Page 9 of 33 FirstFirst ... 567891011121319 ... LastLast
Results 81 to 90 of 326

Thread: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

  1. #81
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần 3C




    C- Tại tuyến pḥng thủ phía Đông

    Sau khi hai trung đoàn 271 và 272 được rút về sáp nhập với đơn vị mẹ là Công Trường 9 ở phía Tây, lực lượng quân Cộng Sản Bắc Việt ở phía Đông chỉ c̣n lại Công Trường B́nh Long què quặt, binh lính đa số là người gốc Miên, tinh thần chiến đấu lại sa sút trầm trọng, Công Trường B́nh Long c̣n đảm trách thêm phần giữ an ninh Đồi Gió và Đồi 169 sau khi lực lượng chủ lực của Công Trường 9 và Công Trường 7 rút đi. Biết thế, Cục R cho lệnh rút Trung Đoàn Đồng Nai (Công Trường B́nh Long) (quân số c̣n khoảng trên dưới 700) thay thế bằng Tiểu Đoàn Đặc Công của Cục R hoán đổi ra tuyến đầu, Tiểu Đoàn Đặc Công Cục R được tăng cường cho 5 chiến xa c̣n lại của Trung Đoàn 203 chiến xa, làm mũi nhọn tấn công thẳng hướng vào Bộ Chỉ Huy cũ của Tướng Hưng (gần ga xe lửa) và một mũi dùi khác đảm trách bởi trung đoàn c̣n lại của Công Trường B́nh Long, nổ lực bên cánh phải.

    Sau khi ngưng tiếng pháo vào khoảng 11 giờ đêm cùng ngày, bộ binh và chiến xa bắt đầu mở cuộc tấn công đồng loạt dọc theo tuyến pḥng thủ của Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà, mạnh nhất là cánh trái tiểu đoàn đặc công Cục R và các chiến xa T.54 đă thành công xuyên thủng được một lỗ trên tuyến pḥng thủ của Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà tận đến ngay vị trí Bộ Chỉ Huy cũ của Tướng Hưng trong đêm tối. Bọn chúng la inh ỏi hỏi nhau là t́m được Sư Trưởng của Sư 5 chưa, chúng chia nhau bới xới các bao cát cũng như các vỉ sắt, lục lọi cho đến trời sáng mà vẫn chưa t́m thấy Tướng Hưng đâu hết. Trời bắt đầu sáng, Cộng quân lộ nguyên h́nh trước các chiến sĩ Biệt Động Quân vài ba thước, là mục tiêu rất tốt làm bia cho các chiến sĩ Biệt Động Quân bắn hạ. Cả tiểu đoàn đặc công Cục R phải tháo chạy trở lui ra với sự thiệt hại nặng nề, c̣n các chiến xa T.54, trong đêm tối, ủi bừa vào trong dẫy phố sụp cống lay hoay cho tới trời sáng mà chẳng ngoi lên được.

    Một câu chuyện do một nhân chứng sống Biệt Động Quân tên là Nguyễn Văn Xuân, Hạ Sĩ, kể lại như sau: Khoảng 8 giờ sáng, ngày 11 tháng 5 năm 1972, trên con đường ven ranh thành phố có 1 T.54 sụp cống, cứ hụ ga de lui tiến tới cả chục lần mà không ngoi lên được khỏi rănh cống bên lề đường. Cuối cùng các cán binh CS phải mở nắp tháp chui ra ngoài quan sát và t́m cách cho xe ngoi lên, trong lúc loay hoay trước căn nhà 2 tầng cất bằng gỗ của gia đ́nh một cụ già trên 70 tuổi, làng xóm thường gọi ông là Bác Sáu. Ông Sáu thấy tiếng động cơ xe tăng cú hụ lên hụ xuống cả mấy tiếng đồng hồ trước mặt nhà ḿnh,cho đến trời đă sáng tỏ mà vẫn c̣n hụ. Đến khi trời sáng, ông Sáu mới lần ṃ ra trước ban công gỗ phía trước, cùng lúc đó ông thấy hai cán binh Cộng Sản đang cúi đầu xem cái xích sắt bị quấn kẻm gai và sụp cống,trong khi pháo tháp th́ mở toang ra, nh́n trong xe dường như c̣n 1, 2 tên ǵ nữa cũng đang bận làm việc ǵ đó! Ông vội lui vào bên trong, kề tai nói nhỏ với ba chiến sĩ Biệt Động Quân đang ẩn núp trên căn lầu: các con ơi, xe tăng Việt Cộng đang sụp rănh trước nhà ḿnh mà lại mở nắp pháo tháp ngay gần trước mặt ḿnh. Một chiến sĩ Biệt Động Quân định ḅ ra xem, ông Sáu cản lại: con mặc đồ rằn ri mà xuất hiện ló đầu ra ngoài,rủi tụi nó nh́n thấy được là chúng nó nổ súng liền. Ông Sáu đề nghị cậu nào có lựu đạn ? Một chiến sĩ Biệt Động Quân liền gỡ một quả lựu đạn M.26 đang đeo trên ngực, rút chốt và chỉ dẫn ông Sáu cầm chặt để tay sau lưng bước ra ngoài ban công run run giọng hỏi: các cháu cần ǵ không ? Cán binh Cộng Sản đứng bên dưới nh́n lên thấy một cụ già lụm khụm cũng không thèm trả lời. Ông Sáu bước ra thêm vài bước sát ban công và ngó xuống thấy 2 tên Cộng Sản đang lay hoay trước đầu xe… Nh́n thấy pháo tháp vẫn c̣n mở, ông Sáu liền bỏ nhẹ quả M.26 lọt ngay vào trong xe và vội lui ngay vào bên trong nhà, một tiếng nổ chát chúa và tiếp theo là nhiều tiếng nổ khác, rồi từng cụm khói đen bốc lên. Ông Sáu và 3 chiến sĩ Biệt Động Quân vội tụt xuống lầu ẩn núp rồi rút lui ra ngơ sau, lẩn ḿnh vào các khu phố kế tiếp. Khi tiếng súng im lặng trở lại, ông Sáu lần ṃ về nhà, thấy xác chiến xa bị cháy đen vẫn c̣n nằm đó bên trong có vài khối thịt cháy đen xông lên mùi khó ngửi, mặt tiền căn nhà cửa ông Sáu cũng bị cháy nám một phần.

    Tại mặt trận phía Đông, tiếng súng cũng từ từ im lặng. Biệt Động Quân đă quét sạch quân Cộng Sản Bắc Việt ra ngoài vị trí pḥng thủ, chúng chạy về hướng phi trường Quản Lợi bỏ lại chiến địa trên 300 xác chết và ba chiến xa T.54 bị cháy.

    Câu chuyện này chứng tỏ sự gắn bó giữa Dân và Quân Việt Nam Cộng Hoà, cùng sát cánh chống Cộng tới cùng.

    D- Tại tuyến pḥng thủ phía Nam và Tây Nam

    Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt gồm có 3 trung đoàn bộ binh: trung đoàn 141, trung đoàn 165, và trung đoàn 209 được tăng cường 1 tiểu đoàn của trung đoàn chiến xa 203 (T.54 và PT 76) và sư đoàn pháo số 69 trực tiếp yểm trợ cho mặt trận phía Nam, âm thầm di chuyển về phía Nam từ lúc khởi đầu trận chiến.

    Công Trường 7 v́ nhu cầu chiến trận, bắt buộc phải xé lẻ sư đoàn ra làm 3 mảnh: trung đoàn 209 phải đóng chốt như du kích đánh lẻ tại vùng suối Tàu Ô, trung đoàn 165 th́ ẩn trú trong các hầm đào sâu dưới đường rầy xe lửa cạnh Quốc Lộ 13 tạo thành những chốt ngầm rất kiên cố, c̣n trung đoàn 141, giỏi về cơ động tính tác chiến, nên được dùng làm lực lượng trừ bị ṇng cốt cho sư đoàn, cả 2 trung đoàn 209 và 141 đều bị thiệt hại khá nặng nề. Sau khi tấn công xong Đồi Gió, trung đoàn 141 được lệnh rút trở về đơn vị mẹ Công Trường 7,để tái bổ sung và tái chỉnh đốn lại hàng ngũ. Và xuất quân cùng trung đoàn 165, đồng mở mũi dùi tấn công vào phía Tây Nam thành phố.

    Sau khi dứt tiếng pháo, khoảng 12 giờ đêm ngày 11 tháng 5 năm 1972,Cộng quân chĩa mũi dùi tấn công vào tuyến của Tiểu Đoàn 8 Dù, đi đầu có 2 T.54 và 2 PT.76, vừa di chuyển vừa bắn như trâu điên. Có thể nói mũi dùi tấn công của thành phần Công Trường 7 từ hướng Nam cũng khá mạnh, nếu tại phía Nam mà do lực lượng Địa Phương Quân của Tiểu Khu với quân số 1 Đại Đội hay Tiểu Đoàn (-) th́ không làm sao chịu nổi đà tấn kích của gần 2 Trung Đoàn Bộ Binh của Công Trường 7, Cộng Sản Bắc Việt, tuyến pḥng thủ ắt phải vỡ tung. Nhưng xui cho Cộng quân, đụng phải thứ dữ,Tiểu Đoàn 8 Dù với khoảng trên 600 tay súng thiện chiến, pḥng thủ có hầm hố kiên cố. 2 T.54 đi đầu bị các chiến sĩ Dù bắn cháy ngay đôi ba phút đầu, c̣n lại 2 PT.76 th́ rồ ga chạy thoát thân lẩn trong rừng cao su, cố vấn Mỹ của Tiểu Đoàn 8 Dù cũng không buông tha, gọi Rồng Già AC.130 có đại bác 105 ly, thí cho mỗI chiếc PT.76 1 quả 105 ly bất động luôn, đoàn chiến xa nhiều chiếc phía sau không dám tiến lên nữa, liền tắt đèn pha, lẩn trốn trong bóng đêm, nhưng cũng không thoát khỏi mắt thần của các phi cơ AC.130 của không lực Hoa Kỳ lần hồi bắn cháy thêm hơn 14 chiếc. C̣n bộ binh Cộng quân th́ bị các chiến sĩ Dù bắn hạ không sót một tên khi tràn đến giao thông hào của lực lượng Dù, đến trời sáng tỏ, Cộng quân khi nh́n thấy rơ là đụng phải lính Dù th́ mất hết tinh thần, vừa bắn trả vừa tháo lui rút chạy,không lấn thêm được một tấc dất nào hết. Tại mặt trận phía Nam này cũng yên tiếng súng sau vài giờ giao chiến .

    Một tù binh cấp Tiểu Đoàn của Công Trường 7,được Tiểu Đoàn 8 Dù cứu sống, sau khi bị thương nằm rên la trên tuyến pḥng thủ, được y tá của Tiểu Đoàn 8 Dù băng bó vết thương ở bụng cứu mạng, tiết lộ là: tất cả các cán binh Cộng Sản Bắc Việt, mỗi khi lâm chiến với Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà rất sợ B52 oanh tạc, v́ bom rơi trên đầu từ trên cao rít gió đến bất th́nh ĺnh, và sức tàn phá thật là kinh khủng san bằng tất cả,kể cả các loại chiến xa, không thứ ǵ chịu nổi bom của B52 hết, kế đến là sợ đụng phải đơn vị Nhảy Dù, lúc ban ngày, sẽ không thoát được một mống nào hết, bắn như để, kế đến là đụng với Biệt Cách Dù, như những bóng ma, khi ẩn khi hiện, nhất là về đêm, lỡ sơ xuất ngủ quên một chút,khi mở mắt ra là thấy Diêm Vương đứng ngay trước mặt.

    Bây giờ cả ba thứ đó đều có mặt tại chiến trường An Lộc. Cộng Sản Bắc Việt thua là phải, bởi những ấn tượng trên.

    Với cuộc tấn công lần thứ tư này, Cộng quân quyết tâm thanh toán mục tiêu - Thị Xă An Lộc - bằng mọi giá, nhưng rốt lại, suốt 3 đêm 2 ngày quần thảo với các lực lượng Việt Nam Cộng Hoà cũng đều bị đánh bật trở ra toàn bộ, để lại trên chiến địa hàng ngàn xác cán binh và thêm gần 40 T.54 và PT.76 bị chôn vùi dưới trận mưa bom của 3 box B52 và Rồng Già AC.130.

    Sau đó, lực lượng quân Cộng Sản Bắc Việt rút trở ra ngoài, bổ sung thêm quân số, tái tổ chức lại hàng ngũ để chuẩn bị cho trận tấn công kế tiếp. Để tiếp tục duy tŕ áp lực, hàng ngày lẫn đêm Cộng quân vẫn tiếp tục pháo vào An Lộc gần 2,000 quả pháo đủ loại. (xem bản đồ số 8)

    Tổng kết trong đợt tấn công lần thứ tư này, ta ghi nhận như sau:

    Địch : Khoảng 2 trung đoàn bộ binh bị tiêu diệt, và khoảng trên 70% tiểu đoàn chiến xa của Trung Đoàn 203 bị bắn cháy hay bị chôn vùi dưới các trận oanh tạc của B52.

    Bạn : Tính chung cho tất cả các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà pḥng thủ là gần 2 tiểu đoàn bị loại ra khỏi ṿng chiến, nặng nhất là Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà chỉ c̣n lại có 1 đại đội.

    Thường dân : Chết và bị thương chưa đến 100 v́ nhờ vào hầm hố có nắp che và ở trong những căn nhà đúc bê tông.

    2. B̀NH LUẬN

    So sánh cường độ, sau 3 đợt tấn công của Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt và Công Trường B́nh Long, vào các tuyến pḥng thủ phía Bắc và Phía Đông của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, vẫn c̣n chưa quyết liệt bằng trận cường kích tấn chiếm lần THỨ TƯ nầy . Cả 2 Công Trường 9 và 7, được xem như là, đại đơn vị chính quy, thiện chiến nhất của Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt trong trận chiến, Công Trường 9 đảm trách tấn công tuyến phía Tây và Tây Bắc, tung toàn bộ Sư Đoàn cơ hữu,cộng thêm một trung đoàn hỗn hợp c̣n lại của Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, đă thành công xuyên thủng tuyến pḥng thủ phía Tây của Trung Đoàn 7 Bộ Binh Việt Nam, nhưng rất tiếc, bị lực lượng phản kích của Việt Nam Cộng Ḥa kịp thời chận đứng và sau cùng bị đánh bật ra bên ngoài tuyến pḥng thủ lúc ban đầu, để lại nhiều thiệt hại cả cán binh và chiến xa . C̣n tuyến pḥng thủ phía Tây Bắc,Cộng quân xua 2 Trung Đoàn bộ chiến, và trên 15 chiến xa,vào tuyến pḥng thủ do 2 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa trấn thủ, cũng chẵng may bị B52 làm cỏ, trước khi được đặt chân vào đến chiến tuyến của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa . Công Trường 7, đảm trách tấn công mặt phía Nam, mặc dầu đă cố gắng gom toàn lực tàn quân c̣n lại, để đánh ván bài liều, nhưng đụng phải lực lượng (khắc tinh) Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, nên đành phải tháo chạy, để lại chiến địa hằng trăm cán binh tử vong, và trên 10 chiến xa bị quân dù và C.130 của không lực Hoa kỳ bắn cháy .

    Trận chiến đến đây,có thể được xem như ngă ngũ, phần thắng lợi đang dần nghiên về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    Nói tóm lại, trong tất cả 5 đợt tấn công của quân Cộng Sản Bắc Việt vào Thành Phố An Lộc (Chiếu theo sự lượng định và nhận xét của Bản đúc kết quyển Sử Lược Chiến thắng An Lộc nầy), chỉ có HAI đợt tấn công chính: là đợt tấn công lần THỨ NHẤT, khởi diễn vào ngày 13 tháng 4 năm 1972, (do Công Trường 5 tại mặt phía BẮC và Công Trường B́nh Long quân Cộng Sản Bắc Việt tại mặt trận phía ĐÔNG), và đợt tấn công lần THỨ TƯ, khởi diễn vào đêm 10 tháng 5 năm 1972, (do Công Trường 9, tại mặt phía TÂY và Công Trường 7 quân Cộng Sản Bắc Việt tại mặt phía Nam), là có tầm vóc quan trọng hơn tất cả các đợt tấn công khác .

    Cả 2 đợt tấn công của quân Cộng sản Bắc Việt, vào những NGÀY, ĐÊM kể trên, chứng tỏ ư đồ của Cộng quân, cố quyết tâm san bằng và chiếm cho bằng được Thành Phố An Lộc, nhưng kết quả thực tế, dựa theo sử liệu ghi nhận, cho thấy Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt, bị thảm bại nặng nề, và buộc ḷng phải rút lui ra khỏi trận chiến .
    CHƯƠNG 8 - CUỘC TẤN CÔNG LẦN THỨ 5

    (ngày 19 tháng 05 năm 1972)

    1. DIỄN TIẾN

    Nhằm kích động tinh thần các cán binh đang hồi tuột dốc thê thảm, Cục R ban hành nghị quyết ăn mừng sinh nhật Hồ Chí Minh nhằm ngày 19 tháng 05. Khởi đầu đêm 18 tháng 05 năm 1972,Cộng quân phải cố gắng kích động tinh thần các cán binh thêm một lần nữa, để may ra lấy chiến công làm quà tặng mừng sinh nhật cho Bác.

    Cường độ của cuộc tấn công lần thứ 5, trông thấy giảm sút rơ rệt, về pháo cũng như về lực lượng bộ binh và chiến xa.

    Về pháo: Pháo 130 ly và các giàn phóng hoả tiễn 107 và 122 ly đă bị các phi vụ B52 oanh tạc phá huỷ hơn phân nửa, nên chỉ c̣n pháo trong đợt này trên dưới 2,000 quả. Trung Đoàn 203 chiến xa (-) c̣n khoảng 45 chiếc T.54 và PT.76, đă bị lực lượng Dù bắn cháy hết 2 T.54 và AC.130 hạ thêm 8 chiếc đủ loại, mặc dù tắt đèn trốn chạy, Lực lượng Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà cũng hạ được 2 T.54. B52 oanh tạc chôn vùi khoảng 20 chiến xa T.54 và PT.76. Như vậy là đă đi đứt hết 80%. C̣n bộ binh quân Cộng Sản Bắc Việt, chỉ c̣n lại mặt phía Tây, trách nhiệm của Công Trường 9 và mặt phía Nam trách nhiệm của Công Trường 7 (-), quân số của 2 Công Trường này đă hao hụt quá phần nửa. V́ thế, trong cuộc tấn công này, lực lượng Cộng quân chỉ c̣n có Công Trường 9 có mặt ở mặt phía Tây và Công Truờng 7 ở mặt phía Nam là có khả năng với tàn quân (khoảng ½ cán binh c̣n có thể tác chiến được mà thôi).

    Đêm 18 tháng 5 năm 1972, Cộng quân cố gom tàn quân, cố gắng tấn công thêm một lần nữa để mừng ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh (19-05), nhưng đă bị không quân chiến lược và chiến thuật dập tan từ trong trứng nước: 1 box B52 dập ngay từ điểm tập trung của Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt tại vùng 3 cây số Do đó, các công trường 9 lần này bị kiệt quệ hoàn toàn về bộ binh cũng như về chiến xa yểm trợ, c̣n Công Trường 7 th́ lực lượng đă tiêu hao trên phân nữa, nên đành âm thầm rút lui ra khỏi trận chiến .

    Tổn thất đôi bên: tính từ lần tấn công thứ nhất đến lần tấn công thứ năm

    Địch :

    a/ Về Bộ Binh : Hai trung đoàn bộ binh của Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt + 2 Trung Đoàn của Công Trường B́nh Long + 2 Trung Đoàn của Công Trường 9 Cộng + 2 Trung Đoàn của Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt và 1 Tiểu Đoàn Đặc công của Cục R bị loại khỏi ṿng chiến, tổn thất đến 70% quân số,

    b/ Về Thiết Giáp: Trung Đoàn chiến xa hỗn hợp T.54 và PT.76 + trung đoàn thiết giáp pḥng không di động bị thiệt hại 80%, + hai vị trí pháo binh dă chiến 130 ly + 2 vị trí các dàn phóng hoả tiễn 122 và 107 ly bị B52 oanh tạc chôn vùi.

    Chiếu theo một tài liệu của Hoa Kỳ được kiểm chứng, số cán binh CS có từ 35 đến 37 ngàn quân bộ chiến được tung vào chiến trận, ngoài ra sau những tổn thất của các đợt tấn công, Cộng quân c̣n được bồ sung thêm 15,000 quân, nâng tổng số quân bộ chiến của Cộng Sản Bắc Việt từ 50 đến 52 ngàn quân trong trận chiến tại Mặt Trận An Lộc nầy.

    Bạn:

    Trung Đoàn 8 + Trung Đoàn 7 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà + Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân + Lực Lượng Tiểu Khu B́nh Long: mổi đơn vị tổn thất khoảng 50% quân số, + Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tổn thất khoảng 35% quân số, riêng chỉ có Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là bị thiệt hại ít nhất, với 68/550 quân nhân các cấp, khoảng hơn 8%, toàn bộ Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh + Pháo Đội Dù của Lữ Đoàn 1 Dù bị pháo của Cộng quân phá hủy.

  2. #82
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần 3D




    2. B̀NH LUẬN, MẶT TRẬN AN LỘC SAU 5 ĐỢT TẤN CÔNG
    (HƯỚNG ĐÔNG, TÂY, TẤY NAM, NAM, BẮC, TÂY BẮC)

    A- Về chiến thuật:

    Cộng quân áp dụng chiến thuật “Bịt Pháo Công Đồn” Pháo tiêu diệt Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đồn trú trong Thị Xă An Lộc và Pháo Đội Sơn Pháo Dù trên cao điểm Đồi Gió, có nghĩa là khi mở màn cuộc tấn công, phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà không c̣n pháo binh yểm trợ quân bạn. Để bù lại, Không Quân Chiến Thuật (trực thăng vơ trang Cobra, oanh tạc cơ Phantom, Rồng Già AC.130 và Không Quân Chiến Lược B52 của Hoa Kỳ), đă tiêu diệt gần 2/3 quân số và chiến cụ của quân Cộng Sản Bắc Việt.

    Cộng quân áp dụng chiến thuật “ Biển Người ” c̣n được gọi là nướng người của Vơ Nguyên Giáp, tướng chỉ huy cả ba mặt trận của chiến dịch Đông Xuân (Mùa Hè Đỏ Lửa). Tướng Giáp đă sao y chiến thuật biển người của Trung Cộng trong trận Điện Biên Phủ 18 năm về trước (1954). Khi đó lực lượng Không Quân của Quân Đội Pháp c̣n chưa đủ hiệu quả để ngăn chận địch quân, các binh sĩ của Pháp và các sắc lính khác, c̣n chưa được trang bị đủ Tinh Thần, cũng như vũ khí c̣n thô sơ và không quen với lối đánh táo bạo biển người của quân Cộng Sản. Do đó Tướng thủ thành của Pháp là De Castries mới bị bắt sống. C̣n đối với An Lộc năm 1972 mặc dù hoả lực pháo binh của Việt Nam Cộng Hoà bị khống chế, bởi đại pháo tầm xa 130 ly và hoả tiễn 122 ly +107 ly, bù lại có không quân Hoa Kỳ yểm trợ tối đa với các pháo đài bay B52 là loại khắc tinh của chiến thuật biển người. Phụ thêm vào đó các trực thăng vơ trang Cobra có trang bị nhiều đại liên nồi tự động bắn liên hồi hàng trăm viên đạn trong 1 phút,các giàn phóng hỏa tiễn được tác xạ một cách rất là chính xác, và các Phantom F4, oanh tạc dội bom 500 cân Anh. Lợi hại nhất là các AC.130 có thiết trí đại bác 105 ly được điều chỉnh bằng radar (hồng ngoại tuyến) để diệt chiến xa địch,bách phát bách trúng, và một số đại liên 40 ly tự động đă gây kinh hoàng cho quân Cộng Sản Bắc Việt. C̣n về các chiến sĩ pḥng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà th́ đă quen với lối đánh này của quân Cộng Sản, nghĩa là khi bị pháo th́ núp xuống hầm, khi vừa dứt tiếng pháo, th́ chắc ăn như bắp là bộ binh địch đang theo đó mà tấn công vào. Như vậy là đứng lên để tác xạ, với đủ loại vũ khí tự động tối tân như súng trường M.16, đại liên M.60, và súng phóng lựu M.79, đặc biệt là súng chống chiến xa M.72 . Sau cùng là con chim đầu đàn, Tướng Lê Văn Hưng cùng tất cả các chiến hữu của các quân binh chủng tham chiến,kể cả dân trong thành phố An Lộc đă quyết tâm sống chết với quân thù.

    Cộng quân c̣n áp dụng “nhị thức chiến xa và bộ binh” phối hợp để tấn công vào thành phố nhỏ hẹp An Lộc. Đây là lần đầu tiên quân Cộng Sản Bắc Việt xử dụng chiến xa trên chiến trường Miền Nam, nên giữa bộ binh tùng thiết và chiến xa không có sự đồng nhất phối hợp hổ tương cho nhau . Đặc biệt trong trận tấn công đầu tiên, vào ngày 13 tháng 04 năm 1972, khi bị lọt vào trận địa pháo của Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Cộng quân mới nhận biết là An Lộc vẫn c̣n chống cự mănh liệt, trái với nguồn tin của cấp chỉ huy ḿnh là An Lộc đă được giải phóng .

    B- Về quân số đôi bên vào thời điểm cao và đầy đủ:

    1 Việt Nam Cộng Hoà (tử thủ) chống 6 Cộng Sản Bắc Việt.

    Địch : 4 sư đoàn (công trường) 5, 7, 9 và B́nh Long, khoảng 35 đến 37 ngàn cộng 15 ngàn quân số bổ sung thêm, tổng cộng khoảng 52 ngàn cán binh.

    Bạn: Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (-): Trung Đoàn 7, Trung Đoàn 8, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và khoảng 500 chiến sĩ c̣n lại của Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Chiến Đoàn 52 Sư Đoàn 18 Bộ Binh, lực lượng Tiểu Khu B́nh Long, tổng cộng 8,650 chiến sĩ.

    C- Yếu tố tâm lư: thật sự đóng một vai tṛ quan trọng trong mọi lănh vực của đời sống con người và liên quan đến sự thành bại của một trận chiến.

    Cộng quân đánh giá sai lầm về sức đề kháng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Họ đă chiến đấu một cách dũng mănh trong suốt các mặt trận từ trận Lộc Ninh đến trận Cầu Cần Lê đến mặt trận phía Bắc An Lộc của Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà .

    Điểm tâm lư của Cộng quân lúc ban đầu, nghĩ rằng với chiến thuật tiền pháo (mưa pháo) hậu xung (biển người) cộng thêm hàng trăm chiến xa tối tân T.54 và PT.76 của Nga viện trợ, sẽ áp đảo được tinh thần và đánh tan được quân pḥng thủ ngay trận đầu tay, vào sáng ngày 13 tháng 04 năm 1972. Nhưng trên thực tế th́ trái ngược lại, v́ một lỗi lầm quan trọng, không có sự phối hợp giữa bộ binh và chiến xa,

    Để Chiến Xa di chuyển một ḿnh, đưa lưng cho các tổ chống chiến xa của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, xử dụng súng phóng hỏa tiễn cầm tay M.72, dễ dàng bắn hạ . Từ chỗ đó, tinh thần sợ sệt chiến xa địch trong ḷng các chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà không c̣n nữa. Vả lại tinh thần ham muốn lùng và diệt tăng địch đă tức tốc gia tăng theo cường độ lũy tiến, trong hầu hết các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đang tử thủ. Đó là một trong những nguyên nhân chánh yếu khiến cho quân xâm lăng Cộng Sản Bắc Việt phải chịu thảm bại trong trận chiến An Lộc nầy.

    Điểm tâm lư của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khi nhất quyết tử thủ dựa vào những nhận định như sau:

    1- từ phía Nam c̣n có đoàn quân tiếp viện ngày càng đến gần điểm hẹn (toàn bộ Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh của Quân Đoàn 4).

    2- các lực lượng thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà như Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù c̣n đang đươc trực thăng vận đổ vào chiến trường, để cứu nguy và tiếp hơi lực lượng tử thủ.

    3- trên ṿm trời An Lộc cả ngày lẫn đêm đều có các trực thăng vơ trang, các phản lực cơ tối tân Phantom F4, các AC.130, các pháo đài bay B52 của Không Lực Hoa Kỳ xuất hiện liên hồi, oanh kích và oanh tạc các đơn vị và vị trí pháo binh, cũng như các kho dự trữ đạn dược của Cộng quân.

    4- trên bầu trời An Lộc vẫn c̣n nhận thấy những cánh hoa dù tiếp tế, tràn ngập lương thực vũ khí đạn dược và thuốc men. Có nghĩa là chiến đấu tử thủ không lẻ loi một ḿnh, và sau cùng là nhận thấy cái gương hơn 1 triệu đồng bào Miền Bắc đă phải rời bỏ địa ngục trần gian để trốn chạy Cộng Sản vào Nam (hiệp định Genève năm 1954), và trận Tết Mậu Thân năm 1968. Cộng Sản đă sát hại và chôn sống hàng chục ngàn quân dân cán chính của Tỉnh Thừa Thiên (Cố Đô Huế của Việt Nam Cộng Hoà).

    Bây giờ nếu để mất An Lộc th́ Cộng quân sẽ tràn vào đến tận Thủ Đô Sài G̣n, và những vùng kế tiếp,trong đó có những gia đ́nh của tất cả các chiến sĩ tử thủ cũng như của các chiến sĩ đang tăng cường tiếp viện. Một con số thiệt hại do sự tàn sát của chế độ Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam, sẽ c̣n gấp nhiêu lần hơn năm 1954 và 1968.

    Từ Tướng Tư Lệnh Chiến Trường Nguyễn Văn Minh, Tướng Tư Lệnh Mặt Trận Lê Văn Hưng, cho đến các vị Lữ Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Khu Trưởng, càc Sĩ Quan Tiểu Đoàn Trưởng, Đại Đội Trưởng, Liên Toán Trưởng, Trung Đội Trưởng, các cấp hạ sĩ quan Tiểu Đội Trưởng cho đến từng binh sĩ của các đơn vị tham chiến và toàn thể trên 8 ngàn dân chúng Tỉnh B́nh Long, tất cả đều mang tâm tư quyết tâm tử thủ, không rút lui hay bỏ chạy dù rằng Cộng quân có giả vờ bỏ ngỏ phía Nam đi chăng nữa. Thà chết bây giờ chết vinh quang nơi trận chiến c̣n hơn phải chịu chết v́ tủi nhục trong gông cùm hay bị chôn sống trong tương lai dưới chế độ sắt máu của quân thù Cộng Sản, nếu không may có tử trận nơi sa trường bây giờ, cũng là để đổi lấy tự do no ấm cho con cháu trong tương lai vậy.

  3. #83
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần 4A
    CHƯƠNG 9 - MẶT TRẬN QUỐC LỘ 13


    NHỮNG TRẬN CHIẾN ĐẪM MÁU DỌC THEO QUỐC LỘ 13 :

    • Trận Snoul:
    từ ngày 24 tháng 04 năm 1971 đến ngày 31 tháng 05 năm 1971

    • Trận Lộc Ninh:
    từ ngày 04 tháng 04 năm 1972 đến ngày 07 tháng 04 năm 1972

    • Trận Cầu Cần Lê:
    từ ngày 07 đến 12 tháng 04 năm 1972

    • Trận chiến đầu tiên trong thành phố An Lộc dọc theo Quốc Lộ 13 :
    từ ngày 13 tháng 04 đến ngày 19 tháng 05 năm 1972

    • Trận Suối Tàu Ô và Xa Cam :
    từ ngày 07 tháng 04 đến ngày 08 tháng 06 năm 1972

    1. TRẬN SNOUL
    (24-04-1971 đến 31-05-1971)

    Quốc Lộ 13 Việt Nam Cộng Hoà được tiếp nối với Quốc Lộ 7 (Cambodia) nối liền đến thị trấn Snoul, 25 cây số về hướng Bắc, bên ngoài lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà, kéo dài về phía Nam trong lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà ngang qua Căn Cứ Hoả Lực Hoa Lư qua Quận Lỵ Lộc Ninh, xuống đến căn cứ hoả lực Cầu Cần Lê xuyên qua Tỉnh Lỵ Tỉnh B́nh Long, qua Xă Xa Cam, Xa Trạch, Xa Cát, Tân Khai, Tàu Ô, Quận Lỵ Chơn Thành, đến căn cứ Lai Khê, Quận Bến Cát, thuộc Tỉnh B́nh Dương. (xem bản đồ số 9) .


    Chiếu theo nhật kư của Bộ Tư Lệnh Hành quân, Quân Khu 3, về Trận Snoul, khởi phát vào ngày 24 tháng 04 đến ngày 31 tháng 05 năm 1971 giữa Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và Sư Đoàn 5 (Công Trường 5) Cộng Sản Bắc Việt .

    Vào buổi giao thời lúc Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí bị tử nạn phi cơ, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh được chỉ định làm Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III, Chiến Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà bị Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt vây hăm tại cứ điểm Snoul, chờ viện binh măi không thấy, nên phải đột phá ṿng vây, và về đến Lộc Ninh ngày 31 tháng 05 năm 1971, bị tổn thất nặng, về nhân mạng và chiến cụ.

    Khi Tướng Minh được chỉ định thay thế cố Đại Tướng Trí , 2/3 lực lượng của Quân Khu III đang c̣n kẹt ở dọc trên Quốc Lộ 7 và ở phía Nam bờ sông Chu Long trong lănh thổ Miên : Chủ lực : Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn gồm Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh do Đại Tá Trần Quang Khôi chỉ huy,Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân do Đại Tá Nguyễn Văn Dương chỉ huy + Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân do Đại Tá Phạm Văn Phúc chỉ huy + Liên Đoàn 3 Công Binh Chiến Đấu do Đại Tá Vũ Tiến Quang chỉ huy, đă tiến đến phía Nam bờ sông Chu Long, 25 cây số phía Nam Quận Lỵ Kratié chờ cho Sư Đoàn Dù (Việt Nam Cộng Hoà) trực thăng vận bọc hậu tấn công ngay vào đầu năo của Trung Ương Cục MIền Nam (Cục R), vừa mới di chuyễn về từ vùng đồn điền cao su Mi Mốt, Katié cũng là điểm tiếp liệu hậu cần lớn nhất trong vùng, Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, do Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ Tư Lệnh Sư Đoàn, làm trừ bị tiếp ứng cấp thời khi cần, đang chực chờ dọc theo Quốc Lộ 7 (Miên), về phía Đông Bắc, tại Snoul có Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà do ĐạiTá Bùi Trạch Dzần chỉ huy, trú đóng theo thế bao vây địch thành một ṿng cung từ tỉnh Kompong Chàm phía Tây bờ sông Mékong bọc ṿng cung qua toàn vùng Chup, Đam Be, Mimot, Snoul, đến Kratié .

    Đó là di sản của vị Tư Lệnh tiền nhiệm, Tướng Trí để lại cho Tướng Minh, không một lời dặn ḍ hay hướng dẫn những điểm nội t́nh bí ẩn như : a/.- việc một viên tướng Mỹ Tư Lệnh Phó của Lực Lượng 2 Dă Chiến Hoa Kỳ, đến tận bản doanh của Quân Đoàn 3 tại Biên Hoà, vào gặp Tướng Trí, khuyên Tướng Trí nên bỏ kế hoạch đổ bộ lên Kratié, nếu chịu rút quân về th́ không quân Hoa Kỳ chiến thuật cũng như chiến lược và trực thăng sẽ yểm trợ, tản thương, cũng như tiếp tế đầy đủ xăng dầu cho đoàn cơ giới của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh. Sau khi nghe tướng Mỹ nói như thế, Tướng Trí hỏi lại, v́ sao trước đây Lực Lượng 2 Dă Chiến đă hứa sẽ cung cấp đủ trực thăng đổ quân và tiếp tế đủ cho cả một sư đoàn, bây giờ lại đổi ư, và ra điều kiện với tôi như vậy? Tướng Mỹ trả lời, chúng tôi có thể trả lời cho ông biết, chỉ v́ lư do chính trị, chúng tôi không thể giải thích thêm ǵ được nữa. b/.- việc vào giờ phút chót Tổng Thống Thiệu ra lệnh điều động Sư Đoàn Dù (-) ra vùng hoả tuyến Quân Khu I, để tham gia vào cuộc hành quân Lam Sơn 719, c/,- ư định của Đại Tướng Trí sẽ dùng Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà thay thế Sư Đoàn Dù tiếp tục đổ bộ qua Kratié, v.v.... Tướng Minh không hề hay biết. V́ lẽ Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí nhất định bắt cho bằng được các nhân vật đầu năo Cục R, nên bàn tay lông lá nào đó đă ra lệnh phải triệt hạ Tướng Trí bằng cách cho nổ trực thăng. Tướng Trí chết không một lời trăn trối cho bất cứ một ai.

    Khi Tướng Minh lên nắm quyền chỉ huy Quân Đoàn :

    a.- Về uy tín đối với các tướng lănh thuộc các quân binh chủng khác như Tư Lệnh Không Quân, chắc không nể v́ như Đại Tướng Trí được, với lời hứa trước đây cho Đại Tướng Trí gom hết các trực thăng đổ quân và tản thương cỡ cấp sư đoàn và các Chi- nook để tiếp tế xăng dầu cho đoàn thiết kỵ hàng trăm chiếc của 3 Sư Đoàn Không Quân, tại Biên Hoà, Sư Đoàn 5 Không Quân tại Tân Sơn Nhất và Sư Đoàn 4 Không Quân tại Cần Thơ. Bây giờ th́ chắc không c̣n được nữa.

    b.- Đối với lực lượng 2 Dă Chiến Hoa Kỳ th́ đă cho biết là sẽ không có trực thăng để giúp cho việc đổ quân cấp Sư Đoàn kể cả Chinook tiếp tế xăng dầu cho hàng trăm chiến xa M.41 và thiết vận xa M.113 nếu cứ tiếp tục tiến đến Kratié,và khi lâm trận th́ sẽ không có hỏa lực của Không Quân Hoa Kỳ ( Chiến Thuật cũng như Chiến Lược ), c̣n nếu đồng ư rút quân trở về th́ muốn thứ ǵ cũng có hết .

    c.- Ḷng quân phân tán

    Đây là yếu tố tâm lư rất quan trọng cho sự thắng bại trên chiến trường. Thật vậy, từ khi nghe tin vị chủ soái tài ba là Trung Tướng Đỗ Cao Trí bị nổ trực thăng, tất cả các chiến sĩ trong đoàn quân vượt biên, nhất là các cấp chỉ huy đều có tâm trạng hoang mang, ư chí quyết chiến quyết thắng bị giảm sụt trầm trọng, có thể nói là mất đi hết nhuệ khí chiến thắng của lúc ban đầu.

    Tóm lại, khi tổ chức một cuộc hành quân nào, dù lớn hay nhỏ, các yếu tố căn bản cần phải có là : a.- ḷng quân phải được phấn chấn, nghĩa là phải có tư tưởng quyết chiến thắng, từ các chiến binh cho đến chủ soái, b.- phải có đủ phương tiện trực thăng đổ quân đủ cho cấp số dự trù, c.- khi đụng trận th́ phải có hoả lực phi pháo yểm trợ đầy đủ, d.- Sau cùng là việc tiếp tế ( Đạn dược ,nhu yếu phẩm, nhiên liệu v..v..) . Tất cả các yếu tố nêu trên, đều không đạt được như sở cầu, của vị Tư Lệnh mới là Trung Tướng Nguyễn Văn Minh.

    Buộc ḷng Trung Tướng Minh, phải ra lệnh cho rút đoàn quân vượt biên trở về nội địa, để bảo toàn lực lượng của Quân Đoàn3/Quân Khu III.

    Trở lại Chiến Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Snoul :

    Trong khi đang dồn hết tâm trí lo rút đoàn quân chính, từ bờ sông Chu Long đến các cánh quân dọc theo Quốc Lộ 7 (Cam- bodia), tướng Minh triệu hồi Tướng Hiếu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa, nhờ lo nghiên cứu việc rút Chiến Đoàn 8 trở về nội địa càng sớm càng tốt, Tướng Hiếu tŕnh bày, là cần phải có thêm một lực lượng ít nhất là một Chiến Đoàn cơ động, kéo lên tăng cường để yểm trợ về mặt ( Hỏa Lực) giúp cho Chiến Đoàn 8 rút lui trở về, như thế mới được an toàn. Tướng Minh hứa, khi Lữ Đoàn 3 Xung Kích về đến nội địa, Ông sẽ tăng phái cho Sư Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ huy và thiết kế việc rút quân .

    Sau khi rời khỏi Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng Minh đang đặt tại Tây Ninh, vào ngày 23 tháng 05 năm 1971 Tướng Hiếu bay thẳng đến Snoul gặp Đại Tá Bùi Trạch Dzần để cho lệnh chuẩn bị thu các cánh quân cơ hữu tập trung chờ lệnh.

    Lúc đó Lực Lượng Xung Kích c̣n đang giáp trận với địch tại Đam Be và mới vượt được ṿng vây của địch, trở về đến căn cứ Thiện Ngôn thuộc tỉnh Tây Ninh vào sáng ngày 25 tháng 5 năm 1971.

    Tướng Minh liền chỉ định Đại Tá Khôi, cùng lực lượng Biệt Động Quân tùng thiết, di chuyển tức thời đến An Lộc để đặt thuộc quyền sử dụng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa. Trên thực tế, sau khi rút từ Đam Be về, th́ lực lượng xung kích Quân Đoàn chỉ c̣n chừng 2 Thiết Đoàn và gần 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân tùng thiết. Lệnh tăng phái, được giao cho Đại Tá Khôi đồng thời cũng được chuyễn đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào buổi trưa ngày 25 tháng 05 năm 1971. Giao toàn quyền điều động cho Tướng Hiếu kể từ giờ phút đó .

    Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Xung Kích cùng Biệt Động quân rời căn cứ Thiện Ngôn vào buổi trưa ngày 25 tháng 5 năm 1971, di chuyễn trên Quốc Lộ 22, đến Tây Ninh và dọc theo Quốc Lộ 1 xuống Củ Chi thuộc tỉnh Hậu Nghĩa rồi băng tắt đến B́nh Dương, từ B́nh Dương dọc theo Quốc Lộ 13 trở về hướng Bắc đến An Lộc, nơi điểm tiếp liệu và bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, tiếp tục tiến về hướng Bắc theo Quốc Lộ 13 xuyên qua Quận Lộc Ninh, vượt qua ranh giới Việt Miên, tiếp nối Quốc Lộ 7 rồi đến Snoul..

    Đoạn đường từ căn cứ Thiện Ngôn Tây Ninh đến cứ điểm Snoul, khoảng 250 cây số. Với tính cơ động của đoàn thiết giáp, chỉ cần di chuyển khoảng hai ngày đường .

    Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, kể từ khi nắm quyền điều động Lữ Đoàn 3 Xung kích, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa, bổng nhiên mất liên lạc với Lực Lượng của Lữ Đoàn 3 Xung Kích. Tướng Hiếu, liền điện báo sự việc mất liên lạc vô tuyến với đoàn Thiết Kỵ, về Quân Đoàn 3 .

    Cùng lúc này, Chiến Đoàn 8 cũng báo cáo về cho Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh là địch đang xiết chặt ṿng vây, pháo nhiều vào căn cứ hỏa lực Snoul, và Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa.

    Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 tức tốc cho L.19 bay lên t́m đoàn chiến xa, dọc theo lộ tŕnh di chuyển dự trù, từ Tây Ninh đến B́nh Dương và An Lộc, nhưng vẫn không thấy. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 điện về Bộ Tổng Tham Mưu theo hệ thống SOS, Bộ Tổng Tham Mưu trả lời là không bắt được tần số nào của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3.

    Nỗ lực t́m kiếm Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh vẫn liên tục, và kéo dài cho đến trưa ngày 29 tháng 5 năm 1971, khi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 cho L.19 lên vùng lùng kiếm, Lần này L.19 nhận được chỉ thị bay thấp để nh́n rơ những sự vật bên dưới. Khoảng 11 giờ trưa ngày 29 tháng 05 năm 1971, phi công phát hiện một chiến xa, lộ h́nh bên cạnh một cụm cây. Viên phi công liền lạng qua lạng lại nhiều lần, và báo cáo về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, cho biết đă t́m thấy đoàn xe tại một Ấp vùng quận Củ Chi.

    Măi đến khi thấy L.19 phát hiện, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh mới mở máy, bắt liên lạc vô tuyến b́nh thường trở lại, với tất cả các đơn vị được ghi trong đặc lệnh truyền tin hiện hữu.

    Quân Đoàn 3 tiếp tục theo dơi diễn tiến, và được biết, đến ngày 31 tháng 05 năm 1971, Lực Lượng Xung Kích mới lần ṃ vượt qua ranh giới Việt Miên, phía Bắc Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13, khi vừa tiếp giáp Quốc Lộ 7 về hướng Snoul, gặp được đơn vị đầu quân của Chiến Đoàn 8, đă bị Cộng quân chặn đánh tơi tả từ mấy ngày qua .

    Nói về Chiến Đoàn 8 bắt đầu ngày 25 tháng 05 năm 1971, chờ viện binh cho đến ngày 28 tháng 5, không thấy,trong lúc áp lực địch càng gia tăng đè nặng, nên Tướng Hiếu đành phải chấp thuận, theo lời yêu cầu của Đại Tá Dzần, cho rút lui với thành phần bộ binh cơ hữu của Chiến Đoàn.

    Sau đó, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 cắt cử một phái đoàn điều tra hỗn hợp để biết rơ sự việc. Sau khi đọc biên bản điều tra, và tường tŕnh của Đại Tá Khôi, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh, Trung tướng Minh nhận biết, sau trận Đam Be,( trên Quốc Lộ 7 Cambodia ), tinh thần chiến đấu của Đại Tá Khôi đă bị sụt giảm trầm trọng. Tuy nhiên, Đại Tá Khôi cũng là một quan tài giỏi, đă từng lập nhiều chiến công cho Quân Đoàn 3, thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Cho nên Trung Tướng Minh không đành truy tố Đại Tá Khôi ra Toà Án Quân Sự Mặt Trận, mà chỉ áp dụng biện pháp kỹ luật cách chức Tư Lệnh Lữ Đoàn, và theo lời yêu cầu của Đại Tá Khôi, Tướng Minh chấp thuận cho ông ta đi ngoại quốc tu nghiệp về Thiết Giáp.

    Tóm lại, di sản của cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí để lại cho Trung Tướng Nguyễn Văn Minh gồm có :

    Tại vùng phía Tây hướng Bắc Quốc Lộ 7 (Cambodia) : 3 Trung Đoàn của Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang bố trí quân dọc theo phía Tây Quốc Lộ 7 (Cambodia), Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 gồm có Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh, Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, Liên Đoàn 3 Công Binh Chiến Đấu, đang tập trung phía Nam bờ sông Chu Long .

    Hướng Đông Bắc có trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang án ngữ tại vùng thị trấn Snoul. Tướng Minh phải chu toàn nhiệm vụ rút quân cả hai nơi phía Tây cho lệnh triệt thoái trước rồi đến phía Đông Bắc giao cho Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Hiếu toàn quyền điểu động Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn cho việc triệt thoái Trung Đoàn 8 Bộ Binh cơ hữu 11 tháng sau đó (từ ngày 31 tháng 05 năm 1971 đến ngày 04 tháng 04 năm 1972), cũng dọc theo Quốc Lộ 13, Cộng quân đă trực diện xua 4 Sư Đoàn, đa số là quân chính quy Bắc Việt cùng với xe tăng và trọng pháo 130 ly, ồ ạt tấn chiếm quận lỵ Lộc Ninh thuộc tỉnh B́nh Long, thừa thắng xông lên tấn chiếm căn cứ hoả lực Cầu Cần Lê (bỏ trống), rồi đến bao vây An Lộc, thị trấn tỉnh B́nh Long, tḥng về phía Nam An Lộc dọc theo Quốc Lộ 13 một lực luợng cấp Sư Đoàn thiết lập các ổ phục kích, các chốt (kiền), các hầm hố sâu dưới đường rày xe lửa tại vùng Xa Cam và dọc theo suốt đoạn đường dài từ suối Tàu Ô đến Xa Cam, với mục đích bắt sống đoàn quân Việt Nam Cộng Hoà từ An Lộc tháo chạy về B́nh Dương (nếu có ), chận viện quân Việt Nam Cộng Hoà, cắt đứt đường giao thông tiếp tế cho An Lộc, và khi cần th́ dùng làn nỗ lực chính để tấn chiếm An Lộc .

    Những trận đánh dọc theo Quốc Lộ 13 rất là khốc liệt, tại hai cứ điểm Suối Tầu Ô, 12 cây số Bắc quận Chơn Thành giữa các thành phần: Một Trung Đoàn quân chủ lực của Công Trường 7 và 1 Trung Đoàn Địa Phương Cộng Sản Bắc Việt, với Lữ Đoàn 1Dù và Trung Đoàn 43 của Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (trong giai đoạn dầu), và với Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (trong giai đoạn 2), cứ điểm thứ hai tại Xa Cam khoảng 4 cây số Nam An Lộc giữa 2 Trung Đoàn chủ lực của Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt với Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh, và Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà + Tiểu Đoàn 6 hỗn hợp Nhảy Dù (cả trên 3,000 quân).

    MẶT TRẬN LỘC NINH,
    MẶT TRẬN CẦU CẦN LÊ,
    MẶT TRẬN TRONG THÀNH PHỐ AN LỘC DỌC THEO QUỐC LỘ 13.

    (Đă tŕnh bày ở đoạn trên)

    2. MẶT TRẬN TẦU Ô VÀ XA CAM

    Tại hai mặt trận này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong thế công, và lực lượng Cộng quân ở thế thủ (khởi đầu vào ngày 07 tháng 04 năm 1972 và chấm dứt vào ngày 08 tháng 06 năm 1972).

    Tương quan Lực Lượng đôi bên (giai đoạn 1)

    Địch :

    • Trung Đoàn 209 Công Trường.7, và 1 Trung Đoàn Địa Phương . Quân Cộng Sản Bắc Việt .

    • Sư Đoàn 69 Pháo gồm 1 Trung Đoàn Pháo 130 ly, 1 Trung Đoàn Phóng Hoả Tiễn 122 ly và 107 ly, 1 Trung Đoàn Cơ Giới Pḥng Không

    Bạn :

    • Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà

    • Thiết Đoàn 5 Chiến Xa M.41 và M.113

    • Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù.

    MẶT TRẬN SUỐI TẦU Ô
    (12 cây số Bắc Quận Chơn Thành)

    Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà duy nhất c̣n lại trong tay vị tân Tư Lệnh Đại Tá Lê Minh Đảo, cùng Trung Tá Trần Bá Thành, Trung Đoàn Trưởng chỉ huy, được tăng cường Thiết Đoàn 5 Chiến Xa Hỗn Hợp M.41 và M.113 do Đại Tá Trương Hữu Đức chỉ huy, xuất quân khởi đầu từ căn cứ Lai Khê mở đường lên quận Chơn Thành, trong ngày đầu, chỉ bị cản trở bởi pháo binh tầm xa 130 ly của địch bắn chận, các đơn vị diện địa cấp nhỏ của Cộng quân bắn khuấy nhiễu như kiểu du kích tại vùng Bầu Bàng, bị các chiến binh Trung Đoàn 43 Bộ Binh và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh rượt đuổi chạy ḷn quanh các giao thông hào đă được đào sẵn từ mấy ngày trước. Cuối cùng, Trung Đoàn 43 Bộ Binh và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà cũng đến được quận Chơn Thành vào chiều ngày 07 tháng 04 năm 1972, tạm hoàn tất khai thông trục lộ Quốc Lộ 13 từ Lai Khê đến quận Chơn Thành.

    Tiếp qua ngày 08-04, Trung Đoàn 43 và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh vượt quận Chơn Thành tiến về An Lộc, nhưng khi các đơn vị hỗn hợp Bộ Binh và Chiến Xa vừa đến con suối có tên là Suối Tầu Ô, th́ bị chạm súng nặng với đơn vị cấp trung đoàn của Cộng quân có công sự pḥng thủ hẳn ḥi, và bị pháo tập rất nặng, buộc phải dừng lại bên nầy bờ suối, yêu cầu Pháo Binh tại Quận Chơn Thành bắn yểm trợ và Không Quân Việt Nam Cộng Hoà oanh kích, cuộc chạm trán kéo dài gần suốt ngày, lực lượng Việt Nam Cộng Hoà , không tiến lên được, bởi hàng loạt hầm hố kiên cố có nắp che pháo, chi chít khắp nơi trên hướng tiến của quân Việt Nam Cộng Hoà, loại hầm hố này của Cộng quân được gọi là chốt kiền . Sau vài đợt xung phong của các chiến binh Trung Đoàn 43 Bộ Binh, thây người ngă gục, máu người bắt đầu đổ dẩy dẫy trên ǵ̣ng suối cạn, và rồi, tin không lành đưa đến giữa lúc chiều gần tàn, Đại Tá Trưong Hữu Đức bị trúng đạn pḥng không của Cộng quân đă tử trận, ngay trên trực thăng của Ông bay điều khiển đoàn cơ giới vượt qua suối đánh, bọc phá vỡ vài chốt kiền của Cộng quân. Cuộc tấn công phải khựng lại, và các Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, sau 3 lần tấn công vào chốt địch có chiến xa và thiết vận xa bắn trực xạ vào những chốt của địch quân, cũng phải rút lui trở lại v́ mỗi vùng chốt địch đều được bao trùm một trận địa pháo có toạ độ sẵn từ xa, khi được sự yêu cầu của cán bộ chỉ huy địch quân trên vùng trận địa đó, cho tới chiếu tối, các đơn vị bạn phải rời vùng cứ địa chốt, rút ra ngoài ṿng pháo, với sự hao hụt khoảng 30% quân số, cần phải được bổ sung sau 2 ngày chiến đấu liên tục từ Lai Khê đến Tàu Ô.

    Nhận được tin báo của Đại Tá Lê Minh Đảo, về t́nh h́nh chiến trận hiện hữu khó vượt qua được các chốt kiền chi chit trên trận địa rộng khoảng 1 cây số vuông xung quanh ấp Tầu Ô, và cái chết của Đại Tá Đức, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Hỗn Hợp, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 chấp thuận cho các đơn vị thu quân về phía Nam con suối để chờ bổ sung quân số, và nghiên cứu lại loại chốt kiền khúc mắc này.

    3. THẾ NÀO LÀ CHỐT KIỀN ?
    (xiềng chân cán binh bằng giây ḷi tói sắt)

    Chiếu theo lời một cán bộ trong một trại cải tạo, c̣n sống sót trong trận chiến Tầu Ô kể lại với các Chiến Sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, chốt kiền có những đặc tính như sau :

    a.- Chốt kiền được đào theo h́nh tam giác có nắp che, rất kiên cố, nắp hầm đủ sức chịu đựng pháo 105 ly của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và đạn nổ chụp của pháo tầm xa 130 ly của quân Cộng Sản Bắc Việt. Cho nên khi Pháo 105 ly của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắn dọn đường cho những trận xung phong, địch quân ở dưới hầm không bị sát hại, c̣n khi Quân Bạn Việt Nam Cộng Hoà vừa tràn được đến nắp hầm của chốt, là lập tức đạn pháo 130 ly nổ chụp trên đầu, nên bị thương vong rất nhiều trong giai đoạn sơ khởi,

    b.- Công sự đào địa đạo cũng khác hơn chốt thường, mỗi hầm có thể chứa đến cấp tiểu đội, theo kiểu giao thông hào 2 lớp bắt thành h́nh tam giác (3 cạnh) để hổ tương từng trung đội (3 chốt) liên kết yểm trợ cho nhau bằng hoả lực bắn thẳng. Nếu bị pháo của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắn sập một góc hầm nào đó th́ ngay trung tâm của chốt cũng như các cán binh Cộng Sản ở hai mặt kia không bị thiệt hại.

    c.- Hầu hết các tổ khinh binh ở dưới các hầm của các chốt kiền, đều bị xiềng chân với nhau từng tổ tam tam chế ba người.

    Lữ Đoàn 1 Dù vừa được tăng phái cho Quân Đoàn 3/Quân Khu III được lệnh di chuyển đến quận Chơn Thành, và vượt đến chốt Tàu Ô cũng lâm vào trận chiến cùng với Trung Đoàn 43 của Sư Đoàn 18.

    Lệnh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III chỉ thị cho Lữ Đoàn 1 Dù cùng với Thiết Đoàn 5 Chiến Xa lên tuyến đầu thay thế cho Trung Đoàn 43 rút về bảo vệ an ninh truc lộ 13 từ Lai Khê đến quận Chơn Thành.

    Tướng Minh ra lệnh cho Đại Tá Đảo bàn giao trận địa cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Đại Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy vừa mới được Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tăng phái, điều nghiên t́m cách phá chốt kiền .

    Đơn vị Lữ Đoàn 1 Dù và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà do Đại Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy thống nhất, cùng với các vị Tiểu Đoàn Trưởng 5, 6, 8 bàn cách phá chốt kiền của địch. Lực Lượng Dù và Thiết Kỵ liền thay đổi chiến thuật, phân tán mỏng chia cắt bao vây vùng chốt địch. Ban ngày th́ dùng đại bác của chiến xa M.41 và Không Quân oanh kích vào các chốt để công phá hầm hố của chốt khi nhận rơ vị trí, ban đêm th́ cho từng toán khinh binh dùng lựu đạn ḅ sát vào các chốt kiền tấn công chớp nhoáng rồi rút đi nhanh để tránh pháo địch. Theo chiến thuật tấn công bất thần và rút đi nhanh ra khỏi tầm pháo địch của các chiến sĩ Dù đă tiêu diệt và khoá im rất nhiều chốt kiền của địch trên trận tuyến, và cứ như thế cho đến hết đêm 13 rạng ngày 14 tháng 04 năm 1972, lực lượng Dù nhận được lệnh rút ra khỏi ṿng chiến,bàn giao trận địa lại cho Trung Đoàn 32 Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa, trở về quận Chơn Thành, tái bổ sung và chờ lệnh mới theo kế hoạch trực thăng vận đổ quân vào tiếp cứu cho An Lộc vào ngày 14 và 15 tháng 04 năm 1972. (20)

    Chú Thích : (20) Nhật kư hành quân của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3/ Quân Khu III năm 1972 ghi về trận An Lộc

    Mặt trận Suối Tàu Ô (giai đoạn 1) đến đây kể như được chấm dứt giữa 2 trung đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt và 2 đơn vị cấp Trung Đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có thiết đoàn chiến xa yểm trợ.

    Tổn thất đôi bên :

    Địch : khoảng 15 vùng chốt kiền của địch bị khóa im tiếng súng có thể nói là bị tiêu diệt hoàn toàn (khoảng trên 500 cán binh bị chôn vùi dưới các chốt bị đánh sập).

    Bạn : Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà thiệt hạI 30 % quân số, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thiệt hạI 10 % quân số, Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh : 5 Thiết Vận Xa + 2 M.41, và con chim đầu đàn Đại Tá Trương Hữu Đức cùng một số binh sĩ tử trận. (Xem bản đồ số 10)

  4. #84
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần 4B



    4. B̀NH LUẬN

    Quân Cộng Sản Bắc Việt trong thế thủ (đóng chốt), Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà ở trong thế công.

    Trong giai đoạn đầu, quân Cộng Sản Bắc Việt có hai trung đoàn để đóng chốt. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cũng chỉ có hai trung đoàn để nhổ chốt.

    Trong giai đoạn hai, quân Cộng Sản Bắc Việt cũng vẫn hai trung đoàn. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cũng có cùng một lực lượng tương đương.

    Kết quả : chốt của quân Cộng Sản Bắc Việt bị bứng. Quân Lực Việt Nam Công Hoà đă xuyên qua được chốt Tàu Ô.

    Có nghĩa là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà ở thế công với cấp số hai trung đoàn mà vẫn thắng được quân Cộng Sản ở thế pḥng ngự cũng hai trung đoàn.

    Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà được lợi điểm là có chiến xa, pháo binh và Không quân yểm trợ, nhất là áp dụng chiến thuật xa luân chiến ( luân phiên nhau tấn công hay đột kích, có thay thế và bổ sung). Trái lại quân Cộng Sản th́ bị chiến thuật xa luân chiến của Việt Nam Cộng Hoà tỉa hao ṃn lần, không có bổ sung, nên rốt cục đành phải bị tiêu diệt .

    TƯỚNG MINH THAY ĐỔI CHIẾN THUẬT ĐIỀU QUÂN

    Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh Quân Đoàn 4 tham chiến bắt đầu ngày 14 tháng 04 năm 1972, và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù cũng có mặt tại Lai Khê vào sáng ngày 16 tháng 04 năm 1972.

    Tương quan lực lượng đôi bên dọc theo Quốc Lộ 13 về phía Nam sau ngày 14 tháng 04 năm 1972 :

    Địch : Sư Đoàn 7 (Công Trường 7) gồm có 3 Trung Đoàn 209, 141, 165 Bộ Binh Cộng Sản Bắc Việt + 1 Trung Đoàn Địa Phương, 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 203 Chiến Xa Hỗn Hợp (T.54 và PT.76), Sư Đoàn Pháo 69 hỗn hợp gồm có Trung Đoàn Pháo 130 ly, Trung Đoàn phóng hoả tiễn 122 ly và 107 ly, và Trung Đoàn cơ giới pḥng không di động.

    Bạn : Sư Đoàn 21 Bộ Binh gồm 3 Trung Đoàn 31, 32, 33 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Thiết Đoàn 5 của Quân Đoàn 3 + Thiết Đoàn 9 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh Quân Đoàn 4 (Thiết Vận Xa M.113),Thiết Đoàn Thiết Vận Xa của Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 21 Pháo Binh và Tiểu Đoàn 21 Công Binh Chiến Đấu Việt Nam Cộng Hoà.

    Sau khi nghiên cứu t́nh h́nh, và trận thế tại chiến trường An Lộc và Tàu Ô cũng như t́nh trạng gia tăng chiến sự trong toàn lănh thổ Quân Khu III, nhất là tại hai quận Trị Tâm và Phú Giáo, tỉnh B́nh Dương, nơi trước đây Trung Đoàn 8 và Trung Đoàn 7

    Bộ Binh Sư Đoàn 5 Việt Nam Cộng Hoà rút đi để tăng cường cho chiến trường An Lộc vào trung tuần tháng 04 năm 1972, tại mỗi nơi được thay thế bằng 1 Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân của Tiểu Khu B́nh Dương, hoàn toàn không có lực lượng quân chủ lực trừ bị cho hai hành lang xâm nhập cũa Cộng quân xâm nhập vào lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà từ vùng Mỏ Vẹt (vùng giáp ranh lănh thổ của Miên ăn sâu vào Việt Nam Cộng Hoà cận kề bên tỉnh B́nh Dương và Hậu Nghĩa của Việt Nam Cộng Hoà). Tướng Minh và Bộ Tham Mưu duyệt lại kế sách tái phối trí việc pḥng thủ lănh thổ và quân tăng viện cấp thời cho mặt trận An Lộc cho hợp với t́nh h́nh hiện tại, nhất là khi toàn thể Sư Đoàn 21 và Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh vừa mới được đặt thuộc quyền sử dụng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III theo thứ tự ưu tiên như sau:

    Ưu tiên 1: Trực thăng vận Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù vào tăng cường cho chiến trường An Lộc.

    Ưu tiên 2: Trực thăng vận và điều động Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà vào ṿng chiến để khai thông đường tiếp tế và tản thương cho mặt trận An Lộc dọc theo phía Nam Quốc Lộ 13 từ Nam lên Bắc.

    Ưu tiên 3: Rút lực lượng của Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (chỉ c̣n lại 4 Tiểu Đoàn) làm lực lượng chủ lực trừ bị cho lănh thổ Quân Khu III đặc biệt là Tiểu Khu B́nh Dương.

    Chiếu theo thứ tự ưu tiên kể trên, Không Đoàn 43 Trực Thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân căn cứ tại Biên Hoà, lănh lệnh thi hành một cách rất là thành công và kịp lúc, mặc dầu cũng đă có nhiều anh em trong Không Đoàn phải hy sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ đầy gian lao này, dưới áp lực pḥng không dường như dày đặc của Cộng quân trên khắp mọi nơi dọc theo hai bên Quốc Lộ 13 từ quận Chơn Thành đến An Lộc. Vui cười, phẫn nộ, khóc thương, … hàng ngày đều có xảy ra cho các chiến sĩ Không Quân gan ĺ của Không Đoàn 43 Trực Thăng này.

    Về ưu tiên 1: Không Đoàn 43 Trực Thăng thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, được sự yểm trợ và phối hợp của Đại Đội Trực Thăng số 362 của Hoa Kỳ cùng các trực thăng vơ trang có bố trí đại liên và các giàn phóng hoả tiễn yểm trợ đă thành công gần như hoàn mỹ việc đổ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào 2 ngày 14 và 15 tháng 04 năm 1972 và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù vào ngày 16 tháng 04 năm 1972 rất kịp thời và kịp lúc để cứu nguy An Lộc.
    CHƯƠNG 10 - HẦM VÀ CHỐT XA CAM

    Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà sau khi được đổ quân xuống Tân Khai, nhận được lệnh của Quân Đoàn 3, tiếp tục tiến lên để thu ngắn đoạn đường 12 cây số c̣n lạ hướng về An Lộc, khi rời khỏi Tân Khai 5 cây số về hướng Đông Bắc,Tiểu Đoàn đi đầu của Trung Đoài 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh chạm súng nặng với một đơn vị Cộng quân cấp Trung Đoàn, Cộng quân có pháo 130 ly và hoả tiễn cũng như chiến xa PT.76 yểm trợ. Trung Tá Nguyễn Viết Cần, điều động 2 tiểu đoàn c̣n lạI lên tiếp ứng, tại căn cứ hoả lực Tân Khai, khai pháo yểm trợ không ngừng. Cuộc quần thảo với quân Cộng Sản Bắc Việt bất phân thắng bại, kéo dài đến chiều tối ngày 21 tháng 05 năm 1972, Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, buộc phải dừng lại, và Trung Tá Cần ra lệnh cho các đơn vị phải bố trí, đào hầm hố dă chiến pḥng thủ qua đêm, đồng thời yêu cầu pháo binh tại căn cứ hoả lực Tân Khai thiết lập sơ đồ pháo tập tiên liệu để yểm trợ khi bị địch tấn công (ưu tiên 1) và những toạ độ khác bắn khuấy phá vài tràng định kỳ, tập trung sâu trong ḷng địch.

    Khi biết được vị trí của đơn vị Việt Nam Cộng Hoà, ở phía Nam trong khu rừng gần Xa Cam, Cộng quân liền nă trên 500 quả đạn 130 ly và hoả tiển 122 ly, pháo tập, ngay vào vị trí đóng quân của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, và đă gây tử thương cho vị Trung Đoàn Trưởng tài ba Nguyễn Viết Cần ngay trong đêm đó (khoảng 10 giờ đêm ngày 21 tháng 05 năm 1972). Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, bị địch bao vây và cầm chân tại vị trí đó.

    Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 sau khi nhận được tin Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh bị địch cầm chân và vị Trung Đoàn Trưởng trúng pháo tử vong, liền ra lệnh cho Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh đợi khi 2 Tiểu Đoàn c̣n lại của Chiến Đoàn, tùng thiết cho Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến căn cứ hoả lực Tân Khai xong vào ngày 23 tháng 05 năm 1972, để lại căn cứ hỏa lực Tân Khai,1 Tiểu Đoàn và 1 Chi Đoàn Thiết Vận Xa, ủi ụ pḥng thủ, do vị Trung Đoàn Phó Nguyễn Ánh Lê chỉ huy tổng quát, c̣n lại Chiến Đoàn 15 Bộ Binh (-) gồm 2 Tiểu Đoàn Bộ Binh và Đại Đội Trinh Sát 9, do đích thân Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy, tức tốc trực chỉ đến tiếp ứng cho Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh vào sáng sớm ngày 24 tháng 05 năm 1972. Trung Tá Cẩn di chuyển quân, nương theo khu rừng phía Tây Quốc Lộ 13 gần đến 6 cây số hướng về An Lộc và chuyển hướng ép về phải, vượt qua Quốc Lộ 13 và đổi về phía Đông từ mặt Bắc đánh xuống hướng Nam, có nghĩa là từ phía sau lưng địch đánh tới, đột phá ṿng vây cho Trung Đoàn 33 c̣n đang mắc kẹt tại đây, 2 mặt giáp công, lực lượng Cộng quân có PT.76 yểm trợ, rút lui trở về khu đồn điền Xa Cam để lại trên 150 xác tại trận địa và 2 PT.76 bị các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ. Sau khi giải vây cho Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh,cả hai đơn vị bung ra lục soát và giữ an ninh băi đáp cho đoàn trực thăng Việt Mỹ tản thương các chiến sĩ của quân bạn trong đó có xác của vị Trung Đoàn Trưởng Nguyễn Viết Cần c̣n đang được trùm kín trong chiếc poncho từ mấy ngày qua.

    Tản thương và chỉnh đốn lại hàng ngũ, Chiến Đoàn 15 (-) và Trung Đoàn 3, hỗ tương di chuyển hai bên Quốc Lộ 13 tiến dần lên phía An Lộc, cho đến khi hai đơn vị của Việt Nam Cộng Hoà chiếm được b́a rừng phía Nam Xa Cam (6 cây số Nam An Lộc) th́ chạm trán ngay với các chốt của Cộng quân đă đào sẵn chi chit bên trong rừng cây cao su dày đặc, mặc dù được Pháo 105 ly từ căn cứ hoả lực Tân Khai bắn yểm trợ, cùng các trực thăng vơ trang Cobra của Mỹ và hàng chục phi tuần phản lực của Không Lực Hoa Kỳ oanh tạc vào đội h́nh quân địch. Chiến Đoàn 15 phải tạt qua cánh trái Quốc Lộ để đào hầm hố pḥng thủ song song bên phải là Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Cả 2 đơn vị luôn bị pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly địch bắn chặn, khó có thể tiến hơn dù rằng chỉ vài trăm thước phía trước.

    Đoạn đường c̣n lại 6 cây số từ Xa Cam đến An Lộc thật là khó nuốt, ở giữa Xa Cam trong khoảng rừng cao su, 4 cây số Nam An Lộc, Cộng quân có đào một hầm khá rộng và sâu bên dưới đường rày xe lửa, xung quanh hầm chỉ huy này c̣n có nhiều chốt và giao thông hào chằng chịt yểm trợ hỗ tương lẫn nhau rất chặt chẽ. Đó là chốt cấp Trung Đoàn (Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 165 chính quy của Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt), cùng được sự trợ lực của Trung Đoàn 141 Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt trấn thủ, chặn quân tăng viện. Cái chốt tai hại này đă cầm quân Chiến Đoàn 15 và trung Đoàn 33 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà do vị Thiếu Tá Trung Đoàn Phó nắm quyền chỉ huy Trung Đoàn Trưởng không thể nào vượt qua được, mặc dù các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà đă nhiều lần tấn công hay đột kích để diệt chốt, nhưng đều phải trả một giá rất đắt cho mỗi lần tấn công. Quân số lần hồi hao hụt mà không bổ sung được bởi các khẩu đại liên pḥng không được đặt trên các thiết giáp cơ giới di động của Cộng Quân và các súng hoả tiễn SA.7 đă khống chế các trực thăng tiếp tế hay tản thương không c̣n đáp xuống được nữa.

    Chiến Đoàn 15 (-) đào hầm hố cố thủ bên cánh trái và Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà pḥng thủ song song bên cánh phải, tản quân rộng dài ra để tránh pháo địch. Lay hoay tại chỗ gần một tuần liên tiếp, về việc tiếp tế đạn dược, lương khô và thuốc men đểu được các C.123 của Sư Đoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà xuất phát từ căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất Sài G̣n thả dù xuống. Đa số đồ tiếp tế, cả hai đơn vị đều nhận được tương đối đầy đủ, c̣n các thương binh th́ phải đành băng bó tạm để nằm tại chỗ, không tản thương được.

    Toán mật mă tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn bắt được tần số liên lạc và xác định được vị trí của 2 đơn vị Cộng quân. Bộ Chỉ Huy Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt vùng 7 cây số Tây Nam An Lộc và Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 165, ẩn trú dưới các hầm rất kiên cố tại vùng 4 cây số Nam An Lộc.

    Toán chuyên viên Việt Mỹ đặc trách về B.52, cho tọa độ kể cả tính chất mục tiêu, đă yêu cầu 2 lần liên tiếp vào ngày 20 tháng 05 và 22 tháng 05 năm 1972, nhưng phía Hoa Kỳ đều không thoả măn yêu cầu của phía Việt Nam Cộng Hoà, cứ lờ đi, cũng không giải thích lư do không thực hiện. Toán chuyên viên đặc trách về B.52 liền tŕnh sự việc lên cho Tướng Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn.

    Đây là lần thứ ba phía cố vấn Hoa Kỳ của Quân Đoàn 3 từ chối không cần giải thích với phía Việt Nam Cộng Hoà. Lần đầu vào ngày 18 tháng 04 năm 1972, tọa độ thả bom là vùng phi trường Quản Lợi, tính chất mục tiêu là Bộ Chỉ Huy đầu năo của Cộng quân (Cục R) + hầu hết thành phần của Chính Phủ Bù Nh́n Mặt Trận Giải Phóng MIền Nam + 2 Trung Đoàn Bộ Binh quân Cộng Sản Bắc Việt. Lần thứ nh́ và thứ ba vào 2 ngày 20 và 22 tháng 05 năm 1972 tọa độ vùng 7 cây số Tây Nam và vùng 4 cây số Nam An Lộc, tính chất mục tiêu là hầm chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Công Trường 7 và hầm chỉ huy của Trung Đoàn 165 Công Trường 7 đặt dưới đường rày xe lửa dọc theo Quốc Lộ 13, được thiết kế kiên cố có thể chống được Pháo và bom thường của Không Quân Việt Mỹ.

    Việc phía Hoa Kỳ từ chối oanh tạc bằng B.52, đă kéo dài thêm chiến trận, đúng ra đă được kết thúc từ ngày 18 tháng 04 năm 1972, nhưng đă để kéo dài thêm chiến trận, khiến cho hàng ngàn binh sĩ và dân chúng Việt Nam Cộng Hoà cũng như các cán binh Cộng Sản Bắc Việt phải đổ xương máu, qua các trận Đồi Gió , trận tấn công An Lộc lần thứ ba (19-04-1972), trận tấn công lần thứ tư (10-05-1972), trận đánh chốt Suối Tàu Ô và cuộc tấn công lần thứ năm (18-05-1972) và sau cùng trận Xa Cam (kéo dài từ 13 tháng 05 đến ngày 08 tháng 06 năm 1972). (xem bản đồ số 11)

    1. TƯỚNG MINH HỌP THAM MƯU T̀M CÁCH CÔNG PHÁ CHỐT XA CAM

    Theo ước tính của những chuyên viên công binh, và các giới chức Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, nếu muốn đánh sập và tiêu diệt các hầm và chốt nầy, chỉ có hai cách là dùng B.52 trải thảm bom hoặc thả bom CBU (loại bom nổ tạo áp suất cao, có thể tiêu diệt con người vẫn c̣n nguyên vẹn nhờ áp suất của bom tạo ra và hầm càng sâu dưới ḷng đất sự công phá của loại bom này càng mănh liệt hơn nhiều lần).

    Về khả năng dùng B.52 th́ kể như không có, chỉ c̣n trông chờ vào khả năng của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà mà thôi !

    Một buổi họp kín giữa Trung Tướng Nguyên Văn Minh và vài chức cao cấp của Bộ Tư Lệnh Không Quân, Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, Đại Tá Nguyễn Văn Tường (Tường Mực), Tư lệnh Phó Sư đ̣an 3 Không quân, Tướng Minh đem việc Chiến Đoàn 15 và Trung Đoàn 33 Bộ Binh c̣n đang bị kẹt tại khu rừng 6 cây số Nam An Lộc, gặp phải lực lượng Cộng quân cấp 2 trung đoàn chính quy của Công Trường 7 kháng cự rất mănh liệt, và bị cầm chân tại chỗ, đă gần 1 tuần qua, và sự tổn thất do pháo địch càng ngày càng lên cao, các đơn vị bạn không thể vượt qua được cái chốt có hầm đào sâu dưới đường rày xe lửa, và các chốt nổi xung quanh vùng Xa Cam, dưới sự yểm trợ rất đắc lực của pháo và hoả tiễn địch, địa điểm chốt đă được toán mật mă xác định được rơ ràng : Muốn khai thông đoạn đường 6 cây số c̣n lại th́ trước tiên Bộ Binh của quân Bạn, phải vượt qua được cái chướng ngại duy nhất c̣n lại nầy .Cần Không Quân đánh bom, san bằng hay tiêu diệt địch đang ẩn trú dưới các hầm kiên cố đó. Dùng B.52 để san bằng th́ đă 2 lần vẽ Box, nhưng phía Hoa Kỳ đă ra mặt từ chối hẳn, chỉ c̣n lại giải pháp, là phải dùng loại bom CBU để tiêu diệt bọn chúng mà thôi !

    Tướng Minh tâm sự :

    - Như các Anh Em đă biết, lực lượng đang tử thủ bên trong An Lộc đang chờ Amh Em chúng ta đến tiếp ứng từng giờ từng phút, c̣n lực lượng tăng viện của chúng ta, đă tiến đến gần mục tiêu An Lộc, chỉ c̣n cách có 6 cây số, nhưng không vượt qua nổi cái hầm chốt Xa Cam này, mặc dù lực lượng của Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh và Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh đă cố gắng bứng chốt nhiều lần trong suốt 2, 3 ngày đầu nhưng vẫn chưa bứng nổi và c̣n bị tổn thất khá nhiều. Hầm chốt Xa Cam này, c̣n khó hơn cái chốt ở Suối Tàu Ô khi trước, nên tôi phải nhờ đến mấy Anh Em Không Quân giúp cho ư kiến, để làm sao phá được chốt địch. Ư tôi muốn hỏi là có loại bom nào thích hợp như bom CBU chẳng hạn, cũng như loại phi cơ nào có thể dùng thả bom ngay vào hầm của địch, để giúp cho Bộ Binh của chúng ta có cơ hội vượt qua được cái chốt đó hay không !!

    Tướng Minh tiếp : Ba cái trở ngại lớn nhất của chúng ta hiện giờ, là làm sao xoá bỏ thoả ước về lằn ranh yểm trợ hỏa lực cho chiến trường giữa Không Quân Việt Nam và Không Quân Mỹ, nếu không khéo, th́ người bạn đồng minh của chúng ta lại nại cớ này lư do nọ mà phủi tay ra đi, rồi không có yểm trợ ǵ nữa hết, trong khi Anh Em ở An Lộc ngày đêm đang cần đến Không Quân Hoa Kỳ yểm trợ. Đó là vấn nạn thứ nhất. Vấn nạn thứ hai là làm sao có loại bom CBU (Không Lực Việt Nam Cộng Hoà có loại bom đó hay không) ? Vấn nạn thứ ba là loại phi cơ nào mới có thể thả bom CBU được ?

    Sau khi Tướng Minh dứt lời, Tướng Tính quay qua hội ư với Đại Tá Tường, và giải đáp mọi thắc mắc, gỡ rối các vấn nạn mà Tướng Minh vừa mới nêu lên như sau:

    - Kính thưa Trung Tướng, giải pháp đánh chốt có hầm sâu bằng B.52 là hay và tiện lợi nhất trong mọi giải pháp khác, nhưng rất tiếc người bạn đồng minh của ḿnh, đă nhất quyết không giúp, thật là đáng buồn cho t́nh nghĩa đồng minh… Bây giờ người ta (Không Lực Mỹ) không làm, th́ ḿnh làm bằng Không Lực của Sư Đoàn 3 Không Quân cơ hữu của ḿnh, cũng có thể chơi vài trái CBU ( cỡ nhỏ )ngay trên hầm địch để san bằng giết hết tụi nó, đang có mặt dưới hầm hay các giao thông hào kế cận, tôi c̣n được biết, các phản lực cơ Hoa Kỳ, sau 6 giờ chiều là phải rời vùng trách nhiệm bay trở về căn cứ xuất phát, (các Hàng Không Mẫu Hạm đang đậu ngoài khơi phía Đông Nam biển Nam Hải) ,nghĩa là chúng ta cứ âm thầm hành động theo kế hoạch riêng của Việt Nam ḿnh, không cần cho Mỹ biết làm ǵ, cho họ kiểu cách và kiếm chuyện này nọ, và dù phía Mỹ có biết được sau này, chúng nó cũng không trách ǵ ḿnh được. Ḿnh ném CBU bằng Skyraider AD.6 của Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà sau 6 giờ chiều là ổn thoả nhất.

    Và Tướng Tính giới thiệu Đại Tá Tường, Tư Lệnh Phó kiêm Không Đoàn Trưởng Khu Trục và Phản Lực Không Đoàn 3 Việt Nam Cộng Hoà hiện diện, tŕnh bày tiếp.

    Đại Tá Tường cho biết hiện nay, trong kho bom của Sư Đoàn 3 Không Quân nếu ông nhớ không lầm th́ vẫn c̣n 5, 7 quả CBU( cỡ nhỏ ) có ng̣i nổ đầy đủ, Mỹ đă phát trừ bị cho ông c̣n chưa xử dụng, c̣n loại phi cơ nào thả bom CBU th́ phản lực cơ A.37 hay phi cơ cánh quạt AD.6 (Skyraider) loại nào thả cũng được hết, nếu dùng phản lực cơ bay nhanh hơn, nhưng lại đôi khi sai lạc mục tiêu chút đỉnh, không được trúng phóc ngay trên hầm chốt, c̣n Skyraider AD.6 th́ có tốc độ kém hơn phản lực cơ, nhưng nó có cái ưu điểm là có thế bay sát gần mục tiêu để ném bom chính xác vào mục tiêu hơn …

    Cuộc họp được kết thúc trong bầu không khí cởi mở và đầy niềm tin hy vọng, sau cùng, Tướng Minh quyết định cho phá hầm và chốt Xa Cam bằng bom CBU do các Skyraider AD6 (cánh quạt) của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà vào ngày N.

    2. KẾ HOẠCH ĐỔ QUÂN TIỂU ĐOÀN 6 NHẢY DÙ
    LÀM NỖ LỰC CHÍNH ĐÁNH CHỐT XA CAM KÈM THEO ĐOÀN QUÂN BỔ SUNG CHO CÁC ĐƠN VỊ ĐANG CÓ MẶT TRÊN QUỐC LỘ 13 VÀ CÁC ĐƠN VỊ ĐANG TỬ THỦ TẠI AN LỘC

    Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù bị thiệt hại khá nặng tại căn cứ Đồi Gió, 2 Đại Đội được rút vào sát nhập với Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 bên trong Thị Xă An Lộc, 3 Đại Đội khác do Trung Tá Nguyẽn Văn Đĩnh, Tiểu Đoàn Trưởng vượt phá ṿng vây về hướng Tây Nam, và được trực thăng của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà bốc về Lai Khê, vào chiều ngày 20 tháng 04 năm 1972, quân số c̣n lại của 3 Đại Đội chỉ c̣n có trên 100 chiến sĩ mà thôi. Sau đó được hậu cứ Sư Đoàn Dù bổ sung tại chỗ quân số lên đến 600, tái tổ chức, và tiếp tục đặt dưới quyền xử dụng của Quân Đoàn 3, để liên kết với đơn vị Mẹ ( Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đang c̣n chiến đấu trong An Lộc ) .

    Quyết Định ngày N được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 và Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 3 Không Quân ấn định được tuần tự diễn tiến như sau :

    a.- Trực Thăng Vận 600 chiến binh Dù và 2,200 chiến sĩ của các quân binh chủng khác vào tăng cường cho chiến trận An Lộc và các đơn vị bạn, dọc trên Quốc Lộ 13 tại vùng căn cứ hoả lực Tân Khai, vào 2 ngày 06 và 07 tháng 06 năm 1972 gồm : Tiểu Đoàn 6 Dù 600 quân, quân bổ sung cho Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh + Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, để đủ khả năng cùng với Tiểu Đoàn 6 Dù đi tiên phong, dứt điểm chốt Xa Cam, một số chiến binh khác, cho theo bên cạnh Tiểu Đoàn 6 Dù cả trên 1,000 quân, để bổ sung cho các đơn vị Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 1 Dù, đang tử thủ tại An Lộc ( kể từ ngày khởi diễn trận chiến 13 tháng 04 năm 1972 cho đến nay chưa được bổ sung ) .

    Như vậy, mũi dùi tấn công vào chốt Xa Cam lần này, ở ngay tuyến đầu với Tiểu Đoàn 6 Dù có khoảng 1 Trung Đoàn chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà gồm cả Nhảy Dù, Biệt Cách Dù, Biệt Động Quân, và Bộ Binh. Mỗi đơn vị tháp tùng theo Tiểu Đoàn 6 Dù đều có cắt cử một sĩ quan điểu động đơn vị trực thuộc của đơn vị ḿnh dưới sự chỉ huy thống nhất của Trung Tá Nghuyễ văn Đĩnh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù. Trung Tá Đĩnh được chỉ thị và sự khích lệ của Tướng Minh : sau khi chạm đất, thống nhất chỉ huy đoàn quân 2,200 chiến sĩ, lập tức di chuyển đến tiếp xúc với Chiến Đoàn 15 (-) của Trung Tá Cẩn và Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh đang án ngữ hai bên Quốc Lộ 13, 6 cây số Bắc Tân Khai và giao các chiến binh bổ sung cho hai đơn vị này, xong rồi di chuyển tiếp lên tuyến đầu cách chốt Xa Cam vào khoảng 1 cây số dừng lại và chờ lệnh dứt điểm chốt Xa Cam, sau kh́ các khu trục cơ AD.6 thả CBU, dự trù sau 18 giờ 30 ngày 07 tháng 06 năm 1972.

    Tại phi trường Biên Hoà, hai phi tuần khu trục A.37 yểm trợ cho 4 khu trục cơ AD.6 mang 4 quả bom CBU được lệnh cất cánh vào lúc 18 giờ 15 chiều ngày 07 tháng 06 năm 1972 trực chỉ Xa Cam.

    18 giờ 30 ngày 07 tháng 06 năm 1972,hai phi tuần A.37 bay trước oanh kích dọn đường cho 4 Skyraider AD.6 tiếp nối theo sau thả liền 4 trái CBU ngay trên địa điểm Hẫm chốt Xa Cam, gây ra 4 tiếng nổ lớn, san bằng tiêu diệt một vùng gần 1 cây số đường bán kính xung quanh.

    Sau đợt thả bom CBU chấm dứt, chiếc trực thăng C&C của Tướng Minh trên vùng trời Xa Cam, báo cho Tiểu Đoàn 6 Dù, khởi phát cuộc tấn công lên hướng Bắc, đoàn quân tràn qua nhiều hầm hố đầy xác Cộng quân c̣n nguyên vẹn, v́ sức ép của CBU đă gây ra những cái chết như thế. Đoàn quân của Tiểu Đoàn 6 Dù tiếp tục tiến lên, và khám phá ra được một hầm rộng trên 300 thuớc vuông sâu dưới mặt đất, cở 3 thước dưới đường rầy xe lửa, với trên 200 xác chết của cán binh Cộng Sản, trong đó có xác của một sĩ quan mang cấp bậc thượng tá, cùng các máy truyền tin của cấp trung đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt.

    Đến đây, trời cũng vừa tối, Trung Tá Đĩnh ra lệnh cho Tiểu Đoàn 6 Dù và các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tháp tùng theo Tiểu Đoàn 6 Dù, lục soát và chiếm cứ các hầm hố của Cộng quân để pḥng ngự qua đêm, đồng thời gọi căn cứ hoả lực Tân Khai thiết trí sơ đồ hoả tập pháo binh, để yểm trợ pḥng ngừa khi địch phản công.

    Tiếp đến qua sáng ngày 08 tháng 06 năm 1972, các đon vị Việt Nam Cộng Hoà chỉ c̣n cách An Lộc khoảng 4 cây số . Kể như chốt Xa Cam đă bị bứng đi.

    Tiếp tục tiến lên dưới sự kháng cự cầm chừng của vài chốt c̣n lại, cuối cùng khi c̣n cách An Lộc khoảng 2 cây số về hướng Nam, đơn vị đi đầu bắt được liên lạc bằng tiếng súng hiệu và cuối cùng bằng thủ lệnh của các chiến binh thuộc Tiểu Đoàn 8 Dù đang trấn đóng vùng phía Nam An Lộc.

    Trung Tá Nguyễn Văn Đĩnh Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù và Trung Tá Trần Thiện Tuyển Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 8 Dù, anh em cùng trường Mẹ Vơ Bị Đà Lạt, ôm chầm lấy nhau mà ḷng khấp khởi vui mừng sau bao ngày chinh chiến thập tự nhất sinh.

    Tiếng reo ḥ mừng vui vang dậy, giữa các chiến sĩ Dù và đoàn quân bổ sung, tay bắt mặt mừng ôm chầm lấy nhau.

    Tin Tiểu Đoàn 6 Dù và Tiểu Đoàn 8 Dù bắt tay được với nhau, đă khai thông nốt đoạn đường Quốc Lộ 13 từ An Lộc đến Lai Khê (B́nh Dương), qua 3 cửa ải chốt chận Xa Cam, Suối Tàu Ô và Bầu Bàng . Trung Tá Đĩnh gọi tŕnh tức thời, cho vị Tư Lệnh Quân Đoàn, đang bay theo dơi và khích lệ đoàn quân giải tỏa, trên ṿm trời Xa Cam, và sau đó Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Tướng Hưng tại An Lộc và cả Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Quân Đoàn ở Lai Khê đều nghe nhận được trên tần số truyền tin .

    Tướng Minh thở phào nhẹ nhơm, và gọi gởi lời khen ngợi Trung Tá Đĩnh cùng toàn thể các chiến sĩ Tiểu Đoàn 6 Dù cũng như các chiến sĩ tháp tùng. Tướng Minh nói với Trung Tá Đĩnh : Tiểu Đoàn 6 Dù đă phục hận được trận Đồi Gió trước đây (xảy ra vào ngày 19 tháng 04 năm 1972), tôi sẽ đề nghị cho Anh lên Đại Tá đặc cách mặt trận để thưởng công …

    Tiểu Đoàn 6 Dù và các chiến sĩ của Chiến Đoàn 15 (-) và Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh sau cùng đă càn quét các chốt địch và các đơn vị pḥng không của địch quân dọc trên đoạn đường dài 6 cây số về phía Nam An Lộc để bảo đảm an toàn cho đoàn trực thăng 45 chiếc bay vào tản thương hàng ngàn binh sĩ và dân chúng đang nằm la liệt tại các đỊa điểm tản thương trong Tiểu Khu B́nh Long và dọc theo Quốc Lộ 13 về phía Nam .

    Tin Tiểu Đoàn 6 Dù bắt tay được với Tiểu Đoàn 8 Dù tại vùng 2 cây số phía Nam An Lộc, tin Chiến Đoàn 15 và Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh sau cùng đă càn quét được các chốt địch và các đơn vị pḥng không của địch quân dọc trên đoạn đường dài 6 cây số về phía Nam An Lộc, để bảo đảm an toàn cho đoàn trực thăng 45 chiếc HU1D bay vào tản thương hàng ngàn binh sĩ và dân chúng ra khỏi An Lộc sau hơn 2 tháng bị Cộng quân bao vây về đến Tổng Y Viện Cộng Hoà và các bệnh viện quân dân sự ở các Tỉnh B́nh Dương và Biên Hoà, tin giải tỏa và tản thương, được loan truyền đi rất nhanh ...

    Khi trực thăng của Tướng Minh vừa đáp xuống phi trường Lai Khê, th́ hầu hết các sĩ quan cao cấp thuộc Bộ Tham Mưu Hành Quân Quân Đoàn đều có mặt tại sân bay, để đón mừng vị Tư Lệnh Quân Đoàn, vừa mang được kết quả từ mặt trận trở về. Và khi vừa vào đến bản doanh Bộ Tư Lệnh Hành Quân Quân Đoàn, Tướng Minh liền gọi điện báo tŕnh với Đại Tướng Cao Văn Viên. Câu nói đầu tiên của Tướng Minh là ca tụng Lực Lượng Dù (Tiểu Đoàn 6 Dù). Đại Tướng Viên cũng rất hài ḷng về tin tức mới nhất này, và vội tŕnh lên Đại Tướng Khiêm, Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng, và Tổng Thống Thiệu ngay sau đó.

    Qua ngày hôm sau (ngày 09 tháng 06 năm 1972), một cuộc họp báo được tổ chức tại Lai Khê. Tướng Minh tuyên bố : Cuộc chiến được xem như kết thúc, mặc dù Cộng quân vẫn c̣n cố gắng pháo kích vào thành phố, nhưng với cường độ nhẹ. Việc tiếp tế và tản thương không c̣n gặp trở ngại, mặc dù pháo của Cộng quân vẫn c̣n bắn cầm chừng, khi thấy trực thăng đáp xuống, các đơn vị bạn đang mở rộng ṿng đai hoạt động, tiến chiếm lại những cao địa xung quanh An Lộc như Đồi Đồng Long, Đồi 100, v.v... Toàn bộ 4 Công Trường ( Sư Đoàn ) quân chủ lực Cộng Sản Bắc Việt đă bị kiệt quệ, và đă âm thầm rút lui khỏi trận chiến. Chúng tôi ca ngợi tinh thần kiên tŕ, can đảm, chịu đựng rất nhiều thử thách, đầy gian nan khổ cực, của tất cả các đơn vị tử thủ, cũng như tham chiến, từ binh sĩ cho đến các cấp chỉ huy. Chúng tôi cũng kính cẩn nghiêng ḿnh trước Anh Linh của khoảng trên 3,000 chiến sĩ các cấp trực thuộc các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă vĩnh viễn giă từ đồng đội, v́ Đại Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc và trên 5,000 thường dân vô tội của Tỉnh B́nh Long đă bị chôn vùi dưới các trận mưa pháo của Cộng quân, đă sát cánh bên cạnh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, chỉ v́ muốn được sống có TỰ DO DÂN CHỦ, và cầu chúc cho hàng chục ngàn Quân Cán Chính chẳng may bị thương tích trong trận chiến, đang nằm điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà và tại các bệnh viện quân dân sự thuộc lănh thổ Quân Khu III và bệnh viện 3 dă chiến của Hoa Kỳ, sớm được b́nh phục và sớm được xum họp với gia đ́nh.

    Tôi cũng vừa nhận được lệnh của vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đặc cách cho mỗi quân nhân tử thủ, mỗi người được lên một cấp bậc.

    Trong dịp này, để trả lời một số câu hỏi của báo chí trong và ngoài nước, Tướng Minh phát biểu như sau : Trận chiến An Lộc đă được tượng h́nh từ năm 1971, sau những cuộc hành quân Toàn Thắng 71 Quân Khu III của cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, trong đó Đại Tướng Trí có dự định đổ quân lên Kratié (một quận lỵ phía Bắc của nước Cambodia) nơi đặt bản doanh đầu năo của Cục R (Trung Ương Cục Miền Nam) để càn quét và tiêu diệt sào huyệt này của Cộng quân. Nhưng sau đó Đại Tướng Trí chẳng may bị nổ trực thăng đền xong nợ nước, và tôi được thượng cấp chỉ định thay thế người tiền nhiệm tài ba và đầy ḷng yêu nước đó.

    Trong cái thế chẳng đặng đừng, có thể nói rơ nghĩa hơn là dù trong bụng muốn tiếp tục giữ đúng như kế hoạch của Đại Tướng Trí đă đề ra chăng nữa, nhưng kiểm điểm lại với t́nh huống thực tại lúc bấy giờ, tôi không làm ǵ hơn được, và buộc phải có quyết định rút quân, một lực lượng cơ hữu trên phân nữa thực lực của Quân Đoàn 3 lúc bấy giờ, đang c̣n trên lănh thổ Cambodia trở về nội địa Việt Nam Cộng Hoà, để bảo toàn lực lượng, v́ theo tin t́nh báo cao cấp, tôi được biết sau trận thảm bại Tết Mậu Thân, Cộng quân vẫn tiếp tục nuôi mưu đồ tấn chiếm nước Việt Nam Cộng Hoà của chúng ta, hàng đoàn xe, hàng chục ngàn tấn thực phẩm, nhiên liệu, đạn dược ngày đêm không ngừng nghỉ được chuyên chở hay di chuyển vào Nam trên suốt dọc đường ṃn Hố Chí Minh. Và cuộc rút đoàn quân từ ngoại biên trở về đến nội địa lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà được hoàn tất vào cuối tháng 05 năm 1971.

    Việc rút đoàn quân trên 2 Sư Đoàn về đến nội địa để chỉnh đốn hàng ngũ, vừa kịp lúc. Nhờ vậy mà khi quân Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc tấn công vào nội địa thuộc lănh thổ Quân Khu III vào ngày 05 tháng 04 năm 1972, phần lớn lực lượng từ ngoại biên này trở về nội địa, như hai Trung Đoàn 52 và 43 của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, 2 Thiết Đoàn 1 và 5 của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà, đă trở thành những thành phần nồng cốt, tương đối đủ khả năng cấp thời để ngăn chặn đà tấn công của 4 Công Trường (Sư Đoàn) quân Cộng Sản Bắc Việt, vào mùa hè đỏ lửa.(tháng 04 năm 1972).

    Nói về cuộc rút quân từ chiến trường ngoại biên trở về nội địa Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1971, rút quân khi địch quân được thông tin biết truớc, và cuộc pḥng thủ tại mặt trận An Lộc vào năm 1972, pḥng thủ để chống trả với một lực lượng địch đông hơn quân bạn gấp 6 lần và chiếm ưu thế về Thiết Giáp và Pháo Binh, là những sự kiện đă gây cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc nhất trong cuộc đời binh nghiệp của riêng tôi.

    Trận chiến Quốc Lộ 13 kể như được chấm dứt vào ngày 08 tháng 06 năm 1972, với sự thiệt hại của đôi bên như sau :

    ĐỊCH: Sư Đoàn (Công Trường) 7 Cộng Sản Bắc Việt + Trung Đoàn Địa Phương, thiệt hại 80% quân số bộ chiến; Tiểu Đoàn Chiến Xa của Trung Đoàn Chiến Xa 203 + Trung Đoàn Cơ Động Pḥng Không + Sư Đoàn Pháo 130 ly và các Trung Đoàn phóng hoả tiễn 122 ly và 107 ly bị Không Quân Hoa Kỳ tiêu diệt 70%.

    BẠN :

    Giai Đoạn 1 : Trung Đoàn 48 Sư Đoàn 18 Bộ Binh + Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bị thiệt hại 30% quân số.

    Giai Đoạn 2 : Sư Đoàn 21 BB & Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 bị thiệt hại 40% quân số.

    Giai Đoạn 3 : (sau cùng, khai thông) Tiểu Đoàn 6 Dù & Trung Đoàn hỗn hợp bổ sung bị thiệt hại 5% quân số. Thiết Đoàn 15 (hỗn hợp M.41 & M.113 Quân Đoàn 3) + Thiết Đoàn 21 M.113 Quân Đoàn 4 + Thiết Đoàn M.113 Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh Quân Đoàn 4, bị thiệt hại 1/3 chiến xa M.41 và M.113.

  5. #85
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần 4C





    Về ưu tiên 2: Không Đoàn 43 Trực Thăng kể trên, sau đó tiếp tục trực thăng vận Trung Đoàn 31 Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà do Đại Tá Nguyễn Văn Kiểm, Trung Đoàn Trưởng chỉ huy, và 1 Đại Đội của Tiểu Đoàn 21 Công Binh Chiến Đấu lên vùng Tân Khai (12 cây số Nam An Lộc và 8 cây số Bắc Tàu Ô, dọc theo Quốc Lộ 13) để thiết lập căn cứ hoả lực dă chiến làm đầu cầu hoả lực yểm trợ cho đoàn quân tăng viện và diệt chốt, đang từ phía Nam tiến dần lên, và bảo vệ cho tuyến pḥng thủ của lực lượng Dù ở phía Nam An Lộc, tiếp theo đổ Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Viết Cần chỉ huy, xuống Tân Khai dùng làm bàn đạp tiến lần về hướng An Lộc, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 15 + Đại Đội Trinh Sát + Tiểu Đoàn 1 Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Trong khi đó Trung Đoàn 32 Sư Đoàn 21 Bộ Binh do Đại Tá Nguyễn Văn Biết, Trung Đoàn Trưởng chỉ huy, di chuyển bằng đường bộ, từ Lai Khê càn ngang qua chốt địch, Bầu Bàng (Bắc Lai Khê 7 cây số), quận Chơn Thành rồi đến Tàu Ô (12 cây số Bắc Chơn Thành).

    Về ưu tiên 3: Lực lượng Trung Đoàn 43 của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đang trấn giữ đoạn đường từ Lai Khê lên Chơn Thành, từ khi Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà vào trận chiến, đă mở rộng vùng hoạt động trên Quốc Lộ 13. Các đơn vị Cộng quân núp dưới các giao thông hào, gần như bị dẹp tan vào lúc ban ngày, xe cộ, chiến xa và quân lính thường xuyên di chuyển lên xuống tương đối an toàn, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 tăng cường thêm cho Trung Đoàn 43 Bộ Binh một lực lượng Thiết Giáp, Thiết Đoàn 5 (-) Thiết Vận Xa M.113 của Quân Đoàn 3, rút về từ mặt trận suối Tàu Ô, để thành một Chiến Đoàn lưu động trừ bị có Thiết Vận Xa yểm trợ, sẵn sàng tiếp ứng cho các đơn vị Địa Phương Quân trong vùng diện địa lănh thổ Quân Khu III (đặc biệt chú trọng vào 2 quận Trị Tâm và Phú Giáo tỉnh B́nh Dương).

    Chiến Đoàn 43 lưu động này có gần 2,000 chiến sĩ kể cả 30 Thiết Vận Xa M.113 của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh (-) Việt Nam Cộng Hoà.

    Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà gồm có 3 Trung Đoàn Bộ Binh - Trung Đoàn 31 Bộ Binh do Đại Tá Nguyễn Văn Kiểm (giai đoạn đầu), Trung Tá Nguyễn Văn Xuân (giai đoạn sau) Trung Đoàn Trưởng chỉ huy, Trung Đoàn 32 Bộ Binh do Đại Tá Nguyễn Văn Biết, Trung Đoàn Trưởng chỉ huy (giai đoạn đầu), Trung Tá Đoàn Cư (giai đoạn sau), Trung Đoàn 33 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Viết Cẩn, Trung Đoàn Trưởng chỉ huy (Trung Tá Cần bị trúng đạn pháo của Cộng quân tử trận tại 4 cây số về hướng Bắc Tân Khai, trong thời gian điều động Trung Đoàn 33 Bộ Binh rời căn cứ hoă lực Tân Khai để tiến về hướng An Lộc, vị Trung Đoàn Phó lên thay thế để tiếp tục chỉ huy Trung Đoàn). Và Bộ Chỉ Huy Hành Quân (hay Trung Tâm Hành Quân) Sư Đoàn 21 Bộ Binh đặt căn cứ tại Lai Khê (vị trí của Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà) Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, là vị Sĩ Quan cao cấp sau Tướng Minh có mặt tại mặt trận, chỉ huy toàn bộ Sư Đoàn 21 Bộ Binh và các đơn vị cơ hữu theo quan niệm điều quân của Quân Đoàn 3 do Tướng Minh chỉ huy. Cho đến ngày 12 tháng 05 năm 1972 th́ được công điện của Phủ Tổng Thống cằt cử lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu IV, thay thế Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, được điều động ra nắm chức Tư Lệnh Quân Đoàn 1/Quân Khu I, thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm. Sư Đoàn 21 Bộ Binh được bàn giao lại cho Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, nguyên Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù. Lễ bàn giao Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho Tướng Hậu,được diễn ra trong ngày 14 tháng 05 năm 1972 tại Lai Khê, và lễ bàn giao chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4 giữa 2 vị Cựu và Tân Tư Lệnh, được hoàn tầt trong ngày 15 tháng 05 năm 1972 tại Cần Thơ..

    MẶT TRẬN PHÍA NAM DỌC THEO QUỐC LỘ 13 (GIAI ĐOẠN 2)

    Sau khi toàn bộ Trung Đoàn 31 Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà an toàn đặt chân đến vùng Tân Khai (12 cây số Nam An Lộc), Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, cho thiết lập ngay một căn cứ hoả lực dă chiến với 1 Pháo Đội của Tiểu Đoàn 21 Pháo Binh gồm có 6 khẩu pháo 105 ly và hàng ngàn quả đạn cũng như xe ủi đất, được các trực thăng Chinook câu đến, làm đầu cầu yểm trợ cho đoàn quân phía Nam tiến về An Lộc .

    Việc thiết lập căn cứ hoả lực dă chiến tại Tân Khai của Trung Đoàn 31 Bộ Binh cũng như việc thiết lập căn cứ hoả lực dă chiến tại Đồi Gió trước đây của Lữ Đoàn Dù, cũng là kế hoạch mới dựa theo nhu cầu chiến trận của phía Việt Nam Cộng Hoà, không có ghi trong bản điều nghiên chiến trận của địch, đă tạo cho địch một vần đề nan giải, v́ không c̣n lực lượng hay thành phần nào, đủ sức để nhổ căn cứ Tân Khai như Đồi Gió nữa. Và căn cứ hoả lực Tân Khai nầy, vẫn c̣n chễm chệ đứng vững cho đền ngày tàn của trận chiến, khi toàn thể Sư Đoàn 21 Bộ Binh được hoàn trả về cho Quân Đoàn 4 (đầu tháng 08 năm 1972).

    Tại mặt trận Suối Tàu Ô, trước khi quân Dù và quân của Trung Đoàn 43 Bộ Binh và Thiết Đoàn 5 Thiết Kỵ Việt Nam Cộng Hoà rút đi, hai đoàn quân này đă gây cho lực lượng Cộng quân hao tổn gần 2 tiểu đoàn bộ binh đóng chốt. Số c̣n lại th́ ăn bom và đạn xuyên phá của Pháo Binh Việt Nam Cộng Hoà hàng ngày, cán binh của địch không được điền khuyết, cứ tiếp tục hao hụt, đâm ra mất tinh thần, muốn rời bỏ chốt mà chạy. Sau này, khi lực lượng của Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, khi đă ủi xong hết các chốt ở vùng Suối Tàu Ô, lục soát trong các chốt, phát hiện những chiếc ḷi tói, c̣n xích liền dưới cườm chân trên thân xác của mỗi tổ 3 cán binh thành một chùm (kiền – xích liền chân với nhau).

    Sau khi căn cứ hoả lực Tân Khai được thiết lập, và vùng chốt địch tại Suối Tàu Ô bị 2 Trung Đoàn 31 và 32 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ 2 mặt Bắc Nam có Thiết Đoàn 9 hỗn hợp Chiến Xa M.41 c̣n chừa lại của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh Quân Đoàn 3 và khoảng 60 chiếc M.113 cơ hữu yểm trợ đánh ép mạnh, một lực lượng khác gồm 2 Tiểu Đoàn 2 và 3 c̣n lại của Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà lănh nhiệm vụ tùng thiết Thiết Đoàn 9 Thiết Vận Xa của Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh cơ hữu, di chuyển bằng đường bộ ép về phía Đông (tay phải) Quốc Lộ 13 tính từ Nam lên Bắc đánh bật thêm một số chốt nữa để càn vượt qua chặng suối Tàu Ô, tiến đến Tân Khai bắt tay với Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh, đă từng được trực thăng vận đổ xuống trận địa vài ngày trước đó.

    Cuộc giằng co giữa hai Trung Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt và 2 Trung Đoàn của Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà có phi pháo yểm trợ, tại mặt trận suối Tàu Ô kéo dài đến đêm 18 tháng 05 năm 1972 cùng lúc lực lượng Cộng quân tập trung toàn diện nỗ lực (bộ binh, chiến xa, pháo binh ), tấn công cố dứt điểm An Lộc.

    9 giờ tối đêm 18 tháng 05, một đơn vị của Trung Đoàn 32 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà bất th́nh ĺnh đánh tan nhiều chốt địch trên vùng Suối Tàu Ô, mà không bị pháo tập trên nắp hầm, không giống như trước đây đă gặp phải, nên 2 vị Trung Đoàn Trưởng 2 Trung Đoàn 31 và 32, Đại Tá Kiểm và Đại Tá Biết hội ư chia nhau dùng bộ binh và thiết vận xa M.113 tấn công chia cắt tràn ngập toàn diện các chốt kiền trên toàn vùng Suối Tàu Ô, chiều ngày hôm sau 19 tháng 05 năm 1972, lực lượng Sư Đoàn 21 Bộ Binh, càn quét xong đến cái chốt cuối cùng, nơi đặt bản doanh của Trung Đoàn 209 Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt, là ngày đánh dấu dứt điểm được chốt kiền tại Suối Tàu Ô, khai thông luôn đoạn đường từ Quận Chơn Thành đến Tân Khai dài 23 cây số, với nhiều thiệt hại máu xương của đôi bên.

    Tạm tổng kết thiệt hại đôi bên tại Mặt Trận Suối Tàu Ô như sau :

    Địch: 90% cán binh của 2 Trung Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt bị tiêu diệt (khoảng 2430 cán binh tử vong).

    Bạn: Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Lữ Đoàn 1 Dù, Trung Đoàn 31 Sư Đoàn 21 BB, Trung Đoàn 32 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Thiết Đoàn 5 của Quân Đoàn 3 và Thiết Đoàn 9 của Quân Đoàn 4 Việt Nam Cộng Hoà tổn thất nhân mạng 30% (1850 Chiến Sĩ hy sinh), + 10 chiến xa M.41 và 20 Thiết Vận Xa M.113 bị hư hại.

    Sau khi 2 Trung Đoàn 31 và 32 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà bứng xong chốt Suối Tàu Ô, tiếp tục chia quân giữ an ninh đoạn đường dài 40 cây số từ căn cứ Lai Khê về đến căn cứ hoả lực Tân Khai.

  6. #86
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần KếtA




    1- T̀NH QUÂN DÂN NHƯ CÁ VỚI NƯỚC

    Theo tổ chức của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, mỗi đơn vị tác chiến ở cấp Trung Đoàn, Lữ Đoàn, Chiến Đoàn đều có 1 Đại Đội Quân Y, có một bác sĩ Quân Y và nhiều Y Tá đi theo đơn vị hành quân ra mặt trận. Có nghĩa là tại mỗi mặt Đông, Tây, Nam, Bắc đều có một hay hai vị Quân Y Sĩ và nhiều toán cứu thương. Hăy đọc một đoạn trích ngắn trong bản phụ đính của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường trong tác phẩm “Trung Đoàn 8 Bộ Binh tại An Lộc” như sau (có thể xem như là tiêu biểu cho cả 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc về vần đề Y Tế và chung sự) ;

    Ngay khi địch ngưng tấn công, việc đầu tiên Trung Đoàn 8 cần phải giải quyết gấp là di tản thương binh và thường dân bị thương nặng về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, để Bác Sĩ Quân Y Trung Đoàn chăm sóc, kế đó là gom hết tất cả các xác chết đồng đội, thường dân và cả xác của Việt Cộng bỏ lại chiến trường, chôn để tránh mùi hôi thối do xác chết xông lên.

    Kiểm tra t́nh trạng quân số và thương binh th́ từ ngày 13 tháng 4, khi bắt đầu nhập cuộc chiến đến ngày hôm nay, tổn thất thương vong của các tiểu đoàn lên đến gần phân nửa. Số người tử thương th́ đă giải quyết chôn ngay tại chỗ, số bị thương th́ tồn đọng rất nhiều, v́ ngày nào cũng có nhiều thương binh nhưng không tản thương được. Do đó, Quân Y tạm thời giải quyết : số người bị thương nhẹ c̣n đi đứng được th́ sau khi băng bó xong cho trở về đơn vị cũ, cầm súng tiếp tục chiến đấu trở lại. Do đó, có người bị thương 2 hoặc 3 hay nhiều lần. Có người lần trước bị thương nhẹ, lần sau bị thương nặng. Cũng có những thương binh nhẹ sau đó lại tử thương. C̣n những thương binh nặng th́ để nằm đó chờ tản thương, sống thoi thóp, rồi có người ṃn mỏi chết dần



    Đại Đội 52 Quân Y báo cáo trong khu vực của Trung Đoàn 8 BB c̣n có cả ngàn Quân Nhân và thường dân bị thương nặng chờ tản thương, nằm chật cả một dăy phố trên đại lộ Hoàng Hôn. Những người c̣n lành mạnh th́ rất mệt mỏi và gầy ốm v́ phải chiến đấu hết ngày này sang ngày khác, không th́ giờ nghỉ ngơi, thiếu ngủ, thiếu ăn, tinh thần lúc nào cũng bị căng thẳng, sinh mạng không biết chết lúc nào. Lại nữa, mùi hôi thối từ những xác chết rất khó thở. Ruồi lằn sinh sản nhanh kinh khủng. Nước không đủ uống, lấy đâu mà tắm giặt, dơ bẩn, khó chịu, nhưng họ cũng phải ráng chịu. Phấn đấu sống để mà chiến đấu, để bảo vệ Quê Hương và Dân Tộc không lọt vao tay Cộng Sàn.

    C̣n về t́nh h́nh dân sự của Bệnh Viện Tiểu Khu B́nh Long xin trích “Nhật Kư An Lộc” của Bác Sĩ Nguyễn Văn Qúi trong Chương “Địa Nguc Trần Gian” từ trang 199 đến 218.

    2.- ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN

    Tôi đă cắt mấy cẳng chân nát bấy. Xuơng vỡ ra nhiều mảnh vụn. Thịt da tơi tả trông như miếng giẻ rách, bầy nhầy lẫn lộn đất cát và mấy sợi gân trắng hếu. Tôi thấy không tài nào giữ được những cẳng chân ấy. Chiếc cưa dây Gigli tôi dùng đi dùng lại nhiều lần, giờ đây không chịu nổi nữa. Tôi kéo cưa được mấy cái là đứt tung ra, văng cả máu lên mặt. Trong tủ y cụ tôi chỉ c̣n có hai sợi chót. Sau khi thay, tôi chỉ c̣n một sợi độc nhất để dành. Sợi dây cưa Gigli rất dễ sử dụng. Cưa mau lại đỡ mệt hơn cưa tay thường. Tôi phục người nào đó đă sáng chế ra sợi dây cưa này. Tiện lợi vô cùng, v́ nó chỉ là những sợi dây thép gồ ghề soắn lại với nhau nên luồn lách chỗ nào cũng được.

    Trong t́nh trạng hiện tại, tôi quí sợi dây cưa này lắm, nó giúp tôi làm việc mau lẹ c̣n dành th́ giờ mổ nhiều người khác. Thiếu nó th́ những trường hợp thiết đoạn tứ chi tôi đành bó tay. Tôi cố gắng làm việc cho thật nhanh để thương binh khỏi phải chờ đợi và nhất là tránh phơi ḿnh lâu ở chỗ không an toàn.

    Mọi nghi thức trong pḥng mổ đều được giản dị hoá đến mức tối thiểu. Chúng tôi chỉ cần một đôi găng tay. Mọi người trong toán mổ đều mặc áo giáp, đầu đội nón sắt để thay thế áo choàng mổ. Có như vậy chúng tôi mới yên ḷng làm việc v́ bên ngoài Việt Cộng vẫn pháo tới đều đều.

    Máy phát điện đă bị pháo kích hư từ đêm hôm qua. Tôi phải mở rộng cửa sổ để có đủ ánh sáng làm việc. Chiếc bàn mổ phải luôn luôn xoay ngang, xoay dọc, lộn đẩu lộn đuôi tùy thuộc nơi mổ là ngực, bụng, đầu hay chân tay để có đủ ánh sáng mặt trời rọi vào chỗ mổ. Pḥng hấp ngưng hoạt động v́ không c̣n điện nữa. Các dụng cụ giải phẫu đều được khử trùng bằng cách đốt bằng rượu cồn hay ngâm rửa trong nước sà bông gọi là surgical soap.

    Mặc áo giáp mổ vừa nặng vừa nóng. Trong pḥng mổ kín mít, không máy lạnh, chỉ có một cái cửa sổ thông hơi nên đứng một lúc mà mồ hôi vă ra như tắm. Tôi bị mất nước nhiều quá thành ra mau mệt. Nước bây giờ quư hơn vàng, khó kiếm ra. Pḥng mổ bây giờ không c̣n một giọt nước. Những khăn mổ đă dùng rồi, dính máu không có nước giặt được chị Huyền gom lại vứt thành đống sau pḥng trực y tá. Ngay đến nuớc rửa vết thương c̣n không có lấy nước đâu ra giặt đồ.


    Ngay những ngày đầu của cuộc chiến, tôi đă tiên liệu t́nh trạng này. Nhưng tôi thực không ngờ trận đánh kéo dài măi không dứt và h́nh như hiện giờ mới chỉ là khởi đầu. Tuần trước tôi đă ra lệnh cho Thượng Sĩ Lư chỉ huy các nhân viên pḥng mổ thu gom tất cả các chai nuơc biển đă dùng rồi, đổ đầy nươc vào, đem đi hấp để dự trữ hàng giẫy dài mấy trăm chai dọc theo tường pḥng mổ.

    Mặc dù chúng tôi dùng rất dè sẻn, chỉ để rửa các vết thương, số nước đó cũng chỉ được một tuần sau là hết. Cũng may tôi xuống dưới kho lớn đă đổ nát t́m được 6 gallon phisohex và hai thùng hydrogen peroxide. Không có nước pha, tôi đành rửa các vết thương bằng phisohex nguyên chất.

    Pḥng mổ bây giờ thật xơ xác hoang tàn. nền nhà dơ bẩn v́ không có nước lau đă lâu. Dưới chân bàn mổ từng vũng màu đông đen x́ hôi hám. Không khí ngột ngạt khó thở, không thể nào tiếp tục làm việc được nữa. Bệnh viện đă bị cô lập. Muốn liên lạc với các giới chức có thẩm quyền để xin trợ giúp chỉ c̣n có một cách đích thân đi bộ tới tận các bộ chỉ huy. Nhưng trong t́nh thế này tôi không tin là họ có thể giúp được cho bệnh viện một chút ǵ. Tôi tự nghĩ, có sao làm vậy, đến đâu hay đến đó, hết sức ḿnh th́ thôi.

    Khoảng 5 giờ chiều, Bác Sĩ Nam Hùng ở pḥng cấp cứu xuống cho tôi hay có 5 người bị thương bụng cần mổ gấp, tôi nghe vậy mệt xỉu luôn.

    Dù ở trong thời b́nh với đầy đủ phương tiện, tôi có làm suốt đêm đến sáng, chưa chắc một ḿnh tôi có thể giải quyết xong số thương binh đó. Huống chi, trong t́nh trạng hiện nay, với một số nhân viên cố định, đă làm việc suốt ngày không nghỉ. Tôi nghĩ không tài nào làm hết nổi. Không biết trận chiến c̣n kéo dài đến bao giờ. Tôi phải giữ sức khỏe cho nhân viên và cho tôi để có thể tiếp tục làm việc trong những ngày sắp tới. Nếu phung phí sức khỏe làm việc trong một ngày để rồi sau đó kiệt sức nằm bẹp một chỗ th́ thật là người bất trí.

    Lại c̣n vấn đề cá nhân nữa. Không ai lo cơm nước cho chúng tôi. Chúng tôi phải tự túc lấy. Sau vài ca mổ trong giờ xả hơi tôi tạt qua pḥng nhắp vội một hai nắp bi đông nước cho đỡ khát, ăn vội mấy th́a cơm sấy với thịt hộp cho qua cơn đói. Các nhân viên pḥng mổ khác chắc cũng được bạn bè giúp đỡ nên họ cũng chưa đến nỗi kiệt sức lắm.

    Tuy nhiên trong t́nh trạng hiện tại, không điện nước, không đèn đuốc, th́ dù có tinh thần cao cách mấy cũng không thể nào làm được. Lại thêm Việt Cộng vẫn tiếp tục pháo kích suốt ngày. Đạn pháo rơi bên trường trung học trước bệnh viện,bên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5, bên Ty Công Chánh sau bệnh viện rồi rơi vào ngay cả bệnh viện khiến cho chúng tôi đứng mổ không yên. Mọi người đều cố làm thật nhanh để c̣n đi t́m chỗ núp.

    Những vội vă trong ḷng không biểu lộ ra nét mặt. Ai nấy đều có cái vẻ ngoài điềm tĩnh để làm việc. Có thể nói sợ quá hoá lỳ. Vị thực ra đâu c̣n cách nào khác. Tuy nhiên mỗi lần nghe tiếng rít của đạn bay qua đầu hay tiếng hú của hoả tiễn th́ những dấu hiệu kinh sợ mới thấy hiện ra trong ánh mắt mệt mỏi của mọi người. Riêng tôi, mỗi lần như vậy th́ cảm giác sợ hăi làm co thắt các bắp thịt đến buốt nhói ở tim. Khi nghe thấy tiếng đạn nổ rồi, thấy ḿnh không hề hấn ǵ mới yên ḷng làm việc tiếp.

    Càng ngày Việt Cộng càng pháo nhiều, tinh thần mọi người ở đây thật căng thẳng. Sống tính từng giờ, chết không biết lúc nào. Chúng tôi như những con chim đă bị tên, thấy cây cong là sợ : một tiếng xiết chân, một tiếng chép miệng, một tiếng thắng xe, tiếng xao động của mái tôn cũng làm cho chúng tôi giựt thót ḿnh. Bao giờ tôi cũng có cảm tưởng là có một trái đạn treo trên đầu ḿnh sẵn sàng nỗ bất cứ lúc nào.

    Tôi nhận thấy không tài nào làm hết những vết thương bụng đó được.Tôi chọn xem người nào nhẹ nhất tôi làm trước. Những người nặng và những người mất máu nhiều không có hy vọng sống sót sau khi mổ, tôi chỉ cho truyền nước pha với trụ sinh rồi giao cho số mệnh.

    Trong số những người bị thương bụng không mổ, chỉ có hai người sống sót, một cô gái và một người lính cao lớn tên Ba. Tiếc thay anh Ba sống được hai tuần th́ một đêm kia, pḥng hậu giải phẫu bị trúng một trái 61 ly. Người đàn bà nằm ngay chỗ trái đạn nổ cùng với đứa con không việc ǵ, trái lại anh Ba bị một mảnh nơi cẳng chân trái. Một tuần sau anh chết v́ bị phong đ̣n gánh.

    Trong ánh sáng lờ mờ của buổi chiều, trong không khí ngột ngạt oi bức tanh mùi máu của pḥng mổ, tôi, Thiện, X̣m cố sức làm việc. Tôi cố khâu những vết thủng ruột non. Tôi thấy khó thở quá, mồ hôi chảy ṛng ṛng trong thân làm tôi thấy ngứa ngáy khó chịu. Thỉnh thoảng tôi lại phải nghiêng đầu dơ vai lên quẹt mồ hôi ở mặt từ trán chảy xuống.

    Bây giờ không c̣n như mấy ngày trước nữa mà mong có người đứng bên lau mồ hôi cho ḿnh. Trong hoàn cảnh khó khăn tôi đă h́nh thành một triết lư sinh tồn là cứ hết sức chú ư vào công việc ḿnh làm, không cần để ư tới thời gian và những phiền toái chung quanh. Bởi vậy cuộc mổ chiều hôm đó tuy cực nhọc khó khăn rốt cuộc rồi cũng xong.

    Tôi mệt lả người. Trong lúc Thiện, X̣m đẩy bệnh nhân ra pḥng hậu giải phẫu, tôi bước ra ngoài cho dễ chịu một chút. Tôi không dám hít mạnh v́ không khí bệnh viện hiện giờ chẳng trong lành, thơm tho ǵ. Cho tới nay gần 300 xác người nằm sấp lớp dưới nhà xe và sân sau của bệnh viện. Những xác chết đó có từ ngày đầu của cuộc chiến, đến nay gần mười ngày mà chưa được đem đi chôn. Buổi chiều mùa hạ nóng bức cùng với mùi tử khí của những xác người đă bắt đầu trương ph́nh làm cho không khí đặc quánh, thật khó thở.

    Bệnh viện có một nhà xác chứa được hai xác. Khi tôi tới làm việc ở tỉnh này được chừng ba tháng, th́ dự án nới rộng nhà xác của tỉnh đă được thông qua và bắt đầu. Một ông thượng sĩ an ninh của tỉnh th́ thầm với tôi :

    - Bác sĩ đừng chê tôi dị đoan, nới rộng nhà xác là điều tối ky, v́ chắc chắn sẽ có nhiều người chết lắm. Để rồi bác sĩ coi tôi nói có đúng không. Trước kia làm ở tinh Chương Thiện cũng vậy. Chỉ vài tháng sau khi nới rộng nhà xác là vô số người chết tới.

    Lúc đó tôi gật đầu cho ông ta vừa ḷng, nhưng trong bụng bán tín bán nghi. Nay th́ thấy ông thượng sĩ già này có lư.

    Thoạt đầu những người tử nạn đều được tẩm liệm vô ḥm đàng hoàng, có cả quốc kỳ phủ quan tài cùng hương đèn đốt cháy suốt ngày đêm. Trung đội chung sự không đem đi chôn được v́ pháo kích và khu nghĩa địa không được an ninh v́ ở xa, ngoài vùng kiểm soát của quân ḿnh, nên xác chết cứ để lại tại bệnh viện.

    Khuya, sau khi mổ xong, đi xuống pḥng ngủ, tôi không dám nh́n ra phía nhà quàn với hàng quan tài có những ánh nến leo lét cháy. Cứ trông thấy là tôi lạnh người dựng tóc gáy rảo bước cho mau.

    Dần dần người chết quá nhiều, bất cứ nơi nào có xác chết là họ thu về đem thảy vào nhà xác bệnh viện. Mới đầu giới hạn ở nhà quàn, sau lan ra nhà xe, tới sân sau, rồi tới ngang hông văn pḥng Ty Y Tế ngay trước trại ngoại khoa. Có xác quấn poncho, có phiếu chứng tử đính kèm, nhiều xác để trần mặc áo giáp, xác nằm xấp, nằm nghiêng, co chân co tay, miệng há hốc, mắt trợn trừng. Có xác nằm b́nh thản như người ngủ. Có xác trương ph́nh, bụng căng cứng, bóng như bụng ễnh ương, chảy nước vàng, rữa nát v́ để quá lâu, phơi nắng suốt ngày đă biến màu thành đen sạm như ch́. Xác của người lớn, của trẻ con, của quan, của lính, của dân nằm lẫn lộn, xông lên mùi hôi thối suốt nửa tháng trời. Ruồi nhặng bu đầy trên mặt mũi, trên những vùng nước rỉ ra từ những thân thể sắp rữa nát.

    Để ngăn ngừa ruồi muỗi sinh sản, có người đem rắc bột DDT lên những xác chết. Hành động này về phương diện vệ sinh, trên lư thuyết th́ rất đúng. Nhưng đứng ở một nơi nào khác kia, ở một thời điểm nào kia, chứ thực t́nh tôi vẫn phân vân tự hỏi tại đây nó có tốt không ? Trong nhất thời, tôi cho là tai hại quá.

    Ruồi nhặng bị xua đuổi khỏi chỗ ở của nó liền quay vào tấn công bệnh viện. Khắp chỗ nào cũng có ruồi nhặng. Chúng ĺ lợm đậu lên đầu lên mặt tôi, lên mặt những thuơng binh mệt mỏi nằm ngủ quên. Tôi đưa tay vuốt mặt ngửi thấy mùi hôi thối của xác chết kinh tởm đến lợm giọng. Tệ hơn nữa hiện giờ chẳng kiếm đâu được nước mà tắm rửa. Tôi lấy một cục bông g̣n thấm alcool lau qua cho đỡ bẩn. Mùi hăng nồng của alcool quả thực đă làm tôi thấy sạch sẽ hơn, dễ chịu hơn được một chút.

    Lại nữa, mùi DDT trộn với mùi của xác chết x́nh thối hợp thành một mùi khủng khiếp không tài nào ngửi được. có những xác ruồi bu đen suốt từ đầu đến chân, tôi trông thấy mà nôn nao trong ruột muốn ói.

    Mấy ngày sau, anh Châu kiếm đâu được ít thịt heo đem kho tầu mang đến cho tôi nhưng tôi không thể ăn được. Cứ đưa miếng thịt lên miệng lại nghĩ tới đống thịt rữa nát chỉ cách ḿnh không xa là mấy, đành phải bỏ xuống. Ấn tượng đó cho đến cả tháng sau, lúc dọn sang bộ chỉ huy tiểu khu mới hết.

    Sau khi không thể chịu được những xác chết đó nữa, chúng tôi tŕnh sự việc lên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5. Một vị đại tá được chỉ thị lo việc này. Đó là Đại Tá Điềm nguyên Tỉnh Trưởng Long Khánh hồi tôi c̣n ở Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh đóng ngay tại tỉnh này. Không hiểu sao tôi lại gặp ông ở đây. Đích thân ông dẫn một tốp lính cùng 10 lao công đào binh để hốt xác đem lên xe cam nhông đưa đi chôn. Nhưng khi Đại Tá Điềm ra lệnh xong vừa quay về là lính, lao công đào binh cũng trốn luôn. Ai cũng ghê tởm không dám làm công việc khênh hàng trăm xác rữa nát hôi thối lên xe.

    Ở sân trường học, ngay phía trước cửa bệnh viện, một chiếc xe ủi đất của Ty Công Chánh đang đào những hố thiệt lớn. Tiếng máy nổ khác thường làm mọi người chú ư. Ai cũng thắc mắc không hiểu họ đang làm ǵ. Mới đầu, tôi tưởng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn cho làm thêm công sự chiến đấu, sau mới biết là đào hố chôn tập thể. Xe phải đào tới gần một ngày mới xong.

    Buổi chiều chừng 5 giờ, một xe GMC dẫn 10 lao công đào binh cùng 5 người lính sang bệnh viện. Xe de đít quay vào đám xác. Lần này có lệnh của Đại Tá Điềm là ai trốn chạy sẽ bị bắn tại chỗ. Chính nhờ nghiêm lệnh này công việc đă được tiến hành tương đối chu đáo và có hiệu quả. Một trung sĩ to con, mặt sát khí đằng đằng cầm súng M.16 đứng chỉ huy.

    Mấy người lao công đào binh đi kiếm bao nylon gạo sấy để làm bao tay h́ hục khênh từng xác vất lên xe.

    Nước vàng hôi thối từ những xác chết chảy ṛng ṛng. Bắt họ làm công việc này thật tội nghiệp. Nhưng nếu không bắt buộc th́ làm sao giải quyết nổi gần 300 cái xác đó. Sau khi chất lên được gần một xe, nh́n lại thấy số xác người như không suy chuyển một chút nào, mấy anh lao công đào binh đă bắt đầu nản, xuống tinh thần. Phần v́ mệt mỏi, phần v́ tiếp cận ngay những cái xác đang rữa nát hôi thối đó, họ đều xin dừng tay nghỉ mệt và một anh đề nghị lấy xe ủi đất ủi tất cả các xác đó vào một đống sau bệnh viện rồi đổ xăng đem đốt. Nhưng giải pháp này không được chấp thuận. V́ mùi khét lẹt của gần 300 cái xác đó xông lên th́ chắc không ai chịu nổi.

    Bỗng một người lính la lên :

    -Có thằng trốn.

    Hai người lính liền đi lục soát t́m kiếm. Lợi dụng mọi người không chú ư, ba người nữa chạy vội ra tính leo rào trốn khỏi bệnh viện. Một cuộc rượt bắt diễn ra. Anh trung sĩ phải bắn mấy phát chỉ thiên mới bắt lại được ba người, c̣n một người trốn mất luôn. Bắt được anh cho mỗi người một báng súng vô ngực, buộc phải quay lại làm tiếp. Anh hăm dọa :

    -Tụi bay mà bỏ chạy nữa tao bắn bỏ nghe.

    Một người lao công đào binh mồ hôi nhễ nhại ướt đẫm chiếc áo ka ki bạc màu, nhăn nhó qua hàng nước mắt :

    - Hôi thối quá làm sao tụi em làm được.

    Anh trung sĩ nạt lại:

    - Bộ tao đứng canh tụi bay ở đây không ngửi thấy mùi sao.

    Ráng làm cho xong rồi về.

    -Khênh người sống c̣n đỡ, khênh người chết śnh nặng quá muốn hụt hơi luôn. Trung sĩ cho tụi em nghỉ một lát để thở.

    -Được, cho tụi bay nghỉ 5 phút.

    Mấy lao công đào binh ngồi ngay xuống thềm xi măng văn pḥng Ty Y Tế nghỉ xả hơi. Mặt người nào người nấy phờ phạc có lẽ phải hít thở măi những mùi xú uế từ những tử thi để lâu ngày. Một người trông hăy c̣n trẻ, chừng 20 tuổi mặt mũi có vẻ thông minh ngồi dựa vào tường than thở.

    - Từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa bao giờ tao phải làm một việc cực khổ khốn nạn như thế này. Cực đéo chịu được, thà chết sướng hơn.

    Tôi cho người đi kiếm mấy cặp găng tay đă dùng rồi đưa cho họ mang để họ làm việc dễ dàng hơn là dùng những bao nylon gạo sấy.

    Hết năm phút xả hơi, họ lại được lệnh tiếp tục khênh xác lên xe. Đầy xe rồi tài xế liền lái ra hố chôn tập thể. Họ lại khênh xác vứt xuống hố. Tới 8 giờ tối mới xong được hai xe. Họ làm liên tục như thế trong hai ngày mới thanh toán hết số xác trong bệnh viện. Chiếc xe ủi đất phải đào thêm hố nữa dài theo sân của trường trung học mới đủ chỗ chôn. Ngoài ngă ba Xa Cam dọc theo vườn cao su, trung đội chung sự tiểu khu c̣n đào thêm một hố chôn tập thể khác khá lớn. Tôi nghe nói hố đó chứa chừng gần một ngàn xác.

    Giờ đây mồ mả mọc lên như nấm rải rác khắp thành phố. Những tấm bia bằng gỗ pháo binh, bằng giấy carton được mấy người bạn đồng đội viết nguệch ngoạc tên họ người chết và cắm lên vội vă. Họ phải làm thật lẹ v́ rất nguy hiểm khi phơi ḿnh quá lâu trên mặt đất. Đạn pháo kích có thể rơi xuống bất cứ lúc nào.

    Trước cửa nhà Tiểu Khu Phó, hai người đang đào hố chôn bạn, gần xong th́ bị ngay một trái 105 ly. Chẳng một ai sống sót. Sẵn hố đă đào, người ta liền vùi tất cả chung vào một lỗ. Thành ra những ngựi lính ấy đă tự tay đào lỗ chôn ḿnh. Mấy anh lao công đào binh cũng bị tử nạn đang khi vứt xác xuống hố. Thi thể họ cũng được vùi chung với những xác mà họ mới vừa khênh xuống.

    Người ta kể chuyện, v́ có những vụ như vậy nên mỗi lần đào hố chôn, họ lại đào rộng ra một chút để nếu có bất hạnh xảy ra th́ có sẵn hố tự chôn ḿnh luôn. Thật là bi thảm nếu quả thực là như vậy. Không biết chuyện đó có thật hay không.

    Từ khi giải quyết xong mấy trăm xác chết đó, bệnh viện thấy dễ thở hơn được một chút. Tuy nhiên hàng ngày, trung b́nh có từ 3 đến 5 xác do các nơi đem tới. Trung đội chung sự v́ vậy cứ cách ngày lại phải tới bệnh viện gom xác lại đem đi chôn. Công việc cứ tiến hành đều đều như vậy, nên không c̣n sự ối đọng cả mấy trăm xác chết như trước nữa.

    Ở đây không phải chỉ chết một lần, mà hai lần, có trường hợp tới ba lần. Pháo trúng mồ, thân xác bị cầy nát lên, được chôn lại, bị pháo trúng nữa, thịt xương rữa nát văng văi tứ tung, hôi thối khủng khiếp. Đó là truờng hợp của một nữ y tá thuộc pḥng y tế công cộng chẳng may bị tử thương, được bạn bè đem chôn tại bờ tường phía sau bệnh viện, đă bị chôn hai lần như vừa kể ở trên. Và đó cũng là trường hợp của bốn quân y tá mà tôi là người nói chuyện với họ lần cuối cùng dưới tàn cây trứng cá trườc cửa văn pḥng Milphap.

    Khi tôi từ pḥng mổ đi xuống trại ngoại khoa, nửa đường gặp một nhóm quân y tá đang đứng nói chuyện với nhau. Trông thấy tôi, binh nhất Út tươi cười chào hỏi :

    - Bác sĩ làm việc có mệt không ?

    Tôi đứng lại nhập bọn với họ, trả lời :

    - Mệt lắm, nhưng cũng phải cố gắng, c̣n nước c̣n tát. Thế các anh em có chỗ núp an toàn không, ăn uống cơm nước ra sao ?

    - Thưa bác sĩ, nhờ có gạo sấy do thả dù tiếp tế nên cũng không bị đói. Chúng em cứ hai người chung một hố cá nhân đào dọc tường sau của trại nhi khoa, cho đến bây giờ th́ may mắn chưa có ai bị hề hấn ǵ cả.

    - Thế th́ tốt lắm, nhưng không nên đứng khơi khơi giữa trời như thế này làm ǵ, nguy hiểm lắm..

    Nói xong, tôi liền tiếp tục đi xuống trại ngoại khoa, mở khóa vào trong pḥng ngả lưng định nằm vài phút để lấy lại sức. Vừa nằm chưa ấm chỗ tôi chợt nghe một tiếng nổ rất gần ngay trong bệnh viện, không to lắm, mảnh đạn, đất đá văng lên mái nhà nghe rào rào. Tôi đoán là đạn súng cối 61 ly. V́ đă có kinh nghiệm và đă quá quen với pháo kích rồi nên nghe tiếng nổ là tôi có thể đoán trúng được là loại đạn ǵ. Tôi nghĩ thầm loại này th́ nhằm nḥ ǵ chỉ như găi ghẻ mà thôi. Tôi chẳng thèm để ư, định bụng nằm trên giường như thường, chẳng cần phải chui xuống gầm giường như mọi khi nữa.

    Đang suy nghĩ miên man, th́ có tiếng gơ cửa gáp rút, rồi tiếng trung sĩ Lạng trưởng trại ngoại khoa nói vọng vào :

    - Xin mời bác sĩ ra ngay cho. Có bốn y tá của ḿnh bị thương nặng!

    Tôi vội ngồi bật dậy, đi ra ngoài, khoá cửa lại cùng trung sĩ Lạng chạy ra phía đầu trại ngoại khoa, ra tới sân trước văn pḥng Milphap tôi thấy một nhóm đông đang xúm xít săn sóc bốn người bị thương nằm dưới đất.

    Tôi khám thật nhanh thấy ba người kia đă chết v́ vết thương quá nặng ở đầu, bụng. C̣n có binh nhất Út thấy có vẻ tỉnh táo nhưng mặt mày xanh mét v́ mất máu, v́ đau. Tôi ra lệnh cho y tá khênh Út vào văn pḥng Milphap, đặt anh ta trên chiếc bàn, rồi bắt đầu khám lại kỹ càng hơn. Tôi thấy một vết thương do mảnh đạn xuyên vào phổi phải. Không có tiếng thở phế bào. Chắc máu ra nhiều trong phổi. Tim đập rất yếu. Chắc chắn bệnh nhân cần phải được thông phổi ngay. Nhưng những dụng cụ thông phổi nay đă hết. Nên tôi đành phải dùng valve Heimlitz là một h́nh thức thông phổi mà không cần b́nh nước v́ valve chỉ cho phép đi một chiều tức là máu ra được nhưng không khí không vào được do hai lá cao su khi thở ra th́ nó mở ra, khi hít vô th́ nó tự động đóng lại theo sức ép của không khí.

    Tôi biết vết thương này không đơn giản. Chắc chắn nó đă gây hư hại nhiều cho những cơ quan bên trong. Tôi chắc Út khó có thể qua khỏi được nếu không được di tản kịp thời. Nhưng với t́nh trạng hiện nay, tản thương là điều không thể có được. Tôi nghĩ đến nước này chỉ đành phó mặc cho trời mà thôi.

    Sau khi truyền nước biển xong tôi dặn mấy người bạn Út canh chừng trong đêm nay. Ngày mai nếu may mắn có chuyến tản thương sẽ cho Út ưu tiên đi trước.

    Tôi đi ṿng qua đống rác lớn cuối trại nội khoa, ra pḥng cấp cứu. Qua hành lang giữa trại, tôi thấy thương binh nhiều quá, nằm bừa ra cả lối đi. Tôi phải len chân lần từng bước. Ra tới cửa chính giữa, nơi được dùng làm pḥng cấp cứu. Một cảnh tượng đau ḷng hiện ra. Chừng 30 thương binh nằm đầy ra ở dưới đất. Một vài người có bang ca, c̣n phần đông nằm ngay trên sàn gạch dơ dáy, đầy bông băng vấy máu. Một bàn kê sát vách tường trên đó để đầy các thứ thuốc sát trùng, các thứ thuốc chích, cạnh đấy là những thùng băng đă được khui sẵn. Sáu y tá luôn tay làm việc băng bó. Bác sĩ Nam Hùng, bác sĩ Tích đă khám vết thương từng người rồi ra chỉ thị cho y tá, cái nào rửa sạch băng lại, cái nào cần giải phẫu th́ chuyển xuống pḥng mổ. Tôi đến gần bác sĩ Tích, anh nh́n lên lắc đầu thở ra. Tôi hiểu ư nói:

    - Nhiều quá phải không anh Tích ? Bác sĩ Tích gật đầu mệt mỏi đáp :

    - Tôi với anh Hùng làm từ sáng tới giờ mà vẫn không hết. Nghe nói họ sẽ c̣n mang tới nữa.

    -Trời! Lấy chỗ đâu cho thương binh nằm. Ở đây đầy rồi. Dưới trại cũng hết chỗ chứa.

    Bác sĩ Tích ngao ngán lắc đầu :

    - Mấy thằng khiêng cáng viên dông hết rồi. Tụi nó mất tinh thần, tên nào tên ấy lờ quờ không muốn làm ǵ cả.

    - Ḿnh bận làm việc không hở tay đâu để ư được tụi nó. Giá có thêm người đứng ra chỉ huy, tụi nó sợ, làm việc, th́ đâu có ối đọng khổ sở như thế này.

    Tôi đi thăm một lượt, may mắn không có ai cần phải mỗ lớn cả. Phần đông đều bị thương ở tay chân. Có nhiều người bị găy xương, được các bạn đồng đội băng bó giữ im tạm khúc xương bị găy bằng những cành củi khô hoặc bất cứ vật ǵ mà họ kiếm được.

    Một điều tôi lấy làm lạ là bị thương đau đớn như thế mà không có ai kêu la. Khi các y tá xức thuốc rửa những vết thương trầy trụa, họ chỉ suưt soa nhăn mặt cắn răng chịu đựng chứ không như những ngày thường.

    Trong số những người bị thương, có mấy người dân vừa đàn bà vừa trẻ con. Một đứa trẻ cụt cả hai chân lên tới đầu gối, nằm gối đầu trên một chiếc hộp đựng băng, dơ đôi mắt lờ đờ nh́n tôi miệng mấy máy một cách yếu ớt :

    - Nước, nước, cho con hớp nước.

    Sắc mặt nó v́ bị mất máu nên xanh mét, da môi khô, cánh tay trái bị băng gần hết. Một sợi giây ṿng qua cổ treo cánh tay trước ngực thành một góc 90 độ.Tay kia cũng đuợc giữ im để truyền nước biển. Thân h́nh nó thành ra ngắn ngủn một cách thảm hại. Vệt nước mắt khô c̣n in trên má. Mắt nó ráo hoảnh, nó không c̣n nước mắt để mà khóc. Nó nh́n để mà nh́n, đôi mắt dường như vô cảm giác. Tôi nghĩ nó đă quá mệt, tê dại không c̣n biết đau đớn là ǵ nữa. Nó bây giờ chỉ c̣n là một sinh vật, sinh vật “vô tri”. Cạnh đấy một người đàn bà bị thương ở má phải tóc bê bết máu nằm gục đầu trên đống băng vấy máu. Vết thương của bà ta đă được băng bằng một băng cá nhân nhà binh khá lớn che gần hết khuôn mặt chỉ để hở một con mắt tím bầm, sưng vù, thỉnh thoảng cố nhướng lên mà không được. Bà ta nằm rên nho nhỏ.

  7. #87
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần KếtB





    Phía góc pḥng, một người lính bị thương ở đầu, bị quấn băng kín mít, chốc chôc lại la lên :

    - Trời ơi khát nước quá, ai cho tôi miếng nước.

    Kêu xong anh ta lại nằm yên như không có ǵ xảy ra cả. Mọi người đều bận rộn, không ai lấy nước cho anh, v́ thực ra cũng khó mà kiếm được nước trong lúc này. Tôi yên trí không lo anh bị chết khát, v́ chai nước biển treo bên cạnh vẫn c̣n nhỏ đều đều từng giọt thẳng vào mạch máu.

    Tôi nh́n những người y tá làm việc băng bó như máy. Không hiểu họ có nghĩ ǵ không. Suốt 20 năm chiến tranh, chết chóc bị thương xảy ra quá thường như cơm bữa, khiến người ta dường như không c̣n xúc động trước những cái chết của đồng loại. Tôi đă nhận ra được điều này ngay từ hồi tôi c̣n là một sinh viên y khoa thực tập tại khu ngoại khoa bệnh viện Chợ Răy. Hôm ấy người ta khênh vào hai mẹ con bị thương. Tôi săn sóc khâu vá vết thương của người mẹ. Tôi hỏi :

    - V́ sao chị bị thương vậy ? Người đàn bà đáp :

    - Bị máy bay bắn lầm trong khi cả nhà tôi đang ăn cơm. Hiện giờ chồng tôi và đứa con út bị chết vẫn c̣n để nằm ở nhà.

    Điều làm tôi kinh ngạc nhất là giọng nói thản nhiên, gần như vô cảm giác, không một chút xúc động, không một giọt nước mắt, dường như bà ta đang nói về cái chết của người chồng, người con nào đó không phải của bà ta. Tôi cứ tưởng bà ta phải gào thét lên, khóc nức nở hay tỏ ra đau đớn lắm khi nhắc tới cái chết của chồng con. Nhưng thực sự đă trái lại, và điều này làm tôi chợt hiểu là chiến tranh đă làm chai đá ḷng người.

    Tuy nhiên cũng c̣n may, chiến tranh chưa hủy diệt hết tất cả t́nh cảm của con người v́ sau này, trong những lần hành quân đụng địch, tôi đă bắt gặp được những tiếng khóc thổn thức, những tiếng kêu thảng thốt của những binh sĩ khi nghe tin một người bạn đă gục ở tuyến đầu. Thành ra về một phương diện nào đó, đau khổ quá mức làm cho tê dại đi cũng là một phản ứng tốt để người ta có thể sống c̣n được.

    Tôi tiến dần ra phía ngoài cửa. Nơi đây quả là một địa ngục trần gian. Người sống người chết nằm lẫn lộn với nhau. Một người lính nằm dựa vào chân cột hành lang mắt nhắm nghiền. Một bên má có một vết thương c̣n rỉ máu. Cánh tay trái băng kín treo trước ngực. Khắp người anh chỗ nào cũng đầy những vết thương nhỏ. Anh nằm gác chân lên cái xác mà anh tưởng là một người bạn, thỉnh thoảng anh đập chân th́ thào :

    - Lấy tao hớp nước mày.

    Có lẽ anh ta đă mê loạn rồi chăng ? Gần đấy một người bị thương ở cẳng chân, nằm gối đầu lên đùi một người bị thương ở đầu dường như đang ngủ mê mệt. Tôi tới gần xem, người bị thương ở đầu đă chết từ bao giờ. Tôi bỗng nghe một tiếng gọi yếu ớt

    - Bác sĩ !

    Tôi quay đầu lại, đưa mắt t́m kiếm xem tiếng nói từ đâu. Một cánh tay gầy khô như khúc xương mệt mỏi vẫy tôi. Tôi nhận ngay ra Điểu Thoul, môt lính Địa Phương Quân người Thượng đang nằm sát chân tường gần cửa pḥng bác sĩ Chí. Tôi tới gần cúi nh́n vào hố mắt sâu hoắm của anh ta. Điểu Thoul giờ chỉ c̣n là bộ xương. Hắn quá yếu đuối không c̣n nhúc nhích ǵ được. Điểu Thoul bị thương ở bụng thủng ruột già. Tôi đă mổ làm hậu môn nhân tạo cho anh ta. Mấy ngày trước tôi đă cho tản thương, khênh ra khênh vào mấy lượt nhưng rốt cuộc không đi được, rồi chắc bị bỏ nằm ở đó.

    Tôi ngồi xuống bên anh ta, một mùi hôi thối xông lên. Chung quanh chỗ nằm chảy đầy be bét toàn là phân. Cái túi nylon đựng phân buộc ở hậu môn nhân tạo mấy ngày nay không được thay, phân đầy tràn ra ngoài, những con bọ nhỏ ḅ lổn ngổn trông thấy mà nổi gai ốc. Tôi nói :

    - Để tôi gọi người thay túi nylon cho anh chịu không ?

    Điểu Thoul không nói ǵ, hai giọt nước mắt chảy dài trên đôi má hóp. Thường ngày cũng vậy, Điểu Thoul ít khi nói lắm. Bị đau nhức hay khó chịu trong ḿnh chỉ biết ứa nước mắt khóc mà thôi. Tôi hỏi :

    - Đói không, tôi cho người chuyển xuống trại nhé ?

    Điểu Thoul gật nhẹ đầu. Sau đó tôi nhờ anh X̣m, thượng sĩ Lư làm sạch vết thương rồi khênh hắn xuống trại hậu giải phẫu.

    Trước cửa sổ pḥng bác sĩ Chí, ba xác nằm b́nh thản ngay lối đi. Xa hơn nữa, trước cửa pḥng nha khoa hai xác nằm sóng đôi được đậy bằng một tấm tôn cong queo thủng lỗ chỗ v́ bị mảnh đạn chừa ra hai cặp chân tím ngắt sưng mọng nước. Những thây đó đă bắt đầu hôi, mùi tử khí làm cho mọi người ngột ngạt khó thở.

    Tôi thấy cô Bông, điểu dưỡng trưởng của bệnh viện, đang loay hoay băng bó một cách khó khăn cho một người lính bị thương ở đùi. Cẳng chân bị ngắn lại bị vẹo về một bên. Tôi hấp tấp bước lại :

    - Khoan hăy băng, người này bị găy xương đùi, làm bậy bạ bị kích xúc dễ chết lắm. Cô chờ tôi một chút, tôi đi lấy nẹp Thomas, trong khi chờ đợi cô cho truyền một chai Ringer và chích một syrette Morphin cho bớt đau.

    Nói xong tôi rảo bước về pḥng mổ, ào vô kho lục được một chiếc nẹp mang ra. Tôi hỏi người lính :

    - Anh thấy đă bớt đau chưa ?

    Anh ta gật đầu nhè nhẹ. Tôi vẫy trung sĩ Trọng :

    - Lại đây giúp tôi một tay. Anh bợ nhẹ chân này lên để cô Bông đặt nẹp vào.

    Tôi nắm lấy cổ chân người lính, hơi kéo nhẹ nhàng vừa nâng lên cao. Người lính nhăn mặt kêu đau. Tôi vừa giữ chân vừa vỗ về anh.

    - Chịu khó một chút sắp xong rồi.

    Năm phút sau, chúng tôi băng bó và giữ im xong. Trên trán người lính c̣n lấm tấm mấy giọt mồ hôi. Anh đă can đảm cắn răng chịu đau khiến chúng tôi làm việc được mau chóng dể dàng. Tôi thấy cô Bông có vẻ mệt. Bây giờ là 8 giờ tối. Tôi biết cô và Trọng đă làm việc không ngừng từ suốt sáng tới giờ. Đầu tóc cô bơ phờ. Chiếc áo bà ba bằng lụa xanh màu lá chuối non và chiếc quần đen đều vấy máu.

    Chúng tôi làm việc dưới ánh sáng bập bùng của ngọn đèn biến chế làm bằng một chai thủy tinh đựng dầu lửa, nút chai được đục thủng một lỗ để bấc đèn chui qua. Ngọn lửa có nhiều khói khét lẹt. Tôi nói với hai người :

    - Chắc hết bệnh rồi. Ḿnh có thể đi nghỉ được.

    Cô Bông đưa tay quẹt mấy giọt mồ hôi trên trán nói :

    - Bác sĩ đi nghỉ trước đi. Tôi đi kiếm chút nước cho thằng bé nằm kia uống.

    Tôi vội dặn cô :

    - Coi chừng đấy, mấy người khác thấy được, họ nhao nhao lên đ̣i, cô không có nước đâu mà cho.

    Cô Bông mỉm cười hiểu ư nói :

    -Tôi biết mà, bác sĩ yên trí đi nghỉ đi.

    3- SO SÁNH CƯỜNG ĐỘ VÀ Ư ĐỒ CỦA TỪNG ĐỢT TẤN CÔNG CỦA QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT

    Đợt tấn công lần thứ nhất do Công Trường 5 và Công Trường B́nh Long đóng vai nỗ lực chính, cường độ tấn công cũng rất là hung hăn, v́ theo lệnh của Hà Nội phải chiếm cho được An Lộc trước ngày 20 tháng 04 năm 1972 để ra mắt cái Chính Phủ Bù Nh́n Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đó là thể diện của Bắc Bộ Phủ v́ Đài Phát Thanh tại Hà Nội đă loan tin đi khi Công Trường 5 mới vừa chiếm được Lộc Ninh. Tại Lộc Ninh, lực lượng Việt Nam Cộng Hoà trú đóng có 1 Chiến Đoàn cộng thêm 1 Thiết Đoàn Chiến Xa M.41 + M.113 + 1 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng + 1 Pháo Đội của Chiến Đoàn 9 và một Khẩu Đội Pháo Binh của Chi Khu Lộc Ninh, mà vẫn không chống cự nổi đến 48 giờ. So với lực lượng tại An Lộc, (dựa theo bảng ước tính t́nh h́nh trận liệt của quân Cộng Sản Bắc Việt), th́ lực lượng của Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 5 Tiểu Đoàn (tính luôn cả 2 tiểu đoàn Địa Phương Quân của Tiểu Khu B́nh Long) và Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, vả lại hoàn toàn không có chiến xa yểm trợ, c̣n yếu hơn Lộc Ninh, nên Hà Nội mới nghĩ rằng tấn chiếm An Lộc dễ như trở bàn tay !!! Nhưng khi giáp trận th́ tại phía mặt Bắc, gặp ngay Trung Đoàn 8 Bộ Binh với 2,500 tay súng cừ khôi, lại được trang bị cả hai ngàn súng chống chiến xa M.72, và tại mặt phía Đông, đụng phải Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân với gần 1,500 tay súng, cũng được trang bị súng chống chiến xa, với tinh thần Quyết Chiến của các Chiến Sĩ Mũ Nâu, c̣n mặt phía Tây th́ cả Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, đang dàn trận chờ đón quân địch. Không phải chỉ có 5 Tiểu Đoàn mà cả 3 Trung Đoàn quân Chủ Lực Việt Nam Cộng Hoà và 2 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân. V́ lẽ đó, nên ngày 20 tháng 04 năm 1972 đă qua đi, mà Công Trường 5 và Công Trường B́nh Long dù đă tận hết sức b́nh sinh, đem nướng gần hết các cán binh và chiến xa, mở liên tiếp 3 cuộc tấn công biển người có xe tăng trợ chiến, nhưng cũng vẫn không chiếm được An Lộc… Cuối cùng Bộ Chỉ Huy chiến dịch Nguyễn Huệ của Cộng quân, bị Hà Nội khiển trách, buộc phải thay thế Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt bằng Công Trường 7 và Công Trường 9 tiếp tục làm nỗ lực chính để tấn công từ hướng Tây và Tây Nam.

    Đợt tấn công lần thứ tư do Công Trường 9 và Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt, đóng vai nỗ lực chính, cường độ tấn công c̣n ác liệt hơn lần thứ nhất. Quyết chiếm An Lộc để gỡ thể diện cho Hà Nội, đă lỡ loan tin di cùng cả thế giới … Lần thứ tư cũng không xong, rồi đến ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh cố lấn chiếm An Lộc để mừng ngày sinh nhật của Bác, cho âm hồn Bác được vui vẻ dưới âm ty, nhưng cũng không xong, chỉ v́, khi vỏ quưt dầy th́ có móng tay nhọn (đụng phải quân Dù và Biệt Cách Dù).

    Thật sự, trong đợt tấn công ngày 13 tháng 04 năm 1972 của Công Trường.5 và Công Trường B́nh Long Cộng Sản Bắc Việt từ mặt phía Bắc và phía Đông, nếu được thay thế bằng Công Trường 9 và Công Trường 7, tấn công vào mặt phía Tây do Trung Đoàn 7 (-) Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà trấn thủ, và phía Tây Nam do lực lượng Địa Phương Quân của Tiểu Khu B́nh Long pḥng ngự, th́ quân Cộng Sản Bắc Việt đă đánh xuyên thủng được hệ thống pḥng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hoà từ ngay cuộc khai pháo đầu tiên rồi.

    Khi Công Trường 9 được thay thế làm nỗ lực chính để tấn công từ mặt phía Tây và Tây Bắc và Công Trường 7 tấn kích mặt phía Nam An Lộc, th́ cũng vừa kịp lúc, Lực Lượng Dù đă được tăng cường cho An Lộc trấn đóng phía Nam, và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được tăng cường thêm cho Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại mặt trận phía Bắc.

    Cả 3 khắc tinh của Quân Cộng Sản Bắc Việt là ; B.52, Lực Lượng Nhảy Dù và Lực Lượng Biệt Cách Dù đều xuất hiện đủ trên chiến trường An Lộc. Cho nên dù rằng cả 2 Công Trường 9 và 7 Quân Cộng Sản Bắc Việt đă cố dốc toàn lực mở liên tục 2 cuộc tấn công, An Lộc vẫn c̣n ngạo nghễ đứng vững. Hà Nội phải đành muối mặt với cả thế giới, cặp bài trùng đạo diễn Kissinger và Lê Đức Thọ lại phải một phen đứng t́m, v́ Biệt Cách Dù (giả), nhảy bọc phía sau lưng Cục R, và riêng ngày sinh nhật Bác Hồ thật buồn tẻ, toàn là mùi xác thịt của con cháu SINH BẮC TỬ NAM mà thôi.

    ĐOÀN 28 ĐẶC CÔNG CHIẾN DỊCH NGUYỄN HUỆ PHỐI HỢP VỚI LỮ ĐOÀN ĐẶC CÔNG 429 MIỀN, MỞ MŨI DÙI XUYÊN PHÁ (OVERPASS) AN LỘC VÀO CÁC CỨ ĐIỂM LAI KHÊ (BẢN DOANH TIỀN PHƯƠNG CỦA QUÂN ĐOÀN 3/QUÂN KHU III), QUẬN LỴ TRỊ TÂM, QUẬN LỴ LÁI THIÊU THUỘC TỈNH B̀NH DƯƠNG,
    VÀ SAU CÙNG TẠI XĂ TÂN PHÚ TRUNG, NẰM TRÊN QUỐC LỘ 1 THUỘC TỈNH GIA ĐỊNH CÁCH THỦ ĐÔ SÀI G̉N KHOẢNG 10 CÂY SỐ VỀ PHÍA BẮC. (Xem bản đồ 13)

    Ngoài bốn Công Trường (Sư Đoàn) quân chủ lực của quân đội Cộng Sản Bắc Việt c̣n có các đơn vị đặc công (quy tụ thành tiểu đoàn hay lữ đoàn), có nhiệm vụ xâm nhập và đánh phá những vùng hay căn cứ ở sâu trong hậu phương của Việt Nam Cộng Hoà, mà địch gọi là tuyến vùng trung, để gây xáo động, và dọn đường trước cho quân chủ lực tiến công nối tiếp.

    Khi Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Việt Nam Cộng Hoà vừa rời khỏi Lai Khê vào ngày 07 tháng 04 năm 1972, một đơn vị của lữ đoàn đặc công Cộng Sản Bắc Việt đă thành công trong việc phá nổ kho đạn tại hậu cứ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà sau đó ít ngày. Kế tiếp, đơn vị đặc công di chuyển ngang qua Quận Lỵ Trị Tâm để đánh phá, nơi đây trước kia là bản doanh của Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà. đă được tăng cường cho mặt trận An Lộc từ ngày 12 tháng 04 năm 1972, chỉ được thay thế bằng một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân. Sau đó được Chiến Đoàn 43 Sư Đoàn 18 đến tiếp ứng và giải tỏa . Đặc công Cộng quân c̣n bỏ ṿi vào tới phía Nam Quận Lỵ Lái Thiêu thuộc Tỉnh B́nh Dương (khu vườn cây ăn trái măng cụt, soài riêng), liền bị lực lượng diện địa của Tiểu B́nh Dương tiêu diệt .

    Lần cố gắng sau cùng, vào khoảng trung tuần tháng 11 năm 1972 (giai đoạn 2 của chiến dịch Nguyễn Huệ) liên đoàn đặc công Miền gom tàn quân c̣n lại không hơn 1 tiểu đoàn, được tăng cường thêm tiểu đoàn đặc công K8 của Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, bất thần xâm nhập vào xă Tân Phú Trung, thuộc tỉnh Gia Định cách Thủ Đô Sài G̣n khoảng 10 cây số về hướng Bắc, dọc theo Quốc Lộ 1 từ Tây Ninh về Sài G̣n, đào hầm hố chiếm cứ bám trụ tại đây, làm tắc nghẽn lưu thông Quốc Lộ 1. Địa Phương Quân của Tiểu Khu Gia Định không bứng chúng đi nổi. Tướng Minh cho điều động Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù (sau khi rời An Lộc) trỡ về giải toả khu vực này. Chỉ trong 1 đêm, các chiến sĩ Biệt Cách Dù, đă tiêu diệt nguyên cả liên đoàn đặc công Miền mang số 429 cùng các cán binh của Tiểu Đoàn đặc công K.8 c̣n lại. Và cũng từ ngày đó 15 tháng 11 năm 1972, Bộ Chỉ Huy chiến dịch Nguyên Huệ của quân Cộng Sản Bắc Việt được chấm dứt nhiệm vụ. Mưu đồ tấn chiếm An Lộc của quân Cộng Sản Bắc Việt để ra mắt cái chính phủ bù nh́n gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” và dùng nơi đó (An Lộc) làm bàn đạp tấn công luôn Thủ Đô Sài G̣n, kể như hoàn toàn thất bại .



    Tàn quân của Công Trường B́nh Long vẫn c̣n bám víu tại vùng Phi Trường Quản Lợi và Đồi Gió, các Công Trường 7 và 9 rút quân về vùng rừng rậm phía Nam, giáp ranh 2 Tỉnh Tây Ninh và B́nh Long vây hảm căn cứ Tống Lê Chân, 15 cây số Tây Nam An Lộc, với mục đích là thu lượm những kiện hàng thả dù của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa thả tiếp tế cho lực lượng trấn thủ (Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng) để chia nhau sống tạm qua ngày . Nghĩa là đă có dự tính ém quân tại chổ, để chờ bổ sung quân số, chờ đến tháng tư năm 1975, xua toàn lực xâm chiếm lănh thổ MIỄN NAM của Việt Nam Cộng Ḥa .( xem bản đồ số 13 )




    4- NHỮNG ĐƠN VỊ THUỘC CÁC QUÂN BINH CHỦNG VIỆT MỸ CHUYÊN MÔN
    ĐĂ GÓP CÔNG QUAN TRỌNG VÀ GÓP PHẦN XƯƠNG MÁU CHO SỰ CHIẾN THẮNG AN LỘC

    A.- KHÔNG LỰC HOA KỲ

    • Các pháo đài bay B.52 [/b] xuất phát từ đảo Guam (Hoa Kỳ) . (Xem bản đồ 14)



    • Các phản lực cơ Phantom, F.14[/b] cất cánh từ hai Hàng Không Mẫu Hạm USS Constellation và USS Saratoga đậu ngoài khơi biển Thái B́nh Dương.

    o Không Đoàn 1 Xung Kích AC.130 Tiểu Đoàn 229 Trực Thăng Xung Kích (Cobra)

    o Tiểu Đoàn 362 Trực Thăng Chinook o Lữ Đoàn 7 Kỵ Binh Không Vận

    o Lữ Đoàn 1 Không Vận

    o Và c̣n vài đơn vị Không Quân khác mà chúng tôi chưa có dịp tham khảo.

    B.- KHÔNG LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

    • Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà bản doanh tại Biên Hoà. Đặc biệt là Không Đoàn 43 Trực Thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân có trách vụ đổ quân và tản thương & các gunship yểm trợ, dưới quyền điểu khiển của Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức đại diện Sư Đoàn 3 Không Quân đặc trách về trực thăng + Không Đoàn Khu Trục và Phản Lực do Đại Tá Nguyễn Văn Tường, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 3 Không Quân kiêm Không Đoàn Trưởng Không Đoàn Khu Trục và Phản Lực chỉ huy, Không Đoàn Chinook 237 tiếp tế .

    • Sư Đoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà bản doanh tại Tân Sơn Nhất Sài G̣n, đảm nhận phần hành thả quân biệt kích (giả), Phi Đoàn Tinh Long 821 yểm trợ hỏa lực, và các Phi Đoàn vận tăi C.119 & C.123 thả dù tiếp tế cho mặt trận An Lộc.

    • Sư Đoàn 4 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà bản doanh tại phi trường Trà Nóc (Cần Thơ). Chuyễn vận Sư Đoàn 21 Bộ Binh Quân Đoàn 4 & Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh Quân Đoàn 4 từ Miến Tây lên Lai Khê.

    C.- CÁC ĐƠN VỊ THIẾT GIÁP

    • Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà Quân Khu III đặc biệt những đơn vị đă tham chiến trận Lộc Ninh, trận nhổ chốt Tầu Ô và các đơn vị tăng phái cho Chiến Đoàn của Sư Đoàn 18 Bộ Binh trong việc khai thông Quồc Lộ. 13 và làm trừ bị cho lực lượng xung kích Sư Đoàn 18 trong việc b́nh định lănh thổ Quân Khu III

    • Các Thiết Đoàn Thiết Vận Xa của Quân Đoàn 4, đặc biệt là Thiết Đoàn 15 của Trung Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh Quân Đoàn 4, và Thiết Đoàn M.113 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh Quân Đoàn .

    D.- PHÁO BINH

    • Các Tiểu Đoàn Pháo Binh 52 & 53 kể cả các Pháo Binh Lănh Thổ của Tiểu Khu B́nh Long và các Chi Khu Lộc Ninh, Chơn Thành và các căn cứ hoả lực Tống Lê Chân và Cần Lê.

    • Đại Đội Pháo Binh Dù đặt tại căn cứ hoả lực Đồi Gió.

    E.- CÔNG BINH CHIẾN ĐẤU

    • Các Tiểu Đoàn Công Binh Chiến Đấu của Quân Đoàn 3 và Sư Đoàn 21 Bộ Binh Quân Đoàn 4 Việt Nam Cộng Hoà

    F.- TOÁN MẬT MĂ

    • Các Toán Mật Mă của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Quân Đoàn 3, và Toán Mật Mă Đặc Biệt của Pḥng 6 Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà biệt phái cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 tại Lai Khê.

    G.- TIẾP TẾ THẢ DÙ CHO CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC DO KHÔNG QUÂN VIỆT MỸ THỰC HIỆN

    Từ ngh́n xưa cho đến ngày nay, vấn đề Tiếp Vận cho một đoàn quân tấn công hay Tiếp Tế cho một cứ điểm pḥng thủ luôn luôn đóng một vai tṛ rất quan trọng trong sự thành bại của chiến trường.

    Đặc biệt, nói riêng về mặt trận An Lộc, việc tiếp tế bằng đường bộ th́ hoàn toàn bị bế tắc ngay từ lúc đầu, khi khởi phát trận chiến. Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt đă hoàn toàn khống chế Quốc Lộ 13 từ An Lộc đến Quận Lỵ Chơn Thành bằng một lực lượng chuyên đóng chốt, một hệ thống pháo tầm xa và một hệ thống pḥng không dày đặc với những vũ khí tối tân như đại liên 12 ly 7, cao xạ 37 ly, hoả tiễn tầm nhiệt cầm tay SA.7 được thiết trí trên mặt đất kể cả trên các chiến xa pḥng không cơ động.

    Việc này đă khiến cho phía Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ phải nghĩ đến việc tiếp tế bằng Trực Thăng Chinook ở giai đoạn tiên khởi, rồi đến các vận tải cơ C.123 và C.119 của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà, lần hồi đến các vận tải cơ hiện đại C.130 của Không Lực Hoa Kỳ. Biết bao nhiêu máu xương và mạng sống của các phi hành đoàn C.123, C.119 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và C.130 của Hoa Kỳ đă đổ ra trong lúc thi hành tiếp tế thả dù cho quân dân An Lộc trong suốt thời gian chiến trận, được kể từ sau ngày 07 tháng 04 năm 1972 đến ngày 08 tháng 06 năm 1972.

    Ước tính có khoảng 15,000 quân lính và thường dân Việt Nam Cộng Hoà đang c̣n kẹt lại trong ṿng lửa đạn giao tranh. Nhu cầu tiếp tế cho 15,000 quân dân Việt Nam Cộng Hoà, theo các chuyên viên tiếp vận Việt & Mỹ th́ mỗi ngày cần phải có khoảng 200 tấn tiếp liệu, gồm đạn dược, thuốc men, lương khô, nước uống và xăng dầu cùng nhiều thứ linh tinh khác. Danh sách được liệt kê như sau :

    • 140 tấn đạn dược đủ loại, nặng nhất là đạn pháo binh

    • 36 tấn lương khô và gạo

    • 20 tấn nước lọc để uống

    • 4 tấn y dược đủ loại và một số linh tinh khác.

    Không Quân Việt Nam Cộng Hoà được sự tận t́nh giúp sức của Không Quân Hoa Kỳ, đă cố gắng thực công tác nầy, xuyên qua nhiều thời kỳ và giai đoạn nóng bỏng của chiến trận :

    A.- Thời kỳ sơ khởi : (khi Cộng quân chưa biết về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tiếp tế bằng cách nào, và hệ thống pḥng không của chúng chưa hoàn tất) :

    Không Đoàn Chinook 237 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phối hợp với Tiểu Đoàn Đoàn 362 Chinook của Không Lực Hoa Kỳ, đă thực hiện đổ được 42 chuyến đổ hàng tiếp liệu (mỗi chuyến tiếp tế được 3 tấn đồ tiếp liệu cho mỗi ngày).

    Việc tiếp tế bằng những trực thăng Chinook trong vài ngày đầu tiên được thuận tiện và trôi chảy, tổng cộng tiếp tế cho quân trú pḥng tất cả được 147 tấn hàng, mặc dù chưa đạt được chỉ tiêu mong muốn, nhưng thật ra cũng đủ dùng.

    Không tŕnh của các Chinook Việt Mỹ lấy từ Nam lên Bắc, và hạ cánh ngay các băi trống trong thị trấn và trong ṿng 2 cây số phía Nam An Lộc dọc theo Quốc Lộ 13.

    Cho măi đến ngày 12 tháng 04 năm 1972, khi đoàn Chinook vừa đáp xuống băi đáp, th́ pháo của Cộng quân liền khai hoả, kết quả 1 Chinook của Không Đoàn 237 bị trúng đạn pháo 130 ly, hoàn toàn hư hại cùng với toàn bộ phi hành đoàn bị tử trận, và vài chiếc khác bị trúng miểng pháo. Việc tiếp tế vẫn được duy tŕ cho đến hai ngày hôm sau, và cường độ pháo của Cộng quân mỗi lúc lại càng gia tăng vào đoàn Chinook. Mỗi khi nghe tiếng trực thăng là DELO địch liền chỉ điểm gọi pháo. Song song với pháo 130 ly, Cộng quân c̣n thiết trí cao xạ 12,7 và 37 ly khoảng 4 cây số về phía Nam An Lộc để chặn đoàn Chinook.

    Như vậy là Cộng quân đă biết được hướng bay của đoàn Chinook, nên huy động cả pháo tập lẫn pḥng không để ngăn chặn việc tiếp tế cho An Lộc. Thêm nhiều chiếc Chinook của Không Quân Việt Mỹ bị trúng miểng pháo và đạn pḥng không của địch, v́ lẽ đó mà việc tiếp tế bằng Chinook không thể tiếp tục được nữa.

    B.- Thời kỳ địch quân thiết lập xong hàng rào hoả lực pḥng không, kể cả tăng cường trung đoàn chiến xa cơ giới (271) lưu động pḥng không

    Không Lực Việt Nam Cộng Hoà quyết định ngưng ngay những phi vụ tiếp tế bằng Chinook, và thay thế bằng phương cách thả dù bởi các vận tải cơ C.123 và C.119 của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà phát xuất từ phi trường Tân Sơn Nhất (Sư Đoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà), bay vào lúc ban ngày và ở cao độ 5000 bộ .

    Liên tiếp 3 ngày từ 13 đến 16 tháng 04 năm 1972, có tất cả 27 chiếc vận tải cơ của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà thả dù được 135 tấn, nhưng quân trú pḥng chỉ nhận được có 34 tấn mà thôi, cộng với 6 bành dù khi vừa chạm đất th́ phát nổ !!! Số c̣n lại đă bay lạc ra ngoài vùng địch kiểm soát.

    Qua đến ngày 17 tháng 04 năm 1972, trong đoàn 6 chiếc C.123 và C.119 đi tiên phong thả dù, tất cả 6 chiếc đều bị trúng đạn pḥng không của địch, một chiếc C.123 bị nổ tung trên bầu trời An Lộc, cả phi hành đoàn đều bị tử vong, trong đó có con chim đầu đàn của Phi Đoàn là Trung Tá Nguyễn Thế Thân.

    Công tác thả dù bằng C.123 và C.119 buộc phải tạm ngừng, và Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hoà phải nghiên cứu lại độ cao của các chuyến bay thả dù sao cho tương đối được an toàn cho các phi hành đoàn và phi cơ, bằng cách bay ở cao độ từ 5,000 đến trên 7,000 bộ, (ở độ cao 5,000 bộ, chỉ tránh được cao xạ 12,7 ly mà thôi, c̣n pḥng không 37 ly có thể lên tới 7,000 bộ), nhưng ngặt nỗi, bay ở cao độ 5000 bộ, mà số dù c̣n bay lạc ra ngoài mất đến hơn 60%, c̣n bay ở cao độ 7,000 bộ, số dù bay lạc ra ngoài vùng địch kiểm soát c̣n gia tăng hơn nhiều, có thế nói là mất khoảng 80%.

    Về phía địch quân, mặc dù thu nhặt được nhiều bành dù đa số là đạn dược, lương khô, nhưng về đạn dược th́ hầu hết không xử dụng được, c̣n lương khô, dù thu lượm được nhiều, nhưng quân số địch đă bị chết và bị thương khá nhiều, lấy ai mà ăn.

    Trong khi Không Quân Việt Nam Cộng Hoà thả dù tiếp tế, các vận tải cơ thả dù ở trên cao độ 7,000, dù bay ra ngoài vùng Địch đến 80% .

    Ngày 14 tháng 04 năm 1972, Bộ Tư Lệnh MACV của Hoa Kỳ mới quyết định cho không đoàn vận tải cơ C.130 có hệ thống thả dù rất tối tân từ toạ độ (điểm thả) đến việc ước tính chiều gió đều được ước tính bằng hệ thống điện tử (Computerized Aerial Drop System) tham gia vào việc tiếp tế.

    Bắt đầu ngày 18 tháng 04, Không Đoàn C.130 của Không Lực Hoa Kỳ giúp Không Lực Việt Nam Cộng Hoà gánh vác việc tiếp tế cho toàn thể Quân Dân Tỉnh B́nh Long.

    Các cố vấn Mỹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Tiểu Khu B́nh Long cũng đảm trách việc liên lạc, kiểm điểm số lượng hàng, quân bạn nhận được, và chọn địa điểm thả dù.

    Dùng sân banh của Tiểu Khu B́nh Long, chỉ rộng có 219 thước vuông. Bước đầu các C.130 thả dù vào lúc ban đêm, phía dưới sân banh được đánh dấu bằng những thùng phuy đốt lửa. Sở dĩ chọn vào lúc trời tối là để pḥng không của địch không nh́n thấy phi cơ đâu mà khai hoả.

    Hai chiếc C.130 bay từ phía Đông Nam lên ở cao độ khoảng 2.000 bộ. Trước khi gần đến mục tiêu (sân đá banh), chiếc đi đầu liền bị trúng đạn pḥng không của quân địch đặt trên các thiết giáp cơ động, bị chao đảo, buộc phải bay là xuống c̣n khoảng 600 bộ, và vội bấm nút thả hàng, v́ trước đầu phi cơ bị phát hoả và bộ phận (cánh) bị pḥng không của địch bắn hư hại, sau đó bay được ra khỏi vùng nguy hiểm. C̣n chiếc thứ hai vội thay đổi hướng bay cố gắng đến gần tọa độ và bấm nút thả các bành hàng cũng bị trúng đạn, phát hoả một động cơ bên trái, đạn pḥng không c̣n xuyên thủng phi cơ sát hại một sĩ quan cơ khí và một phi công phụ. Chiếc C.130 thứ nh́ này được phi công chính lái ra khỏi vùng nguy hiểm, chỉ c̣n 2 động cơ c̣n hoạt động, và cả hai chiếc C.130 đi tiên phong trắc nghiệm, đều đáp được an toàn xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong đêm. Trên hai chiếc C.130 có mang theo 26 tấn hàng tiếp liệu, phi hành đoàn có bấm nút thả (release), nhưng không biết các bành dù biến đi đâu hết, các cố vấn Mỹ ở bên dưới báo cáo là không nhận được ǵ hết ??? Có thể là dù bay ra ngoài chu vi của sân banh, dân chúng và các đơn vị quân đội gần đó thu nhặt được tự động chia nhau mà xài, mà các cố vấn Mỹ không hề hay biết !!! hoặc là đă lọt ra ngoài vùng địch kiểm soát.

    Đêm hôm sau, rút kinh nghiệm của chuyến bay trước, 2 chiếc C.130 khác lại tiếp tục thả dù tiếp tế cho quân pḥng thủ. Lần này được thành công mỹ măn, đă thả được 26 tấn hàng lọt ngay vào sân banh, và các cố vấn Mỹ cùng giới chức tiếp liệu của các đơn vị tham chiến cùng phân phối chia nhau đồng đều cho các đơn vị.

    Bước qua ngày 19 tháng 04, 2 chiếc C.130 lại tiếp tục thả dù, lần này một C.130 sau khi thả hết các bành dù liền bị trúng đạn pḥng không của địch khiến động cơ phát hoả, và được phi công điểu khiển hạ cánh được ở vùng 2 cây số cạnh căn cứ Lai Khê, phi cơ bị hư hại nhưng phi hành đoàn vô sự.

    Công cuộc thả dù ban đêm được thực hiện mỗi lần bằng 2 chiếc C.130 được nối tiếp thành công liên tục, cho măi đến đêm 24 tháng 04 năm 1972, một đoàn 6 chiếc, và bước sang đêm 25 tháng 04, thêm một đoàn 11 chiếc C.130 đồng loạt ồ ạt đổ hàng tiếp liệu cho quân dân An Lộc, 2 lần tập trung này các phi cơ được lệnh tắt hết đèn và lấy Quốc Lộ.13 làm chuẩn ép về phía Tây khoảng 1 dặm (1 cây số 6).

    Trong chuyến tiếp tế ngày 25 tháng 04, một trong 4 chiếc phi cơ dẫn đầu bị trúng đạn pḥng không của địch mất thăng bằng và rơi tại vùng 2 cây số phía Nam tọa độ thả dù (sân banh). Cả phi hành đoàn 8 người đều tử nạn.

    Những nhu yếu phẩm trong các đợt thả dù bằng C.130 đa phần là đạn cá nhân, lương khô và thuốc men, c̣n đạn pháo binh th́ không cần nữa, (v́ các khẩu pháo của quân bạn đă bị pháo địch bắn hư hại hết), c̣n nước uống th́ quân dân bên dưới tạm dùng nước trong các ao đầm và hứng nước từ trời ban cho.

    Từ sau chuyến thả dù đêm, 1 chiếc C.130 bị pḥng không địch bắn hạ, sát hại hết phi hành đoàn, Bộ Tư Lệnh MACV Hoa Kỳ cho lệnh tạm ngưng những phi vụ bay đêm kế tiếp (c̣n khoảng thêm 10 chuyến thả hàng được đ́nh chỉ).

    Cho đến đêm 27 tháng 04, Không Lực Hoa Kỳ c̣n cố gắng thả thêm 2 lần nữa, và tất cả các vận tải cơ thả dù đều bị trúng đạn pḥng không dầy đặc cùng các hướng bay vào mục tiêu An Lộc. V́ thế, việc tiếp tế thả dù ban đêm được đ́nh chỉ hẳn.

    Bộ Tư Lệnh MACV liền nghĩ ra kế khác, bằng cách nghiên cứu ra được một loại dù được thả từ cao độ (ngoài tầm sát hại của tất cả các súng pḥng không của Cộng quân hiện có ). Dù sẽ tự động bung ra khi gần tới đất.

    Ngày 03 tháng 05 năm 1972, phương cách này có tên gọi là HALO (High Attitude, Low Opening) được áp dụng lần đầu tiên và được 1 chiếc C.130 thực hiện vào lúc ban ngày và bay ở cao độ 8,000 bộ. Kết quả tương đối khả quan. Các dù được thu nhận khoảng 60%, đồ đạc rất ít bị hư hại.

    Và, công việc tiếp tế thả dù ban ngày bằng các vận tải cơ tối tân C.130 của Không Lực Hoa Kỳ thả dù ở cao độ 8,000 được tiếp tục duy tŕ cho đến ngày 08 tháng 06 năm 1972 th́ chấm dứt. (21)

    Chú Thích : (21) The Siege at An Loc : How Air ReSupply Helped Save the City của Trung Tá Len Funk (The Army Historical Foundation).

    Song song với công cuộc tiếp tế thả dù trong vùng An Lộc, tại phía Tây Nam An Lộc Không Lực Việt Nam Cộng Hoà cắt cử Phi Đoàn 218 của Sư Đoàn 5 Không Quân, dưới sự điều động của Trung Tá Hoàng Nuôi, đảm nhận trách nhiệm yểm trợ hoả lực cho một căn cứ hoả lực có tên là Tống Lê Chân do Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng trấn đóng. Căn cứ hoả lực Tống Lê Chân có 4 khẩu đại bác 105 ly và 2 khẩu 155 ly, trong đợt tấn công lần thứ tư vào An Lộc của Cộng quân, căn cứ nầy đă tích cực yểm trợ hoả lực, giúp đẩy lui cuộc tấn công của địch vào mặt phía Tây của An Lộc. Căn cứ hoả lực nầy bị công quân vây hảm đến trung tuần tháng 4 năm 1974, sau cùng cũng rút về được đến An Lộc nhập vào đoàn quân mũ nâu tiếp tục chiến đấu chống Cộng .

  8. #88
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần KếtC



    H.- BÁO CHÍ

    • Kế tiếp là Đoàn Quân Báo Chí : xin mời Quư Vị, đọc bài viết tựa đề AN LỘC CHIẾN TRƯỜNG THÁCH ĐỐ của Phóng Viên Phan Nhật Nam :

    - Sau đây, dưới h́nh thức một kư sự của một phái viên Vô Tuyến Việt Nam, đă đặt chân hơn một lần vào An Lộc, trong những ngày c̣n lửa đạn, người đọc sẽ được dẫn dắt vào thành phố đổ nát An Lộc. Công việc của một phóng viên là trung thực ghi nhận mọi sự kiện xảy ra trong đời sống thời sự. Trên một khía cạnh nào đó, người phóng viên như một chứng nhân dự phần vào những diễn biến luôn luôn làm cho thế giới biến đổi không ngừng. Với tư cách của một phái viên Vô Tuyến Việt Nam, tôi tới An Lộc ngày 13 tháng 06 năm 1972, khi thị trấn này bước vào ngày tử thủ thứ 68. Nhiệm vụ của tôi tương tự như các phái viên Vô Tuyến Việt Nam ở các mặt trận khác, là tường tŕnh qua hệ thống liên lạc siêu tần số những sự thật đă và đang diễn ra tại các địa điểm mà chúng tôi có mặt. Tôi đặc trách mặt trận B́nh Long và chiến trường An Lộc, thực sự như một thách đố đối với cá nhân tôi cũng như nhiều người khác đă từng t́m cách vào An Lộc. Chuyến đi của tôi khởi sự vào trung tuần tháng 04 năm 1972, và tôi đă chỉ có thể hoàn tất 2 tháng sau đó, tức ngày 13 tháng 06 năm 1972. Trong 2 tháng trời ṛng ră này, mỗi lần khởi hành đều kéo theo một thất bại cho riêng tôi và cả các anh em khác đi cùng. Có những người bị thương, có những kỷ niệm chua sót, nhưng đau đớn hơn cả là cái chết của cố phóng viên điện ảnh Thiếu Úy Nguyễn Ngọc B́nh. Một tuần lễ chờ đợi lên trực thăng rồi lại xuống trực thăng, ăn chực nằm chờ dưới những cơn lốc cát nóng bỏng ở phi trường Lai Khê, B́nh Dương, ngày 29 tháng 04 năm 1972, chúng tôi khởi sự cuộc hành tŕnh phiêu lưu vào An Lộc. Trong thời gian này An Lộc đang bước vào ngày tử thủ thứ 22, áp lực địch đang lúc mạnh và quân Cộng Sản Bắc Việt đă tạo được một lưới lửa pḥng không suốt dọc phi tŕnh dẫn vào Thành Phố Anh Hùng này. Trong ngày này chúng tôi không tới được mục tiêu, trực thăng chở chúng tôi bị bắn như mưa, cho khi tới đồn điền Xa Cam. Tại đây địch quân pháo kích hàng loạt vào băi đáp, các phi công quyết định bay trở về. Trên cao độ hơn ngọn cây ở Xa Cam, chúng tôi nh́n thấy hàng trăm thương binh đang chờ đợi được di tản về Lai Khê, có những người nằm trên băng ca, có những người chạy tán loạn dưới những tiếng nổ chát chúa, cát bụi mịt mờ của đạn pháo kích. Họ chạy theo hướng trực thăng đến như muốn bấu víu vào những hy vọng cuối cùng của sự sống. Chúng tôi cảm thông t́nh cảnh này, v́ chính mắt tôi trông thấy những thương binh ở Lai Khê, những người c̣n đi lại được, những vết thương đă có ḍi, và những kư sinh trùng ghê tởm này đă rớt vương văi khi anh em từ trên trực thăng tản thương bước xuống. Đợt trực thăng hôm đó, không có một thương binh nào về tới Lai Khê v́ các phi công không thể hạ tàu giữa cơn mưa pháo kích của địch quân. Trên đường về, địch cũng bắn rát như khi chúng tôi tới, một trong các loạt đạn của địch đă khiến chiếc trực thăng chở chúng tôi không c̣n điều khiển được và phi công phải hạ khẩn cấp xuống một băi trống chính giữa một khu rừng rậm ở phía Nam đồn điền Xa Cam. Trong những khoảng khắc kinh hoàng, một trực thăng gunship yểm trợ đă đáp xuống khu đất này để cứu sống tất cả chúng tôi gồm 4 nhân viên phi hành và 4 phóng viên chiến trường.

    Ngày 01 tháng 05 năm 1972, trong một chuyến đi tương tự, điện ảnh viên Nguyễn Ngọc B́nh đă giă từ ống kính khi trực thăng chở anh nổ tung v́ đạn B.40 của Cộng quân. Vào khoảng thời gian này, dày đặc trong những khu rừng cao su, Cộng quân bố trí các ổ đại bác pḥng không bắn bằng radar, các hoả tiễn địa không bắn tay SA.7 cũng như các ổ đại liên khạc đạn không ngừng. Bởi vậy, các phi công ta đă phải liều lĩnh bay sát trên đầu ngọn cây để vô hiệu hoá khả năng pḥng không địch điều khiển bằng “mắt thần”, tuy nhiên khi bay thấp, phi cơ ta phải chấp nhận đạn súng nhỏ và ngay cả đạn chống chiến xa B.40 của địch, bắn từ những tên Cộng quân bị cột người trên các ngọn cây.

    - Sau đây là lời tường thuật của một người đă có mặt tại vùng này :

    Theo tôi biết th́ Pḥng 3 và Pḥng 5 Bộ Tư Lệnh Quân Khu III trước 75 có những tấm h́nh này v́ anh em trong Pḥng 5 Sư Đoàn 5 Bộ Binh có chụp. Chẳng những lính xe tăng bị xiềng chân mà cả những tên đặc công bắn xẻ cũng bị xiềng chân trên các cành cây cao su v́ theo lời khai thác từ các tên đặc công (đa số là người Miền Nam) đă bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt được th́ nếu không bị xiềng chân, chẳng có bao nhiêu tên đặc công Việt Cộng dám ăn dằm nằm dề trên những nhánh cây cao su để theo dơi và bắn sẻ theo lệnh của bọn cán bộ Cộng Sản Bắc Việt, ... và nhiều tấm h́nh tôi chụp tại An Lộc nh́n qua phải rợn người.

    Sau chuyến đi thất bại ngày 29 tháng 04 năm 1972, chúng tôi vẫn trong t́nh trạng chờ đợi, và tiếp tục một vài lần phiêu lưu nữa không phải bằng trực thăng nhưng bằng con đường máu mệnh danh là con đường xui xẻo 13 (Quốc Lộ 13). Ngày lại ngày, đoạn đường Lai Khê Chơn Thành trở nên quen thuộc với chúng tôi, nhưng hết tuần lễ này đến tuần lễ khác, chúng tôi không có cơ hội để vào An Lộc bằng đường bộ. Địa điểm xa nhất mà chúng tôi đạt tới chỉ là Suối Tàu Ô, con suối tử thần, đă cầm chân đoàn quân khai thông Quốc Lộ hơn hai tháng trời và vẫn c̣n tiếp tục cho tới sau ngày tôi vào được An Lộc và trở ra trên đoạn đường ngắn ngủi này, chúng tôi lại gánh chịu những kỷ niệm đau thương mới, khi tôi theo chân đoàn chiến xa của Chi Đoàn 1/20 đi khai thông Quốc Lộ, Đức Tài, biệt danh của ông Đại Úy Chi Đoàn Trưởng 1/20 không phải xa lạ ǵ với các phóng viên chiến trường. Đức Tài từng là anh hùng thiết giáp trên chiến trường Cambodia. Ngày 24 xuất hiện tại Lai Khê, Đức Tài đă ôn lại kỷ niệm cũ với nhóm phóng viên chiến trường và chính anh đă đăi chúng tôi bữa hủ tíu sau cùng ở Câu Lạc Bộ Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Sáng 24, Đức Tài dẫn mấy chục con cua sắt đến Chơn Thành để từ đây anh tham gia mặt trận B́nh Long. Đức Tài c̣n đưa hai ngón tay thành chữ V làm dấu hiệu chiến thắng khi leo lên chiếc M.113 để dắt đoàn cua sắt M.41 và M.113 tiến vào tử địa. Hai người trong nhóm chúng tôi là Lê Thiệp và Dương Phục định leo lên xe của Đức Tài để đi cùng, không hiểu sao lúc đó tôi lại cản và nói : Đi theo sau tiện hơn.

    Đức Tài dẫn đoàn xe đi, chúng tôi dồn cục lên một chiếc xe Jeep theo sát chiếc M.41 sau cùng. Đoàn xe mới chạy chừng 5 phút, chúng tôi nghe những tiếng đạn pháo kích và tiếng súng liên thanh nổ rền. Mỹ Voi, điện ảnh viên Quân Đội, lao vội chiếc xe xuống lề đường la lớn : “Xuống hết, tụi bay. Đụng rồi”. Hai phút sau, khi chúng tôi chạy lên chỗ chiếc xe M.41 đang nhả đạn 76 ly vào b́a rừng th́ người trưởng xa leo lên pháo tháp la thất thanh :” Đức Tài bị rồi, hoả tiễn 122 pháo trúng chiếc M.113 chỉ huy của Chi Đoàn Trưởng”.

    Đoàn chiến xa bị chặn lại tại đây, và một phi tuần A1 tới thả bom hai bên bờ rừng. Chúng tôi trở về Trung Đoàn 32 để nh́n mặt Đức Tài lần cuối. Hai người lính khác cũng hy sinh với Đức Tài. Cái chết ở mặt trận này đến thật mau lẹ, chỉ mấy phút sau khi làm dấu hiệu chiến thắng h́nh V, Đức Tài đă vĩnh viễn ra đi trong ngơ ngác bi thảm của cả đoàn quân vừa mới khởi sự tham gia mặt trận B́nh Long không đầy nửa tiếng đồng hồ.

    AN LỘC ĐỊA SỬ GHI CHIẾN TÍCH

    Sau bao nhiêu lần đi, bao nhiêu lần trắc trở, tôi vẫn định bụng là sẽ phải vào An Lộc để nh́n thấy tận mắt Thị Trấn Anh Hùng này, nh́n thấy tận mắt sự tàn phá khủng khiếp vô lư của chiến tranh. Để được thấy, chứ không phải nghe nói về những chịu đựng và những biểu tượng về tinh thần chiến đấu vô biên của tât cả những người đă giữ vững An Lộc, cho dù thành phố này không c̣n là một thành phố nữa. Ngày 13 tháng 06 năm 1972, toán phóng viên lại lên đường. Ngoài tôi c̣n có Đại Úy Nguyễn Văn Quí, Sĩ Quan Báo Chí Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Dương Phục, Đài Tiếng Nói Quân Đội, Anh Thuần của nhà báo Tiền Tuyến, Tam Phong Slao Quắn của Sư Đoàn 5, và Hebert thuộc hệ thống truyền thanh truyền h́nh Canada. Người phóng viên quốc tế này bị tử thương ngày 23 tháng 07 năm 1972 lúc theo dơi chiến trận Quảng Trị sau khi An Lộc được giải toả. Tất cả chúng tôi được ngồi chung trên một chiếc trực thăng UH trong đợt đổ quân của Tiểu Đoàn 2/31 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh tăng viện cho măt trận An Lộc.

    Vào khoảng thời gian này, pḥng không địch không c̣n mạnh mẽ như những chuyến đi trước của chúng tôi vào hai tháng 04 và 05. Các phi công ghi nhận là quân Cộng Sản Bắc Việt chỉ c̣n 1 ổ đại bác 57 ly ở phía Bắc Tân Khai và một số ít đại liên dọc theo các rừng cao su mà thôi. Đoàn trực thăng 5 chiếc lao xuống Xa Cam lúc 11 giờ sáng và khi vừa chạm đất, chúng tôi bắt đầu nghe những tiếng xé gió và những tiếng nổ chát chúa, địch lại bắt đầu pháo kích, theo như thói quen thường lệ, mổi khi nghe tiếng động cơ trực thăng vọng về. Đă có nhiều kinh nghiệm tại mặt trận này, tất cả chúng tôi, không ai bảo ai, chạy tuá vào 2 bên rừng cao su và lao ḿnh xuống hầm hố gần nhất. Địch ngưng pháo sau chừng 15 trái đạn, đây là các ụ súng của địch đă bị bỏ hoang từ mấy ngày trước đó. Dứt tiếng pháo, chúng tôi chạy theo hai ven rừng cao su; phía trước là các toán quân vừa được trực thăng vận tới. Họ di hành theo đội h́nh hàng dọc, nhiệm vụ cùa họ là tới An Lộc và từ đó tăng cường các cánh quân tảo thanh địch chung quanh ṿng đai tỉnh lỵ. Được chừng hơn 100 thước, Đại Úy Qúi bắt đầu kiểm điểm quân số trong toán chúng tôi. Thiếu mất ông phó nháy Slao Quắn và phóng viên Đài Tiếng Nói Quân Đội Dương Phục. Họ chạy qua phía khu rừng bên kia khi Cộng quân pháo kích băi đáp. Một lát sau họ bắt kịp chúng tôi tại tấm bảng xi măng Plantation De Xacam. Dương Phục thở hổn hển, đất đỏ B́nh Long nhuộm mồ hôi tạo cho gương mặt hắn một màu kỳ dị. Hắn cho biết trong lúc chạy pháo kích, cái túi đeo của hắn văng mất và sức ép của tiếng nổ lẫn cánh quạt trực thăng đă làm những đồ vật trong túi bay như bươm bướm. Dương Phục mất hết các vật dụng riêng của hắn ngoại trừ t́m lại được cái xác của cái máy cassette đă trở thành vô dụng. Đoạn đường từ Xa Cam vào An Lộc chỉ hơn cây số, nhưng tôi đă có cảm tưởng là đă vượt qua đoạn đường di hành dài mấy chục cây số.

    Có lúc tôi định quẳng cái ba lô cho nhẹ và cũng để nhảy xuống hố tránh pháo dễ dàng. Tuy nhiên suy nghĩ tới mấy vật dụng cần thiết và mấy túi lương khô, tôi đă cố gắng đeo cái túi càng ngày càng nặng chĩu này để đi bắt tay Tướng Hưng. An Lộc đă vào trong tầm mắt th́ vừa lúc chúng tôi nhận ra một thương binh (không biết của bạn hay địch) đang rên rỉ bên cạnh xác chiếc T.54 cháy nám đă bắt đầu rỉ sét. Máu nhuộm đỏ thân ḿnh, người thương binh dơ cánh tay yếu ớt về phía chúng tôi rồi chỉ vào miệng anh, có lẽ anh đang trải qua cơn khát cháy cổ của người bị thương mất máu. Cùng lúc này, địch lại pháo mấy trái đạn, tiếng rít gió nghe lạnh ḿnh, những tiếng nổ chát chúa, tiếng cành cây cao su gẫy rào rào, trái đạn đă đi vào trong bờ rừng. Có tiếng ai gọi lớn: “Chạy mau đi, thoát khỏi chỗ này”. Tất cả chúng tôi cắm đầu chạy như bay về phiá trước, nhiều xác T.54 rải rác, một chiếc xe be vàng chói đầy vết đạn pháo kích nằm vắt ngang qua con dốc. Đại Úy Qúi quay lại nói :”Toàn vết pháo mới, chạy mau đi”. Người ta gọi con dốc có cái xe be là khúc quanh tử thần, v́ chỉ riêng tại nơi này hơn 200 thương binh và những thường dân đang di tản đă chết v́ đạn pháo kích trên đường đón trực thăng ở băi đáp. H́nh ảnh người thương binh vẫy tay xin nước ám ảnh tôi suốt cuộc hành tŕnh vào An Lộc và có lẽ cả quăng đời c̣n lại sau này, mấy toán quân đi trước và cả toán chúng tôi đă không giúp ǵ được cho anh ta, dù muốn dù không cũng là điều không nên không phải. Leo hết con dốc tử thần là bắt đầu vào An Lộc, một tấm bảng xanh lỗ chỗ vết đạn với hàng chữ chiều bắt buộc cho xe dân sự vào châu thành, đầu đường là một bót gác vách đá lố nhố binh sĩ, họ đang chờ giờ ra băi đáp trực thăng, quần áo mọi người nhuộm một màu nâu đỏ đặc biệt, đó là mầu đất B́nh Long.

    Đồng hồ chỉ 11 giờ 20, thế là chúng tôi chạy trong 20 phút từ băi đáp Xa Cam vào An Lộc. Càng vào sâu, cảnh điêu tàn càng hiện rơ, trên con đường chúng tôi đi không một thước vuông đất nào không ghi lại những vết tích của chiến tranh. Từ xa hướng về, không một ngôi nhà c̣n nguyên vẹn. Những mái nhà sụp đổ, thân tường nghiêng ngả lỗ chỗ vết miểng pháo, những cột đèn siêu vẹo, giây điện đứt tứ tung và điểm thể hiện duy nhất cho sự kiện An Lộc chiến đấu kiên tŕ là những cánh hoa dù tiếp tế phủ đầy mặt lộ. Sừng sững giữa khung cảnh hoang tàn, một bức tượng chiến sĩ tiến lên đập ngay vào tầm mắt những ai tiến vào An Lộc. Thật là kỳ lạ, bức tượng này đă đứng vững trong hơn 2 tháng trời An Lộc bị pháo kích tổng cộng trên 200,000 trái đạn. Tiểu Khu ở phía tay mặt con đường, Đại Uư Qúi trước đây đă từng vào An Lộc, ông nói :”Các anh cứ đi theo tôi coi chừng lạc”. Đi chừng hơn 100 thước, chúng tôi thấy một dinh thự 2 tầng đă sụp đổ phần trên, đó là toà hành chánh B́nh Long, những hàng chữ bằng xi măng đúc không c̣n nguyên vẹn. Mùi xú uế nồng nặc đến lợm giọng. Một thứ mùi đặc biệt của thịt người và thú vật đă śnh thối. Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng nằm phía Đông Bắc Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Những dẫy nhà mất mái, đổ tường, hầm của Tướng Hưng đặt tại căn cứ của Trại Đỗ Cao Trí bên dưới ḷng đất dầy khoảng 3 thước. Chúng tôi bước vào một lối đi nhỏ hẹp, đó là đường dẫn xuống trung tâm hành quân của Tướng Tử Thủ Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Mặt Trận B́nh Long. Căn hầm tù mù, một ngọn đèn duy nhất chừng 45 volt, nên chỉ mang lại một chút ánh sáng vàng vọt, Sau này chúng tôi được biết, Tướng Hưng đă chuẩn bị cho những ngày bị bao vây kéo dài, Ông có 3 máy điện riêng, nhưng nhất quyết chỉ sử dụng một máy. Công xuất của máy chỉ đủ dùng cho hệ thống siêu tần số và cho các máy liên lạc, c̣n thừa lại là ánh đèn nhỏ khô héo trong hầm chỉ huy. Tướng Hưng tự hạn chế mọi tiện nghi riêng để giành cho sự sống c̣n của B́nh Long. Nếu không c̣n mạch điện cung cấp cho hệ thống liên lạc th́ An Lộc sẽ bị thất thủ tức khắc. Ngoài căn hầm nhỏ dành riêng cho Ông và Cố Vấn Trưởng, nơi này chỉ được thắp sáng mỗi khi cần, Tướng Hưng chỉ sử dụng một máy phát điện đặt trên nóc hầm Bộ Chỉ Huy, 2 máy c̣n lại phải pḥng hờ bị đạn pháo kích làm hư hại. Hơn nữa mức dự trữ nhiên liệu luôn luôn chỉ đủ cho thời gian 1 tuần lễ. Theo lời yêu cầu của Tướng Hưng, Quân Đoàn có cho thả dù các phuy xăng. Nhưng trong 10 thùng khi chạm đất đă nổ đến 9. Có những ngày Tướng Hưng phải ra lệnh đi mót xăng từ các xe cộ nằm hư rải rác trong thành phố. Nhiều người đă chết trong công tác bề ngoài xem rất tầm thường này, nhưng thực ra chính là sự hy sinh đầy ư nghĩa cho sự đứng vững của An Lộc trong hơn 3 tháng trời khói lửa.

    I.- Ngoài ra, c̣n có Liên Đoàn 5 Quân Y , các đơn vị Quân Nhu, Quân Cụ, Quân Vận, Quân Cảnh, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, và Cảnh Sát .

    5- B̀NH LUẬN VỀ TRẬN CHIẾN AN LỘC

    A.- YẾU TỐ ĐIỀU NGHIÊN

    Điều nghiên là vấn đề căn bản của bất cứ trận đánh nào, dù nhỏ như đồn bót, căn cứ hoả lực, lớn như một tỉnh ly, một mặt trận, một chiến trường. Đâu là Điểm, đâu là Diện, lực lượng và khả năng tác chiến của địch và bạn, ưu thế của địch khuyết điểm của ta. Các cấp chỉ huy và tinh thần chiến đấu của binh sĩ của đối phương, địa thế, thời tiết, ḷng dân, v.v... để khắc phục và khống chế chiến trận, giành phần thắng lợi cho binh đội của ḿnh.

    Như mặt trận An Lộc, diện là Tây Ninh, c̣n điểm là An Lộc. Tại Tây Ninh có Sư Đoàn 25 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà trấn đóng, Sư Đoàn 25 lúc bấy giờ, đă có nhiều trận chiến thắng với các đơn vị chính quy, quân Cộng Sản Bắc Việt, sĩ khí đang lên cao, nhất là có đơn vị Trinh Sát Hắc Báo rất là thiện chiến, với cả 3 Trung Đoàn Bộ Binh hùng mạnh và c̣n nguyên vẹn + Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, c̣n địa thế th́ dọc theo Quốc Lộ 22 từ Crek (Cambodia về phía Nam, đến phía Bắc Tỉnh Lỵ Tây Ninh (Việt Nam Cộng Hoà), có rừng rậm ẩn khuất, nhưng về phía Nam qua khỏi tỉnh Tây Ninh về Sài G̣n, dọc theo Quốc Lộ 1 được khai hoang rộng răi, dân cư đông đúc, đa số chống Cộng, hai bên đường không có rừng cây rậm rạp, để có thể tổ chức các cuộc phục kích hay đóng chốt cấp trung đoàn, để chận viện binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ phía Nam lên.

    Tại An Lộc, thuộc vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ, đă bị gẫy hết Trung Đoàn 8 Bộ Binh, v́ sau trận Snoul từ Miên rút về, đă bị Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt chận đánh, thiệt hại khá nặng (vào cuối tháng 05 năm 1971), đang được bổ sung và tái trang bị, 2/3 là tân binh. Chỉ c̣n lại Trung Đoàn 7 Bộ Binh đang đóng tại An Lộc và Trung Đoàn 9 Bộ Binh đang trấn thủ tại Lộc Ninh, tinh thần binh sĩ không cao, như vậy là hầu như bị kém khuyết hềt phân nửa, so với Sư Đoàn 25 Bộ Binh ở phía Tây Ninh. C̣n địa thế th́ theo Quốc Lộ 13 chạy dài từ ranh giới Việt Miên đến sát An Lộc toàn là rừng rậm, về phía Nam hết 8 phần 10 là rừng và cây cao su ngút ngàn, dân cư thưa thớt, nên rất thuận tiện cho việc tổ chức các ổ phục kích như: Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt tổ chức phục kích Thiết Đoàn 1 (-), 5 cây số Bắc Lộc Ninh, vào đêm 05 rạng 06 tháng 04 năm 1972. Điểm phục kích thứ hai tại ngă ba Cầu Cần Lê, Quốc Lộ 13 nối liền Liên Tỉnh Lộ 17, Bắc An Lộc 15 cây số, do 2 trung đoàn của Công Trường 9 Cộng và Công Trường B́nh Long, tổ chức tuyến phục kích dài 3 cây số để ngăn chận và đánh bật Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 52 Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, xuất phát từ căn cứ hoả lực Cần Lê, dự định lên tiếp cứu Lộc Ninh theo lệnh, vào ngày 06 tháng 04 năm 1972. Điểm thứ ba,tại phía Nam An Lộc, Công Trường 7 tổ chức điểm phục kích cấp sư đoàn, khoảng 4 cây số Nam An Lộc (chốt Xa Cam), dự định hốt hết các lực lượng bố pḥng ră hàng ngũ chạy về Lai Khê, 2 trung đoàn khác, tổ chức các chốt kiền có sự điều chỉnh pháo binh tầm xa 130 ly ( vị trí đặt súng ở phía Tây ), nhất là chốt kiền tại Suối Tàu Ô (20 cây số Nam An Lộc), thêm 1 chốt phụ nữa,tại xă Bàu Bàng (52 cây số Nam An Lộc), là những nơi đă diễn ra nhiều trận đánh đẫm máu, giữa quân tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và quân chận viện của Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt, suốt hơn 2 tháng dọc theo Quốc Lộ 13 từ Nam lên Bắc.

    Ưu thế của địch (quân Cộng Sản Bắc Việt) : Có chiến xa T.54 và PT.76 và là lần đầu tiên xuất hiện tại chiến trường trong Nam (Quân Khu III Việt Nam Cộng Hoà), pháo binh tầm xa 30 cây số, các xe thiết giáp pḥng không cơ động với súng 12 ly 7 và 37 ly, có những vũ khí tối tân như SA.7 (loại cầm tay) do Nga viện trợ, là loại khắc tinh của các loại trực thăng của Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh Hoa Kỳ.

    Yếm thế của địch : để mất thời cơ thuận lợi sau khi chiếm xong Lộc Ninh, lại không dùng khí thế đó xúc kích tấn công An Lộc mà tŕ hoăn đến 7 ngày sau (từ 07 tháng 04 đến 13 tháng 04) mới mở màn trận tấn công đầu tiên vào An Lộc, thêm vào đó khi tấn công th́ lại tấn công chỉ nhằm vào môt hướng hay một mặt chứ không tấn công đồng loạt, c̣n các mũi tấn công th́ giờ khắc lại không thống nhất, nên lực lượng trú pḥng đủ th́ giờ và điều kiện trám khuyết những yếu điểm nếu có, cũng như nhận biết trước được đâu là nỗ lực chính cũng như phụ và t́nh h́nh của trận thế. Ngoài ra, không có sự phối hợp giữa bộ binh và chiến xa.

    Ưu thế của bạn (Việt Nam Cộng Hoà): Về không yểm, ban đêm có phi cơ Spectre AC.130 trang bị loại đại liên nồi 40 ly, đại bác 105 ly diệt tăng. Ban ngày, khi vừa chấm dứt các phi tuần của không quân chiến thuật, liền đến các phi vụ của không quân chiến lược B.52, cất cánh từ đảo Guam (Hoa Kỳ), oanh kích và oanh tạc không ngừng, đă đổ hàng chục ngàn tấn bom trên đầu Cộng quân. Cộng thêm tinh thần quyết tử chiến, của các Chiến Sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Chiến Đoàn 52 Sư Đoàn 18 Bộ Binh, và qua huấn lệnh tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng, bên cạnh c̣n có các đơn vị tinh nhuệ : Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Biệt Cách Dù, đă được tăng viện đúng lúc và kịp thời, thêm vào lực lượng Dân Cán Chính tỉnh B́nh Long, một ḷng sát cánh bên Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đồng tâm quyết chí chống lại cuộc xâm lăng từ phương Bắc của quân Cộng Sản Bắc Việt đến cùng.

    Về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, th́ khắc chế được những ǵ yếu kém lúc ban đầu, như không có pháo binh tầm xa th́ xử dụng không quân chiến thuật và không quân chiến lược, trải thảm bom để trả đũa và diệt pháo của địch, không có chiến xa đương đầu với T.54 của Cộng quân, th́ được thay thế bằng hàng chục tổ chiến binh, được trang bị loại súng chống chiến xa cầm tay M.72, bắn hạ hàng loạt T.54 và PT.76. Cái ưu tư lo sợ mất tinh thần lúc ban đầu, đă đem lại cái hoan hỷ, tự tin và hăng say, săn lùng từng chiến xa địch đang ngơ ngác, trong ṿng đai pḥng thủ bên trong Thị Xă, thi đua nhau bắn hạ liên hồi các con mồi (chiến xa địch) không sót chiếc nào.

    Căn cứ vào yếu tố điều nghiên để thiết lập hồ sơ trận liệt : đây mới là yếu tố quyết định trong vấn đề điều nghiên. Trong binh thư có câu : Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Biết ta mà không biết người, trận thắng trận thua. Không biết người mà cũng không biết ta, trăm trận đều thua. Trong trường hợp mặt trận An Lộc, ta có thể lấy trường hợp thứ nh́ (biết ta - Cộng Sản - mà không biết người - Việt Nam Cộng Hoà). Trở lại trận Lộc Ninh, theo bản điểu nghiên trận liệt địch biết phía bên Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có tổng cộng 1 Trung Đoàn chủ lực cộng thêm 1 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng và 1 Thiết Đoàn (khoảng 30 chiến xa M.41 và M.113) + Lực Lượng Chi Khu Lộc Ninh có khoảng 1 Tiểu Đoàn hỗn hợp gồm Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát ... nên Cộng quân huy động một lực lượng đông hơn gấp 5 lần, nhất là lần đầu tiên sử dụng loại chiến xa T.54 và PT.76 vững mạnh hơn Chiến Xa M.41 và Thiết Vận Xa M.113 của Việt Nam Cộng Hoà . Nên ngay sau gần 48 giờ giao tranh, địch có ưu thế, và khống chế được chiến trận, bởi “Biết người biết ta” nên thắng trận. Trái lại, đối với mật trận chính tại Thị Xă An Lộc, dựa theo bản điều nghiên trận liệt th́ lực lượng pḥng thủ chỉ có nhiều nhất là 5 Tiểu Đoàn Bộ Binh (3 của Trung Đoàn 7 và 2 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân của Tiểu Khu B́nh Long) và Bộ Chỉ Huy nhẹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (tổng cộng khoảng 1 Trung Đoàn (+), cái sai thứ nh́ là đă điều nghiên tọa độ sai trật mục tiêu Bộ Chỉ Huy đầu năo của lực lượng pḥng thủ (v́ giờ phút chót Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng đă di chuyển sang căn hầm của Trại Đỗ Cao Trí ). Cái sai trầm trọng nhất ngoài dự liệu, là phía quân pḥng thủ nhất quyết không bỏ chạy, không rút lui, và ưu thế của các chiến xa T.54, bị bẻ găy ngay từ trận đầu bởi các tổ M.72 chống chiến xa, vô t́nh để cho sĩ khí của các chiến binh Việt Nam Cộng Hoà tăng cao lên tức khắc. Cộng quân ước tính, phía Việt Nam Cộng Hoà, có nhiều lắm là 1 Trung Đoàn (c̣n ít hơn ở Lộc Ninh), lại không có pháo không có tăng, nên cũng tuồng cũ soạn lại : Dùng 4 Trung Đoàn chủ lực, chĩa mũi dùi đánh thẳng vào các cơ sở đầu năo của lực lượng pḥng thủ, sau khi chế ngự hầu hết các điểm cao xung quanh An Lộc (trừ Đồi Gió và Đồi 169 phía Đông Nam). Địch h́nh dung địa thế An Lộc như là một ḷng chảo giống Điện Biên Phủ khi xưa (mặc dù thực tế nhỏ hơn nhiều vế quân số cũng như địa h́nh địa vật). Nhưng khi va chạm vào thực tế th́ tại An Lộc vào ngày 12 tháng 04 năm 1972 đă có đến 3 Trung Đoàn quân chủ lực thiện chiến và 2 Tiểu Đoàn của Tiểu Khu B́nh Long. Và ngay mũi dùi chính tấn kích từ hướng Bắc gặp phải 2,500 quân của Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, trong tay lại có hơn 2,000 khẩu M.72 chống chiến xa với 400 tay xạ thủ rành nghề và quyết tử, nên thua trận. Đúng với câu biết ta mà không biết người th́ trận thắng trận thua.

    B.- YẾU TỐ CHIẾN THUẬT

    a.- Theo binh pháp cận đại của Tàu Cộng : Chiến Thuật biển người, tiền pháo hậu xung, bịt pháo công đồn, nhị thức bộ binh chiến xa.

    b.- Binh thư Tôn Tử có ghi chép : về việc bao bây, tấn công, nguyên tắc căn bản khi mở cuộc bao vây, tấn công hay chia cắt: khi quân ta đông hơn địch gấp 10 lần hơn th́ mở cuộc bao vây, khi quân ta đông gấp 5 lần hơn địch th́ mở cuộc tấn công trực diện, khi quân ta bằng với quân địch th́ phải áp dụng thế nghi binh hay chia cắt.

    Quân Cộng Sản Bắc Việt áp dụng chiến thuật biển người (c̣n gọi là chiến thuật nướng người ), như trận Điện Biên Phủ năm 1954, pháo rất nặng (mưa pháo), sau khi dứt các đợt pháo, th́ mở cuôc xung phong, như kẻ điếc không sợ tiếng súng, cận chiến đánh xáp lá cà như thằng mù, truớc các họng súng đại liên M.60 và các súng cá nhân M.16 của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và bị tan xác dưới các trận oanh tạc của Không Quân Chiến Thuật và Chiến Lược của Không Quân Hoa Kỳ.

    Chiến thuật bịt pháo công đồn : pháo vào các căn cứ hoả lực có đại bác 105 ly hoặc 155 ly như Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh Tại cứ điểm An Lôc, và Pháo Đội Dù trên đĩnh Đồi Gió rồi xua quân tấn công vào Thành Phố An Lộc và Tiểu Đoàn 6 Dù đang trấn giữ bảo vệ vị trí Pháo Binh .

    Áp dụng nhị thức Bộ Binh và Chiến Xa : V́ là lần đầu tiên lực lượng Cộng quân có chiến xa yểm trợ để tấn công, nên giữa các đơn vị tùng thiết và các chiến xa T.54 & PT.76 mạnh ai nấy đi . Bộ Binh th́ lo chạy tránh Pháo, Chiện xa th́ cứ tiến nhanh vào thành phố ..Nên dễ làm mồi cho các tổ phóng hoả tiễn M.72 của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà.

    Chiếu theo các tài liệu, vào lúc khởi phát cuộc bao vây An Lộc, địch có khoảng từ 35,000 đến 37,000 cán binh, c̣n bạn th́ chỉ có Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Việt Nam Cộng Ḥa và lực lượng diện địa lănh thổ Tiểu Khu B́nh Long,cộng chung 5 Tiểu Đoàn, cùng Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, tổng cộng tối đa khoảng 2,200 quân sĩ Việt Nam Cộng Hoà. Như vậy là địch đông trên hơn 24 lần, nên địch mở cuộc bao vây An Lộc và tấn công từng mặt một (có thể nói là hoàn toàn khinh địch) .

    C.- YẾU TỐ TÂM LƯ BẤT NGỜ

    Phía Quân Việt Nam Cộng Hoà bị bất ngờ khi Quân Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc tấn kích, khi Địch mở trận mưa pháo tàn khốc, và xử dụng chiến xa, khiến cho Quân Sĩ Việt Nam Cộng Hoà bị mất tinh thần trong giai đoạn đầu, mở màn trận đánh Lộc Ninh. Và v́ địch vi phạm lỗi lầm khi áp dụng nhị thức bộ binh & chiến xa, không có sự yểm trợ hỗ tương lẫn nhau, nên dễ làm mồi cho các tổ khinh binh Việt Nam Cộng Hoà được trang bị những khẩu M.72, khí thế hùng hổ của địch quân vừa đông quân số vừa có Chiến Xa trợ chiến, nhưng khi Chiến xa chạy lạc bị bắn cháy, bộ binh quân Cộng Sản Bắc Việt lại đâm ra mất tinh thần, c̣n phía bên Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, khi thấy trong tay ḿnh có hàng ngàn khẩu M.72, và biết chắc là loại vũ khí khắc tinh của chiến xa địch, th́ đâm ra tự tin, phục hồi tinh thần trở lại nhanh chóng, đua nhau đi t́m diệt tăng dịch.

    Đó là yếu tố tâm lư bất ngờ, mà cả đôi bên mới vừa phát hiện trên trận địa khi lâm chiến, không một binh gia nào có thể dự liệu hay tiên đoán được, và nhờ thế đă đem đến thắng lợi cuối cùng cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

    D- YẾU TỐ THỜI CƠ

    Yếu tố thời cơ cũng là một trong những nhân tố quyết định, cho sự thắng bại của chiến trường An Lộc. Thời cơ đây, có thể nói là, thời điểm thuận tiện nhất để đè bẹp đối phương, khống chế trận chiến . Thời cơ khi đến cũng rất nhanh chỉ trong ṿng vài ba ngày là cùng, nếu đă để lỡ dịp, th́ thời cơ sẽ đi qua, không bao giờ trở lại. Thí dụ : Khi quân đội Cộng Sản Bắc Việt chiếm xong Lộc Ninh (chỉ trong ṿng có 2 ngày, sớm hơn dự tính của kế hoạch là phải mất từ 7 đến 10 ngày), khí thế và tinh thần các cán binh Cộng Sản Bắc Việt đang lên cao, và c̣n đang say men chiến thắng, trong lúc tại An Lộc Lực Lượng Pḥng Thủ chỉ mới có Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân và Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà mà thôi ... v́ sự tŕ hoăn lo chỉnh đốn hàng ngũ và bổ xung quân số, nhất là do ḷng tham, tóm nhặt chiến lợi phẩm và những thứ khác của Quân Dân Lộc Ninh... bỏ lỡ cơ hội bằng vàng để đạt được chiến thắng và dứt diểm An Lộc. Sở Chi Huy Chiến Dịch khi nhận định như thế đă ra quyết nghị chuyển cho Bộ Chỉ Huy Mặt Trận là phải tiếp tục tiến quân tấn chiếm An Lộc ngay trước ngày 09 tháng 04 năm 1972 (sau 2 ngày tấn chiếm Lộc Ninh). Nhưng Bộ Chỉ Huy Mặt Trận do Tướng Trần Văn Trà lănh đạo lại không đồng ư, để tŕ trệ cho đến ngày 13 tháng 04 mới khai hoả, trong khi ngày 12 tháng 04 năm 1972 phía Việt Nam Cộng Hoà có được thêm 2,500 tay súng, trong đó có 400 Lao Công Đào Binh quyết tử chiến với quân Băc Phương, của Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, lợi hại nhất là trong tay có trên 2,000 khẩu M.72, loại khắc tinh của chiến xa địch, cũng từ chỗ đó, 15 T.54 đi đầu khi chạy vọt đại vào trong thị trấn (trong đợt tấn công đầu tiên, cũng do Sư Đoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt làm chủ lực) đă bị các chiến sĩ Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ hầu hết không c̣n một chiếc nào, và cũng từ đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà được biết chắc là loại vũ khí M.72 có trong tay rất có hiệu quả bắn diệt tăng địch, cũng từ chỗ đó tinh thần và sĩ khí diệt tăng địch lên cao, để tiếp tục chống trả quyết liệt trong những cuộc tấn kích về sau này của Cộng quân. Đổi lại các cán binh Cộng Sản Bắc Việt tùng thiết đâm ra mất tinh thần, mất hết nhuệ khí, khi thấy chiến xa bị bắn cháy. Rồi kế tiếp đến, Lực Lượng Nhảy Dù và nhất là Lực Lượng Biệt Cách Dù được đổ vào An Lộc, từ đó cán cân chiến thắng đă nghiêng hẳn về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

    Tóm lại, dù bạn hay địch, nếu bên nào nắm được lợi điểm ở 4 yếu tố kể trên, th́ phần thắng sẽ nghiêng về bên đó. Và ai biết khai thác những cái khuyết điểm của đối phương cũng như biết khắc chế những yếu điểm của quân ḿnh th́ sẽ đạt được chiến thắng sau cùng của trận chiến.

  9. #89
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 - Phần KếtD



    E- CÁC CỐ VẤN HOA KỲ, LIÊN LẠC VỀ KHÔNG YỂM CHO CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC, ĐƯỢC MÔ TẢ NHƯ SAU :

    1.- Chiếu theo dư luận của giới quân sự Hoa Kỳ, họ cho rằng nếu không nhờ Không Quân của Hoa Kỳ yểm trợ th́ An Lộc đă bị quân Cộng Sản Bắc Việt đè bẹp ngay từ khi khởi đầu trận chiến.

    Việc này đúng hoàn toàn hay chỉ đúng một phần nào, xin quư độc giả đọc tiếp những sự thật về các cố vấn Mỹ và về không yểm (pháo đài bay B.52, oanh tạc cơ phản lực, trực thăng tiếp tế) của Không Lực Hoa Kỳ như sau :

    a.- Các cố vấn Mỹ cũng có người rất tận tâm trong chức vụ cố vấn của ḿnh, ngay cả hy sinh tính mạng, điển h́nh như Trung Tá Schott quyết định tự sát để cho các cố vấn c̣n lại thoát thân khi Lộc Ninh thất thủ.

    Kế tiếp, tại mặt trận Cầu Cần Lê toàn thể toán cố vấn Mỹ của Chiến Đoàn 52 của Sư Đoàn 18 Bộ Binh rất là tận tâm trong chức vụ cố vấn. Người rất đáng được ca tụng là Trung Tá Ginger, cố vấn trưởng, mặc dù đă bị thương khá nặng, đă từ chối không gọi trực thăng tản thương đến để di tản, mà quyết định ở lại để giúp cho vị Chiến Đoàn Trưởng là Trung Tá Thịnh gọi trực thăng vơ trang và các phi tuần phản lực , xạ và oanh kích địch một cách có hiệu quả. Nhờ vậy mà Chiến Đoàn 52 thoát khỏi được ṿng vây của hai Trung Đoàn Cộng Sản Bắc Việt.

    Việc tản thương Đại Úy Zumwatt ( Cố vấn Phó Chiên Đoàn 52 (-), khi trực thăng có sơn chữ thập đỏ đáp xuống ngay giữa trận tiền, đang hồi sôi bỏng tiếng súng, liền bị quân Cộng Sản Bắc Việt xả súng bắn, kết quả đă gây tử thương cho vị phi công phụ là Đại Úy Robert L. Hors và một y tá (không rơ tên) trên phi cơ.

    Kế tiếp là các cố vấn của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù : Đại Úy Huggings và Thượng Sĩ Yearta rất tận t́nh trong chức vụ, với người bạn đồng minh đă giúp trực thăng tản thương rất là nhanh chóng để tản thương một số chiến binh Biệt Cách Dù và Biệt Động Quân tại vùng Đôi gió, và liên lạc với C.130 thanh toán mục tiêu đồn Cảnh Sát Dă Chiến,giúp cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, ủi xong đồn Cảnh Sát Dă Chiến, phía Bắc Tỉnh lỵ An Lộc, và sau cùng chỉ điểm cho trực thăng vơ trang Cobra xạ kích, sát hại hằng trăm quân Cộng sản Bắc Việt xung quanh Đồi Đồng Long ( 08 tháng 6 năm 1972 ) .

    Kế tiếp các cố vấn của Liên Đoàn 1 Nhảy Dù, của Chiến Đoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh, của Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh, của Trung Đoàn 31, 32, 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, rất tận t́nh trong chức vụ đối với người bạn đồng minh của ḿnh trong suốt cuộc chiến.

    Đặc biệt là các phi hành đoàn của Không Đoàn Vận Tải C.130 Hoa Kỳ trách nhiệm thả dù tiếp tế cho quân bạn Việt Nam Cộng Hoà tại An Lộc, bị cao xạ và pḥng không của địch bắn rơi và tử thương trong lúc thi hành nhiệm vụ. Thật là những gương hy sinh cao cả.

    Sau cùng là vị tướng Mỹ Tillman trong lúc đáp xuống viếng thăm An Lộc khoảng ngày 10 tháng 07 năm 1972. Khi ông vừa rời khỏi Trực Thăng th́ bị một quả pháo nổ ngay băi đáp, gây tử thương cho ông và một số sĩ quan cao cấp của Lực Lượng 2 Dă Chiến Hoa Kỳ.

    b.- Bên cạnh những vị anh hùng cố vấn Mỹ đă quên thân ḿnh cho ư nghĩa cao cả tự do, và tận tụy trong chức vụ Cố Vấn của ḿnh, đối với người bạn đồng minh Việt Nam Cộng Hoà, th́ cũng có những sự việc không mấy tốt đẹp: Chúng tôi xin lược kê như sau:

    Trước tiên là toán cố vấn Mỹ của Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Viên Cố Vấn Trưởng là Trung Tá Abramawith, và toàn toán Cố vấn Mỹ, từ chối không chịu theo Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đổ vào tăng viện cho mặt trận An Lộc.

    Kế tiếp là Đại Tá Miller, Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, đ̣i rút hết toán cố vấn về Lai Khê viện lẽ hầm nổi dă chiến của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh không đủ an toàn. Nếu Tướng Hưng không t́m được ra một căn hầm khác (trại Đỗ Cao Trí) th́ Sư Đoàn 5 Bộ Binh cũng giống như t́nh trạng của Trung Đoàn 8 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà vậy.( Mặt dầu đó là vận may cho toàn thể Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng và cả toán Cố Vấn Mỹ ), Đại Tá Miller bắt buộc phải tận t́nh trong chức vụ, trước tiên là để bảo toàn mạng sống cho toàn toán Cố Vấn Mỹ,sau mới đến việc mang chiến thắng cho Quân tữ thủ Việt Nam Cộng Ḥa .

    2.- Nói về không yểm th́ thật là dồi dào, những phi vụ phản lực cơ, và B.52 cũng như những chiếc C.130 có súng đại bác 105 ly và trực thăng vơ trang Cobra đă yểm trợ rất đắc lực trong suốt trận chiến.

    Bên cạnh những nỗ lực không yểm kể trên, c̣n có vài điểm khác biệt cũng cần phải nêu lên để làm sáng tỏ dư luận :

    Về không quân chiến lược B.52 (đă ba lần từ chối theo như yêu cầu của phía Việt Nam Cộng Hoà) :

    - Lần thứ nhất vào ngày 18 tháng 04 năm 1972 tại vùng phi trường Quản Lợi (tính chất mục tiêu là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt và những nhân vật đầu năo của Cục R và 2 trung đoàn chính quy quân Cộng Sản Bắc Việt).

    - Lần thứ nh́ vào ngày 20 tháng 05 năm 1972 (tính chất mục tiêu là Bộ Chỉ Huy của Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt).

    - Lần thứ ba vào ngày 22 tháng 05 năm 1972 (tính chất mục tiêu là hầm chốt Xa Cam cấp 2 trung đoàn).

    Về trực thăng tiếp tế và tản thương.

    - Tất cả các trực thăng tiếp tế cũng như tản thương của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà đều không thể đáp xuống mặt trận An Lộc trong thời gian cuộc chiến đang sôi động . Dư luận của các cố vấn Mỹ cho là phi công Việt Nam Cộng Hoà nhát gan, sợ pḥng không địch nên không muốn đáp xuống trận địa. Trong lúc đó th́ phi cơ trực thăng tiếp tế của Hoa Kỳ vẫn đáp lên xuống đều đặn, đem đồ tiếp tế cho các cố vấn Mỹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và Tiểu Khu B́nh Long, không chiếc nào bị pḥng không Cộng Sản Bắc Việt ngăn cản.

    - Theo lời tường thuật của Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức đại diện Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, đích thân quan sát, đàm thoại và chứng kiến tận mắt, , cho biết : Sở dĩ trực thăng Mỹ được ra vào An Lộc một cách an toàn, là v́ phía dưới luờn của trực thăng Mỹ và các mũ phi hành của tất cả phi hành đoàn, đều có sơn màu trắng, thay v́ màu olive như các đơn vị Trực Thăng tác chiến của Việt Nam Cộng Hoà.

    Như vậy, câu hỏi được đặt ra là, phía đồng minh Hoa Kỳ có đường giây bí mật nào liên lạc với địch quân , để nhận được một thoả hiệp như thế hay không?

    Nếu có, th́ quả là tay phải th́ giúp, tay trái th́ năn nĩ, vuốt ve quân thù của người bạn đồng minh của ḿnh.

    F- KẾT LUẬN

    Sự việc ǵ cũng đều có hai mặt, mặt trái và mặt phải. Người th́ nói là nhờ cố vấn và không lực Mỹ, An Lộc mới c̣n đứng vững sau 93 ngày quyết chiến, kẻ th́ nói người bạn đồng minh của ḿnh (Mỹ) bề ngoài th́ giúp nhưng bề trong lại đi thoả hiệp ngầm với địch.

    Nếu nghĩ rằng, nhờ yểm trợ dồi dào về không quân Hoa Kỳ, nhưng nếu không có một tinh thần quả cảm của quân dân Việt Nam Cộng Hoà, thề quyết sống chết cho quê hương đất Tổ Việt Nam, th́ làm sao An Lộc có thể đứng vững trong suốt 93 ngày đó? Hay nói khác đi, nếu các cố vấn Mỹ và không quân Hoa Kỳ yểm trợ Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà đánh Cộng Sản, mà quân dân của Việt Nam Cộng Hoà không có quyết tâm tử thủ, buông súng đầu hàng địch quân, th́ liệu An Lộc có đứng vững hay không? Xin để quư vị độc giả và hậu thế phán xét.

  10. #90
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Không Quân VNCH và Chiến trường An lộc

    Trần Lư

    Những con số thống kê :

    Trận An lộc đă được ghi vào Chiến sử cũa Quân lực VNCH như một chiến thắng lẫy lừng, ngăn chặn được cuộc tấn công của CSBV trong Mùa Hè 1972....Sách báo Việt-Mỹ đă viết khá nhiều về sự chịu đựng và khả năng của các đơn vị Nhảy dù, Biệt cách Dù, Bộ binh, Thiết giáp nhưng ch đă đề cập đến vai tṛ của KQVNCH trong trận An Lộc bằng những con số khô khan..

    - Tập Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa ( trang 176) ghi :

    ..’ Tại Vùng 3, An Lộc đứng vững một phần không nhỏ nhờ công lao và sự hy sinh xương máu của các phi hành đoàn trực thăng UH-1 và CH-47 trong suốt hơn hai tháng tử thủ. Ch riêng tại hai chiến trường KonTum và An Lộc, lưc lượng trực thăng của KQVN đă bị thiệt hại tới 70%, gồm 63 chiếc UH-1 bị rớt v́ pḥng không địch + 391 chiếc khác bị trúng đạn hư hại nặng..’

    Và các nhà Quân sử KQ h́nh như đă ‘quên’ không nhắc đến các hy sinh của những Phi đoàn khu trục A-1, F-5 và của những Phi đoàn Vận tải C-123..chưa kể đến các chiến công thầm lặng của các EC-47, của các nhân viên chất hàng để thả dù tiếp tế cho An lộc..

    - Tập sách tài liệu của KQ Hoa Kỳ ‘Air Power in Three Wars’ do Tường KQ William Momyer viết (trang 330-332) ghi :

    ‘..Cộng quân siết chặt ṿng vây quanh An lộc và ch c̣n một đường duy nhất để tiếp tế cho Lực lượng trú pḥng VNCH là dùng các phương tiện của Không quân. Lúc đầu chúng ta thử sử dụng các trực thăng CH-47 để chuyển đồ tiếp liệu, nhưng pḥng không của địch đă khiến không thể dùng trực thăng. Địch quân đă đặt súng pḥng không dọc theo các hàng cây nên rất khó oanh kích: các xạ thủ CS thiết lập các vị trí súng máy trên các cành cây cao và nhắm bắn rất chính xác vào các băi đáp của trực thăng..Khi t́nh h́nh tiếp vận trở nên căng thẳng hơn, các phi cơ C-123 của KQVN đă bay vào và dùng phưong pháp thả dù tiếp liệu bằng dù ở cao độ thấp, nhưng pḥng không dầy đặc đă khiến phương pháp này phải ngưng sau 3 tuần..Sau khi các C-123 rút lui, việc tiếp tế đă phải giao lại cho Không đoàn 7 Hoa Kỳ..dùng các C-130s..’

    ‘..trung b́nh mỗi ngày, 185 phi suất dành cho việc pḥng thủ An lộc. Các phi suất này thường phát xuất từ Biên Ḥa và từ các căn cứ đặt tại Thái Lan, đa số là do các F-4. KQVNCH bay mỗi ngày 41 phi suất : Hỏa tiễn SA-7 và Súng pḥng không CQ đă buộc các A-37(của KQHK) phải thả bom ở cao độ cao hơn F-4 rất nhiều..’

    - Tập Quân sử của Không Quân Hoa Kỳ : The Vietnamese Air Force, 1951-1975, An Analysis of its Role in Combat’ ch tóm lược cuộc chiến Mùa Hè 72 bằng các con số ‘khô khan’ hơn :

    Thống kê ‘Trận chiến mùa Hè’ 31 tháng 3 đến 30 tháng 4 năm 72 :

    Không Quân VNCH :

    - Số các phi xuất oanh kích yểm trợ bộ binh : 4651

    - Số các phi suất ngăn chặn 340

    - Số các phi suất thám sát 474

    - Số các binh sĩ chuyển vận 40,484

    - Số tiếp liệu chuyển vận 3,388 tấn

    - Số phi cơ thiệt hại 36 chiếc

    - Số phi cơ sử dụng 1366

    - Số quân nhân tham chiến 47, 000

    (Cần ghi nhậnlà Trận An lộc ch chính thức bắt đầu vào 5 tháng 4 và chấm dứt vào tháng 6-1972)

    Trong một thống kê khác, có phần chính xác hơn đă ghi : Khi Cộng quân mở cuộc tấn công Hè-1972, KQVNCH có 1285 phi cơ, tổ chức thành 44 phi đoàn. 9 Phi đoàn khu trục bay các loại A-1, A-37 và F-5, tổng cộng có 119 chiếc khả dụng để oanh kích. 2 Phi đoàn Vận tải chiến đấu AC-47 và AC-119 với 28 phi cơ trong t́nh trạng hoạt động được. 17 Phi đoàn trực thăng với 367 chiếc khả dụng trong số 620 chiếc. 7 Phi đoàn quan sát tiền tiêu bay các loại O-1 và U-17 trong đó 247 chiếc khả dụng trong tổng số 303 chiếc..

    Vai tṛ của Không quân :

    Nhiệm vụ chính của Không Quân VNCH trong Trận An lộc gồm :

    - Yểm trợ Chiến trường cho quân trú pḥng bằng các phi cơ khu trục, có sự điều hành , hướng dẫn của các phi cơ quan sát.

    - Chuyển quân và chuyên chở các phẩm vật tiếp liệu bằng các trực thăng cơ hữụ

    - Thả dù tiếp tế bằng các phi cơ vận tải (sau khi CQ đă thiết lập hệ thống pḥng không ngăn chặn sự tiếp vận bằng trực thăng)

    - Theo dơi các cuộc liên lạc viễn thông, điện đàm của các đơn vị CQ bằng các Phi cơ t́nh báo điện tử.

    Các đơn vị KQ yểm trợ cho Chiến trường An lộc :

    - Sư Đoàn 3 Không Quân VNCH, bản doanh tại Biên Ḥa, là đơn vị KQ chính có nhiệm vụ yểm trợ cho Chiến trường An lộc. Sư đoàn trưởng là Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, Sư đoàn phó : Đại tá Nguyễn văn Tường. Thiếu tá Nguyễn văn c là Sĩ quan Đại diện cho Không đoàn 43 Trực thăng bên cạnh Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 và chịu trách nhiệm điều hành công việc chuyễn quân và tản thương. Các lực lượng chính của SĐ 3 KQ là :

    - Không đoàn 43 Chiến Thuật gồm 4 Phi đoàn trực thăng UH-1 : 221 (Lôi Vũ) , 223 (Lôi điểu), 231 (Lôi vân), 245 (Lôi bằng) ; 1 phi đoàn Chinook CH-47A : 237 (Lôi thanh) và 1 phi đội trực thăng tản thương UH-1 : 259Ẹ

    - Không đoàn 23 Chiến thuật với các Phi đoàn Quan sát 112 và 124; Các Phi đoàn khu trục A-1: 514 và 518 , Phi đoàn F-5 :522.

    - Sư đoàn 5 KQ tại Tân Sơn Nhất gồm

    - Không đoàn 53 CT với các Phi đoàn 413 (C-119 G), các Phi đoàn C-123 (PĐ 421, 423 và 425).

    - Không đoàn 33 CT với Biệt đội Trinh sát điện tử 716 (EC-47)

    Trong giai đoạn giải tỏa An lộc KQ VNCH có huy động thêm một số phi công tăng phái từ SĐ 4 KQ thuộc PĐ 116 để bay các phi vụ quan sát chiến trường do PĐ 112 sắp xếp. Ngoài ra một số phi vụ chuyển quân của các đơn vị BB tăng viện từ SĐ 9BB và SĐ 21BB đă được các trực thăng thuộc các PĐ211 và 217 thuộc KĐ 84/ SĐ 4 KQ thực hiện..

    Diễn tiến Trận đánh An lộc :

    (Trận An lộc đă được nhiều Nhà quân sử ghi chép lại với rất nhiều chi tiết về những cuộc đụng độ của các đơn vị bộ binh và thiết giáp của VNCH và Cộng quân, cùng các hoạt động yểm trợ của Không quân Việt Mỹ . Trong phạm vi bài này, chúng tôi ch ghi lại những hoạt động của KQ VNCH)

    CS BV đă chính thức mở màn Chiến dịch mùa Hè 1972 của họ tại vùng 3 Chến thuật vào ngày 2 tháng 4; 60 giờ đồng hồ sau cuộc tấn công đầu tiên tại Vùng 1 CT và gần như cùng một lúc với các cuộc tấn công thăm ḍ tại KonTum (Vùng 2), khi dùng bộ binh và chiến xa tràn ngập Căn cứ hỏa lực Lạc Long, gần biên giới Kampuchea, cách Thị xă Tây Ninh khoảng 35 km về phía Tây Bắc. Căn cứ này do Trung đoàn 49BB/ SĐ5 trấn giữ. Trung tướng Nguyễn văn Minh Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH phản ứng bằng cách cho rút tất cả các đơn vị hoạt động trong vùng biên giới Việt-Miên để thiết lập một tuyến pḥng thủ mới quanh Tnh lỵ Tây Ninh (mà Ông nghĩ sẽ là mục tiêu tấn công của CQ), do đó CQ đă có thể chuyển quân dễ dàng trong vùng. Tiền đồn duy nhất c̣n lại là Căn cứ Tống Lê Chân do TĐ 92 BĐQ biên pḥng trấn giữ, lư do là Ch huy Căn cứ không chịu rút v́ sợ sẽ bị CQ phục kích tiêu diệt (và Tống Lê Chân vẫn c̣n trong tay QL VNCH cho đến khi kư Hiệp định Đ́nh chiến tháng Giêng năm 1973) .Lực lượng BĐQ tại Căn cứ Thiện Ngôn tuân theo lệnh rút quân của Tướng Minh đă bị phục kích và mất toàn bộ các quân xa và vũ khí nặng. Cộng quân đă để tại chỗ các chiến lợi phẩm, không cần thu dọn chiên trường v́ đă đạt được mục tiêu nghi binh của họ..An lộc, thay v́ Tây Ninh sẽ là điểm tấn công để tạo một thủ đô cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Chiêu bài của CSBV) Các trận tấn công tạo hỏa mù tại Tây Ninh đă giúp Công trường 9 CSBV di chuyển một cách bí mật về Vùng 708 tại phía Tây Bắc An lộc. Trong khi đó CT 5 CS đă tập trung sẵn quanh Lộc Ninh và CT7 đă ở trong vùng Nam An lộc để cắt đứt Quốc lộ 13..

    Trận An lộc bắt đầu vào sáng sớm ngày 5 tháng 4 khi CQ pháo kích vào Tnh lỵ, đồng thời tấn cống thăm ḍ Phi trường Quản lợi, nằm về phía Đông Bắc An lộc khoảng 7 cây số. Đơn vị BĐQ trú đóng tại Phi trường đă buộc phải rút lui cùng với các Cố vấn HK. Các chiến sĩ c̣n trụ lại ch giữ được phi đạo đến hết ngày 6 tháng 4. CQ chiếm khu vực phi trường và cắt đứt Quốc lộ 13, về phía Nam An lộc. Công việc tiếp vận cho quân trú pḥng phải tùy thuộc vào trực thăng và thả dù.

    Trong khi CQ cô lập hóa An lộc, họ đă thanh toán các tiền đồn tại Lộc Ninh. Sáng 5 tháng 4 CQ đă bao vây chia cắt quân trú pḥng thành 2 nhóm. Sự can thiệp của Trực thăng vơ trang HK đă giúp kéo dài sự cầm cự. Các phi cơ phóng pháo đă thả những quả bom chùm chống bộ binh để ngăn chặn CQ. Các AC-130 vơ trang cũng tạo những lưới lửa để giúp các đơn vị trú pḥng chống trả các đợt tấn công của CQ có xe tăng yểm trợ.

    Khi CQ tấn công Lộc Ninh, QĐ 3 VNCH đă phản ứng bằng cách gửi Chiến đoàn 52 (SĐ5 BB) gồm 2 Tiểu đoàn BB (TĐ1/52 và TĐ 1/48) tấn công tái chiếm 2 Căn cứ hỏa lực đă rút bỏ trước đó gần giao điểm của các Quốc lộ 13 và 17 ỡ giữa đường từ An lộc đến Lộc Ninh. Ngày 6 tháng 4, một TĐ được lệnh tiếp cứu Lộc Ninh nhưng không vượt nổi chốt chặn của CQ, và sau đó cả Chiến đoàn được lệnh rút về lại An lộc, và sáng 7 tháng 4 Chiến đoàn đă bị CQ phục kích trong khi rút quân. KQ đă phải oanh kích phá hủy 3 đại bác 105 của CĐ để tránh bị CQ sử dụng. CĐ phải tự hủy mọi xe cộ và trang bị để có thể vượt thoát các chốt phục kích của CQ. Một trực thăng bị hạ và 2 chiếc khác bị hư hại nặng..Sáng 8 tháng 4 một lực lượng KQ HK gồm AC-130, Khu trục và Trực thăng vơ trang đă phải can thiệp để bốc toán 3 Cố vấn cùng 9 Quân nhân VNCH thoát khỏi ṿng vây..

    Sau khi Lộc Ninh thất thủ, CĐ 52 bị thiệt hại nặng, Phi trường Quản lợi bị mất, Quốc lộ 13 bị cắt đứt (phía Nam). An lộc được xem như đă bị hoàn toàn vây hăm.

    - Các Phi vụ chuyển quân và tiếp tế :

    Sau ngày 7 tháng 4, An lộc đă hoàn toàn bị bao vây và không c̣n phi đạo tiếp tế. Từ 7 đến 12 tháng 4, tất cả các phi vụ tiếp tế đă được thực hiện bằng Trực thăng và các C-123 của Không Quân VNCH và Hoa Kỳ. (Trong thời gian này , các trực thăng Chinook CH-47 của Phi đoàn 237 VNCH ; các UH-1 của các PĐ trực thăng VNCH có thêm sự trợ giúp của các trực thăng Hoa Kỳ của Phi đoàn 229 HK, đă thực hiện được 42 phi suất chỡ hàng tiếp vận vào An lộc) Trong khoảng thời gian từ 7 đến 19 tháng 4, KQHK và các trực thăng của KQ VNCH, phối hợp với các C-123 đă chở được 337 tấn tiếp liệu vào An lộc..Các phi vụ bay vào An lộc càng ngày càng trở nên nguy hiểm và gần như cảm tử. Hỏa lực của CQ đă gây hư hại nặng cho 3 chiếc UH-1 của KQHK trong lúc đang bốc rỡ hàng hóa..

    Các chuyến trực thăng tiếp vận đă phải chấm dứt từ ngày 12 tháng 4 sau khi 1 CH-47 của KQVNCH bị trúng đạn súng cối của CQ bốc cháy và phát nổ khi đáp xuống băi thả hàng.

    Các tài liệu của Hoa Kỳ như ‘The Battle of An loc’ của James Willbanks, ‘Airwar over South VietNam 1968-1975’ của Bernard Nalty..đều ghi ngày chiếc CH-47 của VNCH bị rơi là 12 tháng 4, nhưng các bài hồi kư của các phi công trực thăng lại ghi là 13 tháng 4 . Sau đây là một sô đoạn trich từ cac bài viêt cũa những phi công CH-47

    Trong bài Phi đoàn 237 CH-47A, tác giả Vũ văn Bảo ghi lại :

    ‘.. T́nh h́nh chiến sự mỗi lúc một gia tăng và mănh liệt nhất là trận An Lộc, mùa Hè 72. Mỗi sáng, chúng tôi tất cả các trực thăng thuộc KĐ 43 CT đều sang standby tại Lai Khê chờ lệnh, UH-1 vào trước với các binh sĩ tinh nhuệ Nhảy dù, Chinook vào sau với các khẩu trọng pháo 105 ly ở Đồi Gió, Tàu Ô, Tân Khai, bay cao, bay thấp đều bị bắn bằng đủ loại đạn, nhưng chúng tôi vẫn thi hành các phi vụ được giao phó. 2 Chinook đả tổn thất tại Tân Khai và Tàu Ô là PHĐ của Th/tá Nguyễn hữu Nhàn + Th/úy Đặng Thiên Hiền, cơ phi Ch/úy Kim, áp tải, xạ thủ đều hy sinh và PHĐ của Đ/úy Nguyễn văn Trọng + Th/úy Thanh bị băt và được giao trả năm 73 nhưng cơ phi, xạ thủ và áp tải hy sinh.. một Chinook của Tr/uy Lê quang Tiên và Đặng đưc Cường bị băn cháy trên không, phải đáp khẩn cấp xuống Phi trường An lộc và được gunship bốc cứụ Phi cơ của Tr/úy Sơn và tôi bị trúng 1 viên 12,7 ly thủng b́nh xăng trái nhưng vô sự v́ không phải đạn lửa vả nhiều phi cơ khác bị đạn nhưng không đáng kể..’

    Trong các e-mail trao đổi giữa các phi công về ‘Những Kỷ niệm Khó Quên’ trên Diễn đàn Cánh Thép :

    - Tác giả Vũ văn Bảo : ‘Nhắc đến thứ Sáu 13, tôi lại nhớ đến Đặng thiện Hiền, Hiền rất tin dị đoan, thường hay khai bệnh vào ngày nàỵ Nhưng chính Hiền lại tử nạn, hy sinh vào đúng ngày thứ Sáu 13 cùng với Phi Hành Đoàn của Thiếu tá Nguyễn Hữu Nhàn..’

    - Tác giả Vương minh Dương : ‘..chiều hôm trước ngày anh Nhàn và Hiền bị rơi, tôi và anh Nhàn đang ngồi ở bậc thềm hành lang phi đoàn (PĐ) nh́n ra phi đạo 237 nói chuyện sau khi tôi đă cắt bay cho ngày hôm sau và người bay phi vụ này với Hiền chính là tôị Anh chính có việc bận ở Sàig̣n nên anh Nhàn túc trực tại PĐ, bỗng nhiên Đại tá Tường lái chiếc xe jeep lùn đến ngay chỗ tôi và anh Nhàn đang nói chuyện và ông hỏi PH đoàn nào đi Lai Khê ngày mai và không hiểu v́ lư do ǵ Ông muốn hoặc anh Chính hay anh Nhàn bay phi vụ ấy, v́ anh Chính cưa về nên anh Nhàn nói với tôi : mày để tao bay chỗ của mày...’

    - Tác giả Lê Quang Tiên ghi rơ hơn : ..’Bữa đó thứ Sáu 13. Tôi không nhớ rơ tại sao ch có 2 chiếc đi Lai Khê, tôi bay chiếc số 2. Sau khi ăn cơm trưa xong th́ chuẩn bị đi vào Tân Khai.. Sau hai phi vụ vào Tân Khai, tôi bay số 2, tiếp tế và di tản dân tỵ nạn, tôi vào số 2, bị pháo quá nên không bốc dân thường được, bị Th/tá Nhàn la quá trời..Đến phi vụ thứ 3, sau khi Ddại bàng 1 đổ xăng xong, không biết tại sao, sàng qua câu hàng, măi hồi lâu không câu đưôc, th́ Th/tá Nhàn bảo tôi : Tiên mày qua câu đi.. Tôi bay qua câu kiện hàng đó rồi đi trước và thành chiếc số 1 vào Tân Khai.. Tôi đáp vào Tân Khai, bốc dân và ay ra th́ cross Th/tá Nhàn bay vàọ Tôi mới lấy cao độ th́ nghe T/t Nhàn nói là : Tiên ơi, tao bị bắn rồi.. Tôi liền vào Tân Khai trở lại, thấy Đại bàng 1 đang bay thật thấp như thường lệ, không có ǵ khác biệt. Tôi liền gọi T/T bị bắn có sao không ? Không có tiếng trả lờị Tôi liền ṿng sang phải sau Đại bàng 1 và nói T/T có sao không, đáp đi, tôi ở phía sau nè..Vẫn không có tiếng trả lờị Bay như vậy độ 1 phút và tôi tiếp tục gọi.. Bỗng dưng Đại bàng 1 go vertical, tôi chưa từng thấy, thẳng lên trời..rồi loss air speed, roll và đâm vertical xuống đất bùng nổ.Tôi liền gọi Mayday và không lâu sau toán rescue của Mỹ tới..’

    Các CH-47 cũa KQVN cũng có nhiệm vụ đưa các khẩu đại bác 105 ly vào vùng hoạt động của TĐ 6 ND..

    Tác giả Đỗ đức Thịnh thuộc LĐ81BCND trong bài ‘Hai tháng Tử thủ An lộc’ viết : ..’Nhịp độ pháo của địch tăng mạnh khi các Phi vụ Hơa long và AC-130 rời vùng. Tại Đồi Gió, nằm ở hướng Bắc của Đồi 169 cách khoảng 3 km do đơn vị Pháo binh và TĐ 6ND đang lập tuyến pḥng thủ cũng không may mắn ǵ hơn. Họ đang hứng chịu trận mưa pháo tập trung tới tấp khi hai chiếc trực thăng Chinook đang cố tiếp viện cho họ hai khẩu đại bác 105 mm. Tôi nh́n khẩu đại bác móc ṭn ten phía dưới bụng chiếc trực thăng đang cố đáp, tụi tiền sát viên phác của CQ đă điều chnh những quả đạn khá chính xác vào ngọn đ̣i ấỵ Từng bựng lửa, bụi đỏ tung lên dưới thân tầu làm cho hai chếc trực hăng bốc lên cao hơn, pháo ngớt hai chiếc trực thăng lại từ từ hạ thấp, cứ thế trong ṿng 15 phút hai chiếc trực thăng không thể nào thả hai khẩu đại bác xuống và đành phải bốc lên cao..và bay về phía Lai khê..’

    Sau các cố gắng, 6 khẩu 105 mm ṇng ngắn cũng đă được đưa đến cho TĐ 6 ND nhưng sau đó cả 6 khẩu này đă bị CQ pháo kích hủy diệt.

    Không Quân VNCH đă buộc phải dùng các C-123 và một số ít C-119 đă t́m cách thả các kiện hàng ở cao độ thấp từ 700 đến 5000 ft, dưới hỏa lực pḥng không dảy đặc của CQ Các phi vụ thả hàng được thực hiện vào ban ngày, đường bay vào An lộc đều từ hướng Nam, dọc theo Quốc lộ 13. Khi thả ở cao độ 5000 ft, đa số các kiện hàng bị lạc vào vùng kiểm soát của CQ. Trong hai ngày, các phi cơ VNCH đă thả được 27 chuyến với 135 tấn tiếp liệu nhưng ch 34 tấn đến được tay lực lượng trú pḥng. Ngày 15 tháng 4. một C-123 bị hạ, toàn bộ Phi hành đoàn hy sinh.. và sau đó, ngày 19 tháng 4, một C-123 khác, chở đạn tiếp vận đă trúng đạn pḥng không của CQ và nổ tung..

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •