nhau kềm mục tiêu. Một Kingbee đang tách đoàn ba chiếc... Từ hướng thung lũng, hạ độ cao ngang tầm sườn núi bay thằng vào chúng tôi. Trực thăng rú lên rồi từ từ hạ xuống ngay sát chỗ toán. Gập người đề tránh sức gió, chỉ c̣n khoảng một hai mét. nhồm người lên lao nhanh vào bụng máy bay...Qua khung cửa trực thăng đụn mây trắng vun vút đi ngang nhanh đến chóng mặt. Một áp lực nào đó như đè chúng tôi xuống sàn. Bằng vào cái hất ngược, trực thăng quẹo gấp sang trái, thấy cả trời mây và cảm giác tŕ nặng, thổn thức...Trực thăng đang thẳng xuống thung lũng rồi dần dần bốc lên cao...Một màn bốc toán ngoạn mục, đầy tính oai hùng, sáng tạo và một nét đẹp, tuyệt đẹp trong hành động...Tôi thở phào soài người trên sàn, tứ chi gần như không cảm giác...Trong bụng tiếng sôi eo éo và cơn đói tràn dâng... Miệng ứa nước miếng.


  6. #246
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Anh Hùng và Phản Bội trong QLVNCH

    Thursday, January 27, 2011
    Đoàn văn Xường
    Kiều công Cự




    Chân Dung Tác Giả


    Sinh năm 1942 tại Quảng Nam. Gia nhập Khóa 22 (1965-1967), Trường Vơ bị Quốc gia Việt Nam. Chọn Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến khi ra Trường và ở Tiểu đoàn 2, và Tiểu Đoàn 9 từ 22/12/67 đến 30/4/75. Đi tù VC từ 24/6/75 đến 1/4/85. Cùng Gia đ́nh định cư tại Mỹ theo Chương tŕnh HO 22 (22/11/1993). Đă qua tuổi về hưu nhưng vẫn c̣n đi làm. Rất mong ước có đủ sức khỏe, và đam mê để tiếp tục viết, và dịch những sách Quân sử VNCH.
    * * *
    Trong Tập san BĐQ số 29, phát hành tháng 5/2010, ở trang 64, có bài thơ “Em, Anh và Cuộc chiến” của Tịnh Nhiên, đă làm tôi xúc động. Bởi v́ Đoàn văn Xường là người bạn cùng Khóa cuả tôi mà người con gái này đă quen, đă biết và nhớ rất rơ về cấp bực, chức vụ, đơn vị, và KBC của bạn tôi:

    ...Gặp được Em, cô bé mới lên mười
    Đôi mắt thơ ngây má phúng duyên cười
    Trong nhung lụa, em như công chúa nhỏ
    Nào ai biết cuộc đời sẽ thay đổi
    Rồi một hôm, cao nguyên kéo cờ rũ
    Cha cô bé đă nằm xuống cho Cao nguyên
    Thương cô bé vành khăn tang khi tuổi vẫn c̣n thơ...
    Gia đ́nh tang thương, đất nước cũng bi thảm:
    ...Ngày cuối tháng tư
    Lệnh ban ra, bỏ súng, đầu hàng
    Nước mắt tuôn rơi tim như đă nghẹn lời..
    Và như thế anh lên đường cải tạo.
    Để rồi cuối cùng:
    “Em bặt tin Anh măi đến giờ
    Rời quê hương qua được xứ Tự Do
    Vẫn luôn ngóng tin Anh từ đó
    Nhiều nguồn tin nghe nói Anh đă
    Thân xác gởi nơi núi rừng Nghệ Tĩnh
    Cô bé ngày xưa vẫn,
    Luôn nhớ măi về Anh...

    Đó cũng là niềm cảm xúc để tôi được viết những ḍng này như “những thông báo” một đôi điều mà tôi biết về Bạn tôi, Đoàn văn Xường.
    Xường sinh ngày 12/5/1945 tại Long Đức, Trà Vinh trong gia đ́nh gồm có 2 anh trai và một chị gái. Xường là con Út trong nên được các Anh chị cưng chiều và thương yêu. Ba mẹ đă mất sau cái chết đau thương của Xường trong ngục tù CS. Một người anh của Xường hiện c̣n sống tại Long Đức, Trà Vinh. Người chị gái rất thân thiết với Xường đang định cư tại Thụy Điển. Hồi nhỏ theo học Trường Trung học bán công Trần Trung Tiên, thị xă Trà Vinh. Sau khi đậu Tú tài 2, lên Sài g̣n theo học Đại học Khoa học Sài g̣n. Năm 73, khi đơn vị ở gần Sài g̣n c̣n ghi danh Trường Luật. Là một học sinh xuất sắc, một người lúc nào cũng vui vẻ lạc quan và tánh hay giúp đỡ mọi người
    Đến 30/4/1975, vẫn c̣n độc thân mặc dầu gia đ́nh thúc giục, Xường chỉ nói: “Thân lính tráng sống nay chết mai, sợ làm khổ vợ con...” Tánh t́nh khá kín đáo, nhưng h́nh như có một lần Xường có nói về một người con gái mà Xường đă quen khi cô bé... c̣n là công chúa nhỏ... và thương cô bé vành khăn tang khi tuổi c̣n thơ... Cô gái đó vẫn c̣n giữ liên lạc khi Xường đă vào tù từ những lá thư viết về từ HT 7590, L16, K1.., một thư nữa, rồi sau đó bặt luôn.
    Trên đường ra Bắc:
    Tôi không nhớ chính xác cái ngày chúng tôi bị đưa xuống tàu chuyển ra bắc, chỉ nhớ vào khoảng tháng 5/77, ba tháng sau tết Đinh Tỵ (2/77), cái ngày vợ tôi đưa hai con lên thăm gặp tại trại Tân Hiệp, Biên Ḥa (tức là Trại giam tù binh phiến cộng cũ). Địa điểm tập trung th́ rất quen thuộc, từ trại đoàn xe chạy về hướng Biên Ḥa, thẳng ra xa lộ rồi đổ về hướng nam, đến cầu Sài g̣n quẹo trái đi vào bến Tân cảng (New Port), một địa điểm bốc dỡ tiếp liệu, đạn dược của quân đội Mỹ trước khi được chuyển về căn cứ Long B́nh. Phương tiện chuyên chở là những chiếc tàu chở gạo hay chở hàng mà chúng chiếm được ở bên kho 5 Khánh Hội. Ḷng tàu dài khoảng 25m, rộng 10m và cao 5m. Thời gian xuống tàu vào sau nửa đêm. Chúng dùng một cái thang để đưa người xuống bên dưới. Đến người cuối cùng th́ chúng kéo thang lên. Chỉ có một cái lổ thông hơi duy nhất ở ngay phía trên được đậy lại bằng một cái lưới mắt cáo. Tôi không biết bao nhiêu người bị nhét vào đây nhưng dứt khoát là không thể nằm hoặc ngồi thoải mái được. Không khí ngột ngạt, khó thở. Cũng may vào ban đêm khí trời c̣n lành lạnh.
    Rồi cái bửng mắt cáo lại được mở lên, cái thang được tḥng xuống để chúng nhét thêm hai người. Hai người này hành lư nhẹ tơn. Chỉ có cái ba lô lép xẹp mang phía sau lưng. Thế nhưng anh chàng đi đầu vừa đi vừa nhún nhảy làm cho vài người la lên sợ cái thang gỗ sẽ gảy đến nơi. Nhưng anh chàng lại nở một nụ cười “bất cần”. Chính cái nụ cười này làm tôi thấy ngờ ngợ, h́nh như ḿnh có gặp anh chàng này ở đâu rồi. Rồi tôi buột miệng kêu lên: “Ê Xường, Đoàn văn Xường!” Anh chàng hướng về nơi có người vừa gọi tên ḿnh. Dĩ nhiên không nhận ra trong cái ánh sáng lờ mờ này. Tôi đứng thẳng người dậy, gọi tiếp: “Kiều công Cự nè, lại đây!” Tôi đang ở trong cái xó trong cùng của khoang tàu, nơi để thùng cho tù đi tiểu và đại tiện. Có lẽ nhờ thế mà c̣n trống vài chỗ. Nhiều người bạn đang đứng dạt ra cho Xường và người bạn đồng hành đi tới chỗ của tôi. Tôi hơi ngạc nhiên chuyến này ra bắc mà hai anh chàng không mang theo cái ǵ hết trơn. Xường nói ngay:
    - Hôm chuyển lên Long Giao được vài ngày th́ tao với thằng Thắng, Bùi quang Thắng -Đại úy BĐQ, dọt liền. Ra khỏi trại ngon ơ. Định dọt lẹ ra đường đón xe lam về Sài g̣n không ngờ gặp mấy thằng du kích... Tụi nó dữ quá, chúng nó trói lại và đem trả lại cho trại. Mấy thằng bộ đội đập cho một trận tưỡng tiêu rồi... Tao bị chúng đem nhốt vào trong conex cho đến bây giờ. Ra ngoài bắc coi bộ yên yên là tao dông. Nhất định không ở với tụi này. Chết th́ bỏ. Cứ coi như ḿnh đă... “anh dũng đền nợ nước” rồi...
    Cả hai người bị nhốt, bị đánh đập hằng ngày, bị c̣ng tay xích chân hơn một năm, bằng cái thời gian mà chúng tôi từ trại Long Giao về Tân Hiệp, thân thể chỉ c̣n da bọc xương, nhưng tinh thần vẫn c̣n cứng cơi, nụ cười vẫn chưa tắt. Xường hỏi tôi:
    - Mày có ǵ cho hai đứa tau ăn đi! Đói quá...
    - Dĩ nhiên là có rồi. Nh́n hai người bạn ngồi ăn mà ứa nước mắt. Có bao giờ con người bị đẩy vào t́nh trạng đói khổ cùng cực như thế này đâu. Đúng là thời đại của “ ma vương quỉ dữ” mà. Hồi ở trong Trường những ngày đi học chung ỡ băi tập, sân bắn có biết nhau nhưng không thân lắm v́ Xường ở Đại đội F (Tiểu đoàn 2), c̣n tôi ở Đại đội D (Tiểu đoàn 1).
    Tháng 12/1967 ra Trường, Xường là một trong 10 người được ưu tiên chọn về Lực lượng đặc biệt cùng với Trương văn Út, Đặng thiện Chẩn, Huỳnh văn Tiểng, Huỳnh trung Chân, Quách cơ B́nh, Đặng văn Lợi, Trần văn Ni, Nguyễn phúc Sinh, Nguyễn xă Tắc, trong đó có một nửa (5 thằng) đă chết... c̣n tôi th́ về TQLC, một binh chủng “sống hùng, sống mạnh nhưng sống không lâu..” Thế nhưng hai đứa vẫn sống nhăn... răng để đến ngày 30/4 để cùng nhau “t́nh nguyện” vào tù CS ở cái tuổi 30 sung sức nhất “tam thập nhi lập”... Thật là dzô diêng (vô duyên), nói theo cái giọng điệu của người miền Nam.
    Đoàn tàu bắt đầu rời bến vào khoảng 3, 4 giờ sáng. Chúng tôi ngồi tṛ chuyện cho đến sáng. Những tia sáng đầu tiên chiếu xuống mờ nhạt, nghiêng nghiêng theo hướng tây bắc -đông nam. Chắc tàu c̣n đang chạy trên sông Ḷng Tảo, Sài g̣n. Không ai có ảo tưởng là con tàu sẽ xuôi về hướng nam khi ra biển nhưng cũng có tiếng nói đùa:
    - Chúng đem ḿnh ra nhốt ở chuồng cọp Côn đảo đây...
    Rồi chúng mở cái bửng. Ánh nắng ban mai ùa vào chan ḥa cùng với làn khí lạnh buổi sáng. Chúng tḥng dây đưa thùng nước lạnh, và ḿ gói xuống để anh em chia nhau. Nhưng cái thùng phân, và nước tiểu ở góc pḥng chúng không chịu kéo lên mặc dù đă gần đầy. Chúng tôi yêu cầu nhiều lần nhưng chúng lờ đi. (Ít nhất đó cũng là một sự trả thù trong cái đầu óc bé nhỏ của bọn chúng). Nắng càng lên cao càng nóng hầm hập. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Đă có người ngất xỉu. Đến ngày thứ hai đă có người chết. Chúng tôi yêu cầu đưa lên nhưng chúng bảo chờ lịnh.
    H́nh như chẳng ai biết một cách rơ ràng lư lịch của người chết, hay cũng chẳng ai muốn nhắc lại về người bạn xấu số. Như thế này cũng yên rồi. Anh ấy sẽ được nằm lại ở miền Nam, hay thủy táng tại một vùng biển mà anh đă chiến đấu với một tấm ḷng không hận thù, và sắt máu như những người CS. Chúng tôi ngồi bó gối. Chỉ có cái xác chết là được nằm thoải mái, được anh em quấn gọn trong những bộ quần áo mang theo. Trong Kinh thánh có nói, địa ngục là nơi có nghiến răng, và khóc lóc. C̣n ở đây th́ có khốn nạn, và căm hận khôn cùng. Tôi cố nhủ ḷng ḿnh hăy b́nh yên, và lắng xuống... nhưng quả thật điều này không phải dễ dàng. Cũng chẳng dám ăn uống. Chỉ sợ khi thức ăn vào th́ cái cái ruột già tống ra. Lại phải làm cái công việc hôi hám dễ bị chúng chửi nhất. Chỉ có Xường và Thắng cứ ăn uống tỉnh bơ, lại c̣n nói:
    - Tụi tao bị nhốt trong conex rồi dưới hầm, ỉa đái tại chỗ. Hửi cứt cả năm quen rồi. Mọi việc cứ... tùy cơ ứng biến. Phải biết sáng tạo cách mạng chứ. Hôm nó kêu ra c̣ng tay dẫn đi, tao tưởng nó đem đi bắn. Không ngờ nó đưa lên xe bít bùng rồi chở lên đây... Ít nhất trong cái địa ngục này cũng c̣n ngọ nguậy được. Chứ c̣n ở dưới cái hầm a tỳ đó th́ ngồi cũng không được, nằm cũng không được, thậm chí muốn đập đầu tự tử cũng không được...
    Bùi quang Thắng, anh chàng có nước da bờn bợt như con thằn lằn, cũng thêm vào:
    - Chúng nó xài cái cùm, cái gông như c̣n sót lại từ thời trung cổ...
    - Thế mày ớn chưa? Tôi hỏi Xường.
    Xường trả lời ngay, không suy nghĩ một giây:
    - Ớn mẹ ǵ. Có dịp là tau tung cánh đại bàng.
    “Tung cánh Đại bàng”, tôi cười lớn khi nghe Xường nói 4 tiếng đó. Cái mặt nó c̣n vênh vênh đáng ghét. Tôi không có cái hào hứng như Xường nhưng tôi hoàn toàn đồng t́nh với nó.
    Xường đă giữ đúng ư định đó. Xường đă không chấp nhận chế độ nên đă t́m mọi cách để bỏ đi. Xường là loại người chung thủy với Quê hương, và kiên định với Lư Tưởng của ḿnh. Trong quyển Lưu Niệm của Khóa 22, Xường có ghi: “Thích đó đây nên vào Quân đội: Thấy hợp. Nhận xét: Quân đội đă đào tạo chúng ta thành những người có trách nhiệm và cương quyết”.
    Theo lời kể lại của Nguyễn ngọc Khoan (Khoan em), người bạn cùng khoá, cùng Binh chủng Biệt động quân: Cho đến ngày 30/4/75 Xường vẫn c̣n là một anh chàng “độc thân vui tính” và chỉ yêu một người con gái mà Xường đă gặp năm cô nàng mới lên 10 tuổi.
    Anh chàng thi sĩ Nguyên Sa c̣n kém hơn Xường một bực khi yêu một cô gái đă 13, nhưng vẫn c̣n mắc cỡ:

    “Em dấu đi những nỗi ḷng vỡ rạn...
    Anh cũng thề dấu hết gió mưa đi..
    Bao nhiêu ánh đèn rũ rượi tái tê,
    Những ngỏ vắng, những đêm sâu anh dấu hết...

    Tàu chạy được 4 ngày 5 đêm th́ đến Hải pḥng vào buổi chiều. Nhưng phải đợi đến tối mịt chúng tôi mới được đưa ra khỏi tàu. Hai cái chân tê cứng. Cả người ê ẩm. Tôi được Xường và Thắng san sẻ bớt gánh nặng hành lư nên cũng đỡ vất vả. Chúng tôi bị quáng mắt v́ những ánh đèn pha chĩa thẳng vào. Có quá nhiều bọn công an áo vàng và chó dữ, bộ đội, du kích dàn chào cái đám người mệt mơi ră rời này. Chỉ có một điều khoan khoái là cái bọng đái căng cứng “được giải phóng”. Mọi người được lảnh một nắm cơm trong lá chuối, một con cá khô mặn, và một trái dưa leo nhỏ. Chưa bao giờ có được một bữa ngon miệng. Nhưng nếu được hai, ba phần như thế th́ chắc cái bao tử “phấn khởi, hồ hởi” hơn. Mấy ả du kích mang súng CKC, khiêng những thùng nước lạnh và luôn miệng phát loa:
    - Chào mừng các Anh đến đất nước “xă hội chủ nghĩa” (xạo hết chỗ nói).
    Cái đất nước này là của bọn chúng. Chúng tôi là những người lạ đến từ miền xa.
    Tôi lợi dụng lúc này để duỗi thẳng hai chân rồi ngă người trên băi cỏ, đầu kê lên cái ba lô nhỏ nh́n lên bầu trời đầy sao. Không khí ban đêm thật là mát lạnh. Ước chi được ngủ một giấc trong cái yên b́nh hiếm có này. Xường cũng nằm xuống bên tôi. Tôi nghe có tiếng ngáy... nhè nhẹ. Nó đă ngủ thật lẹ. Nhưng tiếng sủa của mấy con chó, tiếng c̣i của đám bộ đội ra lịnh cho chúng tôi di chuyển về phía trước. Một đoàn tàu như con quái vật đen đủi, đang kḥ khè phun khói. Những tàn lửa bừng sáng trong đêm tối rồi tan biến trong không gian. Chúng tôi bị đẩy lên, nhồi nhét trong những toa tàu, dùng để chở súc vật, vẫn c̣n rơm rạ, phân khô và than bụi. Chắc nhà thơ Tô Thùy Yên cũng có mặt trên những con tàu này nên đă ghi lại những câu thơ sau đây:

    Ngồi đây giữa những phân cùng bụi,
    Trong chuyển dời xô xác bạo tàn,
    Ta trở thành than, thành súc vật.
    Tiếng người e cũng đă quên ngang.

    Đêm tối mịt mùng. Có những tia sáng chiếu vào thoảng hoặc qua những lỗ thủng. Tôi cũng nhận ra cái anh chàng Bắc kỳ già Nguyễn văn Long, Đại úy Phân chi khu trưởng ở Phường 13 quận 10. Anh chàng chăm chú nh́n ra bên ngoài qua cái khe hở của thân tàu, và cho tôi biết, đoàn tàu đă đi qua Uông bí, Đông Triều, Vĩnh Yên, Việt tŕ,... Đến khoảng trưa th́ tàu dừng lại ở Phú thọ, nhưng không phải nhà ga mà là nơi gặp gỡ con đường sắt và con đường nhựa cũ kỷ. Chúng tôi rời tàu, theo con đường thoai thoải dẫn xuống bến phà sông Thao để qua tả ngạn sông Hồng.
    Buổi trưa tháng Năm, trời nắng như đổ lửa. Đám tù mệt mỏi, bẩn thỉu, lếch thếch, gồng gánh men theo hai bên đường thoai thoải xuống bờ sông. Dân từ những căn nhà hai bên đường túa ra nh́n chúng tôi như những con vật thời tiền sử. Họ chỉ chỏ rồi lớn tiếng chửi rủa. Tại một khoảng đường hẹp, có giăng ngang một tấm biểu ngữ màu đỏ như máu ghi những ḍng chữ màu vàng. Tôi chưa kịp đọc th́ đă có những tiếng ḥ hét kích động từ một cái loa cầm tay:
    - Giết chết bọn “ngụy ác ôn”.
    - Ném đá chúng đi..
    Những cục đá ném ra càng lúc càng nhiều. Đám tù chúng tôi đa số bỏ hết đồ đạc để chạy. Những người già yếu không chạy kịp vấp té nằm sóng soài tại chỗ. Họ bị những cục đá đầy ác ư ném vào đầu, vào người. Máu đă đổ ra. Lúc đầu bọn vệ binh áp giải đưa mắt nh́n thích thú đồng lơa. Sau đó chúng mới bắn chỉ thiên can thiệp và đẩy lui đám dân về sau như một bầy lang sói đang ngửi thấy mùi máu tanh. Xét cho cùng đây là một việc làm có tổ chức nằm trong chính sách “bạo lực cách mạng” nhằm khủng bố tinh thần của các tù nhân.
    Lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là kinh hoàng, thế nào là căm thù và hèn hạ. Đó không phải là những hành động bộc phát của người dân mà nằm trong đường lối và chủ trương của một lư thuyết độc ác và dă man của bọn cộng sản. Thật là đáng buồn cho những người cùng máu đỏ da vàng mà đối xử với nhau như những con người mất hết nhân tính. Chủ nghĩa CS như một con quái vật ghê tởm của thời đại. Những tên cuồng sát Lenin, Stalin, Mao trạch Đông, Hồ chí Minh đă xây dựng sự nghiệp của chúng trên bao xác người và gây nên bao cảnh thảm sát cho nhân loại. Thế mà bọn chúng vẫn chưa bị đem ra mà luận tội, vẫn c̣n có một số người đui mù tung hô. H́nh hảnh của tên cáo già HCM vẫn c̣n ngự trị tại một nước VN khốn khổ.
    Đất nước VN chúng ta không có may mắn. Nếu không có HCM và bè lũ đồ tể miền bắc th́ đâu có cái cảnh máu đổ và ô nhục ngày hôm nay. Qua khỏi bến phà th́ chiều tối chúng tôi được lịnh dừng lại bên đường và dồn lên ở một ngọn đồi trọc để ngũ đêm. Xường rất bực bội cái cảnh vừa xảy ra và nói lên những lời hằn học. Tôi bảo Xường giữ b́nh tĩnh, cứ coi thái độ kế tiếp của bọn chúng rồi phản ứng.

    Trại Bản Kéo, Hoàng liên Sơn:
    Sáng hôm sau khi mặt trời vừa lên, một đoàn xe molotova chờ sẳn ở bên đường. Xường kéo tôi và vài người bạn nữa cùng lên xe, xuất phát từ Lâm Thao, qua Yên Lập, Ba Khe rồi đến Bản Kéo thuộc quận Văn Chấn (Nghĩa Lộ) tỉnh Hoàng Liên Sơn. Những con đường loang lổ, không được sửa chữa từ nhiều năm nay. Những sạn đạo càng lúc càng lên cao, len lỏi những dăy đồi khô khan cằn cỗi. Buổi chiều sương xuống mù mịt, không khí nghe nặng nề khó thở. Đúng đây là vùng lam sơn chướng khí. Nghĩ cho cùng chúng ta mới thấy cái thâm độc và dă tâm của đám lănh đạo Hà nội: “Đối với những người của chế độ cũ là những thành phần đối kháng cần phải bị tiêu diệt dưới mọi h́nh thức.” Ở đây rừng rú cũng độc địa như con người.
    Rồi xuống xe, theo con đường đèo vào một cái trại trong vùng thung lũng có những ngọn núi bao quanh. Những dăy nhà bằng tre nứa và cây rừng c̣n đang dang dở. Dấu vết để lại cho biết, họ là những người ra đây trước, cũng là những người phe ta thôi. Họ mới được chuyển đến một nơi khác trước khi chúng tôi đến đây không lâu. Họ c̣n để lại tên họ cấp bực, và binh chủng. Tôi không thấy một người nào quen hết. Để bù lại chúng tôi có những người bạn cùng khóa như Phạm văn Hải (Dù), Trần thanh Chương (Dù), Cao phát Minh (Quân báo) cùng với Xường và tôi. Ít nhất cũng có 5 người bạn cùng khóa có thể tin cậy và tâm sự được. Những người bạn cũ đi từ trại Hốc Môn (thành Ông năm) như Đào kim Trọng (Dù), Nguyễn phú Tài (Pháo binh), Phan xuân Vũ (Bộ binh).
    Cũng có vài nhân vật khá độc đáo như TDC, là em ruột của Trần đông A (Quân Y Dù), một người sẳn sàng hợp tác với chế độ CS. Chủ bị bắt và được trao trả tù binh năm 1973 tại sông Thạch Hản (Quảng Trị) nên có nhiều kinh nghiệm học tập, thảo luận của VC. Hắn là “một cái máy phát biểu” trong những lần thảo luận. C̣n TTĐ (chúng tôi thường gọi là Tôn thất Từng Tưng) là một người đă khóc trong một buổi “tổng kiểm thảo”, v́ hối hận đă sinh ra trong một gia đ́nh phong kiến và mang ḍng họ hoàng tộc. Và người Đội trưởng là Phan Huy Bách, Đại úy phi công F5A, con của cựu Thủ tướng Phan huy Quát, đă chết ở trại giam Chí Ḥa, Sài g̣n. Bách là một người mẩu mực trong đời sống, mặc dầu đang sống trong khung cảnh nhà tù CS. Nhận lănh công việc được giao một cách nghiêm chỉnh, và phân phối cho anh em một cách đứng đắn, và nhất là không bao giờ báo cáo hay có ư hại anh em. Tôi nghĩ Bách là một người tốt. Bách cùng gia đ́nh hiện định cư tại Australia.
    Chúng tôi được giao 3 công việc chính:
    - Nhóm thứ nhất vào rừng chặt giang, tre, nứa theo những chỉ tiêu được giao.
    - Nhóm thứ hai chặt cây làm cột để tiếp tục làm những căn nhà ở (lán), và làm những hàng rào bao quanh trại giam.
    - Nhóm thứ ba phá rừng, đốn cây, làm cỏ để trồng khoai ḿ, và đào ao nuôi cá.
    Tháng Năm mặt trời như thiêu đốt, những chỉ tiêu được giao không phải dễ dàng cho một số người, nhất là những người già. Có một khuôn mặt khá quen thuộc làm tôi nhớ hoài. Đó là Trung tá Nguyễn thượng Thọ, tức là nhà văn Lê huy Linh Vũ, cục trưởng Cục điện ảnh quân đội thuộc Tổng cục Chiến tranh chính trị. Năm 1966, khi chúng tôi đang học năm thứ nhất của Khóa 22 tại Trường Vỏ bị Đà lạt th́ ông hướng dẫn một nhóm quay phim lên thực hiện một cuốn phim tài liệu về đời sống của một Sinh viên sĩ quan do SVSQ Phạm ngọc Đăng và người đẹp Hồng Quế, thơ kư của Ṭa thị chánh Đà lạt đóng vai chính. Ông đang ngồi chẻ những sợi lạt, chiếc điếu cày để gần bên, khuôn mặt xa vắng và buồn hiu. Ôi thế sự tang thương, chuyện đời thay đổi. Ai có ngờ đâu cảnh ngộ ngày hôm nay. Người đẹp Hồng Quế cũng đă vội vàng ra đi không muốn để cho người đời được nh́n những vết chân chim nơi cuối mắt. Đúng là:
    Giai nhân tự cổ như danh tướng,
    Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
    Khoảng hơn một tháng sau có một vụ trốn trại đầu tiên của Đ/U Nguyễn văn Long. Anh đi được 3 ngày, và bị dân địa phương bắt giữ và thông báo về cho trại. Có 4 người được chỉ định ra đưa Long về trại trong đó có tôi, và Xường. Khi ra đến nơi th́ thấy đó là một cái xác bê bết những máu đă khô đen. Những người dân ở đây người nào cũng đằng đằng sát khí. Họ cầm gậy gộc định cản lại không cho chúng tôi khiêng xác về. Tôi nghĩ ngay đây cũng là một màn tŕnh diễn có tổ chức để dằn mặt những người tù. Chúng tôi lại một phen bị đem ra biêu riếu, và chửi rủa thậm tệ. Hai cái lỗ tai phải nghe mà ḷng th́ cay đắng vô cùng.
    Cuối cùng cái xác cũng được khiêng về chôn dưới một cái hố đào cạn, và một chiếc mền lấy trong ba lô quần áo của Long quấn lại. Không có mộ bia, chỉ có một vài cục đá dằn lên ở đầu huyệt. “Thôi hăy nằm ngũ b́nh yên nghe Long.” Một người lính đă sống một đời hào hùng, đă nằm xuống ở một nơi hiu quạnh bên sườn một cái đồi vô danh. Anh đă về lại quê hương của ḿnh với nỗi niềm cay đắng xót xa. Chắc chắn là gia đ́nh sẽ không được thông báo. Tôi nói với Xường phải cẩn thận, ở đây trốn trại không thoát được đâu. Rừng núi ở đây cũng độc ác như con người. Những người bạn cùng khóa cũng nhắc nhở Xường điều này.
    Rồi mùa hè qua đi, mùa thu chẳng thấy một chút gió heo may, chỉ có mùa đông đầy hăm dọa kéo đến. Nghe nói trên đỉnh Fan si pan thuộc dăy Hoàng liên Sơn có tuyết. C̣n ở đây những ngày nào lạnh xuống đến 3 độ C. Chúng tôi mới được nghỉ, nhưng vẫn thích đi làm hơn v́ trời lạnh đi dọc theo những con suối vớt được những con cá nhỏ, đang dẫy dụa, hoặc phơi ḿnh lên trên mặt nước. Đúng là cái lạnh, cái đói đă đồng lơa hành hạ con người một cách tàn nhẫn. Cái cảnh đói rét lần đầu tiên trong đời. Xường ở lán khác nhưng vẫn thường qua chuyện tṛ với những bạn đồng khóa bên bếp lửa được phép nhóm lên ở giữa nhà.

    Trại 9, liên trại 1 Yên bái:
    Cuối tháng 4/78, chúng tôi được chuyển về Trại 9 thuộc liên trại 1 (Yên Bái). Vùng này núi non hiểm trở, và là địa bàn chống Pháp của Ông Hoàng Hoa Thám, có biệt danh là Con hùm Yên thế. Đây cũng là nơi hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu, và cũng là nơi mà 13 vị anh hùng dân tộc đă bị đưa lên đoạn đầu đài. Dân ở đây đa số là người Mường ở vùng bằng phẳng, và người Mèo ở lưng chừng những ngọn núi cao. Cũng có một số người Việt. Họ cho biết trước đây họ là những công nhân viên chức, hay quân đội của Pháp.
    Tất cả đều không muốn, hay không có điều kiện để di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954 nên đă bị bắt, và đưa lên chỉ định cư trú tại đây. Những người này rất thông cảm với chúng tôi. Họ bảo “các anh đừng bao giờ nghe lời bọn chúng mà đưa gia đ́nh ra đây. Thà các Anh chết nơi này c̣n hơn”. Đây là thời gian mà chúng tôi xuống tinh thần nhiều nhất. Trong lúc đó ở Sài g̣n chúng cho thân nhân những người tù ở ngoài bắc được lên ṭa Đô chánh để làm đơn bảo lănh. Chúng tôi nhận được những gói quà 3 Kg, và những cái thơ “động viên” như thế. Đúng là những đ̣n phép lọc lừa gian manh của bọn VC.
    Vùng này cũng có nhiều đồi trà, và một vài nhà máy sấy trà. Tôi thích được đi dẫy cỏ trà. Ít nhất cũng hái được những những nụ trà nhai nhỏ rồi uống những ngụm nước vào, nó có cái hậu rất ngọt. Cũng dỗ dành được phần nào cái bao tử trống trăi buổi sáng. Trà vị đắng nhưng uống nước vào chuyển thành vị ngọt dễ chịu. Có một lần tôi đăi cái bao tử một chầu bằng những đọt trà và một lon gu-gô nước lạnh. Kết quả tôi bị say trà, c̣n kinh khủng hơn say rượu hay say thuốc lào. Từ đó thấy trà đâu là tôi sợ tới đó. Nhiều khi cũng đi làm chung với những cô gái đi hái trà vào buổi sáng. Họ thường mặc quần áo lao động, mang giày vải và đội nón tai bèo, phía sau mang những cái gùi như những người Thượng ở vùng Kontum, Pleiku. Họ rất sợ những con vắt chui vào háng nên thường quấn bên ngoài một cái xà cạp dầy. Vừa làm vừa nói chuyện, phần nhiều là những câu chuyện tào lao, tục tĩu mà họ cố t́nh cho bọn tôi nghe. Xuất thân của họ cũng là những tù h́nh sự, trộm cắp hay đĩ điếm bị bắt từ Hà nội, Hải pḥng đưa lên đây để “cải tạo lao động”. Thật khác với câu chuyện Bà Chúa chè Đặng thị Huệ của nhà văn Nguyễn triệu Luật.
    Ngày quốc khánh 2/9/78 của bọn chúng, chúng tôi được nghỉ ở nhà và được “ăn tươi”, nghĩa là được ăn một chén cơm tươi và mấy lát thịt trâu. Con trâu già của trại “không lao động được nữa” nên được một phát súng ân huệ, và được đem ra đăi tù trong một cái ngày lễ lớn nhất của bọn chúng. Nhưng một điều quan trọng đối với chúng tôi là được đón nghe một lời phát biểu của Phạm văn Đồng, thủ tướng VC, về t́nh trạng hiện tại của chúng tôi khi đề cập đến những người thuộc chế độ cũ hiện bị giam giữ với cái án “tập trung cải tạo”, vẫn c̣n rất mập mờ và xa lạ. Năm đó, Đồng đă nói: “Đối với những “ngụy quân” và “ngụy quyền” (Ai là “nguỵ”? Bọn Cộng Sản, hay chúng ta?) là những người có “nhiều nợ máu” (Ai mang nhiều nợ máu? Bọn Cộng Sản hay chúng ta?) với nhân dân. Đáng lẽ phải đem ra bắn bỏ. Nhưng đảng và nhà nước khoan hồng để cho chúng “cải tạo lâu dài”.”
    Tất cả đều rất bất măn, và thất vọng. Tất cả những lời nói và việc làm của bọn chúng đều là những đ̣n phép tráo trở, gian manh. Nhiều người xuống tinh thần thấy rơ. Nhất là những người ở lứa tuổi trên 50. Trung tá Vinh, cựu Chỉ huy trưởng TTHL Nhảy Dù đă chết những ngày sau đó. Tôi cũng bị một cơn bịnh hiểm nghèo. Bịnh kiết lỵ, đi cầu cả ngày đêm, gần như kiệt sức. Thật ra bịnh này chỉ một vài viên trụ sinh là dứt. Nhưng làm ǵ mà có, bao nhiêu thuốc men đem theo đă bị bọn chúng tịch thu hết rồi. Trạm xá chỉ cho vài viên Xuyên tâm liên trị bách bịnh. Bạn bè rất lo lắng, nhất là Đoàn văn Xường, và Trần thanh Chương. Hai đứa đi t́m những trái khế chua cho tôi ăn. Chương xuống nhà bếp xin được một ít cơm cháy rang lên thành than rồi đâm nhỏ như những viên thuốc Charcol trị tiêu chảy.
    Tôi nằm liệt giường gần mười ngày sau mới hồi tỉnh. Ngày thứ 11, chúng bắt đi làm. Chân tay c̣n run rẩy nhưng tôi cũng cố gắng đi theo bạn bè. Hôm đó phát cỏ trên đồi, ánh nắng chói chan làm tôi chóng mặt quay ṿng. Tôi ngă xuống bất tỉnh. Bạn bè khiêng về trại. Lần này chính tôi cũng xuống tinh thần. Nhưng nghĩ lại chết như thế này th́ nhục quá. Bao năm chiến đấu, bao lần máu đă đổ ra, tôi vẫn sống vững mạnh. Không lẽ chết tủi nhục trong nhà tù VC hay sao? Tôi không muốn “mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến” chút nào hết. Không thể chết một cách lăng xẹt như thế này. Phải sống chứ! Yếu tố tinh thần rất quan trọng. Tôi đă đứng dậy nên không c̣n nằm xuống nữa. Tôi đă quyết định bước đi nên không c̣n rơi rớt dọc đường. Trong hoàn cảnh này yếu tố bạn bè rất quan trọng. Một tháng sau tôi hồi phục. Đó cũng là lúc chúng tôi phải chia tay nhau.

  7. #247
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Anh Hùng và Phản Bội trong QLVNCH
    P2




    Chuyển trại.
    T́nh t́nh bang giao giữa 2 nước “cộng sản anh em Trung cộng, và VC như môi hở răng lạnh”. Đă bắt đầu căng thẳng khi Bộ chính trị VC ra lịnh cho Lê đức Anh xua quân qua Campuchia làm “nghĩa vụ quốc tế” lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, Iêng Sary, là đàn em của Trung cộng. Hoa quốc Phong hiện đang là chủ tịch đảng, chủ tịch nước bị đem ra bêu riếu là con tư sinh của Mao trạch Đông. Một cuộc chiến tranh của những người cùng thờ Karl Marc, và Lenine chắc chắn sẽ xảy ra. Những trại tù phía bắc được chuyển về phía nam. Nguyễn phúc Sinh, Cao phát Minh, Phạm văn Hải và tôi được chuyển về trại Nam Hà (Ba Sao- Đầm Đùn), Phạm ngọc Đăng, Trần đ́nh Ấn về trại Lư bá Sơ (Thanh Hóa), c̣n Đoàn văn Xường, Trần thanh Chương, Nguyễn ngọc Khoan... chuyển xa hơn về phía nam ở trại Thanh Chương (Ngệ An), gần sát biên giới Lào, ở đầu của đoạn đường ṃn HCM... Hôm đi, mỗi người được phát một nắm cơm độn khoai lang và một miếng da trâu luộc lông cạo chưa sạch nhưng nhất định không bỏ v́ đó là “chất tươi”. Di chuyển bằng xe lửa và xe tải. Hai người một c̣ng tay nhau. Đó là thủ tục.
    Trước đây, cuộc chiến VN được nằm trong kế hoạch nhuộm đỏ vùng đông nam Á theo vết dầu loang của khối CS nên cộng sản Bắc việt (CSBV) được sự yểm trợ một cách tích cực của Liên sô, các nước CS đông Âu và Trung cộng. Năm 1959 có sự xung đột biên giới giữa Liên sô và Trung cộng. Căng thẳng đă xảy ra ở hai nước CS, tuy không phải tuyên bố đoạn giao nhưng đă có t́nh trạng lạnh nhạt và bất thân thiện về mặt ngoại giao. HCM đă dùng thủ đoạn đu dây để nhận được viện trợ vũ khí, và trang bị của Liên sô, và nhận sự bảo vệ an ninh miền Bắc với nhiều sư đoàn bộ binh, pḥng không, công binh... của Trung cộng đang hiện diện tại đây. Cũng trong thời gian này, Mao trạch Đông mở cuộc thanh trừng đẩm máu với cuộc “Cách mạng Văn hóa” do Giang Thanh với bè lũ 4 tên cầm đầu chỉ huy đám Hồng vệ binh Cộng Sản Trung Hoa, tàn sát từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở. Những nhân vật khá nổi danh như Lưu thiếu Kỳ, Lâm Bưu, Bành đức Hoài kể cả vợ chồng Đặng tiểu B́nh, tuy không bị đấu tố đến chết nhưng cũng bị đưa ra nông trường cải tạo khổ sai. Mao đă chết ngày 9/9/1976. Một thế lực mới lên nắm quyền với Hoa quốc Phong là con tư sinh của MTĐ. Nhưng rồi Hoa cũng bị lật đổ và giao quyền cho Đặng tiểu B́nh.
    Ở VN th́ sau khi kư kết Hiệp định ngưng bắn 27/1/73, lợi dụng Hoa kỳ bước ra ngoài ṿng chiến, CSBV đă tiếp tục một cách mạnh mẽ công cuộc xâm chiến miền Nam dẫn đến ngày 30/4/1975. Tập đoàn Lê Duẫn, Lê đức Thọ đă nghiêng hẳn về phía Liên sô gây nên một sự tức giận cho Trung cộng. Đặng tiểu B́nh hăm dọa sẽ cho VC một bài học đồng thời đ̣i lại những viện trợ không hoàn lại trước đây. VC đă vơ vét hết lúa gạo miền Nam để trả nợ, nhưng một cuộc chiến ở 6 tỉnh phía bắc không thể tránh được. Bọn chúng đă cho chuyển những trại tù sát ở phía bắc, và phía tây xuôi về miền nam như Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Hà nam Ninh... Các trại tù được giao từ quân đội quản lư qua công an. Đây cũng là thời gian te tua nhất và có quá nhiều người đă chết.
    Trại 6 (Thanh Chương - Nghệ an):
    Trước hết xin được xác định vị trí của trại 6 Thanh Chương, Nghệ an. Phần này do anh Đặng minh Tân, anh em cô cậu với Đ/U Nguyễn văn Xuyên, người cùng vượt trại chung với Xường, hiện đang sống tại Hà nội VN, chị Nguyễn thị Kim Thoa, vợ anh Xuyên, hiện đang sống tại Westminster, California, cho tôi số phone để gọi anh Tân. Người thứ hai biết rất rơ điạ điểm này là anh Lê tấn Đại, Khóa 14 Thủ Đức, trước 1975 là quận trưởng Đức Phong (Phước Long), là anh ruột của người bạn đồng khóa Lê tấn Hớn, hiện cùng định cư tại thành phố Tampa, Florida.
    Theo anh Tân th́ mỗi lần chị Thoa từ trong Nam (ngă ba Ông Tạ, Sài g̣n) ra thăm nuôi đều được anh đưa đi v́ anh thông thuộc đường sá ngoài bắc hơn. Anh đă đưa chị Thoa đi ngược lại từ Hà nội về Vinh (Hà Tĩnh) khoảng 300 Km, rồi đi xe đ̣ lên ngă 5 Đô Lương (thị trấn Dùng) nơi hội tụ của những liên tỉnh lộ 7, 46, và 15. Từ đây theo tỉnh lộ số 7 đi về hướng tây bắc. Con đường chạy dọc theo con sông Cả bằng nhiều phương tiện như xe thồ, xe đạp, xe ḅ hoặc nhờ dân địa phương gánh vác, rất là gian nan và vất vả. Khu này lèo tèo vài xóm dân.
    C̣n trại 6 Thanh Chương th́ được anh Đại mô tả là một trại rất kiên cố. Trước đây là nơi giam giữ những nhân viên hành chánh và quân đội làm việc với Pháp được VC đưa về đây. Điều này nhắc chúng ta nhớ lại một trong 6 nguyên lư hành động của Lenin mà Trung cộng và VC đă áp dụng là: “Đối với những người thuộc chế độ cũ (Sa hoàng, Tưởng giới Thạch, Pháp hay VNCH) th́ hăy đưa chúng từ trại cải tạo này đến trại cải tạo khác và cuối cùng đến Siberie.” (Nghĩa là đến tử lộ). Sau này CS Đông Đức đă giúp xây lại nên rất chắc chắn. “Trại có 10 dăy nhà đá dành cho 2 thành phần tù nhân cư trú: tù chính trị (c̣n được gọi là Tù Z), và tù h́nh sự.
    Mỗi dăy nhà đều được xây bằng đá xanh trát xi măng, lợp tôn, ngăn cách nhau bởi những bức tường cũng xây bằng đá xanh, trát xi măng, cao khoảng 3 thước. Nhà đá chỉ có một cửa ra vào bằng sắt, được mở vào buổi sáng và đóng lại vào buổi chiều sau khi điểm danh và kiểm tra nhân số của từng đội lao động “cư trú” trong nhà. Toàn trại giam được bao bọc bởi một bức tường cao vời vợi, cũng được xây bằng đá xanh và trên cao chót vót c̣n có một lớp kẽm gai. Nếu đứng ở ngoài mà nh́n bao quát trại này th́ nó giống như một lâu đài màu xám xịt khá kiên cố của một nước nào đó bên trời Âu, được xây dựng vào thời Trung cổ. Ngoài ra c̣n 2 căn nhà đá khác được xây dựng rất đặc biệt gọi là “khu biệt giam”. (Nguyễn Chí Mẫn)
    Một thời gian sau số tù nhân (cả chính trị và h́nh sự) tăng dần lên. Để giải quyết, chúng cho xây dựng một trại mới cách trại cũ khoảng 3 Km về phía tây với vật liệu rất sơ sài bằng những cây gỗ và tre nứa tại địa phương. Xường và Chương được đưa vào trại này, c̣n Khoan vẫn c̣n ở trại cũ.

    Vượt trại giam:
    Theo lời kể lại của người bạn cùng khóa (Chương) th́ khi về đây, cái ư định vượt trại của Xường c̣n mạnh mẽ hơn nhiều. “Nó bắt đầu móc nối với những người cùng ư hướng.” Nguyễn ngọc Khoan rất muốn đi với Xường, c̣n Chương th́ bị một cơn bịnh kiết lỵ quật ngă. Lúc này cuộc chiến ở 6 tỉnh phía bắc gồm Cao Bằng, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn và Lai Châu đă xảy ra. Đặng tiểu B́nh chỉ muốn phá nát cái “huyền thoại hang Bắc Pó” thuộc bản Giới (Hà Giang), và dạy cho CSBV một bài học chứ không muốn kéo dài chiến tranh. Nhưng đất nước rơi vào t́nh trạng thiếu thốn lúa gạo một cách nghiêm trọng, đến nỗi Phạm văn Đồng phải sang Ấn độ xin viện trợ Bo bo là thức ăn của ngựa về nuôi dân. C̣n tù th́ te tua nhiều hơn nữa.
    Đă có quá nhiều người chết trong thời gian này. Chúng phải cho phép gia đ́nh gởi quà 3Kg và lần lượt bắt buộc gia đ́nh phải đi thăm nuôi tù. Các bà vợ của Khoan, Chương, Xuyên và cả bà chị của Xường là Đoàn thị Nhăn, khi nhận được thư của Xường cũng đă vội vàng ra thăm em. Có một dụng cụ mà Xường rất mong được gia đ́nh cung cấp mà không thể thực hiện được là cái địa bàn dùng để định hướng di chuyển. Nhưng kế hoạch vượt trại vẫn được xúc tiến. Trần thanh Chương sau cơn bịnh, sức khỏe sa sút rất nhiều nên được giao công việc chăn giữ một con trâu. Nhờ vậy mà Chương đem ra khỏi trại và cất giấu tại một địa điểm do Xường chỉ định những thực phẩm khô, và những thức ăn mặn cùng những vật dụng cần thiết khác.
    Toán vượt trại của Xường gồm có 4 người: Nguyễn văn Xuyên (Đ/U Sư đoàn 18 BB), Trương tài Năng (Đ/U Không quân), Lê văn Ngọc (Đ/U Không quân) và Đoàn văn Xường (Đ/U BĐQ). Họ vượt trại ban ngày lúc đang đi lao động. Thật là một hành động khá táo bạo, bất ngờ và có tính toán. Dưới đây là lộ tŕnh di chuyển về phía tây và đích đến là bờ tây của sông Mekong trên biên giới Thái Lan. Đoạn đường quá dài, phải băng qua hết bề ngang của nước Lào. Tháng 1 năm 8, có đợt chuyển trại thứ 2 từ trại Nam Hà về miền Nam. Trong đợt này cả 4 trại Nam Hà A+B+C và trại Mễ khoảng 400 người. Cao phát Minh và Nguyễn phúc Sinh vẫn c̣n ở lại v́ là thành phần An ninh và Quân báo. Phạm văn Hải từ trại Mễ được về v́ lư do bịnh. Chỉ có một ḿnh tôi đi chuyến này.
    Tất cả được xe tải chở ra thị trấn Phủ Lư, Nam Định và dừng lại ở ga B́nh Lục, từ đây lên một con tàu chở tù về Nam. Lần này chúng tôi ra đi trong một tâm trạng rất vui mừng, nhất là khi con tàu qua khỏi cầu Hiền Lương để tiến vào địa phận tỉnh Quảng Trị. Đây mới thật là vùng đất mà chúng tôi phải đổ máu ra để bảo vệ nhưng đáng tiếc mọi việc đă đi ra ngoài tầm tay với của những người lính miền Nam, để ngày hôm nay trở về lại vùng đất của ḿnh với hai tay bị c̣ng chặt. Khi đoàn tàu dừng lại ở ga Diêu Tŕ (B́nh Định) th́ có 200 người ở những toa tàu phía sau được đưa lên một đoàn xe tải theo Quốc lộ 19 về trại Gia Trung thuộc tỉnh Pleiku (bây giờ chúng đổi lại là Gia Lai). C̣n chúng tôi tiếp tục qua các nhà ga Văn Canh, Vạn Giă, Tuy Ḥa, Diên Khánh, Ba Ng̣i, Cà ná, Mường Mán và cuối cùng dừng lại ở Gia Ray (Xuân Lộc), và lên xe về trại Z30 D c̣n gọi là trại Hàm Tân trong khu vực Căn cứ 5 của quân đội Đồng Minh trước đây, cách Quốc lộ 1 khoảng hơn 3 Km.


    Về đây khí thế đấu tranh của anh em Nam Hà c̣n rất mạnh cho nên sau một lần nổi dậy chống đối đám cán bộ trại mà chúng tôi vẫn gọi là chèo, “14 con ma” trong đó có tôi được đưa về biệt giam tại trại Chí Ḥa ngay tại trung tâm Sài g̣n, cách căn nhà của vợ con tôi đang ở có khoảng 200m. Đó là buổi trưa ngày 30 Tết Tân Dậu (2/81). Thế cũng là vui rồi mặc dầu sống một thân một ḿnh trong khu xà lim ED thuộc lầu 2. Cho đến tháng 5/82, tôi bị chuyển ra trại trừng giới A 20 (Xuân Phước – Phú Khánh). Ở đây, tôi gặp lại Đ/U Nguyễn văn Xuyên, người cùng vượt trại với Xường, và c̣n sống sót đă kể lại câu chuyện vượt trại của họ nhất là tài tổ chức, khả năng chịu đựng và thái độ anh hùng của Đoàn văn Xường trước kẻ thù. Xường đă can đảm và chịu nhận tất cả kể cả cái chết cho ḿnh:
    “Anh biết đó, chuyến đi quá nguy hiểm, và liều lĩnh như người ta vẫn thường nói là đi t́m cái sống trong cái chết, v́ phải vượt qua bề ngang của nước Lào hơn 1.000 cây số trong vùng đất địch (Pathet Lào) để đến biên giới Thái Lan. Không có địa bàn, và bản đồ mà chỉ dựa vào hướng tây của mặt trời. Không đi trên đường ṃn hay đường lộ mà phải lẩn trốn trong những rừng cây, giữa những bản làng của người Lào. Lào bây giờ là một nước CS. Lính Pathet Lào có mặt ở nhiều nơi. Thế mà anh em chúng tôi đă vượt được một đoạn đường khá xa trong ṿng một tháng trời cho đến khi bị phát hiện và bắt giữ. Pathet Lào đă đưa 4 anh em tôi về đồn biên pḥng 57 ở Nghệ An. Từ đây về đến trại là đoạn đường chúng tôi bị hành hạ và đánh đập nhiều nhất. Trương tài Năng, Lê văn Ngọc bị đánh thê thảm, tôi cũng thế. C̣n Xường th́ tỏ ra bất cần, nhiều khi có thái độ khinh bỉ tụi nó, nhất là khi thấy anh em bị hành hạ nhiều quá th́ Xường đă tự nhận là một người đứng ra tổ chức cuộc vượt trại này. Đó cũng lư do để bọn chúng trút mọi sự độc ác dă man lên người của Xường. Một tên vệ binh đă bắn vào hai chân của Xường và hét lên: Để coi mày c̣n tổ chức trốn trại nữa hay không? Tuy không trúng vào xương chân nhưng máu ra rất nhiều và Xường đă ngă quỵ xuống đất và không c̣n gượng dậy được nữa.
    Sau đó bọn chúng đưa 3 anh em chúng tôi về khu biệt giam của trại K6, Nghệ An giam riêng từng người không cho liên lạc với nhau. Hằng ngày tại nhà kỷ luật chúng thay phiên đánh đập chúng tôi một cách không thương tiếc. Chúng tôi không có cách nào chống đở, hay tự vệ được. Đă nhiều lần Xường lên tiếng chửi rủa bọn chúng, và thách tụi nó bắn chết. Ở bên ngoài anh em có tiếp tế một ít trụ sinh cho Xường nhưng Xường đă kiệt sức, v́ Xường đă nhịn ăn, hay không thể ăn được. Sức khỏe mỏi ṃn, Xường dần dần đi vào cái chết trong yên lặng, và kiên cường. Tôi không nhớ chính xác ngày nào, nhưng tôi biết là Xường đă chết. Xác Xường được chôn ở một ngọn đồi cách trại khoảng hơn một Km. C̣n tôi sau đó được đưa ra khu tập thể, được người nhà thăm nuôi và được đưa về Nam... trại này...”
    Xuyên được ra trại cùng ngày với tôi (4/1/85) và về sống với gia đ́nh tại Ngă 3 Ông Tạ, quận 10, Sài g̣n. V́ măi lo bận rộn mưu sinh nên chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Năm 97, tôi có gặp lại Xuyên tại Sở Xă hội thuộc Orange County, California. Xuyên cho biết gia đ́nh gồm vợ, và 3 con đă sang định cư tại thành phố Westminster, theo chương tŕnh HO từ năm 1991. Xuyên hiện đang đứng bán tại tiệm sách Thăng Long ở Los Angeles. Tôi chưa kịp hỏi thăm đôi điều th́ Xuyên đă xong việc và ra về. Tháng 8/10, khi có ư định viết về cuộc vượt trại giam của Xường tôi có phone lại hỏi Xuyên nhưng chị Nguyễn thị Kim Thoa, vợ Xuyên cho biết Xuyên đă mất từ năm 2001 v́ bịnh ung thư gan. C̣n 2 anh Trương tài Năng và Lê văn Ngọc nghe nói cũng đang ở Nam Cali. Tôi rất mong có một dịp nào đó gặp được một hay cả hai anh để hỏi rơ ràng hơn về chuyến vượt trại của các Anh.
    Đó là tất cả những ǵ tôi biết được về bạn tôi Đoàn văn Xường.

    C̣n toán anh Đại gồm có 3 người:
    - Lê tấn Đại, Khóa 14 Thủ Đức, Thiếu tá, nguyên quận trưởng Đức Phong (B́nh Long).
    - Lê Thơm, Khóa 8 Thủ Đức, Thiếu tá, nguyên quận trưởng Chợ Lách (Vĩnh Long).
    - Nguyễn quốc Khánh, Khóa 17 Thủ Đức, Thiếu tá, Thiết đoàn 16 Kỵ binh.
    Toán này ở trong những căn nhà đá khá kiên cố ở trại chính K6, nhưng nhờ họ đă chuẩn bị từ lâu và xử dụng được một cái cưa sắt nhỏ để cưa những chắn song ở căn nhà vệ sinh. Nhờ mưu trí và liều lĩnh anh Đại đă ở được ngoài trại. Mặc dầu toàn bộ trại đă được báo động nhưng đó cũng là điều may mắn v́ bọn VC chia nhau đi về phía tây để lục t́m toán của Xường mà bọn chúng không ngờ toán của anh Đại đang đi phía sau chúng.
    Toán này cũng vượt trại ngay đêm đó.

    V́ ở đây hơn một năm rồi và có chủ ư nên họ đă nghiên cứu lộ tŕnh đầy đủ. Nhờ vậy mà họ đă vượt qua đèo Mường Xén, vượt qua biên giới và tiến vào lảnh thổ Lào, nhắm hướng tây mà đi. Anh Lê tấn Đại kể tiếp cho tôi nghe: “V́ bọn công an VC không thể vượt sâu hơn vào lảnh thổ Lào nên bọn anh đă vượt lên và tiếp tục con đường của ḿnh. Anh cho biết dọc theo biên giới Lào, CSBV đă thành lập những ngôi làng để chỉ định cư trú những thành phần mà chúng gọi là “B quay” nghĩa là những bộ đội, dân công hay thanh niên xung phong không chịu tiếp tục con đường vào nam hay không chịu chiến đấu mà t́m cách tránh né. Chúng đưa những thành phần này kể cả gia đ́nh của họ cư trú tại đây, và không được quay lại làng xóm cũ. Chúng coi những người này như là những tội phạm. Đó là chính sách vô cùng độc ác và dă man của bọn chúng. Cho nên ta không lạ ǵ bộ đội của chúng luôn luôn bị lùa vào chỗ chết trong những trận đánh biển người mà không dám có một phản ứng nào, hoặc những xạ thủ đại liên bị xích chặt vào súng... Đúng là cái chế độ quá sắt máu, quá coi rẻ sinh mạng của con người với phương châm “mọi phương tiện đều được phục vụ cho mục đích.”
    Anh Nguyễn quốc Khánh đă kể tiếp như sau: “Toán 3 người của tôi bị lọt vào ổ phục kích của Pathet Lào khi đang t́m cách băng qua con sông Giăng, cách biên giới Lào - Việt khoảng 20 Km. Chưa có ai bị bắt cả nhưng phải tự động phân tán, tự động thoát hiểm mưu sinh. Hai ông “Quận trưởng” (Thơm và Đại) tiếp tục chạy, và đă bị bắt trong khoảng 10 ngày sau đó tại một con suối nhỏ. C̣n tôi làm “người hùng cô đơn” băng rừng vượt núi dưới sự rượt đuổi theo của đám Lào cộng. Khi bắt đầu đổ dốc xuống vùng đồng bằng tưởng là thoát được rồi th́ tôi bị chúng bắt, và giao cho công an biên pḥng của VC.”
    Anh Lê tấn Đại và người em là Lê tấn Hớn cùng gia đ́nh đang định cư tại Tampa, Florida. Anh Nguyễn quốc Khánh cũng đang định cư tại Sacramento, thủ phủ tiểu bang California. Cả hai Anh đă kể lại cho tôi nghe những diễn tiến kể trên.
    Anh Khánh cũng nhắc lại cái chết của Anh Lê Thơm đúng như lời kể của Anh Nguyễn Chí Mẫn trong “Vượt ngục và Biệt giam”: “Anh Thơm, tạng người đă ốm o c̣m cơi lại bị đánh đập liên tục, bị bỏ đói... Đến ngày lễ lớn của bọn chúng (2/9/80), chúng cho mang vào một tô cơm chan đầy nước mỡ. Anh Thơm ăn vào bị tuôn ruột mà chết. Đó là một cung cách giết người của CS. C̣n tôi cũng chẳng c̣n hơi sức nào, thoi thóp chờ chết. Chúng ra lịnh cho anh Kh.., lúc đó là Trưởng trạm xá trong trại tù, trước sự có mặt của tên cai tù là Thượng sĩ Lư, xác nhận là tôi đă chết rồi và khiêng ra ngoài đợi đem ḥm vào là đi chôn. Buổi sáng lúc đem ḥm vào th́ tôi đă sống lại từ hôm trước (đúng là “người về từ cơi chết”). Tôi không bị chôn sống là nhờ anh em sau khi điểm danh các pḥng đến nh́n mặt tôi lần cuối. Họ phát giác ra là tôi c̣n sống, nhờ vậy mà tôi không bị chôn sống. C̣n anh Lê Thơm th́ chắc chắn đă chết. Điều này đă được anh Nguyễn chí Mẫn ở chung pḥng kiên giam với anh Thơm xác nhận. Anh Mẫn hiện đang định cư tại Australia.
    Tôi có nhờ anh Trần văn Khiết, Khóa 21 Đà Lạt, Trung đoàn phó Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21, cho số phone của anh Trương Phúc, khóa 20 Đà Lạt, là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 63 tân lập thuộc Sư đoàn 21 BB, lúc bấy giờ làm “Trật tự” cho trại K6, Thanh Chương xác nhận là anh biết chắc Lê Thơm đă chết. Nhưng đáng tiếc là tôi muốn được anh xác nhận về trường hợp của Đoàn văn Xường là đàn em của Anh th́ Anh chỉ nói là ḿnh không c̣n nhớ rơ lắm. Có lẽ Xường đă chết trước Lê Thơm và cũng được chôn ở một nơi gần đó.
    Nguyễn ngọc Khoan vẫn c̣n ở K6 khi những người vượt trại trong toán của Xường được đưa về đây. Anh em t́m cách gom những thuốc trụ sinh để đưa vào cho Xường nhưng kết quả cũng chẳng được bao nhiêu. Nếu chúng ta đọc những quyển sách nói về hậu quả của những toán vượt trại như: TÔI PHẢI SỐNG (Linh mục Nguyễn hửu Lễ), VƯỢT TRẠI GIAM (Trần Cảnh), ..., chúng ta mới thấy hết được cái ư định tiêu diệt của bọn thú người VC.
    Khi Khoan, và Chương được chuyển về Nam ở trại Z30C Xuân Lộc vào khoảng tháng 8/80 th́ nghe được tin của những người về sau cho biết Xường đă chết. Đó là điều chính xác. Khoan đang định cư tại Houston, Texas, và Chương đang ở tại Tampa, Florida.
    Tôi cũng xin được cám ơn cô Đặng Tuệ Tâm, hiện đang định cư tại thành phố Fremont, California, đă cung cấp cho tôi bài viết của Anh Nguyễn Chí Mẫn (VƯỢT NGỤC VÀ BIỆT GIAM) và những t́nh cảm đặc biệt mà gia đ́nh của cô là Cố Đại tá Đặng hửu Hồng, tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đức, đă kể lại cho tôi nghe mối thân t́nh của Gia đ́nh với bạn tôi. Về những ǵ đậm đà nhất, sâu kín nhất đă được thể hiện qua bài thơ mà cô em gái kế Tinh Nhiên đă ghi lại mà tôi cũng không tiện nêu ra ở đây, nhưng thật sự bài thơ đă làm cho tôi rất xúc động.
    Cô Tâm cũng thường xuyên liên lạc với chị Nhăn, và rất quan tâm đến việc dự định bốc mộ của Xường từ Thanh Chương về lại quê nhà ở Trà Vinh. Tôi cũng đọc được trong trang Web: www.tinhdongdoi.com về Returning Casualty là một chương tŕnh của Hội Vietnamese American Foundation nhằm t́m kiếm, và cải táng hài cốt những người tù “cải tạo” mà Anh Nguyễn đạt Thành là Chủ tịch. Cựu SVSQ Cao văn Thi, Khóa 25 Đà Lạt, cũng đang ở trong toán t́m kiếm, và cải táng thi hài của những tử sĩ VNCH. Tôi rất mong chị Nhăn và cô Tâm có được những thông tin từ những Hội đoàn và cá nhân này.

    Lời cuối:
    Tiện đây tôi cũng xin được ghi lại những Sĩ quan Khóa 22 Trường Vỏ bị Quốc gia VN đă vượt trại thành công, c̣n sống sót, hay đă chết trong những khu biệt giam của VC:
    - Trương văn Út (Út Bạch Lan) (E22): Ra trường tháng 12/67, t́nh nguyện về Lực lượng đặc biệt sau đó đưa một Đại đội về thành lập Đại đội 2 Trinh Sát của Lử đoàn 2 Dù. Tŕnh diện tại Sài g̣n, sau khi lên trại Long Giao được 3 ngày th́ vượt trại cùng với Đ/U Nguyễn văn Tỷ (Đại đội trưởng Trinh sát SĐ18/BB), Đ/U Nguyễn văn Châu (TĐT/ ĐPQ/ Bà Rịa) và Đ/U Nguyễn đăng Khánh. Đến ngă 3 Dầu Giây, ra ga Bàu Cá, lên xe lửa về Sài g̣n. Vào rừng tham gia những phong trào phục quốc cho đến năm 1982. Vượt biên, hiện cùng gia đ́nh định cư tại Houston, Texas.
    - Nguyễn hửu Thức (C22): Ra trường tháng 12/69, về SĐ18/BB, làm Sĩ quan Tùy viên cho Thiếu tướng Lâm quang Thơ, Tư lịnh Sư Đoàn, sau đó về làm Sĩ quan cán bộ tại Trường Vỏ bị Đà lạt. Tŕnh diện tại Sài g̣n, bị đưa lên Ka Tum, Tây Ninh. Tổ chức vượt trại cùng với một Niên trưởng Khóa 18, và một Giáo sư Văn hóa vụ băng qua biên giới Campuchia. Được ghi nhận là mất tích.
    - Huỳnh hữu Đức (A22): Ra trường tháng 12/69, t́nh nguyện về Tiểu đoàn 6 Dù. Tŕnh diện ở Sài g̣n, bị đưa lên Ka Tum, Tây Ninh. Cùng trại với người bạn đồng khóa là Huỳnh văn Đức (TĐ5/TQLC). Vượt trại qua đường Campuchia. Được ghi nhận là mất tích. Hiện vợ là Trần thị Nê, và con đang ở tại Cao Lănh, Đồng Tháp.
    - Vỏ văn Xương (E22): Ra trường tháng 12/67, t́nh nguyện về SĐ/TQLC, Tiểu đoàn 6 (Thần Ưng cảm tử). Tham dự hầu hết các cuộc hành quân tại miền Nam như trận Mậu thân (1968), càn quét các mật khu Hố Ḅ, Bời Lời, chiến khu D (1969), Hành quân vượt biên sang Campuchia (1970), Hành quân Lam Sơn 719 và nổi tiếng trong trận tái chiếm thành phố Quảng trị và cổ thành Đinh công Tráng năm 1972 trong trách nhiệm Đại đội trưởng ĐĐ2 thuộc Tiểu đoàn 7/TQLC. Sau trận chiến mùa hè đỏ lửa 1972, được thuyên chuyển về Tiểu khu Châu Đốc. Đi tù, và không chấp nhận sống chung với VC nên Anh đă vượt trại vượt, bị bắt lại và chấp nhận cái chết trong nhà biệt giam.
    - Trần Cảnh (A 22): Ra trường tháng 12/69, t́nh nguyện về Thiết đoàn 17 Kỵ binh đóng ở Quảng Trị. Là một cựu Thiếu sinh quân (1960) nên tinh thần chiến đấu rất cao. Cấp bực sau cùng là Đại úy và chức vụ là Chi đoàn trưởng Chi đoàn 2/17 thuộc Thiết đoàn 17, Lữ đoàn 1 Kỵ binh.
    Kẹt lại ở Đà nẳng, tŕnh diện Ủy ban quân quản Đà nẳng ngày 4/4/75. Tháng 7/75 chuyển lên trại Kỳ Sơn, Tam Kỳ. Vượt trại ngày 13/3/77 cùng với Đ/U Trương hửu Thục ( Liên đoàn Biệt kích 81 Dù), Đ/U Phan thanh Tùng (Chi đoàn trưởng 2/20 Chiến xa) Đ/U Lê thanh Thám (Quân Cảnh), Đ/U Nguyễn quang Thuyết (Tiểu khu Thừa Thiên ). Hai mươi ngày sau cả toán bị phục kích. Tùng bị bắn chết, Thám, Thuyết bị thương. Thục và Cảnh sau đó cũng bị bắt đưa về trại cũ ở Kỳ Sơn. Ngày 6/6/84 ra tù và đến Hoa kỳ ngày 15/7/92 theo chương tŕnh HO 13. Hiện cùng gia đ́nh ở tại thành phố Indianapolis, tiểu bang Indiana.
    Ngoài ra cũng có 3 Đại úy Lương thanh Thủy (H22), Nguyễn văn Tưng (D22), và Lê văn Lượng (C22) đă vượt biên và chết trên biển Đông. Con gái và vợ của Lượng hiện định cư tại Nhật bản.
    (Bài viết c̣n nhiều thiếu sót và sai sót cần điều chỉnh và bổ sung, xin gọi về cho Cự ở số (714) 300.4026 . Cám ơn)
    *Ghi chú: Khóa 22 là một Khóa đặc biệt trong 31 Khóa của Trường Vỏ bị Quốc Gia (Đà Lạt). Qua năm thứ hai được chia ra làm 2: 173 SVSQ theo học 2 năm (1965-1967), và 92 SVSQ theo học 4 năm (1965- 1969).
    Viết tại Anaheim ngày 10/10/10

  8. #248
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Đoàn 72 Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật
    Toán 723




    SoCongTacNhaKyThuat








    Theo lời yêu cầu của anh , Hậu xin gởi bài “ MỘT QUẢNG ĐỜI TÔI ” do Cúc ( nhà tôi ) nghe tôi kể về những mẩu chuyện đường rừng của Toán 723 nên đă ghi lại để dự định mang đi tham dự Đại Hội của bà Khúc Minh Thơ vào năm 2008 tại Dallas. Nhưng rất tiếc thiếu sót rất nhiều chi tiết và tâm trạng khúc mắc của các anh em trong Toán 723 trong thời gian hiểm nguy tại Bạch Mă, đó cũng là một trong những nguyên nhân có thể gây ra vụ “thảm sát “ tại Đoàn 72 mà rất tiếc Tr/Ta Phó là người xui xẻo số mạng đưa đầy về làm Đoàn Trưởng một thời gian ngắn phải nhận lảnh. Lẻ ra …..


    Dầu đă 38 năm qua, nhưng Hậu vẩn c̣n nhớ chai Champagne được Thiếu Tá Minh rót ra để mời các anh em SQ, có cả Trung Úy Minh, anh Tr/uy Quăng, Đ/úy Tùng, Hậu v.v đang ngồi họp lắng nghe t́nh h́nh chiến sự và Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Đoàn 72 được lệnh rút về Đá Bạc. V́ trong thời gian nầy máy bay trực thăng tiếp tế lương thực rất khó khăn bởi súng pḥng không của VC. đă không tôn trọng, vi phạm Hiệp Định Ba Lê trắng trợn . Lệnh T/tá Minh chỉ định Toán 723 “phải ” ở lại trấn thủ Bạch Mă, để chờ vài ngày bộ binh sẽ lên tiếp nhận, c̣n Bộ chỉ Huy Đ72 và các Toán khác rút về Đá Bạc.


    Trước đây Bạch Mă chỉ là nơi đồi núi bỏ hoang, nhưng sau khi kư Hiệp Định Ba Lê, để ngăn chặn sự lấn đất dành dân của VC, nên các Tóan xâm nhập nhảy lên thám sát trước làm đầu cầu và sau đó bộ binh và các Đoàn lên lập căn cứ Tiền phương để từ đó thả Toán xâm nhập thám sát vào Trường Sơn lấy tin tức và cắm cờ trên các ngọn cây cho Uỷ Ban Quốc Tế 4 bên thấy đó là vùng của Quốc Gia.


    Khi Đoàn 72 triệt thoát khỏi Bạch Mă trong cảnh bom đạn hiểm ngụy. Mổi lần máy bay trực thăng bay lên Bạch Mă là bi VC bắn súng pḥng không và phóng pháo vào đồi liên tuc. Cảnh tượng rút lui vội vàng nguy hiểm, có người không kịp lên sàn phải đeo chân càng máy bay để thoát ra khỏi đỉnh đồi Tử Thần Bạch Mă. Sau khi Đoàn 72 rút lui, Bạch Mă chỉ c̣n lại Toán 723 gồm có Th/uư Tùng, tôi và 10 HSQ nhân viên Toán trấn thủ đỉnh Bạch Mă để chờ vài ngày sau bộ binh sẽ lên thay thế. Có lẽ định số mang cái tên Hậu, có nghĩa là sau cùng, bao sau??? nên nay tôi, và anh em Toán 723 thui thủi ở lại một ḿnh trên đỉnh đồi tử thần Bạch Mă .


    Khi Đoàn 72 c̣n trấn đóng th́ ngọn đồi có khoảng 6 vọng gác, nay chỉ c̣n lại Toán 723, ṿng đai lại quá rộng nên chúng tôi co cụm pḥng thủ trong căn nhà lầu đổ nát mà thuở xưa là nơi nghỉ mát của vua quan nhà Nguyễn, và hằng đêm chúng tôi chia làm 2 vọng gác hai đầu cửa ra vào của căn nhà lầu, thỉnh thoảng rảo bước xem động tịnh quanh ṿng đai hàng rào của ngọn đồi để xem có ǵ khả nghi không.


    Theo lệnh, Toán 723 ở lại Bạch Mă vài ngày để chờ bộ binh lên thay thế. Nhưng ! Hởi ơi ! gần 2 tháng trời sống trong lửa đạn bom rơi, cảnh chết chóc, bị thương của lính Đia Phương Quân nhờ Toán giúp đở, mà chẳng có đơn vị bộ binh nào lên thay thế. Hằng ngày, các anh em luôn hối thúc chuyên viên truyền tin gọi về BCH Đoàn 72 tại Đá Bạc để xem có bộ binh lên thay Toán chưa. Nhưng bên kia đầu máy PRC 25 cũng như mọi lần rè tiếng nói :


    Chưa , cứ chờ đó.


    Sự bất mản của anh em Toán 723 nảy sinh từ đó, v́ bộ binh không lên thay th́ phải cho Toán khác lên thạy chứ . Cũng trong thời gian đó, thêm một người em ruột của tôi ở Sư Đoàn 1 tử trận, tôi xin BCH 72 cho tôi lội bộ một ḿnh về dự đám tang của người em nhưng không được chấp thuận. Anh em Toán 723 cảm thấy như 1 đứa con bị bỏ chợ, hay là Toán "bị đ́ " nên các anh em bàn bạc rủ tôi bỏ đồi Bạch Mă xuống núi về Đá Bac. tới đâu th́ tới bến luôn,( có phải " Lôi hổ chết bỏ " không đây ???..)


    Là một người Trưởng Toán từng sống chết với anh em kể từ ngày thành lập Đoàn 72, chúng tôi từng chia nhau điếu thuốc, ngụm nước, ly cà phê đen và ph́ phà khói thuốc se x́ ke làm lâng lâng tâm thần đê mê trong chốc lát.


    Tôi buồn bả lắc đầu : Các em cứ ra đi để sống, c̣n anh và Th/u Tùng phải ở lại sống chết cùng Bạch Mă.


    Thấu hiểu v́ Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm và phải chấp hành Quân Lệnh của thượng cấp, dù chưa biết đó là đúng hay sai? ( 30/4/1975 ? ) nhưng phải thi hành trước khiếu nại sau????. nên tôi và Tùng đành chấp nhận ở lại cùng Bạch Mă. Rất may tụi vẹm vc và cả Địa Phương Quân bên kia núi không biết anh em ra đi để lại Bạch Mả chỉ c̣n có 2 người thức trắng 2 đêm canh gác. Sau 2 ngày th́ Chuẩn Uư Đàm Quang Phong được lệnh dẩn một số anh em gồm các Toán và vài anh em 723 sau khi trể phép,dù chuồn đi chơi,bị quân cảnh bắt, lội bộ đường rừng lên bổ sung cho chúng tôi. V́ vậy Ch/uư Phong không phải mang danh xưng một Toán nào của Đ72 lên hổ trợ chúng tôi cả. Chuẩn Uư Phong cho biết khi anh em Toán 723 do TS Thanh Phong ( Phong đen ) hướng dẩn bỏ Bạch Mă hướng dẩn lội bộ đường rừng về Đá Bạc th́ Th/tá Minh và cả BCH Đoàn 72 hoảng lên lính quưnh quáng như gà mắc đẻ, vội vàng ra lệnh C/uy Phong dẩn vài anh em lên bổ sung quân số Bạch Mă liền. Cũng c̣n may đó, tôi và Th/u Tùng c̣n ở lại , nếu không th́ bị lột loong rớt chức hết cả rồi. Sau đó chiến sự xẩy ra như trong bài “Một Quăng Đời Tôi ” do nhà tôi đă diển tả vào năm 2008.


    Anh Hoà ơi !


    Từ bài Đỉnh Bạch Mă và phi vụ tiếp tế cuối cùng của anh KB. Phan văn Phúc là Nhân Duyên đưa đến bài MỘT QUĂNG ĐỒI TÔI mà đă do nhà tôi Cúc, ghi lại từ năm 2008. Hảy suy gẩm về NHÂN DUYÊN để thấy những ǵ đến trong quăng đời tạm bợ phù du của chúng ta. Chúc vui khỏe .


    Thân mến.



    Người xứ Trâu - Hậu


    TB: Nói đến TS Nguyễn Thanh Phong ( Phong Đen ) của Toán 723 th́ cả đoàn 72 ai cũng biết bản tính bạt mạng ngang tàng. Phong thường chơi với Hiệp; Điệp. Hiệp th́ đang sống ở Dayton , OH . và mỗi lần qua thăm bà con là tôi có ghé thăm Hiệp. Nghe đâu Điệp th́ ở San Jose ? Phong rất thương tôi và nhiều lần bảo vệ tôi trong những chốn ăn chơi pha chút bụi đời theo gót giày sô ở Nha Trang, Cây số 17 , Huế , Kontum. Và khi Trưởng Toán 723 bị xa rời anh em để lên Đoàn 75 là lúc xẩy ra "thảm nạn" ở Đ72(có phải giọt nước làm tràn ly không?).


    Con cúi đầu cầu xin Ơn Trên tha thứ cho chúng con.

  9. #249
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Đoàn 72 Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật
    P2


















    Những con sóng nhỏ tung tăng dưới ḍng nước trong queo, từng đợt và từng đợt thật nhẹ, những viên sỏi vàng, nâu, đen, đục màu nằm yên lặng và hững hờ theo năm tháng, bải biễn ngắn và thật vắng v́ đây là khu quân sự.
    Chiếc cầu tàu dài bằng gổ thông cũng ngả màu xám đục, nằm phía trên mặt nước khoảng vài gang tay, bên hông một vài vỏ xe và những cuộn dây thừng làm vật đệm cho tàu cập bến. Tiếng đưa kẽo kẹt lung linh phăn hồi theo ḍng nước, những ngọn gió nhè nhẹ kéo về từ đèo Hăi Vân theo sóng nước về đây từng chập, phía trên ôm theo sườn núi, con đường tráng nhựa đen, những hơi nóng bóng loáng trên đường của buổi trưa, không xa là lối lên núi của đài kiễm báo Sơn Trà ngự trị tại vùng này không biết từ bao giờ hướng về phương Bắc cảnh báo không phận và ǵn giữ cho an sinh của miền Nam.
    Bên tay phài cây cầu này là Bộ Chỉ Huy Sở Pḥng Vệ Duyên Hải, Nha Kỹ Thuật, sau những chuyến công tác miền Bắc giờ đây yên lặng và nhộn nhịp hẵn lên với những chuyến xe Jeep chạy thật nhanh vào xế chiều, đầy nhóc những anh em Biệt Hải từ Hoàng Sa và Trường Sa mới về, một số băng bó trên người mang những thương tích trong trận kịch chiến với Hài Quân Trung Cộng từ những ḥn đảo xa vừa về.
    Phía cuối con đường nh́n về những dăy trường sơn dâm ra biễn trùng điệp, là Bộ Tư Lệnh Hài Quân Vùng 1 Duyên Hải, một ḿnh một cỏi, phía bên phải của con đường trước khi đến băi biễn Tiên Sa nh́n về phía đồi hoa Sim là doanh trại Biệt Hải. Những tóan Hải kích một thời chế ngự các mật khu đường biển khắp mọi miền đất nước.
    Đối diện với cầu tàu, băng qua đường là nơi đồn trú của Đoàn Công Tác 72 Nha Kỹ Thuật v́ triền núi dốc thẵm mới nh́n vào như lối kiến trúc 2 tầng. Cột cờ ngay cồng bước vào cũng là nơi tập họp điểm danh và chào cờ, phía tay phài dẫy văn pḥng các ban tham mưu phía sau là khu truyền tin với những cột antenna dù căng cao, phía cao hơn trên đồi phía sau Đoàn là bải đáp trực thăng, bên tay trái dăy nhà tiếp liệu ban 4, nơi trang bị và tiếp liệu cho các toán Công Tác xâm nhập, phía trên cao sau con đường dốc là Câu lạc bộ và cạnh đó cũng là nơi pḥng ngủ của các Liên Toán Trưởng và Sỉ Quan tham mưu trong đoàn, dẫy nhà kế tiếp nơi pḥng ngủ của các Toán Trưởng kế tiếp là Bệnh Xá của Sở Công Tác, bên cạnh có một cái miếu có ghi tên cửa các Chiến Sĩ Biệt Hải đă Hy Sinh khi thi hành Công Tác tại miền Bắc.
    Đối diện phía dưới là pḥng ngủ của các toán chính giữa khu với dăy nhà tiếp liệu là khu giặt đồ với một hồ nước thật lớn một ngựi đàn ông lớn tuồi ủi áo quần và một cháu gái phụ giúp giặt giũ. Đằng sau dẫy pḥng của anh em Toán là khu gia binh cho những anh em không c̣n độc thân.
    Sau những chuyến công tác dài trút ḅ những nặng nhọc từ balô, súng, dây đạn, áo mưu sinh, đồ xâm nhập, giày map, dội vào người một nón sắt nước lạnh từ thùng xăng loại 50 gallons cắt miệng, nước lạnh và đục màu rong phía đáy, mùi nước suối dư âm của rừng rú dội vào người như trút bỏ mọi hiễm nguy sau lưng, bỏ lại rừng hoang với tiếng chim kêu buổi sáng, tiếng côn trùng gào thét suốt đêm thâu, tiếng súng A.K tín hiệu liên lạc của địch quân, và cuối tùng là tiếng động cơ trực thăng theo gíó đưa về trong ngày triệt xuất, tiếng ḥ hét của địch quân tràn xuống sườn đồi và cuối cùng tất cả đều bỏ lại sau lưng trở lại căn pḥng nhỏ bé này và cuộc đời vẫn tiếp tục trôi vô định.

    http://doan72.blogspot.ca/

  10. #250
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TRẠI LLĐB A SHAU
    BÁO CÁO TỔNG KẾT TRẬN ĐÁNH




    TỔNG QUÁT
    Trại LLĐB A Shau được xây dựng nhằm mục đích theo dơi đường biên giới, phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch trong khu vực trách nhiệm. A Shau nằm về hướng tây nam thành phố Huế, chỉ cách biên giới Lào khoảng 5 cây số về phiá đông, tọa độ YC494834. Vị trí chiến lược của căn cứ A Shau gần ba con đường xâm nhập chính từ bên Lào qua Việt Nam, vào khu vực thung lũng A Shau, A Lưới (Aloui), nên bị địch khuấy phá thường xuyên bằng những đơn vị cấp nhỏ cho đến khi bị tấn công, bắt đầu từ ngày 9 tháng Ba năm 1966.
    Sắc dân thiểu số sống trong khu vực A Shau trước khi trận tấn công xẩy ra là người Katu, họ sống rất bí mật và thù nghịch với những người lạ (LLĐB Hoa Kỳ, Việt Nam). Và họ được địch quân móc nối hay có cảm t́nh với địch. Những quân nhân LLĐB Việt, Mỹ đến A Shau, xây dựng trại LLĐB chưa hề “làm bạn” được với người Katu.
    Tin tức thời tiết cho biết, trong những ngày 9, 10, 11, 12 tháng Ba, thời tiết rất xấu, có nhiều mây che phủ bầu trời, sương vào buổi sáng sớm và bầu trời xuống thấp dưới 2000 bộ. Quân đội Bắc Việt lợi dụng thời tiết xấu, tránh được hỏa lực yểm trợ của phi cơ, tấn công trại LLĐB A Shau. Ngoài ra phiá Đồng Minh c̣n gặp trở ngại trong việc xử dụng trực thăng, đổ quân tiếp viện, cũng như tái tiếp tế cho căn cứ.
    Trong khu vực thung lũng, cỏ tranh cao hơn đầu người (cỏ voi, elephant grass), cao từ 8 đến 12 bộ, che phủ khắp thềm thung lũng, và xung quanh trại LLĐB A Shau. Do đó vấn đề quan sát từ phi cơ quan sát cũng như từ trong căn cứ, để khám phá địch quân rất khó khăn, ngay cả những đơn vị cấp lớn của địch di chuyển trong thung lũng. Lẽ dĩ nhiên ngoại trừ khi địch quân di chuyển trên những con đường ṃn. Nơi hướng đông phi đạo (trại LLĐB nào cũng có một phi đạo ngắn để phi cơ C-123, 130 đáp xuống đem theo đồ tiếp tế cho căn cứ) và khu vực phiá nam căn cứ có những băi ḿn cũ, không ai dám đi lại nên cỏ tranh mọc dầy đặc mà không ai dám ra cắt cỏ phát quang.



    T̀NH H̀NH QUÂN BẠN
    T́nh h́nh quân bạn trước khi trận tấn công được báo cáo như sau: những toán tuần tiễu trong ngày 18, 19, 24, 25 tháng Hai tịch thâu được nhiều tài liệu của địch cho biết trại LLĐB A Shau đang bị địch quân ḍ thám, điều nghiên để tấn công. Ngày 5 tháng Ba, một đơn vị gồm 30 dân sự chiến đấu, do hai quân Mũ Xanh LLĐB Hoa Kỳ chỉ huy, lục soát cách căn cứ khoảng hai cây số về hướng nam, nhưng không gặp địch. Ngày 6 tháng Ba, một đại đội DSCĐ ra ngoài lục soát khu vực nơi hướng đông nam căn cứ, với nhiệm vụ tấn công những vị trí đóng quân của địch. Mục tiêu này do phi cơ thám thính t́m ra, trong chuyến bay bao vùng trại LLĐB ngày hôm qua. Chuyến hành quân lục soát này dự trù sẽ kéo dài hai ngày.
    Trong khi đó, hai binh sĩ Bắc Việt đào ngũ đến trại LLĐB A Shau tŕnh diện. Họ cho biết bốn tiểu đoàn chính quy Bắc Việt sẽ tấn công căn cứ ngày 11 và 12 tháng Ba và các đơn vị Bắc Việt đă chuyển quân vào trong thung lũng. Dựa vào nguồn tin này, đại đội DSCĐ đang lục soát bên ngoài được gọi về pḥng thủ căn cứ. Toán quân về đến căn cứ an toàn, không chạm địch.
    Ngày 6 tháng Ba, một toán tuần tiễu được lệnh thám sát khu vực cách căn cứ khoảng 2 cây số về hướng tây bắc, t́m vị trí đặt súng cối của địch. Toán này t́m không thấy vị trí súng cối của địch nên quay trở về căn cứ. Bộ tư lệnh Quân Đoàn I khước từ nhiều lần điện văn xin tăng cường cho trại LLĐB A Shau, bộ chỉ huy C1 LLĐB ở Đà Nẵng yêu cầu bộ chỉ huy liên đoàn 5 LLĐB/HK ở Nha Trang gửi quân tiếp viện. Ngày 7 tháng Ba lúc 4:40 chiều, một đại đội xung kích tiếp ứng Mike Force với 141 dân sự chiến đấu, 7 LLĐB/HK và 7 người thông dịch viên đến tăng cường khả năng pḥng thủ, tuần tiễu trại LLĐB A Shau.
    Có thêm viện binh, quân trú pḥng đưa các toán tuần tiễu ra ngoài, lục soát cách căn cứ khoảng 1, 2 cây số về các hướng: bắc, tây bắc và nam, t́m các khu vực đóng quân của địch. Những cuộc tuần tiễu trở về báo cáo không thấy các hoạt động của địch. Những toán phục kích đêm, trở về cũng không gặp những dấu vết của địch quân. Trong khoảng từ ngày 4 đến 8 tháng Ba, phi cơ quan sát bao vùng báo cáo, t́m thấy nhiều vị trí đặt súng, hầm hố mới đào và cả vị trí cho súng pḥng không của địch.
    Những điều phi cơ quan sát cho biết, ăn khớp với lời khai của hai binh sĩ Bắc Việt đào ngũ, địch quân đang chuyển quân vào thung lũng A Shau và sẽ tấn công trại LLĐB. Không quân chiến thuật, các phản lực cơ Hoa Kỳ được điều động lên đánh phá những mục tiêu do phi cơ quan sát t́m thấy. Tuy nhiên kết quả không được kiểm chứng v́ nhiều mây và sương mù trong thung lũng. Ngày 7 tháng Ba, phi cơ thả truyền đơn, cùng với loa phóng thanh, khuyến cáo binh sĩ Bắc Việt đào ngũ. Đến tối ngày 8 tháng Ba, trong trại LLĐB A Shau có: 220 DSCĐ, 141 Mike Force, 9 thông dịch viên, 41 thường dân, 6 LLĐB/VN, 17 LLĐB/HK.



    DIỄN TIẾN TRẬN TẤN CÔNG
    Trong đêm ngày 8 tháng Ba, trước khi trận tấn công bắt đầu, vị chỉ huy trại LLĐB A Shau ra lệnh báo động trong căn cứ v́ biết chắc quân đội Bắc Việt sẽ tấn công. Tất cả mọi người phải ở tại vị trí chiến đấu. Khoảng 7:30 tối, một tiểu đội địch quân bị phát giác nơi đầu hướng bắc căn cứ và bên trong căn cứ xử dụng súng cối tác xạ. Lúc 11 giờ đêm, căn cứ báo động v́ nghe nhiều tiếng động, đào hầm hố nơi hướng nam. Lúc 1:30 sáng, căn cứ cho nổ qủa ḿn Claymore về hướng có âm thanh địch quân cắt hàng rào, kẽm gai.
    Đến 3:50 phút sáng ngày 9 tháng Ba, địch quân pháo kích nặng nề vào trại LLĐB A Shau bằng súng cối 82 ly. Trận pháo kích kéo dài đến 6:30 phút sáng. Khoảng 4:30 sáng, hai đại đội lính Bắc Việt mở đợt tấn công đầu tiên vào hướng nam căn cứ. Quân trú pḥng phản ứng dữ dội làm địch quân phải rút lui. Tuy nhiên trận pháo kích của địch rơi vào căn cứ rất chính xác, trúng pḥng ngủ LLĐB/HK, pḥng chứa đồ tiếp liệu, bồn nước, hư hại hầm truyền tin làm sự liên lạc với bên ngoài tạm ngưng để sửa chữa. Sau đó phải xử dụng hệ thông truyền tin của LLĐB/VN từ lúc 8:00 sáng và Hoa Kỳ lúc 9:20 phút sáng. Tổn thất nhân sự sau ba tiếng đồng hồ pháo kích: 2 LLĐB/HK tử trận, 5 LLĐB/HK bị thương, 25 DSCĐ bị thương, 7 Mike Force tử trận, 14 Mike Force bị thương, 1 thường dân chết, 1 thường dân bị thương. Sau đó địch quân tiếp tục pháo kích lai rai và xử dụng súng bắn tỉa cả ngày.
    Đến 11:00 giờ sáng ngày 9 tháng Ba, các phản lực cơ Hoa Kỳ được gọi lên oanh kích nơi hướng bắc và nam căn cứ. Nhưng trời có nhiều mây, máy bay thám thính FAC không thể quan sát để điều động trận đánh bom nên không có hiệu quả, và đến 3:06 phút mọi phi vụ oanh kích phải ngưng v́ mấy đă che phủ bầu trời dầy đặc. Khoảng 10:15 phút trại LLĐB A Shau yêu cầu tiếp tế thêm đạn dược và di tản thương binh. Yêu cầu được hai chiếc máy bay quan sát L-19 bay vào và chỉ di tản những người bị thương nặng. Tuy vậy chỉ di tản được một quân nhân LLĐB/HK, thượng sĩ Robert I. Gibson, v́ bị súng của địch bắn lên.
    Khoảng một giờ chiều, một phi cơ vận tải C-47 bay đến căn cứ. Chiếc máy bay, bay theo hướng tây bắc xuống đông nam và bị trúng đạn pḥng không khi hạ thấp cao độ xuống thung lũng. Viên phi công định bay ṿng qua phiá đông, nhưng vẫn bị trúng đạn từ những sườn núi xung quanh thung lũng, rơi xuống đất cách trại LLĐB khoảng năm dặm về hướng bắc. Trực thăng vào cứu được ba nhân viên phi hành đoàn, ba người khác tử trận.
    Đến 2:15 phút chiều, một phi cơ thả dù tiếp tế đạn dược, dụng cụ cứu thương rơi ra ngoài hàng rào, nhưng một đơn vị trong căn cứ ra ngoài đem về được. Đến 4:30 phút, một phi cơ C-123 khác thả thêm mấy kiện hàng tiếp tế, đạn dược, quân trú pḥng chỉ thâu hồi được khoảng 50% v́ địch từ trên sườn núi bắn xuống dữ dội. Đến 5 giờ chiều, phi cơ thả thêm một đợt tiếp tế cho căn cứ, cũng chỉ thâu hồi được một nửa, và một trực thăng UH-1 bay vào căn cứ di tản thương binh. Chiếc này bị trúng đạn không cất cánh lên được, người Hoa Kỳ phải gửi lên căn cứ một trực thăng CH-53 di tản được 26 người bị thương, trước khi trời tối.
    Khi màn đêm xuống, tất cả mọi người trong căn cứ phải ra pḥng tuyến, đề pḥng địch tấn công trở lại, những binh sĩ khác lo sửa chữa, dọn dẹp căn cứ v́ trận pháo kích và một phi cơ bay bao vùng, thả hỏa châu chiếu sáng cả đêm.
    Đúng 4:00 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, trại LLĐB A Shau lại nhận thêm một đợt pháo kích mới, rất chính xác, bằng súng cối 82 ly và đại bác không dật 57 ly bắn thẳng từ sườn núi vào trong căn cứ. Đợt pháo kích này phá hủy gần hết những căn nhà tiền chế trong căn cứ. Tất cả mọi nơi đều trúng đạn pháo kích của địch. Trận pháo kích tiếp tục suốt cả ngày, cho đến khi căn cứ chịu đựng hết nổi, phải di tản lúc 5:30 chiều. Mấy khẩu đại bác không dật của địch bắn hư hại hơn một nửa số súng cộng đồng trong căn cứ.
    Vào lúc 5:00 giờ sáng, quân đội Bắc Việt mở trận tấn công lớn, từ hướng đông, bên kia phi đạo và hướng nam. Hai tuyến pḥng thủ này yếu nhất v́ có nhiều cỏ tranh rất cao. Tuyến pḥng thủ hướng đông nam do đại đội DSCĐ không c̣n khả năng chiến đấu nữa, lui vào bên trong. Trong khi đó đại đội xung kích Mike Force với hai cố vấn LLĐB/HK vẫn c̣n chống đỡ pḥng tuyến phiá nam, phải kéo qua trám lại pḥng tuyến. Đại đội xung kích Mike Force phải chiến đấu tận lực, nhiều pha đánh cận chiến, cầm cự thêm ba tiếng đồng hồ. Đến 8:00 giờ sáng, pḥng tuyến phiá nam xụp đổ, DSCĐ, Mike Force rút vào thủ xung quanh hầm chỉ huy (trung tâm hành quân) nơi pḥng tuyến phiá bắc. Đến 8:30 phút sáng, pḥng tuyến phia đông cũng bị chọc thủng, các DSCĐ sống sót rút vào bên trong, bố trí xung quanh hầm chỉ huy.
    Từ 6:00 sáng, các phản lực cơ Hoa Kỳ đă lên đánh bom xuống hai hướng bắc và nam căn cứ nhưng phi cơ quan sát không kiểm chứng được kết qủa v́ lớp mây và làn sương sớm quá dầy. Đến 8:30 phút sáng, lực lượng trú pḥng chỉ c̣n giữ được một phần nơi pḥng tuyến phiá bắc bao gồm hầm chỉ huy. Địch tấn công vào khu vực xung quanh hầm chỉ huy, nhưng các binh sĩ chống trả quyết liệt, đẩy lui. Hai khẩu súng cối 81 và 60 ly vẫn c̣n tác xạ, nhưng bị đại bác 57 ly của địch bắn trúng hư hỏng lúc 12:00 giờ trưa.
    Đến 9:00 giờ sáng, không quân Hoa Kỳ lên oanh kích dữ dội gây tổn thất nặng cho quân Bắc Việt đă vào chiếm giao thông ḥa nơi pḥng tuyến phiá nam. Các quân nhân Mike Force, sống sót dưới quyền đại úy LLĐB/HK Blair, cố gắng phản công lấy lại pḥng tuyến phiá nam nhưng không thành công, phải lui về pḥng thủ xung quanh hầm chỉ huy.
    Đến 10:00 giờ sáng, chỉ huy toán A-102 LLĐB/HK (trại LLĐB A Shau), yêu cầu dội bom lên tất cả căn cứ ngoại trừ pḥng tuyến phiá bắc và hầm chỉ huy. Nhờ quyết định táo bạo này, các phản lực cơ Hoa Kỳ lên đánh bom từ 10:00 đến 12:00 trưa, làm khựng lại tất cả các đợt tấn công của địch vào hầm chỉ huy.
    Lúc 12:15 phút, một phi cơ vận tải CV-2 thả xuống tiếp tế nước uống và đạn dược, nhưng tất cả rơi vào tay địch quân. Cùng khoảng thời gian đó, một khu trục cơ A-1 Skyraider bị hỏa lực pḥng không bắn trúng, đáp khẩn cấp ngay trên phi đạo và may mắn được một chiếc A-1 khác đáp xuống cứu, bay thoát.
    Từ 12:15 đến 2:00 giờ chiều quân Bắc Việt vẫn không tiến lên được, mặc dầu hầm chỉ huy đă trúng nhiều đạn đại liên, nhưng được xây rất kiên cố. Tuy nhiên quân Bắc Việt vẫn tiếp tục dùng súng cối 82 ly bắn vào căn cứ.
    Từ 2:30 đến 4:30, lực lượng pḥng thủ kiệt sức, t́nh trạng nguy ngập. Tất cả vũ khí cộng đồng đều đă hết đạn hoặc bị hư hại. Các quân nhân DSCĐ, Mike Force đă phải chiến đấu liên tục hơn 36 tiếng đồng hồ, hết nước uống và đồ ăn. Quân Bắc Việt đă tràn vào chiếm những hầm hố, giao thông hào tại những pḥng tuyến đă chiếm được.
    Từ lúc 3:00 giờ chiều, trong bộ tư lệnh Đệ Tam Thủy Bộ (chỉ huy 2 sư đoàn TQLC 1 và 3 Hoa Kỳ), đă có quyết định, xử dụng trực thăng của TQLC/HK di tản những quân nhân sống sót trại LLĐB A Shau. Cấp chỉ huy LLĐB/HK trong căn cứ đă được lệnh phá hủy những ổ súng cộng đồng (thực ra đă bị trúng đạn hư hại) để chuẩn bị di tản vào lúc 5:00 giờ chiều.
    Đúng 5:00 giờ chiều, trong hầm chỉ huy căn cứ, các quân nhân LLĐB phá hủy máy móc truyền tin, được DSCĐ nơi tuyến pḥng thủ phiá bắc bắn yểm trợ cho họ rút lên hướng bắc cùng với những quân nhân sống sót.
    Đúng 5:20, tất cả các quân nhân sống sót được lệnh rút lui đến một băi đáp trực thăng, cách căn cứ khoảng 300 thước. Tất cả những người c̣n đứng vững phải ở lại nằm cản cho cuộc rút lui, và sẽ đi sau. Địch quân đă biết được chuyện di tản pháo kích lên băi đáp, gây thêm tổn thất. Hợp đoàn trực thăng cấp cứu gồm có 15 chiếc trực thăng H-34, được bốn trực thăng UH-1 vơ trang hộ tống vào đón những quân nhân sống sót. Và lẽ dĩ nhiên các phản lực vẫn bay bao vùng ở trên cao.
    Tuy nhiên v́ mây che phủ, nhiều trực thăng không vào được. Khi chiếc trực thăng đáp xuống, dân sự chiến đấu người Thượng đă quá sợ hăi tranh dành lên đầy một trực thăng làm một chiếc không cất cánh được, sau đó trúng mănh đạn pháo kích hư hại, phải bỏ lại. Chuyến đầu chỉ đem về được 69 quân nhân, trong đó có bốn LLĐB/HK đă bị thương. Hai trực thăng chở quân H-34 bị pḥng không bắn rơi. Đến 5:45 phút, trực thăng không thể vào đón chuyến nữa v́ hỏa lực pḥng không của địch, vị chỉ huy trưởng bộ chỉ huy C-1 LLĐB ngoài Đà Nẵng tuyên bố trại LLĐB A Shau đóng cửa.
    Đến 6:00 giờ chiều, số quân nhân sống sót c̣n kẹt lại, gồm có: 7 quân nhân Mũ Xanh LLĐB/HK, trong đó có một người bị thương nặng, 40 quân xung kích Mike Force, 50 dân sự chiến đấu và phi hành đoàn hai trực thăng TQLC/HK. Người lính LLĐB/HK bị thương đă chết gần băi đáp trực thăng. Toán quân này buộc phải di tản tự lực, tránh né địch quân, di chuyển lên hướng tây bắc, lên thiết lập vị trí pḥng thủ trên một khu đất cao, cách trại LLĐB A Shau chừng hai cây số.
    Đến 2:00 giờ sáng, không thấy địch quân đuổi theo, họ tiếp tục đi lên hướng bắc. Trong lúc di chuyển, một số quân nhân kiệt sức bị bỏ rơi, hoặc đi lạc v́ trời tối. Qua ngày 11 tháng Ba, trực thăng cứu được một LLĐB/HK, phi hành đoàn trực thăng TQLC/HK và một số quân Mike Force, DSCĐ. Một số khác vẫn tiếp tục đi về hướng bắc, được trực thăng t́m thấy, cứu đưa về Huế ngày 11 tháng Ba. Trong các ngày kế tiếp, 12, 13, 14, phi cơ quan sát Hoa Kỳ bao vùng, cố t́m thêm số quân thất lạc, nhưng... Qua ngày 16 tháng Ba, cuộc t́m kiếm coi như chấm dứt.




Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •