Page 3 of 33 FirstFirst 123456713 ... LastLast
Results 21 to 30 of 326

Thread: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN


    Binh Chủng Nhảy Dù - 20 Năm Chiến Sự


    Tổng Công Kích Năm MẬU THÂN - Kể từ ngày 29/1/1968



    Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và công cụ của họ là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) đă xuất toàn lực đánh lén Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) vào những ngày đầu Tết Mậu Thân trong năm 1968 trên khắp lănh thổ Miền Nam khi họ đột ngột không giữ lời đề nghị ngưng chiến do chính họ đưa ra. Cộng Sản Bắc Việt cũng đă không nghĩ ǵ đến 3 ngày Tết Nguyên Đán, ngày truyền thống của dân tộc, những ngày đầm ấm nhất của xứ sở mỗi năm, hay sự yên vui của đồng bào để xum họp và cúng bái tổ tiên, một tập tục thiêng liêng từ ngàn xưa. Tuy mưu mô đă khéo, thuật xảo sắp đă hay, tiếng súng của Cộng Sản chỉ tạo được lợi thế bất ngờ trong vỏn vẹn ít tiếng đồng hồ ở thủ đô Saigon và một số thị trấn của Việt Nam Cộng Ḥa. Tính chung, Cộng Sản đă thảm bại v́ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă phản ứng rất mau lẹ. Và ngược lại điều tai hại cho họ là đă đụng đầu với sự lạnh nhạt của đồng bào Miền Nam khắp nơi.

    Ngày Tết đến, người dân thành thị đă đón mừng Xuân Mậu Thân 1968 với tiếng pháo liên hồi. Tết Mậu Thân là Tết nhiều pháo nổ hơn mọi Tết khác rất nhiều. Giới giàu có, giới mại bản đốt những tràng pháo năm bảy thước và đốt rất nhiều. Giới ít tiền cũng tranh hơi cố gắng bỏ tiền đốt một vài tràng pháo đón Xuân lấy hên.

    Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến do chính họ long trọng ưng thuận Việt Cộng đă mở cuộc tổng công kích trên toàn thể miền Nam tự do để đánh vào các lực lượng của quân đội VNCH trong giờ phút uy linh đón mừng Xuân mới. Đột nhiên xen lẫn giữa tiếng pháo mừng Xuân, tiếng súng Việt Cộng bùng nổ. Hậu phương đang thanh b́nh, trong giây phút biến thành tiền tuyến.

    TẾT MẬU THÂN

    Đêm giao thừa 30 Tết, tức ngày 29/1/1968, Việt Cộng đồng loạt tấn công vào 5 thị xă thuộc Vùng 2 Chiến Thuật: ( 5 Tỉnh thành nầy thuộc Quân Khu 5 của CSBV họ theo lịch của Hà Nội nên giao thừa trước một ngày nên không đồng loạt với các cánh quân khác)

    Thị xă Nha Trang lúc 0 giờ 30.

    Thị xă Darlac lúc 1 giờ 30.

    Thị xă Kontum lúc 2 giờ 00.

    Thị xă Qui Nhơn lúc 4 giờ 10.

    Thị xă Pleiku lúc 4 giờ 40.

    Đồng thời, Việt Cộng pháo kích và đột nhập vào Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 lúc 3 giờ 40 sáng. Cũng trong đêm này, Việt Cộng đột kích vào Chi Khu Hội An, pháo kích vào thị xă Quảng Trị, phi trường Đà Nẵng, phi trường Non Nước về phía Nam Đà Nẵng khoảng 4 km và pháo kích tấn công nhiều đồn bót lẻ tẻ trên toàn quốc. Cả 5 thị xă kể trên và Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 đều bị Việt Cộng lọt vào. Tuy nhiên tại Qui Nhơn, Nha Trang và Pleiku áp lực Việt Cộng đă được giải tỏa nhanh chóng. Tổng hành dinh Quân Đoàn 1 cũng đẩy lùi địch quân trong vài giờ đồng hồ. Các lực lượng Việt Cộng tại các thị xă Ban Mê Thuột và Kontum cũng bị đẩy lui ngay. Tuy nhiên, tại hai thị xă này, Việt Cộng đă bám sát và tạo áp lực mạnh quanh vùng. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân đội VNCH mới hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh. Khi xảy ra vụ tấn công đêm giao thừa, chính quyền trung ương VNCH đă thông báo ngay cho các địa phương biết để kịp pḥng bị.

    Sáng ngày Mồng Một Tết (30/1/1968),trên đài phát thanh quốc gia Saigon Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tố cáo Việt Cộng vi phạm trắng trợn việc hưu chiến trong dịp Tết và tuyên bố hủy bỏ lệnh ngưng bắn của Chính Phủ VNCH.

    Đêm mồng 1 Tết, tức 24 giờ sau các cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ miền Cao nguyên và miền Trung, Việt Cộng mở các cuộc tấn công vào đô thành Saigon - Chợ Lớn và các tỉnh lỵ miền Nam. Tính theo kế hoạch tổng công kích, Việt Cộng đă đồng loạt mở các cuộc tấn công và đột kích vào 25 tỉnh lỵ và thị trấn trong số 44 Tỉnh của VNCH ( xem bản đồ phía trên) thời gian như sau:

    Tại Vùng 1 Chiến Thuật :

    Huế bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ

    Quảng Trị bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ

    Quảng Tín bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ

    Quảng Ngăi bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ

    Tại Vùng 2 Chiến Thuật:

    B́nh Thuận bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 3 giờ 25

    Tuyên Đức bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 Tết lúc 02 giờ

    Tại Vùng 3 Chiến Thuật:

    Thủ đô Saigon - Chợ Lớn - Gia Định bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ.

    B́nh Dương bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04g25

    Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh bị tấn công lúc 08g30 sáng mồng 2 Tết

    Biên Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ

    Long Khánh bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 Tế lúc 01 giờ

    Tại Vùng 4 Chiến Thuật:

    Phong Dinh bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 03 giờ

    Vĩnh Long bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 lúc 03g30

    Kiến Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ

    Định Tường bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04 giờ

    Kiên Giang bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 02g40

    Vĩnh B́nh bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 4g15

    Kiến Tường bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 lúc 04g15

    Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44 bị tấn công đêm mồng 6 rạng mồng 7 lúc 1g25

    G̣ Công bị tấn công đêm mồng 7 rạng mồng 8 âm lịch lúc 2g35

    Bạc Liêu bị tấn công đêm 12 rạng 13 âm lịch, tức ngày 10/2/68

    Như vậy trong 44 tỉnh lỵ, Việt Cộng đă tấn công vào 28 nơi.Cuộc tấn công của Việt cộng kể ra cũng khá linh hoạt, tuy không diễn ra trong một lúc nhưng khoảng cách của các trận đánh ở các tỉnh lỵ không quá rời rạc.

    Tại Sàig̣n, Quân Lực VNCH kịp thời đưa quân tặng viện vào thủ đô để đối phó. Quân số trực tiếp tham chiến tại thủ đô tính đến ngày 4 tháng 2/1968 đă lên hơn 10 tiểu đoàn, không kể các lực lượng Cảnh Sát đô thành.
    Last edited by alamit; 18-01-2012 at 06:23 AM.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN

    TRẬN MẬU THÂN

    Măt Trận Sài G̣n

    Lịch Sử Sài G̣n.

    Địa danh Sài G̣n tồn tại trên nhiều thế kỷ, khoảng trên 300 năm, trước đó Sài G̣n có nhiều tên khác nữa. Đến năm 1668 Sài G̣n có tên là Huyện Tân B́nh, lúc này chỉ khoảng 5,000 km², phía Tây là sông Sài G̣n.

    Vào thời kỳ cổ đại, Sài G̣n thuộc đế quốc Phù Nam. Đầu thế kỷ 17 vùng đất này, lúc đó là một làng nhỏ, dân cư thưa thớt và mang tên Prei Nokor, nằm trong khu vực tranh chấp giữa Chân Lạp và Chiêm Thành.

    Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II ( năm 1920 cưới Công Chúa Ngọc Vạn của Chúa Nguyễn ) cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Cùng khi đó, người Việt bắt đầu tập trung sinh sống tại xung quanh hai đồn này. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành trung tâm thị tứ công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.

    Năm 1698, chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chánh, chia đặt tỉnh lỵ v.v.. Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài G̣n làm huyện Tân B́nh, đặt ra hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định), ("Trấn" là khu vực quân sự, chưa ổn định việc cai trị). Từ đó, xứ Sài G̣n trở thành huyện Tân B́nh, huyện sở đặt ở làng Tân Khai. Những xóm làng đầu tiên của Sài G̣n là xóm Ḥa Mỹ (gần đường Cường Để) xóm Tân Khai (đường mé sông khoảng cầu Mống), xóm Long Điền, xóm Than, xóm Bàu Sen (cây Mai), xóm Phú Giáo, xóm Ḷ Bún, xóm cây Củi, xóm Rẫy Cải, xóm Ụ Ghe. Sài G̣n trở thành một thị trấn đông đúc với hơn một vạn dân và Minh Hương là xă đầu tiên của người Hoa tại Tân B́nh.

    Năm 1790, Sài G̣n được nâng lên thành Kinh Gia Định, nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn. Vào năm 1802, dưới triều vua Gia Long, Gia Định Kinh được đổi thành Thành Gia Định (v́ kinh đô là Huế), thuộc Trấn Gia Định.

    Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, thành Gia Định bị phá huỷ, một thành mới nhỏ hơn gọi là thành Phụng được xây dựng. Thành này không chống nổi cuộc vây hăm của quân Pháp vài năm sau đó.

    Vào năm 1859 sau khi chiếm được Sài G̣n, người Pháp đă gấp rút quy hoạch xây dựng Sài G̣n thành một đô thị lớn. Ngày 11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô đốc Charner ra nghị định xác định địa giới Sài G̣n lúc đó: phía đông là sông Sài G̣n, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Ḥa, diện tích 25 km².

    Từ năm 1954 sau Hiệp định Genève, Sài G̣n chính thức là Thủ Đô của Việt Nam Cộng ḥa. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm kư sắc lệnh số 143-NV đổi "Đô thành Sài G̣n-Chợ Lớn" thành "Đô thành Sài G̣n" và chia thành 8 quận hành chính (được đánh số: Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8), dưới quận là phường (có 54 phường), dưới phường là khóm. Đầu năm 1967 hai xă An Khánh và Thủ Thiêm của quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định kế cận, được sáp nhập vào Đô thành Sài G̣n lập nên Quận 9. Tháng 7 năm 1969 thành lập Quận 10, Quận 11 trên cơ sở tách một phần Quận 5 và Quận 6. Lúc này thành phố có diện tích 71 km² với dân số khoảng 2 triệu người.

    Thành phố tiếp tục phát triển rực rỡ và được mệnh danh là "Ḥn ngọc Viễn Đông" (The Pearl of the Far East) hay "Paris Viễn Đông" (Paris de l'Extrême-Orient), với một hạ tầng cơ sở được xây dựng khá hoàn chỉnh.

    Trong những ngày Tết Mậu Thân, VC muốn gây tiếng vang trong dư luận, đặc biệt là trong dư luận Hoa Kỳ nơi phong trào phản chiến đang lan rộng. Việt Cộng muốn cho mọi người thấy rằng ngay cả Dinh Độc Lập là biểu tượng quyền lực của miền Nam cũng có thể bị chúng uy hiếp. Chính v́ vậy mà ngay trong đợt tấn công đầu, hai mục tiêu quan trọng nhất của chúng là Dinh Độc Lập và Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ. VC tập trung nỗ lực vào các khu lao động đông dân chúng. Ư đồ của chúng là tuyên truyền và khích động dân chúng nổi dậy trong kế hoạch “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Cộng Sản Hà Nội đă ra lịnh cho c.ác cán bộ và cán binh Việt Cộng tấn công vào đô thị của VNCH phải thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng sau đây: a) phá hoại Hoa Kỳ về phương diện quân sự và chính trị, (b) phá hoại Việt Nam Cộng Ḥa bằng cách làm tan ră quân đội và làm cho quần chúng không tin tưởng ở chính quyền quốc gia, (c) đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị bằng cách xúi dục người dân nổi dậy lật đổ chánh phủ.

    Kết quả là Việt Cộng đă hoàn toàn thất bại, trong khi đó họ đă phá hủy 50,000 căn nhà của dân, đem chết chóc đến cho 14,000 đồng bào đủ cả già trẻ gái trai và "vô sản hóa" 70,000 người đa số là dân lao động. Ngoài ra điều dă man chưa từng thấy trong lịch sử loài người là họ đă xua những lực lượng gồm 7 phần 10 con nít vào ḷ lửa chiến tranh và mở những cuộc pháo kích bừa băi vào những khu gia cư nghèo khó, đông đúc không có lấy một cơ quan quân sự, để trả thù sự bất cộng tác của dân chúng.

    Cộng Sản dám làm tất cả, dùng bất cứ phương tiện ǵ dù có tàn ác nhất nếu để đạt đến mục tiêu, tức chiến thắng cho họ



    Lực lượng tham chiến của CSBV

    Cộng Sản bắt đầu tấn công vào Sàig̣n vào lúc 2.00 sáng ngày mồng 2 Tết. Việt cộng dùng lực lượng đặc công F100 để tấn công vào các vị trí quan trọng .Trong khi đó các đơn vị chủ lực từ các vùng ngoại ô tiến vào các khu đông dân cư kêu gọi dân chúng nổi dậy. Các đơn vị cộng quân tấn công vào Sài G̣n Chợ Lớn và Gia Định đặt dưới quyền điều động của BTL tiền phương phía Bắc do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ và Lê Đức Anh chỉ huy và BTL tiền phương phía Nam do Vỏ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng chỉ huy. Danh hiệu của những đơn vị Việt Cộng trực tiếp tham chiến với các mục tiêu tấn kích được ghi nhận trong nội ô đô thành và ở vùng phụ cận như sau:

    Một Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 271 (thuộc Công Trường 9) tăng cường cho TĐ/56/U80 đánh vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và vùng phụ cận.

    Các Tiểu Đoàn 267 và 269 phối hợp với thành phần của Trung Đoàn 271 đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất.

    Một tiểu đoàn của Trung Đoàn 273 Công Trường 9 tấn công Chi Khu Thủ Đức.

    Tiểu Đoàn 1 Củ-Chi, được tăng cường một tiểu đoàn của Trung Đoàn 101 (thuộc Công Trường 7) và một thành phần của Tiểu Đoàn 2 Cơ Giới đánh chiếm các căn cứ quân sự G̣ Vấp.

    Tiểu Đoàn 2 G̣ Môn phối hợp với đội đặc công J1/F100 tấn công Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) ở cổng số 4.

    Tiểu Đoàn 3 Dĩ An, c̣n được gọi là "3/165A," tấn công khu vực Hàng Xanh.

    Tiểu Đoàn 4 Thủ Đức, c̣n được gọi là "4/165A," tấn công khu xa lộ Saigon.

    Tiểu Đoàn 6 B́nh Tân, c̣n được gọi là "6/165A," tấn công vùng Phú Thọ - Bà Hạt.

    Tiểu Đoàn 508 Long An tấn công vùng B́nh Tây.

    Biệt-Động Đội F100 tấn công vào nhiều mục tiêu khác nhau, gồm đài phát thanh, cổng số 5 ở Bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Độc Lập, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ, và Ṭa Đại sứ Phi Luật Tân.



    Diển Tiến :

    6.00 giờ chiều ngày mồng 1 Tết (30/1/1968), TĐ1ND được lệnh tăng phái khẩn cấp cho Biệt Khu Thủ Đô một Đại Đội để giữ an ninh. ĐĐ15ND do Đại Úy La Trịnh Tường chỉ huy được chỉ định thi hành và đặt dưới quyền điều động của cục An Ninh Quân Đội.

    Đại Đội 15 ND chia đơn vị ra thành 3 toán, một Trung Đội trấn giữ ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ ở đường Hồng Thập Tự, một Trung Đội giữ an ninh ṿng đai cục An Ninh Quân Đội ở đường Mạc Đỉnh Chi và một Trung Đội trấn giữ trên lầu đài Phát Thanh Sài G̣n làm thành phần trừ bị cho một đơn vị Đại Đội Cảnh Sát Dả chiến và chỉ đặt một chốt chặn có 4 binh sỉ trên đường Phan Đ́nh Phùng phía trái đài phát thanh. Đến nữa đêm, t́nh h́nh vẫn yên tỉnh.

    Trong khi đó TĐ8ND chuẩn bị lên đường ra Đà Nẳng để hoán chuyển TĐ5ND về hậu cứ dưởng quân và chỉnh trang đơn vị. V́ vậy 2 Đại Đội / TĐ8ND đă sẳn sàng với trang bị đầy đũ lúc nửa đêm đă có mặt tại bải bốc Phi Trường Tân Sơn Nhất cạnh Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù chờ lên phi cơ.

    Đến 1.00 giờ sáng, (ngày 31/1/1968) VC khởi đầu tấn công vào cổng gác Nguyễn Du của Dinh Độc Lập bằng B-40 và hàng loạt AK-47. Cổng này nằm trên đường Nguyễn Du ngay góc đường Thủ Khoa Huân. VC dự tính bắn sập vọng gác nầy để vượt rào cản vào bên trong đặt chất nổ, toán Cảnh Sát Chi Tao Đàn liền nhào tới bắn trả đẩy chúng vào một cao ốc 5 tầng bỏ trống đang xây cất dở trên đường Thủ Khoa Huân và tiêu diệt.

    Sau đó lệnh báo động được ban hành, cấm tất cả mọi xe cộ kể cả xe tuần tiểu xuất nhập vào các công thự quốc gia kể cả đài phát thanh. Đúng 2.55 giờ, một xe Quân cảnh Mỹ và một xe Simca dân sự đến dừng lại trước cổng đài phát thành và bất thần tấn công toán gát cổng. 3 Binh sỉ Nhảy Dù tử thương ngay tức khắc. Lực lượng Nhảy Dù phản ứng nhanh chóng, điều động toán ứng trực trên nóc đài phát thanh và Trung Đội tại cục ANQĐ phản công quyết liệt ( Toán CSDC canh gát đă lặn mất ). Sau 2 giờ quần thảo, Trung Đội Nhảy Dù đă tiêu diệt 14 tên VC dự định đột nhập đài phát thanh để phát đi lời kêu gọi dân chúng hưởng ứng nổi dậy.

    Vào khoảng 3 giờ 45 rạng ngày mồng 2 Tết, Đại Đội 1 của Tiểu Đoàn 269 Việt Cộng xung phong vào Phi đạo Tân Sơn Nhất, tiền đồn OF 50-51 và OF 49-50. Bị phản công mạnh, Việt Cộng bèn cắt hàng rào mở một đường nhỏ xuyên qua băi ḿn để đánh xuyên hông cố gấp rút thanh toán hai tiền đồn này. Sau khi nhổ xong hai tiền đồn này, Việt Cộng bắt đầu dàn hàng ngang và di chuyển qua một băi trống ở cuối phi đạo. Tại đây Việt Cộng nh́n thấy rơ ràng một băi đậu phi cơ đủ-loại ở cách đó chừng 600 mét. Lúc đó là 5 giờ 20 sáng.

    Giữa lúc đó, hai chiến xa M-8 của lực lượng pḥng thủ xuất hiện bắn cản đường. Hai Đại Đội / TĐ8ND ( chờ lên phi cơ để không vận ra Đà Nẳng ) được lệnh tăng phái trợ chiến cho BTL Không Đoàn 33 bảo vệ phi trường. Loạt súng phản công đầu tiên đă chận đứng toán Việt Cộng khi họ chỉ c̣n cách phi đạo khoảng 400 mét. Những cán binh Việt Cộng hốt hoảng t́m chỗ ẩn nấp và bố trí nhưng không kiếm được một điểm tựa nào trong cánh đồng cỏ hoang này.

    Hai chiến xa M-8 dần dần tẻ qua hai bên rồi bắn chéo cạnh xe để nhường chính diện cho đơn vị Nhảy Dù phản công. Quân Việt Cộng đột nhiên bị dồn vào một vi thế bất lợi. Họ tháo lui và chạy vào cố thủ trong các tiền đồn đă chiếm được.

    Khoảng 8.00 giờ sáng, một đoàn thiết vận xa của Hoa Kỳ từ Củ Chi về Saigon di chuyển ngang qua phía đầu phi đạo, bị Việt Cộng bắn chận làm cháy hai chiếc. Các thiết vận xa đă phản công bắn đại bác ngay vào đồn OF 50-51 khiến Việt Cộng phải rời khỏi khu vực pḥng thủ và rút vào khu vực hăng dệt Vinatexco, sau đó lực lượng Nhảy Dù đă xung phong và chiếm lại các tiền đồn OF và bao vây Cộng quân trốn vào hảng dệt. Trong trận này có 162 Việt Cộng bỏ thây. Một xe ủi đất đă được đem đến để đào một hố rộng để chôn họ.

    Sáng mồng 2 Tết, các đơn vị Việt Cộng mưu toan đánh úp các cơ quan đầu năo của Việt Nam Cộng Ḥa đă không thành công trong đêm trước. Việt Cộng không đánh vào bất cứ một cơ quan nào của Hoa Kỳ. Và với các cánh quân nói trên, họ hy vọng ở sự tiếp tay nổi dậy của dân chúng, cố gắng lan tràn vào các khu đông dân cư. Dân chúng thấy Việt Cộng đến đâu, đều lũ lượt dắt díu nhau lánh cư vào trong thành phố.

    Ngay trong đêm mồng 2, lực lượng phản công của chánh phủ được tung ra. Trong khi đó Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm hai đại đội được phái tới giải tỏa cổng số 4 của Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng suốt ngày vẫn không giải quyết xong v́ Việt Cộng núp trong khu nhà bằng gạch của Trường Sinh Ngữ Quân Đội và bắn ra dữ dội.

    Cánh thứ hai với hai đại đội c̣n lại bảo vệ đầu phi đạo Tân Sơn Nhất ở Bà Quẹo và ngăn chận Cộng quân xâm nhập khu hăng dệt Vinatexco.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN

    TRẬN MẬU THÂN



    Vào buổi trưa, toàn bộ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù từ Vũng Tàu được đưa về phi trường Tân Sơn Nhất chờ lệnh. Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân (BĐQ) với bốn tiểu đoàn (Tiểu Đoàn 30, 33, 34 và 38) đang trấn đóng ṿng quanh khu bán nguyệt từ Thủ Đức, Nhà Bè, B́nh Chánh đến Hốc Môn. Đêm hôm đó, Liên Đoàn 5 nhận được lệnh gửi ngay hai tiểu đoàn Biệt Động Quân về giải cứu thủ đô. Tiểu Đoàn 30 và 38 Biệt Động Quân lập tức đă tiến vào thành phố trước khi trời sáng. Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân đến khu vực Hàng Xanh Xa Lộ lúc 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết. Tại đây, các binh sĩ Mũ Nâu này đă chạm súng dữ dội với Việt Cộng. Trong khi đó Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân xuất phát từ Nhà Bè vào 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết đến giải tỏa khu Phú Thọ, Trần Quốc Toản.

    Vào buổi chiều, đài phát thanh loan tin chiến sự tại khu Hàng Xanh cho biết quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đă cầm chân một đơn vị VC. Một tin khác được loan đi vào hồi 17 giờ 00 yêu cầu dân chúng Bà Quẹo tránh xa khỏi hăng dệt Vinatexco, nơi Việt Cộng đă bị TĐ8ND bao vây và dồn chúng vào khu vực nầy, quân đội sẽ oanh tạc vào đúng 18 giờ 00. Loa phóng thanh cũng kêu gọi toàn bộ lực lượng Việt Cộng trong khu vực này ra đầu hàng. Hăng dệt Vinatexco sau đó đă bị oanh tạc thiêu rụi vào giờ ấn định trên. Quyết định oanh tạc được ban ra v́ sợ Việt Cộng lợi dụng đêm tối sắp đến để tăng cường thêm quân đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất.

    Sáng mồng 3 Tết ( 1/2/1968), tám tiểu đoàn tổng trừ bị đă có mặt tại đô thành. Các lực lượng này được phối trí để mở các cuộc phản kích như sau:

    - Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù bảo vệ đài phát thanh và làm lực lượng trừ bị.

    - Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đi giải tỏa cổng xe lửa số 2 (Gia Định).

    - Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến giải tỏa trại Cổ Loa và Phù Đổng.

    - Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến chận đường rút lui của Việt Cộng tại trại Cổ Loa.

    - Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân giải tỏa khu Hàng Xanh Xa Lộ.

    - Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân giải tỏa khu Phú Thọ, Bà Hạt.

    - Tiểu Đoàn 6 và 8 Nhảy Dù giải tỏa cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo.

    Cánh quân thứ hai của Việt Cộng măi tới 7 giờ 05 sáng ngày mồng 2 Tết mới bắt đầu đánh vào cổng số 4 Bộ Tổng Tham Mưu. Việt Cộng lọt được vào cổng nhưng chỉ bám vào khu trường Sinh Ngữ Quân Đội không tiến sâu vào trong được.

    Đến 09 giờ 00, 2 ĐĐ/TĐ8 Nhảy Dù đến tăng cường Bộ Tổng Tham Mưu. Lực lượng này với một vài thiết giáp M-41 mở cuộc phản công ở cổng số 4. Việt Cộng nằm trong các công sự pḥng thủ có sẵn, nấp theo các nhà cửa và từ các cao ốc tại đường Vơ Di Nguy nối dài bắn vào khiến các binh sĩ Việt Nam Cộng Ḥa không thể tiến được. Một chiến xa M-41 bị B-40 bắn cháy, một số chiến sĩ Nhảy Dù bị thương. Cả ngày mồng 2 Việt Cộng bám giữ khu cổng số 4.

    Sáng ngày mồng 3 Tết, Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn Nhảy Dù điều động Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đến phối hợp với TĐ 8 Nhảy Dù đă hiện diện để thanh toán mục tiêu cổng số 4.

    Trước cuộc phản công, các phi cơ trực thăng thay nhau xạ kích khu hành chánh của Đại Đội Tổng Hành Dinh, khu trường Sinh Ngữ Quân Đội, khu trường Tổng Quản Trị. Kế đó các đơn vị Nhảy Dù theo hướng từ cổng số 3 và cổng số 2 tiến lên. Trước hỏa lực mạnh mẽ của Nhảy Dù từ 2 mặt dàn rộng ra bắn vào, Việt Cộng phải mở đường máu rút ra phía rào trốn vào đường Vơ Di Nguy. Cuộc hành quân này hoàn tất lúc 10 giờ sáng. Việt Cộng bỏ lại chiến địa 10 xác chết.

    Trong ngày này, lực lượng Nhảy Dù đă hoàn tất nhiệm vụ giải tỏa cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo ngay trong buổi sáng. Trực thăng vơ trang đă phải oanh kích vào khu vực này gây thiệt hại về doanh trại cho Trường Sinh Ngữ Quân Đội, Trường Tổng Quản Trị, Trung Tâm Huấn Cụ và Thính Thị và một vài thiệt hại nhỏ cho các cơ sở khác kế cận. Cũng trong ngày hôm đó, các tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến chiếm lại được các trại Cổ Loa và Phù Đổng. Cả hai nơi này đều bị Việt Cộng trấn giữ từ hôm xảy ra các trận đánh.

    Trong ngày mồng 3 Tết, hoạt động của Việt Cộng trên toàn quốc có phần suy giảm tuy họ vẫn bám sát được vào một vài thành phố như Saigon, Huế, Ban Mê Thuột, Kontum, Mỹ Tho và Vĩnh Long. C̣n tại các nơi, các phần tử Việt Cộng thất tán trong các khu dân cư và đang bị tiêu diệt.

    Ngày 5/2/1968 Chiến dịch Trần Hưng Đạo được khai sinh do Đại tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa) đích thân điều khiển để cấp thời giải tỏa thủ đô và thanh toán địch.

    Thiếu Tướng Trần Thanh Phong (Tham Mưu Trưởng Liên Quân) làm tham mưu trưởng chiến dịch. Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn là tham mưu phó.

    Chiến dịch Trần Hưng Đạo bao gồm một địa bàn hoạt động gồm thủ-đô cùng các vùng ven-đô, và cuộc hành quân đại quy mô này đă được chia làm sáu khu vực trách nhiệm (đến ngày 9 tháng 2/1968 thêm một khu vực trách nhiệm khác được giao cho lực lượng Hoa Kỳ phụ trách) và chiến dịch nầy được chấm dứt vào ngày 17/2/1968.

    1- Khu Vực Trách Nhiệm A do Thiếu Tướng Dư Quốc Đống (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) chỉ huy. Cuộc hành quân tảo thanh Việt Cộng tại Khu A do hai chiến đoàn Nhảy Dù phụ trách. Đó là Chiến Đoàn 2 (với các Tiểu Đoàn 6 và 8) phụ trách khu vực Bà Quẹo, Phú Thọ Ḥa, Bà Điểm, và Tân Phú. Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (với Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù) phụ trách khu vực Cổ Loa, Xóm Mới, và G̣ Vấp. Trong khi đó tại Bộ Chỉ Huy Khu A có Tiểu Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù và Chi Đoàn 2/10 Thiết vận xa trấn đóng.

    2- Khu Vực Trách Nhiệm B do Đại Tá Yên (Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến) chỉ huy. Khu B thuộc vùng trách nhiệm của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến gồm Chiến Đoàn "B", Tiểu Đoàn Pháo Binh (cũng trực thuộc Thủy Quân Lục Chiến) và Chi Đoàn 1/5 Chiến Xa phụ trách khu vực Gia Định, xa lộ, và Thủ Đức.

    3- Khu Vực Trách Nhiệm C do Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia) chỉ huy. Khu C tương đối yên tỉnh. Trách nhiệm tảo thanh Việt Cộng được trao cho các đơn vị Cảnh Sát đô thành và Cảnh Sát Dă Chiến phụ trách.Cuộc hành quân tại khu này bao gồm các quận hành chánh 1, 2, 3, 4 và 5.

    4- Khu Vực Trách Nhiệm D do Đại Tá Trần Văn Hai (Chỉ Huy Trưởng BCH/BĐQ) chỉ huy. Khu D thuộc vùng trách nhiệm của binh chủng Biệt Động Quân, gồm Liên Đoàn 5 (với 4 tiểu đoàn) được phân chia như sau: Tiểu Đoàn 33 phụ trách khu vực B́nh Thới, Cầu Tre. Tiểu Đoàn 38 phụ trách khu vực Minh Phụng. Tiểu Đoàn 41 phụ trách khu vực Phú Định. Tiểu Đoàn 30 phụ trách khu vực B́nh Đông. Các đơn vị Biệt Động Quân này phải hoạt động trên địa bàn của các quận hành chánh 6, 7 và 8. Ngoài các lực lượng trên, Bộ Chỉ Huy Khu D c̣n có Chi Đoàn 5/1 Thiết Quân Vận, một đại đội Giang Thuyền (hoạt động tại Quận 6) và một đại đội Trinh Sát của Biệt Động Quân.

    5- Khu Vực Trách Nhiệm E do Chuẩn Tướng Ngô Dzu chỉ huy. Khu E thuộc khu vực trách nhiệm của các quân nhân phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Các quân nhân này ngoài nhiệm vụ tham mưu được tổ chức thành đội ngũ để phụ trách pḥng thủ trại Trần Hưng Đạo và bảo vệ các khu vực xung quanh trại này.

    Ngoại trừ tiểu đoàn danh-dự liên quân, Đại Đội 1 Quân Cảnh và các chi đội chiến xa M-41, thiết vận xa M-113 với Chi Đội V-100 được tăng cường đều là những thành phần chiến đấu đă có sẵn, tất cả các Pḥng, Sở, Tổng cục ở trong trại Trần Hưng Đạo đều phải tham gia vào tổ chức chiến đấu này.

    6- Khu Vực Trách Nhiệm F do lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. Khu F thuộc vùng trách nhiệm của lực lượng Hoa Kỳ gồm khu vực Nam kinh đô và Tây Phú Thọ Ḥa được tách ra khỏi Khu D kể từ ngày 9 tháng 2/1968. Trong khuôn khổ chiến dịch Trần Hưng Đạo c̣n có một lực lượng Hoa Kỳ đóng quân ở ṿng ngoài thủ đô.

    Ngày 6/2/1968 tại Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp, lực lượng Nhảy Dù cũng chạm súng lẻ tẻ với Việt Cộng. Trận đáng kể nhất đă xảy ra tại Xóm Mới, G̣ Vấp. Vào buổi trưa ngày 6 tháng 2/1968, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù chạm súng mạnh với một tiểu đoàn Việt Cộng. Điạ điểm xảy ra trận đánh ở Trại Phù Đổng, một cây số về phía Đông Bắc trại Cổ Loa. Ở đầu trận đánh, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù đưa TĐ3ND và chi đội chiến xa mới được tăng phái dẫn đầu tiến thẳng vào khu Xóm Mới, đến khu Lạng Sơn và Xóm Dừa liền bị Việt Cộng chận đánh bằng các loại súng nặng như thượng liên, đại liên và B-40 khiến một thiết vận xa M-113 bị bắn cháy và một chiến xa M-41 bị hư hại.

    Lúc này trực thăng đến dùng rocket bắn yểm trợ, v́ vậy quân đội chánh phủ lên tinh thần và ồ ạt tiến quân càng lúc càng bám sát đối phương. Việt Cộng vội vàng kéo cờ trắng đầu hàng, các binh sĩ Nhảy Dù ngưng nổ súng để đón rước. Việt Cộng lợi dụng lúc quân đội chánh phủ không tiếp tục bắn, họ tháo chạy, nhưng ṿng vây quân đội đă xiết chặt. Kết quả trận đánh gồm 120 Việt Cộng chết với 35 vũ khí bị tịch thu, phía quân đội Việt Nam Cộng Ḥa có 12 binh sĩ tử thương cùng 42 bị thương.

    Vào ngày kế tiếp, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tiếp tục chạm địch mạnh tại vùng Thông Tây Hội phía Tây Bắc trại Cổ Loa. Tại đây có 60 Việt Cộng bị bắn hạ, 30 vũ khí đủ loại bị tịch thu.

    Tại khu C, Việt Cộng chận bắn Đại Đội 114 Nhảy Dù tại gốc đường Tổng Đốc Phương và Khổng Tử khi đơn vị này đến tăng cường cho khu D nhưng chúng bị tiêu diệt ngay.

    Ngày 10 / 2/1968, tại đô thành Saigon - Chợ Lớn, quân đội VNCH tiếp tục mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tảo thanh vùng ven độ. Các lực lượng Việt Cộng lần lượt rút ra xa đô thành.



    Theo một bản ước tính, lực lượng Cộng Sản tính từ trước ngày mở cuộc tổng công kích 29 tháng 1/1968 được xác nhận vào khoảng 323,500 người. Số tổn thất của họ được ước lượng trong thời gian TCK đến ngày 29/2/1968 là khoảng 45,000 người. Con số tổn thất này được phân loại như sau:

    18,600 chết: gồm cán binh thuộc các đơn vị tác chiến

    4,000 chết: gồm cán binh thuộc các cơ quan hậu cần

    12,400 chết: gồm các thành phần du kích

    5,000 chết: gồm các thành phần cán bộ chính trị

    5,000 chết: gồm các thành phần phụ lực khác

    Như thế, chỉ trong ṿng một tháng chiến đấu, có 45,000 quân Cộng Sản đă bị tiêu diệt trong các cuộc phản công của các lực lượng Việt Nam Cộng Ḥa và Hoa Kỳ.

    Trừ số tổn thất từ ngày tổng công kích, quân số c̣n lại của VC tính cho đến ngày 29/2/1968 là: 110,600 cán binh tác chiến , 33,700 cán bộ tham mưu và chỉ huy hậu cần , 62,200 quân du kích (riêng rẻ) , 79,000 cán bộ chính trị

    Ngày 11/3/1968 Cuộc hành quân "Quyết Thắng." gồm Khoảng 50,000 binh sĩ thuộc các đơn vị của 6 sư đoàn và 2 chiến đoàn Tổng trừ bị đă tham dự tại năm tỉnh quanh thủ đô : Gia Định, Long An, Biên Ḥa, B́nh Dương và Hậu Nghĩa.

    Phía Việt Nam Cộng Ḥa,có các đơn vị thuộc Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, một chiến đoàn Nhảy Dù, một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến, một đơn vị Biệt Động Quân và một số Cảnh Sát.

    Về phía Hoa Kỳ có các đơn vị thuộc Sư Đoàn 9 và Sư Đoàn 25. Kết quả của chiến dịch này không thu hoạch như mong muốn v́ chủ lực của Việt Cộng đă lẩn trốn để tránh né các cuộc chạm súng.

    Các tin tức t́nh báo thu lượm được trong cuộc hành quân nầy cho biết phía CS đang chuẩn bị phát động một cuộc tấn công mới vào QLVNCH quanh Sàig̣n Gia Định

  4. #24
    chauaiai
    Khách
    Nhớ hồi đó, 0h , lúc đón giao thừa, nguyên 1 xóm ra đốt pháo, ông ngoại cũng ra đốt pháo, vừa châm ng̣i pháo nổ, mọi người nghe pháo nổ,lại nghe thêm tiếng súng đạn , bom dội , kinh hoàng ai nấy chạy vào nhà, ông ngoại cùng mấy người lính đi ngay lên Tổng Nha Cảnh Sát để đối phó.
    Th́ ra bắt chước vua Quang Trung, tấn công vào ngày tết, lợi dụng sơ hở VNCH

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN - Mặt Trận Quảng Trị.

    TRẬN MẬU THÂN
    Mặt Trận Quảng Trị.






    Không ảnh thành phố Quảng Trị



    Nhân dịp hưu chiến Tết Mậu Thân, Chiến Đoàn I ND do Trung Tá Lê Quang Lưởng chỉ huy được dừng quân nghỉ ngơi. TĐ2ND và TĐ7ND đóng tại An-Lổ và Quảng Điền phiá Bắc Huế, TĐ5ND được đưa về Đà-Nẳng và TĐ9ND do Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhả làm Tiểu Đoàn Trưởng được đưa ra bố trí xung quanh thị trấn Quảng Trị. ĐĐ92 bảo vệ tuyến Đông Nam thành phố, ĐĐ94 bảo vệ làng Tri Bưu, ĐĐ 93 đóng dọc theo bờ sông Thạch Hản và ĐĐ 91 đóng chung với BCH Tiểu Đoàn tại Cầu Quảng Trị.

    Ngày 30 Tết Chiến Đoàn Trưởng Lê-Quang Lưởng mật lệnh cho các đơn vị trưởng Nhảy Dù sẳn sàng chiến đấu v́ VC sẽ tổng tấn công bất chấp lệnh hưu chiến. Các đơn vị Nhảy Dù chuẩn bị hầm hố cá nhân, sẳn sàng chiến đấu, trong khi các đơn vị Bộ-Binh, Điạ Phương Quân và Nghiả Quân trốn về nhà ăn Tết gần hết.

    Ngày 30/1/1968 lúc 4.20 giờ sáng rạng mồng 2 Tết, trong lúc mọi ngươi c̣n đang say ngủ v́ tối qua chè chén dă chiến trong ba ngày xuân nên có phần mệt mỏi, th́ CSBV tung 2 Trung Đoàn 812 và Trung Đoàn 814 đồng loạt khai hoả tấn công vào thành phố Quảng Trị tại khắp mọi nơi.

    Tiểu đoàn K4/812 chia làm 2 mủi tấn công vào mặt hướng Đông thành phố, muốn tấn chiếm tường thành phía trái và làng Tri Bưu. Từ một tuần trước , CSBV đă cho một đơn vị đặc công, mặc thường phục trà trộn với giáo dân để điều nghiên vị trí, địa thế và sinh hoạt trong khu vực xóm đạo mà mọi người trong giáo xứ không ngờ được. Đến khi Đại Đội 94ND đến đóng quân tại một khu trong giáo xứ, Cộng quân đă chú ư đến các cấp chỉ huy của ĐĐ94 nên khi tiếng súng nổ đầu tiên th́ tất cả các Sỉ quan chỉ huy đều bị bất ngờ tấn công trước nên không kịp phản ứng.

    Đại Đội 94 ND đóng quân quanh nhà thờ Tri Bưu đă bị công quân tấn công tràn ngập, Đại Uư Thừa ĐĐT, Cố vấn Mỷ, và các Tr/U Lê Phát Lộc, Nguyển Văn Hổ bị hy sinh ngày từ những giờ phút giao tranh đầu tiên. Chuẩn Úy Trần Ngọc Chỉ, một Trung Đội Trưởng điều động các binh sỉ chống trả quyết liệt, nhưng v́ địch quân quá đông nên t́m cách hướng dẩn các binh sỉ c̣n lại rút lui ra ngoài.

    Tiểu Đoàn K8/812 tấn công vào mặt Tây Bắc nhằm vào các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân & Nghỉa Quân nhằm chiếm lỉnh phần lảnh thổ phía Bắc Quảng Trị.

    Tiểu đoàn K6/812 tấn công vào mặt phía Đông Nam dọc Quốc lộ I và đường rầy xe lửa nhằm tấn chiếm khu nhà thờ La Vang. Và Tiểu Đoàn K5/812 làm thành phần trừ bị, ém quân về phía Đông Nam thành phố.

    Trong khi đó Trung đoàn 814 VC chuẩn bị tấn công ṿng thứ nh́ xa luân chiến từ phía Tây Bắc để đánh chiếm hoàn toàn thành phố và ngăn chận viện binh VNCH tái chiếm thị trấn.

    Nhưng v́ ảnh hưởng thời tiết ẩm ước và không thông thuộc đường sá nên một số đơn vị cộng quân đă không thi hành cùng giờ để mất yếu tố bất ngờ nên bị các đơn vị pḥng thủ phản công quyết liệt .

    Nhất là gặp các Đại Đội thuộc TĐ9Nhảy Dù đă chống trả dũng mảnh bao dàn ở cả 3 mặt Đông, Nam và phía Bắc. Phía trong Thành Đinh Công Tráng các đơn vị Bộ Binh, Địa Phương Quân và Cảnh Sát vững tinh thần chống trả nên địch quân không làm ǵ được.

    Khi b́nh minh ló dạng, lực lượng TĐ9ND tung quân mở rộng ṿng đai lục soát các vị trí giao tranh đêm qua bắt sống 10 tù binh, chúng toàn là trẻ con khoàng 16,17 tuổi nói giọng Quảng B́nh và mặt mày đỏ gay v́ uống thuốc “Hùng Binh” không sợ chết cuả Trung Cộng

    8.00 giờ sáng Công quân cố gắng mở thêm mặt trận khác tấn công vào BCH Tiểu-Đoàn 9ND gần cầu sông Thạch Hản và ĐĐ91ND cạnh Quốc Lộ 1. Lực lượng ND phản công quyết liệt, BCH/Tiểu Đoàn điều động ĐĐ92ND trở về đánh bọc hậu phía sau đơn vị VC dọc theo QL1. Khi ĐĐ92ND từ Ngả Ba Long Hưng hướng về BCH Tiểu Đoàn qua khỏi nhà thờ La Vang th́ chạm địch. Địch quân đông đảo cấp Tiểu Đoàn đă phục kích trong khu nghỉa địa bên trái QL1 tấn công vào đội h́nh di chuyển của ĐĐ92ND. Không chút nao núng, các chiến sỉ Nhảy Dù dàn đội h́nh tác chiến, hô xung phong vang rền tấn công trực diện vào thế trận của địch. Sau nhiều giờ giao tranh, trận chiến rất ác liệt đôi khi phải đánh “xáp lá cà” cộng quân bị thiệt hại nặng và rút lui, bỏ lại trận điạ nhiều xác chết và súng đạn.

    Đến chiều ngày mồng 2 Tết t́nh h́nh quanh thành phố Quảng Trị hoàn toàn im tiếng súng. Công quân bị thiệt hại nặng nề và đại bại nên đă rút lui. Nhờ vậy thành phố Quảng Trị được yên ổn ăn Tết.

    Ngày 1/2/1968 sáng ngày mồng Ba Tết, Thành phố Quảng Trị hoàn toàn yên tỉnh, dân chúng vui mừng tổ chức tuyên dương TĐ9ND đă bảo vệ làng xóm để dân chúng được an cư lạc nghiệp. Sau đó, ngày Mồng 5 Tết, TĐ9ND được trực thăng vận vào giải vây thành phố Huế.

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN

    TRẬN MẬU THÂN - Mặt Trận Huế

    Lịch sử cố đô Huế



    Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2, với 10 quận từ phía bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền,Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Phía nam thành phố Huế là Hương Thủy, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía tây là Quận lỵ Nam Ḥa. Tổng cộng có 73 Xă. Tỉnh lỵ là thành phố Huế có diện tích 380km2 với dân số khoảng 209.043 người. Huế có 3 quận đó là quận Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội.

    Theo từ nguyên, Huế là do Hóa tên nôm của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa t́m được xuất xứ, Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) có lẽ là người đầu tiên nói đến địa danh Huế trong bài văn nôm “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”. Trong đó có câu: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, b́ hồ tiêu, thau Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đă vạy then". Bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim là bộ sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, ngoài nguồn sử liệu truyền thống, tác giả đă sử dụng nguồn sử liệu của phương Tây, và tên Huế xuất hiện.

    Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc Việt Nam, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna, Columbia, tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ, đă công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn.

    Huế, bao gồm những công tŕnh kiến trúc lịch sử cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 măi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Đây là một ṭa thành h́nh vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m, phía Đông Nam bên bờ sông Hương nh́n về phía trước là núi Ngự B́nh. Ngoại thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra c̣n có 10 cửa chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vàọ Ṭa thành được kiến trúc độc đáo, từ kiểu cách của Pháp cho tới nghệ thuật xây cất Á Đông, biểu hiện nét hoành tráng, lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành, vọng lầu, cửa ngọ môn.. cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu khắc hài ḥa trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.



    Từ năm 1366 Huế đă là thủ phủ của Đàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân của Chiêm Thành, dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Sau Tết Mậu Thân 1968, Huế chỉ c̣n là đống gạch vụn do VC và bọn Việt Gian tàn phá .

    Ngoài ra Huế c̣n nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự B́nh trước tṛn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.

    Cuối năm 1966 không hiểu v́ lư do ǵ, trại Lực Lượng Đặc Biệt Ashau được rút bỏ sau khi bị CS tràn ngập vào ngày 12/3/66, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngơ. Do đó CS lợi dụng cơ hội này chuyển vận một số lớn bộ đội và vũ khí để lập căn cứ và từ đây tấn công Huế năm 1968 với sự dẫn đường chỉ lối của đám Việt gian nằm vùng.Cũng v́ lư do nầy mà Huế bị VC chiếm đóng lâu hơn các thành phố khác trong cuộc TCK tết Mậu-Thân.

    Ngày 29/1/1968 Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh SĐ1 BB, cùng toàn thể quân nhân các cấp dự lể chào cờ đầu năm tại Phú Văn Lâu. Ngay sau đó ông được tin trong đêm giao thừa, VC đă tấn công vào Qui Nhơn, và Nha Trang. Lệnh cấm trại được ban hành tức khắc cho các đơn vị trực thuộc.

    Ngày 30/1/1968 sáng mùng 2 Tết, lúc 2.00 sáng , CS bắt đầu pháo kích hằng trăm quả đạn vào BTL /SĐ1BB , BCH Tiểu Khu, Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa và Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh ở An Cựu. Sau đó quân CS bắt đầu xâm nhập và tấn công vào Huế bằng bằng hai cánh quân chính:

    - Cánh thứ nhất là Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công BTL.SD1BB tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Đại Nội.

    - Cánh thứ hai là Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ phía Nam, hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam.

    Ngoài ra c̣n có :

    - Đoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416, 418 từ Đồng Xuyên, Mỷ Xá, dọc theo La-Vân Thượng chiếm cửa Đông Ba

    - Một cánh khác mang tên Đường 12 từ Phú-Thứ, Đập Đá qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thượng Tứ.



    Cũng nên biết Việt Cộng đă lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965, 1966, xâm nhập hoạt động móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viên, quá nể nang các thầy giáo của ḿnh mà phản bội lại VNCH. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, v́ vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Đại Nội trong thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các ṿng vây của quân lực VNCH và sau ngày mùng 6 Tết có thêm sự tham chiến của Hoa Kỳ.

    ( Phụ trách công tác chính trị tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, đă vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Đóạ. Ngoài ra c̣n có Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm Nhạc Kịch Nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa lại c̣n bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài..

    Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đă lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, Đào Thị Xuân Yến và Hoàng Phương Thảo làm phó. Ngoài ra c̣n có cái gọi là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do Lê Văn Hảo, tiến sĩ về nhân chủng học tại Đại Học Huế làm chủ tịch liên minh. Hảo trốn lính, năm 1953 qua Pháp du học và tiêm nhiễm chủ nghĩa cộng sản của Trần Văn Khê, Nguyễn Khắc Viện, nên vào các năm 1965, 1966 dù đang sống trong cảnh giàu sang, chức trọng nhưng vẫn táng tận lương tâm, theo các tên VC nằm vùng là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm gia nhập MTGPMN rồi ra bưng cuối tháng 12/1967).

    Tính ra, ngay từ lúc khởi đầu, nhờ lợi dụng dịp hưu chiến nhiều đơn vị VNCH cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đă chiếm được hầu hết các cơ sở hành chính, khu Đại Nội, chợ Đông Ba, các cửa Thượng Tứ, An Ḥa, Chánh Tây.. lực lượng Cộng quân đă chiếm lỉnh hầu hết bên trong thành Nội, từ cổng thành cho đến các điểm cao kiên cố, chỉ c̣n một lỏm nhỏ Trại Mang Cá (BTL/SĐ1BB/Khu11CT), đang bị vây kín, nhờ các toán Tiền Trạm của Nhảy Dù trợ chiến chống giữ. Cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, đài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát.



    Trong lúc đó BCH/LĐIND do Trung Tá Lê Quang Lưởng chỉ huy vừa được lịnh thay thế BCH/LĐ2 ND của Trung Tá Đào Văn Hùng vào ngày 27 Tết. TĐ2ND đóng tại Phong Điền (Sịa). TĐ7ND, sau 3 tháng hành quân trong vùng Phá Tam Giang trở ra, đáng lẻ được về Saigon dưỡng quân. nhưng trên đường di chuyển bằng xe ra phi trường Phú Bài, đến ngang cửa Chánh Tây, đă bị Bộ Tư lệnh SĐ1BB/Khu 11 CT, cho Quân Cảnh chận lại, trao công điện mang tay, cho lệnh trở ngược ra Phong Điền, t́m chỗ đóng quân chờ lệnh (29 tết), TĐ9ND ra trấn giữ Quảng Trị và TĐ5ND thay v́ được về SG nghỉ ngơi lại phải di chuyển bằng đường bộ ra trấn thủ tại Đà Nẳng.

    Sáng sớm ngày mồng 2 Tết (Ngày 30/1/1968), TĐ7ND, TĐ2ND cùng Chi Đoàn 7 Thiết Giáp được lệnh điều động gấp rút băng đồng gần 20 km từ vùng Phong Điền, phía Bắc sông Cổ Bi, về giải cứu cố đô Huê’.

    Tiến dọc theo hai bên QL1 từ Bắc xuống Nam, TĐ2ND di chuyển bộ, lục soát phía Đông Quốc Lộ 1, TĐ7ND di chuyển phía Tây, giữa Quốc Lộ 1 và thiết lộ Xuyên Việt.

    Xế trưa mồng 2 Tết, vừa qua khỏi thôn Hương Trà về hướng Nam, cách đầu cầu An Hoà khoảng 500m TĐ2ND chạm địch mạnh, giao tranh ác liệt với địch quân. Một Đại Đội Trưởng bị thương nặng, Đại Úy Nguyễn Hữu Nghi (Cố Thiếu Tá Nghi xuất thân Khóa 5 Trường BB Thủ Đức) Tiểu Đoàn Phó bị tử thương. TĐ2ND tạm dừng lại, đễ thanh toán lực lượng cộng sản chận viện tại đâỵ.

    Trong khi đó, TĐ7ND được lệnh tiếp tục tiến nhanh về hướng Thành Nội Huê. Khoảng 2 giờ chiều, cánh quân đầu gồm 2 Đại Đội 72 và 73, do Đại Úy Lê Minh Ngọc (Tiểu Đoàn Phó) chỉ huy, bị lọt vào ổ độn thổ phục kích của cộng quân ngay bờ Bắc thôn An Ḥạ. Cộng quân đă đào hố ém quân giữa đồng trống vừa gặt xong, đậy rơm lên, ngụy trang phủ kín, có hỏa lực đại liên từ bờ thôn An Ḥa bắn ra yểm trợ. Đại đội 73 do Trung Úy Phạm Như Đà Lạc chỉ huy, bị tổn thất gần hết Trung Đội đi đầụ.Trung Úy Lê Phước Cương tử trận. Đại Đội 73 vẫn bám chặt trận tuyến trên phần đất giữa quốc lộ và thiết lộ. Đại Đội 72 đi trục phía Tây, do Đại Úy Tạ Văn Ngọc chỉ huy, cũng chạm địch nặng tại khu nghĩa trang An Ḥạ. Đại Úy Tạ Văn Ngọc bị tử thương tại đâỵ. Cánh quân đầu của TĐ7ND phải tạm dừng lại tại phía Bắc thôn An Ḥa để tái tổ chức đội ngũ.

    Thiếu Tá Lê Văn Ngọc (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7ND), từ phía sau gởi lên 2 chiếc thiết vận xa M.113, tăng cường hỏa lực cho cánh quân của TĐP Lê Minh Ngọc. Đến 5 giờ chiều, Đại Úy Lê Minh Ngọc điều động hai Đại Đội 72 và 73 dàn hàng ngang xung phong tấn chiếm thôn An Ḥa, tiến đến chân thành nội, kiểm soát khoảng quốc lộ 1 bên ngoài cửa Chánh Tâỵ.

    Trong trận chiến vừa qua, phía Nhảy Dù báo cáo có 131 thương vong trong số đó có 40 bị tử thương , 4 chiếc trong tổng số 12 Thiết Vận Xa bị bắn cháy. Về phía cộng quân có trên 250 bỏ xác tại trận, 5 tù binh và 96 vũ khí đủ loại bị tích thu.

    Khi Bộ Chỉ Huy TĐ7ND theo sau, vừa tiến vào An Ḥa, th́ bị cộng quân từ phía câù Bạch Hổ pháo kích bằng nhiều loạt đạn súng cối 82 lỵ Thiếu Tá TĐT Lê văn Ngọc bị trọng thương. Các Trung Úy Nguyễn Lô, Nguyễn Trọng Nhi bị thương. Lệnh từ BTL/SĐ1BB trong Trại Mang Cá truyền ra, chỉ định Đại Úy Lê Minh Ngọc thay thế Thiếu Tá Lê Văn Ngọc, chỉ huy TĐ7ND, tiếp tục nhiệm vụ giải cứu Thành Nội Huế.

    TĐ7ND gói ghém nhanh chóng thương tử binh, và điều động ĐĐ73 do Trung Úy Phạm Như Đà Lạc vượt lên trước, bám chặt theo bờ hào sâu, dọc theo chân Thành Nội tiến về hướng trại Mang Cá (Bộ Tư Lệnh SĐ1 Bộ Binh). Đại Đội 73 cho khinh binh len lỏi theo các hào sâu phá cửa hậu nhà xác, vào được bên trong thành, ngay doanh trại Đại Đội 1 Quân Y / SĐ1BB. Thương bệnh binh và nhân viên Quân Y tại đây bị cộng quân sát hại khá nhiềụ. TĐ7ND tiếp tục tiến về hướng Đông, chiếm các cao ốc vây quanh trại Mang Cá.

    Cộng quân đang vây chặt Bộ Tư lệnh SĐ1BB, chỉ c̣n cách một sân cờ nhỏ, bị lực lượng Nhảy Dù đánh bọc phía sau lưng nên rối loạn đội h́nh bỏ chạy tán loạn làm bia cho các chiến sỉ mủ đỏ tác xạ. Khi tiến chiếm cao ốc sau cùng, Trung Úy Phạm Như Đà Lạc ĐĐT/ĐĐ73 lại bị thương nơi chân phảị.

    Sau khi vượt qua được sân cờ trước Trung Tâm Hành Quân SĐ1BB, TĐ7ND là đơn vị đầu tiên, từ bên ngoài tiến vào, bắt tay được với Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, khuya mồng 2 rạng ngày mồng 3 Tết Mậu Thân ..

    Ngày 31/1/1968, sau khi thanh toán xong lực lượng chận viện của cộng quân tại Hương Trà, sáng mồng 3 tết, TĐ2ND cũng nương theo cửa An Ḥa được khai thông nhập thành, được lệnh tiến về hướng Đông, giải tỏa khu Gia Hội, cửa Đông Ba. Phần lớn Thành Nội Huế vẫn c̣n nằm trong tay cộng quân. Giao tranh khắp nơi khi lực lượng Nhảy Dù tiến vào, hoả lực cuả VC rất mạnh núp trong nhà dân, trong các công sự pḥng thủ kiên cố của ṭa cổ thành bắn ra, trong khi đó quân ta chiến đấu không có hỏa lực yểm trợ.

    Ngày nầy lúc 2.00 giờ sáng, VC cũng pháo kích và tấn công vào pháo đội C3ND tại An Lổ nhưng bị đẩy lui; chỉ một binh sỉ bị thương nhẹ.

    Giao thương binh, tử binh lại cho đơn vị Dù tiền trạm, nhận đạn dược và lương khô qua loa, TĐ7ND do Đại Úy Lê Minh Ngọc chỉ huy lại được lệnh xuất thành Mang Cá, chiếm khu hồ Tịnh Tâm, rồi tiến chiếm khu phi trường Tây Lộc. Pháo binh 105 ly từ Cây số17 (An Lổ) đă vừa mút tầm, vả lại không c̣n đạn nổ để yểm trợ. TĐ7ND yêu cầu tác xạ đạn khói, làm màn che, để tiến quân qua phi đạo, diệt khẩu đại bác không giật tại đây, đă làm tê liệt mọi di động trong trại Mang cá suốt mấy ngày quạ.

    Trời mưa phùn, gió thật lạnh suốt mấy ngày tết. Phi trường nhỏ này được TĐ7ND chiếm lại vào lúc xế chiều ngày mồng 3 Tết Mậu Thân. Một điều đáng chú ư là từ ngày khởi đầu trận chiến, TĐ7ND đụng nặng ở An Hoà, và TĐ2ND đụng nặng ở Hương Trà, người bạn đồng minh của chúng ta vẫn ‘b́nh chân như vại’ án binh bất động không can thiệp. Năm ngày sau, tức là ngày mồng 6 Tết quân Mỹ mới nhào vộ, TQLC Mỹ mới bắt đầu tham chiến giải tỏa khu An Cựu (và chạm địch rất nặng tại nơi đây)

    Sau khi làm cỏ Trung Đoàn Sông Lô của Cộng quân tới trưa ngày mồng 3 Tết, 2 TĐ2 & 7ND mới giải tỏa được từ cửa An Ḥa đến cửa Tây và cửa Bắc Thành Nội Huế. Sau khi bàn giao phi trường Tây Lộc lại cho một đơn vị của SĐ1BB giữ phi trường.. Đại Úy Lê Minh Ngọc điều quân trở về Hồ Tịnh Tâm, giao thương binh, lấy đạn dược, và được lệnh trực chỉ tái chiếm Trường Nữ Trung Học Thành Nội, làm bàn đạp để xuất phát tái chiếm khu cao ốc thành Đại Nội (Hoàng Cung cũ). Trong ngày mồng 4 Tết, TĐ7ND đă tái chiếm xong khu vực Trường Nữ Trung Học Thành Nội.

    Trại Mang Cá không có đủ đạn M.16 và M.79, nên những ngày sau đó, Các đơn vị Nhảy Dù đă xử dụng luôn cả các vũ khí tịch thu được của địch như tiểu liên AK-47, súng phóng lựu B-40, và luôn cả lương khô (bánh in Trung cộng) trong túi đeo lưng trên xác cộng quân ... V́ đă có 1 Đại Đội Trưởng tử thương và 2 Đại đội trưởng khác bị thương, nên đơn vị thiếu cán bộ chỉ huy, Đại Úy Lê Minh Ngọc chỉ định Trung Úy Vũ Đ́nh Nguyên, y sĩ trưởng TĐ7ND kiêm nhiệm Đại Đội Trưởng Đại Đội 70 (Đại đội súng nặng).



    Đêm Mồng 4 Tết, Trung đoàn 9 Cù Chính Lan, một đơn vị chính quy của CSBV vừa từ Bắc xâm nhập vào Nam, từ hướng cầu Bạch Hổ tăng cường xâm nhập vào thành nội, lấn chiếm lại khu phi trường Tây Lộc, vừa được TĐ7ND giải tỏa hôm trước. Buổi trưa, xe chỉ huy cuả Thiết Đoàn 7 KB bị trúng B40 gần Ty Cảnh Sát Huế, Trung Tá Phan Hửu Chí bị tử thương. Tại thành Mang Cá, VC cố gắng tấn công vào nhiều đợt và chiếm lại những nơi đă được Nhảy Dù giải tỏa.

    Ngày mồng 5 Tết, 2/2/1968, TĐ9ND sau khi làm chủ t́nh h́nh tại Quảng Trị, được trực thăng vận đến Bệnh Viện Nguyển Tri Phương trong đồn Mang Cá vào sáng ngày mồng 5 tết. Vừa vào đến Thành Nội Huê’. Chiến Đoàn 1 ND cho lệnh TĐ9ND tiến ra tái chiếm lại phi trường thành nội lần nữạ. Từ thành Mang Cá, TĐ9ND xuất phát tái chiếm phi trường Tây Lộc.Lực lượng Nhảy Dù phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển từ nhà nầy sang nhà khác. Các ngả tư, cao ốc, các ngỏ hẻm đều có thượng liên VC chờ sẳn.

    Sau khi tái chiếm phi trường Tây Lộc, TĐ9ND bàn giao phi trường nầy lại cho Trung đoàn 3 BB (vừa được trực thăng vận từ An Lỗ vào). Và TĐ9ND được lệnh tiến về phía Gia Hội, trợ chiến cho TĐ2ND giải tỏa khu Gia Hội Đông Ba .. Tại đây, cộng quân xích chân xạ thủ vào chân súng đại liên, kháng cự khá mạnh ..

    Sáng ngày mồng 5 Tết, với 2 thiết vận xa tăng cường, TĐ7ND bắt đầu tấn công vào khu Đại Nội. Một chiếc M113 ủi sập một lổ tường để mở trục tiến quân, đă bị hỏa lực bên trong tập trung bắn cháy ngay tại chỗ. Chiếc c̣n lại được TĐ7ND xử dụng bắn triệt hạ các tổ quan sát và bắn tỉa của cộng quân, đặt trên các ngọn cây cao dọc bờ thành Đại Nộị.

    Tấn công liên tiếp từ nhiều hướng khác nhau, TĐ7ND đă đột nhập được vào khu Đại Nội (Hoàng Cung cũ) sáng mồng 6 tết, và hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh khu vực này vào buổi chiều cùng ngàỵ Ngày mồng 7 tết, TĐ7ND được lệnh tiến chiếm khu Phú Vân Lâu (nơi có dàn súng thần công cũ), và ngày mồng 8 tết, kiểm soát được bờ phía Bắc sông Hương, khu vực giữa cầu Bạch Hổ và cầu Tràng Tiền

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN

    TRẬN MẬU THÂN - Mặt Trận Huế

    Ngày 3/2/1968 ( mồng 6 Tết) tại cửa Chánh Tây, nhiều VC đội mủ cối, mang AK47,B40 qua lại canh gát trên bờ thành. Nhảy Dù phải chờ tối trời cho khinh binh lén leo lên tường dùng lưởi lê đánh cận chiến với địch chiếm được một góc thành làm đầu cầu rồi cho đơn vị ào-ạt tấn công, khiến địch trở tay không kịp. Sau 2 ngày giao tranh ác liệt, Nhảy Dù đă chiếm lại được cửa thành phiá Tây và giao lại cho SĐ1BB trấn giử. Lực lượng Nhảy Dù tiếp tục sang tái chiếm cửa Đông Ba.

    Ngày nầy, phiá hửu ngạn sông Hương, lực lượng Mỷ mới bắt đầu tham chiến gởi TĐ2/5 TQLC, và một chi đoàn chiến xa hành quân giải toả quanh khu vực MACV và chiếm lại ṭa nhà đại biểu chính phủ.

    Ngày 5/2/1968 tại cửa Đông Ba, VC đặt thượng liên trên cửa thành rất kiên cố, TĐ2Nhảy Dù thử xung phong nhiều lần nhưng vô hiệu. Sau đó BCH Chiến đoàn Dù phải điều động pháo đội C/PBND bắn trực xạ dập tắc khẩu thượng liên cuả địch, các Binh sỉ ND vừa bắn vừa xung phong thật nhanh, chiếm lại được cửa thành Đông Ba. Xác tên xạ thủ đại liên của địch c̣n nằm trên súng , chân bị xiềng.

    Ngày 7/2/1968 11.30 giờ VC tấn công vào TĐ 4/3 BB tại cửa chánh Tây, và cũng trong ngày nầy VC giật sập cầu Tràng Tiền. Ngày 8/2/1968 TĐ9ND được lệnh tiếp tục vượt qua Hồ Tịnh-Tâm để tái chiếm cửa Thượng Tứ (cửa thành hướng Nam đi thẳng vào Đại Nội ). Trận chiến ác liệt kéo dài cả hai tuần lể , các đơn vị thuộc Chiến Đoàn I Nhảy Dù sau khi đánh tan tác 2 Trung Đoàn Sông Lô và Cù Chính Lan của CSBV cũng đă bị thiệt hại nhiều.

    Ngày 9/2/1968 phía Nam sông Hương, Lực lượng Hoa Kỳ đẩy lui VC ở các khu vực Khu Đại Học, sân vận động, Phú Cam và Nhà Ga., VC bỏ chạy về Nam Giao.

    Tính đến ngày nầy, giao tranh với lực lượng Hoa Kỳ, VC có 934 chết tại chổ, 4 bị bắt, 307 súng các loại bị tịch thu. Hoa kỳ có 31 tử thương, 201 bị thương nặng, 80 bị thương nhẹ.

    Ngày 10/2/1968 người ta bắt đầu thu lượm xác VC. Các lực lượng Điạ Phương Quân, phối hợp với các Khoá sinh TTHL Đống Đa tổ chức hành quân tảo thanh các khu vực đă được giải toả.

    Ngày 12/2/1968 Chiến Đoàn A TQLC bắt đầu được không vận đến Huế để thay thế Chiến Đoàn 1 Dù để triển khai một cuộc hành quân càn quét các tên VC năm vùng c̣n sót lại.

    18.00 giờ một đơn vị TQLC Hoa Kỳ băng qua sông Hương cập bến Bao Vinh vào cổng sau Thành Nội.

    Ngày 13/2/1968 TQLC Hoa Ky tiếp tục đổ bộ vào Thành Nội tăng cường cho QLVNCH. Trong khi đó Pháo binh và phi cơ oanh kích dử dội vùng Lai Chữ, nơi đặt BCH cuả VC.

    Vào ngày 15/5, có lệnh từ BTL/SD1BB/Khu11CT cho toàn bộ Trung Đoàn 3 BB từ An Lổ di chuyển vào Thành Nội thay thế vị trí CĐ1ND, để lực lượng Nhảy Dù được trả về cho Bộ TTM nhận nhiệm vụ mới.. TĐ7ND được lệnh từ Chiến Đoàn 1 ND vượt qua bờ Nam sông Hương.(v́ Cầu Tràng Tiền đă bị cộng quân giật sập 1 nhịp) lục soát an ninh khu này, để CĐ1ND chuẩn bị di chuyển bằng xe đến phi trường Phú Bài, trở về hậu cứ ở Saigon.

    T́nh h́nh tại bờ nam Sông Hương từ khu Phú Cam ra Phú Bài chưa được an ninh hoàn toàn. TD7ND đă chứng kiến cảnh chiến trường tan hoang nơi đây, với chó gặm xác VC, với xe tăng M.41 và M.48 của Mỹ bị cháy .. quân trang quân dụng vất bừa bải, dân chúng hồi cư “khóc như ri”.. cho hay VC trói dân từng chùm 20 người bằng dây điện thoại, bịt mắt dắt xuống hướng Phú Thứ chôn sống tập thể .. (Cộng sản bắt đi những thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 đem giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn sát th́ dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu đạn hoặc đập đầu bằng cuốc xẻng, báng súng. Các xác đó đă bị vùi xuống khe)

    Đặc biệt tại khu An Cựu này, TĐ7ND cũng đă giải cứu được Linh Mục Tuyên Úy Nhảy Dù Vũ Ngọc Đáng, đang mặc thường phục lẩn trốn trong dân chúng !

    Sau 3 tuần lễ giao tranh đẫm máu dưới thời tiết lạnh lẻo rét mướt để giải tỏa cố đô Huế, CĐ1ND được các đơn vị bạn thay thế. Ngày 21/2/1968, toàn bộ các đơn vị Nhảy Dù lần lượt được không vận về Sài G̣n để nhận nhiệm vụ mới..

    Ngày 19/2, Chiến Đoàn A TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BĐQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy.

    Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú Văn Lâu. Tính chung cộng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội v́ vùng này bị VC chiếm lâu nhất từ ngày mùng 2 Tết ( 30/1 ) đến 22/2/1968 mới được Biệt Động Quân giải tỏa, bởi vậy giặc cộng và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội một cách man rợ không thể tưởng tượng nổi đối với người đồng chủng chỉ v́ đă không theo họ. (Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm t́m được các”mồ tập thể”, có nơi tới hàng ngàn xác, hoặc vài ba trăm xác và có những xác bị chôn c̣n bị xiềng xích. Sau tết Hội Gia Đ́nh Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân kê khai số người chết và mất tích lên đến 4,000 gia đ́nh. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người )

    Ngày 25/2/1968 chiến cuộc chấm dứt tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường sá gần như tử địa với xác người nằm la liệt đă śnh thối. Tất cả chỉ c̣n là sự tàn nhẫn, thê lương, từ bàn tay đẫm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN

    TRẬN MẬU THÂN

    Mặt Trận Khe Sanh
    Hành Quân Lam Sơn 207A (Pegasus ) từ 1/4 đến 12/4/1968




    Bản đồ vùng Khe Sanh của Trần Đổ Cẩm



    Căn cứ Khe Sanh tọa lạc trên một trảng cao của ngọn núi cao nhất vùng Đông Trị trong dảy Trường Sơn, cạnh sông Rào Quan, một chi nhánh của Sông Quảng Trị. Phía Bắc và Tây Bắc có 4 ngọn đồi án ngữ là 881 Bắc, 861, 558 và 881 Nam. Khe Sanh chỉ cách biên giới Lào-Việt chừng 2 cây số trên đường số 9 chạy theo hướng Đông-Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào-Việt tới tận Savannakhet bên Lào. V́ Lào nằm trong đất liền nên người Pháp xây dựng đường số 9 để thông thương ra vùng bờ biển Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục lộ chiến lược quan trọng được Cộng Quân xử dụng để xâm nhập người và vũ khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc Việt Nam Cộng Ḥa.

    Về phương diện hành chánh,Khe Sanh thuộc quận Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị với quận đường đặt gần làng Khe Sanh. Về mặt quân sự, Chi Khu Hướng Hóa do một Đại Úy chỉ huy, gồm chừng một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) cùng một số cảnh sát. Thông thường có thêm một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ Binh tăng phái hoạt động trong vùng cùng một Pháo Đội 105 ly (-) với 2 khẩu đặt tại sân bay Khe Sanh và 2 khẩu đặt tại Làng Vei. Sau này, v́ t́nh h́nh an ninh không đuợc khả quan nên Quận Hướng Hóa được di chuyển về vùng Cùa gần căn cứ Mai Lộc.

    Về dân cư, v́ là vùng đồi núi hoang dă, khí hậu khắc nghiệt nên chỉ có chừng trên ngàn người Việt cư ngụ, đa số là thân nhân và gia đ́nh nhân viên, binh sĩ phục vụ tại chi khu Hướng Hóa. Sắc tộc thiểu số Bru đông hơn, tổng cộng chừng 50,000 người sống rải rác trên các đồi, núí dọc biên giới Lào, nhưng qui tụ khá đông đảo tại hai làng Khe Sanh và Làng Vei dọc đường số 9. Cũng như những sắc dân thiểu số khác như Rhadê, Hrê v.v..., giống Bru thuộc chủng loại Mă Lai-Polynesia nên đen đúa và khá lực lưỡng.

    Tuy đường số 9 chỉ là một trục giao thông nhỏ, coi như bị bỏ hoang từ lâu, nhưng khu vực này lại là một chiến trường quan trọng, nơi xảy ra nhiều trận đánh lớn. Lư do v́ con đường này dẫn sang Lào, giao tiếp với đường ṃn HCM, lại nằm trong vùng đồi nuí hiểm trở nên rất thuận tiện cho quân Bắc Việt đưa người và vũ khí xâm nhập các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Để ngăn chận đối phương, người Mỹ đă lập hàng rào điện tử McNamara theo h́nh ṿng cung dọc theo mặt Bắc đường số 9, hướng Đông kéo dài từ Cửa Việt sát biển tới Khe Sanh gần biên giới Lào. Như vậy, Khe Sanh là điểm cực Tây của hàng rào Mc Namara nằm trong phần đất Việt Nam, giữ nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo kỹ thuật và chiến lược của quân lực Mỹ nhắm vào các hoạt động di chuyển, xâm nhập của các đại đoàn chính quy CSBV cơ động sát vùng Bắc Vĩ Tuyến 17 và phía Tây biên giới Việt Lào cũng như trên lănh thổ Lào. Thủy quân lục chiến Mỹ có 3 Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 đóng quân trong căn cứ Khe Sanh . Đó là các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 và Tiểu Đoàn 13 Cơ giới cùng một đơn vị T́nh Báo chiến lược.

    19/1/1968 Một đơn vị TQLC Mỹ tảo thanh vùng đồi 881 Bắc đă đụng độ dữ dội với cộng quân. Chiều ngày hôm sau một Trung Úy CSBV đại đội trưởng pháo đội 14 pḥng không thuộc trung đoàn 95/SĐ325 về đầu thú, và tiết lộ kế hoạch tấn công căn cứ Khe Sanh.

    20/1/1968 Đúng như lời tiết lộ, nửa đêm hôm đó sau nửa giờ pháo kích, Cộng quân bắt đầu tấn công vào căn cứ. Lực lượng trú pḥng phản công và đẩy lui cuộc tấn công nầy, một binh sỉ TQLC bị tử thương, công quân bỏ lại 47 xác.

    21/1/1968 Sáng ngày, căn cứ bị pháo dữ dội hằng ngàn quả đạn, kho bom dự trử bị nổ tung, nhiều phi cơ trực thăng bị hư hại, đài kiểm lưu bất khiển dụng, nhiều dụng cụ quan trắc khí tượng bị hư hỏng… T́nh h́nh trở nên vô cùng nghiêm trọng.

    22/1/1968 Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Mỹ được trực thăng vận đến tăng viện.

    25/1/1968 Thiếu Tướng J.J.Tolson, Tư lệnh Sư Đoàn 1 KBKV, chuẩn bị tổ chức một cuộc hành quân để giải tỏa căn cứ Khe Sanh.

    27/1/1968 Tiểu Đoàn 37BĐQ-VNCH được không vận đến để tăng viện thành 5 tiểu đoàn họp thành lực lượng pḥng thủ căn cứ. TĐT/TĐ37BĐQ là Đại Úy Hoàng Phổ.

    Trong khi đó tin tức t́nh báo ghi nhận SĐ325 CSBV đang hiện diện quanh quẩn tại phía Bắc đồi 881 Bắc. SĐ304 từ Lào cũng đă xâm nhập vào VN và hiện đang có mặt tại phía Tây-Nam của Khe Sanh. Một Trung Đoàn của SĐ324CSBV cũng được phát giác tại khu phi quân sự cách Khe Sanh chừng 24 km. SĐ320CSBV đang ở phía Bắc căn cứ Rockpile, cũng có thể tiếp ứng cho mặt trận Khe Sanh. Thêm vào đó hai Trung đoàn pháo 68 và 164 cũng được tăng cường cho hai SĐ325 và SĐ 304.

    5/2/1968 Từ ngày nầy ( mồng 7 Tết) Cộng quân bắt đầu liên tục pháo kích, tấn công bằng bộ binh và bao vây quanh ṿng đai căn cứ chiến lược Khe Sanh. Lực lượng trú pḥng đă phản công chống trả quyết liệt gây nhiều tổn thất cho địch quân.

    9/2/1968 một tiểu đoàn CSBV thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325 tấn công đồi 64 do Đại Đội A/1/9 TQLC trấn giữ. Các vị trí pḥng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Không chút chậm trễ, các khẩu đại bác quanh vùng đều nhắm hướng đồi 64 và tác xạ. Một lực lượng TQLC khác được gởi đến tiếp viện. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.

    Sau trận đánh ở Đồi 64 nầy, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần.

    21/2/1968 Khoảng 1 Đại Đội cộng quân tấn công vào pḥng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đă vững vàng cố thủ. Đợt tấn công của đối phương đă bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ

    23/2/1968 Hai ngày sau, quân CSBV tập trung pháo binh để phục hận. Một ngh́n ba trăm (1,300) quả đạn đủ loại đă được bắn vào Khe Sanh. Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đă làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.

    29/2/1968, 9giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của TĐ37 Biệt Động Quân VNCH. Sau một màn pháo kích dọn đường, và ba lần biển-người xung phong, CSBV cũng không phá được pḥng tuyến thép. Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân b́nh tĩnh chiến đấụ Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới khai hỏạ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân đă chống tră mănh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, kiểm điểm t́nh h́nh chiến trận họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địạ

    Sau nhiều ngày thảo luận t́nh h́nh chiến sự, sau cùng Tướng Westmoreland chấp thuận kế hoạch hành quân giải vây Khe Sanh. Hành quân mang tên Pegasus về phía Mỹ và về phía VNCH nằm trong kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 207A. Cả hai cuộc hành quân đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng J.J. Tolson.Lực lượng tham dự hành quân gồm có :

    1/ Lữ Đoàn 1 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá J.F. Stannard.

    2/ Lử Đoàn 2 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá J.C. Mc Donough.

    3/ Lữ Đoàn 3 KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá H.S.Campbell.

    4/ Trung Đoàn 26 TQLC với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá D.E. Lownds

    5/ Trung đoàn 1 TQLC.

    6/ Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù –VNCH gồm 3 Tiểu Đoàn dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Khoa Nam.

    Tiểu Đoàn 3 ND – TĐT là Thiếu Tá Trần Quốc Lịch.

    Tiểu Đoàn 6 ND – TĐT là Thiếu Tá Trương Vĩnh Phước.

    Tiểu Đoàn 8 ND – TĐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thọ.

    Bộ Tư Lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stud gần Cà Lu. Quân số tham chiến lên đến khoảng 20,000 người với sự yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo binh.

    25/3/1968 Thiết Đoàn 1/9 KBKV dưới quyền chỉ huy của Trung Tá R.W.Diller sử dụng trực thăng trinh sát dọc theo QL 9 hướng về Khe Sanh để thu thập tin tức về địch quân, xác định các vị trí bải đáp trực thăng đồng thời tiêu diệt các ổ pḥng không của địch.

    30/3/1968 Sáng ngày, SĐ3TQLC Mỹ phối họp với SĐ1BB-VNCH hành quân nghi binh tại vùng Côn Thiện và Gio Linh. Lực lượng của Mỹ hơp thành lực lượng Đặc Nhiệm Kilo trong khi cánh quân SĐ1BB VNCH nằm trong kế hoạch Lam Sơn 203. Cuộc hành quân chấm dứt lúc trưa ngày 1/5/1968. chỉ có những cuộc chạm súng lẻ tẻ không đáng kể.

    1/4/1968 Cuộc hành quân chính thức khai diển. Hai Tiểu Đoàn 2/1 và 1/3 TQLC Mỹ từ Cà-Lu tiến dọc hai bên đường QL9 hướng về Khe Sanh để bảo vệ cho TĐ11Công Binh tu sửa lại con đường nầy.Trong khi đó 3 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3KBKV được trực thăng vận đổ xuống các bải đáp phía trước cách Khe Sanh khoảng 5 dậm.

    2/4/1968 Liên tiếp 2 ngày, hai Lữ đoàn 2 và 1 KBKV được thả xuống phía Nam căn cứ Khe Sanh và đường số 9 trong khu vực đồn điền của người Pháp khi xưa.

    4/4/1968 Các Tiểu Đoàn 3, 6 và 8ND thuộc LĐ3ND-VNCH được thả xuống khu vực phía Tây và Tây Nam căn cứ Khe Sanh. ( bên ngoài và phía sau vị trí của địch quân đang bao vây căn cứ.) để chận đường lui binh của địch.

    Sau khi được thả xuống bải đáp, TĐ1/5KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đă đụng độ với một Tiểu Đoàn cộng quân đang cố thủ tại đây,TĐ1/5KBKV bị thiệt hại nặng, Trung Tá Runkle Tiểu Đoàn Trưởng bị tử thương . TĐ2/5KBKV được lịnh vào thay thế nhưng cộng quân đă rút lui.

    Trong khi đó, các đơn vị pḥng thủ bên trong căn cứ Khe Sanh, TĐ1/9TQLC cũng bắt đầu tấn công ra về phía Nam để chiếm lại ngọn đồi 471 theo chiến thuật gộng kềm, ép đơn vị Tiểu Đoàn 7 Trung Đoàn 66 địch quân vào giửa. Cộng quân cố thoát ra khỏi ṿng vây nhưng với hoả lực hùng hậu của các đơn vị tham chiến, Công quân phải rút chạy và bỏ lại chiến trường 148 xác.

    6/4/1968 Các đơn vi KBKV đă bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ tại đồi 471.Sau đó TĐ 1/9 TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ ngọn đồi 552 rồi đến đồi 681. không gặp một kháng cự nào của địch.



    Bản đồ khu giới tuyến và QL 9 của Trần Đổ Cẩm

    Cùng lúc đó về mặt Bắc, TĐ2/26TQLC cũng tiến ra ngọn đồi 558. Mủi tiến quân nầy gập sự chống trả mạnh mẽ của công quân; trận chiến phải mất hết 2 ngày mới bứng hết các ổ kháng cự.

    7/4/1968 Trong khi tiến về Khe Sanh dọc theo QL9 , TĐ2/7KBKV đă chạm địch mạnh tại địa điểm chỉ cách Khe Sanh chừng 2 dậm. Để 3 Đại Đội cầm chân địch quân ở mặt trận chính, Đại Đội thứ tư ḷn ra sau bọc hậu, mới đánh bật được Cộng quân ra khỏi các công sự pḥng thủ.



    Cũng trong ngày nầy các Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam đă chạm địch, Sau khi đáp xuống vị trí đă định Lữ Đoàn Trưởng cho lệnh các đơn vị trực thuộc mở rộng đội h́nh hàng ngang tiến vào phía căn cứ , xiết chặc ṿng vây. Khi biết có lính Dù VN tăng cường, binh sỉ TQLC bên trong căn cứ lên tinh thần, khi lực lượng Dù chạm địch, bên trong căn cứ cũng bắn ra dữ dội. Do đó địch quân bị kẹt giữa hai lằn đạn, v́ quá gần trong khoảng cách không quá 200m, biết không thể tiến cũng không thể thoát được, địch quân gọi pháo tác xạ vào ngay đội h́nh của chúng nên bị chết rất nhiều, một số bị bắt sống, bên ta cũng bị tổn thương khá cao. Đại Đội 33ND là tổn thất nặng nhất Đại Úy Nguyễn Đức Cần, ĐĐT cùng 2 Chuẩn Úy Trung Đội Trưởng bị tử thương. Một Thiếu Úy Trung Đội Trưởng bị thương. chỉ c̣n một Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Trương Văn Dũng không bị thương tích.

    Ngày 8/4/1968 Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải toả sau 77 ngày bị cộng quân vây hảm , các đơn vị tham chiến tung quân càn quét các khu vực xung quanh, chỉ một vài cuộc đụng độ lẻ tẻ quanh ngọn đồi 881 Bắc.

    Tổng kết thiệt hại về phía đồng minh 41 Bộ Binh Mỹ, 51 TQLC Mỹ và 34 quân nhân VNCH bị tử trận, đổi lại 1304 quân CSBV bỏ xác tại trận và 21 tù binh.

    Cuộc hành quân Lam Sơn 207 A chính thức kết thúc vào ngày 15/4/1968 Lữ Đoàn 3ND được đưa về Huế để tham dự một cuộc hành quân mới chiếm lại thung lủng A Shau.

    Sau này, có người nhận xét cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rănh tay tấn công các vùng khác. Người khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lư do muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đă "tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt.

    Nhưng lịch sử đă đổi chiều không phải của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để pḥng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đă không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại c̣n bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.



    Tài liệu tham khảo:

    - Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang nhà History of the Viet NamWar.

    - Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Tiến Sĩ Nguyẽn Đức Phương, nxb Làng Văn 2001.

    - Một Cánh Hoa Dù của Trương Dưởng. Tác giả xb 1998

    - The War in The Northern Provinces 1966-1968 by Lieutenant General Willard Pearson Dept of The Army Washington, D.C., 1975

    - Phỏng vấn trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.

    - Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968 của Phạm Cường Lể trên trang nhà History of the VN War.

    - A-Shau valley của Thomas Pilsch trên trang Web: cc.gatech.edu/fac/Thomas.Pilsch/airops/Ashau.html.

    - The Battle of Ashau Valley trên trang Web : army.mil/cmh-pg/books/Vietnam/northern/nprovinces-ch6.htm#ashau.

  9. #29
    Member
    Join Date
    06-12-2010
    Posts
    555
    Cho tôi hỏi: tướng vc trần độ có phải đă từng trong đám planned and gave order cho trận Mậu Thân 1968? Tôi hỏi v́ ṇi giống kắt mệnh luôn t́m cách tôn vinh trần độ và cố t́nh che dấu tội ác của tướng vc.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẬN MẬU THÂN

    TRẬN MẬU THÂN
    TưỚng Vơ Nguyên Giáp và tiẾn tŕnh bí Ẩn cỦa kẾ hoẠch tẤn công TẾt MẬu Thân (1968)


    Journal of VIETNAMESE sTUDIES
    Summer 2008



    Merle L. Pribbenow II

    General Vơ Nguyên Giáp and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tết Offensive

    Nguyễn Việt dịch

    (Đă đăng thành 4 phần trên talawas: Phần 1, Phần 2, Phần 3, Phần 4)



    Cuộc tấn công Tết Mậu Thân, mà người Việt Nam gọi là “Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa” có lẽ là sự kiện có sức nảy nở lớn trong lịch sử cuộc chiến tranh dài dặc của Mỹ tại Việt Nam. Như người Việt Nam vẫn thích tuyên bố, cuộc tấn công Tết “đă làm biến đổi cục diện”, thay đổi toàn bộ tính chất của cuộc chiến, và phần lớn sách vở lịch sử về chiến tranh có thể chia một cách rơ ràng thành hai giai đoạn “trước Tết” và “sau Tết”.

    Câu chuyện Tết Mậu Thân của phía Mỹ được kể lại vô cùng tỉ mỉ, từ cấp độ chiến lược tới cấp độ chiến thuật, nhưng thật đáng kinh ngạc v́ người ta biết được rất ít về nguồn gốc kế hoạch cuộc tấn công Tết bên phía Việt Nam. Các sử gia từng bàn nhiều về việc thành viên hay các thành viên nào của giới lănh đạo cộng sản Việt Nam đă có ư tưởng về cuộc tấn công Tết, những ai ủng hộ ư tưởng này và những ai phản đối, nhưng các bàn luận thường chỉ dựa trên rất ít bằng cứ. Một số xác định đạo diễn của cuộc tấn công Tết Mậu Thân là tướng Vơ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, người từng được cả thế giới vinh danh ở tư cách một chiến lược gia quân sự hơn một thập niên trước đó với chiến thắng trước người Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Những người khác lại cho rằng ư tưởng về cuộc tấn công Tết bắt nguồn từ vị tướng đă quá cố Nguyễn Chí Thanh, người cho tới khi chết vào tháng Bảy năm 1967 vẫn lănh đạo nỗ lực của cộng sản chống lại các lực lượng Mỹ tại Việt Nam Cộng ḥa. Một vài người khẳng định cuộc tấn công là một nỗ lực tuyệt vọng của những người cộng sản nhằm lật ngược một t́nh thế khi họ đang phải đối mặt với thất bại không thể tránh khỏi, c̣n những người khác tuyên bố cuộc tấn công là kết quả của một nhận định quá mức lạc quan của giới lănh đạo cộng sản về t́nh h́nh Việt Nam Cộng ḥa. Một số học giả đă kết nối quyết định tung ra cuộc tấn công Tết với cuộc đấu tranh chia rẽ bên trong khối chóp bu chính trị về các khác biệt ư hệ liên quan đến sự đối đầu của phe cộng sản giữa Trung Quốc và Liên Xô (vào quăng thời gian ấy Liên Xô đang ép Việt Nam điều đ́nh một thỏa thuận với Mỹ trong khi Trung Quốc bắt Việt Nam phải tiếp tục chiến đấu và từ chối đối thoại với Mỹ).[1]

    Chỉ tới khi, hoặc trừ phi, người Việt Nam công khai hóa các hồ sơ nội bộ của Bộ Chính trị và Bộ Tư lệnh tại Hà Nội, bằng không sẽ không thể có lời đáp cuối cùng, tối hậu cho những câu hỏi trên. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đă có một số sách vở, tài liệu của người Việt Nam, chiếu một ánh sáng mới vào sự bí ẩn và cho phép chúng ta có được nhiều kết luận đầy đủ thông tin hơn. Thông tin mới cho thấy tướng Vơ Nguyên Giáp và tướng Nguyễn Chí Thanh đều không phải là người nghĩ ra ư tưởng về cuộc tấn công Tết; bản thân Hồ Chí Minh cũng phản đối cuộc tấn công; cái kế hoạch sau này được thực hiện như đă xảy ra là kết quả của một thỏa thuận ngầm giữa tướng Văn Tiến Dũng, thuộc cấp ở cấp cao nhất của tướng Vơ Nguyên Giáp, và tổng bí thư đảng cộng sản Lê Duẩn, đối thủ của tướng Vơ Nguyên Giáp trong một quăng thời gian rất dài; Vơ Nguyên Giáp phản đối cuộc tấn công Tết mạnh mẽ đến mức sau đó ông bị mất quyền, không chỉ không được tham dự vào tiến tŕnh lập kế hoạch mà c̣n phải rời Việt Nam sang Đông Âu và không trở về cho tới khi cuộc tấn công Tết đă thực sự mở màn. Mặc dù vẫn c̣n lại vấn đề về tầm quan trọng của vai tṛ của những khác biệt về ư hệ trong cuộc đấu đá chia rẽ nội bộ nổ ra bên trong Bộ Chính trị Việt Nam ở quá tŕnh ra quyết định, có vẻ như là các khác biệt ư thức hệ, được tưởng tượng ra hoặc có thật, thực tế đă được phe chiến thắng sử dụng nhằm gia cố và bảo vệ vị thế của ḿnh.



    Các tiền đề của kế hoạch

    Nguồn gốc ư tưởng cuộc “Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa” Tết có thể được t́m thấy ngay từ đầu những năm 1960. Tháng Mười hai năm 1963, chỉ một tháng sau khi tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đă họp tại Hà Nội để bàn luận và thông qua Nghị quyết hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành. Nghị quyết này nhận định rằng “tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ là hướng phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam để đạt tới toàn thắng”.[2] Trung ương Đảng dự tính khả năng chiến thắng cuộc chiến một cách nhanh chóng, trước khi Mỹ quyết định có nên điều các đội quân Mỹ tới cứu chế độ Việt Nam Cộng ḥa hay không. Vẫn duy tŕ đường hướng chung về việc tiến hành một cuộc “chiến đấu lâu dài” ở miền Nam, Nghị quyết 9 kêu gọi một nỗ lực đến mức tối đa nhằm “tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới”.[3] Tuy nhiên, theo nghị quyết, “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, cái có thể rốt cuộc sẽ lật đổ chế độ miền Nam chỉ có thể được tung ra sau khi quân đội Việt Nam Cộng ḥa đă bị “tiêu hao” và trở nên kiệt quệ tới mức không c̣n đủ sức đàn áp những cuộc nổi dậy của quần chúng nằm ở trung tâm cuộc nổi dậy chung thuộc kế hoạch lớn về tổng tiến công và nổi dậy nữa. Nghị quyết nhận định nhiệm vụ chiến lược của các lực lượng vũ trang cộng sản tại miền Nam sẽ là “làm tan ră quân đội tay sai, công cụ chủ yếu của chế độ địch, tạo điều kiện để thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền phản động ở miền Nam”.[4]

    Tháng Chín năm 1964, Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản họp tại Hà Nội để đánh giá t́nh h́nh và xem xét quá tŕnh thực hiện Nghị quyết hội nghị IX của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Bộ Chính trị quyết định tiến hành một đ̣n mạnh mẽ nhằm nhanh chóng tiêu diệt quân đội Việt Nam Cộng ḥa để “giành thắng lợi quyết định”. Ngoài việc điều các đơn vị chính quy lớn đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (cấp trung đoàn) vào miền Nam để chiến đấu và ra lệnh mở một loạt chiến dịch cấp trung đoàn và sư đoàn với mục đích đè bẹp Quân lực Việt Nam Cộng ḥa,[5] Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam cũng chỉ thị phải chuẩn bị tung ra cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa. Chiến dịch sẽ được bắt đầu sau khi quân đội Việt Nam Cộng ḥa đă bị nghiền nát, và sẽ hướng thẳng vào thành phố thủ phủ miền Nam, Sài G̣n.

    Một cuốn sách của cộng sản thời kỳ hậu chiến tranh miêu tả kế hoạch mang bí số “Kế hoạch X” như sau:

    “Trong mùa thu năm 1964… Trung ương Cục miền Nam lập một kế hoạch nhằm chuẩn bị nắm thời cơ tiến hành một cuộc tổng công kích và khởi nghĩa với mục tiêu nhắm đến một thắng lợi quyết định. Kế hoạch được đặt bí số “Kế hoạch X”… Khu vực trung tâm mà Kế hoạch X hướng tới là Sài G̣n-Gia Định… Trong quư ba năm 1964, một cơ quan đặc chủng, được tạo nên từ các thành viên của Quân ủy Trung ương thuộc Trung ương Cục miền Nam và các chỉ huy quân sự của Vùng Quân sự Sài G̣n-Gia Định được tạo nên để thực thi kế hoạch… Theo Kế hoạch X, Vùng Quân sự Sài G̣n-Gia định phải nhanh chóng lập ra các đơn vị đặc công thành đủ sức mạnh để tiến công và chiếm lấy những mục tiêu quan trọng trong thành phố, đồng thời lập ra các đơn vị chiến đấu có vũ trang và các đơn vị tự vệ cho mỗi nhánh nhằm cung cấp xương sống cho phong trào nổi dậy chung. Vùng Quân sự cũng sẽ lập ra năm tiểu đoàn mũi nhọn có thể được sử dụng tại năm khu vực bao quanh vùng ngoại ô của thành phố, đủ sức tiến sâu vào thành phố từ năm hướng. Những tiểu đoàn này có thể nhanh chóng hỗ trợ các đơn vị đặc công thành để giúp họ nắm giữ những mục tiêu riêng lẻ trong khi chờ quân chủ lực của chúng ta và hỗ trợ từ phong trào nổi dậy chung của người dân.”[6]

    Ư tưởng chia thành phố thành năm khu vực và ư tưởng điều các tiểu đoàn mũi nhọn vào mỗi khu vực nhằm hỗ trợ các nhóm đặc công và “nổi dậy chung” trong khi chờ các đơn vị lớn hơn từ bên ngoài tới nơi sau này sẽ được sử dụng trong kế hoạch về các cuộc tấn công Tết Mậu Thân vào Sài G̣n.

    Trong một lá thư đề tháng Hai năm 1965, tổng bí thư Lê Duẩn, một người trung thành với các ư tưởng “tổng khởi nghĩa” và “chiến đấu trong thành phố” và có vẻ như là người ủng hộ Kế hoạch X mạnh mẽ nhất, giải thích kế hoạch cho tư lệnh cộng sản ở miền Nam Việt Nam, tướng Nguyễn Chí Thanh, như sau: “Vấn đề hiện nay của chúng ta là tiếp tục mở rộng sự kiểm soát tại vùng nông thôn và chuẩn bị thực hiện một cuộc tổng khởi nghĩa. Các đô thị sẽ trở thành điểm trọng tâm cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới.”[7]

    Lê Duẩn nói điều kiện tiên quyết là các lực lượng cộng sản phải chuẩn bị cho t́nh h́nh “bằng cách tiến công và tiêu diệt ba hoặc bốn sư đoàn chính quy ngụy trên chiến trường trong các đợt sóng liên tiếp những cuộc tiến công của lực lượng chúng ta.” Khi điều này đă được hoàn thành, Lê Duẩn nói với tướng Nguyễn Chí Thanh, “Chúng ta sẽ tiến hành một cuộc tổng khởi nghĩa phối hợp với một cuộc tiến công quân sự chung hướng thẳng vào trái tim quân địch để nắm kiểm soát chính quyền. Điều này sẽ hạ gục tinh thần quân đội ngụy. Chiếm ưu thế từ cơ hội ấy, chúng ta sẽ tiến hành những cuộc tiến công quân sự mạnh mẽ đi đôi với những tấn công lớn về chính trị và quân đội của nhân dân, gây tiêu hao cho quân địch và bằng cách đó tạo ra khả năng làm sụp đổ những đơn vị c̣n lại của quân đội ngụy.”[8]

    Các yếu tố khác của kế hoạch được Lê Duẩn tŕnh bày trong lá thư, bao gồm việc tạo ra một tổ chức chính trị “mặt trận thứ hai” kiên quyết mang tính trung lập nhằm lập một chính phủ mới và điều đ́nh việc rút quân của Mỹ, sau này sẽ được lặp lại trong kế hoạch cuộc tấn công Tết Mậu Thân.[9] Cuối cùng, cũng như thái độ ông sẽ có trong khi lên kế hoạch cho cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Lê Duẩn kiên quyết phủ nhận lập luận cho rằng cuộc tổng nổi dậy của các thành phố chỉ được tiến hành khi nào chiến thắng là chắc chắn, cho rằng nếu những cuộc tấn công tại các thành phố thất bại, các lực lượng cộng sản có thể sẽ chỉ đơn giản là rút lui, tập hợp lại, rồi sau đó sẽ thử lại lần nữa. Lê Duẩn viết:

    “Tuy nhiên, nếu v́ lư do nào đó mà những cuộc nổi dậy tại các đô thị gặp khó khăn và chúng ta buộc phải rút lui lực lượng, th́ cũng không vấn đề ǵ. Đó sẽ chỉ là một dịp cho chúng ta diễn tập và rút ra các bài học kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho sau này. Lực lượng của đồng chí Fidel Castro đă tấn công các đô thị ba lần mới thành công. Nếu chúng ta tiến vào được các đô thị nhưng sau đó phải rút lui, th́ vẫn không phải lo lắng ǵ, bởi toàn bộ vùng nông thôn và rừng núi đều thuộc về chúng ta – vị thế và lực lượng của chúng ta đều rất mạnh tại các vùng đó.”[10]

    Trong một bức thư khác gửi Nguyễn Chí Thanh vào tháng Năm 1965, sau khi rất nhiều đội quân chiến đấu lớn của Mỹ đă bắt đầu đổ bộ vào Việt Nam Cộng ḥa và viễn cảnh tung ra một cuộc tổng khởi nghĩa tại các thành phố rơ ràng là đă bị thổi bay, Lê Duẩn vẫn tiếp tục bảo vệ ư tưởng của ḿnh. Ông nói với tướng Nguyễn Chí Thanh, “Khi nào có cơ hội, ngay cả khi các yếu tố chỉ cho phép chúng ta 70 hay 80 phần trăm cơ may chiến thắng, th́ chúng ta cũng phải nắm lấy cơ hội và tiến hành các cuộc khởi nghĩa thay v́ cứ bướng bỉnh đ̣i hỏi sự hoàn hảo và đợi cho tới khi cơ hội đạt tới 100 phần trăm.”[11]

    Rốt cuộc, sự triển khai rộng lớn của các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam Cộng ḥa bắt đầu vào mùa hè 1965 đă ngăn chặn mọi khả năng về tung ra cuộc tổng tiến công và nổi dậy, nhưng Lê Duẩn không bao giờ thực sự rời bỏ ước mơ của ḿnh.



    Vai tṛ của tướng Vơ Nguyên Giáp trong cuộc chiến tranh chống Mỹ

    Khoảng giữa những năm 1960, vị trí của tướng Vơ Nguyên Giáp trong hệ thống thứ bậc chính trị và quân sự của cộng sản đă có thay đổi lớn, và vai tṛ của ông trong việc chỉ huy cuộc chiến tranh nói chung đă bị suy yếu. Mặc dù vẫn giữ các trọng trách như Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Việt Nam, bộ trưởng quốc pḥng, và bí thư Quân ủy Trung ương, các quyết định chiến lược về cuộc chiến tranh ở miền Nam đă không c̣n chỉ duy nhất nằm trong tay của vị tướng nữa. Thay vào đó, những quyết định ấy được thực hiện bởi một tiểu ban đặc biệt gồm năm người của Bộ Chính trị, trong đó Vơ Nguyên Giáp chỉ là một thành viên. [12] Một sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam, từng nhiều năm phục vụ trong Bộ Tổng Tham mưu của Quân đội Nhân dân Việt Nam và là tác giả một cuốn sách xuất bản gần đây về vị tướng với tư cách tư lệnh quân sự viết như sau về thẩm quyền ra quyết định của ông trong “cuộc chiến tranh chống Mỹ”: “Ngoài việc tham gia các thảo luận và quyết định của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, và Quân ủy Trung ương ở các bước riêng biệt ở cấp chiến lược chung, sự dẫn dắt và chỉ huy đối với các tư lệnh ngoài chiến trường ở tướng Vơ Nguyên Giáp không ở mức độ trực tiếp như đă từng như vậy trong cuộc kháng chiến chín năm [chiến tranh chống Pháp].”[13]

    Trong một lần phỏng vấn tại Hà Nội, vẫn vị sĩ quan này công nhận rằng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, không giống như trong cuộc chiến tranh chống Pháp, đă xảy ra nhiều bất đồng bên trong Bộ Chính trị về chiến lược và chiến thuật. Vị sĩ quan nói rằng tướng Vơ Nguyên Giáp đứng về bên thua cuộc trong rất nhiều cuộc tranh căi ấy, nhưng “để giữ toàn cục” ông vẫn đi theo đa số sau khi không được ủng hộ.[14]

    Bản chất chính xác của những tranh căi bên trong Bộ Chính trị – các thành viên Bộ Chính trị thuộc về phái nào, vân vân – từng là chủ đề t́m hiểu của vô số tác giả trong nhiều năm. Giờ đây một số sử gia xếp Lê Duẩn và các “quân nhân miền Nam” hay các “tư lệnh miền Nam” về một bên và nhân tố “lănh đạo miền Bắc”, với Vơ Nguyên Giáp là một trong các nhân tố chỉ huy, ở phe bên kia.[15] Tôi tin rằng đây là một sự đơn giản hóa quá mức bởi v́ rất rơ rằng những bất đồng chỉ là về phương tiện chứ không phải về mục đích. Bất kỳ ai có liên quan cũng chia sẻ cùng một mục tiêu cuối cùng, đó là “giải phóng” miền Nam và thống nhất Bắc-Nam thành một quốc gia Việt Nam duy nhất nằm dưới sự cầm quyền của Đảng Cộng sản. Nhưng điều này không làm cho các bất đồng trở nên kém gay gắt hơn.

    Nguồn gốc xung đột Lê Duẩn-Vơ Nguyên Giáp rất mù mờ, nhưng có khả năng là đă bắt đầu ngay từ hồi cuối những năm 1950. Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Trường Chinh bị mất chức lănh đạo đảng vào tháng Mười năm 1956 v́ những “sai lầm” trong khi tiến hành chương tŕnh cải cách ruộng đất thảm khốc, có vẻ như tướng Vơ Nguyên Giáp là ứng cử viên một cách tự nhiên ở cương vị lănh đạo đảng.[16] Tuy nhiên, mặc dù Vơ Nguyên Giáp từng một thời là trợ lư thân cận của Hồ Chí Minh trong việc điều hành đảng, ông đă nhanh chóng đánh mất vai tṛ lănh đạo của ḿnh vào tay Lê Duẩn. Tháng Tư năm 1957, Lê Duẩn được gọi ra miền Bắc khi đang ở cương vị lănh đạo của bộ máy cộng sản hoạt động ngầm ở Việt Nam Cộng ḥa. Tháng Mười hai cùng năm, Lê Duẩn chính thức giữ chức lănh đạo đảng khi được bầu vào Ban Bí thư tại Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng.[17]

    Một phần nguyên nhân của sự gay gắt trong cuộc đối đầu trong hàng ngũ lănh đạo giữa Lê Duẩn và Vơ Nguyên Giáp có thể t́m thấy ở vai tṛ của Vơ Nguyên Giáp trong việc lên dự thảo cho Nghị quyết hội nghị lần thứ mười lăm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, tài liệu rốt cuộc cũng cho phép sử dụng “đấu tranh vũ trang” ở miền Nam và khiến Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa có trách nhiệm hỗ trợ nhằm “giải phóng” miền Nam. Đầu năm 1957, trước khi Lê Duẩn được gọi từ miền Nam ra, Hồ Chí Minh đă giao cho Vơ Nguyên Giáp nhiệm vụ lên dự thảo nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược của đảng trong cuộc cách mạng ở miền Nam.

    Hoàng Tùng, một lư thuyết gia và nhà tuyên truyền thuộc hàng lănh đạo của đảng, một trong hai người được chỉ định giúp tướng Vơ Nguyên Giáp lên dự thảo nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương, cho rằng vị tướng đă nhanh chóng nhất trí với ư tưởng về sử dụng “bạo lực cách mạng” nhằm “giải phóng” miền Nam. Tuy nhiên, Hoàng Tùng công nhận Vơ Nguyên Giáp cũng là một người biện hộ nhiệt thành cho một giải pháp “ḥa b́nh” đối với t́nh h́nh Việt Nam Cộng ḥa. Theo Hoàng Tùng, bản dự thảo nghị quyết đă có rất nhiều sửa chữa và liên tục bị tŕ hoăn. Bản dự thảo cuối cùng của tướng Vơ Nguyên Giáp chỉ được gửi cho Lê Duẩn khi nó đă được hoàn thành vào cuối năm 1958. Hoàng Tùng cho biết khi đó Lê Duẩn đă ngồi lại cùng hai người trợ tá viết bản nghị quyết (nhưng không phải là với tướng Vơ Nguyên Giáp) nhằm thêm vào nhiều điểm và thực hiện nhiều thay đổi đối với bản dự thảo cuối cùng của vị tướng trước khi tŕnh lên Trung ương Đảng để thông qua vào đầu năm 1959.[18]

    Những tŕ hoăn liên tiếp và sự coi thường mà dường như Vơ Nguyên Giáp thể hiện đối với những lời kêu gọi của Lê Duẩn nhằm hành động ngay lập tức để hỗ trợ cách mạng miền Nam hẳn đă làm Lê Duẩn phật ư. Sự giận dữ của ông lại càng tăng thêm bởi việc ông bị buộc phải thân chinh trả lời các chất vấn lặp đi lặp lại về các vấn đề liên quan tới nghị quyết từ hai phái viên thuộc bộ phận đảng ở miền Nam. Các phái viên này được cử ra Hà Nội vào mùa hè năm 1957 với mục đích thúc giục Lê Duẩn và giới lănh đạo đảng của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa trong việc hỗ trợ và tham gia cuộc “cách mạng” tại miền Nam. Hai người đó, Phan Văn Đáng và Phạm Văn Xô, phải chờ đợi, bị giam lỏng trong một nhà thờ ở Hà Nội, trong suốt mười tám tháng trong khi Vơ Nguyên Giáp và các trợ tá của ông bàn thảo về câu từ của bản dự thảo nghị quyết. Lê Duẩn gặp hai phái viên miền Nam mỗi tháng một lần, và lần nào ông cũng phải thông báo với họ rằng “bản dự thảo nghị quyết vẫn chưa xong.”[19] T́nh huống này chắc hẳn đă đóng một vai tṛ quan yếu trong việc làm cho mối quan hệ giữa tướng Vơ Nguyên Giáp và Lê Duẩn xấu đi.



    Đe dọa và thách thức – đ̣i hỏi về một thắng lợi mang tính quyết định

    Vào khoảng mùa hè năm 1966, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở vào t́nh thế một cuộc pḥng thủ chiến lược trong ít nhất là một năm khi nó phải nỗ lực một cách tuyệt vọng để cung cấp quân lính và quân trang vào miền Nam nhằm không bị thua kém với cuộc đổ quân ồ ạt của các lực lượng chiến đấu Mỹ vào Việt Nam Cộng ḥa. Đây không phải là một t́nh h́nh dễ chịu cho những người cộng sản Việt Nam, những người, cũng giống như tất cả các nhà Mác xít chân chính, tin rằng điều cốt yếu là phải giữ vững được lập trường ban đầu và luôn không ngừng tấn công. Điều không tránh khỏi là họ sẽ phải cố gắng giành lại thế tấn công ban đầu.

    Giữa tháng Sáu năm 1966, tiểu ban của Bộ Chính trị chuyên trách cuộc chiến tranh ở miền Nam do Lê Duẩn đứng đầu và có thêm Nguyễn Chí Thanh (người có mặt ở Hà Nội cho công việc tham vấn), gặp Quân ủy Trung ương tại Hà Nội để bàn bạc về kế hoạch Bộ Tổng Tham mưu cho chiến dịch “đông-xuân” 1966-1967. Mục đích của chiến dịch ghi trên kế hoạch là “giành một thắng lợi mang tính quyết định” trước Việt Nam Cộng ḥa trong năm 1967. Một cuốn sách của Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu tóm tắt kế hoạch như sau: “[Chúng ta sẽ] sử dụng 4 khối chủ lực tiến công địch trên 4 chiến trường: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, Trị Thiên; kết hợp với tiến công và khởi nghĩa ở 3 thành phố lớn Sài G̣n, Đà Nẵng, Huế, tiêu diệt và đánh tan ră chủ lực quân ngụy, đánh thiệt hại nặng quân Mỹ, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường miền Nam trong năm 1967.”[20]

    Theo các ghi chép từ cuộc gặp, Nguyễn Chí Thanh ủng hộ ư tưởng t́m kiếm một “thắng lợi mang tính quyết định” trong năm 1967 nhưng thận trọng v́ trong dịp đông-xuân sắp tới các lực lượng Trung ương Cục miền Nam tại miền Nam sẽ phải tập trung vào các hoạt động pḥng thủ nhằm đánh thắng “cuộc phản công chiến lược” mùa khô 1966-1967 của Mỹ. Điều đó có nghĩa là các lực lượng cộng sản sẽ phải tiếp tục chiến đấu trong mùa hè thay v́ có đợt ngưng như thường lệ để nghỉ ngơi và củng cố lực lượng. Trong cuộc gặp, tướng Vơ Nguyên Giáp bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với việc tiến hành “những trận đánh lớn” nhằm giành một thắng lợi, nhưng nhấn mạnh rằng những cuộc tấn công vào các thành phố cần được khởi đầu bằng những tấn công quân sự nhỏ và chỉ dần dần tiến tới bước “nổi dậy” tại một số vùng và thành phố đặc thù, khi mà các lực lượng cộng sản đă chiếm được quyền kiểm soát ở những vùng đó.[21]

    Cuộc thảo luận tháng Sáu năm 1966 về kế hoạch cho một “thắng lợi mang tính quyết định” hẳn đă chịu ảnh hưởng từ các cuộc nổi dậy của Phật giáo và biến động miền Trung nửa đầu của năm 1966, những ǵ mà phe cộng sản hẳn đă coi như là các dấu hiệu cho thấy quân đội Việt Nam Cộng ḥa và chính phủ miền Nam bắt đầu sụp đổ. Tuy nhiên, có vẻ như là sẽ đúng hơn nếu nói nó phản ánh một quyết định về chính sách ban đầu của Bộ Chính trị cuối cùng được chính thức hóa vào tháng Giêng 1967, khi Trung ương Đảng Cộng sản thông qua Nghị quyết hội nghị mười ba, kêu gọi việc thực hiện một chiến lược “vừa đánh vừa đàm” và khởi đầu các cuộc thương thuyết với Mỹ.

    Trong các tŕnh bày riêng biệt trong cuộc tranh luận về Nghị quyết 13, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh và Tổng Tham mưu trưởng, tướng Văn Tiến Dũng, nói với các đại biểu của Trung ương rằng v́ hai phía trong cuộc chiến tranh đều đang rất bế tắc, người Mỹ đang phải đối diện với một lựa chọn giữa ba chiến lược có thể có cho tương lai: (1) mở rộng chiến tranh thông qua mở rộng ném bom và xâm lấn Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, (2) gửi thêm rất nhiều quân và quân trang để chiến đấu và t́m cách chiến thắng trong một cuộc chiến kéo dài tại miền Nam, hoặc (3) nỗ lực để giành một thắng lợi quân sự quan trọng trong năm 1968 rồi sử dụng thắng lợi đó thương thuyết một giải pháp chính trị từ một vị thế có sức mạnh, một giải pháp có thể vẫn cho phép giữ lại chính quyền “tân thực dân” ở Việt Nam Cộng ḥa.

    Những lựa chọn đó mang lại cho người cộng sản Việt Nam không chỉ một mối đe dọa nguy hiểm mà cả một cơ hội nữa. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nói với Trung ương rằng bởi có bất ổn ngay trong ḷng nước Mỹ, và đặc biệt là bởi có tác động mà cuộc chiến hẳn sẽ có lên kỳ tranh cử tổng thống năm 1968, một cuộc tranh luận nảy lửa đang nổ ra bên trong giới chức Mỹ giữa phe “diều hâu”, những kẻ ủng hộ hành động mạnh mẽ hơn chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, và phe “bồ câu”, những người ủng hộ thương thuyết để chấm dứt chiến tranh nhưng vẫn giữ lại một miền Nam Việt Nam độc lập. Vị bộ trưởng ngoại giao nói rằng Tổng thống Lyndon B. Johnson đang không chắc sẽ phải làm ǵ nhưng nghiêng về giải pháp thứ ba, t́m kiếm một dạng thành công nhanh chóng về quân sự với liền tiếp theo là một thỏa thuận thông qua thương thuyết trước khi diễn ra bầu cử, nhằm được tiếp tục tại vị.[22]

    Nguyễn Duy Trinh khuyên Trung ương thông qua chiến lược do Bộ Chính trị đề ra, sử dụng “củ cà rốt” thương thuyết và một “chiến lược vừa đánh vừa đàm” nhằm khai thác mong muốn của Johnson trong việc thực hiện được một thỏa thuận thông qua thương thuyết trước kỳ bầu cử 1968. Nguyễn Duy Trinh nói rằng Bộ Chính trị đă đặt ra hai mục tiêu chính cho các thương thuyết. Mục tiêu thứ nhất là làm cho nước Mỹ ngừng ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, và mục tiêu thứ hai là buộc Mỹ rút quân khỏi miền Nam.

    Ư tưởng sử dụng chiến lược vừa đánh vừa đàm không phải là điều ǵ mới mẻ. Tổng bí thư Lê Duẩn từng bàn về ư tưởng này trong một bài phát biểu vào dịp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng Mười hai 1965. Trong bài phát biểu, ông nói rơ rằng có nhiều ư kiến khác nhau ngay trong phe xă hội chủ nghĩa về việc sử dụng “vừa đánh vừa đàm”, và ông đă chỉ ra các điều kiện cần thiết trước khi một chiến lược như vậy có thể được sử dụng: trước hết Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa phải giành được “những thắng lợi to lớn và gịn giă hơn nữa” và phải đạt được sự nhất trí ở mức độ nào đó “trong các đảng, các nước xă hội chủ nghĩa anh em… về ư tưởng vừa đánh vừa đàm.”[23]

    Nhiệm vụ có được một sự nhất trí nào đó với “các nước xă hội chủ nghĩa anh em” trong việc sử dụng ư tưởng vừa đánh vừa đàm thuộc về các nhà ngoại giao và lănh tụ chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa; Liên Xô đang mạnh mẽ thúc đẩy giới lănh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bước vào đàm phán, trong khi Trung Quốc kịch liệt phản đối mọi thương thuyết với Mỹ.[24] Tuy nhiên, trước khi các đàm phán có thể bắt đầu, trước hết Quân đội Nhân dân Việt Nam cần giành được một thắng lợi quan trọng ở mặt trận nhằm cung cấp cho các nhà ngoại giao của họ thế mạnh đối với người Mỹ tại bàn đàm phán. Như Nguyễn Duy Trinh tŕnh bày trong báo cáo của ông tại hội nghị Trung ương, “khi chưa giành được thắng lợi đó th́ trên bàn hội nghị cũng chưa giành được thắng lợi.”[25]






    Tướng Trần Độ nói về trận Mậu Thân ở Huế


Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •