Page 6 of 33 FirstFirst ... 234567891016 ... LastLast
Results 51 to 60 of 326

Thread: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

  1. #51
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    HÀNH QUÂN LAM SƠN 719 HẠ LÀO
    Và ĐẠI ĐỘI 5/TĐ2/TQLC.




    MX Phạm Văn Tiền

    Dai Uy Pham Van TienLời tác giả: Từ lâu đă có quá nhiều bài viết về cuộc hành quân Lam-sơn 719 tại Hạ Lào. Có nhiều người quá lạc quan cho rằng QLVNCH đă chiến thắng lớn trong cuộc hành quân nầy v́ quân ta đă phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng ṃn Hồ chí minh tại cứ điểm Tchépone. Lại có vài bài viết khác lại nói rằng đây là cuộc hành quân thảm bại nhất, hao tốn nhiều xương máu của anh em binh sĩ mà chẳng có kết quả cụ thể nào. Bao nhiêu quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch. Điều tai hại nhất là làm suy sụp nghiêm trọng đến tinh thần chiến đấu của nguời lính QLVNCH, v́ chẳng có đơn vị nào c̣n nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn, hấp tấp vô cùng mất trật tự chưa từng xảy ra trong quân sử của bất cứ quân đội thiện chiến nào. H́nh ảnh oai hùng của người lính lâm trận cùng đủ loại yểm trợ và các vũ khí vô cùng tối tân đă bị phai nhạt khi người lính trở về trong thất vọng, mất mát, thiểu năo như vừa thoát về từ địa ngục trần gian. Với bản thân ḿnh là Đại úy Đại đội trưởng của một đơn vị tổng trừ bị tham dự trong cuộc hành quân nầy. Tôi xin ghi lại một cách trung thực những ǵ tôi biết, tôi nghe, tôi thấy trong khả năng hiểu biết của ḿnh .Tôi muốn nói lên sự thực, một sự thật vô cùng khổ đau mà người lính QLVNCH phải đương đầu với tất cả sức lực c̣n lại của ḿnh để tồn tại trong cái chết là điều chắc chắn.

    Vừa măn khóa 4/70 Đại đội trưởng tại trường Bộ Binh Thủ Đức, hết phép cũng là lúc tiểu đoàn đang nghỉ dưỡng quân sau cuôc hành quân dài 3 tháng tại Đức Dục - Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm đơn vị được ăn Tết tại hậu cứ. Lệnh chuẩn bị hành quân được ban ra trong lúc đa số các anh em binh sĩ c̣n trể phép chưa về tŕnh diện đầy đủ. Tiểu đoàn cấm trại 100% và lệnh cho các ĐĐT bằng mọi cách, gom con cái của ḿnh lại càng nhanh càng tốt. Một số lớn binh sĩ ở trại gia binh được gọi vào để trang bị vũ khí đạn dượt sẵn sàng cho môt cuộc hành quân xa. Đại đội tôi cố gắng lắm cũng đử gần được 100 anh em, số c̣n lại sẽ được chuyển ra trong chuyến liên lạc gần nhất. Đoàn GMC của đại đội vận tải sư đoàn mang chúng tôi từ hậu cứ Tam Hà - Thủ Đức đến phi trường quân sự Biên Ḥa, để từ đây không vận bằng C130 ra Huế. Đến phi trường Phú Bài vào lúc nhá nhem tối, v́ là đơn vị di chuyển sau cùng của tiểu đoàn nên chúng tôi được lệnh đóng quân qua đêm tại công viên bên bờ sông Hương, trước mặt cửa Thượng Tứ; để rồi sáng sớm ngày hôm sau sẽ vào vùng hành quân. Xe qua An Lỗ, cầu Phổ Trạch quận Phong Điền nơi vết tích của cuộc phản kích tuyệt vời thuộc đơn vị tôi vào sáng ngày 29/6/1966. Vị tiểu đoàn trưỡng đă anh dũng hy sinh cùng hàng chục người khác. Rồi Mỹ Chánh, Quảng Trị, Ái Tử, Đông Hà...một thị trấn nhỏ bé nằm cực Bắc đất nước nơi tuyến đầu lửa đạn, vẫn c̣n đây với bao kỷ niệm ôm ấp từ những ngày mới ra trường, thành phố của đủ mọi sắc lính vẫn đi và về trong hối hả vội vàng. Qua Cam Lộ bắt đầu rẽ trái về quốc lộ 9 đường đi Savanakhet Hạ Lào để từ đây vào thẳng vùng đồi núi Khe Sanh, nơi đặt trung tâm hành quân của Quân Đoàn I cho cuộc hành quân sắp tới.



    Khe Sanh là một cái tên khá quen thuộc, một vùng đất mầu mỡ nhiều đồn điền càfé thời Pháp thuộc nay đă biến thành một cứ điểm chiến lược vô cùng quan trọng trong cuộc chiến tranh nầy, nơi nổi danh với nhiều trận đánh lẫy lừng đẫm máu nhất giữa quân CSBV và lực lượng đồng minh Hoa Kỳ vào cuối năm 1967 và những tháng đầu năm 1968. Lực lượng địch đă vây hăm Khe Sanh trong ṿng 77 ngày với ư đồ biến nơi đây thành mồ chôn quân Mỹ của một Điện Biên Phủ thứ 2, nhưng rồi đă bị thảm bại tan tác dưới các cơn mưa bom đạn của một quân lực hùng mạnh nhất thế giới, trung b́nh mỗi ngày hơn 45 phi vụ B52 và 300 phi vụ oanh tạc khác yểm trợ chiến thuật. Số bom đạn được ném xuống ở đây c̣n nhiều hơn tổng số mà quân đồng minh đă xử dụng trong trận đại chiến thế giới lần 2 khi đánh bại Đức Quốc Xă.

    Lần nầy để yểm trợ cho cuộc hành quân sang lănh thổ bạn, quân lực Hoa Kỳ chịu trách nhiệm khai quang các trục lộ và bảo đảm an ninh từ 2 tháng trước từ Đông Hà đến tận miền biên giới Việt Lào, đường xá và một số cầu cống được tu sửa lại thật hoàn chỉnh, phi trường quân sự Khe Sanh bị hoang phế nhiều năm nay cũng được tu bổ lại sẵn sàng cho các vận tải cơ đáp xuống tiếp tế tản thương theo nhu cầu chiến trường; một số bệnh xá dă chiến cũng được thiết lập để có thể chữa trị thương binh tại chổ. Đây là cuộc hành quân được chuẩn bị một cách khẩn trương, nhộn nhịp đại quy mô gồm nhiều đơn vị tham dự mà chẳng có yếu tố bảo mật chút nào. Xe cộ lui tới thường xuyên, tiếng rú của động cơ máy bay cùng các xe ủi đất vang rền lên xuống ngày đêm, có lẽ từ ngày khởi sự chiến tranh ở miền Nam cho đến lúc nầy chưa có cuộc hành quân nào được chuẩn bị ồn ào như vậy. Các lực lượng tham chiến gồm các trung đoàn của sư đoàn 1BB, các lữ đoàn của sư đoàn Nhảy Dù và TQLC, liên đoàn I/BĐQ và lữ đoàn I/Thiết Giáp. Ngoài các thành phần tham dự kể trên c̣n có các cố vấn Hoa Kỳ bên cạnh các đơn vị, các sĩ quan đại diện Không lực Mỹ về không trợ và không vận.



    Kể từ năm 1970, sau kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu giảm bớt quân số tại chiến trường Việt Nam, không c̣n những cuộc hành quân của lực lượng tác chiến mà chỉ xử dụng không quân yểm trợ phối hợp cùng không quân của QLVNCH. Hệ thống cố vấn Mỹ tại các đơn vị tác chiến cũng từ đó giảm bớt và đặc biệt họ không c̣n phải tháp tùng trên bộ cùng chúng ta trong các cuộc hành quân ngoại biên. Sư Đoàn TQLC-VN tham dự cuộc hành quân Lam sơn 719 nầy gồm toàn bộ 3 lữ đoàn. Với nhiệm vụ trừ bị cho quân đoàn I, chỉ nhảy vào vùng chiến ở những giai đoạn quyết định mà thôi. Giai đoạn đầu của cuộc hành quân là dùng trực thăng đổ quân xuống các cao điểm Bắc và Nam quốc lộ 9, giới hạn bởi Bản Đông nằm giữa trục tấn công từ biên giới đến Tchépone, thiết lập các căn cứ hoả lực, yểm trợ cho các cuộc hành quân phân tán lục soát trong tương lai. Xử dụng tối đa không trợ, đặc biệt các pháo đài B52 cầy nát mục tiêu trước khi dùng bộ binh đổ xuống Tchépone.

    Cuộc hành quân chính thức bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 8, tháng 2 năm 1971 qua lời tuyên bố của TT Nguyễn văn Thiệu trên đài phát thanh Sàig̣n: " Cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian và không gian với mục tiêu duy nhất là phá vỡ hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của CSBV trên phần đất Ai-Lao mà chúng chiếm đóng và xử dụng trong nhiều năm nay để tấn công vào QLVNCH. Ngoài ra QLVNCH không có tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao v́ VNCH luôn luôn tôn trọng nền độc lập và sự an toàn lănh thổ của Vương Quốc Ai-Lao ". Lữ Đoàn I/ND gồm các tiểu đoàn 1 và 8 cùng Lữ Đoàn I/Thiết Giáp đi tiên phong tiến dọc quốc lộ 9 và hướng Bản Đông để thiết lập căn cứ A-Lưới. Đây là căn cứ lớn nhất của cuộc hành quân và cũng là nơi đặt bộ chỉ huy Lữ Đoàn I/ND. Trên mặt Bắc tiểu đoàn 2/ND và các pháo đội cơ hữu đến điểm cao 500m nằm cách quốc lộ 9 và biên giới Việt Lào hơn 8 Km để thiết lập căn cứ 30. Tiểu đoàn 3/ND cũng nhảy trực thăng vào cao điểm 456m lập căn cứ 31 và cũng là nơi đặt BCH Lữ đoàn 3/ND. Xa hơn nữa về mặt Bắc, Liên Đoàn 21/BĐQ gồm 2 tiểu đoàn 21 và 37 được trực thăng vận đến băi đáp Ranger South cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 km về phiá Tây Bắc. Ba ngày sau tiểu đoàn 39/BĐQ được nhảy vào căn cứ Ranger North. Hai căn cứ nầy được thiết lập với mục đích quan sát sự chuyển quân của CS đồng thời làm tŕ hoăn các cuộc tấn công địch vào trục tiến quân chính.Trung Đoàn 3/SĐI/BB cũng được nhảy vào vùng tận cùng phiá Nam tại căn cứ Blue và Hotel, trong khi đó Trung Đoàn I/SĐI/BB vào hoạt động xung quanh căn cứ Delta. Mục tiêu 604 tại thị trấn Tchépone đă bị ta oanh tạc thật khủng khiếp và nhờ vậy các cuộc đổ quân của ta vào vùng nầy được hoàn tất mà không gặp được sự kháng cự nào. Địch hầu như biết trước ư định của ta nên đă phân tán mỏng ra xa để tránh thiệt hại, để rồi liền sau đó tập trung nhiều Sư Đoàn thiện chiến nhất để tấn công ta.



    Chiến dịch tổng phản công của địch được mở màn ngày 18/2 khi tăng cường áp lực bao vây và tấn công căn cứ Ranger North, trung đoàn 102 thuộc sư đoàn 308/CSBV đă áp đảo được căn cứ nầy. Thời tiết xấu và cường độ pḥng không quá mạnh của CS khiến không quân không thể can thiệp hữu hiệu, đến chiều 19/2 căn cứ Ranger North bị tràn ngập, vị tiểu đoàn trưởng Vũ Đ́nh Khang TĐ39/BĐQ đă bị bắt sống, bộ phận c̣n lại do tiểu đoàn phó chỉ huy di tản về Ranger South. Căn cứ Ranger North thất thủ, quân CS tiếp tục đánh chiếm căn cứ Ranger South, t́ểu đoàn 21/BĐQ chỉ đủ sức cầm cự được 2 ngày với sự thiệt hại thật nghiêm trọng, sau đó được trực thăng vận bốc về Phú Lộc qua chuyển tiếp căn cứ 30 của Nhảy Dù. Thừa thắng xông lên vào ngày 23/2 địch bắt đầu tấn công thăm ḍ căn cứ 31, để rồi sau đó tung toàn bộ chiến xa tiến chiếm căn cứ nầy. Đại tá Nguyễn Văn Thọ lữ đoàn trưởng cùng một số sĩ quan tham mưu đă bị bắt sống, trong đó có những cái chết thật hào hùng của Thiếu Tá Hiền Tham Mưu Trưởng và Đại Úy Đương pháo đội trưởng đă tự kết liễu đời ḿnh. Đúng 6 giờ 30 sáng ngày 25/2/71, căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào đă hoàn toàn lọt vào tay giặc. Ngày 26/2, CS dùng 2 trung đoàn thuộc SĐ304 tiếp tục tấn công căn cứ 30 cuối cùng căn cứ nầy cũng phải di tản chiến thuật và toàn thể các khẩu pháo cơ hữu của ta bị hư hại hoàn toàn.

    Trong khi địch tấn công ồ ạt ở mặt Bắc, th́ tại khu vực Đông Nam các đơn vị của trung đoàn 3/BB cũng đă bị bao vây uy hiếp. Mặc dầu cũng đă được yểm trợ bởi không quân và pháo binh đầy đủ nhưng vẫn cầm cự không nổi, sau cùng cũng phải t́m nơi an toàn để được trực thăng bốc về Khe Sanh. Trước t́nh h́nh diễn biến ác liệt của chiến trường, hết đơn vị nầy đến đơn vị khác của ta chịu trận, không sao tiếp cứu lẫn nhau, dù đă có lần khi đồn 31 bị tấn công, SĐ Dù đă đổ bộ thêm vào trận địa một tiểu đoàn để tiếp sức nhưng không sao đáp xuống bải đáp được v́ hỏa lực vô cùng mănh liệt của địch.

    Về phương diện thông tin báo chí, khi các phóng viên đă thổi phồng tin tức biến những cuộc lui binh cuả chúng ta thành thảm kịch trên chiến trường, điều tệ hại nhất là đài BBC đă phóng đại việc quân ta tiến vào Tchépone trong khi cuộc hành quân mới nửa đường tới mục tiêu; chính việc nầy đă gây một sự bất lợi thật quan trọng cho việc hành quân v́ địch quân đă nắm rỏ được ư định của ta nên đă sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến.

    Sư đoàn I/BB với trung đoàn 2 c̣n lại bằng mọi gía phải đánh chiếm Tchépone; dù chỉ là một tiểu đoàn được trực thăng vận vào trận địa cũng được, sau khi hoàn tất hoạt động trong thời gian ngắn rồi sẻ rút ra ngay. Trung đoàn I. SĐI/BB được điều quân lên mặt Bắc phía Nam sông Tchépone để tiếp ứng. Địch đă đoán được ư định của ta nên đă bố trí các đơn vị ra xa vùng sát hại dưới những trận mưa bom khủng khiếp của ta. Ngày 6/3, 120 trực thăng chuyên chở hai tiểu đoàn 2 và 4 của trung đoàn 2/SĐI/BB từ Khe Sanh đến bải đáp HOPE, cách Tchépone khoảng 4 km về phía Bắc. Hoả lực khá nặng của CS chỉ bắn rơi một trực thăng trong cuộc trực thăng vận đại qui mô nầy, ngày hôm sau quân đội VNCH tiến vào Tchépone mà không gặp một sự kháng cự nào của địch. T́nh h́nh yên tỉnh cho tới khuya th́ pháo địch bắt đầu tập trung bắn phá và điều động cả sư đoàn dùng chiến thuật biển người tấn công ta, trực thăng ta chỉ đến bốc được vài toán đầu, sau đó đành phải bó tay trước hỏa lực pḥng không dầy đặc của địch, số c̣n lại phải mở đường máu di tản về hướng Nhảy Dù. Căn cứ Lolo tại cao điểm 723 nơi bộ chỉ huy trung đoàn I/BB cũng chịu chung số phận phải di tản sau 10 ngày đêm chiến đấu ṛng ră. Tiểu đoàn 4 trung đoàn I/SĐI/BB là đơn vị ở lại sau cùng để bảo vệ cuộc lui binh, lúc về đến Khe Sanh chỉ c̣n 63 người trong tổng số 432 người, tất cả đều bị tử trận, mất tích hay bị thương. Trung tá Lê Huấn, K18 Đà Lạt, người hùng của trung đoàn I/SĐI/BB đă anh dũng hy sinh trong cuộc lui binh nầy.

    Măi cho đến giờ phút nầy cũng chưa có ai có thể giải thích một cách rơ ràng tại sao các nhà lănh đạo quân sự miền Nam đă ném quân sĩ thiện chiến của họ vào mặt trận Hạ Lào, một cuộc hành quân mạo hiểm có tính cách phô trương hơn là mang về một chiến thắng thật sự. Không cần bảo mật mà chẳng có kế hoạch phối hợp rơ ràng, hệ thống chỉ huy điều hành bị bối rối không được thống nhất. Các vị tư lệnh của 2 sư đoàn tổng trừ bị của quân lực VNCH là Trung Tướng Lê Nguyên Khang và Trung Tướng Dư Quốc Đống đă không hiện diện cùng binh sĩ tại mặt trận, mặc dầu đơn vị của họ là những nổ lực chính yếu của chiến trường. Sự thảm hại toàn bộ của các lực lượng tham chiến ở giai đoạn đầu th́ việc đổ thêm quân tiếp vào giai đoạn kế tiếp quả là một điều chẳng nên, chỉ làm hao tốn thêm xương máu của binh sĩ mà thôi. Điều quan trọng nhất là c̣n tinh thần đâu nữa mà chiến đấu. Sư đoàn TQLC cuối cùng rồi cũng phải nhảy vào ṿng chiến và cũng không sao tránh khỏi số phận "tan hàng" đang dành sẵn cho ḿnh. Vào trận với một tâm lư không ổn định chuyện thất bại là điều chắc chắn sẽ xảy ra, chúng tôi như những con thiêu thân đang lao ḿnh vào lửa đỏ.

    Mọi chuyện bắt đầu vào những ngày đầu tháng 3 năm 1971. Lữ đoàn 147/TQLC do Đại Tá Hoàng Tích Thông chỉ huy gồm các tiểu đoàn 2, 4 và 7 được nhảy vào căn cứ Delta. Đây là một dăy đồi có thế h́nh yên ngựa ở độ cao 550m gồm 2 mỏn nhỏ, mặt Bắc đặt BCH/LĐ, c̣n phía Nam chỉ có khả năng đủ chổ cho một pháo đội hỗn hợp gồm 2 khẩu 155ly và 4 khẩu 105 ly thuộc tiểu đoàn 2/PB/TQLC. Mặt Tây là một triền dốc đá thẳng đứng dựng, c̣n phía Đông là những rẫy hoang cùng nhiều đường ṃn chi chít.

    Lữ Đoàn 258/TQLC được trực thăng vận vào đỉnh KOROC, căn cứ Đông Hà nằm trên ranh giới Lào Việt từ Lao Bảo trải dài xuống phía Nam với các tiểu đoàn 1, 3 và 8 cùng pháo đội của tiểu đoàn 3/PB/TQLC. Nhưng mặt trận chính vẫn là xung quanh vùng hoạt động của Lữ Đoàn 147. Tiểu đoàn 4/TQLC được thả xuống và bung rộng về hướng Đông Bắc, tiểu đoàn 2/TQLC chịu trách nhiệm về mặt Tây Bắc, trong khi đó tiểu đoàn 7/TQLC bảo vệ pháo binh và BCH/LĐ. Đại úy Nguyễn Hoa khoá 20 Đàlạt, trưởng ban 3/TĐ7/TQLC đă bị tử thương cùng nhiều binh sĩ khác trong cuộc pháo kích đầu tiên vào căn cứ hỏa lực. Tiểu đoàn 2/TQLC có 4 ĐĐT th́ 2 đă bị thương loại khỏi ṿng chiến đấu trong tuần lễ ra quân đầu tiên . Trung úy Kiều Công Cự ĐĐT/ĐĐ4, Đ/u Nguyễn Kim Thân ĐĐT/ĐĐ2, Tr/úy Bùi Ngọc Dũng ĐĐP/ĐĐ2, cũng đă bị thương rất nặng cùng Th/úy Trần Văn Loan. Tất cả đă được tải thương kịp thời nhưng Dũng bị chết dọc đường và sau nầy được ghi nhận là mất tích. Tr/úy Nguyễn Dũng Trí ĐĐP/ĐĐ5 được lệnh sang làm ĐĐT/ĐĐ2. Như cục đường bỏ vào hang kiến lửa, địch cứ thế mà bu vào. Sau khi đă rảnh tay ở mặt trận phía Bắc, địch tập trung đủ mọi nổ lực kể cả hệ thống pḥng không pháo binh hầu uy hiếp cô lập căn cứ. Hai trực thăng của QLVNCH đă bị bắn hạ nhưng vẫn cố gắng đáp xuống được ngay băi đáp tại BCH/LĐ, phi hành đoàn an toàn. Đó là phi vụ cố gắng cuối cùng trong chuyến liên lạc với BCH/LĐ.

    Sau đó việc tiếp tế, tản thương coi như hoàn toàn bế tắc. Chỉ mới vỏn vẹn có một tuần mà bao nhiêu điều bế tắc đă xảy ra, binh sĩ bị thương mỗi ngày một nhiều không được tải thương, đạn dược lương thực bị hao hụt dần, đa số binh sĩ hoang mang giao động không c̣n tinh thần chiến đấu. Pháo binh cơ hữu của ta bị kiệt quệ hoàn toàn, mọi sự yểm trợ nhờ vào LĐ/258 tại KOROC và các phi vụ oanh tạc của không quân Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2/TQLC bị địch chận đánh khi hoạt động cách căn cứ khoảng 4-5 km, trong một phi vụ yểm trợ một quả bom đă lạc và nổ ngay vị trí của ĐĐ5 làm tổn thương thêm một số binh sĩ, tiểu đoàn được nhận lệnh dừng ngay tại chổ chờ lệnh. Về phiá TĐ4/TQLC cũng không có ǵ sáng sủa hơn, vẫn bị địch cầm chân và quân số mỗi ngày thêm hao hụt. Chẳng có một kho tàng nào của địch bị ta phá hủy trong giai đoạn nầy, trước t́nh thế đó, BCH/LĐ điều động TĐ2 và TĐ4 về hoạt động chung quanh căn cứ để sẳn sàng cho một cuộc rút quân trong tương lai. Biết được ư định đó nên địch càng bám theo ta rất sát, ĐĐ5/TĐ2/TQLC là ĐĐ tiền đồn ở mặt Bắc căn cứ hầu như ngày nào cũng bị địch tấn công, trong khi tất cả lực lượng của TĐ4/TQLC đă rút qua mặt về phía trong BCH/LĐ. Th/tá Nguyễn Xuân Phúc tiểu đoàn trưởng cùng Đ/úy Trần Văn Hợp tiểu đoàn phó TĐ2/TQLC cũng được điều động về nằm chung với BCH/LĐ. Một biến cố đă xảy ra thật quan trọng là một trung đội đặc công VC đă xâm nhập và chiếm được một số vị trí của đơn vị pḥng thủ, với ư địch cắt đứt mọi tiếp viện từ ngoài vào để tung quân tràn ngập BCH/LĐ. Tuy nhiên, địch cũng đă bị chận lại và sau đó một đại đội TĐ7/TQLC tới giải tỏa, địch tử thương một số, phần c̣n lại đầu hàng. Tất cả chúng thuộc SĐ/324B có nhiệm vụ tiến đánh LĐ147. Lữ Đoàn đă có lệnh di tản chiến thuật từ quân đoàn nhưng lệnh nầy chỉ phổ biến đến cấp tiểu đoàn trưởng mà thôi. Lư do thật giản dị là cố gắng duy tŕ tinh thần chiến đấu của các đơn vị hầu đủ thời gian sắp xếp cho một kế hoạch rút lui. Đại đội A Viễn Thám của Đ/úy Hiền đă được lệnh lên đường t́m hiểu t́nh h́nh địch nhưng tất cả lọt vào ṿng vây địch, một số bị bắt trong đó có ĐĐT nên Lữ Đoàn không nhận được một tin tức nào cả. Theo kế hoạch B52 sẽ thả bom trước ở 2 mặt phía Nam Bắc và Lữ Đoàn sẽ bắt đầu di chuyển ra khỏi căn cứ lúc 08 giờ tối, theo thứ tự TĐ4, TĐ7, BCH/LĐ và pháo binh, TĐ2 đi đoạn hậu. Tất cả khẩu pháo binh cùng đạn dược và lương thực dự trử bỏ tại chổ. Trong đó có gần 60 thương bệnh binh cùng nhiều tử thi đă bị thối rữa trong nhiều ngày. Một số tù binh CS cũng bị ta c̣ng tay nhốt trong các hầm trú ẩn gần đó. Trước giờ ấn định t́nh h́nh đă biến đổi khác thường một cách thật nhanh chóng. ĐĐ5/TĐ2/TQLC do tôi chỉ huy đă bị cô lập tại chổ trong mấy ngày liền không được tải thương và tiếp tế. Tất cả điểm có nước dưới chân đồi đều bị bao vây chế ngự. Trời tháng 3 với những cơn gió nắng rát miền Hạ lào cùng những đợt tấn công pháo kích liên tiếp của địch đă không làm nản đi ư chí quyết sống của chúng tôi, v́ chẳng ai c̣n cách nào chọn lựa khác hơn là "PHẢI SỐNG" để được trở về bằng chính sức lực của ḿnh. Đó là vào những ngày cuối của cuộc hành quân 21, 22/3/1971. Chúng tôi được lệnh lui binh về gần BCH hơn ...để tránh thiệt hại. Th/úy Kim trung đội trưởng vũ khí nặng cùng hạ sỉ Nghạch đă bị tử thương sau một loạt pháo kích bằng súng cối 82 ly của địch vào vị trí. Trong khi có tiếng chiến xa địch từ xa, bắt đầu mon men vào tuyến. Đó là lúc 5 giờ chiều ngày 22/3/71 và BCH/LĐ đă rút lui trước sớm hơn dự định. Đại đội tôi được lệnh di tản sau đó một tiếng đồng hồ khi chiếc T54 đầu tiên của CS bị hạ bằng khẩu SKZ 57 ly từ tay Tr/sĩ I Nguyễn Tế. Giọng Th/tá Phúc vang lên trong máy ra lệnh cho tôi '"anh phải cho con cái move down south gấp ".
    Bật chạy ra khỏi hầm trú ẩn. Tôi hô to "Đ/úy Tiền ĐĐT/ĐĐ5/TĐ2/TQLC đây, các anh hăy theo tôi", vẫn cứ thế tôi măi lải nhải vào tận phía trong. BCH/LĐ trống vắng, mùi thúi rữa của tử thi nơi những chiếc poncho bọc kín không được tải thương trong nhiều ngày, vài chục người trong toán lính bị thương c̣n lại đang hờn trách cấp chỉ huy, tôi vẫn hô to "Đ/úy Tiền đây, các anh hảy theo tôi" giọng Hạ sĩ Báu người lính gan dạ của đại đội tôi bị thương vào chân hôm qua khóc to nhất "chân em bị găy làm sao chạy được ông thầy". Nước mắt tôi tuông chảy, miệng lẩm bẩm "đành chịu vậy thôi! chứ biết làm sao bây giờ" trong khi đèn chiến xa địch bắt đầu soi sáng và bắn nả theo lên đồi căn cứ.

    Không thể chần chờ được nữa, có tiếng hô to của giặc phía sau "Hàng sống chống chết", tôi và 2 hiệu thính viên: Đặng Phước Thành và Nguyễn Văn Chúc cùng nắm giây leo trên đỉnh dốc đá thẳng đứng "một, hai, ba, ̣ e con ve đánh đu, tarzan nhảy dù", chiếc dây qúa tải bị đứt nửa chừng thầy tṛ rớt chồng lên nhau trên mặt đất.Tay ṃ mẫm khắp nơi trên cơ thể, đứng lên ngồi xuống, mới yên tâm là ḿnh c̣n đủ sức để mưu sinh thoát hiểm.Chúc nhe hàm răng vàng óng ánh "Có ông bà độ đó ông thầy". Tôi tập hợp tại chổ được vài ba chục mạng người, gồm nhiều đơn vị khác nhau. Tôi ra lệnh là muốn sống phải theo tôi và tuyệt đối giữ kỷ luật khi di chuyển. Th/tá Phúc (TĐT) và Đ/úy Hợp (TĐP) vẫn lên máy điều động và hướng dẫn chúng tôi theo nhiều trái sáng liên tiếp được bắn lên từ KOROC. Không cần xử dụng bản đồ và địa bàn, chúng tôi cứ nhắm hướng có trái sáng mà đi tới. Khoảng hơn nửa đêm về sáng, chúng tôi lọt ngay vào ṿng địch có tiếng hô to của người lính gác: "các đồng chí đi đâu về khuya thế.?". Toán đi đầu hốt hoảng dội ra, nhanh ư tôi điều động anh em đi hướng khác. Sáng hôm sau, trời nắng đẹp bầu trời xanh thẫm, ra khỏi khu rừng rậm là những dăy đồi tranh đầy cỏ dại loang lỗ nhiều hố bom chạy dài xa tít. Hạ sĩ Thất vẫn c̣n mang chiếc máy truyền tin trên lưng chạy đến t́m tôi khóc mếu máo: "Đại bàng ơi.! Th/úy em chết rồi ". Đinh Hồng Lạc là sĩ quan trẻ thâm niên nhất trong đại đội tôi, đẹp trai với làn da trắng mịn như con gái, người Cần Thơ và rất mùi với 6 câu vọng cổ.Chính mắt tôi thấy anh ngă gục khi có lệnh của tôi, vừa vọt ra khỏi miệng hầm, một viên đạn thượng liên trên pháo tháp xe địch đă xuyên qua màng tang. Xác anh nằm vắt ngang bên vệ đường. Chiếc đầm già L19 xuất hiện quan sát bao vùng cùng vài chiếc trực thăng vơ trang của Mỹ đă làm chúng tôi an tâm hơn. Trái khói vẫn tiếp tục bắn chỉ điểm nơi điểm hẹn. TĐ3/TQLC Sói biển được điều động từ KOROC tới để cứu nguy cho chúng tôi. Địch tốc tới, tiếp tục tấn công vào bải bốc tại điểm tập trung nầy, phi cơ Mỹ chỉ có thể tản thương được một vài đợt đầu tiên, sau đó với sự chiến đấu gan dạ của TĐ3 chúng tôi tiếp tục di chuyển tiếp đến một địa điểm an toàn khác.

    Tập họp lại khi về đến Khe Sanh đại đội tôi chỉ vỏn vẹn c̣n vài chục chục thầy tṛ, phải mất gần 1 tuần lễ sau, những toán thất lạc lần lượt được các trực thăng Mỹ chở về. Đại đội tôi mất đi gần phân nửa, một hao hụt qúa lớn lao. Bộ tư lệnh QUÂN ĐOÀN I đă vinh danh chiến thắng HẠ LÀO bằng một cuộc diễn binh rầm rộ tại PHÚ VĂN LÂU, nhiều huy chương và thăng cấp cho các quân nhân tham dự. Trong đó có các đơn vị trưởng tại chiến trường. Th/tá Phúc và Đ/úy Hợp của TĐ2/TQLC cũng không ra ngoài ngoại lệ đó. C̣n tôi và Đ/úy Lâm Tài Thạnh ĐĐT/ĐĐI mỗi người một Đệ Ngũ Bảo Quốc Quân Chương với nhành dương liễu.

    Ngày nay khi ngồi hồi tưởng lại mặt trận Hạ Lào, bao h́nh ảnh thân thương của những người lính trong đơn vị như c̣n lảng vảng đâu đây. Th/úy Nguyễn Kim đă chết bất ngờ trong giờ phút cuối khi chỉ mơ ước về đúng lúc ngày đứa con đầu ḷng được chào đời. Th/úy Đinh Hồng Lạc không c̣n nữa để nàng con gái Kim Oanh bên ḍng sông Kiên Long ṃn mỏi chờ đợi. Chuẩn úy Lê Văn Quế và Tr/sĩ I Tế đă lạc lỏng đâu đó trong rừng Hạ Lào không có mặt khi về lại Khe Sanh. Hạ sỉ Báo, Tr/sĩ Được, binh nh́ Ngô Văn Lẹ và bao nhiêu người thương binh khác đă ra sao.? Khi những trận bom liên tiếp dội xuống căn cứ Delta sau khi đoàn quân ta đă di tản. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă chiến thắng tại các chiến trường Kampuchia, An Lộc, Quảng Trị nhưng rơ ràng chúng ta không thắng tại Hạ Lào.

    Ai chiến thắng mà không hề chiến bại,
    Ai nên khôn mà chẳng dại một... đôi lần

    Đă đến lúc chúng ta hảy trả lại SỰ THỰC cho LỊCH SỬ, mặc dầu đó là một sự thực đau ḷng. Tôi xin ghi lại câu nói "để đời" của Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm, người chịu trách nhiệm chỉ huy tổng quát của cuộc hành quân nầy với Đại Tá Hoàng Tích Thông LĐT/LĐ147/TQLC:
    "Sao Thủy Quân Lục Chiến, nó về được nhiều thế nhỉ.!."

    ARLINGTON, tháng 10-2003
    MX Phạm văn Tiền.

  2. #52
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Hành quân Lam Sơn 719: Nguồn gốc và khuyết điểm

    Nguyễn Kỳ Phong

    Chiến tranh Việt Nam có nhiều trận đánh khốc liệt; khốc liệt trong ư nghĩa về cường độ của hoả lực, cấp số quân tham dự, và số thương vong đôi bên. Những trận đánh thường được nhắc đến trong quân sử như trận tử thủ An Lộc, tháng 6-1972; trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, tháng 9-1972; hai cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, Toàn Thắng 42 và Toàn Thắng 1/71, tháng 5-1970 và thaùng 1-1971; trận Đồi 1062 ở Thường Đức, Quảng Nam... Nhưng nổi bật hơn hết là cuộc hành quân tấn công vào những căn cứ hậu cần của cộng sản Việt Nam (CSVN) ở Hạ Lào vào tháng 2 năm 1971. So với các trận đánh vừa được kể tên, hành quân Lam Sơn 719 (HQLS719) lớn và khốc liệt hơn về mọi mặt.

    Ngoài sự thương vong cao của đôi bên, HQLS719 c̣n được nói đến như một cuộc hành quân có nhiều khuyết điểm — khuyết điểm từ lúc soạn thảo cho đến khi thực hiện. HQLS719 c̣n được nhắc lại trong sự nghi ngờ đó là kế hoạch hành quân đă bị bại lộ từ lúc soạn thảo, nhưng cuộc hành quân vẫn được tiếp tục để đưa đạo quân Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đi vào tử lộ. Bài viết này sơ lược lại nguồn gốc và khiếm khuyết của cuộc hành quân, dựa vào một số tài liệu được giải mật trong thời gian gần đây.


    T́nh h́nh tổng quát của VNCH vào cuối năm 1970

    Trước khi nói về quyết định đưa đến HQLS719, chúng ta nh́n sơ qua t́nh h́nh chính trị và quân sự của VNCH trong năm 1970, và t́nh h́nh tổng quát của lực lượng CSVN ở Hạ Lào.

    Năm 1970 là năm thành công nhất của VNCH từ sau khi chiến tranh bùng nổ mạnh vào cuối năm 1964. Chương tŕnh Việt Nam hoá — Hoa Kỳ trao cuộc chiến lại cho Quân lực VNCH (QLVNCH) — đă tiến hành được hơn một năm, và sự thành công của QLVNCH trên mọi chiến trường được chứng tỏ khi CSVN cho lưu hành Quyết nghị 9 vào tháng 6-1969. [1] Quyết nghị 9 chỉ thị các bộ tư lệnh CSVN ở chiến trường B (chiến trường trong lănh thổ VNCH, để phân biệt với chiến trường ở Lào và Cam Bốt), tránh đụng trận nếu có thể được; trở về chiến thuật du kích chiến để bảo vệ quân số; và chỉ nên đương đầu với VNCH trên mặt trận chính trị hơn là ngoài chiến trường. Song song với thành công về quân sự, những chương tŕnh b́nh định nông thôn đă phá hủy hạ tầng cơ sở của CSVN, đem lại sự an ninh cho xă ấp ở miền Nam. Sự trù phú và số lúa gạo sản xuất trong năm 1969 và 1970 cho thấy sự thành công của chính phủ VNCH về mặt an ninh nội an và trong kế hoạch b́nh định, xây dựng nông thôn. [2]

    Trung tuần tháng 3-1970, với sự hợp tác của tân chính phủ Lon Nol, QLVNCH và Hoa Kỳ tấn công và các căn cứ hậu cần CSVN ở bên trong lănh thổ Cam Bốt. Cuộc hành quân Toàn Thắng 42 do các đơn vị ở quân đoàn III và IV, hai sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến và Nhảy dù VNCH, và một số đơn vị Thiết kỵ và Không kỵ Hoa Kỳ thực hiện. Hành quân Toàn Thắng 42 đem lại kết quả ngoài sức tưởng tượng của Bộ Tổng Tham mưu VNCH và Bộ Tư lệnh MACV: số vũ khí và quân nhu dụng tịch thu được từ căn cứ hậu cần cộng sản đủ để trang bị cho 54 tiểu đoàn chánh qui; gạo tịch thu được đủ nuôi 50 ngàn quân của B-2 từ bốn đến sáu tháng (7.000 tấn gạo). Thiệt hại nhân sự của QLVNCH là 638 chết; 3009 bị thương. Phía Hoa Kỳ, 338 chết; 1525 bị thương. Thiệt hại CSVN là hơn 11.300 tử thương; 2.300 tù binh. [3] Thiệt hại của phía đồng minh tương đối nhỏ so với kết quả thu được.

    Chiến thắng dể dàng [4] ở Cam Bốt đưa đến sự hăm hở cho Bộ Tổng Tham mưu VNCH, Bộ Tư lệnh MACV và Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương (trên nguyên tắc đây là bộ tư lệnh nằm trên đầu MACV). Sau khi hành quân Toàn Thắng 42 kết thúc vào tháng 8-1970, [5] dự kiến của đồng minh là, nếu số dự trữ của CSVN ở Cam Bốt nhiều như vậy th́ các căn cứ tiếp liệu hậu cần nằm trên đường xâm nhập Hồ Chí Minh ở Hạ Lào phải chứa nhiều hơn. Đầu tháng 11-1970 đô đốc John McCain của Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương yêu cầu đại tướng Creighton Abrams của Bộ Tư lệnh MACV điều nghiên một kế hoạch hành quân qua Hạ Lào để cắt đứt đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Không giống như cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, đô đốc McCain thông báo, kế hoạch đánh qua Lào có một giới hạn: Hoa Kỳ chỉ yểm trợ về không vận và không lực. QLVNCH là lực lượng đánh vào mục tiêu; cố vấn Mỹ của các đơn vị VNCH không được tháp tùng với đơn vị qua bên kia biên giới với bất cứ lư do ǵ. [6] Đầu tháng 12-1970, Bộ Tư lệnh MACV loan báo và thăm ḍ ư kiến Bộ Tổng Tham mưu VNCH về một kế hoạch đánh qua Hạ Lào.


    Lào và đường xâm nhập Hồ Chí Minh

    Vương Quốc Lào. Đầu năm 1971, khi VNCH chuẩn bị tấn công vào những căn cứ hậu cần trên lănh thổ Lào, th́ Hoa Kỳ đă tham dự và điều khiển một chiến tranh “bí mật” ở vương quốc đó hơn bảy năm. Ở Thượng Lào, nhân viên CIA Mỹ điều khiển một đạo quân hơn 20 ngàn người của tướng Vang Pao, giao chiến thường xuyên với hai sư đoàn quân CSVN và Pathet Lào. Ở Hạ Lào, Lực lượng Đặc biệt VNCH và Hoa Kỳ, từ năm 1964, đă xâm nhập vào nhiều địa điểm từ Đèo Mụ Già xuống đến b́nh nguyên Bolovens để đánh dấu toạ độ cho những chiến dịch dội bom chiến lược bằng B-52. Gọi là “chiến tranh bí mật” v́ Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ không thông báo cho Quốc hội biết về những ngân khoản quân sự chi tiêu ở Lào; và CSVN — dù bị dội bom thường xuyên — cũng không lên tiếng, v́ họ luôn luôn tuyên bố họ không có quân hay căn cứ trên đất Lào. Chính phủ Hoàng gia Lào cũng không có chọn lựa nào khác hơn là yên lặng: họ hy vọng vào Hoa Kỳ để đẩy lui sự xâm lấn của CSVN. Trong sự phủ nhận của tất cả can sự, cuộc chiến tiếp tục xảy ra trong ṿng “bí mật.” [7]

    Đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Lực lượng CSVN/ Việt cộng ở miền Nam không thể tiếp tục chiến đấu hơn một năm nếu không nhận được tiếp liệu từ bên ngoài. Điều này đúng hơn khi các đơn vị cộng sản mở những cuộc tấn công với cấp số tiểu đoàn, trung đoàn trở lên. [8] Để nuôi sống ư định xâm chiếm miền Nam bằng vơ lực, tháng 5-1959 CSVN thiết lập Đoàn 559 để chuyển người và vũ khí vào nam. Nhiệm vụ của Đoàn 559 là xây dựng và duy tŕ một hệ thống đường xâm nhập trên đất Lào, chạy dài từ đèo Mụ Già (rồi sau đó từ những con đèo băng qua biên giới ở Quảng B́nh và Vĩnh Linh) xuống đến những tỉnh ở miền đông bắc Cam Bốt (khoảng Katum, Bù Gia Mập, phía VNCH). Từ năm 1959 đến năm 1965, phương tiện vận tải trên đường xâm nhập Hồ Chi Minh (ĐHCM) là sức người, xe đạp thồ, voi, hay trâu ḅ. Nhưng vào mùa khô năm 1965 (mùa khô ở Hạ Lào bắt đầu vào tháng 10 và kéo dài đến cuối tháng 4), CSVN quyết định cơ giới hoá phương tiện vận chuyển — dùng xe để chuyên chở. Dùng xe th́ phải làm đường, và hệ thống đường vận tải của CSVN bung ra mọi nơi trên đất Lào. Năm 1971, khi QLVNCH soạn thảo kế hoạch đánh vào những căn cứ hậu cần trên con đường chiến lược đó, ĐHCM không c̣n là một “con đường” nữa, mà là một hệ thống đường ngang, đường dọc, chằng chịt trên đất Lào. Tài liệu của CSVN nói hệ thống ĐHCM có tất cả là 17.000 cây số. Đó là con số phóng đại. Nhưng sự ước lượng đến từ VNCH và Hoa Kỳ th́ tổng cộng hệ thống ĐHCM có không dưới 10.000 cây số. Một chi tiết mà hai phía đều công nhận: hệ thống ĐHCM gồm có sáu đường dọc (chạy từ bắc xuống nam); 21 đường ngang (từ tây sang đông, dẫn từ lănh thổ Lào vào biên giới VNCH); và một số đường ṿng không kể hết (đường ṿng là đường dùng để trốn bom, hay chạy ṿng ngang một trục lộ chánh đang bị bom phá hủy). Năm 1970 cũng là năm CSVN hoàn tất hệ thống ống dẫn dầu từ Quảng B́nh qua đèo Mụ Già, ṿng qua phía tây Tchepone và xuôi nam, đi vào thung lũng A Shau. Hệ thống ống dầu không lớn (ống có đường kính 20 phân), nhưng đủ để cung cấp nhiên liệu cho hơn 60 tiểu đoàn xe vận tải và hai trung đoàn xe tăng đóng ở Trung và Hạ Lào. [9]

    Với cây số của hệ thống đường gia tăng, nhân lực và quân lực cần có để bảo vệ ĐHCM phải gia tăng. Đoàn 559 lúc thành h́nh có cấp số tiểu đoàn với không hơn 400 người, năm 1970 được nâng lên cấp số binh đoàn với 63.000 quân, và 12.000 dân công tạp dịch. Từ một trạm giao liên dẫn đường duy nhất ở Khe Gió, bây giờ ĐHCM có 67 trạm giao liên đường bộ và đường thủy, và 30 binh trạm. Mỗi binh trạm có cấp số tương đương một trung đoàn. Năm 1969 ĐHCM chuyển vận được 78.000 tấn; và năm 1970, 74.000 tấn quân nhu dụng. Hệ thống pḥng không bảo vệ những trục đường quan trọng gia tăng theo tỉ lệ số lượng hàng chuyển vận. Năm 1965 lực lượng pḥng không trên ĐHCM có khoảng 190 súng pḥng không; năm 1970 hoả lực pḥng không bảo vệ đường có hơn 970 súng pḥng không. Khẩu độ súng pḥng không gồm đủ loại: từ loại 12.7 ly để chống trực thăng, đến 85 ly có tầm sát hại trên cao độ của vận tải cơ vơ trang AC-130. Đôi khi đại bác pḥng không 100 ly được sử dụng để hăm doạ những phi tuần B-52. Nhiều hơn hết là loại 23 ly và 37 ly điều khiển bằng ra-đa, một vũ khí đáng sợ cho tất cả những phi cơ hoạt động dưới 10.000 bộ (bốn cây số). [10]

    Hoa Kỳ và VNCH không phải không biết về sự bành trướng của ĐHCM. Từ năm 1964 VNCH và Hoa Kỳ đă đưa ra nhiều kế hoạch để ngăn chặn hay giới hạn lưu lượng xâm nhập trên ĐHCM. Nhưng Hạ Lào, với địa h́nh hiểm trở, rừng già che phủ mặt đất, và núi đồi “trùng trùng điệp điệp,” mọi kế hoạch đánh phá, ngăn chặn đă không đem lại kết quả như mong muốn. Trước khi những toán Lực lượng Đặc biệt MACV-SOG hỗn hơïp Việt-Mỹ xâm nhập vào Hạ Lào để viễn thám, Lực lượng Đặc biệt VNCH đă đưa năm toán vào Hạ Lào trong hai tháng 4 và tháng 6 năm 1964 để thám thính. Tuy nhiên trong số 30 nhân viên của năm toán, chỉ có năm người trở về được, hai mươi lăm người kia chết hoặc mất tích. [11] Những Lực lượng Đặc biệt trở về báo cáo cho biết cán binh cộng sản dầy đặc ở Hạ Lào. Về phía Hoa Kỳ, ngoài những toán Lực lượng Đặc biệt được đưa vào thám thính những mục tiêu trên ĐHCM thường xuyên, từ năm 1968 Bộ Tư lệnh MACV đă thực hiện những chiến dịch dội bom chiến lược hàng ngày trên những của khẩu xâm nhập vào Hạ Lào. Chiến dịch dội bom Commando Hunt chỉ giới hạn vào bốn trọng điểm xâm nhập vào Hạ Lào: Đèo Mụ Già, Bản Karai, Bản Ravin, và một cửa khẩu trên đầu của giao điểm Sông Rào Quảng và biên giới Lào (hướng tây bắc Khe Sanh). [12] Một ngày ba lần, mỗi trọng điểm bị ba phi tuần của chín pháo đài bay B-52 đội bom. Một B-52 thông thường chở 105 quả bom 500 cân. Khoảng giữa của những phi vụ B-52 là 125-150 phi vụ chiến thuật rải bom CBU nổ chậm, để ngăn chặn dân công sửa những đoạn đường vừa bị phá. Không quân Hoa Kỳ thực hiện những chiến dịch dội bom như vậy từ tháng 11-1968 cho đến tuần lễ cuối cùng của tháng 1-1971, trước khi QLVNCH chuẩn bị băng qua biên giới. [13]


    Sự khai sinh của hành quân Lam Sơn 719

    Henry A. Kissinger trong hồi kư White House Years, nói về nguồn gốc đưa đến kế hoạch HQLS719 như sau, “Sự thành công th́ có nhiều người cha. Nhưng thất bại là đứa con không người nhận.” [14] Ư ông Cố vấn An ninh Quốc gia muốn nói là, không ai trong chính phủ Nixon nhận là cha đẻ của kế hoạch HQLS719. Thật sự chúng ta không có nhiều tài liệu khẳn định ai tác giả “vẽ” ra kế hoạch. Nhưng nhiều tài liệu cho thấy Kissinger có tham dự và đốc thúc việc thực hiện HQLS719. Tài liệu rơ ràng nhất đến từ hồi kư của H. R. Haldeman, tham mưu trưởng Toà Bạch ốc, khi Kissinger nói với Haldeman là ông muốn nói chuyện với tổng trưởng quốc pḥng Melvin Lair và đô đốc Thomas Moorer (Tham mưu Trưởng Ban Tham mưu Liên quân), trước mặt Tổng thống Richard Nixon, về kế hoạch HQLS719. Lư do là Kissinger muốn thấy Nixon trực tiếp ra lệnh cho hai người thi hành kế hoạch. Một tài liệu khác đến từ đại tướng Alexander Haig, phụ tá quân sự cho Kissinger lúc đương thời. Trong hồi kư Inner Circles, tướng Haig nói Ban Tham mưu Liên quân soạn kế hoạch HQLS719 qua sự thúc giục của Nixon và Kissinger. [15] Có thể là như vậy. Nhưng tài liệu cho thấy chính tướng Haig là người đích thân đem huấn lệnh của tổng Thống Nixon qua Sài G̣n ngày 13 tháng 12-1970, để thông báo cho MACV về kế hoạch đánh qua biên giới. [16]

    Ai là tác giả kế hoạch HQLS719 có thể không quan trọng. Quan trọng hơn là v́ lư do nào kế hoạch này được đề nghị với thẩm quyền. Sách vở và tài liệu cho thấy lư do chính trị và quân sự thúc đẩy sự thành h́nh của HQLS719 — lư do chính trị và quân sự của năm 1970-71.

    Lư do chính trị. Kissinger — và cũng có thể Nixon — có một thúc đẩy chính trị khi đề nghị hay thúc đẩy kế hoạch HQLS719. Kissinger không nói ra điều này trong hồi kư. Dĩ nhiên ông sẽ không bao giờ nói ra những ẩn ư chính trị của một kế hoạch. Công chúng chỉ biết được điều này nhờ vào hồ sơ được giải mật sau này. Năm 2002 Trung tâm Lưu trữ Văn khố Quốc gia cho giải mật một văn thư của Kissinger liên hệ đến HQLS719. Trong văn thư, Kissinger giải thích sự cần thiết của HQLS719 đối với bối cảnh chính trị Mỹ cho hai năm 1971-72. Năm 1972 là năm bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ. Nixon cần được sự ủng hộ tuyệt để của cử tri. Để đền bù lại lời Nixon đă hứa với cử tri trong nhiệm kỳ thứ nhất, là ông sẽ kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam trong trong ṿng một năm sau khi nhiệm chức, lần ứng cử nhiệm kỳ hai, Nixon phải cho cử tri thấy cuộc chiến Việt Nam khả quan, nếu không nói là đồng minh đang thắng thế. Một cuộc tấn công qua Lào vào năm 1971 sẽ gây nhiều thiệt hại cho CSVN. Và nếu CSVN khôi phục lại sức lực để đe doạ t́nh h́nh an ninh cho VNCH, th́ ít nhất họ cũng cần đến hơn một năm — nghĩa là sau khi cuộc bầu cử 1972 hoàn tất. [17] Kissinger hy vọng như vậy. Hơn nữa, từ tháng 8-1969 Hoa Kỳ đă lần lược rút quân theo kế hoạch — một tiến triển làm vừa ḷng giới phản chiến — nếu cuộc tấn công qua Lào có kết quả như dự đoán, th́ chương tŕnh rút quân và chương tŕnh Việt Nam hoá sẽ thành công theo ư muốn. Đó là mưu lược chính trị của Kissinger trong tương quan của HQLS719 và mùa bầu cử 1972.

    Lư do quân sự. Lư do quân sự cho kế hoạch HQLS719 th́ quá rơ; không ai phủ nhận được — ngay cả phía CSVN. Sự thành công mỹ măn trong lần đánh qua Cam Bốt. Quân lực CSVN gần như kiệt quệ. Nghị quyết 9 và những đợt rút quân về Bắc v́ không c̣n đủ lương thực để nuôi quân... Tất cả những yếu tố đó thúc đẩy các tư lệnh Việt - Mỹ đi đến quyết định: đây là thời điểm tốt nhất để tấn công các căn cứ hậu cần của CSVN ở Lào; cắt đứt đường tiếp tế vào nam của cộng sản. Một yếu tố khác làm cho giới lănh đạo Việt - Mỹ phải quyết định nhanh hơn: Cuối năm 1970 quân lực Mỹ c̣n 334 ngàn quân ở Việt Nam, với đầy đủ tiếp liệu và hoả lực. Nếu đánh là phải đánh ngay, nếu chần chờ, hoả lực yểm trợ của Hoa Kỳ sẽ mất dần theo đà rút quân trong những năm kế tiếp.

    Với thực tế quân sự khả quan — để phục vụ cho một tương lai chính trị — Toà Bạch ốc ra lệnh cho Ban Tham mưu Liên Quân sơ thảo dự án cho HQLS719. Đầu tháng 11-1970, Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương yêu cầu Bộ Tư lệnh MACV phát hoạ kế hoạch hành quân qua Hạ Lào. Mục tiêu chính là Tchepone; và tất cả các căn cứ hậu cần nằm từ hươùng đông nam Tchepone xuống tận A Shau.


    Khái niệm “Hành quân” của HQLS719

    HQLS719 có cấp số quân đoàn, với một lực lượng tương đương ba sư đoàn tham dự. Cuộc hành quân có bốn giai đoạn. Giai đoạn I, có tên Dewey Canyon II, do các lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. [18] Mục tiêu của giai đoạn I là giải toả quốc lộ 9 từ Đông Hà đến biên giới Việt-Lào ở Lao Bảo; tái chiến căn cứ Khe Sanh để thiết lập Bộ Chỉ huy Tiền phương của HQLS719; và, tái thiết phi trường Khe Sanh làm điểm chuyển vận chánh. Giai Đoạn II. Các lực lượng VNCH, dùng quốc lộ 9 làm hướng tiến quân, đánh chiếm Bản Đông, một vị trí quan trọng nằm trên đường 9, cách biên giới chừng 12 cây số. Giai đoạn III: Sau khi củng cố lực lượng, quân Nhảy dù sẽ được trực thăng vận từ Bản Đông đổ bộ vào chiếm Tchepone, khoảng 42 cây số từ Lao Bảo. Trong lúc đó lực lượng thiết kỵ vẫn tiến đánh dọc theo đường 9 để bắt tay với cánh quân ở Tchepone sau. Giai đoạn IV: Sau khi chiếm Tchepone và phá hủy căn cứ hậu cần ở đó, các đơn vị VNCH sẽ quây về hướng đông nam, tiếp tục lục soát và phá hủy căn cứ tiếp vận ở Aloui (Aluoi) Ta Bat, A Shau, trên đường trở về biên giới. Cuộc hành quân sẽ kéo dài ba tháng, khởi diễn sau Tết Tân Hợi (tháng 27 tháng 1-1971 là ngày Tết) cho đến đầu tháng 5, khi mùa mưa bắt đầu ở Hạ Lào.

    Khái niệm “hành quân” được Bộ Tổng Tham mưu và MACV chấp nhận và truyền đạt xuống Quân đoàn I (QĐI) và Bộ Tư lệnh Quân đoàn XXIV (QĐXXIV). [19] Tuy nhiên trong thời gian QĐI và QĐXXIV bổ túc thêm những chi tiết phụ cho cuộc hành quân, Hoa Thịnh Đốn vẫn chưa quyết định chắc chắn là HQLS719 sẽ được thực hiện hay không.


    Những khiếm khuyết của hành quân Lam Sơn 719

    Ở phần trên chúng ta thấy hoàn cảnh đưa đến quyết định thực hiện HQLS719 — hai ít ra là soạn thảo sự khả thi của kế hoạch. Phần này chúng ta nói về những khuyết điểm của HQLS719.

    Khuyết điểm trong lúc soạn thảo
    a. Sau khi Toà Bạch ốc và BTMLQHK đồng ư kế hoạch HQLS719, ngày 6 tháng 11-1970 Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương yêu cầu MACV soạn thảo kế hoạch. [20] Hôm sau, 7 tháng 11, Đại sứ Bunker và Đại tướng Abrams hội kiến 80 phút với Tổng thống Thiệu, tŕnh bài những kế hoạch tấn công qua biên giới. Tổng thống Thiệu đồng ư trên căn bản ba kế hoạch đánh qua biên giới, và cho phép thực hiện ngay những kế hoạch có thể thực hiện được. [21] Ngày 11 tháng 1-1971 Tổng trưởng Quốc pḥng Melvin Lair và TMT BTMLQHK, đô đốc Thomas Moorer, đến Sài G̣n và có hội kiến với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về kế hoạch HQLS719. Một lần nữa Tổng thống Thiệu tái xác định sự ủng hộ của VNCH. Vấn đề c̣n lại là sự ủng hộ của Vương quốc Lào. Nhưng cho đến ngày 21 tháng 1, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và VNCH vẫn chưa biết Hoàng thân Souvana Phouma của Lào có cho phép QLVNCH đem quân vào Hạ Lào hay không. Thêm vào đó, chính Tổng trưởng Ngoại giao William Rogers cũng không đồng ư kế hoạch HQLS719. Roger phản đối v́ ông nghĩ đánh vào Tchepone là một kế hoạch nguy hiểm: Thành công th́ không sao, nhưng nếu thật bại th́ kế hoạch Việt Nam hoá của Hoa Kỳ sẽ mang tiếng xấu. Ngày 22 tháng 1, Souvana Phouma chỉ đồng ư cho QLVNCH đánh vào khu vực ở phía cực bắc vùng ba biên giới (Lào-Cam Bốt-Việt Nam, cực tây của Khâm Đức). [22]
    b. Với sự thuyết phục của Tổng thống Nixon, Ngoại trưởng Rogers lưỡng lự đồng ư. Sau đó Rogers ra lệnh cho Đại sứ McMurtrie Godley ở Vạn Tượng cố vấn cho Souvana Phouma lên tiếng về HQLS719. Phouma lên tiếng phản đối trước dư luận — sự phản đối có tính toán bên trong. Đầu tiên ông lên tiếng phản đối bất cứ sự xâm phạm nào của VNCH vào lănh thổ Lào. Rồi sau đó ông chỉ trích sự hiện diện của CSVN trên đất Lào, nói tất cả là lỗi của họ. Và cuối cùng, ông hy vọng QLVNCH sẽ... rời khỏi lănh thổ Lào trong một, hai tuần (ư nói là hành quân càng ngắn càng tốt).
    c. Nhưng khi thấy nhiều xung đột và bất đồng nhất từ cấp trên thẩm quyền dân sự (Bộ Quốc pḥng vs Bộ Ngoại giao; Lair vs Rogers; Bộ Ngoại giao vs Nixon...) ngày 27 tháng 1 Đại tướng Abrams gởi điện văn cho TTMTLQ Thomas Moorer, nói ông sẽ hủy bỏ kế hoạch HQLS719, và sẽ chính thức loan báo với các bộ tư lệnh liên hệ vào ngày 29. Nhưng ngay ngày 27, Nixon họp với ban tham mưu và ra lệnh cho thực thực hiện Giai đoạn I của HQLS719 (QLHK tái chiếm Khe Sanh). Giai đoạn II sẽ quyết định sau, nhưng lệnh thực hiện hay hủy bỏ phải đến từ Hoa Thịnh Đốn. [23] Ngày 29 tháng 1, Nixon ra lệnh MACV phối hợp và yểm trợ cuộc hành quân Toàn Thắng 1/71 đánh trở lại Cam Bốt với khoảng 19 ngàn quân VNCH tham dự. Nhưng quyết định tối hậu về HQLS719 vẫn chưa được thẩm quyền cao nhất quyết định. Sau cùng, ngày 4 tháng 2-1971, được lệnh của Nixon, đô đốc Moorer cho lệnh tiến hành Giai đoạn II. Và HQLS719 khởi hành.
    Qua ba chi tiết a, b, và c trên, chúng ta thấy kế hoạch hành quân được đề nghị và soạn thảo trong sự e dè, thiếu nghị quyết, v́ quá phụ thuộc vào quyết định chính trị. Kế hoạch có thể bị bại lộ từ sự thiếu quyết định này. Sự qua lại Sài G̣n của các thẩm quyền Mỹ không thể không làm cho giới lănh đạo CSVN nghi ngờ. Càng nghi ngờ hơn khi ngày 15 tháng 12-1970, hoàng thân Phouma đă tuyên bố ở Vạn Tượng, là Lào không muốn VNCH có mặt ở Lào! Không cần suy luận nhiều, CSVN biết phải có chuyện ǵ Phouma mới tuyên bố như vậy. Sự thương lượng qua lại giữa Mỹ và Phouma có thể bị lộ, v́ theo các nhân viên ngoại giao Mỹ, hệ thống bảo mật của chính phủ Hoàng gia Lào có nhiều lỗ thủng hơn cái... rổ!

    Thêm vào lời tuyên bố của Phouma, ba sự kiện khác xảy ra trước đó càng làm cho CSVN khẳn định về ư định của VNCH và Hoa Kỳ — hay ít ra làm cho họ chuẩn bị pḥng thủ. Sau cuộc tấn công ở Cam Bốt, tháng 9-1970 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ đổ bộ thẳng vào Ban Bak (Bản Bạc) phá hủy binh trạm 37. Hai tháng sau, 11-1970, Hoa Kỳ nhảy thẳng ra Sơn Tây, moät vị trí cách Hà Nội không hơn 50 cây số. Rồi ngày 15 tháng 1-1971 VNCH dùng 19 ngàn quân đánh trở lại Cam Bốt. Với những cuộc tấn công dồn dập như vậy, CSVN phải nghĩ Hạ Lào sẽ là mục tiêu sắp tới. [24]

    Nhiều lời đồn cho rằng CSVN đă biết được kế hoạch HQLS719 từ những điệp viên của họ có mặt ở Sài G̣n. [25] Nhưng với địa h́nh của vùng hành quân và trục lộ tiến quân, địch không thể nào không suy đoán được kế hoạch của chúng ta. Kế hoạch bị bại lộ không phải do sự tài t́nh của đối phương mà do sự trục trặc, thiếu phối hợp giữa VNCH và Hoa Kỳ. Sự thiếu phối hợp này vô t́nh “thông báo” kế hoạch HQLS719 cho đối phương. Trong khi Hoa Thịnh Đốn, BTTM VNCH và MACV đồng ư sẽ giữ kín tin tức ít nhất cho đến ngày 4 tháng 2-1971 (trong nguyên thủy, ngày 4 tháng 2 là ngày chánh thức khởi đầu sự hành quân) trước khi tuyên bố ra công cộng. Nhưng ngày 25 tháng 1, nhiều sĩ quan cấp nhỏ ở Quân đoàn I đă được thông báo ngày giờ hành và kế hoạch hành quân rồi. Một trường hợp khác, ngày 22 tháng 1, chính trung tướng James Sutherland, tư lệnh QĐXXIV, chứng kiến trung tướng Hoành Xuân Lăm bàn về kế hoạch HQLS719 với chuẩn tướng Phạm Văn Phú và một số sĩ quan khác, trong khi họ đứng chờ máy bay ngoài pḥng khách ở phi trường. [26] Một trường hợp khác: ngày 15 tháng 1, sau khi Bộ Tổng Tham mưu hoàn thảo kế hoạch HQLS719, chuẩn tướng Trần Đ́nh Thọ và thiếu tướng Donald Cowles của MACV bay ra Đà Nẵng để thuyết tŕnh cho tướng Lăm và Sutherland khái niệm hành quân. Để bảo mật nên số sĩ quan được mời tham dự rất giới hạn. Sau buổi thuyết tŕnh, khi ra khỏi pḥng chuẩn tướng Thọ gặp đại tá Cao Khắc Nhật, đại tá Nhật hỏi, “Tại sao không cho tôi tham dự buổi thuyết tŕnh? Tôi đă hoàn tất soạn thảo kế hoạch hành quân [ở cấp quân đoàn]?” [27]

  3. #53
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Hành quân Lam Sơn 719: Nguồn gốc và khuyết điểm
    Nguyễn Kỳ Phong



    Ngày 31 tháng 1, nhật báo The New York Times đang tải một nguồn tin — trong đó có đoạn trích từ nhật báo London Observer — về kế hoạch HQLS719. Hai ngày sau, hăng thông tấn CBS News loan tải nguồn tin. Tin tức từ đài CSB khá chính xác về mục tiêu hành quân và quân số tham dự. Tin c̣n loan báo luôn ngày Tổng thống Nixon cho phép tiến hành kế hoạch hành quân. Như vậy, không những CSVN biết được kế hoạch, mà cả thế giới cũng biết luôn. [28]

    Qua sự thiếu phối hợp trên, chúng ta nghĩ đối phương có thể suy luận ra kế hoạch HQLS719. Tin tức t́nh báo của VNCH và MACV xác định điều này, khi MACV “đọc” được những điện tín qua lại giữa các binh trạm và bộ tư lệnh Binh đoàn 559. Những điện tín cho ta biết CSVN đă thành lập một bộ tư lệnh có tên là 70B cho mặt trận “Đường 9 - Nam Lào.” Quân lệnh chỉ thị các binh trạm 9, 27, 33, 34 chuẩn bị pḥng thủ ngăn chặn cuộc tiến quân của QLVNCH. [29] Cũng từ những điện tín đó, MACV biết rơ số quân CSVN dự bị cho cuộc hành quân.

    Khuyết điểm trong cuộc hành quân

    Với tất cả những tài liệu về HQLS719 được giải mật trong những năm vừa qua, sau khi tham khảo, đa số các tác gia về quân sự đồng ư về một số khiếm khuyết quan trọng của HQLS719: (a) QLVNCH không đủ quân để đè bẹp áp lực của quân CSVN trong vùng hành quân; (b) hoả lực và không vận của QĐXXIV không đủ để yểm trợ cho lực lượng hành quân; (c) hệ thống quân giai của Hoa Kỳ và VNCH không được xác định rơ ràng và thi hành triệt để trong suốt cuộc hành quân, làm cho những quân lệnh không được thực hiện; và, (d) tin tức t́nh báo sai lạc đưa đến nhiều trở ngại cho vấn đề tiếp liệu, hoả lực dự trù, và sự thay đổi bất thần, giữa đường, của kế hoạch.
    a. Tháng 3-1967 ở hội nghị thượng đỉnh Guam, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên đề nghị với Tổng thống Lyndon Johnson một kế hoạch đánh qua Hạ Lào để cắt đường tiếp tế CSVN vào nam. Tổng thống Johnson không trả lời ngay lúc đó, nhưng cuối năm 1967, Đại tướng William Westmoreland ra lệnh cho ban tham mưu MACV soạn thảo một kế hoạch hành quân tương tự như HQLS719. Theo lời một đại tá phụ trách soạn thaûo Hành Quân OPLAN EL Paso, khái niệm hành quân cần ba sư đoàn Việt-Mỹ, tương đương 60 ngàn quân: một sư đoàn không kỵ và một sư đoàn bộ binh (Mỹ); và một sư đoàn Nhảy dù VNCH. Lực lượng tiếp liệu và yểm trợ cho đạo quân đó phải có khả năng yểm trợ cho cấp quân đoàn. Khái niệm hành quân đặt nặng vấn đề tiếp liệu bằng không vận, v́ nhu cầu của lực lượng tại mặt trận cần ít nhất là 2.975 tấn quân nhu dụng một ngày. [30]

    Kissinger trong hồi kư có nói khi ông hỏi Đại tướng Westmoreland về sự khả thi của HQLS719, Westmoreland nói cuộc hành quân cần ít nhất là bốn sư đoàn cộng để tấn công vào Tchepone. Và phải tấn công chớp nhoáng bằng trực thăng vận chứ không thể đánh đường bộ chậm chạp như đang thực hiện. [31] Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy ba sư đoàn VNCH quá ít để áp đảo lực lượng đối phương trong những ngày đầu — khi quân CSVN chưa huy động tất cả lực lượng trừ bị của họ. Ở cao điểm của HQLS719, VNCH có 30.746 quân ở chiến trường Lào, gồm 16 tiểu đoàn tác chiến và 12 tiểu đoàn pháo binh. Trong khi đó, tại vùng hành quân, BTL 70B của CSVB có hơn 60 ngàn quân. [32]

    Như tất cả học viên quân sự đều thuộc nằm ḷng, khi tấn công th́ quân tấn công cần tỉ số ba trên một nếu muốn thành công. Trong HQLS719 quân tấn công chỉ bằng phân nữa quân pḥng thủ, mà lại tấn công vào một địa h́nh do đối phương hoàn toàn làm chuû.
    b. Yểm trợ và tiếp liệu cho cuộc hành quân đến từ QĐXXIV Hoa Kỳ. Quân đoàn XXIV được thành lập từ tháng 8-1968, và thay thế Quân đoàn III TQLC ở Vùng I VNCH. Sau Giai đoạn I của cuộc hành quân (bảo vệ đường 9 từ Đông Hà đến Lao Bảo và tái chiếm phi trường Khe Sanh), vai tṛ của QĐXXIV được đặt nặng vào tiếp tế không vận và yểm trợ bằng không pháo (aerial artillery/ pháo binh của trực thăng vơ trang) — và sự sống c̣n của các lực lượng ở chiến trường tùy thuộc vào sự hữu hiệu của hai khả năng này. Theo những tài liệu đến từ MACV, QĐXXXIV không đủ khả năng để yểm trợ cho cuộc hành quân, về hoả lực cũng như về không vận.

    Tài liệu giải mật từ MACV cho thấy QĐXXIV có gần 600 trực thăng để phục vụ cho HQLS719. [33] Nhưng khả năng hoạt động của số trực thăng bị giới hạn v́ hoả lực, thời tiết và bảo tŕ — những yếu tố mà hai tuần vào cuộc hành quân, MACV và QĐXXIV mới nhận ra. Chỉ nói về phương diện tiếp tế lương thực thôi, đạo quân 30 ngàn người ở chiến trường cần 150 phi vụ trực thăng một ngày để thoả măn — và đây chỉ là nhu cầu tối thiểu với một kư thực phẩm và bốn lít nước cho mỗi người. [34] Qua tài liệu, chúng ta thấy những căn cứ hoả lực rất cần nước. Tác giả đại úy pháo binh Trương Duy Hy nói về những cảnh giành giựt nước tiếp tế trên đồi 30: thiếu nước uống, thiếu nước để lau chùi ṇng súng pháo binh.. Tiểu đoàn 2 Nhảy dù trước khi di tản khỏi căn cứ hoả lực 30, đánh một điện tín lên trời, yêu cầu phi cơ liên lạc thông báo với tư lệnh sư đoàn Nhảy dù về t́nh trạng tiếp tế nguy ngập của tiểu đoàn. “Bị bao vây đă 10 ngày, có 200 thương vong, không có tiếp tế... không nước và lương thực hai ngày qua. Cần tiếp tế lập tức khi trời sáng.” [35]

    Đến ngày 24 tháng 2 BTL MACV bùng nổ v́ vấn đề thiếu trực thăng: Đại tướng Abrams điên lên v́ sự quản trị — hay thiếu quản trị — nhu cầu không vận của BTL QĐXXIV. Sĩ quan dưới quyền của tướng Sutherland báo cáo về MACV là mặc dù t́nh h́nh trực thăng nguy ngập, nhưng trung tướng Sutherland vẫn không có một phản ứng nào thích hợp để giải quyết. Trong một trang giải mật của tác phẩm The Abrams Tapes, chúng ta đọc được những tiếng chửi thề của tư lệnh và tư lệnh phó MACV về sự quản trị và điều khiển nhu cầu cung ứng trực thăng cho mặt trận Hạ Lào. Chưa hả giận, tướng Abrams bay ra BTL QĐ XXIV để thị sát và... chửi thề tiếp. [36] Cũng biết thêm, Không quân Hoa Kỳ đă làm tất cả những ǵ họ có thể làm được để chuyển quân nhu dụng ra Đông Hà và Khe Sanh. Từ Đông Hà hàng có thể di chuyển bằng quân xa về Khe Sanh. Nhưng từ từ Khe Sanh ra vùng giao chiến th́ chỉ trông chờ vào trực thăng. Sau ba ngày hành quân, ngày 11 tháng 2, Đại tướng Lucius Clay, tư lệnh Không lực 7 than thở trong buổi họp ở MACV: “Ngoài những phi vụ yểm trợ cho cuộc hành quân này [HQLS719] tôi bay 12.000 phi vụ yểm trợ một tháng. Tôi bay 21.000 phi vụ chuyên chở. Tôi bay 850-900 phi vụ thám thính. Ư tôi muốn nói là vấn đề bảo tŕ... chúng ta chỉ có thể bay đến một giới hạn nào đó thôi.” Tướng Abrams cũng không thể phủ nhận là khả năng không vận và không lực của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam trong thời điểm đó đă đến mức tối đa. Chính tướng Abrams cũng thốt lên ư nghĩ đó vào ngày 27 tháng 2 — hai ngày sau khi đồi 31 của Lữ đoàn 3 Nhảy dù thất thủ: “Chúng ta đang ngập đầu với gánh nặng, ở Cam Bốt cũng như ở Lào.” Ở mặt trận Cam Bốt, ngày 23 vừa qua tướng Trí vừa tử nạn trực thăng. Và đến ngày 27, MACV báo cáo quân lực VNCH có 21.000 quân tại mặt trận Cam Bốt. Đó là lư do tại sao Hoa Kỳ không c̣n khả năng không vận.

    Kế hoạch HQLS719 cũng tính sai về khả năng yểm trợ hoả lực, không pháo từ trực thăng ở những băi đổ quân. Trực thăng vơ trang AH-1G hay những chiến UH-1C biến cải thành vơ trang, không đủ hoả lực để đè bẹp pḥng không của đối phương trên đường bay vào băi đáp, hay hộ tống những phi vụ chở quaân. Một lần nữa, MACV và QĐXXIV không ước lượng được sự cuồng nộ của pḥng không đối phương — càng lúc càng gia tăng theo thời gian của trận chiến. Khi MACV yêu cầu không quân Hoa Kỳ yểm trợ và tham dự vào kế hoạch dọn băi đáp th́ số trực thăng thiệt hại đă lên khá cao. Trước khi đó, thông thường BTL QĐXXIV chỉ yêu cầu 10-12 phi vụ dội bom chiến thuật từ không quân, rồi pháo binh và không pháo trực thăng đàn áp hoả lực pḥng không để cho trực thăng đáp xuống. Nhưng sau 20 ngày hành quân, 31 trực thăng bị hủy hoại và 230 chiếc khác bị trúng đạn, phi công trực thăng Lục quân Hoa Kỳ e ngại hơn. Ngày 3 tháng 3, khi đổ quân vào băi đáp LoLo ở đông nam Tchepone, trực thăng gặp kháng cự mạnh của pḥng không. Cuộc đổ quân bắt đầu từ 10 giờ sáng, bị nhiều gián đoạn v́ hoả lực của đối phương, đến 6:30 chiều mới hoàn tất. Kết quả: Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng có 20 bị trúng đạn không cất cánh được; bảy bị hủy diệt hoàn toàn; và 42 bị trúng đạn hư hại. Sự khinh thường hoả lực pḥng không của đối phương gây nhiều trở ngại và thiệt hại cho lực lượng tấn công. Cũng v́ khinh thường đối phương nên QĐXXIV không “mời” Không lực 7 góp ư kiến vào những kế hoạch dọn băi, nhất là những băi đáp để tiến vào Tchepone vào đầu tháng 3. Sau lần thiệt hại ở băi đáp LoLo, QĐXXIV chấp nhận phương cách dọn băi đổ quân của Không lực 7. [37]
    c. Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ và VNCH trong cuộc hành quân. Vấn đề chỉ huy và điều khiển phía VNCH đă được báo chí, sách vở bàn luận nhiều. Ở đây người viết chỉ lặp lại một số chi tiết đáng nhớ. Đặt hai trung tướng Lê Nguyên Khang và Dư Quốc Đống dưới quyền thống thuộc của trung tướng Hoàng Xuân Lăm gây nhiều trở ngại cho vấn đề chỉ huy và điều khiển. Sự bất hợp tác — và bất phục — tùng dĩ nhiên xảy ra. Tương tự, sự bất hợp tác hiện hữu khi Lữ đoàn 1 Nhảy dù (đại tá Lê Quang Lưỡng) nằm dưới quyền thống thuộc của Chiến đoàn 1 Đặc nhiệm (đại tá Nguyễn Trọng Luật). Sự giậm chân tại chỗ năm ngày ở Bản Đông của quân Dù và Thiết kỵ; cuộc giải cứu thất bại đồi 31, đêm 25 tháng 2... là những bằng chứng về sự bất hợp tác này. Tài liệu cho thấy sự bất đồng xảy ra khi tướng Khang đập bàn lúc nói chuyện với tướng Lăm. Tướng Lăm bay về Dinh Độc Lập để than phiền với Tổng thống Thiệu và Đại tướng Viên về tướng Đống. [38] Cũng chính v́ sự bất hợp tác này, trung tướng Lăm đă thay đổi kế hoạch giữa lúc trận chiến đang xảy ra: Sư đoàn 1 Bộ binh thay Sư đoàn Nhảy dù nhảy vào Tchepone; TQLC từ Khe Sanh sẽ đổ bộ vào những cao điểm phía nam đường 9, thay thế bộ binh của Sư đoàn 1. Sự thay thế này đă gây nhiều thiệt hại cho Sư đoàn TQLC ở hai cao điểm Hotel và Delta.

    Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ trong HQLS719, tuy không có vấn đề bất tuân hệ thống quân giai, nhưng họ lại quên chỉ định một quân giai để chỉ huy và điều khiển: Ở bộ tư lệnh tiền phương ở Khe Sanh, cho đến ngày 24, Hoa Kỳ không có một sĩ quan cấp tướng nào để chỉ huy và điều khiển các ông đại tá của các quân chủng khác nhau (sĩ quan liên lạc/ phối hợp của Không duân, Hải quân, Thuỷ quân Lục chiến...). Ngày 25 tướng Abrams mới cho một trung tướng ra bộ chỉ huy tiền phương để duyệt xét sự hợp tác và phối hợp giữa Không quân và Lục luân. Thêm vào sự khó khăn là các sĩ quan cố vấn cho các sư đoàn VNCH làm việc trực tiếp cho MACV, nên họ không phải trả lời cho BTL QĐXXIV, và họ điều khiển chiến thuật, cung cấp tiếp liệu, yêu cầu yểm trợ theo ư họ. Đôi khi MACV phải giải quyết những trở ngại này từ Sài G̣n. [39]

    Một sự thiếu hiệu quả khác của hệ thống chỉ huy và điều khiển là nằm xa nhau, khó “chạy qua, chạy lại” để hỗ trợ. BTL QĐXXIV nẵm ở Đà Nẵng; QĐ I nằm ở Huế và Quảng Trị; và bộ chỉ huy tiền phương th́ nằm ở Khe Sanh. Hệ thống chỉ huy như vậy không bảo đảm được sự liên tục của quân lệnh.
    d. Tin tức t́nh báo sai lạc trong cuộc hành quân. Khi tấn công vào một địa h́nh do địch làm chủ hoàn toàn, ở một mặt trận xa hậu cứ, và đường tiếp tế th́ giới hạn bởi chính địa h́nh đó, tin tức t́nh báo về lực lượng của đối phương rất quan trọng. Mọi sự sai lệch về t́nh báo sẽ là một yếu tố quan trọng đưa đến thắng thua trong trận chiến. Nhưng rất tiếc, tin tức t́nh báo mà ban tham mưu VNCH và Hoa Kỳ dựa vào để soạn thảo kế hoạch HQLS719 th́ hoàn toàn sai lạc. Sai lạc về hoả lực, quân số, và địa h́nh của mặt trận gây nhiều khốn đốn cho lực lượng tấn công.

    Hoả lực pḥng không. Ước tính t́nh báo sơ khởi do Không lực 7 cung cấp, cho biết Binh đoàn 559 và các đơn vị trực thuộc Binh đoàn 70B có khoảng 225-275 súng pḥng không. Dựa vào tin tức này, QĐXXIV và Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng nghĩ họ có thể “giải quyết được.” Càng nghĩ họ sẽ giải quyết và áp chế được số lượng pḥng không địch ở Hạ Lào, nên chẵng những Lục quân không xin yểm trợ tối đa của Không quân, mà họ c̣n cho ước tính của Không quân quá cao. Nhưng ngược lại, ước tính của Không quân quá thấp: Khi lâm trận th́ mới biết CSVN có từ 525-575 súng pḥng không ở mặt trận. [40] Nhiều nhất là loại 12.7 ly. Loại súng này không lớn, không bắn được cao, nhưng đủ để triệt hạ những trực thăng đổ băi. Và vũ khí đó đă làm thay đổi trận chiến rất nhiều. Ước lượng về hoả lực địa pháo cũng hoàn toàn sai: Không lực và pháo binh Đồng Minh không phản pháo hay áp đảo được tất những ụ pháo của đối phương. Đầu tháng 3, trung tướng Sutherland gọi điện thoại về nói với tư lệnh phó MACV Fred Weyand, “Địch có mặt mọi nơi. Súng cối và pháo binh gây nhiều phiền phức...” Tiểu đoàn 2 Nhảy dù di tản khỏi đồi 30 không phải v́ áp lực bộ binh của địch mà là v́ pháo. Hơn 1.000 quả pháo bắn vào đồi 30 trong hai ngày trước khi tiểu đoàn di tản, hủy diệt tất cả pháo binh của hai pháo đội đóng trên đồi. [41]

    Sai lạc về địa h́nh. Không ảnh do Không lực 7 cung cấp và ước lượng cho biết đường 9 từ Lao Bảo về Bản Đông lưu thông được. Xăng và nước uống sẽ được chuyển vận bằng quân xa theo lộ tŕnh đó để tiếp tế cho mặt trận. Nhưng không ảnh hoàn toàn sai: Đường 9 bị không quân dội bom từ năm 1966, cắt ra nhiều đoạn. Trên đường, đôi khi có nhiều lổ thủng bề ngang 6-7 thước, sâu 2-3 thước. [42] Khi những chuyến xa “tanker” loại 5.000 gallons gặp những khúc đường đó, họ không băng qua được được. Xăng và nước chỉ đến được Khe Sanh, từ đó ra chiến trường phải là trực thăng. Di chuyển bằng đường bộ không được gaây một gánh nặng cho không vận. Nước cho người đă là một gánh nặng; nặng hơn là nhiên liệu cho các lực lượng cơ giới. Lực lượng cơ hữu của Lữ đoàn 1 Kỵ binh có tổng cộng 62 xe tăng và 162 thiết giáp. Chưa kể những quân xa đi theo. [43] Cơ giới mà không có xăng th́ cũng như không. Trên đoạn đường rút quân về biên giới, một số quân xa, thiết giáp, xe tăng, bị bỏ lại chỉ v́ hết xăng. Khi BTL QĐXXIV biết được chuyển vận sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào không vận, th́ khả năng không vận của quân đoàn đă quá mức tối đa, không c̣n xây chuyển được.

    Một sai lạc về địa h́nh rất căn bản xảy ra trong HQLS719 nói lên sự thất bại của nguyên kế hoạch: lính đi qua Hạ Lào không được trang bị y phục cho thời tiết lạnh. Trên những cao độ ở Hạ Lào, ban đêm lính rất khổ sở v́ lạnh. Rừng núi ở Hạ Lào vào tháng 2, trên đồi cao mà không trang bị quân phục ấm cho lính th́ đó là một ước tính thiếu sót không hiểu được. Điều đó nói lên tất cả sự sơ sót của kế hoạch HQLS719.

  4. #54
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Trận Cổ thành Quảng Trị

    Wikipedia

    Trận đánh 81 ngày đêm tại Cổ thành Quảng Trị

    Chỉ huy
    CS Bắc Việt: Văn Tiến Dũng, Trần Quư Hai
    Tổn thất: 4.000[1] - 10.000 chết[2][1], bị thương chưa có số liệu.
    VNCH: Ngô Quang Trưởng
    Tổn thất: Tính riêng thủy quân lục chiến: 3.658 chết[2] trên tổng số hơn 5.000 chết và bị thương[3][3]
    Tổng số: 7.756 chết, hàng ngh́n bị thương[4]


    Trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa một bên là Quân đội Nhân dân Việt Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và một bên là Quân lực Việt Nam Cộng ḥa với Quân đội Hoa Kỳ tại thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc nhất trong Chiến dịch Xuân Hè 1972, một phần của Chiến tranh Việt Nam. Trận chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm và kết thúc với thắng lợi của phía Việt Nam Cộng ḥa cùng đồng minh Hoa Kỳ.


    Bối cảnh

    Bài chi tiết: Chiến dịch Xuân Hè 1972 và Chiến dịch Trị Thiên

    Năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức tổng tấn công trên 3 chiến trường chính: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ (B́nh Long, B́nh Phước), trong đó hướng chủ yếu là Quảng Trị. Sau khi mở chiến lược Trị Thiên từ tháng 3 năm 1972, sau 2 đợt tấn công, đến tháng 5 th́ Quân đội Nhân dân Việt Nam đă chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa dồn lực lượng phản công với sự tham gia chiến lược của không quân, hải quân Hoa Kỳ và bắt đầu lấy lại ưu thế trên chiến trường (cuộc hành quân Lam Sơn 72). Đây cũng là thời điểm mà Quân đội Nhân dân Việt Nam đang bổ sung lực lượng chuẩn bị cho đợt tấn công thứ 3 vào Thừa Thiên. Chiến sự trong mùa hè đỏ lửa diễn ra cực ḱ ác liệt, ác liệt nhất kể từ khi có cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa bắt đầu mở các cuộc phản công và đến đầu tháng 7 đă tiến đến thị xă Quảng Trị. Cuộc chiến 81 ngày ở thị xă và thành cổ Quảng Trị bắt đầu.
    [sửa] Tương quan lực lượng

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa: Các Lữ đoàn dù 1, 2, 3; Liên đoàn dù biệt cách 81; Thiết đoàn 7, 18 kị binh; 3 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến và các tiểu đoàn pháo, công binh…

    Quân đội Hoa Kỳ: B-52 ném bom chiến lược của không quân Hoa Kỳ, pháo hạm yểm trợ từ Hạm đội 7. Thống kê cho biết thị xă bị Hoa Kỳ đánh phá với 328 ngh́n tấn bom đạn, 9552 ngh́n viên đạn pháo 105mm, 55 ngh́n viên đạn pháo 155 mm, 8164 viên đạn pháo 175mm, hơn 615 ngh́n viên đạn hải pháo, 2240 lần oanh tạc của không quân (tổng số bom đạn trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật bản). Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xă phải chịu 5000 quả đạn pháo. Thị xă Quảng Trị với 3 km2 và vùng ven có ngày phải chịu hơn hai vạn quả đạn đại bác cỡ lớn (ước tính có tới hơn 80% thương vong của Quân đội Nhân dân Việt Nam là bởi các đợt oanh tạc và pháo kích, chỉ có 1 phần nhỏ là trong các cuộc đọ súng bộ binh).

    Quân đội Nhân dân Việt Nam: Lực lượng pḥng thủ trong thành cổ Quảng Trị bao gồm Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B), Trung đoàn 95 (sư đoàn 325), 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Trị, Tiểu đoàn 8 (trung đoàn 64, sư đoàn 320). Chi viện trực tiếp cho lực lượng này là các đơn vị c̣n lại của Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312.[5]
    Diễn biến
    Pḥng ngự của Quân đội Nhân dân Việt Nam

    Ngày 28 tháng 6 năm 1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh cuộc hành quân Lam Sơn 72 trên hai hướng. Chiều 28 tháng 6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đă cô lập được một bộ phận của các sư 304 và 308 QĐNDVN ở nam Sông Mỹ Chánh. Hướng Đông, ngày 29 tháng 6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với Lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra. Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của QĐNDVN trên khoảng cách từng trăm mét một và thương vong hơn 300 quân, Lữ dù 1 và Liên đoàn 1 Biệt động quân đă có mặt ở ngoại vi thị xă Quảng Trị nhưng không lọt vào được.

    Ngày 13 tháng 7, máy bay trực thăng chở đạt tá Nguyễn Trọng Bảo, tham mưu phó sư dù và 8 sĩ quan tham mưu bị súng 12,7 mm của QĐNDVN bắn rơi ngay tại thị xă Quảng Trị. Mũi đột kích sâu của sư dù và thiết đoàn 20 bị đẩy lùi. Ư định của QLVNCH chiếm thị xă trước ngày 13 tháng 7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được. Thương vong mỗi bên đến hàng ngh́n người. QLVNCH mất 12 xe tăng các tiểu đoàn dù 1 và 5 bị tổn thất nặng.

    Ngày 14 tháng 7, Sư dù và Sư TQLC-QLVNCH tổ chức tấn công đợt 2 nhằm chiếm thị xă trước ngày 18 tháng 7 và cùng lắm phải trước ngày 27 tháng 7. Lữ dù 1 đánh Quy Thiện, Tŕ Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các lữ TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và Bích La Đông. Trong trận này, Lữ 369 TQLC tổn thất 2 đại đội và 11 trực thăng ở Nại Cửu. Đến ngày 16 tháng 7, Lữ dù 1 đă chiếm được các làng Tŕ Bưu, Cổ Thành; Trung đoàn 18 (Sư 325) bị tổn thất nặng phải rút ra Ái Tử - Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 95 (Sư 325) vào thay. QLVNCH đă h́nh thành thế bao vây ba mặt quanh thị xă Quảng Trị nhưng chưa vào được nội đô.

    Từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 7, tướng Lê Quang Lưỡng tung lực lượng dự bị cuối cùng (Liên đoàn biệt kích dù 81) vào chiến đấu, chiếm được các làng Tŕ Bưu, Cổ Thành. Tiểu đoàn biệt kích dù 27 tiến sát góc Đông Nam Thành cổ nhiều lần lao lên định cắm cờ lên tường thành nhưng đều bị Trung đoàn 48 đẩy lùi. Hai bên tổn thất lớn về sinh mạng.

    Ngày 28 tháng 7, thời hạn đánh chiếm thị xă Quảng Trị và thành cổ đă hết, tướng Ngô Quang Trưởng quyết định dừng cuộc tấn công của Sư dù, chuyển giao nhiệm vụ đánh chiếm thị xă Quảng Trị cho Sư đoàn thủy quân lục chiến. Trong tháng 7, mỗi ngày Không lực Hoa Kỳ huy động từ 40 đến 60 phi vụ B-52, 130 đến 150 phi vụ máy bay cường kích yểm hộ mặt đất cho QLVNCH.

    Trung tuần tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh B5 QĐNDVN quyết định giao nhiệm vụ cho F325 chỉ huy lực lượng pḥng thủ Thành cổ Quảng Trị.

    Lúc này, Sở chỉ huy cơ bản của sư đoàn đóng ở khu vực Cao Hy - Tây Đông Hà độ 15km trên một băi bom B-52 đă đánh nát. Sư đoàn chọn địa điểm này là để tạo bất ngờ đối với VNCH, cho là bộ đội không thể đóng một cơ quan chỉ huy cỡ sư đoàn tại một vùng Hoa Kỳ đă ném bom tơi bời.

    Sở chỉ huy Thành cổ ở ngay sát mép sông, dưới một căn hầm rượu của dinh tỉnh trưởng Quảng Trị đă bị bom đạn làm đổ nát, gạch đá gỗ sắt đổ ngổn ngang bao phủ cả khu hầm dày tới 4-5 mét, bom ném bên cạnh cũng chẳng hề ǵ, trừ trường hợp bom khoan cả cái đúng lỗ, nên nói chung là khá an toàn.

    Bộ đội miền Bắc đă cải tạo khu hầm, chia thành ba ngăn có giao thông hào chạy ra bên ngoài. Một ngăn làm khu phẫu thuật, ngăn cho thông tin trinh sát và một ngăn chỉ huy và trực ban tác chiến. Cửa hầm được thiết bị chiến đấu chu đáo, có trung liên và B-41 bảo vệ. Không lực VNCH và Hoa Kỳ hàng ngày soi t́m, nhưng do họ ngụy trang kín đáo, kỷ luật khói lửa và đi lại ban ngày được duy tŕ nghiêm mật, nên vẫn chưa phát hiện được mục tiêu sở chỉ huy, tuy có nghi ngờ, thường xuyên t́m kiếm.[6]

    Trận chiến trong thị xă
    "Nụ cười bên thành cổ Quảng Trị" (bộ đội), tác giả Đoàn Công Tính

    Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 năm 1972, các chốt trong thị xă đều được Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ vững. Đêm đêm, họ tập kích ở Tri Bưu, ở Thạch Hăn, chùa Bà năm, diệt một số đối phương khiến quân Nam Việt Nam không tiến được.

    Quân số của họ bổ sung vào Thành đều đặn theo kế hoạch. Mỗi đêm vào trung b́nh được 40-50 người (đă trừ số người bỏ ngũ, lạc ngũ hoặc bị thương từ bên kia bờ sông, chiếm khoảng 30-40 phần trăm). Hàng ngày thuyền gắn máy hậu cần từ Tả Kiên vào thành đều tiếp tế lương thực, đạn dược, thuốc men, kể cả quà Quốc khánh từ hậu phương tới.

    Đợt từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 9 năm 1972, trời mưa to, nước sông Thạch Hăn lên nhanh, chảy xiết, ảnh hưởng đến tăng cường cung cấp và quân số. Có đêm trôi dạt hàng chục chiến sĩ vượt sông. Công sự chốt bị sụt lở nhiều. Bộ đội tiếp tục giữ các chốt trên các hướng. Tiểu đoàn 4 trung đoàn 95 tập kích khu tam giác Thạch Hăn, chiếm một số công sự của VNCH, cải thiện thế pḥng thủ ở đó. Tiểu đoàn đặc công mặt trận phối hợp với đại đội đặc công sư đoàn 325 chuẩn bị đánh khu quận lỵ Mai Lĩnh nhưng thất bại.

    Ngày 4 tháng 9 năm 1972, trung đoàn bộ binh 88 thuộc sư đoàn 308 Quân đội Nhân dân Việt Nam rút khỏi khu Thạch Hăn tây và khu giáp sông ở thôn Đệ Ngũ-trường Bồ Đề làm sườn phía nam bị hở. Một số thành viên trung đoàn 88 trong đó có trung đoàn phó Phan bị thương tạt vào sở chỉ huy Thành cổ. Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết định tổ chức đưa số này vượt sông lũ ra hậu phương. Để đối phó với t́nh h́nh quan trọng này, họ sử dụng một bộ phận tiểu đoàn 7, trung đoàn 18 và tiểu đoàn 4, trung đoàn 95 ra chiến đấu thay thế trung đoàn 88 ở khu vực đó để giữ sườn phía nam thị xă.

    Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa tiến công đợt 6, mở đầu bằng đ̣n tập kích hỏa lực “Phong lôi 2”. Không quân, hải quân Hoa Kỳ, pháo binh Việt Nam Cộng ḥa bắn suốt 48 giờ liền vào tất cả các trận địa của Quân đội Nhân dân Việt Nam, tập trung đánh vào khu Thành cổ, các bến vượt sông, đường cơ động lực lượng và vận chuyển. Oanh tạc cơ B-52 rải thảm tả ngạn sông Thạch Hăn, tập trung vào khu Nhan Biều-Ai Tử và các trận địa pháo của đối phương. Tính toàn bộ trong 81 ngày đêm của trận Thành cổ, các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa đă dội xuống địa điểm thị xă (rộng chưa đầy 2 km²) tổng cộng 330.000 tấn bom đạn, trong đó mỗi ngày có từ 70 đến 90 lượt máy bay ném bom B52 tham chiến[7]. "Đây là kế hoạch chi viện hỏa lực cao nhất của Mỹ trong một trận đánh. Tính từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9, Mỹ sử dụng pháo hạm bắn 123.725 viên đại bác vào thị xă (trong đó có 52.573 viên vào Thành cổ); sử dụng 2.244 lần chiếc máy bay ném bom, trong đó có ngày huy động tới 100 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược B52."[8].

    Đêm 7 tháng 9, tiểu đoàn 2 trung đoàn 48 Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kích khu Hành Hoa, chiếm một số công sự, cải thiện thế pḥng thủ ở Tri Bưu. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 tập kích khu nhà thờ Tin Lành, thương vong một số (tiểu đoàn trưởng đơn vị này cũng chết) nhưng đă chiếm được.[6]

    Ngày 9 tháng 9 năm 1972, đồng thời với việc Quân lực Việt Nam Cộng ḥa tiến công khu La Vang-Tích Tường-Như Lệ để chặn sư đoàn 308 phản kích từ hướng này, liên đoàn biệt động 1 VNCH cũng tiến công Bích Khê-Nại Cửu để chặn sư đoàn 320 QĐNDVN hoạt động từ bắc sông Vĩnh Định. Quân VNCH sử dụng Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến gồm hai lữ đoàn chia làm năm mũi, tiến công từ ba hướng vào thị xă. Họ tập trung chiến xa, thiết giáp xa, súng phun lửa để tái chiếm thành cổ. Nhiều trận phản kích ác liệt của bộ đội ở ngay sát chân Thành cổ đă đánh bật nhiều mũi tiến công, như: ngày 9 tháng 9, một trung đội lọt vào thành cổ, bị tiểu đoàn địa phương 3 phản kích. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa buộc phải tháo chạy, để lại 11 xác chết.

    Tiểu đoàn 4 trung đoàn 95 QĐNDVN chặn đánh đối phương quyết liệt ở khu Tin Lành, giành đi giật lại từng công sự. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa thiệt hại một đại đội, nhưng chiếm được khu Mỹ Tây. QĐNDVN bị thương vong 30, hỏng một cối 82, một súng 12 ly 7, một đại liên, một B-40, một B-41. Đến đêm 9 tháng 9, tiểu đoàn 4 cùng tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 QĐNDVN tập kích chiếm lại khu Mỹ Tây, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng ḥa chạy về nam sông con. Đêm 9 tháng 9, đưa tiểu đoàn địa phương 8 vào Thành sau khi ra ngoài củng cố.[6]

    Sáng ngày 9 tháng 9, lữ đoàn 147 và 259 Thủy quân Lục chiến (TQLC) của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă khởi động cuộc phản công. Sau 4 ngày tiến quân và giao tranh kịch liệt với đối phương, 6 tiểu đoàn thuộc 2 lữ đoàn trên đă tiến chiếm các mục tiêu yết hầu quanh thị xă. Từ ngày 13 đến rạng ngày 16 tháng 9, các đơn vị TQLC đă tiếp tục tiến quân để dọn dẹp các mục tiêu c̣n lại[3]

    Sau khi đánh bật đối phương tại khu vực bệnh viện Quân Dân Y Quảng Trị và trường Bồ Đề, Tiểu đoàn 1 Quái Điểu QLVNCH khai triển lực lượng tiến về phía vào khu trung tâm thị xă Quảng Trị. Để tiến vào khu vực này, tiểu đoàn Trâu Điên QLVNCH phải triệt hạ cụm kháng cự của đối phương ở Ty Cảnh Sát Quốc Gia, như thế Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đă phải vượt qua con suối với cây cầu bắc ngang đường Trần Hưng Đạo. Binh sĩ VNCH dùng ḿn Claymore cột vào những cây tre dài vượt qua suối lúc nửa đêm và bấm nút đă làm bật tung những ổ thượng liên và DKZ của QĐNDVN đặt trong những lô cốt pḥng thủ. Tiếp theo đó là những đợt xung phong ồ ạt của TQLC, từng trung đội tràn lên thẩy lựu đạn vào các cụm công sự chiến đấu của QĐNDVN và chỉ trong thời gian ngắn đă chọc thủng pḥng tuyến của đối phương tại đây. Chiếm được khu vực Ty Cảnh Sát Quốc gia, tiểu đoàn Quái Điểu thừa thắng tiến chiếm các vị trí ở quanh Nhà máy điện, trường Nữ Tiểu học, doanh trại Cảnh sát Dă chiến.
    Các binh sĩ VNCH bên cạnh xác 1 xe tăng T-54 trong thị xă Quảng Trị

    Rạng sáng ngày 13 tháng 9/1972, đại đội 5 tiểu đoàn 2 QLVNCH từ ngă tư Quang Trung-Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đă diễn ra quanh khu vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. Hai bên đă quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát mà QĐNDVN đă biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn TQLC này đă chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội h́nh tiến chiếm khu hành chánh gồm Ty Bưu Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh trưởng - nơi 1 đại đội của QĐNDVN đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ.

    Một mũi nhọn khác của tiểu đoàn 2 QLVNCH với đại đội 4 làm nỗ lực chính thanh toán các chốt địch dọc hai bên đường Phan Đ́nh Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt bố trí tại cơ quan USOM và Ṭa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại đội 5 của tiểu đoàn 2 QLVNCH đă tấn công vào khu vực ṭa Hành chánh tỉnh và Ty Tiểu học vụ Quảng Trị nơi 1 trung đoàn QĐNDVN đặt bộ chỉ huy. Do các chốt bảo vệ xung quanh đă bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy QĐNDVN tại đây đă phải tháo chạy ra hướng sông.

    Ngày 10, 11, 12 tháng 9 năm 1972, QLVNCH tiếp tục lấn dũi mạnh từ hướng nam-đông-nam. Nhiều toán nhảy vào thành nhưng đều bị tiêu diệt. Quanh Thành cổ, dưới hào nước, xác chết trương phềnh, mùi hôi thối xông lên nồng nặc.

    Ngày 10 tháng 9, QLVNCH lấn dũi có xe tăng chi viện khu Mỹ Tây, Trường Nữ, Trại giam. Tiểu đoàn 4 trung đoàn 95 QĐNDVN đánh trả ác liệt, giữ vững chốt bắn hỏng một xe tăng, hai đại liên, thu một M79 và nhiều lựu đạn, nhưng cũng bị chết 6, bị thương 49. Đêm 10 tháng 9, QĐNDVN cho tiểu đoàn 4 ra ngoài củng cố, dùng tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 thay thế, chiến đấu ở tây-nam Thành cổ.

    Đêm 12 tháng 9, tăng cường 70 chiến sĩ cho tiểu đoàn địa phương 3 QĐNDVN trong thành cổ. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 và tiểu đoàn 7 trung đoàn 18 phản kích quyết liệt, nên QLVNCH không phát triển được. Trời tiếp tục mưa. Nước sông Thạch Hăn lên to, cuồn cuộn chảy mạnh, nên hạn chế việc tiếp tế và tăng cường quân cho thành.

    23 giờ ngày 13 tháng 9, Bộ Tư lệnh B5 (QĐNDVN) lệnh cho trung đoàn phó trung đoàn 48, và tiếp sau đó vài giờ, vào 1 giờ sáng 14 tháng 9 lệnh cho Đại tá Nguyễn Việt chỉ huy trưởng Thành ra ngay Nhan Biều để cùng sư phó sư đoàn 325 tổ chức lực lượng trung đoàn bộ binh 18 vào phản kích trong thành.

    Ngày 14 tháng 9 năm 1972, từ hướng đông-nam, QLVNCH tiến sát khu chùa Bà Năm, khu trại giam, chợ. Từ hướng nam, họ vào khu Mỹ Tây, Trường Nữ. QĐNDVN chống trả quyết liệt, vẫn giữ vững các chốt, nhưng bị thương vong nhiều. Mặt trận B5 điều một đại đội xe tăng đến Nhan Biều để làm công sự cố định bắn chi viện sang Thành nhưng sau đó do khó khăn địa h́nh nên chưa bố trí được ngay.

    4 ngày dùng bộ binh liên tục từ ba hướng tấn công vào, nhưng QLVNCH vẫn không chiếm được thành, họ quay ra củng cố công sự và bao vây thành từ ba phía, đồng thời điều cả xe tăng phun lửa liên tục tấn công vào các chốt của QĐNDVN. Chốt chiến đấu của QĐNDVN có điểm chỉ cách địch 50 m. Ngày 14-9-1972, sau khi dùng xe tăng phun lửa dữ dội vào các chốt pḥng thủ, quân VNCH tấn công vào thành. Tiểu đoàn pḥng thủ lúc này chỉ c̣n gần 20 tay súng, quyết tâm thực hiện lời thề danh dự: “K3-Tam Đảo c̣n, Thành cổ Quảng Trị c̣n”, với B40, B41, lựu đạn, nổ súng đánh trả quyết liệt vào đội h́nh của TQLC, buộc quân VNCH phải rút chạy. 2 giờ chiều, một toán khác vào thành từ góc đông nam liền bị các tay súng của đại đội 9 QĐNDVN đánh bật ra. Đến 18 giờ, lợi dụng lúc trời chạng vạng tối, từ ba góc, TQLC lại tiếp tục mở đợt tấn công dữ dội vào thành. Được sự chi viện của K8 và các tay súng của trung đoàn 48 Sư đoàn 320, tiểu đoàn đă ngoan cường chiến đấu, đánh bật quân VNCH ra khỏi thành.[9]

    Ngày 15 tháng 9 năm 1972, 4 giờ sáng ngày 15 tháng 9 Ở hướng Đông của thành cổ, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đă dàn hàng ngang đồng loạt xung phong tiến về hướng Tây, tập kích sở chỉ huy tiểu đoàn 1 trung đoàn 48 QĐNDVN và chiếm một góc khu đông-bắc Thành cổ. Các chốt của QĐNDVN c̣n lại tiếp tục chiến đấu trong ngày, mặc dù sức chiến đấu đă giảm, quân số bị thương vong nhiều. Lực lượng tiểu đoàn địa phương 8 tỉnh, tiểu đoàn 3 trung đoàn 48 mới vào cũng đă bị tổn thất nặng. Lực lượng trung đoàn bộ binh 18 vẫn chưa đến được nơi quy định để vượt sông vào Thành cổ.

    Trong đêm 15 tháng 9 năm 1972, QĐNDVN đă pháo kích dữ dội vào đội h́nh của hai tiểu đoàn 3 và 6 TQLC để yểm trợ cho lực lượng đang cố thủ ở đây. Gần rạng sáng, 4 đại đội TQLC nói trên đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của QĐNDVN đă chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó đă bị đánh bật khỏi pḥng tuyến.

    Cũng trong đêm 15 tháng 9 các chỉ huy của QĐNDVN trong thành nắm lại t́nh h́nh, thấy QLVNCH đă chiếm một số góc thành cổ, quân số chiến đấu của họ c̣n lại chẳng bao nhiêu nên thống nhất ra lệnh rút khỏi thị xă và thành cổ từ 22 giờ ngày 15 tháng 9.

    Thứ tự rút, thương binh đi trước, tiếp đến các lực lượng tiểu đoàn ở xe, rồi đến các đơn vị trực thuộc, cuối cùng là sở chỉ huy Thành. Sử dụng đội vệ binh trung đoàn 48 chiến đấu bảo vệ đội h́nh rút qua sông.

    Sau 4 tháng 16 ngày chiếm giữ Cổ Thành và thị xă Quảng Trị, QĐNDVN đă bị đánh bật và tổn thất rất nặng. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 QĐNDVN) với hơn 1.500 quân cố thủ trong Cổ Thành đă bị hạ gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ c̣n chưa đến 1 tiểu đội thoát chạy ra ngoài. Chi tiết về trung đoàn này cũng đă được phóng viên báo Tuổi Trẻ ghi lại theo lời kể của 1 cựu chiến binh (một trong gần 10 người sống sót của trung đoàn này) qua bài kư đăng trong số báo ra ngày 26 tháng 7/1998, có đoạn như sau:
    “ Tết năm 1968, ngay sau khi trung đoàn được thành lập ở miền Bắc, một tháng sau trung đoàn này có mặt tại Quảng Trị. Từ đấy cho đến năm 1972, Quảng Trị đă trở thành chiến trường của trung đoàn 27, và ở đây, họ mang một cái tên mới: trung đoàn Triệu Hải (tên của hai huyện đồng bằng Quảng Trị ghép lại)... Phải đến bây giờ, chúng ta mới được nghe cả một trung đoàn vào giữ Thành Cổ, lúc rút ra c̣n chưa đến một tiểu đội.[3] ”

    Ngoài trung đoàn Triệu Hải bị xóa sổ, trung đoàn 48 B thuộc sư đoàn 320 B QĐNDVN- đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xă, cũng đă bị thiệt hại hơn 80% quân số. (QĐNDVN có 2 sư đoàn cùng mang số 320, đó là sư đoàn 320 thuộc B-3 đă tham dự cuộc tổng tấn công vào Kontum trong tháng 5/1972, và sư đoàn 320 B thống thuộc quyền chỉ huy của bộ tư lệnh quân khu tại Trị Thiên). Trong một hồi kư phổ biến vào năm 1997, Lê Tự Đồng-trung tướng, nguyên tư lệnh lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại mặt trận tỉnh Quảng Trị-cũng đă thừa nhận là các sư đoàn và trung đoàn tham chiến đă bị tổn thất hơn 50% quân số.[3]

    Về phía QLVNCH, tuy chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá đắt. Kế hoạch chiếm thị xă trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được mà c̣n phải mất gấp 5 lần thời gian định trước. Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng sư đoàn Thủy quân Lục chiến có 3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.000 chiếm 38% quân số), các đơn vị Dù cũng chịu thiệt hại nặng tương đương. Thiệt hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến QLVNCH cũng không đủ sức tấn công tiếp lên phía bắc, các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân "Sóng thần" để tái chiếm bờ bắc Thạch Hăn nhanh chóng bị QĐNDVN đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được kư kết vào tháng 1 năm 1973.

    Kết quả

    Sau 7 ngày liên tục tổng phản công, đến giữa đêm ngày 15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1972, lực lượng Thủy quân Lục chiến đă đánh bật QĐNDVN ra khỏi trung tâm thị xă Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành, Rạng sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đă bung ra lục soát và triệt hạ các chốt c̣n lại của QĐNDVN. Đến 8 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, một toán Cọp Biển của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đă dựng quốc kỳ Việt Nam Cộng ḥa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho sự toàn thắng của Quân lực VNCH trong cuộc tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.

    Vài phút sau đó, chuẩn tướng Bùi Thế Lân - tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đă báo tin chiến thắng đến trung tướng Ngô Quang Trưởng. Vị tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm tư lệnh chiến dịch tái chiếm Quảng Trị đă gọi máy về Sài G̣n để tường tŕnh lên Tổng thống VNCH và đại tướng Tổng tham mưu trưởng về chiến thắng này, sau đó tướng Ngô Quang Trưởng đă gửi bưu điệp tuyên dương công trạng Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến với nội dung như sau:
    “ Tôi đă nh́n Quốc kỳ tung bay trên nền trời Quảng Trị chỉ ít lâu sau khi những bàn tay kiêu dũng của anh em kéo lên từ trong Cổ Thành. Tôi đă muốn thấy tại chỗ chiến thắng của anh em, để ngay tại chiến trường, tự cảm thấy hănh diện được chỉ huy Sư đoàn Thủy quân Lục chiến trong một chiến dịch quy mô nhất của quân đội...[3] ”

    Ghi lại cuộc chiến đấu của những người lính Thủy quân Lục chiến tại mặt trận trung tâm thị xă Quảng Trị và Cổ Thành từ khi thay thế lực lượng Nhảy Dù vào ngày 27/7/1972, trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng pḥng 3 bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đă viết như sau:
    “ Trong suốt 7 tuần lễ chiến đấu đầy máu xương và nước mắt của chiến hữu đồng ngũ, dưới những làn mưa đạn pháo nặng nề của đối phương, tính trung b́nh cứ 4 người lính Thủy quân Lục chiến có 1 người hy sinh. Tính từ tháng 6 năm 1972 đến ngày toàn thắng, về quân số, Thủy quân Lục chiến bị tổn thất trên 5 ngàn, trong đó có 3.658 chiến sĩ hy sinh... H́nh ảnh người lính Thủy quân Lục chiến Việt Nam dựng cờ, tuy vóc dáng gầy ốm bị chiến trận, nhưng chất chứa đầy ḷng can đảm, cương quyết và hy sinh…[3] ”

    Theo ghi nhận của trung tướng Ngô Quang Trưởng, trong 10 ngày cuối của trận chiến tại trung tâm thị xă Quảng Trị và Cổ Thành, có 2.767 lính QĐNDVN đă chết, 43 bị bắt sống. Về phía Thủy quân Lục chiến, trung b́nh mỗi ngày có 150 binh sĩ Cọp Biển chết trận. Chiều ngày 16 tháng 9 năm 1972, sau khi đánh bật QĐNDVN ra khỏi trung tâm thị xă và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đă bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự cuối cùng trong Cổ Thành và nới rộng vùng kiểm soát.[3]

    Theo cuốn Một thời hoa lửa của NXB Trẻ th́ từ mồng 10 tháng 9 Quân đội Nhân dân Việt Nam bị thương vong nhiều. Như hai tiểu đoàn mới vào thành (Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48, Tiểu đoàn địa phương 8) cũng đă tổn thất nặng. Riêng Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 95 từ khi vào thành đến khi rút ra (từ ngày 13 tháng 7 đến ngày 10 tháng 9 năm 1972) đă chết trên 100 người, bị thương trên 700 (tính cả số bổ sung từng ngày), đảng viên có 67 người, lúc ra c̣n 12 người v.v... Thật là quá nặng nề đối với lực lượng pḥng thủ thành cổ. Do đó hành động của tư lệnh chiến dịch vào buổi giao ban sáng 16 tháng 9 và tiếp sau đó lệnh pḥng ngự tả ngạn sông Thạch Hăn vào chiều 16 tháng 9 là thích hợp với t́nh h́nh thực tế. Cũng theo sách này th́:
    “ :Các lực lượng trực tiếp pḥng thủ thị xă đă cùng một ư chí sắt đá là kiên quyết giữ vững Thành cổ bằng mọi giá nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Paris. Rất nhiều gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu vô cùng anh dũng của cán bộ chiến sĩ, của các đoàn dân công hỏa tuyến, của nhân dân trong khu vực.

    Trong hơn 80 ngày đêm chiến đấu, chúng ta đă biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng bộ đội và nhân dân, tạo nên sức chiến đấu kiên cường, dẻo dai. Bên cạnh lực lượng bám trụ thị xă, phải tính đến sức mạnh của các sư đoàn chủ lực 308, 304, 320 đứng bên sườn địch từ hướng đường 1 và hướng ven biển, mở nhiều đợt tiến công vào sườn đội h́nh tiến công của địch; gây cho địch nhiều thiệt hại, làm chậm bước tiến của chúng, buộc chúng phải đối phó bị động.

    Ngoài ra phải nói đến nhiều đoàn tân binh từ nhiều tỉnh miền Bắc đă lần lượt vào thị xă để bổ sung kịp thời cho các đơn vị chiến đấu. Nhiều lực lượng dân quân du kích và nhân dân địa phương đă đấu tranh kiên cường bằng nhiều h́nh thức phong phú đa dạng ở vùng địch hậu Triệu Phong, Hải Lăng. Nhiều lực lượng dân công hỏa tuyến tại khu vực Tả Kiên, Ba Gơ, Đại Ang, Tân Vinh đă tận t́nh phục vụ cho Quảng Trị chiến đấu.
    Last edited by alamit; 09-03-2012 at 03:20 AM.

  5. #55
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Sáu (6) Điều Tâm Niệm Của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa



    Là Chiến Sĩ VNCH,

    Điều 1: Tôi nguyện chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để chiến đấu bảo vệ cho sự sống c̣n của Tổ Quốc, của gia đ́nh và của chính bản thân tôi.

    Điều 2: Tôi tuyệt đối chấp hành các mệnh lệnh của cấp chỉ huy, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu tuyên truyền chia rẽ của giặc cộng.

    Điều 3: Tôi luôn kính già, thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.

    Điều 4: Tôi luôn tâm niệm hành động làm mất ḷng dân là xua dân về phía giặc cộng, là tự sát.

    Điều 5: Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh địch (VC), không ngược đăi đánh đập họ, không đụng đến của riêng họ, để thêm bạn bớt thù.

    Điều 6: Thực hiện các điều trên là tôi tích cực xây dựng tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho toàn dân, tôi sẽ được đền bù bằng sự cảm mến và biết ơn của Đồng Bào.

  6. #56
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Trận tái chiếm Cổ thành Quảng Trị








    Mũ Đỏ Trịnh Ân tóm lược

    "Đây là một đoạn được trích lại trong kế hoạch hành quân tổng phản công tái chiếm thị xă tỉnh lỵ Quảng Trị, mục tiêu trọng điểm cuối cùng của lực lượng Nhảy Dù là Cổ Thành Đinh Công Tráng. Đó là cuộc hành quân mang tên Lam Sơn 72 được khai diễn vào ngày N, giờ G (ngày 28/6/1972 vào lúc 5 giờ sáng)".

    Cuộc hành quân bước qua ngày N+26, sáng ngày 24/7/1972, tại Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI ở thành Mang Cá (Huế), Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă có cuộc họp với các Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Trong cuộc họp này, Trung Tướng Trưởng đă cho biết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu muốn cuộc hành quân Lam Sơn 72 tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị phải hoàn tất trong tháng 8/1972. Tướng Trưởng có cho biết là ông đă báo cáo cho Tổng Thống Thiệu là lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đă bao vây ba mặt thị xă tỉnh lỵ, chỉ c̣n phía Bắc sông Thạch Hăn. Riêng Cổ Thành, 1 Trung đoàn CSBV đang tử thủ tại đây. Lực lượng Nhảy Dù đă liên tục mở nhiều cuộc tấn công nhưng do địch kháng cự quyết liệt nên vẫn chưa tiến sát đến bờ thành.

    Tính đến ngày 24/7/1972, cuộc hành quân Lam Sơn 72 đă bước vào ngày thứ 27. Trong phạm vi trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù, các cánh quân Mũ Đỏ đă kiếm soát được ṿng đai thị xă tỉnh lỵ. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi chỉ huy, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ chỉ huy tiếp tục truy kích Cộng quân ở quanh khu vực Thạch Hăn đến ngă ba Long Hưng và khu vực phía Tây thị xă. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, trung Tá Trần Hữu Phú Tiểu Đoàn Trưởng và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhỏ Tiểu Đoàn Phó, là lực lượng ứng chiến trừ bị cũng đă kiểm soát được khu vực phía Nam thị xă. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Thành Tiểu Đoàn Phó chỉ huy đă làm chủ được chiến trường ở pḥng tuyến dọc theo sông Thạch Hăn.
    Sau một thời gian quần thảo với cộng quân ở ṿng đai Cổ Thành, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đă quyết định cho tiến hành kế hoạch công thành Đinh Công Tráng bằng hai giai đoạn:
    1/- Đưa toán cảm tử thám sát xâm nhập vào bờ thành, toán này sẽ cấm lá cờ VNCH trên mặt Cổ Thành và nằm lại ở đó với nhiệm vụ là toán làm đầu cầu cho cả Tiểu Đoàn tấn công. Giai đoạn này sẽ bắt đầu vào đêm 24/7/1972 và phải hoàn tất trước b́nh minh này 25/7/1972.
    2/- Sẽ bắt đầu vào rạng sáng ngày 25/7/1972, cả Tiểu Đoàn đồng loạt tấn công vào Cổ Thành, và trong 2 ngày, phải đánh chiếm lại ít nhất là phân nửa chu vi bờ thành.
    Để thực hiện được kế hoạch trên, Trung Tá Hiếu đă quyết định thành lập ngay một toán "thám sát cảm tử" bằng cách tuyển chọn trong các quân nhân t́nh nguyện. Có rất nhiều chiến sĩ xung phong xin nhập vào toán cảm tử này nhưng chỉ có 8 quân nhân được chọn: “Trưởng toán là Hạ sĩ Trần Văn Sáu, c̣n chiến sĩ được giao trách nhiệm cấm cờ VNCH trên mặt bờ Cổ Thành Quảng Trị là Binh 1 Hồ Khang”.

    Chiều ngày 24/7/1972, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu cho tập hợp toán “cảm tử” như muốn để từ giă những chiến hữu thân thương quyết ra đi theo truyền thống “Nhảy Dù Cố Gắng”, dù biết quyền hạn của một Tiểu Đoàn Trưởng ông chỉ có quyền đề nghị thăng cấp mà thôi, nhưng trước chuyến đi này ít có hy vọng trở về của 8 cảm tử quân. Vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đă ban quyết định thăng cấp trước cho 8 cảm tử quân mỗi người lên hai cấp. V́ tối đêm nay, toán cảm tử quân sẽ lên đường để đột kích vào Cổ Thành, trận đánh tuy không ác liệt nhưng quyết định sẽ chờ đợi những chiến sĩ "Thiên Thần Mũ Đỏ" trung kiên.

    Đêm 24/7/1972, toán cảm tử quân của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù vượt tiến xuất phát đột kích Cổ thành, toán cảm tử có 8 quân nhân t́nh nguyện do Hạ sĩ Trần Văn Sáu làm trưởng toán, Binh I Hồ Khang là chiến sĩ được chỉ định giữ lá cờ và sẽ cắm lá cờ VNCH đó lên trên mặt bờ Cổ Thành. Trước giờ xuất quân, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đă bắt tay thật chặt từng chiến hữu của ḿnh. V́ ông biết rằng sự hiểm nguy và cái chết đang chờ toán cảm tử quân, có thể sẽ không c̣n một ai trở về an toàn trong cuộc đột kích quyết tử này.

    Giờ G đă đến, toán cảm tử quân lao vào bóng đêm. Từ vị trí xuất phát đến mục tiêu c̣n khoảng cách hơn 200 mét. Trung Tá Hiếu và cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn ngậm ngùi nh́n theo toán quân cảm tử đi vào bóng tối và chờ đợi. Vào khoảng quá nửa đêm, toán cảm tử quân đă ḅ lên được trên mặt Cổ Thành. Một bóng đen nhô lên giữa bầu trời và tung bay theo chiều gió. Đó chính là lá quốc kỳ VNCH mà Binh I Hồ Khang đă được lệnh mang theo khi xuất phát. Từ xa, một chiến sĩ Nhảy Dù đứng gần Trung Tá Hiếu đă nhận ra và vui mừng la lên:
    - "Lá cờ dựng được rồi...?".
    Lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥa đă tung bay trên mặt bờ Cổ Thành rồi ḱa. Đó cũng là một tín hiệu của toán cảm tử quân báo cho Trung Tá Hiếu biết là họ làm tṛn nhiệm vụ và đă có mặt trên mặt bờ thành. Như thế, giai đoạn 1 đă kết thúc vào lúc 1 giờ 00 sáng ngày 25/7/1972. Vậy giai đoạn 2 sẽ bắt đầu vào rạng sáng cùng ngày. Trong phút giây trọng đại đó, bỗng nhiên có những tiếng hô dơng dạc từ trên bờ thành vọng đến bên tai những người chiến sĩ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang gh́m tay súng hướng về bờ Cổ Thành chờ đợi và trước mắt họ đă hiện rơ bóng cờ bay. Đó chính là tiếng hô to của Binh I Hồ Khang:
    - "Nhảy Dù cố gắng - Nhảy Dù chiến thắng - Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm".

    Ngay sau tiếng hô lớn của người lính Mũ Đỏ Hồ Khang, Cộng quân trong Cổ Thành đă bắn ra như mưa về nơi vừa phát ra tiếng hô, màn lửa đạn lóe ra ánh sáng đủ để các chiến sĩ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù nh́n thấy được lá cờ vàng ba sọc đỏ vừa được cắm lên trên mặt thành, đă bị rớt xuống phủ lên xác người lính “Thiên Thần Mũ Đỏ Hồ Khang”.
    Binh I Hồ Khang đă vĩnh biệt chiến trường ngay trên mặt bờ Cổ Thành Đinh Công Tráng. Anh đă ngă xuống cùng các bạn đồng đội ngay khi đă dựng được lá cờ, sau khi đă hô to "Nhảy Dù cố gắng - Nhảy Dù chiến thắng - Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm". Th́ một nơi xa xôi tại trại gia binh củ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù ở Biên Ḥa, có một người vợ trẻ và ba đứa con c̣n thơ dại chờ anh trỡ về sau cuộc hành quân. Nhưng người lính Thiên Thần Mũ Đỏ Hồ Khang đă vĩnh viễn ra đi với 5 chiến hữu, không kịp cùng các động đội Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đánh trận quyết định ở “Giai đoạn 2 vào rạng sáng ngày 25/7/1972”.
    2 ngày sau, hai chiến sĩ “cảm tử quân” c̣n sống đă t́m đường về lại Tiểu Đoàn Hạ sĩ Sáu, Binh I Tâm kể lại:
    - Chúng em chiến đấu chống trả đến hơi thở cuối cùng, hết đạn, em phá hủy máy AN/PRC25 cùng Binh I Tâm may mắn thoát khỏi trong làn mưa đạn của địch, để lại trên bờ Cổ Thành 6 chiến sĩ anh hùng hy sinh với lá cờ vàng ba sọc đỏ VNCH.
    - Tụi em ṃ mẫm đi suốt đêm, ngoài những cánh đồng trống để tránh né pháo binh của bạn và của Cộng quân, c̣n ban này phải chui vào các bụi rậm nằm trốn không cho VC thấy...

    Ngày N+27, sáng tinh sương, mặt trời chưa mọc, dù rất đau đớn trước sự hy sinh của các chiến hữu cảm tử quân Mũ Đỏ, nhưng Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu vẫn giữ quyết định tiến hành giai đoạn 2 của kế hoạch tấn công vào Cổ Thành. Đại Đội 51/ND do Đại úy Trương Đăng Sĩ chỉ huy là đơn vị tiên phong của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, được lệnh vượt qua hào sâu quanh bờ thành, bằng mọi cách phải tiến chiếm cho bằng được một góc thành để tràn lên mặt thành dựng lại quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥa một lần nữa.
    Theo lệnh của Đại úy Trương đăng Sĩ, (hiện là gia trưởng Gia Đ́nh Mũ Đỏ Việt Nam Liên Bang Úc Châu) toàn thể đại Đội 51/ND bằng mọi giá phải tràn lên, vượt qua lũy hào sâu dưới chân thành tiến đến bờ thành. Để yểm trợ cho cuộc tấn kích này, Pháo Binh Nhảy Dù và Không Quân VNCH đă tác xạ tối đa vào các vị trí của Cộng quân cố thủ bên trong và trên mặt thành.

    Khi toán quân Mũ Đỏ đầu tiên của Đại Đội 51/ND tiến lên được trên mặt Cổ Thành để dựng lại cờ, th́ hai phi tuần của Không Quân Hoa Kỳ do sự lầm lẫn đă chúi xuống trút bom ngay trên đầu của Đại Đội 51/ND. Sự việc xảy ra trước mắt của Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, trong khi ông cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang theo dơi diễn tiến trận đánh quyết tử để sớm kết thúc giai đoạn 2. Trung Tá Hiếu nghe được tiếng la thất thanh của Đại úy Sĩ trên máy truyền tin, nhưng vị Tiểu Đoàn Trưởng này cũng không thể nào ngăn kịp. Muộn rồi!!! Đại đội 51/ND gần như tan nát do sự lầm lẫn tai hại này!!!?. Với những khối bom năng đă thả xuống chính xác làm cho hơn 50 chiến sĩ Mũ đỏ ưu tú của Đại Đội 51/ND bị thương vong. Tổn thất nặng nề đó đă giáng một đờn lên nỗ lực tột cùng của vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, trẻ tuổi có nhiều mưu lược chiến trường buộc phải cho con cái rút về vị trí xuất phát...!!!

    Để yểm trợ cho trận đánh quyết tử này “Minh Hiếu” được tăng cường Đại Đội 111/ND của Tiểu Đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” do Trung Úy Đinh Viết Trinh “ba búa” chỉ huy đánh trợ lực từ hướng Tây Bắc vượt qua cánh đồng trống, tiến dưới làn mưa pháo địch, đánh thóc vào khu nghĩa địa làng Tri Bưu, chiếm đường Duy Tân để bắt tay với Đại Đội 52/ND do đại úy Hồ Tường chỉ huy và để cùng đồng loạt tiến đánh chiếm lại Cổ Thành bằng mọi giá theo lệnh. Cạnh sườn phía Bắc Cổ Thành có Đại Đội 2/TSND do Trung Úy Trương Văn Út “Út Bạch Lan” chỉ huy tấn kích nghi binh trợ chiến, ngay khi Đại Đội 51/ND do Đại úy Trương Đăng Sĩ chỉ huy tiền phong đột kích lập đầu cầu trên mặt Cổ Thành. Nhưng hỡi ơi!!! Một tai nạn oan nghiệt thay cho Đoàn Quân Mũ Đỏ!!!

    Ngày N+28, cuộc hành quân Lam Sơn 72, phản công tái chiếm tỉnh lỵ Quảng Trị do Bộ Tư lệnh Quân Đoàn I/QKI tổ chức và tổng chỉ huy đă bước sang ngày thứ 31. Trước đó vào ngày 24/7/1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă có cuộc họp với các Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù Trung Tướng Dư Quốc Đống, Thủy quân Lục Chiến Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân để duyệt xét t́nh h́nh chiến sự và đặt kế hoạch tái phối trí lực lượng Mặt Trận Cổ Thành. Tướng Trưởng cho các vị Tư Lệnh chiến trường biết là cộng quân đă đưa thêm 2 Sư Đoàn CSBV vào vùng cận sơn trị thiên. Hai Sư Đoàn này sẽ tung vào mặt trận Quảng Trị làm lực lượng trợ lực cho Sư Đoàn 325/CSBV. Trước những diễn biến t́nh h́nh chiến sự và các cuộc điều quân của Cộng quân. Để chận đứng lực lượng Cộng quân tăng viện vào chiến trường Trị-Thiên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă cho thực hiện kế hoạch Lôi Phong kết hợp hỏa lực của B-52, phi cơ chiến thuật của Không Quân Việt-Mỹ và Hải Pháo của Hạm Đội 7 tác xạ tập trung vào từng mục tiêu của quân CSBV xung quanh ṿng đai thị xă tỉnh lỵ Quảng Trị. Để có lực lượng chận đứng các cuộc xâm nhập của CSBV về vùng đồng bằng Trị-Thiên. Sau khi bàn thảo giữa các vị Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh chiến trường, thông báo “kế hoạch tái phối trí lực lượng mặt trận Cổ Thành” theo kế hoạch này:
    - Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ chịu trách nhiệm khu vực duyên hải Quảng Trị và mặt trận Cổ Thành.
    - Sư đoàn Nhảy Dù, sẽ chịu trách nhiệm khu vực cận sơn Trị-Thiên. Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, bàn giao khu vực trung tâm thị xă Quảng Trị và mặt chận Cổ Thành cho Lựu Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến.
    Trung Tướng Dư Quốc Đống, vị Tư Lệnh khả kính của Binh Chủng Nhảy Dù với nét mặt trầm tư, đôi mắt chớp chớp, h́nh như ông muốn nói những lời tâm huyết với Tướng Trưởng!!!? Nhưng Đại Tá Trần Quốc Lịch Lữ Đoàn Trưởng LĐ-2ND, đă đẩy ghế về phía sau đứng lên với giọng phẫn uất, ông nói lớn: “Như vậy th́ Sư Đoàn Nhảy Dù chúng tôi...?” Tướng Trưởng chận lời: “Tôi nhắc lại, đây là lệnh của Thượng Cấp...!!!”. Đại Tá Lịch nói tiếp: "Lệnh thật bất công!!!?".

    Ngày N+29, theo đúng kế hoạch tái phối trí lực lượng mặt trận Cổ Thành, 12 giờ trưa ngày 27/7/1972, các Tiểu đoàn của Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến do Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ đoàn Trưởng chỉ huy được lệnh thay thế các Tiểu Đoàn của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại Tá Trần Quốc Lịch chỉ huy tại mặt trận Cổ Thành, trong khi trận chiến hai bên đang giao tranh ác liệt giữa Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với 1 Trung Đoàn Cộng quân cố thủ trong Cổ thành và vị trí gần nhất c̣n cách chân tường của Cổ Thành Đinh Công Tráng khoảng 200 mét. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù cũng lần lượt được thay thế bởi các Tiểu Đoàn/TQLC. Tiểu Đoàn 9 TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Kim Để chỉ huy hoán đổi cho TĐ-11ND do Thiếu Tá Lê Văn Mễ chỉ huy tại khu vực phía Nam thị xă, cạnh Quốc Lộ 1. Tiểu Đoàn 5 TQLC do Thiếu Tá Hồ Quang Lịch chỉ huy nhận lănh trách nhiệm thay thế TĐ-6ND tại ngă ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 3/TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh chỉ huy thay thế TĐ-5ND tại làng Tri Bưu gần Cổ Thành Quảng Trị.

    Tại mặt trận thị xă tỉnh lỵ Quảng Trị, cuộc hành quân Lam Sơn 72 “Giai đoạn 1 được kết thúc” Đại Tá Trần Quốc Lịch Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, vị chỉ huy khả ái của lực lượng Nhảy Dù có nhiều mưu trí và kinh nghiệm chiến đấu đă trực tiếp chỉ huy các Tiểu Đoàn Nhảy Dù tại chiến trường. Ông xót xa đưa đôi mắt nh́n về đoạn đường gian lao nguy hiểm mà các chiến hữu Nhảy Dù đă vượt qua và những mục tiêu c̣n lại trước mắt được coi như trong tầm tay. Trong cơn phẫn uất ông thốt lên: "Đời chiến binh...!!!, Lệnh của thượng cấp...!!!, oan nghiệt thay...!!!!. Vậy trong những ngày qua chúng tôi đă...?!!!".

    Ở trận địa Cổ Thành, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đứng ngậm ngùi đau xót rảo mắt nh́n về phía chân bờ tường, trên mặt Cổ Thành như muốn ghi lại những vết tích máu xương của các chiến hữu thân thương vừa để lại trong trận đánh quyết tử đêm qua c̣n lan động. Ông nghĩ đến hận thù chưa trả, mục tiêu trước mắt chưa chiếm được, nhiệm vụ chưa hoàn thành? Ông nói lẩm bẩm một ḿnh: "Kỷ luật...!!!, lệnh của thượng cấp...!!!, t́nh chiến hữu...!!!. Biết rồi, khổ quá, nói măi..., khốn nạn thật, mẹ kiếp...!!!"

    Người lính già Phương Nam
    Last edited by alamit; 24-04-2012 at 08:47 AM.

  7. #57
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Mùa Hè Đỏ Lửa : Mặt trận Quảng Trị





    Lực lượng địch :

    Để tấn chiếm Quảng Trị , mặt trận B5 CSBV đă tung ra một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn gồm có :

    * Sư đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3 Trung đoàn 66, 24, 29 với sự yểm trợ của Trung đoàn 38 pháo, 4 Trung đoàn pḥng không 230, 232, 241 và 280, 2 Tiểu đoàn Hỏa Tiển, một Trung đoàn 202 chiến xa , và một Tiểu đoàn Công Binh tấn công vào mặt phía Tây Quảng Trị..

    * Sư đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và Hoàng Minh Thi làm chính Ủy gồm 3 Trung đoàn 103, 88 và 57 được tăng cường hai Trung đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu đoàn 15 biệt lập, Hai Trung đoàn Pháo 164 và 84, một Trung đoàn pḥng không, hai Trung đoàn chiến xa 203 và 204, hai Tiểu đoàn Công Binh, một Tiểu đoàn đặc công và 3 Trung đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.

    * Hai Tiểu đoàn Đặc Công 31 & 25 phối hợp với Tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc Công Hải Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn công vào mặt phía Đông Cửa Việt, Gio Linh và Triệu Phong.

    * Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 320B và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới Lào Việt.

    * SĐ324B do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3 Trung Đoàn 6, Trung Đoàn 803 và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên, di chuyển vào thung lủng Ashau áp lu75c mạnh trên thành phố Huế.

    * 2 Trung Đoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lủng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Đà Nẵng..

    Lực lượng bạn :

    Lực lượng VNCH có các đơn vị sau đây :

    · SĐ3BB đóng tại căn cứ Ái Tử, do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai làm Tư Lịnh.

    - Trung Đoàn 2 đóng tại căn cứ Tân Lâm, A4 Cồn Thiện, Fuller C2 và C3.

    - Trung Đoàn 56 đóng tại căn cứ Cam Lộ, Khe Gió và Carrol. (hay Tân Lâm là căn cứ hỏa lực lớn nhất tại vùng giới tuyến) .

    - Trung Đoàn 57 đóng tại Căn cứ C1, A1, A2 và A3.

    - Thiết Đoàn 11 Thiết Kỵ đóng tại Sharon.

    · LĐ147 / TQLC đóng tại Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, Núi Bá Hộ, Holcomb và Sarge.

    · LĐ258 / TQLC đóng tại căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne và Barbara.

    · Liên Đoàn 1 BĐQ gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77.

    · Liên Đoàn 4, 5 BĐQ tăng cường

    · Trung Đoàn 4/SĐ2BB.

    · Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh ,Thiết đoàn 17 (M113) và Thiết đoàn 20 (M48),

    · Tiểu Đoàn 24 Địa Phương Quân + NQ

    · 8 Tiểu Đoàn Pháo binh

    · SĐ TQLC.: gồm 3 Lữ Đoàn do Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân làm Tư Lệnh

    · SĐND với 3 Lữ Đoàn do Trung Tướng Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh.



    Lịch sử Tỉnh Quảng Trị và Cổ Thành.

    Tỉnh Quảng Trị phía Bắc giáp Quảng B́nh, phía Đông giáp Đông Hải, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây là dăy Trường Sơn và nước Lào. Diện tích khoảng 4700 km2. Tỉnh lỵ Quảng Trị cách thành phố Huế 55 km (34 miles) và cách Sài G̣n 1227 km (767 miles) về hướng bắc.

    Phía Đông Quảng Trị là đồng bằng hẹp, phía Tây là rừng núi thuộc Trường Sơn, chiếm gần hai phần ba diện tích tỉnh. Ba sông chính của tỉnh là Bến Hải, Cam Lộ và Sông Thạch Hàn. Sông Bến Hải phát nguồn từ dăy Trường Sơn ra đến biển ở cửa Tùng, dài 75 km (47 miles). Sông Thạch Hàn (c̣n gọi là sông Quảng Trị) chảy từ quận Hương Hóa và quận Cam Lộ, rồi đổ ra cửa Việt. Sông Cam Lộ (c̣n gọi là sông Bồ Điền) là con sông đào nối sông Bến Hải với sông Thạch Hăn, chảy qua hai quận Hương Hóa và Cam Lộ. Ngoài ra tỉnh c̣n có một số ḍng sông nhỏ như sông Mỹ Chánh, sông Nhung... Bờ biển Quảng Trị dài 66 km (41 miles), ngoại trừ vùng cửa Tùng lởm chởm đá, suốt bờ biển đều bằng phẳng và có nhiều cát, nên không lập được các hải cảng.

    Đất Quảng Trị xưa đă là đất Lập Quốc của Việt Nam, một phần của bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Năm 1069, vua Lư Thánh Tông đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ liền dâng ba châu Địa Lư, Ma Linh và Bố Chính (bây giờ là Quảng B́nh, Quảng Trị).

    Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lư làm sính lể để cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1307, vua Trần Nhân Tông đổi Châu Ô làm Châu Thuận, Châu Lư làm Châu Hóa. Châu Thuận gồm đất Phong Điền, Triệu Phong, Hải Lăng Quảng Trị ngày nay.

    Tháng mười năm Mậu Ngọ (1558), chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn đất Thuận Hóa, lập d́nh ở Ái Tử thuộc phủ Triệu Phong. Năm 1804. vua Gia Long đặt lại tên là dinh Quảng Trị. Tên Quảng Trị có từ đó. Năm 1831, Minh Mạng đặt làm trấn, sau đổi làm tỉnh. Đến đời vua Tự Đức cải làm đạo, nhưng lại đổi thành tỉnh vào năm 1876.

    Trước năm 1975, Quảng Trị có các quận như Gio Linh, Trung Lương, Hương Hóa, Hải Lăng, Cam Lộ, Mai Lĩnh và Triệu Phong

    Hơn hai thế kỷ trước, Cổ Thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được xây cất từ đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Chu vi tường thành gần 2.000 m, cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được xây theo lối kiến trúc thành tŕ Việt Nam với tường thành bao quanh h́nh vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian như mủ cây Ô-Dước. Thành trổ bốn cửa chính Đông Tây Nam Bắc. Sau chiến dịch mùa "Hè đỏ lửa" 1972 toàn bộ Cổ Thành Quảng Trị gần như bị san phẳng; chỉ c̣n sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên h́nh và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn



    Phóng đồ mặt trận Quảng Trị ( do Trần Đổ Cẩm vẻ )

    Để bảo vệ khu vực Quảng Trị. Quân Lực VNCH phối trí các đơn vị như sau: SĐ3BB tân lập trách nhiệm bảo vệ Quảng Trị. Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bản doanh Sư Đoàn đặt tại Ái Tử. Trung Đoàn 2, một Trung Đoàn cũ của SĐ1BB, đóng tại các căn cứ A4 hay là Cồn Thiện, Fuller, C2 và C3. Trung Đoàn 56 đóng tại các căn cứ Hỏa Lực Cam Lộ, Khe Gió, và Tân Lâm (Carroll). Trung Đoàn 57 đóng tại CCHL C1 ( Gio Linh), A1, A2 và A3 . Ngoài ra SĐ3BB c̣n được tăng phái 2 Lử Đoàn TQLC. Lữ Đoàn 147 TQLC đóng ở CCHL Mai Lộc, núi Bá Hộ, Sarge, Holcomb. Lữ Đoàn 258 đóng tại Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara . Hai Lữ Đoàn TQLC có nhiệm vụ trấn giữ mặt phía Tây của Quảng Trị.

    Sư đoàn 3 bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971, có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, v́ là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh,, quân dịch và các đơn vị ĐPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..



    Diển Tiến :

    Khởi động chiến dịch tại Quân Khu 1 VNCH, Tướng CSBV Vơ Nguyên Giáp xua 45.000 quân vượt qua sông Bến Hải với hằng trăm chiến xa, hằng trăm đại pháo và một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn bộ binh tổng tấn công lấn chiếm tỉnh Quảng Trị, Ải địa đầu cực Bắc VNCH.. Đồng thời tung SĐ324B cùng 2 Trung Đoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lủng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Đà Nẵng...

    Ngày 30/3/1972 đúng 12 giờ trưa,lợi dụng cơ hội thay đổi vùng trách nhiệm của các Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57 thuộc SĐ3BB. Bô đội CSBV bắt đầu pháo kích dữ dội vào các căn cứ trong vùng giới tuyến Carol, Mai Lộc, Sarge, núi Bá Hộ, Tân Lâm, Cồn Thiên, Đông Hà và Quăng Trị. Pháo binh cộng sản, với các loại đại bác ṇng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly tầm xa 27.5 km, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và 56/SĐ3BB, đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhiều vị trí pḥng thủ bị bỏ ngỏ, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh. Sau đó, Cộng quân huy động các đơn vị chủ lực của 2 SĐ304 và 308 cùng 3 Trung Đoàn biệt lập của B5, một Trung Đoàn Đặc Công và 2 Trung Đoàn Chiến Xa 203 và 202 vượt khu Phi Quân Sư chia thành 4 mủi tấn công cường tập vào tuyến pḥng thủ của các đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng Ḥa đang trấn đóng các căn cứ tại phía Tây và Bắc Quảng Trị.

    Các mũi tấn công đầu tiên nhắm vào các căn cứ của Trung Đoàn 2/3BB là Fuller và Cồn Thiên A4, hai mủi khác nhắm vào Trung Đoàn 57 tại các Căn cứ A1 và A2. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB và TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị pháo kích nặng nề và liên tục, v́ thế không yểm trợ được cho quân bạn. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đă không thể hoạt đông hữu hiệu để yểm trợ đươc cho quân bạn.

    Hỏa lực pháo binh CSBV đă gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam.

    Đến 6 giờ chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự pḥng thủ bị phá hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch quân tập trung tấn công biển người tràn ngập căn cứ Sarge. Đến 4 giờ sáng hôm sau ngày 1/4/1972, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4 gom về tập trung tại căn cứ Mai Lộc. Đây là 2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công.

    Ngày 1/4/72, chiến trường càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị tại căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc Trung Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đ́nh, gây cản trở việc điều quân và lưu thông trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản để điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH.

    Các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo nặng, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, v́ thời tiết xấu nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SĐ3BB trấn giữ, bị tấn chiếm. Trước áp lực quá mạnh của địch, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực để gom quân và thiết lập hệ thống pḥng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến. Vào lúc 9 giờ sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà theo quốc lộ 1. Một lực lượng chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, dọc theo bờ biển tiến xuống hướng Cửa Việt. T́nh h́nh căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh tử thủ Đông Hà "bằng mọi giá". Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Nhờ thời tiết tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa không SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông Hà. Để đề pḥng chiến xa địch vượt qua cầu Đông Hà, vào 16 giờ 30 chiều cùng ngày, chiếc cầu này được giật xập, để ngăn cản kế hoạch của CSBV đưa bộ binh và chiến xa tiến xuống phía Nam.

    Ngày 2/4/1972 BTL/SĐTQLC và Lử Đoàn 369 được không vận ra Huế để thiết lập tuyến pḥng thủ phía Bắc Sông Mỹ Chánh. TĐ7 TQLC được lệnh trấn giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh.

    Trong ngày nầy, Cộng Sản cắt đứt QL9 từ Đông Hà đến Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TĐ8TQLC, bị SĐ304 tấn công tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya .

    T́nh h́nh chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đă làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội cộng sản BắcViệt, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, v́ vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới, t́nh cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiến cho các cấp chỉ huy của SĐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, v́ không t́m ra kế hoạch nào, để ổn định t́nh thế.

    Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn, Cộng quân vẫn tiếp tục pháo kích dữ dội vào căn cứ nhưng không có quân tiếp viện. Đúng 14 giờ 30 chiều, Trung Tá Phạm Văn Đính Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56/3BB , đă đầu hàng Cộng Sản cùng với 1,500 binh sĩ VNCH bị quân CS bắt giữ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội TQLC, c̣n lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh QĐ1 và SĐ3/BB. Biến cố nầy xảy ra trong ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ vùng giới tuyến.

    Sau khi căn cứ hỏa lực Carroll thất thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC trở thành tuyến đầu, đă liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lịnh tái phối trí, pháo đội 105 ly TQLC tại đây sau khi bắn hết đạn, đă được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10 giờ tối, BCH/LD và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau, LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về Huế để bổ sung và tái trang bị.

    Bộ Tư Lệnh SĐ3BB di chuyển Bộ Chỉ Huy tiền phương tại căn cứ Ái Tử bị pháo kích nặng nề, để lui về Quảng Trị. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà và LĐ258 với các Tiểu Đoàn 1,3 và 6 /TQLC được tăng cường thêm TĐ3PB/TQLC vẫn duy tŕ tại các căn cứ Ái Tử, căn cứ Phượng Hoàng và Đông Hà. TĐ7/TQLC đang trấn ngự tại QL1 được điều động ra tăng cường pḥng thủ căn cứ Ái Tử. ( như vậy là bỏ ngỏ QL1 từ Mỹ Chánh tới Cam Lộ)

    Tính đến sáng ngày 3/4/1972, sau 4 ngày tấn công của quân CSBV, 11 căn cứ hỏa lực của QLVNCH tại giới tuyến đă thất thủ liên tiếp, mất đi 53 khẩu trọng pháo đủ loại làm cho Pháo Binh VNCH bị suy yếu, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị.

    Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài G̣n ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và pḥng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và pḥng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.

    Các sư đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xă Quảng Trị, V́ Cầu Đông Hà bị giật sập, nên Cộng quân dùng cầu Cam Lộ để vượt sông. Họ chia quân ra làm 2 cánh: một cánh quân đi dọc theo QL9 tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam . Một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xă Quảng Trị từ hướng Tây.

    Ngày 4/4/1972 sau khi Lữ Đoàn 147/TQLC rút lui về Huế để chỉnh trang, như vậy về phía tây, chỉ c̣n có 1TĐ/BĐQ, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố.

    Ngày 6/4/1972 lực lượng CS từ Ba-Ḷng phía Nam sông Thạch Hản tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do một đơn vị thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ. Căn cứ Anne được lịnh lui binh rút về Cam Lộ.

    Ngày 8/4/1972, LĐ258 điều động TĐ3TQLC trấn đóng căn cứ Ái Tử thay thế TĐ6TQLC đến trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng thay thế cho một TĐ/BĐQ.

    Sáng ngày 9/4/1972 với chiến thuật tiền pháo hậu xung, sáng sớm hai Trung Đoàn cộng quân có chiến xa T54 yểm trợ tấn công căn cứ Phượng Hoàng. Pháo binh VNCH yểm trợ đúng lúc, Bộ Đội Cộng Sản chạy tán loạn,một số chiến xa cán phải ḿn bị nổ tung. Phi cơ Skyraider A1 can thiệp phá huỷ thêm nhiều chiến xa địch.

    Hai Đại Đội / TĐ1TQLC cùng 1 chi đoàn chiến xa M48 và 1 chi đoàn Thiết Vận Xa M113 từ Ái Tử đến trợ chiến phá tan cuộc tấn công của địch. 400 xác cộng quân bỏ lại trận địa, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỷ oanh kích, băi ḿn cùng pháo binh. 2 chiếc bị bắt sống. Trước t́nh h́nh nghiêm trọng, Bộ TTM quyết định tăng cường Liên Đoàn 4 và 5 BĐQ cho Quân Đoàn I.


    Mặt trận Quảng Trị 1972

    Ngày 13/4/1972 Lữ Đoàn 258TQLC được điều động giữ tuyến pḥng thủ từ Ái Tử đến Phượng Hoàng. Từ Ái Tử lên mạn Bắc tới QL1, Đông Hà là vùng trách nhiệm của LĐ5BĐQ và Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh. Từ Cam Lộ trở về dọc theo QL9 là tuyến án ngử của LĐ4BĐQ và Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh. Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hăn. Liên Đoàn 1/BĐQ pḥng thủ thị xă Quảng Trị, lập pḥng tuyến tại bờ Nam sông Thạch Hăn.

    Ngày 14/4/1972 với sự yểm trợ hỏa lực của Mỹ, sự chiến thắng của LĐ/TQLC tại Pedro và sự tăng cường lực lượng của BĐQ, Tướng Hoàng Xuân Lảm đă mở cuộc hành quân Quang Trung 729 để tái chiếm vùng lảnh thổ bị mất về tay CS: Trung Đoàn 57BB pḥng giữ tuyến phía Bắc, trong khi các đơn vị BĐQ, TQLC và Thiết Giáp chỉa mủi dùi tấn công vào mặt phía Tây của Tỉnh Quảng Trị.

    Chiến cuộc bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch Công quân đă chống trả và pháo kích nặng nề vào các đơn vị hành quân. Bởi vậy thay v́ quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LĐ5 BĐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa, tuy nhiên các đơn vị của QLVNCH vẫn c̣n giữ vửng đựợc các vị trí trách nhiệm.Do v́ việc tổ chức phối hợp không đồng bộ và pháo trận cường tập của đối phương khiến cho cuộc hành quân không hửu hiệu và c̣n làm suy yếu tiềm lực pḥng thủ sẵn có.

    Ngày 18/4/1972 thất bại trong trận tấn công căn cứ Phượng hoàng, Cộng Sản Bắc Việt đă tung thêm quân áp lực nặng căn cứ này và bắt đầu phản kích lại.

    Ngày 23/4/1972 bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Cộng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn.Trong lúc đó khắp các nẽo đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh pháo kích bừa băi của cộng sản. Quảng Trị đă thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.

    Ngày 24/4/1972 Lử đoàn 147 TQLC với 2 TĐ4 và 8/TQLC và TĐ2/PB/TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị thay thế vùng trách nhiệm cũa LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử và tiếp nhận thêm TĐ1/TQLC đang pḥng thủ tại Phượng Hoàng

    Trong đêm nầy CS pháo kích làm cháy kho tiếp liệu của SĐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới.

    Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CSBV cùng với chiến xa, đă mở nhiều mũi tấn công tuyến pḥng thủ của LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa T-54. Ngày hôm sau, tuyến pḥng thủ của TQLC phải thu hẹp lại, chỉ c̣n cách Ái Tử từ 2 đến 3 cây số.

    Ngày 27/4/1972 cộng quân tổng tấn công tất cả tuyến pḥng thủ của VNCH từ cửa Việt xuống đến căn cứ Phượng Hoàng. Tất cả ṇng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh và Hải Lăng. Đêm 27/4, pháo binh CSBV bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ.

    Ngày 28/4, Cộng quân pháo dữ dội vào tuyến pḥng thủ của Biệt Động Quân ở thị trấn Đông Hà, trong 2 ngày khoảng 7,000 quả đạn, đồng thời với chiến xa yểm trợ đă tấn công vào tuyến pḥng thủ của đơn vị nầy, Tiểu Đoàn 30/LĐ5BĐQ đă bắn hạ 13 chiến xa T54 và bắt sống một chiếc khác tịch thu hằng trăm vũ khí. Tuy nhiên LĐ/BĐQ và Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh bị thiệt hại năng v́ pháo địch. Để bảo toàn lực lượng, các đơn vị nầy đă được lịnh triệt thoái để tăng cường bảo vệ pḥng tuyến căn cứ Ái Tử và pḥng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8/TQLC. Trong khi đó, Trung Đoàn 57/BB triệt thoái về Thị xă Quảng Trị. Trong đêm nầy cộng quân cũng tung chiến xa và bộ đội tràn qua cầu Ga Quảng Trị nhưng đă bị đẩy lùi.

    Trong lúc đoàn người tị nạn thay v́ tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hổn loạn trên quốc lộ 1 và làm mục tiêu cho pháo binh cộng sản. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động v́ vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đă tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SĐ3BB cũng là đầu nảo chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc.

    Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào pḥng tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC. V́ thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên cũng đă triệt thoái về Quảng Trị, chỉ c̣n lại LĐ 147/TQLC pḥng thủ căn cứ Ái Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút khỏi Ái Tử về pḥng thủ thị xă Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được thi hành tốt đẹp.

    Trong khi đó ngày 28/4/1972 mặt trận B4 CSBV tại mật khu 611 tung SĐ324B gồm 2 Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 803 bao vây rồi tràn ngập căn cứ Bastogne ở phía Tây thành phố Huế do một Tiểu Đoàn của SĐ1BB trấn giữ. Trước áp lực quá nặng của CS căn cứ Checkmate gần đó được lịnh di tản. Đồng thời với việc tấn chiếm 2 căn cứ Bastogne và Checkmate, Trung Đoàn 66/304 CSBV cũng đang vân tập về vùng thung lủng Ashau để chuẩn bị tấn công Huế.

    Trong ngày 30 tháng 4, thế trận pḥng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Ḥa tại Quảng Trị đă trở nên nguy ngập.Lúc 2 giờ sáng, cộng sản tấn công Trung đoàn 2/3BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cộng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công tràn ngập các Tiểu đoàn ĐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị



    Quảng Trị thất thủ :

    T́nh trạng hổn loạn khắp nơi, Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ Nam sông Thạch Hản pḥng thủ. Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, v́ hầu hết binh sĩ đă ră ngủ , để chạy theo gia đ́nh đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đă bị cộng sản đóng chốt nhiểu đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh v́ Tiểu đoàn 7 TQLC đă di chuyển ra pḥng thủ căn cứ Ái Tử.

    Cùng với những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1.Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến hành chậm v́ thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực địch phản công.

    Do đó đoạn đường huyết mạch, ch́ có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cộng sản đóng chốt, đă trở thành con đường xương trắng máu đào., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.

    Trước các biến động chiến sự ngày càng nguy kịch, sáng ngày 30 tháng 4, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, triệu tập buổi họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn trong Cổ Thành Quảng Trị (tức trại Đinh Công Tráng). Tướng Giai tŕnh bày kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Thạch Hăn.

    Theo sự phối trí, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ căn cứ Ái Tử sẽ rút về thị xă Quảng Trị để lập ṿng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ. Một tuyến pḥng thủ mới dọc theo bờ Nam sông Thạch Hăn sẽ được thiết lập bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân (BĐQ) với sự yểm trợ của một nửa lực lượng chiến xa và thiết vận xa. Thành phần Thiết Giáp (TG) c̣n lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày hôm sau. Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời căn cứ Ái Tử trưa ngày 30 tháng 4/1972.

    Trưa ngày 30 tháng 4 khi các đơn vị của Lữ Đoàn 147 TQLC về đến bờ Bắc sông Thạch Hăn th́ cả hai cây cầu ngang sông Thạch Hăn đă bị giật sập. Cầu Ván do Cộng quân giật sập đêm 28 tháng 4/1972, c̣n cầu Sắt th́ do thiếu phối hợp, toán Công Binh đă đặt chất nổ phá cầu trước khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và ba tiểu đoàn 1, 4 và 8 TQLC đi qua. Đoàn xe và 12 súng đại bác đă được phá hủy trước khi vượt sông Thạch Hăn, và các đơn vị TQLC đến chiếm giữ các vị trí trọng yếu quanh thị xă.

    Sáng ngày 1/5/72, BTL/SĐ3/BB thông báo cho các đơn vị trú pḥng nguồn tin: "5 giờ chiều địch sẽ pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xă Quảng Trị", và cho lệnh các đơn vi lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân tránh pháo nầy đă đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản cư về Huế theo quốc lộ 1.

    Ngày 2/5 Tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm cho mười bảy triệu quân dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà c̣n khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt.Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá mà c̣n giữ được.

    Ngay sau khi kế hoạch lui binh bắt đầu, Tướng Hoàng Xuân Lảm ra lịnh tử thủ Quảng Trị. Lênh Sư Đoàn và phản lệnh của Quân Đoàn bất nhất làm cho các đơn vị trưởng bất măn, bất tuân thượng lệnh. Hệ thống chỉ huy pḥng thủ Quảng Trị bị gảy đổ ngay từ đó, các đơn vị tự ư rời vị trí rút lui về hướng Nam. Tướng tư lệnh SĐ3BB đă cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, đă được 3 trực thăng CH-54 bốc đi từ Cổ Thành Quảng Trị bay về Đà Nẳng lúc 16 giờ 40 cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và pḥng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xă An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào tay cộng sản Bắc Việt , tối ngày 2-5-1972.

    Giữa cảnh hổn loạn đó, Đại Tá Khoái Chi Huy Trưởng BĐQ Quân Khu I đă họp các cấp chỉ huy 3 Liên Đoàn BĐQ và ra quyết định LĐ5BĐQ làm nổ lực chính đánh tŕ hoản để cho các cánh quân c̣n lại lui binh trên QL1. Sự dũng cảm và hy sinh v́ màu cờ Binh Chủng, trên một chiến trường do đich chọn sẳn, Các chiến sĩ BĐQ đă đánh một trận phản phục kích để đời tại Sông Trường Phước mặc dù địch có chiến xa yểm trợ.

    Vào lúc 14 giờ 30 chiều, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn và gần 30 chiến xa & thiết vận xa c̣n lại của LĐ1 Kỵ binh, bắt đầu triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế theo Quốc lộ 1. Thêm nhiều quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào đi theo đoàn quân này gây trở ngại không ít khi điều quân và lúc giao tranh với địch. Lực lượng TQLC đă đụng độ suốt đêm với trung đoàn CSBV tại Hải Lăng, có nhiều quân nhân và đồng bào tháp tùng đă tử thương trong lúc giao tranh. Nhờ hỏa lực mạnh mẽ của thiết giáp, địch rút lui vào buổi trưa hôm sau. LĐ 147/TQLC, chiến xa và đoàn người chạy giặc đă tới Mỹ Chánh vào buổi chiều, nơi LĐ369/TQLC đang án ngữ.

    Trên đường lui binh, Lữ đoàn 147 TQLC, và các đơn vị của SĐ3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lănh đạn pháo kích nặng nề của giặc.

    Quốc lộ 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, mất an ninh nhiều ngày trước, đang bị quân cộng sản chiếm và đóng chốt., nhất là cầu sông Nhung, trên Quốc Lộ I, đoạn đường đă bị gián đoạn giao thông, v́ đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt phục kích tấn công, tha hồ tác xạ dữ dội và tàn bạo, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp mặt đường, dưới ruộng. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.Một phóng viên chứng kiến thảm cảnh này khi thuật lại, đă đặt tên cho đoạn đường này là "Đại Lộ Kinh Hoàng".

    Lúc đó Lử đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ, giữ pḥng tuyến Mỹ Chánh từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị.

    Sáng sớm ngày 2/5/1972 Trung Đoàn VC với 18 chiến xa yểm trợ tấn công Lử Đoàn 369 TQLC tại tuyến pḥng thủ Mỹ Chánh. Sau nữa ngày giao tranh với pháo binh cơ hữu và hải không yểm trợ, 17/18 chiến xa T54 bị bắn cháy. VC bị thiệt hại năng và tháo lui về hướng Hải Lăng bỏ lại trận địa trên 500 xác chết..

    Ngày 2/5/1972 Tỉnh Quảng Trị thất thủ, Thiết Đoàn 20 chỉ c̣n lại 6/48 chiến xa, Các đơn vị TQLC bị thiệt hại nặng, cầu Mỹ Chánh được Công Binh VNCH giật sập để cản bước chiến xa của địch. Cố đô Huế hiện giờ trong t́nh trạng hoảng loạn vô trật tự.


  8. #58
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Mùa Hè Đỏ Lửa : Mặt trận Quảng Trị
    P2



    Tuyến pḥng thủ Huế ngày 5/5/1972



    Tuyến pḥng ngự Mỹ Chánh :

    Ngày 3/5/1972 Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn 4 được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định thay thế Tướng Hoàng Xuân Lảm Tư Lệnh Quân Đoàn I trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Dinh Độc Lập.

    Ngày 4/5/1972, sau khi được chỉ định, Tướng Trưởng cấp tốc bay ra Quân Khu I và lập ngay pḥng tuyến cố thủ tại cố đô Huế chống lại áp lực của các SĐ304, 308 và 325 CSBV ở phía Bắc sông Mỹ Chánh và SĐ324B ở phía Tây.

    Tướng Trưởng cấp tốc thành lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương tại Huế và ban lệnh thiết quân luật, buộc tất cả quân nhân phải trở về tŕnh diện đơn vị, cho lệnh bắn tại chổ những người mang vũ khí lang thang ngoài đường phố hay bị bắt quả tang trộm cướp,bắn bỏ tại chổ những tên cướp giựt, tổ chức lực lượng quân cảnh tuần tiểu bằng Thiết Vận Xa V100. Đồng thời thành lập “Trung Tâm Điều Hợp Hỏa Lực” và một “Toán Đặc Biệt” chỉ nhằm thâu nhận các mục tiêu và vị trí địch quân, để phối hợp khai thác khả năng dồi dào của không địa hải pháo Việt Mỹ yểm trợ chiến trường.

    Ngày 5/5/1972 Tướng Trưởng cũng phổ biến kế hoạch pḥng thủ cho các vị Tư Lệnh Sư Đoàn 1BB trách nhiệm pḥng thủ phía Tây và Tây Nam Huế . Nhằm ngăn chận địch quân từ hướng mật khu Ba Ḷng; SĐ/TQLC trách nhiệm pḥng thủ phía Bắc và Đông Bắc Huế, chận đứng mọi toan tính xâm nhập của địch từ phương Bắc. Các Tư Lệnh SĐ toàn quyền điều động và phối hợp Địa Phương Quân, Nghỉa Quân và Chủ Lực Quân vào kế hoạch tác chiến của Quân Đoàn. Đồng thời lập kế hoạch Lôi Phong, tập trung hỏa lực Không, Hải và địa pháo chiến thuật cũng như chiến lược cơ hửu Việt Mỹ nhằm ngăn chận, và tiêu diệt sự tập trung quân của địch. để có đũ thời gian tái tổ chức trang bị và huấn luyện các đơn vị bị thiệt hại vừa qua.( lần đầu tiên các đơn vị VNCH được trang bị hỏa tiển TOW.

    Ngày nầy, Đại Tá Bùi Thế Lân được chỉ định giữ chức vụ Tư Lệnh SĐ/TQLC thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang .

    Ngày 7/5 sự ổn định về pḥng thủ tại Huế đă vững vàng, an ninh trật tự công cộng cũng được văn hồi. Mặc dù giao tranh c̣n đang xảy ra tại một vài nơi nhưng dân chúng Huế cũng cảm thấy yên tâm, một số gia đ́nh chạy loạn đă lục tục trở về. Các chiến cụ bị mất mát hay hư hỏng cũng được các phi cơ khổng lồ C141 và C5 Hoa Kỳ ồ ạt chở đến phi trường Đà Nẳng.

    Ngày 8/5/1972, toàn bộ LĐ2ND với 3 TĐ 2, 7 & 11ND do Đại Tá Trần Quốc Lịch làm Lữ Đoàn Trưởng, từ mặt trận Tây Nguyên được không vận đến Phi Trường Phú Bài tăng viện cho Quân Đoàn I.

    TĐ11ND sau trận chiến tại đồi Charlie ở Quân Khu 2, được tái chỉnh trang, tăng cường cho mặt trận Quân Khu I và khi vừa đến Huế th́ nhận được lệnh tái chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh. Vừa vuợt tuyến xuất phát tại Phong Điền dọc QL1, VC pháo dữ dội bằng đũ loại đại pháo và xung phong tấn công biển người vào TĐ11ND. Thiếu Tá Mể TĐT bị thương v́ pháo kích. Th/Tá Thành thay thế. Đến 3 giờ sáng, 3 chiếc T54 xuất hiện, ĐĐ111 dùng M72 tiêu diệt, bắt sống 1 tù binh cấp Thượng Tá, 1 Tiền Sát Viên và 1 Âm Thoại Viên. Tịch thu 11 súng pḥng không 30 ly.

    ( Khi TĐ11ND nhận lệnh lên đường ra Huế, Đại Tá Trần Quốc Lịch, LĐT/LĐ2ND đă lưu ư vị Tân Tiểu Đoàn Trưởng TĐ11ND, Thiếu Tá Lê Văn Mể rằng “ Chắc chắn bọn CSBV sẽ tấn công Anh tới cùng v́ theo kinh nghiệm về chiến thuật CS nếu nó đă đụng mạnh một đơn vị nào của ta một lần rồi khi ra quân lại bọn chúng sẽ t́m cách triệt hạ bằng mọi giá, Nếu Anh cảm thấy chưa đũ sức tôi sẽ cho thằng khác đi thay Anh” Thiếu Tá Mễ tỏ vẽ rất tự tin và xin tiếp tục nhiệm vụ và VC đă dàn chào Ông một cách tận t́nh )

    Các Tiểu Đoàn 2 và 7ND sau đó được triển khai dọc theo bờ phía Nam sông Mỹ Chánh cùng Tiểu Đoàn 11ND trấn giữ tuyến đầu. Tất cả chiến binh Nhảy Dù đều được trang bị súng chống chiến xa M72 và XM202 bốn ṇng. Các đơn vị Nhảy Dù thường thả các toán Trinh Sát và viễn thám vào vùng địch chiếm đóng và biết được cộng quân đang tăng cường nhiều chiến xa, bộ binh , pḥng không và đại pháo phía bên kia bờ sông Mỹ Chánh.

    Ngày 10/5/1972 t́nh h́nh tại Huế tạm ổn định. Liên Đoàn 1BĐQ vừa hoàn tất việc bổ sung quân số và tái huấn luyện tại Đà Nẳng được tăng phái cho SĐ/TQLC. Ngày nầy, quân số QL/VNCH tập trung quanh thành phố Huế lên đến 35,000 người.

    Ngày 12/5/1972, ĐĐTS/LĐ369TQLC vượt sông Mỹ Chánh, thám sát địa thế để lập đầu cầu chuẩn bị cho chiến dịch Sóng Thần 5/72. Sáng hôm sau, ngày 13/5/1972, 2 Tiểu Đoàn 3 & 8TQLC được trực thăng vận đổ vào Quận Hải Lăng, cách Quảng Trị 11Km về hướng Nam đánh bọc hậu trở về sông Mỹ Chánh. Đồng thời TĐ9TQLC vượt sông Mỹ Chánh đánh ngược lên phía Bắc. Trung Đoàn 66 CSBV bị kẹp giữa hai gọng kềm nên bị thiệt hại nặng nề.

    Ngày 14/5/1972 CSBV quyết chí trả thù, 23.00 giờ Trung Đoàn 66/SĐ324 pháo dữ dội vào ĐĐ111ND. Địch vẫn áp dụng chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung và nhị thức bộ binh tùng thiết, dùng biển người dự định tràn ngập đơn vị Nhảy Dù nầy.

    ĐĐ111ND phản công quyết liệt với sự tiếp ứng kịp thời của 2 Đại Đội 112, 114ND và dưới sự yểm trợ hỏa lực của Pháo Binh Dù và 24 chiếc Phantom của Không Quân Mỹ. Đến sáng sớm hôm sau TĐ11ND hoàn toàn tiêu diệt các đơn vị CSBV, 26 chiến xa bị bắn cháy gồm cả T54, BTR85 và PT76, xác địch ngổn ngang bên ngoài rào pḥng thủ. TĐ11ND bị thương vong 20 binh sĩ v́ đạn pháo kích.

    Ngày 15/5/1972 Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lịnh SĐ1BB, tung 2 Trung Đoàn /SĐ1BB hành quân tái chiếm hai căn cứ Bastogne và Birmingham phía Tây Nam cố đô Huế.

    Ngày 16/5/1972 hai Tiểu Đoàn Bộ Binh thuộc Trung Đoàn 3/SĐ1 bất ngờ được trực thăng vận đổ ngay vào Bastogne. Buổi chiều Trung Đoàn 3/1BB hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh tại căn cứ nầy.. Đến ngày 20/5/1972 SĐ1BB cũng tái chiếm căn cứ Checkmate.

    TĐ3ND sau khi tham chiến tại mặt trận An Lộc giải tỏa QL 13, được tái trang bị và không vận ra Huế. ĐĐ33ND được tăng phái cho TĐ11ND và đến trấn đóng tại rặng Hồ Lầy phía Tây Bắc TĐ11ND.

    Ngày 21/5/1972, Hỏa tiển Tow được Hoa Kỳ vận chuyển đến Đà Nẳng bằng vận tải cơ khổng lồ C141 và C5.và lần đầu tiên trang bị cho các đơn vị / QL VNCH.

    Ngày 22/5/1972 BTL/SĐND và BCH LĐ3ND được không vận tới Huế.Trung Đoàn 4/2BB cũng được tăng cường để bảo vệ Huế. Trung Đoàn nầy được tăng phái cho SĐND trấn giữ phần lảnh thổ phía Nam sông Mỹ Chánh để các đơn vị Nhảy Dù rảnh tay vượt sông tái chiếm Quảng Trị.

    Ngày 24/5/1972 QĐ1 mở cuộc hành quân Sóng Thần 6/72 thăm ḍ bằng 2 mủi tấn công vào phía Đông và phía Nam tỉnh Quảng Trị : Mũi thứ nhất TĐ7TQLC đổ bộ vào bờ biển dọc theo “Dảy Phố Buồn Thiu”(tức là Hương lộ 555) phía Đông thành phố Quảng Trị. Mũi thứ hai gồm 2 Tiểu Đoàn 4 và 6 TQLC đổ bộ bằng trực thăng xuống giao điểm hương lộ 555 và 602, chạm địch khá mạnh với Trung Đoàn 18 CSBV. Sau đó các đơn vị TQLC rút về tuyến Mỹ Chánh.

    Trong lúc đó Cộng quân lại tấn công vào mặt phía Tây trong 3 ngày liên tiếp, với chiến xa và bộ binh tùng thiết chỉa mũi dùi vào tuyến của LĐ369TQLC. Một Tiểu Đoàn của CS đă tấn công vào vị trí của TĐ9TQLC trong khi hai Tiểu Đoàn CS khác mưu toan tràn ngập Tiểu Đoàn 1 TQLC. Cả hai cuộc tấn công nầy đều bị đẩy lui và hằng trăm xác công quân bỏ lại tại trận địa.

    Ngày 28/5/1972 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm chiến trường Quân Khu I, ban quân lịnh mở chiến dịch”Lôi Phong” tái chiếm Quảng Tri và thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận cho Đại Tá Bùi Thế Lân, Tư Lệnh SĐ/TQLC tại Huế.

    Trong ngày nầy, LĐ1ND sau khi giải tỏa An Lộc được không vận ra Huế tăng cường lực lượng chuẩn bị tái chiếm Quảng Trị. BTL/SĐND đóng tại An-Lổ, 17 cây số phía Bắc thành phố Huế, căn cứ Hiệp Khánh.

    Ngày 2/6/1972 một lần nửa quân cộng sản thuộc Trung Đoàn 66 có chiến xa yểm trợ đă vượt cầu ngầm tấn công vào TĐ11ND tại bờ Nam sông Mỹ Chánh, đồng thời địch cũng pháo dữ dội vào vị trí đóng quân của TĐ2ND tại căn cứ Nancy do 1 Đại Đội Nhảy Dù trấn giữ cầu phao bắt qua sông do Công Binh QĐI thiết lập.

    Nhờ chuẩn bị sẳn, Khi chiến xa địch vừa vượt qua sông càn vào tuyến pḥng thủ, các chiến sỉ Dù đă dàn chào bằng những loạt đạn M72, và XM202 chống chiến xa cùng Pháo binh yểm trợ. Các chiến xa địch lật gọng, những chiếc khác tháo chạy. Bộ binh VC nhào lên xung phong biển người, từng đợt bị rơi rụng v́ ḿn claymore, lựu đạn, đại liên ,tiểu liên thi nhau nhả đạn. Sáng sớm hôm sau, Cộng quân tháo lui bỏ lại chiến trường trên 100 xác, 5 tù binh bị bắt sống. 4 chiếc T54 bị bắn cháy, 7 chiếc khác c̣n nguyên vẹn bị tịch thu v́ xa đoàn bỏ trốn, tại bờ sông 9 chiếc nữa bi đâm vào nhau v́ hoảng loạn tháo chạy.Về sau, khi Trung Đoàn 4/2BB đến thay thế trấn giữ đồi Trần Văn Lư, các chiến sỉ TĐ11Nhảy dù bung rộng lục soát về phía Bắc tận sông Nhung đă phát hiện thêm nhiều chiến xa BTR85 do VC cất dấu trước khi tháo lui.( Các chiến xa nầy được đem về trưng bày tại căn cứ Hiệp Khánh)



    Ngày 8/6/1972,4 Tiểu Đoàn TQLC đă vượt sông Mỹ Chánh đánh qua phía Bắc mở cuộc hành quân Sóng Thần 8/72. Quân CS đă phản kích kịch liệt dọc theo hương lộ 555. Nhưng TQLC cũng đă mở rộng được tuyến bờ sông phía Bắc Mỹ Chánh.

    Ngày 18/6/1972 tiếp nối cuộc hành quân Sóng Thần 8/72, ba Tiểu Đoàn 1, 5 và 6 TQLC mở cuộc hành quân Sóng Thần 8A/72. Cộng quân tung bộ binh và chiến xa kháng cự dữ dội. BCH hành quân gọi phi pháo yểm trợ và pháo đài bay B52 can thiệp. Địch quân bị thiệt hại nặng, TQLC đă mở rộng pḥng tuyến phía Bắc sông Mỷ Chánh thêm 6 km.



    Tái chiếm Quảng Trị : Hành Quân Lam Sơn 72

    Ngày 28/6/1972, thấy chiều hướng thuận lơi, BTL/QĐI phát động kế hoạch phản công tái chiếm Quảng Trị. Trong kế hoạch nầy, nổ lực chính là SĐND , SĐTQLC, LĐ1BĐQ và Thiết Đoàn7KB. SĐIBB mở rộng ṿng đai an ninh về hướng Tây Huế nhằm tái chiếm các căn cứ trong khu vực thung lủng Ashau, Trung Đoàn 57BB hành quân lục soát vùng Quảng Nam. SĐ3BB trấn ngự chung quanh Đà Nẳng. Thành phần trừ bị gồm Trung Đoàn 4/2BB, Trung Đoàn 51 và Thiết Đoàn 17KB.


    Bản đồ hành quân tái chiếm Quảng Trị


    Theo kế hoạch hành quân của Quân Đoàn I:

    Ngày N-2 và N-1 ta khởi động một cuộc không tập toàn diện bằng hỏa lực B52, các loại hải pháo, phi pháo và pháo binh diện địa vào các vị trí tập trung quân của địch, các kho tàng cơ giới và các vị trí súng lớn của địch.

    Ngoài ra, QĐ I c̣n tung ra một kế hoạch hành quân nghi binh bằng một lực lượng Nhảy Dù sẽ nhảy xuống Cam Lộ và TQLC sẽ đổ bộ vào cửa Việt nhằm cắt đường tiếp vận của đối phương để đánh lạc hướng và gây hoang mang cho địch quân.

    Ngày N bắt đầu, SĐND bên trái QL1, SĐ/TQLC bên phải QL1, hai đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH tiến song song theo thế gọng kềm về hướng Bắc, từ bờ biển đến tận đỉnh núi Trường Sơn, đánh đuổi đoàn quân xâm lược khát máu CSBV tận sào huyệt của chúng. Theo kế hoạch hành quân nầy của Quân Đoàn I, SĐND sẽ được trực thăng vận vượt sông Mỹ Chánh rồi dàn quân tấn công về hướng Bắc. Nhưng để giữ bí mật, 5.00 giờ chiều ngày hôm trước, Trung Tướng Dư Quốc Đống thay đổi chiến thuật, không dùng trực thăng vận mà dùng cầu phao và xuồng máy M2 của Công Binh Nhảy Dù để chuyển quân sang bờ sông Mỹ Chánh.

    Để chuẩn bị vượt tuyến xuất phát, Thiếu Tá Lê Hồng, TĐT/TĐ1ND họp khẩn các cấp chỉ huy trong đơn vị và ban lệnh hành quân. Ông nghiêm trọng chuyển lệnh thẳng cho Bác Sỉ Phạm Gia Cổn, Y Sỉ TĐ1ND: “Theo ước lượng của BTL/SĐND cuộc hành quân nầy sẽ tổn thất ít nhất là 2/3 về nhân mạng vậy Bác Sĩ hảy chuẩn bị thuốc men và những dự pḥng cần thiết”.

    3.00 giờ sáng ngày 28/6, mở đầu cuộc hành Quân Lam Sơn 72, Đại Tá Trần Quốc Lịch LĐT/LĐ2ND điều động 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù vượt sông Mỹ Chánh. Tiểu Đoàn 2ND do Thiếu Tá Nguyễn Đ́nh Ngọc chỉ huy đi cánh trái, TĐ1ND do tân Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Hồng chỉ huy đi giửa và TĐ3ND ( Thiếu Tá Trần Văn Sơn TĐT) đi cánh phải.

    Có lẻ do tin t́nh báo nội tuyến, địch biết kế hoạch hành quân của ta nên tất cả súng pḥng không của CSBV ở bên kia bờ sông Mỹ Chánh đă sẳn sàng chỉa mũi lên trời định dàn chào các Thiên Thần Mũ Đỏ. Nhưng chúng không ngờ, trời vừa lờ mờ sáng, các Thiên Thần Sát Địch đă độn thủy sang sông một cách yên lặng và bất ngờ. Sau phát súng lịnh, từng đoàn, từng đoàn lính Dù hô xung phong vang trời, tấn công vào pḥng tuyến địch. V́ bị đánh bất ngờ các cấp chỉ huy Cộng Sản không kịp trở tay, hốt hoảng bỏ chạy. TĐ2ND đánh thẳng vào BCH Trung Đoàn 203 chiến xa của VC, tịch thu nhiều súng cối 61 ly và 82 ly cùng đạn dược, ba chiến xa T54 c̣n đang nổ máy, trong lúc TĐ1ND đă xông trận đánh xáp lá cà tiêu diệt hết các xạ thủ đang gh́m tay súng nh́n lên trời, và tịch thu được 14 khẩu đại bác pḥng không 12.7 ly & 2 khẩu 57 ly pḥng không với bệ ngồi xoay tṛn cho xạ thủ, cùng bắt sống 5 tù binh.

    TĐ3ND đi cánh phải sau khi vượt sông Mỹ chánh chiếm vùng Lương Điền ,Tân Tường, Trường Vinh đến tận phía Nam sông Ô-Khê để bảo vệ bải đáp cho 2 TĐ9ND và TĐ11ND. Khi vừa qua sông Mỹ Chánh TĐ3ND đă tiêu diệt 2 cán binh CS tịch thu 2 khẩu AK-47 và bắt được 3 khẩu pháo 105 ly mà địch đă lấy được của ta trước đây rồi dấu vào bụi tre. Sau đó TĐ3ND tiến về phía Bắc để tiêu diệt các chốt địch dọc theo Quốc Lộ I (Đại Lộ Kinh Hoàng) rồi mở mũi dùi về phía Đông để tái chiếm Quận Hải Lăng.

    Sáng ngày, TĐ9ND (Trung Tá Trần Hửu Phú TĐT) và TĐ11ND ( Thiếu Tá Lê Văn Mể TĐT ) được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung, hai Tiểu Đoàn Dù đi song song chiếm từng thước đất, từng cái hố, từng chốt địch, trên những dảy đồi trọc không một bóng cây dưới ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa. Chiến sĩ Dù phải vận dụng tối đa tai, mắt, hơi thở , trí óc rồi bằng lựu đạn, bằng dao gâm đánh cận chiến với địch.

    Ngày 2/7/1972 mở đầu giai đoạn 2, Trung Tá Lê Văn Ngọc tân LĐT/LĐIND trách nhiệm càn quét quân giặc doc theo phía Tây dưới chân dăy Trường Sơn, từ phía Bắc sông Mỹ Chánh qua sông Nhung đến La Vang dọc theo bờ sông Thạch Hản rồi vào Thị Xả Quảng Trị.

    Để cản bước tiến của quân ta, CSBV đă pháo hằng loạt đũ loại từ 130 ly,122 ly hỏa tiển 107 ly...Nhưng đoàn quân Mủ Đỏ vẫn không chùng bước trên đoạn đường dài 9 cây số đầy dảy những cảnh tượng chết chóc từ Giáp Hậu, qua Mai Đằng rồi đến La Vang Thượng.

    TĐ9ND chia quân thành 2 cánh tiến đánh vùng Tân Lê Phước Môn, trong trận nầy tất cả 4 Đại Đội Trưởng đều bị thương v́ pháo địch, Đại Úy Ngưu ĐĐT94 bị tử thương tại Tân Téo.

    TĐ11ND là trục chính của cuộc tiến quân, từ Hải Lâm cũng chia làm 2 cánh tiến chiếm mục tiêu là nhà thờ La Vang. Đường vào La Vang thật là hung hiểm, khi đến cầu Trường Phước, cách La Vang 2 cây số về phía Nam, Đoàn chiến xa BTR85 và PT76 chuyển quân của địch di chuyển trên QL1 ngược chiều với quân Dù.Quân TĐ11ND xung phong với M72 chống chiến xa, gọi Pháo Binh và không quân yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo, chiến xa địch quay đầu bỏ chạy, quân ta truy kích, chiến xa địch hoảng loạn khi qua cầu nên dồn đè lên nhau lật xuống sông.

    Trong khi đó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi làm TĐT được trực thăng vận xuống khu vực nhà thờ La Vang. Khi vào nhà thờ La Vang, TĐ7ND bắn cháy 2 chiến xa T54 cộng sản bố trí trước sân nhà thờ và sau 3 giờ kịch chiến, lực lượng Nhảy Dù đă làm chủ t́nh thế.



    Sau 5 ngày vừa đi vừa bứng chốt địch, buổi trưa ngày 7/7, TĐ3ND bắt đầu tấn công vào quận Hải Lăng. Thiếu Tá Sơn Tiểu Đoàn Trưởng cho các Đại Đội 31, 32 và 34 tiến dọc 2 bên QL1 theo đội h́nh chân vạt, trong khi đó Đại Đội 33 tiến dọc theo đường rầy xe lửa và “Đại lộ kinh hoàng”bứng chốt địch để cho các toán Công Binh dọn dẹp (ĐLKH). Khi Đại Đội 32 tới khu trường học, nằm lại án ngữ tại đây. Đại Đội 33 cặp theo tỉnh lộ 602 tấn công thẳng vào quận lỵ. Đich ở trong quận đường phản kích mảnh liệt, nhưng với kinh nghiệm chiến trường, Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ĐĐT/ ĐĐ33ND b́nh tỉnh gọi pháo binh và phi cơ yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo địch quân tháo chạy về hướng Bắc, TĐ3ND tái chiếm lại Quận Hải Lăng vào lúc 4.00 giớ chiều. Trong lúc điều quân tái chiếm quận Hải Lăng, Thiếu Tá Trần Văn Sơn TĐT chẳng may bị mảnh đạn pháo địch bị thương, Thiếu Tá Vơ Thanh Đồng TĐP/TĐ9ND về thay thế chức vụ TĐT/TĐ3ND.

    Ngày 8/7/1972 sau khi chiếm Hải Lăng xong, TĐ3ND được lịnh tiến về trước cùng TĐ8ND càn quét giặc cộng dọc 2 bờ Sông Nhung từ Đông sang Tây tới tận chân núi Trường Sơn. Trên đường hành quân, ĐĐ33ND đă phối hợp với một đơn vị của TĐ8ND do Đại Úy Trần Cao Khoan chỉ huy bên kia bờ sông, đă tiêu diệt được một đơn vị đặc công CS toan đặt ḿn giật phá cầu Trường Phước trên QL1. Bốn tên bỏ xác tại trận với 4 khẩu AK47 cùng bắt được một Thượng Úy VC tên Thanh mới 28 tuổi là TĐT Tiểu Đoàn 31 Đặc Công cộng sản.

    Hai ngày sau ( 10/7) Tiểu Đoàn 3ND lại tấn công địch quân trên ngọn đồi có độ cao 30m. trên nguồn sông Nhung. ĐĐ33ND được chỉ định, chia làm hai mũi ḍ lần theo thế chân vạt tiến chiếm mục tiêu. Khi toán khinh binh đi đầu chạm địch, toàn đại đội đồng loạt xung phong chớp nhoáng trong ṿng 10 phút giao tranh, Nhảy Dù đă làm chủ trận địa. Cộng quân hoảng hốt bỏ chạy để lại 2 xác chết, ta tịch thâu 3 súng pḥng không 37 ly bên cạnh có một xác trực thăng UH1-D của VNCH bị bắn rơi trước đây. Sau khi bung rộng ra lục soát t́m thấy thêm 2 khẩu đại bác 122 ly ṇng ngắn, rất nhiều đạn chưa kịp bắn, một máy phát điện và một xe cơ giới sửa chữa. Ngày hôm sau Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù cho 5 chiếc Thiết Vận Xa vào kéo 3 khẩu pḥng không, 2 khẩu đại bác 122 ly và chuyên viên Công Binh phá huỷ tất cả đạn đại bác.



    Tiêu Đoàn 5 Nhảy Dù tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị:

    Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu làm Tiểu Đoàn Trưởng, với 5 Đại Đội : Đại Đội 50 hay là Đại Đội Chỉ Huy, ĐĐT là Trung Úy Chiêu, Đại Đội 51 ĐĐT là Trung Úy Trương Đăng Sỷ, Đại Đội 52, ĐĐT là Trung Úy Hồ Tường, Đại Đội 53 ĐĐT là Trung Úy Thân, Đại Đội 54 ĐĐT là Trung Úy Dương, sau ngày giải tỏa An Lộc được không vận đến Huế và trú đóng tại căn cứ Nancy khoảng một tuần lể.Tại đây, Tiểu đoàn tái huấn luyện cho binh sỉ về chiến thuật đánh trong thành phố phân tán mỏng từng tổ ba người, cách thức ngụy trang khi di chuyển và thực tập bắn hỏa tiển TOW, M72, XM202…chống chiến xa.

    Ngày 5/7/1972, TĐ5ND di chuyển bằng đường bộ đến La Vang Tả rồi tiến về hướng Tây. Sau khi B52 trải thảm dọc bờ sông, TĐ5ND tung quân vào lục soát đến tận bờ sông Thạch Hản, thấy rất nhiều xác cộng quân tại hiện trường. Tiểu đoàn tịch thu được 2 khẩu pḥng không 37 ly.

    Ngày 9/7/1972, bàn giao khu vực lại cho TĐ7ND, TĐ5ND di chuyển về hướng Đông, băng ngang QL1, hôm sau dừng quân tại khu vực thôn An Thái cách cổ thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Tại đây BCH/TĐ lập sa bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tấn công Cổ Thành.

    Ngày 10/7/1972, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu triệu tập các Đại Đội Trưởng ban lệnh hành quân, Sỉ quan các Đại Đội có 3 ngày để huấn luyện và hướng dẩn binh sỉ thuộc quyền chuẩn bị tác chiến. Đặc biệt trong trận nầy yếu tố ngụy trang triệt để áp dụng.



    Ngày 11/7/1972 TĐ1TQLC được trực thăng vận đổ xuống hương lộ 560 cách TX Quảng Trị 2 km về hướng Đông Bắc để ngăn chận đường tiếp vận của địch muốn tăng cường cho lực lượng của chúng trong Cổ Thành. Hai trực thăng chuyển quân CH53 của Mỹ bị hỏa tiển SA-7 bắn rơi, 30 quân nhân TQLC và Phi Hành Đoàn bị tử trận.

    Ngày 13/7/1972 hai ngày sau, một đơn vị thuộc SĐ312CSBV với chiến xa yểm trợ đă tấn công vào TĐ1TQLC nầy. TQLC phản công quyết liệt bắn hạ hằng chục chiến xa địch và cho đến ngày 22/7 mới quét sạch quân CS tới cửa Việt.

    Sau ba ngày cho binh sỉ chuẩn bị học tập, đêm 14/7/1972, TĐ5ND bắt đầu di chuyển vượt con sông nhỏ bằng thuyền của Công Binh Nhảy Dù và tiến vào làng Tri Bưu dọc theo đường Nguyễn Hoàng, phía Đông Bắc Thị Xả. Tại đây cộng quân có đặt một chốt chặn tại nhà thờ Tri Bưu phản ứng báo động. TĐ5ND dứt chốt bằng cận chiến dể dàng để không gây tiếng động và đă giải thoát cho trên 10 D́ Phước bị chúng bắt làm con tin phục dịch và đở đạn cho chúng.

    Ngày hôm sau, TĐ5ND đă tiến đến sát bờ thành cổ, vẫn c̣n nguyên vẹn rào kẻm gai và hào nước bao bọc chung quanh. Công quân vẫn hoạt động b́nh thường v́ Nhảy Dù ngụy trang hoa lá trên người nên chúng không phân biệt được ta hay đối phương. Chúng lùa dân trên đường di chuyển về hướng Đông, có lẻ bắt dân đi theo để đở đạn cho chúng.

    Hôm sau, Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lịnh Sư Đoàn Nhảy Dù đă ra lịnh dùng đại bác 90 ly M41 gắn trên chiến xa M48 bắn thẳng để phá huỷ một góc phía Đông Bắc cổ thành làm cửa ngỏ cho các đơn vị Nhảy Dù xâm nhập vào bên trong.

    Ngày 17/7/1972 trong phạm vi trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù, các cánh quân đă được triển khai như sau : Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi chỉ huy đă kiếm soát được ṿ̣ng đai phía Tây thị xă, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ chỉ huy tiếp tục truy kích Cộng quân ở quanh khu vực Thạch Hản đến ngă ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, Trung Tá Trần Hữu Phú Tiểu Đoàn Trưởng và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhỏ Tiểu Đoàn Phó, là lực lượng ứng chiến trừ bị cũng đă kiểm soát được khu vực phía Nam thị xă. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Thành Tiểu Đoàn Phó chỉ huy đă làm chủ được chiến trường ở pḥ̣ng tuyến dọc phía Đông thị xả.

    Sau một thời gian quần thảo với cộng quân ở ṿ̣ng đai Cổ Thành, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đă quyết định tấn công thành Đinh Công Tráng bằng hai giai đoạn:

    Giai đoạn 1: Đưa một toán tiền thám xâm nhập vào trong thành, với nhiệm vụ là thám sát địa thế cũng như vị trí của địch quân bên trong cổ thành rồi báo cáo về Tiểu Đoàn. Giai đoạn này sẽ bắt đầu vào đêm 18/7/1972 .

    Giai đoạn 2: Cả Tiểu Đoàn sẽ đồng loạt tấn công vào Cổ Thành, và trong 2 ngày, phải đánh chiếm lại ít nhất là phân nửa chu vi bờ thành.

    Để thực hiện được kế hoạch trên, Trung Tá Hiếu đă quyết định thành lập ngay một toán "thám sát cảm tử" bằng cách tuyển chọn trong các quân nhân gốc người sở tại Quảng Trị t́nh nguyện, v́ sống tại địa phương nầy nên họ hiểu rỏ địa thế. Có rất nhiều chiến sĩ xung phong xin nhập vào toán cảm tử này nhưng chỉ có 6 quân nhân thuộc Đại Đội 51 được chọn: “Trưởng toán là Hạ sĩ Trần Văn Sáu, c̣̣n chiến sĩ được giao trách nhiệm cấm cờ VNCH trên mặt bờ Cổ Thành Quảng Trị là Binh 1 Hồ Khang.

    Chiều ngày 18/7/1972, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu cho tập hợp toán “cảm tử” để từ giă những chiến hữu thân thương quyết ra đi theo truyền thống “Nhảy Dù Cố Gắng”, Vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đă ban quyết định thăng cấp trước cho 6 cảm tử quân mỗi người lên hai cấp. Và́ đêm đến, toán cảm tử quân sẽ lên đường để đột kích vào Cổ Thành.

    Đêm đến, Giờ G đă điểm, toán cảm tử quân của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù vượt tuyến xuất phát lao vào bóng đêm đột kích vào thành. Từ vị trí xuất phát đến mục tiêu khoảng cách hơn 200 mét. Trung Tá Hiếu và cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn nín thở nh́n theo toán quân cảm tử đi vào bóng đêm và chờ đợi. Vào khoảng quá nửa đêm, toán cảm tử quân đă ḅ̣ lên được trên mặt Cổ Thành. Một bóng đen nhô lên giữa bầu trời và tung bay theo chiều gió. Đó chính là lá quốc kỳ VNCH mà Binh I Hồ Khang đă được lệnh mang theo khi xuất phát. Từ xa, các chiến sĩ Nhảy Dù vui mừng la lên:

    "Lá cờ dựng được rồi...?".



    Lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥ̣a đă tung bay trên mặt bờ Cổ Thành rồi kia. Đó cũng là một tín hiệu của toán tiền thám báo cho Trung Tá Hiếu biết nhiệm vụ của họ giai đoạn đầu đă hoàn tất và họ sẽ tiếp tục nhiệm vụ kế tiếp. Trong giây phút đó, bỗng nhiên có những tiếng hô dỏng dạc từ trên bờ thành vọng đến bên tai những người chiến sĩ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang gh́́m tay súng hướng về bờ Cổ Thành chờ đợi và trước mắt họ đă hiện rỏ bóng cờ. Tiếng Binh I Hồ Khang hô lớn :

    - "Nhảy Dù cố gắng - Nhảy Dù chiến thắng - Việt Nam Cộng Ḥ̣a muôn năm".

    Liền ngay sau đó quân CSBV tử thủ bên trong cổ thành đă tập trung hoả lực như mưa bắn xối xả vào toán cảm tử cuả TĐ5ND, Binh Nhất Hồ Khang và 3 đồng đội khác tử trận ngay bên bờ thành, chỉ có Hạ sỉ Sáu và Binh Nhất Tâm c̣n may mắn, hai ngày sau lần ṃ trở về lại chiến tuyến.

    Ngày 21/5 các đơn vị TĐ5ND được lịnh lui về vị trí củ để phi pháo hoạt động, Đại Đội 52 trên đường lui binh trở lại nhà thờ Tri Bưu bị quân CS phát giác nên cho một Trung Đoàn vây đánh và bắn theo bằng đại bác trực xạ không giật 82 ly. Các đơn vị Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đă tử chiến, tả xông hữu đột mới thoát khỏi ṿng vây của giặc. Thiếu Úy Trịnh Văn Bé bị tử thương và 56 quân nhân khác bị thương vong. Hai ngày sau các đơn vị lại tiến lên trở lại. TĐ5ND phát hiện và hạ sát hai tên tiền sát viên pháo binh VC bám theo sau Tiểu Đoàn.

    Ngày 25/7/1972, TĐ5ND tiến quân tái chiếm cổ thành. Để yểm trợ cho trận đánh quyết tử này, “Minh Hiếu” được tăng cường Đại Đội 111/ND của Tiểu Đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” do Trung Úy Đinh Viết Trinh “ba búa” chỉ huy đánh trợ lực từ hướng Tây Bắc vượt qua cánh đồng trống, tiến dưới làn mưa pháo địch, đánh thóc vào khu nghĩa địa làng Tri Bưu, chiếm đường Duy Tân để bắt tay với Đại Đội 52/ND do Trung úy Hồ Tường chỉ huy và để cùng đồng loạt tiến đánh chiếm lại Cổ Thành bằng mọi giá. Cạnh sườn phía Bắc Cổ Thành có Đại Đội 2/TSND do Đại Úy “Út Bạch Lan” chỉ huy tấn kích nghi binh trợ chiến.

    Đúng 3 giờ sáng, Đại Đội 51 do Trung Úy Trương Đăng Sĩ, Đại Đội Trưởng, làm nổ lực chính tiên phong đột kích lập đầu cầu trên mặt Cổ Thành, sau đó là ĐĐ52/ND do Trung úy Hồ Tường chỉ huy, nổ lực phụ trợ chiến, một Trung Đội của ĐĐ51ND đă cấm cờ lần thứ hai trên bờ tường cổ thành. Trước khi xuất quân, Trung Tá Hiếu lệnh cho các đơn vị trực thuộc nếu không tiến lên được v́ bất cứ lư do ǵ, các Đại Đội cố gắng rẻ sang phía trái sẽ có TĐ6ND trợ chiến.

    Khi b́nh minh vừa ló dạng, hai Đại Đội tiên phong / TĐ5ND dàn đội h́nh trên bờ thành chờ đợi xuất phát, trong khi 2 phi cơ A37 vào vùng triệt hạ khẩu đại bác trực xạ 82 ly của địch theo sự chỉ dẩn của trinh sát cơ OV-10. Tiếp theo đó Pháo Binh đang trải màn khói, chuẩn bị tác xạ yểm trợ…ngay khi đó, hai chiếc phi cơ Fantom Hoa Kỳ chúi xuống trút bom ngay trên đầu của các Đại Đội 51 và 52 ND. Sự việc xảy ra trước mắt của Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, trong khi ông cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang theo dỏi diễn tiến trận đánh quyết tử để sớm kết thúc giai đoạn 2, nhưng cũng không thể nào ngăn kịp. Muộn rồi!!! TĐ5ND gần như tan nát !. Với những khối bom năng đă thả xuống chính xác làm cho hơn 50% chiến sĩ Mũ đỏ ưu tú của TĐ5ND bị thương vong. Đại Đội 51 của Trung Úy Trương Đăng Sỉ chỉ c̣n 38 quân nhân sống sót, tất cả 5 Sỉ Quan của Đại Đội 52 của Trung Úy Hồ Tường đều bị thương và gần 50 HSQ và Binh Sỉ bị thương vong. Tổn thất nặng nề đó đă giáng một đ̣n chí tử lên nỗ lực tột cùng của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, và Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu phải ra lịnh cho các đơn vị trở lại tuyến xuất phát.

    ( Việc ném bom lầm nầy, có dư luận cho rằng là một sự cố ư từ cấp thẳm quyền nào đó muốn ngăn chận sự tái chiếm toàn bộ của QLVNCH. Và sau đó, trên hệ thống liên lạc Siêu Tần Số cơ hữu của SĐND chúng tôi đă nghe cuộc điện đàm ngắn giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lịnh SĐND và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh Quân Đoàn I như sau :

    - Trung Tướng Đống : Trưởng có thấy không ? trước khi tấn công vào mục tiêu, Tổng Thống Thiệu ra lịnh tuyệt đối không cho phá hủy cổ thành, đến khi vừa vào được trong thành th́ bom dội xuống trên đầu như thế nầy th́ đánh giặc cái ǵ đây. Đánh giặc như thế nầy th́ Tôi không đánh nửa, Trưởng cứ cho ai vào đánh th́ đánh đi.

    - Trung Tướng Trưởng : Thưa Trung Tướng được rồi, để sáng ngày mai, Tôi bay ra Sally gập Trung Tướng sẽ bàn định lại… )

    Ngày 27/7/1972 Tướng Trưởng trong cuộc họp với các Tư Lệnh chiến trường để duyệt xét tính h́nh chiến sự, ông đả cho biết là theo tin tức t́nh báo nhận được, cộng quân đă đưa thêm 2 Sư Đoàn CSBV vào vùng cận sơn Trị Thiên. Hai Sư Đoàn này sẽ tung vào mặt trận Quảng Trị làm lực lượng trợ lực cho Sư Đoàn 325/CSBV và Ông quyết định thay đổi lực lượng tấn công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Theo đó TQLC trách nhiệm khu vực duyên hải và mặt trận Cổ Thành Quảng Trị. Lực lượng Nhảy Dù trách nhiệm bảo vệ pḥng tuyến Thạch Hản, và khống chế lực lượng tăng viện của địch ở mặt trận phía Tây Quảng Trị. Đúng 12.00 giờ trưa, Đại Tá Trần Quốc Lịch LĐT/ LĐ2ND bàn giao khu vực trách nhiệm cho Đại Tá Ngô Văn Định LĐT/ LĐ258TQLC trong khi trận chiến hai bên đang giao tranh ác liệt giữa Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với 1 Trung Đoàn Cộng quân cố thủ trong Cổ thành. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù cũng lần lượt được thay thế bởi các Tiểu Đoàn/TQLC.

    Tiểu Đoàn 9 TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Kim Để chỉ huy hoán đổi cho TĐ11ND tại khu vực phía Nam thị xă, cạnh Quốc Lộ 1. Tiểu Đoàn 5 TQLC do Thiếu Tá Hồ Quang Lịch chỉ huy nhận lảnh trách nhiệm thay thế TĐ6ND tại ngă ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 3/TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh chỉ huy thay thế TĐ5ND tại làng Tri Bưu gần Cổ Thành Quảng Trị.

  9. #59
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Mùa Hè Đỏ Lửa : Mặt trận Quảng Trị
    P3


    Mặt trận phía Tây Quảng Trị :

    Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm chung quanh Cổ thành và Thị xả Quảng Trị cho lực lượng TQLC, SĐND mở mặt trận mới tấn công quân CSBV trong vùng rừng núi phía Tây thị xả Quảng Trị và phía Nam sông Thạch Hản, gọi là Động Ông Đô, để ngăn chận sự chuyển quân và tiêu diệt các ổ súng đại bác 122 ly, 130 ly thường pháo vào thành phố chung quanh cũng như yểm trợ cho cánh quân cố thủ của chúng trong thành cổ Đinh Công Tráng.

    Ngày 12/8/1972, Đại Tá Trương Vĩnh Phước LĐT/LĐ3ND mở cuộc hành quân trong vùng trách nhiệm cận dăy Trường Sơn. Việc tiến quân vào vùng nầy rất khó khăn v́ rừng núi trùng điệp, càng lên cao càng hiểm trở lại gặp thời tiết khắc nghiệt nên hỏa lực yểm trợ bị giới hạn rất nhiều. Tuy nhiên các chiến sỉ Nhảy Dù vẫn không chùng bước.

    Mở đầu chiến dịch, TĐ3ND từ bờ sông Nhung được lịnh tiến chiếm ngọn đồi 118 ở phía Đông căn cứ Barbara. Nơi ngọn đồi nầy địch quân dùng làm đài quan sát theo dỏi tất cả mọi hoạt đông quân sự của VNCH trong vùng từ Ái Tử, Quảng Trị đến quận Hải Lăng…

    Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù chia thành 2 cánh quân tấn công. Cánh thứ nhất gồm BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội 30 và Đại Đội 33 tiến chiếm đỉnh đồi 118 dễ dàng không gặp một sự chống cự nào của cộng quân, Đại Đội 32 án ngữ làm thành phần trừ bị và giữ an ninh bải tiếp tế và suối nước. Cánh thứ hai gồm hai Đại Đội 31 và 34 tiến về hướng căn cứ Barbara.. Cánh quân nầy gặp sự kháng cư mạnh mẽ của địch. Sau hai ngày quần thảo Cộng quân rút lui bỏ lại nhiều xác và vũ khí gồm súng cối 62 ly, đại liên 12,8 ly, và hằng trăm khẩu AK 47 và đạn dược.

    Ngày 14/8/1972 Đại Tá Nguyễn Trọng Bảo, Phụ Tá hành quân / SĐND và Đại Tá Hùynh Long Phi trên đường đến thăm vị trí đóng quân của LĐ1ND đă bị tử nạn trực thăng tại phía Đông Bắc cầu Mỹ Chánh, trên QL1 (khoảng đại lộ kinh hoàng).


    Vùng hành quân của SĐND tái chiếm Quảng Trị cuối năm 1972

    Trong ngày nầy, Tiểu Đoàn 3 ND nhận được tiếp tế tại đồi 118, Trung Đội 1/33ND do Thiếu Úy Toàn chỉ huy được chỉ định xuyên rừng mang tiếp tế cho 2 Đại Đội 31 và 34 đang trấn ngự trên lưng chừng núi giữa đường đến căn cứ Barbara..

    Đến 6.00 giờ sáng ngày 16/8 Trung Đội 1/33 của Thiếu Úy Toàn vừa trở về căn cứ sau khi phải di chuyển băng rừng suốt đêm th́ 2 Trung Đoàn của SĐ308 cộng quân ào ạt tấn công vào vị trí pḥng thủ của TĐ3ND trên đồi 118.

    Khởi đầu cuộc tấn công, vào lúc 6.00 giờ sáng Cộng quân áp dụng trận địa pháo kinh hồn pháo vào vị trí TĐ3ND sau đó dùng biển người tấn công vào mặt phía Tây căn cứ do 2 Đại Đội 30 và 33 ND trấn thủ. Các chiến sỉ Dù phản công quyết liệt, giao tranh từ sáng đến chiều. Thiếu Úy Lê Ngọc Bản SQTT, Chuẩn Úy Phạm Lê Phong Trung Đội Trưởng/ĐĐ33, TSI Trần Văn Dũng và Hạ Sỉ Truyền Tin Lê Thiều bị tử thương. Thiếu Tá Nguyễn Văn Định TĐP, Đại Úy Phạm Xuân Thiếp Ban 3, Đại Úy Dương Văn Xuân ĐĐT 30, Trung Úy Trần Văn Tâm Phụ tá Ban 3 bị thương. Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ĐĐT 33 bị thương hộc máu và Trung Sỉ Sỉ cận vệ cho Tiểu Đoàn Trưởng lảnh nguyên một quả đạn 75 ly trực xạ bị tan xác. Đến 6.00 giờ chiều, công quân thấy không thắng được và bị thiệt hại nhiều nên rút lui, các chiến sỉ Dù cấp tốc tu bổ lại công sự pḥng thủ, kiểm điểm quân số và trị liệu cho thương binh.

    Sáng sớm hôm sau 17/8 , địch quân tập trung quân đông đảo quyết dứt điểm ngọn đồi 118, vẫn áp dụng chiến thuật tiền trận địa pháo hậu xung biển người. Trước áp lực quá nặng của địch quân, BCH Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù cho Đại Đội 30 di tản tản tất cả thương binh ra khỏi cứ điểm về hướng Bắc. Đại Đội 33 ở lại tử thủ.

    Đại Đội 33 Nhảy Dù với quân số chỉ c̣n lại 70 người, kiên cường chống trả lại. Nhiều đợt xung phong biển người của địch quân bị rơi rụng bên ngoài rào pḥng thủ.. Đặc biệt ngày nầy Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đánh giặc không pháo yểm cũng không có không yểm, cũng không có tiếp viện, Nhảy Dù chỉ “đánh khô” vậy thôi. (Lư do là thời tiết xấu, hết đạn pháo binh, tiếp tế từ Đà Nẳng chở ra không kịp, c̣n phi cơ có lẻ cũng hết… đạn luôn ). Đến xế chiều, v́ áp lực cộng quân quá mạnh và quá đông lại không có pháo binh và phi pháo trợ giúp nên Thiếu Tá Vơ Thanh Đồng, TĐT cho lệnh Đại Đội 33 triệt thoái khỏi cứ điểm. Đến 5.00 giờ chiều, cộng quân đă tràn ngập căn cứ. Lúc nầy 2 chiếc Oanh tạc cơ A37 của Không Quân VNCH bay tới oanh tạc ngay giửa đỉnh đồi 118. Đại Đội 33 chỉ c̣n lại 43 người trong đó có 3 Sỉ Quan là Trung Úy Viên ĐĐT, Chuẩn Úy Đào Văn Oai, Chuẩn Úy Lê Thanh Vân, Trung Đội Trưởng.



    Chiều hôm đó, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được rút về ngọn đồi 30 với Đại Đội 32 và sáng ngày hôm sau rút ra Trường Phước, cạnh QL 1 để nhận tiếp liệu và bổ sung quân số. Sau khi được chỉnh bị, TĐ3ND trở lại trận địa án ngử ngọn đồi 90 dưới chân núi Động Ông Đô để cho các đơn vị Nhảy Dù khác tái chiếm căn cứ Barbara và Anne.

    Ngày 8/9/1972 LĐ3ND điều động TĐ8ND tái chiếm căn cứ Barbara.TĐ8ND chia quân thành hai mủi tấn công ban đêm vào hai phía Đông và Tây của căn cứ. Địch bị đánh bất ngờ khi c̣n đang ngáy ngủ. 2 Đại Đội TĐ8ND đă đột kích vào căn cứ một cách dễ dàng. Rất nhiều tù binh thuộc SĐ324CSBV bị bắt, hơn 20 xe molotova chở đầy lương khô, đạn dược bị tịch thu c̣n nguyên vẹn cùng nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng. Một Thiếu Úy ND bị hy sinh và một binh sỉ bị thương.



    TQLC Tái chiếm cổ thành:

    Ngày 28/7/1972 sau khi nhận bàn giao khu vực trách nhiệm từ LĐ2ND, Lữ đoàn 258 TQLC lập ngay pḥng tuyến sát với các vị trí của đối phương. Trận chiến càng ngày càng diễn ra khốc liệt. Đại bác Cộng quân ở bờ Bắc sông Thạch Hăn đă pháo kích liên tục, cùng lúc đó, súng cối của Cộng quân từ các vị trí gần Cổ Thành bắn từng đợt hàng trăm quả vào các vị trí chiến đấu của các đơn vị TQLC.

    Ngày 9/9/1972 trong khi Sư đoàn Nhảy Dù tiếp tục truy kích các đơn vị CSBV ở phía Tây Quảng Trị, th́ dọc theo vùng núi tỉnh Quảng Trị từ phía Tây Nam cho đến phía Tây Bắc, hàng loạt phi vụ B52 trải thảm lửa xuống các vị trí được ghi nhận là có cụm pháo binh và tập trung của Cộng quân. Cùng lúc đó, tại thị xă Quảng Trị, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đồng loạt tấn công CSBV từ nhiều hướng vào Cổ Thành Đinh Công Tráng.

    Từ ga Quảng Trị, tiểu đoàn 1 TQLC Quái Điểu do thiếu tá Nguyễn Đăng Ḥa chỉ huy đă điều động các đại đội xuất quân tấn công vào khu vực gần bệnh viện Quân Dân Y Hỗn Hợp và khu vực trường Bồ Đề.

    Tại ngă ba Long Hưng, tiểu đoàn 2 Thủy quân Lục chiến có biệt danh là tiểu đoàn Trâu Điên do thiếu tá Trần Văn Hợp làm tiểu đoàn trưởng đă tung 2 đại đội tấn công vào các chốt chận của CSBV trong làng Thạch Hăn nằm sát thị xă Quảng Trị về phía Nam, được bao bọc bởi những lũy tre xanh. Lợi dụng từng cụm tre, Cộng quân đă đào hầm theo chữ A và chữ T rất kiên cố để ngăn chận các cuộc tấn công của Việt NamCộng Ḥa.

    Các tiền sát viên Pháo binh đă điều chỉnh mục tiêu tác xạ cho từng khẩu pháo 105 ly với đầu đạn nổ chậm xê dịch từng 10 mét một (chứ không phải 50 mét theo quy định an toàn khi gọi Pháo binh bắn yểm trợ) để bật tung từng ổ kháng cự của Cộng quân.

    Một cánh quân của tiểu đoàn Trâu Điên từ ngă tư Quang Trung, Duy Tân với sự yểm trợ của Pháo binh và chiến xa M 48 đă tấn công “dọn sạch” các chốt Cộng quân ở bên đường Quang Trung, để từ đây đánh chiếm cụm điểm pḥng ngự của Cộng quân ở rạp chiếu bóng Đại chúng và các mục tiêu dọc theo đường Lư Thái Tổ, ở phía Nam Cổ Thành Quảng Trị.

    Tại hướng Đông Bắc, các tiểu đoàn 3 và 7 TQLC đă tiến chiếm các vị trí trọng điểm để tiến sát đến Cổ Thành. Tại phía Đông Nam, tiểu đoàn 6 TQLC Thần Ưng (do thiếu tá Đỗ Hữu Tùng chỉ huy) được giao trọng trách phải vào Cổ Thành bằng mọi giá.

    Tại pḥng tuyến ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Trị, ở khu vực quanh trục lộ tiếp vận của Cộng quân (hương lộ 560), lực lượng tăng cường cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến là liên đoàn 1 Biệt động quân đă gặp sự kháng cự mạnh của Cộng quân khi liên đoàn tung 2 tiểu đoàn bung rộng khu vực kiểm soát về phía Đông. Không quân Việt-Mỹ đă xuất trận để yểm trợ cho Biệt động quân đánh bật Cộng quân ra khỏi trận địa.

    Ngày 13/9/1972 Đại đội 5 tiểu đoàn 2 Trâu Điên từ ngă tư Quang Trung Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đă diễn ra quanh khu vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. Hai bên đă quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát mà CQ đă biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn TQLC này đă chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội h́nh tiến chiếm khu hành chánh gồm Ty Bưu Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh trưởng-nơi 1 đại đội Cộng quân đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ. Một cánh quân khác, đại đội 4 làm nỗ lực chính do đại bàng Long Hồ-đại đội trưởng chỉ huy đă tiến quân thanh toán các chốt địch dọc hai bên đường Phan Đ́nh Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt của CQ bố trí tại cơ quan USOM và Ṭa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại đội 5 của tiểu đoàn 2 Trâu Điên đă tấn công vào khu vực ṭa Hành chánh và Ty Tiểu học Quảng Trị nơi 1 trung đoàn CQ đặt bộ chỉ huy. Do các chốt bảo vệ xung quanh đă bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy CQ tại đây đă phải tháo chạy ra hướng bờ sông

    Ngày 15/9/1972 LĐ2ND mở cuộc hành quân tảo thanh VC vùng sườn núi phía Tây, nhằm mục đích mở rộng vùng hoạt động và càn quét các đơn vị Cộng quân lẩn khuất trong vùng cũng như ngăn chận địch tiến xuống vùng đồng bằng ở phía Đông.

    Cùng ngày nầy, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đă dàn hàng ngang đồng loạt xung phong tiến về hướng Tây cổ thành Đinh Công Tráng. Trong đêm 15/9/72, Cộng quân đă pháo dữ dội vào đội h́nh của hai tiểu đoàn này để yểm trợ cho thành phần CQ đang cố thủ ở đây. Gần rạng sáng, 4 đại đội TQLC nói trên đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của Cộng quân đă chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó đă bị đánh bật khỏi pḥng tuyến.

    Rạng ngày 16 tháng 9, lực lượng Thủy quân Lục chiến đă đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị xă Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đă bung ra lục soát và triệt hạ các chốt c̣n lại của CSBV. Đến 8 giờ, một toán Cọp Biển của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đă dựng quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho sự toàn thắng của Quân lực VNCH trong cuộc tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.

    Sau 4 tháng 16 ngày chiếm giữ Cổ Thành và thị xă Quảng Trị, Cộng quân đă bị đánh bật và tổn thất rất nặng. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 CSBV) với hơn 1,500 quân cố thủ trong Cổ Thành đă bị hạ gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ c̣n chưa đến 1 tiểu đội ( 10 người ) thoát chạy ra ngoài.

    Ngoài trung đoàn Triệu Hăi bị xóa sổ, trung đoàn 48 B thuộc sư đoàn 320 B CSBV- đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xă, cũng đă bị thiệt hại hơn 80% quân số.

    Theo ghi nhận của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chỉ trong trận chiến tại trung tâm thị xă Quảng Trị và Cổ Thành, có 2,767 Cộng quân đă bị hạ sát tại trận, 43 địch quân bị bắt sống. Về phía Thủy quân Lục chiến, trung b́nh mỗi ngày có 150 chiến binh Cọp Biên hy sinh. Chiều ngày 16 tháng 9/1972, sau khi đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị xă và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đă bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự của tàn quân CSBV trong Cổ Thành và nới rộng vùng kiểm soát.



    Mặt trận phía Tây Quảng Trị trước ngày ngưng bắn :

    Đầu tháng 10/1972, LĐ2ND điều động các đơn vị tái chiếm căn cứ Anne (Động Ông Đô). Để tái chiếm căn cứ nầy TĐ5ND tiến quân bên cánh trái, chạm địch nhiều lần cấp Đại Đội tịch thu nhiều đại bác 122 ly, 130 ly hỏa tiển 107 ly và bắt sống nhiều tù binh thuộc các Trung Đoàn 141 và Trung Đoàn 165 của SĐ324CSBV.Trong khi đó,TĐ11ND ngăn chận đường tiếp viện của địch quân từ phương Bắc đồng thời bảo vệ cạnh sườn bên phải để cho TĐ7ND làm trục tấn công chính vào đối phương.

    Động Ông Đô ( Căn Cứ Anne) là một dảy đồi trọc, rất ít cây cối. Đứng trên đỉnh đồi ta có thể quan sát từ chi khu Cam Lộ, Đông Hà đến thị xả Quảng Trị. Trước kia Căn cứ nầy có một pháo đội 155 ly do quân đội Mỹ thiết lập, sau nầy bàn giao lại cho Quân Lực Việt Nam CH. Vào mùa nầy thời tiết ẩm ướt, mây mù bao phủ suốt ngày nên việc tiếp tế và tản thương rất khó khăn. Sau khi VC chiếm giữ khu vực nầy, địch đă thiết lập hệ thống địa đạo cũng như hệ thống đường xá có thể di chuyển và điều động dể dàng bộ binh, cơ giới và chiến xa dọc theo khu vực phía Bắc sông Nhung đến đồi 24 phía dưới chân căn cứ. Bên trong căn cứ cộng quân ẩn núp trong những hầm hàm ếch nên rất khó bị tiêu diệt bằng phi pháo.



    Cuối tháng 10, TĐ7ND đă làm chủ t́nh h́nh từ khu đồi yên ngựa đến dảy đồi 24 tiến sát quanh chân núi bằng những trận cận chiến đẩm máu, giành từng thước đất, từng chiếc hầm hố cá nhân. Đến cả tháng sau TĐ7ND mới dứt điểm được căn cứ Anne hoàn toàn, bắt sống 30 tù binh thuộc Trung Đoàn 66 và Trung Đoàn 165 thuộc SĐ324CSBV tịch thu trên 300 vũ khí đũ loại kể cà súng cối 160 ly do Nga Sô chế tạo. TĐ7ND bị thiệt hại mất khoảng một Đại Đội. Sau đó đượcTĐ6ND lên thay trấn giữ căn cứ, TĐ7ND lui về tái trang bị và bổ sung quân số.

    Đầu tháng 11/1972, sau khi thay thế đơn vị bạn, TĐ6ND điều động một Đại Đội trấn đóng tại đồi 24 cách căn cứ Anne khoảng 1km để chế ngự khu vực đường thông thủy cũng như quan sát cả hai mặt Đông Tây.

    Để giành lại những vị trí đă bị Nhảy Dù chiếm giữ Công quân tung SĐ308CSBV với chiến xa yểm trợ liên tiếp trong 2 tuần lể tấn công vào căn cứ Anne. Nhưng TĐ6ND đă phản công quyết liệt và gây thiệt hại nặng nề cho đối phương, hơn 2 Tiểu Đoàn cộng quân đă bị loại khỏi ṿng chiến. 2 ĐĐT/TĐ6ND bị thương, khoảng 150 HSQ & BS bị thương vong.

    Đồng thời để yểm trợ cho lực lương cộng quân tấn công vào căn cứ Anne, nhằm cắt đứt nguồn tiếp liệu cho TĐ6ND. SĐ324CSBV tung một Trung Đoàn tấn công vào vùng phụ cận ở mặt phía Đông là dảy đồi 90 phía đưới căn cứ Barbara do TĐ3ND trấn đóng. Trận đánh tại đồi 90 rất khốc liệt. BTL/SĐND đă tăng cường TĐ8ND vào vùng hành quân cho LĐ2ND. Sau hai ngày tác chiến TĐ8ND đă chiếm giữ vị trí chiến lược 18 giữa TĐ3ND và TĐ6ND. Nhiều hầm vũ khí cộng quân đă chôn giấu tại đây như đạn súng cối 82 ly, 62 ly, hỏa tiển 107 ly, lựu đạn và đạn dược đũ loại khác.

    Giửa tháng 12/72, TĐ8ND tiến đánh căn cứ Suzie , khoảng 3 km phía tây căn cứ Anne và mở rộng vùng hoạt động kiểm soát đến bờ sông Thạch Hản.

    Đồng thời TĐ2ND cũng được điều động tấn công tái chiếm vùng Động Tiên cách Suzie khoảng 4 km về phía Tây Nam. Sau một tuần hành quân, TĐ2ND đă càn quét và làm chủ t́nh h́nh, tịch thu nhiều vũ khí và nhiều kho lương phạn như cá hộp, lương khô do Trung Cộng sản xuất.

    Đến cuối tháng 12/72 lực lượng Nhảy Dù làm chủ t́nh h́nh dọc bờ phía Tây dảy Trường Sơn. Vùng trách nhiệm của SĐND hoàn toàn được yên tỉnh trước khi hiệp định Ba-Lê được kư kết để người bạn đồng minh “dỉ đại”của VNCH được “tháo chạy trong danh dự.”

    Tháng 3/1973 Sân bay Ḥa Mỹ (tức căn cứ Evan do LĐ2ND trấn đóng) tiếp nhận các phi cơ C130 đáp xuống để chở các tù binh trao trả cho VC.



    Tài liệu tham khảo :

    - The Easter Offensive Of 1972 của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, TTQS/BQP/HK xuất bản năm 1980, Việt dịch Kiều Công Cự.

    - Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam với cuộc Tổng Công Kích Tổng Nổi Dậy 1972 của CSBV tại Vùng I CT.- Tài liệu tổng hợp của Cựu Trung Tá Trần văn Hiển TP3/SĐ/TQLCVN trên trang web www.tqlcvn.org.

    - Mặt Trận Cổ Thành Quảng Trị của Mũ Đỏ Trịnh Ân .

    - Thiên Hùng Ca QLVNCH của Phạm Phong Dinh xuất bản lần thứ nhất năm 2004.

    - Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản năm 2001

    - Đời Chiến Binh của Thiếu Tá Nhảy Dù Trương Dưởng, Tác giả xuất bản 15/5/1999.

    - Lời tường thuật của Trung Úy Thạch Hớn, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1/52ND hiện cư ngụ tại OC, CA.

    - Lời tường thuật của Đại Úy Nguyễn Văn Qúi, Trưởng Ban 3 /TĐTT/SĐND hiện cư ngụ tại San Diego CA.

    - Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.

    Đại Úy Vơ Trung Tín

    Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202

    Đại Úy Nguyễn Hữu Viên

    Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933

    Chúng tôi rất mong được đón nhận những ư kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót v́ vấn đề thời gian đă trên 32 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. email: votrungtin@hotmail.c om

  10. #60
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Trận chiến B́nh Long
    Đại Đội 4/52 Biệt Động Quân với B́nh Long Anh Dũng








    40 năm nh́n lại trận chiến B́nh Long trong phạm vi của một đại đội trưởng BĐQ đă tử thủ từ ngày đầu cuộc chiến mùng 6 tháng 4 năm 1972 đến ngày 5 tháng 7 năm 1972. Viết lại để tưởng nhớ đến 9 chiến hữu thuộc ĐĐ4 và tổng cộng 89 chiến hữu Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân đă hy sinh trong những ngày máu lưả này.
    Cuối tháng 3/1972 đang từ vùng hành quân Kampong Trabek trên lănh thổ Kampuchia, toàn bộ LĐ3 BĐQ được lệnh bàn giao cho SĐ25 BB rồi rút về tái trang bị và bổ sung quân số chuẩn bị cho một nhiệm vụ khác. Khi tiểu đoàn 52 BĐQ nghỉ dưỡng quân tại Suối Đá, cách chân núi Bà Đen chừng 3km, đại đội được phân ra làm hai cho đi phép 3 ngày mỗi đợt. Sau hơn một tuần, hầu như mọi quân nhân đă trở về đơn vị, tái trang bị đạn dược và với 7 ngày lương tươi (gạo, trái su, cá khô đù) sẵn sàng chờ lệnh hành quân.



    Th/uư Đoàn Trọng Hiếu tại căn cứ Krek ( Kampuchia) 1970

    Ngày 6 tháng 4 năm 1972, lệnh hành quân được ban ra, toàn bộ Liên Đoàn được tăng phái cho SĐ5 BB tại B́nh Long. Lúc này Việt Cộng đang gia tăng áp lực lên các Trung Đoàn 9 /SĐ5 và Trung Đoàn 52/SĐ18 tại Snoul (Kampuchia) và khu Bù Đăng – Bù Đốp.

    Đúng 12 giờ trưa, ĐĐ4/52 của chúng tôi là đơn vị đầu tiên cuả Liên Đoàn được trực thăng vận từ Tây Ninh vào An Lộc, B́nh Long. Khả năng tham chiến cuả đại đội lần này là 89 người, quân số mà kể từ ngày ra trường năm 1968 đến nay tôi chưa bao giờ thấy được ở đơn vị này. Lần này, chúng tôi phải xử dụng đến 12 chiếc trực thăng để chuyển quân, ngang qua không phận Dầu Tiếng. Nh́n dăy núi Voi và những cánh rừng cao su bạt ngàn bên dưới, tôi lại nhớ đến những ngày giày sô bê bết đất đỏ của vùng Long Khánh, đến những cơn run v́ sốt rét đă khiến Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân chúng tôi đang từ danh hiệu “Sấm Sét Miền Đông” đă được anh em đọc trại là “Sốt Rét Miền Đông”.
    Nh́n về hướng đông, đỉnh Bà Rá Phước Long thấp thoáng dưới những đám mây trắng. Sau hơn nửa giờ bay, đoàn trực thăng hạ dần cao độ, thị trấn An Lộc được bao bọc chung quanh bởi những cánh rừng cao su ngút ngàn đă hiện ra bên cánh trái. Trực thăng ṿng qua phiá Hớn Quản rồi chúi xuống sân bay An Lộc. Khi càng trực thăng vừa chạm mặt đất cũng là lúc hàng chục trái hoả tiễn rót vào An Lộc như thể chào đón chúng tôi. Phóng ḿnh ra khỏi phi cơ, cả đại đội lao vội vào các công sự pḥng thủ hai bên sân bay để tránh pháo. Đạn pháo vọt qua đầu rớt vào trong thị trấn. Ngày hôm sau được biết có một cô giáo chết v́ loạt đạn pháo này.
    Cũng như Tây Ninh, B́nh Long là một thành phố mà không khí chiến tranh luôn bao trùm suốt bao năm qua, không nhà nào không có hầm chống pháo kích kiên cố. Người dân quá quen với những tiếng “đề pa” xuất phát từ trong rừng, không la hét quưnh quáng như người dân ở một vài thành phố an b́nh khác, mà chỉ b́nh thản hô lớn “pháo kích” rồi chạy vào hầm phó mặc cho “Trời gọi ai nấy chịu”. Nếu có ai bị thương vong trong các cuộc pháo kích bừa băi này th́ họ xúm lại hỏi thăm chia buồn rồi sau đó mọi sinh hoạt lại trở lại b́nh thường.

    Sau khi pháo tạm ngưng, chúng tôi được lệnh tiến về phía đông bắc sân bay chừng hơn 500 thước, bố trí và đào hầm hố pḥng thủ tại đây. Sau đó, từng đợt đổ quân tiếp tục cho đến chiều tối th́ toàn bộ Liên Đoàn 3 BĐQ chúng tôi đă hoàn tất cuộc chuyển quân và các đơn vị đă vào vị trí pḥng thủ. Cả buổi chiều chiếc xe lam phóng thanh của Ty Thông Tin B́nh Long chạy qua lại phát đi lời kêu gọi cuả Đại Tá Trần Văn Nhật tỉnh trưởng B́nh Long “Đồng bào an tâm! Đă có các chiến sĩ Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân vào giữ an ninh và bảo vệ đồng bào. Ngày mai yêu cầu mọi sinh hoạt hăy trở lại b́nh thường”.

    Ngay sau lời kêu gọi th́ các đơn vị phải di chuyển ngang qua thành phố. Có nhiều nữ sinh mang kem và bánh kẹo đổ ra đường chào đón. Thật là cảm động và chí t́nh. Hầu như năm nào đơn vị chúng tôi cũng đều ghé ngang B́nh Long ít nhất một lần nên nơi đây đă trở nên quen thuộc. Cư dân B́nh Long đa phần là gốc Quảng B́nh, di cư vào Nam và được đưa lên đây định cư làm phu cạo mủ cao su từ thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Ngoài ra, trong các làng mạc, trong khu đồn điền c̣n có những người dân miền Bắc di cư vào từ thời “Bazanh mộ phu đồn điền”, đặc biệt là ở các Làng 5, Làng7 trên Quận Lộc Ninh cách B́nh Long 27 cây số về hướng Bắc.
    Cả tiểu đoàn được lệnh lập tuyến tử thủ hàng ngang. Những tin tức về số phận của các trung đoàn bộ binh đang bị vây khốn ở biên giới Việt Miên càng làm cho t́nh h́nh thêm căng thẳng. Cả đơn vị căng mắt chờ giặc suốt đêm.Tiếng “đề pa”của đạn pháo vào thành phố từ hướng đông (Hớn Quản) và từ hướng tây bắc nghe mỗi lúc một gần.
    Sáng ngày 07/4/72, chúng tôi được tin hai trung đoàn bộ binh rút lui, và được lệnh cẩn thận chờ đón anh em chạy về. Tôi nghe đâu buổi chiều có mấy chiếc M113 chạy về ngang qua cầu Cần Lê, nơi đây vẫn c̣n một đại đôi Địa Phương Quân trấn giữ.
    Đêm mùng 07/4/72, tin Quận Lộc Ninh thất thủ và tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 74 BĐQ Biên Pḥng hy sinh. Đại đội chúng tôi lại căng mắt chờ giặc suốt đêm. Hoả châu từ hướng Lộc Ninh lại nhiều hơn, địch cũng pháo vào thành phố nhiều hơn, lần này c̣n nghe cả như tiếng “đề pa” của 155 ly đầu bạc, có lẽ chúng lấy được cuả các trung đoàn bộ binh. Không biết trong hai đêm qua có bao nhiêu dân thường vô tôi chết v́ pháo của Cộng Quân. Tôi chỉ nghe tiếng khóc tiếng kêu gào vọng ra nghe quá năo nề. Lại một đêm nữa căng thẳng trôi qua.

    Ngày 08/4/72, tiểu đoàn chúng tôi hoán chuyển vị trí cho TĐ31 BĐQ, chúng tôi pḥng thủ từ nhà ga Hớn Quản trải dài xuống phiá nam là ngọn Đồi Gió. ĐĐ2 và ĐĐ1 pḥng thủ dọc theo khu đường rầy xe lưả, trong khi ĐĐ4 chúng tôi giữ đồi 169, cái yên ngưạ nối với Đồi Gió, và ĐĐ3 trấn giữ trên đỉnh Đồi Gió. Kể từ hôm nay đă bắt đầu có những cuộc chạm súng nhỏ vào ban đêm giữa các tiền đồn với đám trinh sát thăm ḍ đường cuả Cộng Quân.
    Đêm ngày 12/4/72, Cộng Quân tấn công Đồi Gíó và chiếm một phần ngọn đồi này. Sáng ngày 13/4/72, ĐĐ4 được lệnh tăng cường cho ĐĐ3 phải đẩy lui cộng quân bằng mọi giá để giữ vững ngọn đồi này. Đây là điểm cao có thể chế ngự cái trảng trống ở phía đông nam nơi được chọn làm băi đáp để đổ quân vào tăng viện cho An Lộc. ĐĐ4 chúng tôi đánh bọc lưng chừng đồi vào hông cuả cộng quân. Dưới sự yểm trợ cuả Không Quân đến khoảng 2giờ chiều th́ Cộng Quân phải bỏ chạy để lại hơn 10 xác.

    Trận tổng tấn công lần thứ nhất của Cộng Quân
    Đêm ngày 14 rạng ngày 15/4/75. Cộng quân mở màn trận đánh đầu tiên trên quy mô lớn vào An Lộc. Hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại từ hỏa tiễn 107, 122 đến pháo 130 ly, thậm chí cả pháo 105 và 155 ly chúng lấy được liên tiếp nă vào thành phố. An Lộc đă rung chuyển như có động đất, với một diện tích chỉ vỏn vẹn không đầy 1km vuông (khoảng 1.000.000 mét vuông) mà đă hứng chịu gần chục ngàn quả pháo trong đêm, chia đều ra th́ cứ cách 3 mét lại hứng một quả. Đến khỏang gần 4 giờ sáng th́ đoàn chiến xa cùng bộ binh địch hung hăn tiến vào thành phố từ 4 hướng.
    • Phía bắc từ ấp Be Moi đánh xuống dọc theo QL13 vào pḥng tuyến cuả một trung đoàn thuộc SĐ5 BB bên phía đồi Đồng Long và vào TĐ31 BĐQ bên phía sân bay An Lộc.
    • Phía nam từ dưới Xa Cam, Xa Cát dọc theo QL13 đánh lên vào pḥng tuyến cuả BB và Điạ Phương Quân.
    • Phía đông từ trong Quản Lợi đánh ra vào pḥng tuyến của TĐ36 BĐQ tại Sóc G̣n và TĐ52 BĐQ chúng tôi tại nhà ga Hớn Quản và Đồi Gió.
    • Phía tây từ trong Phú Lố đánh ra vào pḥng tuyến cuả một trung đoàn thuộc SĐ5 BB.
    Lần đầu tiên đối diện trực tiếp với chiến xa nên thoạt đầu hầu hết các đơn vị đều lúng túng. Tôi chỉ biết chiến xa địch đă lọt vào giữa thành phố, qua tiếng gầm rú ở phía sau lưng. Pḥng tuyến của đại đôi chúng tôi chỉ bị tấn công bằng bộ binh nhưng chúng bị chận đứng ở dưới chân đồi. Tôi bị mấy miểng B40 ghim vào cổ, nên vội vàng quấn băng cá nhân để cầm máu rồi tiếp tục chiến đấu. Đến lúc này đă có 4 bị thương trong đó có Thiếu uư Vũ Văn Nghị, là đại đội phó kiêm trung đội trưởng Tr/ ĐĐ2. Thấy không thể chọc thủng pḥng tuyến của chúng tôi được nên rạng sáng chúng đă rút lui.
    Tuy nhiên bên cánh trái trong khu vực Sóc G̣n, chiến xa của Cộng Quân đang tấn công mănh liệt vào pḥng tuyến của Tiểu Đoàn 36 BĐQ, đang chặn đường tiến của chúng từ hướng Quản Lợi vào.Đại uư Nguyễn Minh Tâm Đại Đội Trưởng ĐĐ1/36 BĐQ sau nhiều giờ quần thảo với Cộng Quân, cuối cùng v́ sức cùng lực kiệt, đă yêu cầu Không Quân đánh bom ngay trên pḥng tuyếnđể ngăn chặn sức tấn công vô cùng hung hăn cuả Cộng Quân. Kết quả hai chiếc T54 bị bốc cháy, vài chiếc khác cùng bộ binh địch tùng thiết phải tháo chạy, nhưng Đ/u Tâm và một số binh sĩ đă hy sinh trong đợt đánh bom cảm tử này.
    Ngày 16/4/72, Nhảy Dù tăng viện vào An Lộc. Từng đoàn trực thăng đổ xuống cái trảng trống hướng đông nam Đồi Gió. Khoảng 4 giờ chiều, tôi nhận được lệnh đón ĐT Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Dù, và sẵn sàng một trung đội để đưa ông vào gặp Tướng Lê Văn Hưng. ĐT Lưỡng cùng một số sĩ quan tham mưu khoảng mười người từ phía Sóc G̣n đi vào. Sau khi hộ tống ông vào BTL tiền phương th́ khoảng 6 giờ tối chúng tôi được lệnh giao lại pḥng tuyến cho Nhảy Dù và kéo quân vào thành phố. Lúc này trời đă xụp tối, địch đặt một cây thương liên ở hướng nam phía cuối con đường ṿng đai thành phố bắn ngược lên, nên phải mất hơn một tiếng đại đội mới băng qua được con đường. Vào đến BCH/TĐ tôi chỉ kịp nhận một cái phóng đồ thành phố với một khẩu lệnh ngắn ngủi từ Thiếu tá tiểu đoàn trưởng Lê Quư Dậu
    - Mày mang đại đội vào D34, bên trái mày là thằng đại đội 1 nó đă vào cái D35 từ chiều. Liên lạc hàng ngang tránh ngộ nhận, hiện giờ Việt Cộng nó đă ở nhiều nơi trong thành phố. Dặn ḍ con cái phải thật cẩn thận.


    Phóng đồ mặt trận khu vực phía bắc An Lộc
    Tôi nh́n vào cái phóng đồ, từ BCH/TD phải băng qua hướng tây hai con đường rồi quẹo phải lên hướng bắc qua một con đường nữa mới đến cái D34 nằm bên tay trái. Không kịp giơ tay chào, tôi chỉ nói một câu ngắn ngủi “Tôi đi thiếu tá” rồi chui ra khỏi hầm, lệnh cho đại đội một hàng dọc chạy theo tôi. Khi cả đại đội sẵn sàng, tôi mở khóa an toàn cây M16 chạy đi đầu. Vừa ra khỏi chừng 50 mét đă nghe tiếng hô lớn rồi một ánh đèn pin quét về phía chúng tôi
    - Ai đó
    - Biệt Động Quân! Tôi trả lời
    - Đứng lại! Coi chừng ḿn.
    Có lẽ họ nhận rơ chúng tôi nên người cầm đèn pin bước ra khỏi lô cốt rồi hướng dẫn chúng tôi một đoạn chừng hơn 20 mét ra khỏi khu vực pḥng thủ cuả họ. Thấy quá nguy hiểm không thể tiếp tục chạy về hướng tây tôi chạy thẳng lên hướng bắc chừng hai trăm mét rồi cho đại đội dừng lại bố trí pḥng thủ. Th́ ra đây là doanh trại của một đơn vị nhỏ thuộc Liên Đoàn 73 Quân Y.
    Trong lúc đang lo pḥng thủ th́ được Chuẩn Uư Thập Lở báo cáo là nghe tiếng đào đất ngay bên cạnh cách xa không đầy 20 mét, tôi đánh liều ḅ lại gần lên tiếng
    - Biệt Động Quân đây! Ai bên đó đó
    - Đại đội 4/31 cuả đại uư Niếu
    - Nói với đại uư Niếu là có đại đội 4/52 bên này, nghe không?
    “Hú hồn! Mà sao 31 lại ở đây? Đây là chỗ nào? Hay ông Niếu cũng cứ chạy vào rồi tấp đại vào đây như ḿnh? Nhưng dù sao th́ ḿnh cũng an tâm.” Đại uư Niếu, năm 69 là đại đội trưởng cũ cuả tôi khi tôi vưà ra trường cũng tại đại đội 4/52 này, sau đó chuyển sang TĐ31 làm trưởng ban 3. Có lẽ ông xuống làm đại đội trưởng cho anh đại đội trưởng nào bị “rách áo” hay “đi phép dài hạn” đây chăng? “Cối Minh” đệ tử ruột cùng HS “Thường Trọc” và HS “Hoà râu” là hai người mang máy truyền tin lấy mấy cái bàn xếp chung quanh làm thành cái hầm nổi dă chiến , và t́m được một cái “nệm mút” đă rách tơi tả trải ra làm chỗ trú ẩn qua đêm. Trong khó khăn nguy cấp một chút che chắn tạm bợ cũng làm cho ḿnh vững tin, một chút phương tiện nhỏ nhoi cũng làm cho ḿnh hạnh phúc. Bốn anh em thầy tṛ chúng tôi chen chúc nhau ngả lưng chập chờn mặc kệ không cần đếm xỉa đến những tiếng “đề pa” và tiếng nổ chung quanh có khi chỉ cách vài chục thước,”Trời gọi ai nấy dạ” mà. Cả đêm địch pháo cầm chừng nhưng cũng chừng vài trăm quả
    Sáng sớm hôm sau, ngày 17/4/72, mở mắt ra tôi đă thấy ngôi nhà lầu 4 tầng to tướng ở phía trước mặt cách xa khoảng hơn trăm mét với cái bảng “Trường Quốc Quang”Tôi dở tấm phóng đồ ra đối chiếu, th́ ra cái D34 mà tôi phải đến chỉ nằm đối diện bên kia đường, đó là cái “Ty Phát Triển SắcTộc”. Đang định ra lệnh cho đại đội chuẩn bị di chuyển vào vị trí th́ đă nghe tiếng tiểu đoàn phó, Đại uư Huỳnh Công Hiển, gọi gặp ở đầu máy,
    - Ê Minh Hiếu! Mày đang ở đâu th́ cứ dậm chân tại chỗ, cho mấy thằng em chuẩn bị đón tao. Có lệnh mới cho mày.
    Không đầy 10 phút sau đă thấy ông cùng người truyền tin ḷ ḍ đến, ông thắc mắc hỏi tôi,
    - Làm sao đêm qua mày mang đại đội vào đây được? Sáng nay, tao đi qua mà phải nhờ mấy thằng ông điạ (ĐPQ) dắt ra khỏi cái băi ḿn.
    - Th́ tôi cũng liều mạng chạy đầu rồi cả đại đội theo sau, cũng nhờ họ hướng dẫn qua. May mà nó c̣n b́nh tĩnh nhận ra bạn, chứ ban đêm nó hoảng quá mà nổ súng th́ chỉ có thác.
    Sau đó, tôi cho ông biết là cái D34 nằm bên kia đường. Ông bèn lệnh cho tôi mang đại đội vào cái D34. Ngay khi vừa bắt đầu di chuyển th́ những tiếng “đề pa” lại vọng đến, không dồn dập ào ạt như trong đêm. Có hai người mặc cảnh phục Cảnh Sát Dă Chiến đi trên một chiếc Vespa chạy đến xin tôi chỉ cho con đường nào an toàn để đến bệnh viện tiểu khu t́m gia đ́nh. Tôi nói với họ là tôi không biết và khuyên họ nên t́m chỗ ẩn núp đợi ngưng pháo hăy đi, nói đoạn tôi cùng Đ/u Hiển băng qua đường để vào cái D34. Khi vưà mới bước chân lên lề đường bên kia th́ một tiếng rít cuả đạn pháo ngay phiá trước mặt sát đỉnh đầu. Kinh nghiệm cho biết là không ổn, chúng tôi lăn vội xuống lề đường, một tiếng nổ như xé rách màng tai ngay phía sau lưng.
    Tôi nh́n lại phía sau th́ thấy chiếc xe vespa văng lên lề đường đang bốc cháy c̣n hai người cảnh sát th́ thân xác văng mỗi nơi một mảnh, trái đạn đă rơi trúng ngay nơi tôi cùng đứng với họ dăm phút trước đây. Cũng không thể nấn ná ở đây thêm, tôi thúc đại đội ào nhanh vào cái D34. Đây là Ty Phát Triển Sắc Tộc, căn nhà đă bị phá huỷ, giữa nhà có một thi thể người Thượng đă trương ph́nh lên đầy ruồi nhặng bu quanh. Chung quanh nhà là những gốc soài to đến cả hơn một người ôm, cành gẫy la liệt ngổn ngang. Bên kia đường là cái trụ sở MACV có cái trụ antena cao ngất với cái đèn đỏ vẫn c̣n nhấp nháy. À! Th́ ra cũng v́ cái ngọn antena này nên bọn CS mới chọn nơi này làm trung tâm điểm cuả các trận pháo.
    Đ/u Hiển cho gọi Tr/u Lê văn Hiếu, đại đôi trưởng ĐĐ1, đang nằm án ngữ ở Ty Thông Tin đến họp. Nhiệm vụ cuả ĐĐ1 là phải chiếm lại cái nhà ba tầng lầu bên kia đại lộ Trần Hưng Đạo (đại lộ Hoàng Hôn). Sau này, tôi biết là căn nhà này là cuả đại uư Hiệp, hội đồng tỉnh mới xây lên. C̣n ĐĐ4 chúng tôi có nhiệm vụ tiến chiếm lại cái trường Quốc Quang.
    Tôi gọi các trung đội trưởng lại phân chia nhiệm vụ cụ thể, sau đó các trung đội thi hành theo kế hoạch. Mở đầu trung đội 3 của Thượng sĩ Lữ nằm ngay dưới đường cống đối diện cái bùng binh dùng M72 thổi vào đục thủng vài lỗ ở cái tường phía trước Trường Quốc Quang. Tức th́ một loạt đạn đáp trả từ trên lầu 1 một cách yếu ớt. Sau khi vài trái M79 được bắn vào các ô cưả sổ th́ lập tức một tiểu đội khinh binh cuả trung đội 1 được lệnh băng qua đường. Ngay lúc này, hoả lực địch từ những căn nhà đổ nát bên cạnh mới khai hoả mănh liệt. Hai binh sĩ hy sinh, số c̣n lại phóng lọt qua bên kia đường áp sát vào bức tường dùng lựu đạn thanh toán ổ kháng cự trên lầu1. Sau khi tiểu đội khinh binh của trung đội 1 ra dấu đă làm chủ t́nh h́nh toàn bộ ngôi trường th́ phần c̣n lại của trung đội 1 cùng vượt qua đường dưới sự yểm trợ hoả lực của trung đội 3. Sau đó trung đội 2 cuả trung sĩ I Quận tiêp tục băng qua đường lên pḥng thủ tại lầu 2 yểm trợ cho ĐĐ1 đang tấn công vào căn nhà ba tầng bên trái QL13. Đ/u Hiển, tiểu đoàn phó, với tôi cùng thêm khẩu đội đại liên M60 của Ban Chỉ Huy Đại Đội cũng nối theo sau đó.
    Cùng đi với chúng tôi lúc này có phóng viên quân đội Tăng Thành Châu. Vài binh sĩ bị thương được anh em kéo ngược về băng bó. Khi vào đến toà nhà th́ một khung cảnh hăi hùng hiện ra trước mắt, gần một trăm xác đa số là thường dân nằm chết chồng chất lên nhau, có vài xác anh em TĐ31 BĐQ và Sư Đoàn 5 BB. Dường như tất cả đều chết vào cái ngày chiến xa tấn công lần đầu tiên rạng sáng ngày 15-4-1972.
    Trung đội 1 dùng Trường Quốc Quang làm bàn đạp tấn công qua các căn nhà bên phải dọc theo Đại lộ Trần Hưng Đạo (Hoàng Hôn) nhưng không thành công, v́ bọn VC trong những căn hầm trú ẩn kiên cố kháng cự mănh liệt, đồng thời hoả lực yểm trợ của chúng từ phía sau bắn tới khiến trung đội 1 cứ loay hoay dọc bức tường ở cái sân bóng rổ không vượt qua được. Vài trái đạn đại bác cuả Cộng Quân bắn trực xạ vào các bức tường hướng bắc khiến thêm ba binh sĩ hy sinh và một số bị thương. Thoạt đầu tôi đinh ninh là chúng dùng 57 hay 75 không giật, nhưng sau này mới biết té ra là đạn 100ly từ chiến xa T54 chui vào ẩn ngụy trang sau những bức tường nhà cao cách không đầy trăm mét, vừa để tránh bom B52 vừa hỗ trợ cho lực lượng bộ binh địch.
    Lúc này bên cánh ĐĐ1 được thêm sự yểm trợ hoả lực cuả chúng tôi từ trên cao bên cánh trái nên cũng đă chiếm được căn nhà lầu ba tầng. Giao tranh vẫn dữ dội phía bên ngoài, cũng giống như trường hợp của chúng tôi nhưng mănh liệt hơn. Hàng hơn chục quả đạn đại bác trực xạ vào ṭa nhà khiến tường xung quanh đổ xập chỉ c̣n trơ lại các cột bêtông chống đỡ các sàn lầu.
    Trời sụp tối, nhận thấy không thể pḥng thủ tại ngôi trường v́ mùi hôi thối nồng nặc, tôi cho gài lựu đạn cũng như ḿn Claymore trên các tầng lầu cũng như chung quanh ngôi trường và chỉ để lại một toán tiền đồn ở phía mặt tiền dọc theo ống cống Đại Lộ Hoàng Hôn, c̣n toàn bộ đại đội rút về phía bên đây đường cũng pḥng thủ dọc theo ống cống ven đường. Tôi cùng hai người lính mang máy truyền tin t́m được cái hố rác mỗi bề chừng non hai mét. Chúng tôi lấy một tấm đan dựng vào vách hố tạo thành một chỗ trú ẩn tạm qua đêm. Sau khi kiểm soát pḥng tuyến và căn dặn binh sĩ từng hai người một thay phiên canh gác cẩn thận, cảm thấy quá mệt mỏi, tôi nằm trên chiếc băng ca đặt bên cạnh hố rồi chợp mắt trong cơn ngủ chập chờn.
    Trận tổng tấn công lần thứ hai cuả Cộng Quân
    Khoảng 2 giờ sáng ngày 18/4/72, một trận pháo, tập trung vào An Lộc kéo dài suốt mấy tiếng đồng hồ, gồm đủ loại đạn rót vào thành phố, từ hoả tiễn 107 ly, 122ly đến đại pháo 130 ly, cả 105 và 155ly bọn chúng lấy được cuả ta. Có những trái đạn chúng vội vă quên không gắn đầu nổ rớt xuống đường nhựa kêu loong coong. ớc tính có đến vài ngàn quả pháo mà nếu chia đều cho khoảng hơn 6000 ngàn người lính tử thủ th́ có lẻ mỗi người cũng chịu một quả. Khu vực có cái antenna cuả cơ quan MACV là trung tâm điểm. Cũng ngay bên cạnh nơi đây là pḥng tuyến của đại đội chúng tôi. Đạn chạm vào ngọn xoài nổ ngay trên đầu, đạn chạm đất nổ ngay cạnh hố không đầy ba thước.
    Ba thầy tṛ chúng tôi co rúm nấp đằng sau tấm đan. Hai máy PRC25 dựng ở hai đầu vừa liên lạc vưà dùng để chắn miểng, nhiều mảnh đạn văng vào tấm đan nghe “bụp bụp” đến ớn xương sống. Gần 5 giờ sáng khi pháo tạm lắng dịu tôi đánh vội một ṿng kiểm soát và đôn đốc tinh thần binh sĩ, nhờ chui dọc theo lỗ cống nên đại đội không bị thiệt hại. Tôi trấn an và lệnh cho mọi người sẵn sàng chiến đấu với địch, các cây M72 được dương ra sẵn sàng chờ đón chiến xa địch. Tôi nhắc nhở là không được bắn vào pháo tháp chiến xa v́ nó quá dầy, phải bắn từ bên hông phiá sau hay vào guồng kéo xích khiến chúng đứt xích không c̣n chạy được, bắn vào phiá sau để dễ trúng b́nh xăng nhất v…v…
    Vừa trở về đến vị trí cuả ḿnh th́ đă nghe tiếng xích sắt nghiến trên đường từ hướng Đài Kitô Vua tiến vào và từ hướng bắc cách hơn hai trăm mét tiến xuống. Th́ ra là sau trận tấn công bằng chiến xa lần đầu tiên ngày 14/4/72, các chiến xa c̣n lại đă chui vào ẩn nấp sau các bức tường chỉ cách pḥng tuyến chúng ta vài trăm mét, vừa để tránh bom B52 thường đánh cách pḥng tuyến khoảng non cây số, vừa để yểm trợ cho bộ binh của chúng.
    Từ trên đầu dốc, tôi nh́n về hướng Đài Kitô Vua thấy một đoàn chiến xa khoảng gần chục chiếc đang tiến tới, theo sau mỗi chiếc có bộ binh địch chạy theo. Giao tranh đang xảy ra khốc liệt giữa chúng với một lực lượng cuả SĐ5 BB. Khi chúng đến ngang Công Viên Tao Phùng nơi toàn bộ các khẩu pháo 105 và 155 ly c̣n lại cuả chúng ta đặt tại đây, vài tên lính CS khiêng con ngựa bằng kẽm gai chặn ngang. Ngay lúc đó, gần chục cây đại bác trong căn cứ trực xạ vào đội h́nh tấn công của chúng, khiến hầu hết số chiến xa này bị tiêu diệt. Đám lính VC vừa chết và bị thương nằm ngổn ngang trên đường. Số c̣n lại hoảng loạn chạy thục mạng, nhưng chiếc đi đầu thoát được phóng nhanh lên đầu dốc. Vừa ngang tuyến pḥng thủ của đại đội tôi th́ hai trái M72 từ trung đội 2 cuả Tr/SI Quận đă thổi trúng bên hông nó. Cái guồng kéo xích văng ra, động cơ rú lên rồi tắt. Ngay lúc đó Hạ Sĩ Tám (Tám lác) cuả ĐĐ1 nằm phía bên kia đường đă leo thoắt lên quăng lựu đạn vào trong. Chiếc chiến xa bốc cháy từ bên trong sau đó hàng chục quả đạn 100ly phát nổ.

    Chiến xa T54 bị ĐĐ4/52 bắn cháy tại ngă tư QL13 và Đại lộ Trần Hưng Đạo

    Ngay lúc này, ba chiếc T54 từ phía bắc tràn xuống tác xạ hung hăn vào dăy phố đổ nát sau lưng, trong khi chúng tôi vẫn nằm im dưới đường cống. Chúng đánh một ṿng quanh bùng binh, xích sắt ghiền nát lề đường nơi chúng tôi đang núp. Có lẽ chúng nh́n thấy chiếc T54 đang cháy và không thấy những chiếc khác nên hoảng hốt chạy ngược về hướng bắc v́ kế hoạch hợp đồng tác chiến cuả bọn chúng đă bị đập tan. Hai trái M72 từ trung đội 1 phóng đi vào chiếc xe sau nhưng cả hai quả đạn lại trật mục tiêu, một trái chạm mặt đường sau đít xe c̣n một trái không biết về đâu. Thế là cả ba chiếc chiến xa lại chui vào sau những căn nhà đổ nát và mất dạng.
    T́nh h́nh lúc này lại lắng dịu, đại đội lo chuyển vài binh sĩ bị thương về BCH/TĐ, may mắn không một ai tử thương. Tôi chạy sang phiá ĐĐ1 gặp Tr/u Lê Văn Hiếu. Ông buồn rầu cho biết hai ngày nay đ ại đội đă có 16 hy sinh và hơn hai chục bị thương, trong đó có thiếu uư Lê Văn Lăng đại đội phó. Tôi nói với anh là đại đội tôi cũng đă 5 tử trận và gần chục bị, thương trong đó cũng có thiếu uư Vũ Văn Nghị, đại đôi phó cuả t ôi. Tôi đă từng là đại đội phó đại đội 1 cho ông chỉ mới mấy tháng trước đây nên trước t́nh cảnh mất mát hy sinh của những anh em mà tôi đă từng chung sống khiến tôi thật ngậm ngùi. Nắm tay anh tôi chỉ nói mỗi câu ngắn ngủi “Cẩn thận”, rồi băng nhanh qua đường về đại đội.

    Chiều xuống, tôi mang ban chỉ huy đại đội sang nằm ở Ty Thông Tin, tại đây có một đường hầm nối với Công Viên Tao Phùng nơi đặt các khẩu pháo binh. Cũng có vài gia đ́nh tá túc tại đây v́ bên MAVC quá đông. Địch không c̣n “pháo bầy” (tiếng VC) như đêm qua nhưng cũng “pháo cầm canh” (tiếng VNCH). Tôi phải yêu cầu các gia đ́nh ngủ ngay dưới đường hầm để tránh pháo kích nhưng đồng thời cũng ngăn ngừa bọn tiền sát của chúng trà trộn trong dân điều chỉnh pháo hay đột kích lúc ḿnh sơ hở.
    Nửa đêm ngày 20-4-1972, bọn Việt cộng t́m cách chọc thủng pḥng tuyến cuả chúng tôi. Chúng nhào lên tiến chiếm trường Quốc Quang nhưng gặp phải ḿn bẫy chúng tôi gài lại mấy ngày trước nên bị thiệt hại, tuy nhiên toán tiền đồn của trung đội 1 nằm ở ống cống bên đường chạm nặng nên toàn trung đội phải sang tăng cường. Cuộc chiến diễn ra sau những bức tường, cả hai bên trao đổi qua lại bằng lựu đạn thỉnh thoảng mới có vài loạt đạn khi thấy rơ nhau. Trận chiến cứ thế giằng dai cho đến gần sáng th́ tạm ngừng. Lại thêm hai binh sĩ hy sinh trong đó có Hạ sĩ Sắc là con cuả ông Sáu, tuỳ phái làm chung với vợ tôi tại Ty Xă Hội Biên Hoà.
    Phía Đại Đội 3 bên cánh phải dường như chạm nặng, chúng dùng hoả lực chiến xa thổi xập các bức tường che chắn. Trung uư Nguyễn Ngọc Tỉnh, khoá 23 Thủ Đức, là đại đội trưởng hy sinh. Tuy nhiên bọn chúng cũng không vượt qua được “tuyến tử thủ” của ĐĐ3/52 BĐQ, đại đội ṇng cốt, cái xương sống cuả tiểu đoàn trong suốt nhiều năm từ trận Đồng Xoài năm 65 đến trận Kim Hải năm 67, nơi xuất thân của các đàn anh tên tuổi như Trần Thanh Thủy, Nguyễn Ngọc Quang, Đào Văn Năng v…v…
    T́nh h́nh chung là hầu như tất cả các đại đội đều có giao tranh từng giờ từng phút, v́ cả hai bên đều trong tư thế “cài răng lược”, có khác chăng là chạm nặng hay nhẹ mà thôi. Nếu so với các đại đội khác th́ ĐĐ4 chúng tôi chịu áp lực tương đối nhẹ hơn nên cũng thiệt hại ít hơn. Vài ngày sau, chúng tôi được lệnh đổi vị trí cho Đại Đội 1, v́ trong mấy ngày qua giao tranh khốc liệt nên giàn cán bộ Hạ Sĩ Quan và Sĩ Quan đă hy sinh hoặc bị thương nặng. Hai cán bộ duy nhất c̣n lại là Trung uư Lê Văn Hiếu và Thượng sĩ Đông thường vụ đại đội.
    Cuộc chuyển quân thay thế thật gay go, cứ mỗi lần băng qua đường là hàng loạt đạn AK hay RPD lại bắn xối xả. Đến chiều tối th́ cả hai đơn vị đă vào vị trí, tuy nhiên cũng không tránh khỏi tổn thất tuy nhẹ chỉ với vài binh sĩ bị thương. V́ t́nh h́nh di chuyển khó khăn, hơn nữa Bệnh Viện Tiểu Khu mấy hôm nay đang là điểm tập trung pháo của địch nên chỉ trường hợp quá nguy kịch mới chuyển lên tiểu đoàn hay liên đoàn, c̣n nhẹ th́ băng bó nghỉ ngơi tại chỗ và tiếp tục chiến đấu.
    Last edited by alamit; 15-06-2012 at 10:28 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •