Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 47

Thread: Hồi kư "Tôi đi 'cải tạo '"

  1. #21
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    4.37. Những ngày ở Trại 3 (Hồ Thác Bà)

    Đang ở Trại 5, bây giờ chuyển sang Trại 3, nhất là không c̣n hung thần Phạm Ngọc Diêu làm đội trưởng nữa, tôi có cảm tưởng như ḿnh đang từ tầng thứ chín địa ngục được lên tầng thứ sáu, thứ bẩy vậy. Thật là sảng khoái chi lạ!

    Ở đây, tôi quen biết được một số bạn bè mới mà họ thuộc thành phần ở lại của Trại 3 để sáp nhập với nhóm Trại 5 chúng tôi mới tới. Tôi chỉ c̣n nhớ tên một số ít thôi, gồm có các anh như Hồ Đắc Thái, Vơ Tấn Tài, Vũ Cao Hiến, Trần Cao Chánh, Nguyễn Chánh Vi, và anh Lộc.

    Hồ Đắc Thái, Vũ Cao Hiến, và Nguyễn Chánh Vi đều bị chết trên đường vượt biển. Vơ Tấn Tài đang ở Houston. Trần Cao Chánh không rơ hiện nay ở tiểu bang nào.

    Riêng anh Lộc, có biệt danh là Lộc “Chị năm” v́ anh có giọng nói ỏn ẻn như con gái. Anh Lộc được tha đầu năm 1981, là người đă tới gặp em trai của tôi để chuyển lời tôi nhắn chú em tôi, như đă kể ở phần trên. V́ một lư do nào đó, anh Lộc không đi Mỹ như mọi người, mà ở lại Việt Nam. Anh Lương Văn Quang, là người trước đây ở cùng xă với anh Lộc, mới đây (2008) cho tôi biết rằng anh Lộc dạo này trúng mối v́ giá đất đai ở Sài-G̣n lên cao, anh Lộc nhờ vậy hốt được khá nhiều tiền bán đất. Do đó hiện nay cuộc sống của gia đ́nh anh rất sung túc. Cũng mừng cho anh.

    Trong thời gian ở đây, chúng tôi đă bắt đầu nghe được các bài chửi Trung Cộng từ loa phóng thanh của trại. Đồng thời hàng tuần cũng được đọc báo Quân Đội Nhân Dân. Nhờ đó mới biết rằng Việt Nam và Trung Cộng bây giờ đang đối đầu nhau gay cấn, chứ không c̣n t́nh đồng chí như trước nữa. Hơn nữa, chúng tôi không phải làm công việc ǵ có tính cách xây dựng trong trại. Công việc hằng ngày của chúng tôi là duy tŕ mấy mảnh vườn rau và thay phiên nhau đi đào sắn cho nhà bếp. Thỉnh thoảng, một đội được cử đi lên kho Liên Trại 4 (xă Cẩm Nhân) để khiêng gạo và mắm muối về trại. Căn cứ vào mấy sự việc kể trên, chúng tôi chắc rằng chúng tôi sẽ bị chuyển sâu xuống phía nam để tránh xa vùng lửa đạn. Trong thâm tâm, tôi thầm mong cho quân Tầu đánh sớm, trước khi Việt Cộng đưa chúng tôi về phía nam, với hy vọng rằng ḿnh sẽ có cơ hội trốn thoát. B́nh tâm mà xét, đă là người Việt Nam, ai lại muốn cho giặc Tầu sang đánh nước ḿnh cơ chứ. Nhưng ở vào hoàn cảnh nghiệt ngă của chúng tôi th́ sự mong muốn đó cũng có thể tha thứ được.

    Có lần đội tôi đi đào sắn, phải đi ngang qua vị trí ban đầu của Trại 5 khi mới ra Bắc. Tôi có dịp nh́n lại nơi ḿnh đă ở trước đây. Nhà cửa cũ đă biến mất, nhường chỗ cho mấy vườn rau, có lẽ là của Trại 7. Mới cách đây vài tuần (tháng 10/2008), khi nói chuyện với anh Nguyễn Tiến Xuyên (Cali) th́ được anh cho biết, rằng sau khi Trại 5 chúng tôi chuyển sang bên kia bờ hồ Thác Bà, th́ Trại 7 của anh sang tháo gỡ nhà cửa đem về Trại 7 để sử dụng. Các anh ấy đỡ phải tốn công leo núi t́m cây làm chi cho mệt. Xuyên nói, “Đời tù mà, đỡ phải đổ mồ hôi chừng nào, tốt chừng đó.”

    Người phi công hào hoa.
    Chiều chiều, sau bữa cơm, chúng tôi thường tụ lại từng nhóm nhỏ, vừa đứng nghe loa phóng thanh phát ra những bài chửi Trung Cộng để ước đoán t́nh h́nh, vừa nói đủ thứ chuyện - những chuyện không đầu không đuôi - để quên đi hiện trạng của ḿnh. Có một lần, Lộc “Chị năm” kể cho tôi nghe về một anh chàng phi công hào hoa (*) mà đă lâu ngày tôi không c̣n nhớ tên; ở đây cứ tạm gọi tên anh là X cho tiện. Tôi cũng không nhớ anh X thuộc trại nào, Trại 3 hay Trại 7. Có lẽ X thuộc Trại 3 th́ đúng hơn v́ Lộc ở Trại 3. Tuy nhiên, cũng có thể X thuộc Trại 7 v́ hai trại chỉ cách nhau chừng hơn cây số; khi leo núi chặt cây th́ người của hai trại gặp nhau là chuyện thường; từ đó câu chuyện có thể được truyền từ trại này qua trại kia. Câu chuyện đại khái như sau:

    Trong một chuyến đi lên Cẩm Nhân khiêng gạo về trại, dọc đường trời mưa nặng hạt, cả đội thấy có căn nhà tranh ở gần th́ chạy tới trú mưa. Tới nơi, họ mới biết đây là một trường học. Gọi là trường cho nó oai, chứ thực ra nó chỉ là một căn nhà lá ba gian (dài cỡ 30 Ft); chung quanh được quây bằng những tấm phên nứa. Một cô giáo dậy đủ các lớp. Cô giáo thấy tù vào trú mưa th́ cho học tṛ nghỉ cho tới lúc họ đi th́ mới tiếp tục học lại. Cô giáo thấy X mặc một cái áo khoác của Không Quân (loại áo có hai mầu, bên ngoài mầu xám, bên trong mầu cam) th́ thích lắm. Cô tới gần anh X, đưa tay vê vê vải áo rồi tỏ ư muốn mua cái áo đó, hoặc đổi đồ ăn. Anh X trả lời cô rằng cô không có khả năng mua nổi cái áo này đâu. Tuy nhiên, X nói thêm, nếu cô thích th́ “tôi tặng cô đấy”. Nói xong, X cởi áo ra và trao cho cô giáo. Hành động của X làm cho mọi người, từ cô giáo đến đồng đội của X, phải ngạc nhiên. Cô giáo đưa tay ra nhận cái áo mà mặt sáng rỡ; chắc cô tưởng như ḿnh đang mơ. Anh X chỉ cần đi một đường lả lướt như vậy mà, theo tôi nghĩ, nó đă thừa sức đánh tan những điều tuyên truyền của Việt Cộng từ trước tới giờ, rằng “Bọn ngụy là lũ ác ôn, côn đồ, ăn gan, uống máu con nít và hăm hiếp phụ nữ.” Ngoài chuyện anh X cho áo, c̣n chuyện những người khác cho dân thuốc chữa bệnh nữa (Thuốc đă giấu, không nộp cho trại). Nhờ vậy mà càng ngày dân địa phương càng có cảm t́nh với tù Miền Nam.

    (*) Tôi chỉ nghe một ḿnh anh Lộc kể chuyện này; do đó tôi kể lại ở đây với sự dè dặt thường lệ. Bạn nào đă ở trong toán đi khiêng gạo với anh phi công này, nếu thấy có ǵ không đúng sự thật th́ xin lên tiếng sửa sai nhé, đa tạ.


    Người “ngây thơ cụ.”
    Tôi gọi T. như thế v́ tôi không nghĩ rằng anh lại khờ dại đến như vậy trong khi anh có bằng Cử Nhân Luật và trước 30/4/1975 anh thuộc Nha Quân Pháp, làm Ủy Viên Công Tố (?) ṭa án Quân Sự Mặt Trận.

    T. có dáng người mảnh khảnh và rất hiền. Ngày c̣n ở Trại 5, anh và tôi ở cùng đội chặt nứa. Tôi chưa khi nào thấy anh to tiếng với ai trong đội; do đó không ai tỏ thái độ ghét bỏ anh cả. Bây giờ sang Trại 3, chúng tôi lại vẫn ở chung một đội, anh nằm cách tôi mấy người. Tôi nằm ở tầng dưới; anh ở tầng trên. Trước hết, xin ngược lại ngày c̣n ở Trại 5, bên kia bờ hồ Thác Bà.

    Một hôm, trong khi chuẩn bị đi chặt nứa, T. được gọi tên ở lại trại “làm việc”. Chúng tôi không biết v́ sao mà T. phải ở lại “làm việc,” nhưng buổi chiều, khi chúng tôi về trại, th́ thấy mặt T. tươi rói. Sau này mới biết rằng T. có bà chị ở bên Pháp về thăm. Chị của T. ở trong hội Việt Kiều Yêu Nước ở bên Pháp; có lẽ bà giữ chức vụ ǵ khá quan trọng cho nên bà về Việt Nam để hội họp chi đó. Nhờ vậy, bà xin được phép tới thăm T. trong khi nhà nước chưa có chính sách cho thăm nuôi. Hai chị em T. được gặp nhau tṛ chuyện ở trên Ban Chỉ Huy trại cho tới gần chiều th́ chị của T. phải trở về Hà-Nội. Có lẽ v́ cuộc thăm nuôi này mà T. có vẻ yêu đời hơn, và tin tưởng vào chính sách khoan hồng của nhà nước hơn.

    Trở lại Trại 3, một buổi nghỉ trưa, T. đọc một cuốn truyện đầy hoang tưởng mà T. mới mượn của trại. Nếu T. đọc bằng mắt th́ chẳng có chuyện ǵ xảy ra cả. Nhưng tự dưng, T. nói lớn, “Có chuyện này hay lắm, anh em ơi,” rồi T. đọc to cho mọi người nghe. Câu chuyện kể về một thằng bé bị bom Mỹ, cụt mất hai tay. Thằng bé đă phấn đấu làm việc bằng chân. Nó dùng ngón chân cầm kim may vá, không những cho ḿnh mà c̣n cho cḥm xóm nữa. Tôi nghe thấy ngứa nhĩ quá, phét lác vừa phải thôi chứ. Tôi quát lớn: “Yêu cầu anh đóng cái miệng anh lại để khỏi làm phiền hàng xóm trong lúc nghỉ trưa. Truyện có hay th́ anh đọc bằng mắt để thưởng thức, đừng có ồn ào.”
    Thế là đài phát thanh im re. Từ đó T. hết có cảm t́nh với tôi. Tôi nghĩ T. thừa biết đó là một truyện tưởng tượng do bọn văn nô viết ra để tuyên truyền thôi, nhưng T. muốn làm ra vẻ ngây thơ, hoàn toàn tin tưởng vào “Cách Mạng”, anh vui thú với cái kỳ tích phấn đấu của thằng bé “cháu ngoan bác Hồ”. Đây cũng là một cách gián tiếp để anh lấy điểm với bọn Việt Cộng (qua tai mắt của mấy tên làm ăng-ten trong đội), rằng chỉ có Chủ Nghĩa Xă Hội Miền Bắc mới đào tạo được những đứa bé có ư chí phấn đấu với nghịch cảnh như vậy.



    Chương 5
    Trại Vĩnh Quang B, huyện Tam Đảo,
    tỉnh Vĩnh Phú

    5.1. Chuyển trại về Tam Đảo

    Như đă nói ở trên, thời gian ở Trại 3 là thời gian chờ đợi để đi nơi khác cho nên chúng tôi được tà tà nhất. Nội qui được thả lỏng, bọn tôi chỉ làm mấy công việc vớ vẩn quanh trại, thỉnh thoảng có một đội được chỉ định đi xă Cẩm Nhân khiêng thực phẩm cho trại mà thôi.

    Vào một buổi trưa, cả trại được lệnh chuẩn bị chuyển trại ngay. Bọn tôi vội vàng chuẩn bị gồng gánh để lên đường. Độ một giờ sau th́ chúng tôi được dẫn ra một băi đất trống gần trại và được lệnh “bầy hàng” để khám xét đồ. Bọn quản giáo soi mói từng tí, xem có t́m thấy cái ǵ “vi phạm nội qui” để c̣n tịch thu chuyến chót. Sau khi màn khám xét chấm dứt, chúng tôi lại được dẫn trở lại trại, ai về chỗ nấy, không thay đổi ǵ cả. Vài ngày sau th́ mới chính thức chuyển trại bằng xe Molotova sau khi chúng tôi phải đi bộ hơn một tiếng để ra băi đậu xe. Đến gần chiều tối th́ chúng tôi tới nơi, ngồi chờ ở phía ngoài cổng trại cho bọn cai tù bàn giao. Ḅ vàng (công an) xuất hiện, đây là chỉ dấu kể từ nay chúng tôi bị quản lư bởi công an.

    Vào trong trại, chúng tạm thời chia thành từng nhóm 30 người cho mỗi căn nhà, chúng tôi được lệnh cử người đi lănh cơm chiều “khẩn trương” (cho lẹ) để c̣n kịp thời vào buồng cho chúng khóa cửa lại. Một cảnh sống khác hẳn mấy năm trước bắt đầu từ đây.

    Về quản lư tù th́ do công an trách nhiệm. Bọn công an không cần phải che đậy ǵ cả, mà công khai gọi chúng tôi là tù, hết c̣n dùng mỹ từ “cải tạo viên” nữa. Nhà nhốt tù chỉ có một cửa ra vào, tối bị khóa cửa và sáng hôm sau tên cán bộ trực trại xuống mở cửa từng buồng cho tù ra làm vệ sinh cá nhân và chuẩn bị đi lao động.

    Trại tù Vĩnh Quang B là trại đă xây cất lâu rồi, mỗi căn dài chừng 12 mét, ngang 5 mét (40 ft x 16ft). Mái lợp bằng rơm (bông lúa đă đập hết hạt lúa) rất dầy và cũ cho nên sinh ra rất nhiều rết, con nào cũng dài gần một gang tay, nhưng cũng rất may là buồng tôi chưa ai bị rết cắn, c̣n những buồng khác th́ không biết. Tường trát bằng đất nhào với rơm/rạ (*). Dọc theo căn nhà, hai bên là sạp ngủ ghép bằng những tấm gỗ bề ngang chừng 25-30 cm (10 đến 12 inches), ở giữa là lối đi, một đầu dẫn ra cửa và đầu kia dẫn vào cầu tiêu. Trên tường và trên sạp ngủ đầy những máu/mủ đă khô, tạo ra một mùi tanh khiến cho buồn ói. Những buồng này trước đây dùng để nhốt tù h́nh sự, bây giờ nhốt chúng tôi. Bọn tù h́nh sự th́ hầu như đứa nào cũng bị ghẻ lở v́ chúng ăn ở dơ dáy và thiếu dinh dưỡng. Ngoài ra c̣n có cái nạn rệp mà chúng tôi gọi là “xe tăng”. Đoàn quân rệp đă bị đói nhiều ngày, bây giờ chúng tôi tới làm mồi cho chúng. Đêm đầu ít có ai ngủ được ngon lành v́ bị rệp tấn công và mùi hôi hám nồng nặc. Nhất là ai vớ phải chỗ nằm gần cầu tiêu th́ đúng là một cực h́nh v́ phải hít thở mùi khai/thối từ nhà cầu xông ra.

    (*) Rơm = Phần trên của cây lúa đă được đập để lấy hết hạt thóc ra khỏi bông lúa.
    Rạ = Phần gốc của cây lúa c̣n lại (ở ruộng) sau khi cây lúa đă được cắt phần ngọn đi rồi.


    Sáng ngày hôm sau, chúng tôi được phân công làm vệ sinh cho buồng. Người th́ gánh nước từ suối về rửa nhà cầu, người th́ lấy vôi về ḥa với nước để quét tường, cầu tiêu, và nền nhà (đất) để sát trùng, kẻ th́ đem các tấm ván sạp ngủ ra dộng cho rệp văng đi rồi phơi nắng cho mấy con c̣n nằm trong kẹt chết đi. Nhờ vậy mà căn buồng đă khấm khá hơn trước nhiều. Tuy nhiên đoàn quân xe tăng vẫn chưa bị diệt hẳn, vào những ngày nghỉ tôi vẫn phải đem ván gỗ ra dộng tiếp. Có điều kẹt là nếu chỉ một vài người làm th́ rệp ở những sạp bên cạnh vẫn ḅ qua tấn công như thường.

    (Xem tiếp bản đồ trang sau)

    (c̣n tiếp)

  2. #22
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    Bản đồ vị trí Trại Vĩnh Quang A và B

    Nguồn: Google Maps/Satellites, được ghi chú thêm bởi tác giả.
    Tháng 11/2009

    5.2. Chuyện người Sĩ Quan chào tay

    Khoảng năm 1980, có một người được tha về. Người đó là anh Hà Vĩnh Cường, khóa 17 Thủ Đức, binh chủng Pháo Binh. Anh là dân Bắc Kỳ di cư năm1954. Tôi không hiểu sao anh lại được về sớm như thế trong khi anh là Bắc Kỳ di cư, và là đại úy pháo binh. Khi tôi học khóa Pháo Binh Cao Cấp tại Trường Pháo Binh (1974), th́ anh đang là Sĩ Quan Huấn Luyện Viên về môn Chiến Thuật của các khóa cấp thấp hơn. Mà, Việt Cộng coi dân pháo binh tụi tôi là thành phần đáng ghét, có nhiều “nợ máu với nhân dân”. Anh cũng không phải là loại người bán đứng anh em trong trại tù. Chỉ có một sự giải thích hợp lư nhất là anh đă khéo léo khai báo công việc làm (Việt Cộng gọi là tội ác) trước đây của anh thôi.

    Bạn bè tôi kể rằng, khi anh mang hành trang ra tới cổng trại, anh đă quay lại, đứng theo thế nghiêm và giơ tay chào tất cả những người c̣n lại, theo kiểu nhà binh, mặc dù lúc đó hầu hết mọi người đă xuất trại đi làm.

    Ngày tôi được về, vợ tôi cho biết, trong xóm nhà bố vợ tôi “Có một anh Sĩ Quan Pháo Binh được về trước anh mấy năm; anh ấy nói rằng có biết anh Thái khi c̣n ở trại Vĩnh Quang B.” Tôi bóp trán suy nghĩ măi mà không biết anh ấy là ai. Tôi bảo vợ tôi rằng khi nào lên thăm bố th́ ghé thăm anh ấy luôn thể.

    Khi vợ tôi dẫn tôi tới nhà th́ mới biết anh là Hà Vĩnh Cường. Chúng tôi chỉ gặp nhau một lần duy nhất đó. Sau đó mỗi người lo việc riêng của ḿnh. Và từ đó tôi không biết ǵ về anh Cường nữa. Sở dĩ có chuyện ít qua lại với nhau v́ chúng tôi chỉ biết nhau, chứ không chơi thân với nhau như những người khác.


    5.3. Đụng chạm với Đội Trưởng

    Anh Lương Văn Quang và tôi là cặp bài trùng từ tận Trại 5. Sang tới Vĩnh Quang B vẫn ở cùng một đội mà đội trưởng bây giờ là Trần Duy Phố. Mỗi buổi sáng, sau khi mở cửa buồng, chúng tôi phải tập họp trước buồng cho đội trưởng điểm đầu người và báo cáo cho tên công an trực trại; sau đó mới được tan hàng, đi làm vệ sinh cá nhân, chia và nhận phần ăn sáng rồi phải ra sân trại tập họp để đi làm. Thời gian từ lúc kẻng báo thức tới kẻng xuất trại là 1 giờ, v́ thế ai cũng phải vội vă cho kịp giờ giấc.

    Một buổi sáng, đội trưởng Trần Duy Phố đếm tới đếm lui mà vẫn chưa biết đủ hay thiếu. Tôi đứng trong hàng, v́ đă sẵn có ác cảm với Phố từ trước (sẽ nói đến sau) cho nên tôi bực tức nói lớn: “Đại Úy ǵ mà ngu hơn con ḅ, có 30 người mà đếm hoài không xong.” Tên công an trực trại nh́n tôi chằm chằm, c̣n Phố th́ líu ríu báo cáo cho xong. Thế rồi…

    Hai ngày sau, anh Quang và tôi bị đổi sang đội khác. Phố đề nghị đổi hai đứa tôi sang đội khác v́ nghĩ rằng nay mai đội của Phố sẽ phụ trách nhà bếp. Hai đứa tôi sẽ không được hưởng cái mà người ta thường nói là,“Giầu nhà kho, no nhà bếp.” Khi c̣n ở Trại 5, Phố đă làm đội trưởng đội nhà bếp rồi. Bây giờ sang đây, Phố được giới thiệu với trại để tiếp tục coi đội nhà bếp. Khi chưa được công khai tuyên bố mà Phố đă rỉ tai mấy đàn em trong hệ thống ăng ten là: “Đội ḿnh sẽ làm nhà bếp.” Điều này chứng tỏ rằng Phố đă biết trước.

    Vài nét về Trần Duy Phố
    Phố xuất thân khóa 14 Thủ Đức (Sĩ quan Bảo An, không phải Chủ Lực). Con đường tiến thân làm đội trưởng nhà bếp như sau: Khi mới đến hồ Thác Bà, trong lúc c̣n là một đội viên b́nh thường, có một ngày Phố và hai người nữa, một người là Vũ Cao Hiến (Khóa 24 Vơ Bị Đà Lạt, chết khi vượt biển), và một người nữa tôi không nhớ tên, được chỉ định vào một nhóm đi vớt củi trên mặt hồ. Trong lúc chèo bè, Vũ Cao Hiến hát bài “Sài-G̣n ơi, 30 năm mới có ngày nay…” với một giọng chua chát, ám chỉ ngày nay đại úy mới bị đầy ra Miền Bắc và đi vớt củi!

    Ít tháng sau, khi Trại 5 di chuyển sang bên kia bờ hồ th́ Phố được làm đội trưởng đội nhà bếp. Không ai biết lư do khiến cho Phố có được công việc này măi cho đến khi, chắc trời xui đất khiến, vài anh em tù được giao cho làm sạch sẽ chung quanh nhà cán bộ. Anh Nguyễn Phán (Khóa 24 Vơ Bị Đà Lạt, hiện ở Cali) thuộc nhóm nói trên, lượm được một tờ giấy, khi mở ra xem th́ đó là tờ báo cáo của Trần Duy Phố về ngày mà Phố và Hiến chèo bè đi lấy củi. Trong báo cáo, Phố diễn dịch cung cách hát bài “Sài-G̣n ơi” của anh Hiến là than thở về số phận hẩm hiu của người Sĩ Quan/Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, không tin tưởng vào “Cách Mạng,” v. v … Anh Phán đưa cho tôi xem tờ giấy báo cáo đó. Ở dưới tờ báo cáo ghi rơ tên người viết “Trần Duy Phố, một cải tạo viên tiến bộ.” Biết được như vậy, từ đó, tôi không thể ưa được cái anh chàng mang tên Phố này nữa.


    5.4. “Muối th́ lấy nhưng giết được th́ vẫn giết.”

    Từ ngày Phố đẩy anh Quang và tôi sang đội khác th́ Phố biết chắc là hai đứa tôi có ác cảm với hắn. T́nh trạng này dĩ nhiên là vẫn c̣n tiếp tục dài dài. Có một thời gian, trại bị khan hiếm muối ăn, những người có “gu” (khẩu vị) ăn mặn th́ hơi khổ v́ không đủ muối ăn. Thậm chí có người cần muối ăn thêm phải giả vờ khai đau nhức răng để được bệnh xá cấp cho ít muối để ngậm cho bớt “đau răng”. Sau ít ngày th́ ăng-ten ở bệnh xá biết rằng bọn này giả đau răng mà thôi. V́ thế bệnh xá pha sẵn một ít nước muối, mỗi khi ai khai đau nhức răng th́ họ cấp cho một ít nước muối đem về ngậm, chứ không phát muối hột như trước nữa.

    Trong lúc trại đang thiếu muối th́, một hôm (vào chiều Chủ Nhật), Phố đi ngang sân trại, thấy tôi đang ngồi nấu nướng linh tinh, Phố tới chỗ tôi và hỏi: “Anh có cần muối ăn không, mai tôi đưa cho anh một ít?” Tôi trả lời, “Lúc này ai mà chả cần muối ăn, tôi đang thiếu đây.” Nói xong Phố bỏ đi và tôi chắc là ngày hôm sau tôi sẽ có muối. Tôi học lại chuyện này với anh Quang v́ hai đứa vẫn ngồi ăn cơm chung và chia sẻ với nhau những ǵ ḿnh có. Anh Quang vừa cười vừa nói: “Đ.M. Nó cho muối th́ ḿnh cứ lấy nhưng lúc nào giết được nó th́ ḿnh vẫn giết.” Tôi vẫn không hiểu nguyên do nào mà Phố lại hối lộ muối cho tôi. Măi sau này, khi sang tới Mỹ và tṛ chuyện với anh Vơ Tấn Tài, tôi mới hiểu rơ nguyên do.

    Chả là, Phố thường thấy tôi thân mật với anh Vơ tấn Tài (TQLC) mà anh Tài thuộc đội nhà bếp. Anh Tài tuy nhỏ con (có nickname là Tài quắt) nhưng không bao giờ anh để cho ai ăn hiếp ḿnh. Có lần anh đă vác dao đuổi đánh một người mà Tài gọi là chó săn (tôi xin miễn nói rơ tên v́ đương sự đă chết rồi) ngay trước mặt quản giáo đội nhà bếp. Rốt cuộc rồi quản giáo cũng xử huề v́ y không muốn bị mất điểm với Ban Chỉ Huy trại, y sợ bị mất chức quản giáo đội nhà bếp th́ y hết c̣n được chấm mút ǵ nữa.

    Chưa hết đâu, anh Tài và anh Trần Hữu Thành (LLĐB) lại là cặp bài trùng trong đội nhà bếp. Ở buồng ngủ th́ Phố lại nằm giữa anh Tài và anh Thành. Hai anh này bàn tính với nhau sẽ phải dằn mặt thằng Phố cho nó bớt hại anh em tù. Vào một đêm đă định, Tài và Thành phải canh thức, chờ nửa đêm khi Phố vào nhà cầu đi tiểu th́ hai anh vào theo. Anh Thành (tướng rất to con) chịt cổ Phố và nói: “Đ.M. Tao cảnh cáo mày từ nay phải chấm dứt ngay cái tṛ bỉ ổi, hại đồng đội của mày. Mày mà c̣n tiếp tục th́ mày sẽ chết. Báo cho mày biết luôn rằng nếu mai mốt tao với thằng Tài phải vào nhà kỷ luật th́ chính mày là thủ phạm và những thằng bạn tao ở ngoài sẽ giết mày.” Phố líu ríu vâng dạ và sau đó không có chuyện ǵ xảy ra cho hai anh Tài và Thành. Đây chính là lư do đă thúc đẩy Phố hối lộ muối cho tôi.


    5.5. Không hẹn mà gặp

    Cuối năm 1984, tôi được phóng thích thẳng từ trại Nam Hà về nhà, mà không phải chuyển trại vào Miền Nam trước khi được phóng thích như bao người khác. Ở nhà được mấy ngày th́ một hôm vợ tôi nói: “Em có quen một chị ở ngoài chợ Thủ Đức, chị ấy có chồng cũng ở trại Vĩnh Quang B nhưng đă được về trước anh mấy năm, anh ấy nói là có biết anh nhưng em lại quên hỏi tên anh ấy, chỉ biết anh nói tiếng miền Trung, vậy anh có biết anh ấy là ai không?” Tôi suy nghĩ măi mà không biết là ai. Nếu là bạn bè thân t́nh th́ tôi biết ngay ai rồi. Trong thâm tâm tôi, không khi nào tôi nghĩ người đó lại là Trần Duy Phố bởi v́ tôi được biết Phố có vợ con ở vùng Đà Lạt hay Lâm Đồng ǵ đó.

    Một buổi chiều, tôi chở vợ tôi trên chiếc xe Honda Dame mà cậu em vợ cho tôi mượn xài ít ngày, chạy ra chợ Thủ Đức. Bất chợt vợ chồng tôi gặp chị bạn có chồng tù ở Vĩnh Quang. Sau màn giới thiệu, chị ấy mời vợ chồng tôi ghé quán thạch chè của em trai chị ở sát bên để ăn chè và tṛ chuyện thêm. Chị cho biết chồng chị là Trần Duy Phố. Tôi nói: “Phố th́ tôi biết quá đi chứ.” Chị ấy thực t́nh không biết ǵ về việc làm của Phố ở trong tù, và cũng không biết ǵ về mối quan hệ căng thẳng giữa tôi và Phố. V́ thế, chị một mực mời vợ chồng tôi ghé nhà chơi để “gặp anh Phố”. Tôi đành phải nhận lời mời. Chị sai em trai chị dùng xe Honda chạy trước, chúng tôi chạy sau, hướng dẫn vợ chồng tôi về nhà chị trong khi chị phải thay thế người em coi tiệm thạch chè.

    Chúng tôi leo hết dốc Quán Con Gà Quay, đi thêm một quăng nữa th́ tới nhà. Căn nhà nằm phía phải Quốc Lộ 1 nếu đi về hướng Biên Ḥa. Qua khỏi cổng, cậu em gọi lớn: “Anh Phố ơi, có bạn tù của anh tới thăm nè.” Tôi nghĩ thầm trong bụng, bạn cái con tiều, nhưng ngoài mặt vẫn không lộ vẻ ǵ khó chịu cả. Phố khi đó đang nằm ở dưới gầm cái xe đ̣ để sửa chữa ǵ đó. Vừa chui ra khỏi gầm xe, Phố thấy tôi th́ mặt tái đi và điệu bộ quưnh quáng trông thật buồn cười. Tôi tiến lại bắt tay và làm như hai người không có ân oán giang hồ ǵ với nhau để cho cậu em vợ của Phố không nghi ngờ ǵ cả. Đứng nói chuyện dăm ba phút rồi chúng tôi lấy lư do có hẹn phải đi gấp, để khi khác gặp lại. Khi về nhà, tôi mới kể cho vợ tôi nghe về việc làm của Phố khi c̣n ở trong tù. Nghe xong, vợ tôi phán, “Thế th́ hết ư!” Vợ của Phố và vợ tôi quen biết nhau trong trường hợp sau đây:

    Vợ của Phố (đúng ra là vợ kế) làm chủ một chiếc xe đ̣ chạy đường Sài-G̣n - Thủ Đức. C̣n vợ tôi th́ chạy hàng linh tinh và thường đi xe đ̣ mỗi ngày, riết rồi hai người quen nhau, nhất là lại cùng có chồng đi ở tù cho nên dễ thông cảm nhau hơn. Từ khi tôi cho vợ tôi biết về con người thật của Phố th́ vợ tôi cũng lảng tránh chị bạn dần dần.
    Phố ơi, từ sau khi ra khỏi tù th́ tôi đă bỏ hết những ân oán giang hồ ở trong tù rồi. Tôi viết sự việc này ra đây với mục đích là để cho bà con cô bác hiểu rơ được những ǵ đă xảy ra trong những năm tháng tù đầy mà thôi. Bằng chứng là những lần gặp nhau trên xe đ̣, anh là người bán vé, tôi là khách đi xe, tôi vẫn chào hỏi anh lịch sự, dĩ nhiên là không thể vồn vă kéo nhau đi nhậu lai rai như những người khác được. Tuyệt nhiên tôi không c̣n mang tâm trạng “giết được th́ vẫn giết” như xưa nữa. Nghe anh Tài nói hiện giờ anh và gia đ́nh đang ở Cali, mong rằng gia đ́nh anh có một cuộc sống b́nh an. Tuy nhiên tôi có một lời khuyên rằng nếu anh c̣n một chút liêm sỉ th́, hăy sống một cách ẩn dật, vui chơi với con cháu, mà đừng bao giờ đóng bộ đồ số 2 Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức (*) để góp mặt với người ta trong mọi dịp lễ lạc, biểu t́nh…, thối lắm đấy.

    Tôi đang cố gắng bắt chước Chúa Giêsu, khi gần chết c̣n kêu xin với Đức Chúa Cha tha tội cho những người đă giết ḿnh rằng : “Xin Cha tha cho chúng v́ chúng lầm, chẳng biết việc chúng làm.”

    (*) Ghi chú riêng cho những ai không phải là cựu quân nhân: Sinh viên Sĩ quan trường Bộ Binh Thủ Đức có mấy loại quân phục như sau:
    - Bộ đồ số 1(đồ đại lễ), dùng trong các dịp lễ lớn như ngày ra trường chẳng hạn, mầu trắng, áo bỏ ngoài quần v́ có hai túi áo phía dưới.
    - Bộ đồ số 2: Quần áo dài tay mầu vàng, kèm theo cà vạt đen; dùng để đi dạo phố hoặc trong các dịp lễ không quan trọng lắm.
    - Bộ đồ số 3: Quần áo ngắn tay, mầu vàng, dùng trong các buổi học trong lớp.
    - Đồ trận (Tác chiến): Quần áo dài tay, mầu ô-liu, dùng trong các buổi học chiến thuật (đi băi), và cuối cùng là
    - Đồ thể dục, dùng để tập thể dục.

    (c̣n tiếp)

  3. #23
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.6. Học “Tiếng nước ngoài”

    Mấy ngày sau khi tới trại Vĩnh Quang B, có một buổi cả trại tập họp ở ngoài sân để nghe trại trưởng nói chuyện. Trại trưởng là một thượng úy công an, cỡ tuối trên/dưới bốn mươi. Tên này có vẻ nặng về phần tŕnh diễn: Khi hắn xuống gần tới cổng trại th́ lập tức ban văn nghệ (của tù h́nh sự) nổi phèng la trống phách ́ xèo để đón chào hắn.
    Tên trại trưởng thuộc loại nói dài, nói dai, nói dở nhưng bọn tôi phải nghe. Ḿnh nghe tai này th́ cho nó chạy qua tai kia là xong. Hắn nói vung vít, rồi nổi hứng hắn nói về việc học: “Các anh phải, không những học tập lao động mà c̣n phải học để nâng cao tŕnh độ văn hóa nữa. Trại sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các anh mở mang trí tuệ hơn lên.” Nghe hắn nói, tôi như mở cờ trong bụng v́ đă hơn ba năm rồi, những trại tôi đi qua đều cấm học/đọc/nói tiếng nước ngoài. “Tiếng nước ngoài” ở đây phải hiểu là tiếng Anh, tiếng Pháp, Tây Ban Nha… mà không phải tiếng Nga, tiếng Tầu, Ba lan…Hắn đă nói vậy th́ ḿnh cứ tỉnh bơ mà học thôi. Đa số anh em tù cùng có ư nghĩ như tôi. V́ vậy chỉ vài ba ngày sau, phong trào học chữ nổi lên rầm rộ. Chúng tôi dạy lẫn nhau; người nào biết cái ǵ th́ dạy bạn bè cái ấy.

    Anh Lương Văn Quang hồi nhỏ sống và học ở bên Thái Lan cho đến năm anh 14 tuổi mới trở về Việt Nam. V́ thế anh nói và viết được tiếng Thái, anh là thày dạy tôi tiếng Thái. Tiếng Thái Lan cũng là loại đơn âm như tiếng Việt nên dễ nói nhưng chữ viết th́ như con giun khó nhớ lắm. Bây giờ th́ chữ thày trả thày, tôi chẳng thể viết được một chữ Thái nào cả. Tuy nhiên, nói th́ c̣n nhớ lơm bơm, chẳng hạn như: nan léo mây ḿ khà nủm păng = lâu lắm không có bánh ḿ; hoặc như cun cợt pi ko sỏ tháo rầy = anh năm nay bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ là vậy, không biết chắc có đúng hay không, nhờ anh Quang sửa dùm. Ngược lại, tôi dạy anh Quang học tiếng Anh, nhớ ǵ th́ dạy cái đó thôi, chứ đừng có cắc cớ hỏi “đểu” là không được đâu nhé.

    Những người khác có máu ham học th́ đều lo đi “tầm sư học đạo”, người th́ tiếng Pháp, người th́ tiếng Tây ban nha, kẻ th́ tiếng Tầu/chữ nho, cứ loạn cả lên. Lúc đó tôi sực nhớ tới một câu nói diễu trước đây của một ông xếp cũ của tôi, đó là “…không bổ bề ngang th́ cũng bổ bề dọc, lo ǵ.” Câu này bây giờ đem áp dụng vào thời điểm này cũng không sai. Dù ḿnh có dở, học không vô, nhưng ít ra nó cũng giúp ḿnh quên được cái đói trong chốc lát. Đă đói mà nghĩ tới ăn uống món này món kia th́ càng đói thêm, chứ có giúp ǵ ḿnh được đâu. Vậy mục đích chính của tôi là học để chống đói, c̣n kết quả ra sao, hạ hồi phân giải.

    Phong trào học đang lên th́ có lệnh cấm v́ “Các anh học tiếng nước ngoài là có ư đồ làm tay sai cho ngoại bang.” Trại ra lệnh cấm v́ có ăng ten báo cáo, dĩ nhiên mấy tên ăng ten này là những đứa không muốn học, chúng thuộc loại “Nhân bất học bất tri lư, nhỏ biếng học lớn làm đại úy.” Thế là việc học lại xẹp xuống, ai muốn tiếp tục học th́ phải lén lút, nếu không may bị phát hiện sẽ dễ dàng đi vào nhà đá (trại có một nhà kỷ luật xây bằng đá rất kiên cố), hoặc ít ra cũng phải viết kiểm điểm.

    Ở Vĩnh Quang B, tôi có khá nhiều thày, người nào cũng tận t́nh chỉ dẫn tùy theo khả năng và t́nh h́nh cho phép. Học bị cấm th́ dĩ nhiên dạy học cũng bị cấm. Bị cấm mà các anh vẫn không ngần ngại giúp tôi. V́ thế tôi rất biết ơn những vị “thày” này, gồm có các anh như Phạm Tất Hanh (GS trường Sinh Ngữ Quân Đội), anh Vũ Đức Giang (Pḥng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, cựu GS trường Sinh Ngữ Quân Đội), anh Đàm Quang Thuận (GS Anh văn London School, Sài-G̣n). Hiện nay tôi vẫn thường liên lạc với anh Hanh và anh Giang, cả hai người cùng ở Santa Ana, Cali. Anh Giang nay đă gần 80 rồi, c̣n anh Hanh đang là Tổng Thư Kư nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân. Riêng có anh Thuận th́ tôi chỉ gặp anh một lần sau khi ra khỏi tù (cuối năm 1984), bây giờ không biết anh ở đâu.

    Tôi được anh Bùi Quyền (Trung tá Dù) cung cấp giấy bao xi măng dùng làm giấy viết. Anh Bùi Quyền làm ở đội xây dựng cho nên có thể lấy được bao xi măng cho tôi. Tôi cắt giấy ra từng mảnh bằng bàn tay, ghi những chữ ǵ ḿnh không hiểu, rồi khi nào thuận tiện th́ hỏi các “thày”, học hết tờ nào th́ xé bỏ tờ đó để phi tang. Sau này, trại cho tù nhận sách báo của Liên Xô (ấn bản tiếng Anh), thỉnh thoảng tôi mượn được một quyển đọc (học th́ đúng hơn) cho đỡ ghiền. Có điều lạ là gia đ́nh tù ra thăm nuôi, mang sách báo ra th́ tù được phép nhận, nhưng sách báo gửi theo đường bưu điện th́ không được.

    Bị ăng ten báo cáo.
    Một buổi chiều Thứ Bảy, tôi đang ngồi đọc cuốn Soviet Women mà tôi mới mượn được của anh Chu Mạnh Bích v́ gia đ́nh anh mới thăm nuôi, đem cho anh mấy cuốn báo của Liên Xô. Vừa đọc vừa ghi chép những chữ nào ḿnh không hiểu vào tờ giấy xi măng. Bỗng đâu Lê Văn San đi ngang nh́n thấy, nh́n cặp mắt của San, tôi đoán được tư tưởng của nó, “Mày sẽ biết tay ông.”

    Đợi San đi khuất, tôi vội vào trong pḥng lục lọi tất cả mọi “tang vật” đem bỏ ra đống rác, chỉ chừa lại cuốn báo Soviet Women mà tôi mượn của anh Bích thôi. Buổi tối Thứ Bẩy qua đi êm đềm.

    Sáng hôm sau, Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tôi đang nấu nướng linh tinh ở ngoài sân th́ cán bộ quản giáo (Lưu) và hai tên công an mang AK 47 xuống t́m tôi, yêu cầu tôi vào buồng khám đồ. V́ đă chuẩn bị mọi thứ cho nên tôi tỉnh bơ, tụi nó thấy cuốn Soviet Women th́ tịch thu đem về Ban Chỉ Huy trại. Báo hại tôi phải chạy sang gặp anh Bích, cho anh biết sự thể và xin lỗi anh v́ biết chắc là nó sẽ không trả lại cuốn báo đó nữa.

    Sáng Thứ Hai, tập họp chờ đi lao động, tôi được gọi tên ở nhà “làm việc”. Tôi chờ ở trong buồng khoảng một tiếng đồng hồ th́, Thiếu Úy Thịnh (An Ninh Trại), tay cầm cuốn báo đă tịch thu sáng hôm qua, vào buồng và kêu tôi đi theo hắn. Hắn dẫn tôi tới trước cửa căn nhà đá, ở đó đă kê sẵn hai cái ghế đẩu. Hắn bảo tôi ngồi xuống một ghế, và hắn ngồi trên cái c̣n lại. Tôi nghĩ bụng, hắn muốn hù ḿnh cho nên mới dẫn ḿnh tới trước cửa buồng giam cho ḿnh mất tinh thần đây. Hắn mở đầu:

    - Trại đă cấm học tiếng nước ngoài mà anh vẫn học, như vậy là anh đă vi phạm nội qui trại, tội này nặng lắm đấy, anh có công nhận không ?

    Tôi trả lời:
    - Thưa cán bộ, tôi đọc sách báo nước ngoài, chứ tôi không học tiếng nước ngoài. Cuốn báo mà cán bộ đang cầm trên tay là do gia đ́nh anh Chu Mạnh Bích mới thăm nuôi, trại cho mang vào đọc có nghĩa là sách này hợp pháp. C̣n nói tôi học là hoàn toàn sai bởi v́ cán bộ thử đọc lại các bản khai lư lịch của tôi từ trước đến nay mà xem, tôi vẫn luôn luôn khai là thời gian tôi giải ngũ, tôi đă làm thông dịch viên hạng A cho một hăng Mỹ tên là Rờ-Em-Ca (RMK-BRJ) gần hai năm, khả năng tôi có thể dạy Anh Văn từ lớp 12 trở xuống, tôi cần ǵ phải học. Nếu không tin, cán bộ cứ mở bất cứ trang nào trong sách này, tôi sẽ dịch ngay sang tiếng Việt cho cán bộ coi.

    Tôi nghĩ trong bụng rằng, “Mày biết chó ǵ mà biết tao dịch đúng hay sai, nếu gặp những chữ không hiểu, tao cứ phăng đại ra th́ đến ông nội mày có sống lại cũng chẳng biết nữa là mày.”

    Hắn thấy tôi nói cứng, hắn chuyển đề tài:

    - Tôi nghe người ta báo cáo là anh thường tụm năm tụm ba để kê kích và âm mưu phản cách mạng.

    Tôi trả lời hắn:
    - Thưa cán bộ, ngày xưa quân đội Miền Nam có hơn một triệu quân, lại có đủ cả xe tăng, đại bác, máy bay cánh cụp cánh xoè, thế mà cũng c̣n bị thảm bại trước “Cách Mạng”. Bây giờ chúng tôi ở đây tay không với dăm mười người th́ làm được cái ǵ. Chỉ có kẻ nào điên mới có ư nghĩ như vậy nhưng mà tôi đâu có điên, tôi vẫn tỉnh táo mà.

    Hắn thấy tôi nói vậy, hắn làm thinh một chút rồi nói:

    - Thôi được, lần này tôi cảnh cáo anh, nếu lần sau có người báo cáo nữa là anh sẽ vào nằm trong cái nhà này đấy, vừa nói hắn vừa chỉ vào cửa nhà đá.

    Tôi trả lời, “Thưa cán bộ tôi biết.”
    Thế là xong một buổi “làm việc”.


    5.7. Người hùng bắn rớt máy bay “Mỹ-Ngụy”

    Tôi và anh Quang bị đưa qua đội khác sau vụ tôi chửi Trần Duy Phố. Đội trưởng đội này là Phấn (Đ/U Quân Cảnh, tôi không nhớ tên họ của Phấn). Phấn thuộc loại sĩ quan già, nếu giờ này c̣n sống, chắc cũng không dưới 75 tuổi. Nếu Trần Duy Phố kín đáo che đậy hành vi hại người bao nhiêu, th́ ngược lại, Phấn lộ liễu bấy nhiêu. Ngay cả diện mạo hai người cũng khác hẳn nhau. Phố th́ luôn luôn tươi cười, bên ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao. C̣n Phấn th́ trông có vẻ bậm trợn, mặt đen đúa, cặp lông mày xếch lên; nếu không mang lon đại úy th́ không ai nghĩ hắn là sĩ quan đâu; hắn ra mặt nịnh bợ “Cách Mạng” mà chẳng cần che dấu ǵ cả.

    Trong những buổi họp tổ để khai công báo tội, Phấn kể rằng chính hắn đă dùng đại liên gắn trên xe Jeep bắn rớt một máy bay “Mỹ-Ngụy” ngay đầu phi đạo ở phi trường Tân Sơn Nhất, ngăn chặn không cho phi cơ chở người di tản cất cánh. Số người ngồi trong phi cơ này chắc hẳn phải đông lắm, không biết số phận họ ra sao! Tôi nghĩ bụng, chắc ǵ hắn bắn phi cơ để mong lập công với “Cách Mạng”, mà rất có thể (nếu bắn phi cơ là có thực) hắn bắn v́ hắn không leo kịp lên phi cơ để di tản, bắn cho bơ ghét, không được ăn th́ đạp đổ mà. Bây giờ th́ hắn nói là hắn bắn để tiếp tay với “Cách Mạng” diệt “Mỹ-Ngụy” cho oai, chứng tỏ ḿnh là con người thức thời. Chỉ có trời biết!


    5.8. Bụng làm dạ chịu

    Đội tôi có hai người tên Thái, một người là Hồ Đắc Thái (*), người kia là tôi (Nguyễn Văn Thái). Để phân biệt, anh em thường gọi chúng tôi là Thái Hồ và Thái Nguyễn. Một ngày đội tôi đi đào sắn (khoai ḿ) cho trại, Thái Hồ và tôi đứng đào sắn sát nhau. Tôi vừa đào sắn vừa lấy trộm sắn bằng cách chọn ra củ sắn nào ngon lành, chặt ra từng khúc như khúc mía, lột vỏ rồi bỏ vào lon gô ( hộp đựng sữa bột Guizgo) chứa nước uống, chờ dịp thuận tiện th́ cho lon vào bếp lửa một chút xíu là có sắn chín ăn rồi. Không may cho tôi, trong lúc tôi đang hành sự th́ đội trưởng Phấn nh́n thấy. Mà, Phấn th́ chẳng ưa ǵ tôi, vậy là có chuyện rồi. Tôi liếc lại phía sau, thấy Phấn nh́n ḿnh rồi bỏ đi, tôi vội vàng quẳng hết mấy khúc sắn trong lon gô đi thật xa và thu dọn “chiến trường” cho mất dấu vết lột vỏ sắn. Sau đó tôi xách cuốc ra xa Thái Hồ chừng bốn năm mét (15 ft). Tôi vừa hành động xong th́ tên quản giáo đội tới đứng sau Thái Hồ (cũng là chỗ tôi đứng mấy phút trước đây, có lẽ Phấn đă báo cáo với quản giáo không rơ ràng là Thái nào, Hồ hay Nguyễn) mà Thái Hồ vẫn không biết. Đội trưởng Phấn dĩ nhiên là tránh mặt để khỏi mang tiếng là đă đi báo cáo. Thái Hồ vừa mới bắt đầu lột vỏ một củ sắn th́ quản giáo tới bắt tại trận. Hắn xỉ vả Thái Hồ một chặp và bắt anh viết bản kiểm điểm. Thật đúng là “bụng làm dạ chịu,” nếu tôi không nhanh chân th́ tôi bị dính chấu rồi v́ mục tiêu là tôi chứ không phải Thái Hồ. Phấn thấy vậy, tỏ ra rất hậm hực v́ đă bị sảy mất một con mồi.

    (*) Hồ Đắc Thái ra tù, vượt biển và mất tích (chết ?).


    Không biết giờ này cụ Phấn ở đâu nhỉ? Chắc 90% là cụ và gia đ́nh cũng đi theo “Diện phi nhân” (mượn chữ của Chu Tất Tiến để chỉ những người sang Mỹ bằng máy bay, tức là đi theo danh sách “H.O”). Cụ có cảm thấy mắc cở không đấy? Thôi ráng mà ăn năn thống hối th́ Trời/Phật sẽ tha thứ cho nhé.

    (c̣n tiếp)

  4. #24
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.9. Diện “đầu bạc”

    Diện “đầu bạc” là Nguyễn Văn Diện, người mà ở trên tôi đă kể rằng anh chưa tới số chết khi anh mắc bệnh kiết lỵ ở Trại 5, hồ Thác Bà.

    Gọi anh ta là Diện đầu bạc v́ mặc dù c̣n ít tuổi (sinh năm 1946/1947, nếu tính đến năm 1980 th́ Diện mới có 34 tuổi thôi) mà tóc đă nửa muối nửa tiêu rồi. Tôi và Diện đă có một thời gian ở cùng đội, cùng ngồi ăn cơm chung với nhau hàng ngày ở Vĩnh Quang B, thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Hai chúng tôi chỉ tách ra khi có chuyển trại, một số di chuyển trước hai ngày (đi đâu không biết), số c̣n lại th́ ra Vĩnh Quang A, trong đó có tôi và Diện. Hai chúng tôi lại được ở chung một đội, do đó vẫn c̣n có dịp ngồi ăn cơm chung với nhau như khi c̣n ở trại Vĩnh Quang B. Tới khi chuyển về Trại Nam Hà th́ hai chúng tôi ở khác đội cho nên phải ăn riêng.

    Thời gian ở Vĩnh Quang B, có một ngày Chủ Nhật nằm chờ cơm, Diện đă kể về một mối t́nh mà lẽ ra Diện đă lập gia đ́nh với cô gái đó. Khi ấy, Diện đang làm trung đội trưởng Pháo Binh trú đóng tại một Căn Cứ Hỏa Lực vùng B́nh Long (hay Lai Khê, tôi không nhớ rơ), vị hôn thê của Diện lên thăm Diện, khi trở về nhà th́ cô nàng phải đi một quăng đường bằng xe ôm. Xui xẻo cho nàng là gặp thằng xe ôm “phải gió nó đè em ra…” và cô bị nó hiếp. Sau đó ít lâu, gặp lại Diện, cô đă kể rơ sự t́nh. Thế là Diện bỏ cô nàng luôn v́ không muốn xài hàng xế-cần-hen (second hand). Bọn tôi nghe xong, đều kết án Diện là hẹp ḥi và quá cố chấp, không thông cảm cho hoàn cảnh đáng thương của cô nàng nhưng Diện vẫn cố bảo thủ ư kiến của ḿnh, cho rằng ḿnh đă hành xử đúng.
    Diện cưới vợ (một cô giáo tiểu học) được ít tháng th́ Quân đội Miền Nam tan hàng, chưa có con khi Diện đi ở tù. Khi về ở Vĩnh Quang B, trại cho gia đ́nh được thăm nuôi tù. Ai “cải tạo tốt” th́ vợ được ở qua đêm với ḿnh, ai “chưa tiến bộ” th́ chỉ được gặp vợ con từ 30 phút tới 1 tiếng thôi. Diện là người hiền lành, ít nói, chủ trương sống dĩ hoà vi quí cho nên chẳng mích ḷng ai. Quản giáo (tên là Lưu) cũng không có ác cảm ǵ với Diện cho nên hắn đă cho vợ của Diện ở lại qua đêm. Mặc dù ở tù đă năm năm rồi nhưng nghề bắn pháo binh của chàng vẫn c̣n xuất sắc, vẫn duy tŕ được phương châm “Pháo Binh nhanh chóng và chính xác.” Phát đạn đầu tiên là đă “bắn hiệu quả” ngay mà không cần phải điều chỉnh trái-phải-xa hơn-gần lại ǵ cả. Kết quả là bà xă của Diện phải mang ba lô trước bụng mất chín tháng mười ngày… Vợ Diện viết thư kể cho chồng nỗi khổ tâm khi bị gia đ́nh chồng nghi ngờ ḷng chung thủy của ḿnh khiến cho Diện phải viết thư về xác nhận đó là “tác phẩm của ḿnh”. Khi đứa bé sinh ra, Diện cho tôi biết sẽ đặt tên là Nguyễn Trọng Diên.

    Vào một buổi chiều, cũng ngày Chủ Nhật, tôi và một người bạn (không c̣n nhớ là ai) đi tản bộ trong khi chờ giờ “vào chuồng”, khi đi ngang qua băi rác tôi thấy có h́nh một đứa bé trai cỡ 4-5 tháng tuổi nằm lẫn với rác. Tôi cầm lên coi th́ mặt sau tấm h́nh có ghi tên đứa bé là Nguyễn Trọng Diên. Tôi mang h́nh về cho Diện xem có phải là nét chữ viết của bà xă Diện không. Diện xác nhận đúng là nét chữ của vợ và h́nh con trai của ḿnh. Th́ ra trong thư của bà xă Diện đă viết điều ǵ đó “vi phạm nội qui trại” cho nên quản giáo đă xé bỏ lá thư và quẳng nó vào sọt rác!

    Năm 1992, Diện và gia đ́nh sang Mỹ theo “Diện phi nhân” (mượn chữ của Chu Tất Tiến, đi tị nạn bằng phi cơ). Diện về ở Virginia (?) và hai chúng tôi vẫn thường liên lạc với nhau. Diện làm nhân viên phân phát cơm cho một viện dưỡng lăo, được một thời gian th́ bị bệnh ở xoang mũi (có thể là một dạng ung thư), các bệnh viện đều bó tay. Thế là Diện chỉ nằm nhà, uống thuốc cầm chừng và chờ chết. Tôi vẫn hàng tuần gọi điện thoại thăm Diện, anh cho biết cứ vài ngày anh lại bị nghẹt thở v́ cục thịt ở mũi sùi ra, che lấp lỗ mũi, anh phải dùng mũi kéo cắt bớt cục thịt để cho không khí vào được mũi. Hỏi có đau không th́ anh trả lời “Không đau, mất hết cảm giác rồi.” Năm 2000, tôi nhận được cú điện thoại của bà xă Diện, báo cho tôi biết, “Anh Diện đang hấp hối, không c̣n nói được nữa, anh ấy chỉ vào điện thoại ra dấu cho em gọi báo tin cho anh biết.” Nói vậy rồi chị cúp máy v́ đang bận lo cho Diện lúc lâm chung. Nghe tin này, tôi rất xúc động mặc dù ḿnh đă biết chắc rằng Diện sẽ ra đi nay mai. Nếu bỏ ra ngoài cái t́nh cảm tự nhiên của con người, th́ Diện ra đi sớm là một điều tốt cho anh và vợ con anh. Anh thoát được sự đau đớn; c̣n gia đ́nh anh th́ tránh được sự đau ḷng mỗi khi nh́n anh nằm trên giường, và bớt đi sự vất vả phải chăm sóc anh.

    Đứng trên cương vị một tín hữu Công Giáo th́ anh Diện đă không phải “chết tươi ăn năn tội chẳng kịp.” Trái lại, anh có thừa thời giờ để lo cho phần tâm linh của ḿnh. Anh đă nói với tôi rằng “Bây giờ tôi đă chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ rồi, Chúa bảo ḿnh ra đi lúc nào cũng chẳng c̣n sợ hăi ǵ nữa.” Diện ơi, chắc chắn giờ này bạn đang được hưởng phúc thiên đàng, và chắc chắn rằng bạn cũng biết có những người bạn ở thế gian này đang nhắc đến bạn. Tôi rất tiếc là đă không thể tới dự đám tang của bạn được v́ lúc đó hoàn cảnh không cho phép, chắc bạn cũng xí xoá rồi.
    Cháu Nguyễn Trọng Diên, năm nay (2008) cháu đă được 27 tuổi, chắc cháu đă trở thành người hữu ích cho gia đ́nh và xă hội. Mẹ cháu bây giờ đă bớt được gánh nặng gia đ́nh rồi nhỉ. Bác hy vọng một ngày nào đó cháu sẽ đọc được những ḍng chữ này, cháu sẽ biết được thêm một ít điều về người bố thân yêu của cháu và cũng biết được trong hoàn cảnh nào cháu được sinh ra.


    5.10. Sắn công nghiệp (kỹ nghệ?)

    Ở miền Bắc có một loại sắn gọi là sắn công nghiệp. Loại này không phải là lương thực mà chỉ để dùng trong kỹ nghệ thôi. Cây sắn cao tối đa là 0.80 mét (32 inches), thân cây to cỡ ngón tay cái của người lớn. Củ sắn mọc thành chùm xoè ra giống nan quạt giấy. Chỉ cần lay lay gốc cây cho lỏng một tí là kéo lên cả chùm. Củ sắn thường to bằng cổ tay đứa trẻ b́nh thường (không mập quá) 9-10 tuổi.

    Loại sắn này ăn vào lạng quạng là đi về chầu tổ ngay. Kinh nghiệm của dân Miền Bắc cho biết, nếu muốn ăn được (miễn là đừng ăn nhiều quá) th́ phải luộc sắn lẫn với lá tre tươi. Lá tre tươi sẽ hoá giải bớt chất độc của sắn đi.

    Một buổi trưa, không hiểu v́ lư do ǵ, trại cho tù ăn sắn công nghiệp thay cơm. Nhóm của anh Bùi Quyền (Trung Tá Dù) có chừng bốn năm người ngồi ăn chung ở bên ngoài buồng ngủ. Bên cạnh nhóm anh Quyền, c̣n có mấy nhóm nữa. Thường thường bọn tôi hay ngồi ăn cơm ở cạnh tường phía bên ngoài buồng ngủ, trừ khi trời mưa. Thấy toàn là sắn công nghiệp, anh Bùi Quyền đề xướng, “Nó cho bọn ḿnh ăn sắn này để mà chết à, anh em đừng ăn.” Thế là cả nhóm hưởng ứng. Mấy nhóm bên cạnh cũng hưởng ứng theo. Chỉ chừng nửa tiếng sau, tên công an trực trại và hai thằng công an bảo vệ vác AK47 xuống buồng anh Quyền, chúng lùa hết mọi người vào buồng và khoá cửa lại. Sau đó chúng điều tra xem ai là người chủ xướng việc này. Đáng lẽ ra anh Quyền bị dính chấu, nhưng có lẽ tên ăng-ten không ưa ǵ anh Vũ Cao Hiến (khóa 24 Vơ Bị Đà Lạt, ăn cùng nhóm Bùi Quyền) cho nên nó đă chỉ điểm cho công an trực trại bắt anh Hiến và đem vào cùm chân ở trong nhà đá.

    Anh Quyền và những người khác tạm thời được bỏ qua, chờ để điều tra anh Hiến xem kết quả ra sao đă. Hiến bị cùm trong nhà đá 30 ngày. Ở bên ngoài, Bùi Quyền nói với bạn bè rằng, “Không biết thằng Hiến có chịu nổi đ̣n để không khai ra thêm ai nữa không? Nếu nó phải khai ra th́ thế nào cũng có vài thằng bị dính.” Mọi người thắc thỏm đợi chờ. Đồng thời, v́ biết chắc là nó sẽ bỏ đói Hiến cho bơ ghét, anh Quyền bàn với vài người rằng, bằng mọi giá, phải t́m cách móc nối với người tù h́nh sự (trong trại có mấy người tù h́nh sự được Ban Chỉ Huy trại tin tưởng, giao cho công việc lặt vặt xung quanh nhà đá), để tiếp tế cho Hiến mấy viên kẹo và mấy cục đường táng (có h́nh vuông hoặc h́nh bầu dục, màu vàng khè v́ chưa được tinh lọc).

    Người tù h́nh sự kể rằng hắn phải dùng một cái “cần câu”, cột kẹo hoặc đường vào đầu dây rồi đưa đầu cần câu vào qua một lỗ cửa sổ thông hơi ở trên cao (cao hơn đầu người). V́ trong nhà đá rất thiếu ánh sáng, không nh́n rơ, cho nên Hiến phải dùng tay quờ quạng cho đến khi bắt được “mồi” th́ gỡ ra. Cứ thế tiếp tục, nhờ vậy mà Hiến qua khỏi được 30 ngày trong địa ngục. Phải công nhận rằng Hiến rất kiên cường, dù thế nào đi nữa, Hiến vẫn không hề khai thêm người nào khác. Cho nên những người kia đều thoát nạn.

    Sau 30 ngày, Hiến được tha, không đi nổi, phải hai người d́u hai bên. Xin nói thêm là Hiến không ở cùng buồng với Bùi Quyền mà chỉ nhập nhóm ngồi ăn cơm chung với nhau thôi. Hiến ở cùng buồng với tôi. Khi vào tới trong buồng, chúng tôi đặt Hiến lên chỗ nằm của anh, người th́ lo kiếm tí nước nóng thấm vào khăn, lau chùi cho bớt mùi tanh tưởi; người th́ nấu cháo lỏng đổ vào miệng Hiến để cho bao tử quen dần với đồ ăn, chứ không dám cho Hiến ăn đồ cứng ngay, có thể gây chết người như chơi.

    Bây giờ Hiến đă ra người thiên cổ trong một chuyến vượt biển chỉ ít lâu sau ngày Hiến cưới vợ. Hiến ơi, viết tới đây, ḷng anh bồi hồi xúc động, nhớ lại ngày ăn cưới, em đă vui bạn bè mà uống quá nhiều. Chính anh là người d́u em vào pḥng, dùng dầu nóng thoa bóp cho em, pha nước chanh cho em uống giải rượu. Anh c̣n nhớ như in lời nói nhừa nhựa của em lúc c̣n đang say, rằng: “Anh Thái ơi, anh em ḿnh phải làm một cái ǵ, chứ để tụi nó tự tung tự tác như thế này th́ làm sao chịu được!” Lúc đó để cho em yên ḷng, anh cũng hứa với em rằng “Ừ ḿnh sẽ làm.” Thế mà đến bây giờ đă 24 năm trôi qua (1984 – 2008), anh chưa làm được “cái ǵ” như em mong ước mà tuổi đời th́ càng ngày càng cao, lực bất ṭng tâm, tài hèn sức mọn! Chắc anh phải thất hứa với em quá, mong em thông cảm mà tha thứ cho anh nhé. Anh luôn luôn tưởng nhớ đến em. Vong linh em có thiêng th́ hăy phù trợ cho anh và các bạn bè của chúng ḿnh nhé.

    Tôi viết bài này từ trí nhớ của tôi và cũng do lời kể bổ xung của anh Vơ Tấn Tài v́ anh Tài là người có mặt trong lúc nhóm của Bùi Quyền chê không ăn sắn công nghiệp.

    (c̣n tiếp)

  5. #25
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.11. Trồng lạc (đậu phọng)

    Trại Vĩnh Quang B có nhiều khu (lô) đất để canh tác, chủ yếu là trồng hoa mầu, không trồng lúa (cả lúa nương lẫn lúa nước). Tùy theo thế đất mà chia lô, v́ thế có khu rộng, khu hẹp nhưng không khác nhau quá nhiều. Mỗi lô đất có một căn nhà tranh/lá, vách đất, kích thước vào khoảng 6m x 4m (20ft x 14ft), dùng cho cán bộ quản giáo ở để trông coi hoa mầu trong khu trách nhiệm, căn nhà này gọi là nhà lô (*). Mỗi buổi sáng, quản giáo từ nhà lô vào trại, lănh tù ra khu của ḿnh để lao động.

    Tới mùa trồng lạc, sau khi đă chuẩn bị đất xong th́ bắt đầu trồng. Đậu phọng được lănh từ kho của trại nhưng không đem ngay ra lô đâu. Mấy thúng đậu phọng phải để ở sân trại, chờ người đem thuốc trừ sâu tới, sau đó phải đổ thuốc trừ sâu vào mấy thúng đậu phọng trộn cho thật đều và để một lúc lâu cho hạt đậu phọng thật thấm thuốc. Khi quản giáo biết chắc là thuốc đă ngấm đủ th́ mới cho tù khiêng đi trồng.

    Tôi nghĩ, mục đích trừ sâu th́ ít, mà mục đích chính là để tù khỏi ăn sống trong lúc trồng để bảo vệ “tài sản của Xă Hội Chủ Nghĩa”. B́nh thường, trong lúc cơ thể đầy đủ th́ tôi khó mà ăn đậu phọng sống được v́ nó có mùi tanh tanh. Nhưng khi cơ thể thiếu chất dinh dưỡng (đói triền miên) th́ ăn đậu phọng sống chẳng c̣n thấy ǵ là tanh nữa. Trái lại, ăn rất là ngon, ngon tuyệt cú mèo! Vài lần đầu, nhiều người không biết, sau khi ăn đậu phọng sống mà uống nước nóng vào là sẽ bị śnh bụng và đi tiêu chảy mệt nghỉ. Sau này nhờ kinh nghiệm của bọn tù h́nh sự th́, sau khi ăn đậu phọng sống không nên uống nước nóng, mà phải uống nước lă (nguội) th́ sẽ vô sự.

    “Những tư tưởng lớn thường gặp nhau,” chúng tôi không ai bảo ai nhưng khi băng qua một con suối nhỏ trước lúc vào khu đất trồng đậu th́ người nào cũng nhúng nước cho ướt khăn lau của ḿnh để sẵn sàng hành sự. Quản giáo chỉ dẫn công việc cho đội trưởng xong, sau đó cùng hai tên bảo vệ đi vào nhà lô ngồi hút thuốc lào và đấu láo với nhau, mà ít để mắt đến chúng tôi v́ chúng nghĩ rằng bọn tôi sẽ không dám ăn đậu đă tẩm thuốc trừ sâu. Chúng tôi lănh mỗi người mấy lon đậu rồi nhận mỗi người một luống để trồng. Thỉnh thoảng, tôi bốc một nắm nhỏ đậu, bỏ vào khăn ướt, ṿ qua ṿ lại một lúc để xả bớt chất thuốc trừ sâu, rồi bỏ vào miệng nhai. Trời! Đậu sống ngon cách chi! Tuy nhiên ngày đầu tôi không dám ăn nhiều v́ c̣n phải ḍ dẫm xem có ǵ trục trặc không. Ngày đầu, thấy vô sự, sang ngày thứ hai tôi ăn bạo hơn, gấp đôi, nhưng vẫn không thấy ǵ trở ngại. Tiếc rằng công việc trồng đậu phọng cũng chỉ diễn ra hai ba ngày là xong.

    Qua mùa trồng đậu phọng kế tiếp, khi mọi người đều có kinh nghiệm ăn đậu phọng sống rồi, tôi tưởng ḿnh sẽ được thoải mái mấy ngày nhưng mừng hụt. Quản giáo thấy mùa trồng đậu trước, dù đă tẩm thuốc trừ sâu mà sao “sâu” ăn nhiều quá, cây đậu mọc lưa thưa nên thu hoạch chẳng được bao nhiêu. Hắn sinh nghi cho nên mùa này hắn canh chừng kỹ hơn. Đội trưởng (Thiện, đại úy Không Quân) cũng không dám thả lỏng cho chúng tôi nữa. V́ thế mùa này tôi bị “thất thu” (ăn không được bao nhiêu). Các anh em khác cũng cùng cảnh ngộ.

    Nói thêm vài nét về anh Thiện (đội trưởng, không nhớ tên họ). Thiện là đại úy phi công trực thăng (?) phục vụ tại Biên Hoà, c̣n rất trẻ nhưng rất khéo léo xử thế, không mất ḷng đồng đội mà vẫn được sự tín nhiệm của quản giáo. Có những ngày anh em làm ít nhưng anh Thiện vẫn có cách báo cáo vượt chỉ tiêu, nhờ thế mà chúng tôi dễ thở. Anh Thiện đôi khi rất khổ tâm với tôi v́ cái tội kiếm chác đồ ăn trong lúc làm việc của tôi, nhưng chưa khi nào anh tỏ thái độ bất nhă với tôi cả. Có lần sau giờ lao động, tôi và một người nữa có nhiệm vụ thu cuốc xẻng, cột lại để vác về trại. Mặc dù tôi đă cột xong bó của tôi nhưng tôi thấy đáng lẽ ra chưa tới phiên của tôi, tôi khiếu nại với tổ trưởng (quên tên) th́ bị anh này nói xẵng chi đó. Tôi nổi nóng, quẳng bó cuốc xuống rănh rồi bỏ ra chỗ khác đứng. Anh Thiện thấy vậy, lẳng lặng tới nhặt bó cuốc của tôi và vác về trại, sau đó không thấy anh nhắc ǵ đến việc này trong giờ sinh hoạt đội và cũng không thấy anh tỏ thái độ ǵ khác đối với tôi. Bái phục anh Thiện đấy. Một lần, tôi nhận gói bưu phẩm 3 kg (chừng 7 pounds) trong đó có một cái phin cà phê (Việt Cộng gọi là cái nồi ngồi trên cái cốc). Tôi dùng được ít ngày th́ có “kiểm tra đồ đạc”, quản giáo Lưu thấy cái phin cà phê của tôi th́ mê lắm nhưng không có lư do để tịch thu. Lưu ngại không dám hỏi xin tôi v́ hắn hay bắt tôi làm kiểm điểm về tội “cải thiện linh tinh”, chắc ǵ tôi đă cho. Hắn phải nhờ đến Thiện, xin tôi để khi về nghỉ phép làm quà cho bố. Thiện hỏi tôi tới lần thứ ba th́ tôi đồng ư cho v́ nể t́nh Thiện đă đối xử tốt với tôi và nhân thể cũng là dịp đáp lễ cho ḷng tốt đó của Thiện. Bây giờ chắc Thiện cũng ở đâu đó trên đất Mỹ này, nếu Thiện đọc được bài viết này th́ nhận ở tôi lời chúc sức khỏe nhé. Kinh nghiệm về ăn đậu phọng sống không ngờ sau này lại hữu ích cho tôi:

    Chả là, năm 1999, tôi phải làm tiểu luận để tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân về Quản Trị Kinh Doanh (Bachelor of Business Administration). Tôi phải viết một bài tiểu luận chính (major) và hai bài tiểu luận phụ (minor). Một trong hai bài tiểu luận phụ có đề tài là “Đạo Đức Trong Kinh Doanh”. Trong cuốn sách về Đạo Đức Kinh Doanh, tác giả cuốn sách lên án chính phủ và các hăng xưởng của những nước kỹ nghệ phát triển là đă không có đạo đức khi họ bán/trợ cấp cho những nước nghèo các loại thuốc trừ sâu mà họ không được phép xài trong nước của họ. Tôi đă viết bài phản bác sự lên án của tác giả cuốn sách. Tóm lược đại khái như sau:

    Thứ nhất, lấy nước Tầu làm thí dụ, dân số quá đông, lương thực không đủ nhu cầu đến nỗi họ phải đưa ra chính sách hạn chế sinh đẻ, mỗi cặp vợ chồng chỉ được phép có 1 con. Nạn đói luôn luôn đe dọa. Mỗi khi có nạn đói th́ số người chết phải tính bằng triệu. Mặc dù chính phủ nước họ biết rằng một số thuốc trừ sâu đă bị cấm dùng ở những nước văn minh nhưng họ vẫn nhận (nếu là trợ cấp) hoặc vẫn cho phép nhập cảng nếu phải mua (với giá rẻ, dĩ nhiên). Người bán/trợ cấp sẽ được giảm trách nhiệm v́ có sự đồng thuận của đối tác.

    Thứ hai, thống kê số người chết đói th́ dễ dàng nhưng từ trước đến nay chưa có một thống kê nào về số người chết v́ tác hại của thuốc trừ sâu. Số người chết v́ tác hại của thuốc trừ sâu không có đủ tầm mức quan trọng khiến cho người ta phải chú ư và làm thống kê. Cái lợi trước mắt là nếu không có thuốc trừ sâu (loại bị cấm ở xứ văn minh) th́ sẽ mất mùa và nạn đói sẽ đến ngay, như vậy thuốc trừ sâu trong trường hợp này có ích hơn là có hại. Nước Tầu với dân số hơn một tỷ, nếu có chết đi một vài trăm ngàn v́ nhiễm độc thuốc trừ sâu cũng chẳng nhằm nḥ ǵ. Và, chưa chắc đó đă là điều xấu cho họ, mà biết đâu họ lại mừng là khác v́ thuốc trừ sâu đă giúp họ giải quyết được một số miệng ăn.

    Thứ ba, kinh nghiệm bản thân của tôi trong những năm tháng ở tù Cộng Sản, tôi đă từng ăn đậu phọng tẩm thuốc trừ sâu khá nhiều. Vậy mà đến nay sức khỏe tôi vẫn b́nh thường, tinh thần tôi vẫn sáng suốt, bằng chứng là tôi đă dư sức theo học chương tŕnh học này mà hôm nay là bài chót tôi phải làm để tốt nghiệp. Thêm nữa, đứa con gái tôi sinh năm 1986, đến nay đă 13 tuổi mà không thấy có một dấu hiệu ǵ là bị ảnh hưởng bởi thuốc trừ sâu do di truyền từ tôi cả. Nó xinh đẹp hơn cả mấy người chị của nó và học hành luôn luôn ở Top 5. Tôi kết luận:

    Đạo đức hay không đạo đức là tùy thuộc quan niệm của mỗi nước. Cái được coi là không đạo đức ở Hoa Kỳ chưa chắc đă được nh́n nhận như thế ở những nước khác. Tác giả cuốn sách viết về đạo đức kinh doanh trong vị thế người dân của một nước văn minh. Tôi trong tư thế người dân của một nước nghèo, tôi không hoàn toàn đồng ư với tác giả về sự lên án việc cung cấp thuốc trừ sâu đă bị cấm cho những nước nghèo.

    Kết quả là bài tiểu luận này tôi được điểm “Excellent”. Vậy th́ tôi phải hoan hô đậu phọng tẩm thuốc trừ sâu một phát!

    (*) Nói thêm về chữ “nhà lô”

    Chữ "Lô" là tiếng Pháp đă được Việt hoá từ lâu. Tiếng Pháp hay tiếng Anh đều viết là "lot", có nghĩa là một khu đất phân cách bởi một khu khác. Sau này "khu đất" trở thành "lô đất".

    Trong trại tù, họ chia đất ra từng khu riêng biệt cho từng đội phụ trách trồng trọt hoa mầu. Trên mỗi khu đất (lô đất) đều có cất một căn nhà nhỏ cho tên quản giáo ở để trông coi hoa mầu khỏi bị ăn cắp. Căn nhà nhỏ đó gọi là nhà lô. Ở Vĩnh Quang A & B đều có nhà lô. Mỗi sáng, quản giáo từ nhà lô vào trại dẫn tù đi ra canh tác trong khu vực trách nhiệm của hắn.


    Khi viết tới đây, tôi lại nhớ ra cái nhà lô của đội tôi khi c̣n ở trại Vĩnh Quang B. Trước khi chúng tôi chuyển ra Vĩnh Quang A chừng hai tháng, đội tôi có một quản giáo mới. Anh mới ở trong Nam chuyển ra đây và được chỉ định làm quản giáo. Anh quản giáo này cỡ tuổi của tôi. Từ ngày coi đội, tôi chưa thấy anh ta vào trại dẫn chúng tôi đi làm bao giờ. Chẳng biết anh có đi đâu không, nhưng tôi có ư nghĩ là anh chỉ quanh quẩn ở nhà lô. Anh mang cấp bậc thượng úy (ba ngôi sao) trong khi trưởng trại cũng là thượng úy. Tôi không nhớ tên v́ thời gian anh làm quản giáo đội tôi rất ngắn.

    Có nguồn tin cho rằng thời gian anh phục vụ ở trong Nam, anh đă làm ǵ đó để bị thất sủng và bị đổi về đây chờ ngày giải ngũ (Việt Cộng gọi là phục viên). Anh ta rất ít nói và tỏ ra thông cảm hoàn cảnh tù đày của chúng tôi.

    Mỗi buổi sáng, anh đội trưởng Thiện dẫn đội ra nhà lô gặp quản giáo và nhận công tác. Lần nào cũng vậy, anh quản giáo này bảo anh Thiện cử ra mấy người nhổ sắn và luộc cho chúng tôi ăn tại chỗ:
    - Anh cho anh em luộc sắn ăn cho no bụng đi, nhưng phải kín đáo đấy, đừng để cho trại biết.

    Tôi có bàn tay lẹ làng cho nên sáng nào tôi cũng được anh Thiện cử vào toán luộc sắn. Những người c̣n lại th́ được giao công tác quanh nhà lô, hôm th́ làm cỏ sắn, hôm th́ đào sắn cho trại. Trong lúc chúng tôi lo công việc luộc sắn th́ anh quản giáo này đi ṿng ṿng trong khu làm việc, canh chừng cho chúng tôi kẻo bị ai đó bắt gặp. Nhờ vậy chúng tôi có được cảm giác no nê trong những ngày này.

    Khi sắn đă luộc xong là anh Thiện cho đội nghỉ giải lao ngay để thanh toán cho lẹ số sắn luộc này, không cần biết là đă tới giờ nghỉ giải lao qui định hay chưa. Công việc th́ chẳng khi nào thấy quản giáo ngó ngàng tới, anh Thiện muốn làm ǵ th́ làm, chúng tôi cũng thấy dễ thở.

    Có lẽ anh chàng quản giáo này bất măn thời cuộc, hay là đă bị chao đảo tư tưởng trong lúc phục vụ ở Miền Nam v́ nh́n ra là ḿnh đă bị mắc lừa bởi những điều tuyên truyền láo khoét trước khi anh vào Miền Nam phục vụ. Điều này chỉ ḿnh anh biết mà thôi. Dù sao th́ phải công nhận anh đối xử rất tốt với tù Việt Nam Cộng Ḥa. Anh là người quản giáo duy nhất, trong suốt thời gian tôi ở tù, mà tôi có thiện cảm.


    5.12. Hành lạc với heo cái

    Để tránh phiền phức, tên của nhận vật chính trong chuyện được mă hoá bằng X.

    X là đại úy độc thân c̣n rất trẻ. Cái lon đại úy mới đeo chưa mất hết nước bóng th́ X đă phải khăn gói quả mướp đi “học tâp cải tạo”. X làm trong đội nhà bếp, v́ nằm trong hệ thống ăng-ten của Trần Duy Phố cho nên được giao công tác nhẹ nhơm. Đó là chăm sóc cho một con heo, vỗ béo để chờ ngày ngả thịt, nhưng nó lại là heo cái mới có chuyện để mà nói.

    Một hôm Trần Duy Phố cần gặp X có chuyện ǵ đó nhưng Phố mắc bận không ra chuồng heo được. Phố nhờ anh Trần Hữu Thành (LLĐB, cũng ở đội nhà bếp) ra gọi X vào. Anh Thành tới gần mà X vẫn không biết v́ hắn đang xà nẹo với con heo cái. Thoạt đầu, anh Thành không biết X đang làm ǵ nhưng nh́n động tác tiến tới tiến lui của X th́ anh Thành hiểu ra ngay. Anh Thành cũng không vừa, muốn làm mất hứng của X nên anh la lớn: “X! mày làm ǵ thế?” Nghe vậy, X quay lại thấy anh Thành đứng ở sau nhưng X vẫn tỉnh bơ, tiếp tục thêm tí nữa cho xong rồi cười hề hề, coi như chẳng có ǵ đáng quan tâm. Từ đó anh Thành đặt cho hắn cái biệt danh là “X heo”. Cái biệt danh này vẫn c̣n theo hắn cho đến bây giờ.

    Tuy vậy, rất ít người biết nguyên do từ đâu mà có cái tên “X heo”. Nhiều người nghĩ rằng hắn nuôi heo nên gọi là X heo th́ cũng phải thôi, không c̣n thắc mắc ǵ nữa. Người khác th́ lại nghĩ rằng bởi v́ hắn có cái bộ mặt giống như Trư Bát Giới nên bị gọi là X heo cũng đúng thôi. Có người lại nghĩ rằng hắn ở bẩn (mà bẩn thật đấy) th́ gọi là heo v́ người ta thường ví “bẩn như heo” mà.

    Hắn đi Mỹ trước sau tôi chừng một tháng v́ đôi lần tôi gặp hắn ở Văn Pḥng Dịch Vụ Xuất Ngoại, đường Nguyễn Trăi, Chợ Lớn. Thấy tôi, hắn tới hỏi chuyện, tôi chỉ ậm ừ vài câu rồi tôi bỏ đi chỗ khác ngồi. Biết đâu giờ này hắn đang làm hội trưởng của một hội nào đó, chẳng hạn như hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, hội Cựu Chiến Sĩ, hội Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc Gia, v.v… Loại người như hắn th́ hắn dễ dàng đổi chiều lắm, loại cỏ đuôi chó, gió chiều nào ngả theo chiều đó là điều dễ hiểu.

    (c̣n tiếp)

  6. #26
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.13. Quà cáp & Thăm nuôi

    Khi chúng tôi về ở Vĩnh Quang B được chừng một tháng th́ trại cho viết thư về gia đ́nh và đồng thời phát cho mỗi người một phiếu gửi bưu phẩm để kèm theo thư. Tiêu chuẩn là mỗi ba tháng được phát một phiếu gửi bưu phẩm mà trọng lượng tối đa là 3 kg (chừng 7 lbs). Tuy nhiên sau này khi có bưu phẩm gửi tới, tôi thấy có vài người nhận được hai hoặc ba gói bưu phẩm. Tôi không biết tại sao nhưng khi được thả ra, về nhà th́ vợ tôi cho biết là có đường dây ở bưu điện bán phiếu thăm nuôi, có tiền là mua được thôi. Có điều là vợ con chúng tôi lo ăn cho các con c̣n trầy da tróc vẩy th́ lấy đâu ra tiền để gửi nhiều. Một số người có tiền nhưng nhát gan, sợ rằng gửi quá tiêu chuẩn th́ mất tiền toi. Chỉ trừ một vài người to gan và tiền bạc tương đối tạm đủ th́ họ liều mạng gửi thí, một ăn một thua.

    Mỗi lần có đợt lănh bưu phẩm, trại chọn một số người, tùy theo bưu phẩm nhiều hay ít, đi ra trại Vĩnh Quang A hoặc đôi khi đi thẳng ra bưu trạm của xă Lập Thạch để khiêng đồ về. Căn cứ vào số người được chọn đi khiêng đồ, chúng tôi có thể đoán biết được là có bao nhiêu gói bưu phẩm kỳ này. Cứ hai người khiêng một bao, giỏi lắm là 45 kg (tức là 15 gói bưu phẩm). Nếu có 10 người đi khiêng tức là có 5 cặp, mỗi cặp 15 gói, vậy th́ sẽ có phỏng chừng 75 gói bưu phẩm. Càng nhiều người đi khiêng th́ càng nhiều hy vọng trúng số. Chúng tôi mong nhận bưu phẩm như mong mẹ về chợ vậy.

    Sáng hôm sau, trước khi các đội xuất trại đi lao động, trại sẽ gọi tên những người trúng số không phải đi lao động mà ở nhà, chờ lănh bưu phẩm. Bưu phẩm được đưa ra hội trường, có mấy công an phụ trách khám bưu phẩm trước khi cho tù nhận đem về. Chúng mở ra từng thứ để t́m xem gia đ́nh có giấu diếm cái ǵ “trái qui định” của trại không. Trái qui định trong ngoặc kép là ư tôi muốn nói bất cứ cái ǵ mà tụi nó muốn tịch thu để xài th́ chỉ cần phán một câu “trái qui định” là xong ngay. Có lần tôi nhận gói bưu phẩm 3 kg trong đó có 1 kg cà phê (hơn 2 pounds), tên thiếu úy an ninh già (quên tên) mở ra thấy mùi cà phê thơm lừng, hắn bảo: “Cái này là trái qui định của trại, anh không được phép nhận, trại sẽ tịch thu.” Tôi trả lời: “Thưa cán bộ, trong nội qui trại đâu có nói là tù nhân không được uống cà phê, xin cán bộ cho tôi nhận về dùng.” Hắn nói: “Anh này chỉ linh tinh lang tang, muốn ǵ th́ sáng mai lên gặp tôi.” Nói xong hắn bỏ bịch cà phê sang bên hông của hắn (hắn ngồi trên một cái ghế dài) và đẩy mấy thứ c̣n lại cho tôi. Thấy hết hy vọng, tôi gom đồ đi về pḥng. Tuy nhiên, c̣n nước c̣n tát, sáng hôm sau, sau khi ra khỏi buồng đánh răng rửa mặt là tôi phóng lên pḥng trực trại, nơi hắn ngủ ở đó. Tôi báo cáo và xin nhận lại cà phê. Liếc mắt vào trong, tôi thấy “cái nồi ngồi trên cái cốc” đang nhểu nước cà phê (chắc hẳn là của tôi). Tôi nghĩ bụng, thôi rồi khó mà lấy lại được v́ mỡ đă ở miệng mèo th́ làm ǵ có chuyện hắn trả lại. Hắn lập lại với tôi là trại quyết định thu cà phê, và đuổi tôi về đi lao động!

    Tôi c̣n nhớ, có anh được gia đ́nh gửi cho 1 kg lạp xưởng, tên công an cầm lên nh́n săm soi một lúc rồi lẩm bẩm một ḿnh: “Đồ ăn không gửi mà lại đi gửi nến (đèn cầy).” Anh bạn đó phải giải thích đây là đồ ăn chứ không phải nến, và mô tả sơ qua về cách làm lạp xưởng cho hắn nghe. Cũng may là lạp xưởng không “trái qui định trại” cho nên anh đă được nhận.


    5.14. Liên tưởng đến vài người bạn

    Mỗi khi có quà cáp, nhóm bạn chúng tôi thường hay chia sẻ với nhau, ít ra cũng có tí cà phê, thuốc lá, hoặc cái ǵ đó. Nhờ vậy mà chúng tôi có sự khắng khít với nhau.

    Tôi nhớ lại các bạn này ngày tôi rời Việt Nam, ngày 19/6/1991. Hôm đó có Đệ, Chánh, B́nh bót, và Phạm Kiến Chương (Chương c̣m) cùng ra sân bay Tân Sơn Nhất tiễn đưa tôi. Tôi c̣n giữ được tấm h́nh tôi chụp chung với các bạn đó ở phi trường Tân Sơn Nhất (xem h́nh ở cuối sách). Chương c̣m c̣n có thêm một biệt danh nữa là Chương hói (đại úy Cảnh Sát). Tôi biết Chương c̣m khi chuyển trại ra Vĩnh Quang A. Sau này Chương c̣m cũng về ở Nam Hà cùng đợt với tôi. Gọi là Chương c̣m nhưng thực sự th́ ngược lại, Chương có chiều cao hơi khiêm tốn mà lại mập, đầu hói trông như ông địa. Chương có người anh tên là Kiệt (Khoá 20 Vơ Bị Đà Lạt). Kiệt làm đội trưởng đội cầy bừa ở Nam Hà C mà trong đó có tôi. Chương không đi Mỹ mà đi Bỉ v́ lúc đó vợ con của Chương đang ở Bỉ.

    C̣n Trần Cao Chánh th́ tôi nhớ một chuyện lúc Chánh & Hiến ở cùng đội với tôi. Một buổi tối sau khi vào buồng, cửa buồng đă khoá, tôi thấy Chánh cầm một cây sắt dài cỡ 30 cm (12 inches), vuông cạnh chừng 1.5 cm ( 5/8 inch, loại sắt dùng để nối những tấm vỉ sắt PSP với nhau). Mặt Chánh lộ vẻ cương quyết. Tôi đoán là Chánh đang định làm điều ǵ quan trọng lắm. Tôi gặng hỏi th́ Chánh bảo đêm nay sẽ cho “thằng Đ. cố đạo biết tay.” Tôi phải khuyên can Chánh và cố thuyết phục để Chánh bỏ ư định đó đi. Rất may là Chánh đă nghe và hủy bỏ ư định đó. Nguyên do là v́ anh Đ. cố đạo đă có lời nói và cử chỉ ngăn cản Chánh làm điều ǵ đó liên quan tới ăn uống (chẳng hạn như nướng khoai, nướng sắn tại nơi nấu nước của Đ.). Dưới con mắt của Chánh th́ anh Đ. cố đạo là người đâm sau lưng chiến sĩ. Anh Đ. cố đạo không được ḷng anh em v́ mặc dù anh tỏ ra là người “ngoan đạo”, chăm chỉ đọc kinh và lần hạt nhưng hành động th́ không bác ái tí nào. Đó cũng là lư do anh có biệt danh là “cố đạo” với ư mỉa mai, đạo đức bằng môi bằng mép!

    Nguyễn Phan Đệ, binh chủng Thiết Giáp, có khiếu ca hát, sẽ đề cập chi tiết sau. B́nh bót là dân Biệt Động Quân, rất vui tính. Con của B́nh bót c̣n lớn tuổi hơn con tôi; năm nay (2008) chắc nó cũng phải 45 tuổi rồi. Hiện giờ B́nh bót và gia đ́nh anh đang ở Cali.

    Anh Nguyễn Tiến Hanh (khoá 15 Pháo Binh) cũng có nhiều kỷ niệm với tôi. Như tôi đă kể, khi c̣n ở Trại 5 (thời kỳ chặt nứa), anh Hanh, Hiếu và tôi là nhóm ba người bắt tép và cá con ở hồ Thác Bà. Cũng thời kỳ này anh chán đời, không thèm chơi đàn guitar nữa, anh cho tôi cây đàn và dạy tôi bấm gam để trưa nào cũng vậy, thay v́ đi ngủ, tôi ra đầu hè ngồi tửng từng tưng cho đến kẻng báo giờ đi làm buổi chiều mới thôi. Cái đàn này do anh tự chế khi c̣n ở Long Giao (Long Khánh), hai mặt đàn làm bằng ván ép mỏng, hông đàn làm bằng miếng kẽm của thùng lương khô Trung Cộng, dây đàn là những sợi lơi của dây điện thoại dùng trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Âm thanh cây đàn phát ra cũng không đến nỗi tệ. Tôi không có khiếu về đàn địch cho nên tập hoài không khá, tôi cũng chán và bỏ tập luôn. Tôi phá cây đàn để lấy miếng kẽm g̣ thành một cái tô đựng canh. Tài nghệ g̣ thùng của tôi thuộc loại “siêu” cho nên cái tô có h́nh cái xuồng. Thế mà tôi cũng xài cái xuồng này hơn một năm mới bỏ. Anh Hanh, trái lại, là con người có tính nghệ sĩ, anh chơi đàn khá và giọng hát của anh cũng ấm ra ǵ đấy. Năm 1970, khi học cùng khóa Pháo Đội Trưởng với tôi, anh rất thích hát bài “Mùa Thu Chết”; v́ thế đôi khi anh cũng “làm phiền hàng xóm trong lúc nghỉ trưa” (mượn ư của Đài Phát Thanh Sài-G̣n năm xưa).

    Bây giờ nói chuyện anh Hanh ở Vĩnh Quang B. Đội tôi trong những ngày nghỉ, một số người có quà cáp thăm nuôi th́ lo nấu nướng; số người không có quà cáp th́ chống đói bằng cách ngồi nghe kể chuyện (chưởng là môn chính). Chúng tôi gọi người kể chuyện là máy chiếu phim. Máy chiếu phim không chạy bằng điện hay xăng mà chạy bằng mấy bi thuốc lào hoặc đôi khi có được một cục đường táng là máy chạy tốt ngay, âm thanh không bị rè nữa. Trong đội có anh Vượng sún (khoá 16 Thủ Đức) có trí nhớ rất hay nên anh đóng vai máy chiếu phim, tệ lắm th́ cũng có mấy bi thuốc lào phi cho quên đời. Một hôm đến mục bàn về Ngũ Đại Môn Phái Vơ Thuật Trung Hoa, khi Vượng sún đang phân tích nào là Thiếu Lâm có cái này hay, nào là Côn Luân có cái kia trội v.v… th́ anh Hanh (thuộc loại con bà phước, đói trường kỳ) đi ngang qua và nghe được lời bàn của Vượng sún, anh Hanh với vẻ mặt thiểu năo, lắc đầu, nh́n tôi và nói nho nhỏ vừa đủ cho tôi nghe thôi, “Côn Luân, Không Động, Thiếu Lâm hay ǵ ǵ tôi cũng đếch sợ, tôi chỉ sợ môn phái THIẾU CƠM thôi, môn phái THIẾU CƠM là bá chủ vơ lâm!”


    5.15. Ăn trứng rắn lộn

    Vào một ngày Thứ Bảy, đội tôi có nhiệm vụ làm một cái nhà kho để dụng cụ. Anh Hồ Đắc Thái ở trong tổ san nền đất cho bằng phẳng. Anh Thái phát hiện được một hang rắn, không biết loại rắn ǵ. Trong hang không có rắn nhưng có 6 trái trứng to hơn đầu ngón tay cái của người lớn. Anh lẳng lặng bỏ mấy trái trứng rắn vào túi và sẽ thanh toán nó sau.

    Sáng hôm sau là Chủ Nhật, cả trại được nghỉ. Anh Thái cũng bắt chước người ta nấu nướng linh tinh. Anh bỏ 6 trái trứng rắn vào lon gô để luộc. Luộc xong, anh bỏ trứng rắn ra đĩa với một chút muối, dự định ăn một ḿnh. Nhưng khi đập trái trứng đầu tiên, anh thấy rắn đă thành h́nh, cuộn tṛn trong vỏ trứng, to cỡ như con giun đất. Anh không dám ăn, thấy tôi đi ngang qua, anh vời tôi lại và chỉ cho tôi xem cái trứng đă có con. Anh hỏi tôi xem có nên ăn không v́ anh sợ là trứng rắn độc nếu ăn vào sẽ tiêu vong. Tôi lư luận với anh rằng, “Nọc độc của rắn tiết ra từ hai cái hạch dưới chân răng nanh, khi con rắn đă đủ lớn. C̣n ở đây là rắn bao tử, dù là loại độc cũng chưa có thể có nọc được. Để tôi ăn trước cho anh xem.” Nói xong, tôi ăn luôn cái trứng rắn mà anh đă đập ra kèm với vài hạt muối. Mùi trứng rắn lộn cũng na ná như mùi hột vịt lộn, tiếc rằng không có rau răm, nếu có th́ thật là hết sẩy! Anh Thái chờ một lúc rồi hỏi tôi có sao không. Tôi trả lời “Nô ś ta hoe” (Tiếng Mỹ ba rọi, No star where = không sao đâu). Thấy tôi vẫn b́nh yên, anh Thái đập vỏ trái trứng thứ hai và chấm muối ăn. “Không may” cho hai đứa tôi, có mấy người bạn thấy chúng tôi ngồi ăn “cái ǵ” và cười cười với nhau, họ nhào tới và thế là không đủ cho mỗi người một trứng, có người chỉ được nửa con rắn thôi.
    Trong tù, những lúc vui-sướng-buồn-khổ-nhục, chúng tôi đều có nhau. V́ thế mà giờ đây đă hơn ba chục năm rồi, chúng tôi vẫn c̣n nhớ đến nhau. Nhất là những lúc gặp mặt nhau dưới bầu trời tự do này th́ hỏi sao không vui được? Thôi th́ hàn huyên đủ chuyện, chén chú chén anh, nhưng cũng không khỏi chạnh ḷng khi nhắc tới những người bạn đă bỏ chúng tôi mà sang bên kia thế giới như các anh Đào Ngọc Tỉnh, Nguyễn Chánh Vi, Vũ Cao Hiến, Nguyễn Văn Diện, Hồ Đắc Thái, và c̣n có thể một vài người nữa mà tôi không biết hết. Vĩnh biệt các anh!


    5.16. “Cải thiện linh tinh lang tang.”

    Cải thiện linh tinh là “Chuyện dài Nhân Dân Tự Vệ”, nó chỉ chấm dứt khi được ra khỏi nhà tù. Cải thiện có muôn vàn h́nh thức nhưng đều qui về một mục đích là kiếm được cái ǵ đó bỏ vào cái bụng mà lúc nào nó cũng cào cấu, cũng đ̣i hỏi.

    B́nh thường, chữ “cải thiện” không mang nghĩa xấu nhưng trong trại tù, nó thường mang nghĩa xấu nhiều hơn. Cải thiện đồng nghĩa với kiếm chác đồ ăn một cách lén lút, không được trại cho phép. Tôi là người bị làm kiểm điểm nhiều lần v́ cải thiện linh tinh. Kiểm điểm th́ kiểm điểm, tôi vẫn chứng nào tật nấy, không chừa được. Tôi nghĩ thầm, “Ai bảo tụi mày để chúng tao đói? Nếu tụi tao no đủ th́ đâu cần cải thiện làm chi nữa; tụi bay có mời đă chắc ǵ tụi tao ăn cơ chứ. Nguyên do cải thiện là tụi mày, chứ đâu phải tụi tao.”

    Về anh Hiếu th́ tôi nhớ nhiều điều lắm, trong đó có chuyện cải thiện. Hiếu có thói quen là khi đi rừng cùng với tôi, gặp bất cứ thứ ǵ mà anh nghĩ là ăn được, anh đều nhấm thử để xem mùi vị nó ra làm sao. Anh thường nói: “Nhấm một tí, dù nó độc cũng không chết người được, bất quá th́ sưng môi ngứa miệng là cùng, sợ đếch ǵ.” Triết lư sống của Hiếu là như vậy, thảo nào ngày xưa anh chàng đă “nhấm thử” bao nhiêu là “lá đa, lá tre, lá mít, lá vông…” để trở thành sư phụ về cái món đó. Bây giờ Hiếu đă hoàn toàn thoát tục rồi v́ “trên bảo dưới không nghe”, nó cứ gục xuống như đầu gà rù th́ c̣n làm chó ǵ được nữa!


    Chuyện bắt chuột của tôi như sau:

    Khi mới đến Vĩnh Quang B, chúng tôi ở trong những căn nhà lá đă quá cũ. Trại thành lập một đội xây dựng, đội này phụ trách làm gạch ngói, sau đó xây nhà gạch thay thế cho nhà tranh. Mấy tháng sau, tất cả đều được ở nhà gạch. Buồng nào cũng có hai tầng giường ngủ. Tầng dưới là hai cái sàn xi măng, cao chừng 50 cm (20 inches), chạy dài theo chiều dọc của căn buồng, ở giữa là lối đi. Tầng trên là các tấm ván ghép lại với nhau, mỗi người được chia một khoảng rộng từ 60-65 cm (24 đến 26 inches). Tôi nằm ở tầng trên. Với chiều cao 1,6 mét (5’ 4”), tôi có thể giơ tay lên chạm tới phần thấp nhất của mái nhà. Nơi mái nhà tựa lên tường gạch có một khoảng trống chạy dọc theo căn buồng. Chính nơi đây là chỗ các chú chuột dùng làm nơi ngủ đêm.

    Bọn chuột thường giấu đầu vào bên trong và tḥ gần hết cái đuôi ra ngoài. Để bắt chuột, tôi chỉ cần nhẹ nhàng đứng dậy, chụp cái đuôi chuột, dựt mạnh một cái cho chuột văng xuống nền nhà. Chuột bị quật xuống đất ít khi bị chết ngay mà chỉ bất tỉnh một lúc thôi. V́ vậy, sau khi quăng chuột xuống nền nhà là tôi phải nhảy xuống chụp lấy nó và quật thêm cho nó một cú ân huệ để nó chết luôn. Bắt được chừng hai con là có thể yên tâm ngủ để sáng hôm sau làm thịt chúng. Tôi chặt đầu chuột, lột da, moi ruột bỏ đi. C̣n lại phần thịt th́ rửa sạch, ướp muối (chỉ có muối) rồi bỏ vào lon gô mang theo ra chỗ lao động và nhờ nấu chín. Mỗi đội khi đi lao động thường có một anh chuyên phụ trách nấu nước uống cho cả đội và đồng thời cũng nấu đồ ăn cho những người có thăm nuôi.

    Bắt chuột theo kiểu của tôi th́ ít có người dám làm v́ sợ chuột cắn. Nếu không lẹ tay th́ rất dễ bị chuột cắn. Ăn thịt chuột th́ cũng có người ăn được, kẻ không dám ăn. B́nh thường ra th́ tôi cũng chẳng dám ăn thịt chuột nhưng ở cái cảnh đói triền miên th́ tự nhiên ḿnh cảm thấy bạo hơn. Ở vùng Hậu Giang, chuột đồng là món ăn đặc sản, thịt ăn rất ngon. Chuột đồng thường ăn lúa cho nên không có ǵ đáng sợ. Nhưng, chuột nhà/chuột cống thường ăn đủ thứ trong những đống rác; và môi trường sống của chúng cũng không sạch sẽ cho nên có nhiều con bị ghẻ lác trông thấy mà ghê. Tuy nhiên v́ đói cho nên tôi tự đưa ra một lập luận để yểm trợ cho việc ăn thịt chuột của ḿnh:

    Con chó do người miền Bắc nuôi đâu có được ăn cơm gạo đầy đủ. Đồ ăn chính của nó là phân người, ấy vậy mà người ta vẫn ăn thịt chó như điên, có sao đâu. Cũng vậy, dù con chuột ăn thứ ǵ th́ sau khi vào trong bụng, những thứ đó đă được biến thành những dưỡng chất phù hợp cho cơ thể của nó. Cá tra cũng được nuôi bằng phân người mà vẫn có giá. Vậy tại sao lại sợ? Cứ ăn, không chết thằng Tây nào cả. Những lúc đó tôi lại nhớ tới những ngày trước 30/4/1975.

    Đơn vị tôi có một ông Trung Sĩ Nhất, già, ưa nhậu thịt chuột. Những khi đơn vị tôi đóng gần làng xóm, buổi chiều ông thường ra các luống lang bắt chuột. Đôi khi ông bợ về luôn cả một ổ chuột bao tử, chưa mở mắt. Ông ướp chuột bao tử với ngũ vị hương rồi cho vào chảo rô ti để nhậu. Thấy vậy tôi rất ớn. Thế mà bây giờ nếu có được một ổ chuột bao tử như vậy th́ cuộc đời lên hương biết mấy!

    Ở trong tù mà bắt được một con chuột cỡ cổ tay hoặc bắt được một con ếch bằng nắm tay th́ được ví như “hôm nay được ăn một con heo.” Ví von như vậy cũng không sai bởi v́ mỗi khi trại giết một con heo, nếu chia đều ra th́ mỗi người chỉ được chừng ½ chén ăn cơm thịt heo. Đem so sánh th́ thịt một con chuột có thể c̣n hơn gấp đôi phần thịt heo của trại đấy. Những lúc như vậy, tôi không thể tưởng tượng được rằng sẽ có ngày ḿnh lại được ăn uống quá dư thừa thịt cá như ngày nay, đến nỗi phải kiêng bớt để tránh bị bệnh.


    5.17. Người lái tầu về với “Cách Mạng”

    Tôi biết anh v́ những ngày đầu ở Vĩnh Quang B, anh thường chơi với anh Lê Gia Hân, mà anh Hân đă có thời từng là Tiểu Đoàn Trưởng của tôi (TĐ253PB). Bạn bè của anh Hân ngày xưa thường gọi anh là Lê Da Bụng v́ người anh th́ thấp, mà cái bụng của anh trông giống như một cái thùng nước lèo vậy. Bây giờ, sau hơn ba năm ăn cơm nhà tù, cái bụng của anh Hân đă lép xẹp. Những lúc anh cởi trần, mặc quần xà lỏn, để phơi cái bụng nhăn nheo một đống da, thấy mà thảm! Lúc này, cái tên Lê Da Bụng có lẽ thích hợp với anh hơn. Thỉnh thoảng, tôi sang chơi và tṛ chuyện với anh Hân, v́ thế tôi biết tên “người lái tầu” là Phú (không rơ tên họ). Nghe nói anh di cư vào Nam năm 1954 có một ḿnh, cha mẹ c̣n ở ngoài Bắc. Anh thương nhớ mẹ (không thấy nói đến cha, có lẽ ông cụ đă mất) cho nên anh nghĩ rằng nhân dịp này (hết chiến tranh) anh hy vọng gặp lại mẹ. V́ thế, sau khi chở đoàn người di tản ra đảo Phú Quốc, anh lái tầu HQ trở về lại Việt Nam, vừa có công với “Cách Mạng” là đă đem được một chiếc tầu về cho “Cách Mạng,” vừa có dịp gặp lại mẹ già ở miền Bắc. Đâu dè…!

    Một lần, bà mẹ anh tới Vĩnh Quang B thăm anh với vài kư gạo. Bà cụ đă chửi anh, “Mày làm tới lon trung tá mà sao mày ngu quá, tự đưa cổ vào tṛng cho tụi nó thắt!”

    Tội nghiệp anh Phú! Chỉ v́ muốn được gặp mẹ, anh đă phải trả một giá quá đắt, mười mấy năm tù chứ bộ. Đấy là chưa kể vợ con anh ở Miền Nam. Biết đâu khi anh được thả ra khỏi trại tù th́…, thôi tôi không dám nghĩ tiếp nữa. Ḷng tôi mong sao khi anh trở về, vẫn c̣n đầy đủ vợ con như một số đông người khác.

    (c̣n tiếp)

  7. #27
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.18. Những cái biệt danh

    Khi chúng tôi c̣n ở những trại do quân đội quản lư (chế độ quân quản) th́ họ tổ chức mỗi trại thường là 250 người và ở riêng từng khu. Với con số 250 người th́ ít có sự trùng tên nhau. Vả lại chúng tôi c̣n bị chi phối bởi nội qui trại tù, là “Không được quan hệ linh tinh”. Họ không muốn cho tù nhân liên lạc với nhau mật thiết v́ họ sợ chúng tôi “bầy mưu tính kế” để chống phá hoặc trốn trại. Từ khi chúng tôi chuyển sang các trại do công an quản lư th́ t́nh h́nh có khác đi một ít.

    Các trại do công an quản lư là những trại lập ra để nhốt tù cho nên cách xây cất vững chắc hơn. Phạm vi cũng rộng lớn hơn, thường nhốt ít nhất cũng phải từ 500 người trở lên. Trại Vĩnh Quang B nhốt hơn 500 sĩ quan/công chức của Việt Nam Cộng Ḥa và hơn 100 tù h́nh sự. V́ có sự lỏng lẻo trong việc kiểm soát các “quan hệ linh tinh”, chúng tôi thường qua lại chuyện tṛ với nhau nhiều hơn. V́ đông người nên có nhiều tên trùng nhau. Từ đó nảy sinh ra những cái biệt danh để phân biệt người này với người kia. Nhưng đôi khi không phải v́ nhu cầu phân biệt người này với người kia mà vẫn có những biệt danh.

    Thường thường, biệt danh được đặt ra tùy theo vóc dáng, tính t́nh hoặc dị tật của đối tượng. Sau đây là một số người có biệt danh mà tôi nhớ tên (theo vần A,B,C…).

    B́nh bót (Phan Thái B́nh) để phân biệt với B́nh Mập. Tôi không hiểu tại sao lại có biệt danh “bót”. B́nh bót thuộc binh chủng Biệt Động Quân, cấp bậc đại úy, rất vui tính, cỡ tuổi 1940 nhưng có con đă lớn, nhà ở cầu Băng Ky, gần cầu B́nh Lợi, Sài-G̣n. Ngày tôi c̣n mở quán cà phê, B́nh bót có ghé tôi chơi nhân một chuyến đi bỏ mối vỏ xe đạp. Ngày tôi đi Mỹ, B́nh bót có ra sân bay tiễn chân. B́nh bót hiện giờ ở Cali nhưng tôi không có liên lạc, chỉ biết tin anh qua một số bạn bè. B́nh Mập có thời làm đội trưởng, tính t́nh hiền hoà, không đâm sau lưng chiến sĩ. Biệt danh “mập” là v́ anh mập mạp hơn b́nh thường.

    Cả đẫn (Nguyễn Phan Đệ), binh chủng Thiết Giáp, rất vui tính và rất tốt với bạn bè. Biệt danh Cả đẫn được bạn bè đặt cho anh sau một buổi ngồi tán dóc với nhau. Khi đề cập đến đàn bà, anh có những câu hỏi rất là ngớ ngẩn chứng tỏ rằng anh chưa biết “cái đó” nó nằm ngang hay nằm dọc, nó tṛn hay méo ra làm sao. V́ thế có người kết luận rằng “thằng này đúng là cả đẫn”. Từ đó cái tên Cả đẫn đă dính liền với anh cho đến bây giờ. Tôi sẽ c̣n nói đến Cả đẫn đôi ba lần nữa trong những phần kế tiếp của hồi kư này.

    Cảnh hù (Phạm Hy Cảnh), cấp bậc đại úy, có dáng dấp nhỏ nhắn, lùn, và rất vui tính. Mặc dù không có ai trùng tên nhưng Cảnh vẫn có biệt danh, đó là Cảnh hù, nói lái theo kiểu Bắc Kỳ là Củ hành, rất phù hợp với cái chiều cao khiêm tốn của anh. Cảnh học chung một lớp với tôi một năm ở Trung học Trần Lục (Tân Định). Cảnh có người anh tên là Phạm Hy Mai (trung tá Dù) cùng ở trại Vĩnh Quang B. Anh Mai mới chết năm 2007. Trong khi đang ở Vĩnh Quang B th́ vợ Cảnh qua đời, để lại hai con cho bà ngoại và “D́ nó” trông coi. Bọn tôi biết chuyện thường đùa với Cảnh rằng, “Thôi, kỳ này mày về th́ dớt (vớt) luôn D́ nó cho tiện bề sổ sách.” Lời nói đùa đó ai ngờ thành sự thực. Khi Cảnh được tha, “D́ nó” vẫn chờ và hai người đồng ư kết duyên. Bà ngoại sấp nhỏ không chịu, hai người bèn “tự biên tự diễn”, dẫn nhau ra Phường làm hôn thú. Ngày ăn cưới, Cảnh và Vượng sún tới nhà tôi mời đi dự đám cưới của Cảnh vào buổi tối. Xui cho tôi là lúc đó con heo nái (nái thực sự chứ không có nghĩa bóng đâu nhé) của tôi đang chuyển bụng đẻ. Tôi phải ngồi chờ để đỡ đẻ cho heo. Một bầy heo con suôn sẻ th́ cũng ấm bụng được ít ngày. Tôi nói với Cảnh, “Nếu heo của tao sanh sớm th́ tao sẽ phóng lên nhà mày ngay, nếu mày không thấy tao tới có nghĩa là heo của tao chưa sanh.” Vượng sún và Cảnh phải vội vă về ngay để c̣n chuẩn bị cho bữa ăn cưới. Tôi không đi được v́ heo của tôi đến nửa đêm mới đẻ! Nghe anh Nguyễn Thái Học nói rằng Cảnh bây giờ đang ở Cali với “D́ nó” rất hạnh phúc. Tôi biết chắc rằng Cảnh đă thông cảm cho việc tôi không tới dự đám cưới của anh. Ấy vậy mà tôi vẫn cứ áy náy đấy.

    Dũng th́ có Dũng két/kiếtDũng khấc (c̣n gọi là Dũng Mexico). Dũng két có cái mũi hơi khoằm xuống, trông giống như mỏ két; thực ra th́ lúc đầu, anh được gọi là Dũng kiết v́ anh bị bệnh kiết lị suưt chết; nhưng sau này một số người không hiểu nguyên do của chữ kiết nên lầm tưởng là két v́ anh có cái mũi giống như mỏ chim két.

    Dũng khấc/Dũng Mexico th́ tôi không biết tại sao lại có tên đó. Tôi chỉ đoán ṃ rằng chữ “khấc” và chữ “Mexico” có liên hệ xa gần với chuyện sex v́ thời trai trẻ anh Dũng khấc đă là một “manh-du-ê” (tiếng Pháp ba rọi = main jouer = tay chơi). Anh khiêu vũ rất giỏi, các nơi khiêu vũ nổi tiếng ở Sài-G̣n đều có dấu chân của anh. Tính t́nh anh rất xuề x̣a; đối với bạn bè th́ anh là một người bạn rất chân t́nh cho nên ai cũng quí mến.

    Đ́nh (Vũ Xu Đ́nh), không có ai trùng tên nhưng anh được bạn bè gọi là Vũ Su Hào (củ su hào là một loại rau thông dụng ở Việt Nam). Anh Đ́nh là đại úy Nhẩy dù, rất thích chơi bóng chuyền và bóng đá. Nghe nói anh thuộc loại ô-đi-ghe (vượt biển) chứ không chịu chờ để đi máy bay như bọn tôi. Anh chơi với bạn bè rất có t́nh v́ thế anh được nhiều người thương mến. Chỉ trừ mấy tên đầu gấu của tù h́nh sự là ngán anh; lạng quạng là anh “đục” liền.

    Đồng th́ có Đồng mắt cua và Đồng cố đạo. Đồng mắt cua có hai con mắt hơi đo đỏ như mắt của con cua. Đồng mắt cua là con người vui tính, dễ gần gũi. C̣n Đồng cố đạo th́ hay công khai làm những cử chỉ của một “con chiên ngoan đạo”, chẳng hạn như làm dấu thánh giá, lần hạt, đọc kinh… Tôi biết Đồng cố đạo từ ngày tôi c̣n trọ học ở G̣ Vấp (Gia Định) nhưng không chơi với nhau v́ không học cùng trường. Khi bị đầy ra Bắc th́ ở cùng trại (Trại 5, rồi đến Vĩnh Quang B) nên có qua lại chuyện tṛ với nhau, “tha hương ngộ cố tri” mà. Đồng cố đạo cũng chẳng có ǵ làm hại đến anh em tù cả; chỉ ngậm miệng ăn tiền. Do đó anh cũng không bị mấy “chức sắc” (quản giáo và đội trưởng) ghét bỏ.

    Đ. cố đạo (không phải Đồng cố đạo). Mặc dù không có ai trùng tên với anh nhưng anh vẫn có biệt danh là “cố đạo” với ư nhạo báng, đạo bằng môi bằng mép mà thôi, chứ không sống đúng theo tinh thần đạo Công Giáo. Anh thường có những cử chỉ công khai tỏ ra ḿnh là ngoan đạo nhưng thực chất con người của anh th́ thiếu ḷng bác ái và vị tha. Có lần anh suưt bị anh Trần Cao Chánh “cho biết tay” như tôi đă nói ở phần trên về anh Trần Cao Chánh.

    Ḥa th́ có Ḥa đen (đại úy Không Quân, c̣n rất trẻ). Bị gọi là Hoà đen v́ nước da anh đen hơn mọi người và cũng là để phân biệt với một anh Hoà nữa (đại úy Pháo Binh, Huấn Luyện Viên môn Địa H́nh ở Trường Pháo Binh Dục Mỹ) mà tôi không biết là anh có biệt danh hay không. Hoà đen là cặp bài trùng với anh Nguyễn Văn Tỷ (cũng đại úy Không Quân nhưng lớn tuổi hơn). Có một khoảng thời gian tôi ở cùng buồng với Tỷ và Hoà đen. Hai anh đều là người dễ mến. Hai anh cũng giỏi “nín thở qua sông” cho nên không bị quản giáo ghét.

    Hiếu th́ có Hiếu ḥn (đă nói ở trên) để phân biệt với Hiếu hói (v́ hói đầu). Tôi không ở chung với Hiếu hói ngày nào nên không biết ǵ nhiều về anh. Ngoài ra, c̣n có Hiếu đen. Anh Hiếu đen có nước da hơi đen, chân đi như thể có tật. Hiếu đen không có ǵ nổi bật cả.

    Hùng th́ có nhiều người trùng tên. Hùng sùi (trung tá, C̣ Cảnh Sát), anh có tên này từ thời c̣n ở ngoài; gọi là sùi v́ mỗi khi anh nói th́ bọt mép sùi ra khoé miệng; anh lớn tuổi nhưng rất vui tính. Hùng tầy v́ gốc là người Tầy, c̣n nhỏ tuổi, vóc người nhỏ thó và nói hơi nhiều; tôi ở cùng đội với Hùng tầy khá lâu. Hùng tầy không có ǵ đáng chê trách về mặt chính trị và tư cách. Hùng cồ chỉ là để phân biệt với Hùng tầy thôi, chỉ “cồ” với Hùng tầy chứ chẳng “cồ” được với người khác; đôi khi c̣n được gọi là Hùng đen v́ có nước da đen đen. Hùng cồ không ở chung đội với tôi nhưng hay qua lại chuyện tṛ với Hùng tầy. Hùng sẹo (đại úy) v́ có cái sẹo ở bên thái dương; Hùng sẹo không ở chung đội với tôi ngày nào cho nên tôi không rơ về anh nhiều. Ngoài ra c̣n có vài anh cấp tá cũng tên Hùng nhưng tôi không rơ lắm. Các bậc cha mẹ thường hay chọn những chữ có ư nghĩa hay và đẹp để đặt tên cho con, mà “hùng” là một trong những chữ đó. Bây giờ vận nước tới hồi đen tối th́ “hùng” hay “hèn” cũng đều rủ nhau vào tù hết!

    Người mang tên Hải th́ có Hải nháy, Hải mập, Hải đen và Hải tặc.

    Gọi là Hải nháy v́ anh bị hư một mắt và mắt c̣n lại th́ nháy liên hồi. Hải nháy thuộc loại chơi cờ tướng có hạng, anh thường tham dự các giải thi cờ tướng trong các dịp lễ tết mà trại tổ chức. Những lúc rỗi rảnh, anh thường bầy cờ thế nhưng ít có người nào phá được thế cờ của anh. Ngoài ra anh c̣n một số tài vặt nữa như nấu bao ny-lông cho chảy ra, rồi đổ khuôn thành các quân cờ như cờ tướng, đô mi nô, và mạt chược.
    Hải mập có dáng người tương đối đầy đặn nên có biệt danh là mập. Hải mập làm đội phó nhà bếp và cũng có hành vi đâm sau lưng chiến sĩ cho nên đă bị anh Trần Hữu Thành (chuyên viên bổ củi) nện cho một trận tơi bời hoa lá (sẽ kể sau).
    Anh Hải có nước da đen đen th́ được gọi là Hải đen. Tôi không biết ǵ nhiều hơn về Hải đen.Anh Hải gốc Hải Quân th́ được gọi là Hải tặc. Tôi không biết ǵ thêm về Hải tặc.

    Về Hiệp th́ có Hiệp què v́ chân đi khập khiễng, c̣n trẻ tuổi, dân “Nam Kỳ quấc”, tính t́nh bộc trực và vui tính; “có sao nói vậy người ơi” là đặc tính của anh.

    C̣n Hiệp lùn th́ hơi thiếu thước tấc, cũng là người Nam, lầm ĺ ít nói. Hiệp lùn là người mà tôi đă nói tới trong thời kỳ chặt nứa ở Đội 3 (Trại 5, hồ Thác Bà): Anh nằm trên đồi nứa, không thèm xuống khiến cả đội phải túa ra đi t́m.

    Lộc “chị năm” người nhỏ nhắn và tiếng nói ỏn ẻn như con gái nên có biệt danh là “chị năm”. Lúc đầu, tôi không biết, tôi tưởng biệt danh này có dính dáng đến chuyện “may tay” bằng bàn tay năm ngón. Nhưng sau này tôi được anh Vơ Tấn Tài giải thích th́ mới biết rằng ḿnh đă nghĩ bậy về Lộc. Tài và Lộc là hai người bạn từ hồi nhỏ cho nên sự giải thích của Tài là đáng tin cậy. Ngày Lộc được tha (1981), tôi đă nhờ anh ghé nhà chú em của tôi để chuyển một lời nhắn rằng, “Phải t́m cách ra khỏi nước bằng mọi giá, nếu không sẽ bị tụi nó bắt trở lại.” Chả là trước khi Lộc được thả th́ tôi có nhận được thư gia đ́nh báo là chú em tôi mới được tha cuối năm 1980. Và tôi nghĩ rằng bọn xă ấp (Việt Cộng) sẽ t́m dịp bắt lại chú em tôi v́ chú có “ân oán giang hồ” với bọn chúng từ trước. Nhờ vậy mà chú em tôi đă cố gắng t́m cách vượt biển, thành công năm 1981.

    Ngoài ra c̣n có Lộc (thiếu tá Thiết Giáp) nhưng không có biệt danh. Một số đàn em Thiết Giáp thường gọi anh bằng ám danh đàm thoại thời xưa, đó là Đại Lộc. Thời hành quân bên Campuchia (năm 1971), tôi cũng có lần cùng ở trong một Chiến Đoàn với anh. V́ quen biết từ trước nên khi anh có gia đ́nh thăm nuôi, gặp tôi, anh nói, “Mai sang, tôi cho anh một ít nước mắm mỡ,” nhưng “ngày mai” tôi không sang gặp anh.

    Lân. th́ có Lân một ống, Lân là sĩ quan Không Quân, c̣n rất trẻ, trắng trẻo và vui tính. Lân kể chuyện thời gian học bên Mỹ, Lân thường đi “trả thù dân tộc.” Một lần, con nhỏ Mỹ không chịu cởi hết quần ra, mà chỉ cởi ra có một ống, ống quần c̣n lại vẫn ở trên người của con nhỏ Mỹ. Lân yêu cầu nó cởi ra hết; nó đồng ư với điều kiện phải trả thêm tiền cho nó. Lân tiếc tiền đành chấp nhận xài một ống thôi, miễn là có chỗ xả bầu tâm sự là tốt rồi. Từ đó, biệt danh “một ống” được gắn liền với tên của anh. Tôi không dám viết rơ tên họ của anh ra, v́ sợ rằng bà xă Lân đọc được th́ có chuyện ngay đấy. Ít ra là cũng bị nhéo tím đùi non.
    C̣n những người tên Lân khác, tôi không biết biệt danh của họ.

    Người tên Minh th́ có Minh râu và Minh đù. Minh râu người hơi lùn và có bộ râu quai nón. Minh đù c̣n rất trẻ và nhỏ con, cũng để tí ria mép. Minh đù ở cùng đội với tôi. Có một lần anh Minh đù nướng khoai lang ở nơi làm việc (chỗ đặt ḷ nấu nước cho đội), bị bắt “quả tang”. Anh bị quản giáo (Lưu) gọi riêng ra một chỗ để hạch hỏi. Ai cũng tưởng thế nào Minh đù cũng bị dính chấu nhưng rốt cuộc Minh trở lại làm việc b́nh thường và chẳng phải làm kiểm điểm ǵ hết. Anh kể lại rằng anh căi phăng đi, không nhận củ khoai nướng là của ḿnh, anh chỉ tới bếp ngồi hút thuốc lào thôi. Tên quản giáo đuối lư v́ không thực sự nh́n thấy anh cầm củ khoai trong tay cho nên huề cả làng. Minh đù được về vào khoảng năm 1983 (?). Khi tôi được tha th́ mới biết là anh đă qua đời trước đó ít tháng v́ bệnh tim (?). Có lẽ anh hay xài tiếng Đ.M. nên mới có biệt danh là Đù.

    Có hai anh Mẫn là Mẫn mập và Mẫn (Không Quân, không có biệt danh). Mẫn mập th́ tôi biết anh từ trước 1975. Mẫn mập là Sĩ Quan Tài Chánh của đơn vị tôi. Mẫn mập có gốc Tầu, lưng hơi kḥm kḥm và mập phúng phính. Ngày c̣n ở Đội 3 (Trại 5) đi chặt nứa, anh rất chậm chạp, “trâu chậm uống nước đục” cho nên anh thường chặt lại những gốc nứa mà người khác đă vớt mất ngọn. Gốc nứa vừa to vừa dầy nên rất nặng. Nh́n Mẫn mập kéo bó nứa thấy mà tội nghiệp. Có người (không nhớ tên) có lần bắt gặp Mẫn mập vừa vác nứa vừa khóc! Khi về Vĩnh Quang B, tôi không c̣n ở chung đội với Mẫn mập nữa. Anh Hiếu cho tôi biết hiện giờ (2008) Mẫn mập đang ở Cali và “trông nó to lắm.” C̣n anh Mẫn kia th́ tôi không rành lắm, dường như thỉnh thoảng anh cũng tham gia ca hát với Vũ Cao Hiến, Nguyễn Phan Đệ, Chu Mạnh Bích, và Phạm Dư Chất.

    Về tên Ngân th́ có Ngân lùn và Ngân (không có biệt danh). Ngân lùn thấp lè tè, lớn tuổi nhưng vui tính. Ngân lùn chơi thân với Cảnh hù. Ngoài ra, tôi không biết thêm ǵ về Ngân.

    Có hai người tên Nhung: Nhung đen và một Nhung nữa (không có biệt danh). Tôi chỉ biết về Nhung đen thôi. Nhung đen không ở cùng một buồng với tôi nhưng anh chơi thân và thường tới lui với Vũ Cao Hiến & Trần Cao Chánh cho nên dần dần tôi cũng thân t́nh với Nhung đen v́ chúng tôi cùng “chí hướng” (ghét bọn Việt Cộng). Nhung đen, cấp bậc đại úy, Pḥng 7/Bộ Tổng Tham Mưu, có tướng cao lớn và đầy đặn, nước da bánh mật, trông giống như mấy anh “cà ri nị” (Ấn Độ) nên được ghép thêm tính từ đen sau tên của ḿnh. Nhung đen được về cùng đợt với tôi (tháng 8 năm 1984). Nhung đen có đôi lần cùng đi với Vơ Tấn Tài tới quán của tôi uống cà phê (cà phê chùa, dĩ nhiên). Tôi phải để trong ngoặc một chữ “chùa”, nếu không th́ bà con làng nước lại ngỡ là tới quán uống th́ phải trả tiền, rồi trách tôi là xử tệ với bạn bè. Làm ǵ có chuyện đó phải không hai bạn Tài & Nhung? Nếu không có quán nhà th́ tôi cũng phải sai bu nó chạy ra quán bưng cà phê và thuốc lá có cán về để đăi bạn bè chứ. Bạn bè đạp xe hộc x́ dầu hơn mười cây số tới thăm ḿnh là quí hoá lắm rồi. Tới đây chắc vị nào nhớ dai th́ sẽ thắc mắc là thằng cha này mới nói là nuôi heo gia công, mà bây giờ lại nói là có quán cà phê là sao? Chả là, nhà tôi ở vùng ngoại ô, đất khá rộng cho nên tôi vừa có thể mở quán cà phê ở trước sân nhà, vừa có thể nuôi heo gia công ở đằng sau nhà. Tôi và thằng con trai “chỉ huy” bầy heo, c̣n bu nó và con gái tôi phụ trách bán cà phê. Tôi nhớ một lần, Nhung đen có dẫn theo cô bạn gái mà sau đó ít ngày th́ làm hôn thú với Nhung để chuẩn bị hồ sơ xuất ngoại. Gia đ́nh tôi và vợ chồng Nhung đen cùng đi một chuyến bay từ Thái Lan sang Seattle. Chuyến bay từ Việt Nam sang Thái Lan th́ đi khác máy bay. Khi tới Seattle, mỗi người đi một ngả và từ đó tôi không biết tin ǵ về Nhung đen nữa.

    Quốc lác. Trại chỉ có ḿnh anh tên Quốc nhưng anh bị lác đầy người cho nên bọn tôi thêm cho anh chữ lác nữa. Quốc lác ở cùng buồng với tôi một thời gian khá lâu và cũng được thả cùng đợt với tôi. Quốc lác về Sài G̣n, đi bán bánh kẹo rong. Được ít lâu th́ nghe tin Quốc lác đă chết v́ bệnh bao tử. Tôi cũng có nhiều chuyện để nói về Quốc lác nhưng anh đă ra đi, hăy để anh an nghỉ.

    Một người có biệt danh “heo” mà tôi đă kể trước đây, cứ gọi anh ta là X heo cho tiện. Trong trại không có ai trùng tên nhưng v́ X đă hành lạc với heo cái cho nên mới có tên “heo” là vậy.

    Tên Thái th́ có Thái Nguyễn để phân biệt với Thái Hồ. Hai người này chẳng có ǵ đặc biệt cho nên các bạn tù đă dùng tên họ của mỗi người kèm theo tên gọi. Tôi - Nguyễn Văn Thái được gọi là Thái Nguyễn; Hồ Đắc Thái được gọi là Thái Hồ. Anh Thái Hồ đă chết khi vượt biển trong vịnh Thái Lan.

    Người mang tên Tài chỉ có một nhưng vẫn có biệt danh. Đó là anh Vơ Tấn Tài. V́ vóc dáng Tài nhỏ thó cho nên được ghép thêm chữ quắt thành ra Tài quắt. Tài quắt tuy nhỏ con nhưng không ai ăn hiếp được anh. Có lần làm trong đội nhà bếp anh bị xử ức, anh đă vác dao rượt anh TCT chạy có cờ (*). Và có lần, nửa đêm Tài và Trần Hữu Thành vào nhà cầu chịt cổ đội trưởng Trần Duy Phố để dằn mặt hắn. Hai chuyện này tôi đă nói trước đây, xin miễn lặp lại chi tiết. Khi chúng tôi được thả, Tài quắt hay đạp xe xuống nhà tôi hàn huyên tâm sự; có khi Tài đi một ḿnh, có khi đi cùng vài người bạn khác nữa. Tài sang Mỹ trước tôi hơn một năm theo danh sách H.03. Hiện giờ Tài ở Houston, Texas.

    (*) Giải thích thêm cho các bạn trẻ: “Chạy có cờ” là một thành ngữ. Ngày xưa, Việt Nam chưa có xe hơi hoặc máy bay cho nên con ngựa được dùng làm phương tiện chính để đi lại. Việc chuyển thư từ (chủ yếu là lệnh của nhà vua) tới các quận huyện đều phải dùng ngựa. Người ta đặt ra những trạm ở dọc đường cái (đường chính) để nhận hoặc đưa thư (bây giờ gọi là trạm bưu điện). Những trạm này thường đặt cách xa nhau một quăng đường đủ để cho con ngựa chạy mà chưa bị thấm mệt. Người đưa thư (lệnh vua) cưỡi ngựa, chạy từ trạm của ḿnh tới trạm kế tiếp, trao thư cho họ rồi trở về trạm của ḿnh. Người ở trạm kế tiếp đó nhận thư (lệnh vua) và có nhiệm vụ chạy đi trao thư cho trạm kế tiếp nữa, rồi lại trở về trạm của ḿnh. Công việc chuyển thư cứ thế tiếp diễn cho đến khi nào thư (lệnh vua) tới tay người nhận mới thôi.

    Để cho việc chuyển thư được nhanh chóng, người đưa thư có quyền ưu tiên di chuyển dọc đường. Muốn cho mọi người ở dọc đường nhận biết ai là người đưa thư để mà nhường đường, người ta qui định rằng người đưa thư phải cắm trên mũ (nón) của ḿnh một cái lông của con chim công để làm cờ hiệu. Việc này cũng giống như ngày nay các xe cứu thương hú c̣i inh ỏi khi đang chở nạn nhân tới bệnh viện. Người đưa thư, khi đă cắm lông công trên mũ (nón) th́ phải phóng ngựa chạy gấp rút, chứ không được phép chạy chậm. V́ thế mới có thành ngữ “chạy như cờ lông công”.

    Nhiều địa phương không có nhiều lông công, họ dùng miếng vải nhỏ làm cờ, cắm trên mũ (nón) trong lúc chạy đưa thư. V́ thế mới có thành ngữ “chạy có cờ”. Cả hai thành ngữ này có cùng ư nghĩa là chạy một cách lẹ làng và vội vă.


    Trí. Có hai người mang tên Trí nhưng chỉ một người có biệt danh. Đó là anh Trí đù. Có lẽ trong đời anh Trí đă từng có lần bị sốc (choáng) chi đó cho nên hơi có vẻ tâm thần. Dáng người Trí đù cũng nhỏ bé như Vơ Tấn Tài nhưng chậm chạp hơn Tài. Nếu xét về chỉ số IQ th́ Trí phải ở dưới mức trung b́nh rất xa. V́ thế Trí đù rất thích hợp với vai tṛ dùng để sai vặt trong Ban Văn Hoá của trại. Cái tên “Trí đù” nảy sinh trong một trường hợp như sau: Có một lần Trí đù phụ giúp cho cán bộ của trại phát bưu phẩm, khi gặp gói bưu phẩm mang tên Trí, anh gọi hoài không có ai lên tiếng, anh bực quá, lẩm bẩm một ḿnh, “Đù má! thằng nào tên Trí mà không thèm lên nhận quà vậy.” Vài người đứng gần nghe vậy bèn bảo Trí, “Mày coi lại xem có phải đúng tên mày không.” Trí làm y lời, và thấy đó đúng là gói quà của ḿnh, Trí vội mang gói quà ra cho cán bộ khám quà. Từ ngày đó, chữ “đù” được dính liền với chữ Trí. Cũng có người giải thích rằng, v́ “Thằng Trí nó lù đà lù đù cho nên nó có biệt danh là ĐÙ.” Thôi th́ giải thích cách nào, chữ ĐÙ cũng đă trở thành biệt danh của Trí rồi. C̣n anh Trí thứ hai th́ tôi không ở chung cho nên không rơ lắm. Tôi nghe anh Trần Thái Đẹp cho biết rằng anh Trí này là dân Biệt Động Quân, rất ít nói và rất có tư cách nhưng ai mà lạng quạng đụng tới anh là không được đâu nghe.

    Thuận. Có ba người mang tên Thuận. Người thứ nhất là Đàm Quang Thuận, không có biệt danh. Anh là giáo sư Anh Văn của London School (Phú Nhuận). Có thời anh đă làm Tổng Thư Kư Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Tính t́nh anh điềm đạm và rất tư cách. Anh thường vui vẻ chỉ dẫn cho tôi những chữ tiếng Anh nào mà tôi không hiểu. Anh không có vợ con nhưng có lần anh được mấy tín hữu Tin Lành ra thăm và đem cho anh một bị cói (đệm/lát) đồ ăn trong đó gồm có mấy chục hột vịt luộc. Anh đem chia cho mỗi người trong buồng một quả trứng vịt và thêm chút ít đồ ăn khác nữa. Tôi không ở cùng buồng với anh mà chỉ nghe một người ở buồng anh kể lại. Tôi thuật chuyện này ra đây, nếu bạn nào ở cùng buồng với anh Thuận mà thấy tôi nói sai chỗ nào th́ xin vui ḷng đính chính dùm cho. Ngược lại, có một vị thiếu tá tên V., là Tiểu Khu Phó của một tiểu khu, khi vợ ông ra thăm nuôi, tiếp tế cho chồng hơn hai tạ (hơn 200 kg / 440 pounds) đồ ăn; ông đem về pḥng cất kỹ để ăn dần. Thậm chí ông c̣n khắt khe với chính bản thân ông: Ông không dám ăn hết một viên kẹo một lần đâu, ông dùng một hộp nhựa (giống như loại đựng thuốc viên của pharmacy) để đựng một viên kẹo trong đó, thỉnh thoảng ông lấy viên kẹo ra mút mút một tí rồi lại bỏ viên kẹo vào hộp để dành cho lần sau mút tiếp. Buồng tôi và buồng của ông chỉ cách nhau một cái sân đất (mà cũng là lối đi), v́ thế mỗi buổi chiều, trong lúc cơm nước xong xuôi, chờ giờ vào “chuồng”, tôi thấy ông thường đi bách bộ, tay cầm chuỗi tràng hạt, miệng th́ lẩm bẩm đọc kinh. Tôi tự hỏi không biết khi ông đọc kinh như thế ông có nhớ đến một lời răn “Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc” không nhỉ? Giữ đạo bằng môi bằng mép th́ dễ nhưng sống đạo th́ khó quá!

    Anh Thuận thứ hai là thiếu tá Pháo Binh (không nhớ tên họ), được gọi là Thuận “kiến càng”. Anh có biệt danh kiến càng là v́ thời Đệ Nhất Cộng Hoà (Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm) có phong trào tập thể dục thẩm mỹ, do lực sĩ Nguyễn Công Án (ở Pháp về) khởi xướng, anh Thuận đă theo học thể dục thẩm mỹ và anh là một thành viên trong ban “Kiến Càng” thời đó. Vóc dáng anh cao lớn và mặc dù đă trải qua 5 năm tù cộng sản, anh vẫn chưa mất hẳn cái nét “kiến càng” của anh. Thuận kiến càng đă từng làm đội trưởng một đội tù trước khi được trại Vĩnh Quang B chọn làm “Trật Tự”. Công việc của một “Trật Tự” là trông coi mọi hoạt động của tù trong phạm vi của trại để duy tŕ trật tự. Hàng ngày Thuận kiến càng đứng ở cổng trại chờ cho các đội xuất trại đi làm xong th́ trở về đi ṿng ṿng trong trại kiểm soát đó đây. Chiều, tới giờ các đội đi làm về th́ Thuận kiến càng lại ra cổng để khám xét từng người xem có dấu củ khoai, củ sắn ǵ trong người họ không, xong mới cho đội vào trại. Tôi không ở chung buồng với anh Thuận kiến càng cho nên không biết nhiều về anh. Tuy nhiên với những ǵ mà tôi đă chứng kiến th́ tôi thấy Thuận kiến càng có vẻ hăng hái/thích kiếm điểm với bọn cán bộ trại để bảo vệ cái chân “Trật Tự” của ḿnh.

    Người thứ ba là Đinh Văn Thuận (khoá 20 Vơ Bị Đà Lạt). Dáng người anh hơi thiếu thước tấc nhưng đầy đặn. Tóc anh luôn luôn cắt kiểu ca-rê/bốc, giống như hồi c̣n ở quân trường, phần tóc dài nhất không quá 3 phân (hơn 1 inch). V́ thế anh có biệt danh là Đinh “ba phân”, một sự kết hợp giữa họ Đinh và kiểu tóc của anh. Đinh ba phân cũng đă từng làm đội trưởng một đội tù hồi c̣n ở Trại 5 (Thác Bà). Tôi không ở đội của Đinh ba phân nhưng chưa hề nghe ai (trong đội của anh) than phiền về anh – đó là một điểm son cho Đinh ba phân. Gia đ́nh tôi và gia đ́nh Đinh ba phân cùng tới Trại Chuyển Tiếp ở Thái Lan ngày 19/6/1991. Ngày 25/6/1991, chúng tôi cùng tới Hoa Kỳ nhưng không nhớ rơ anh có đi cùng một máy bay với tôi hay không.

    Vượng sún là biệt danh của Nguyễn Văn Vượng, khoá 16 Thủ Đức. Trại Vĩnh Quang B không có hai Vượng nhưng Vượng vẫn có biệt danh là sún v́ anh có cái răng cửa bị gẫy. Vượng sún vui tính, xuề xoà, sao cũng được. Có lẽ v́ vậy bạn bè thêm chữ “sún” vào tên để gọi cho có vẻ thân mật mà thôi. Đôi khi bạn bè không cần gọi tên mà chỉ gọi Vượng bằng biệt danh “Sún” thôi. Ví dụ như: “Ê Sún! bắn một bi (thuốc lào) cho quên đời.” Vượng sún cao lớn nhưng v́ thiếu ăn (Trong tù ai mà no được?) nên không được cân đối cho lắm. Thêm vào đó là Vượng sún rất lười cho nên áp dụng câu “Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” cho Vượng th́ cũng chẳng sai tí nào. Để khoả lấp cái lười, Vượng rất khéo nói - mồm miệng đỡ chân tay mà. Nhờ vậy mà Vượng chưa bao giờ bị đội trưởng, cán bộ quản giáo lưu ư v́ chây lười lao động cả. Ai muốn nhờ vả ai điều ǵ, chỉ cần nhờ cái miệng lưỡi Tô Tần của Vượng là có thể tin tưởng thành công đến 90%. Có lần, khi ở trại Nam Hà A, tôi đánh lộn (sẽ kể sau), bị đau lưng, Vượng chạy sang gặp Đại Tá Phạm Bá Hoa, xin cho tôi được một mẩu mật gấu, nhờ vậy mà tôi hết đau liền. Vượng sún và tôi c̣n nhiều kỷ niệm, tôi sẽ kể dần dần. Vượng sún hiện đang ở Cali với vợ và một thằng con trai. Vượng ơi, kể chuyện bạn xin mật gấu cho tôi ở đây cũng là một h́nh thức cám ơn thiện chí của bạn đă dành cho tôi, chúc bạn và gia đ́nh luôn hạnh phúc nhé.
    Câu chuyện về các biệt danh tới đây là hết v́ tôi không thể nhớ thêm được ai nữa.

    (c̣n tiếp)

  8. #28
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.19. Lá thư Mỹ quốc

    Có lẽ chỉ có anh H. và tôi là hai người đă được đọc lá thư gửi từ Mỹ cho một người bạn của chúng tôi. Trong bài này, tôi mă hoá tên của các nhân vật trong truyện: X là tên người bạn tù, Y là tên vợ của X, và Z là tên người t́nh của X.

    Anh X là một trong những người có bưu phẩm trong vài đợt đầu tiên của trại. Hôm đó tôi cũng có tên trong danh sách nhận bưu phẩm cùng với X. Sau khi bưu phẩm đă được khám xét, hai chúng tôi ngồi ngay tại hội trường (nơi phát bưu phẩm) để sắp xếp mấy món ăn mà gia đ́nh gửi cho. Trong bưu phẩm của X có kèm theo một lá thư của vợ X gửi về từ Mỹ. X đọc xong, tôi hỏi có ǵ vui không. X không trả lời mà đưa cho tôi cả lá thư, bảo, “Ông đọc đi th́ biết.” V́ thời gian đă hơn 29 năm rồi (2008-1979) nên tôi không nhớ hết nội dung lá thư, mà chỉ nhớ mấy nét chính. Thư như sau:

    Anh X
    …Tôi viết thư này cho anh trong khi các con đang ngủ. Những năm tháng sống tha hương thật là vất vả, tôi vừa phải bươn chải kiếm sống vừa phải học thêm tiếng Anh để dễ dàng hội nhập với xă hội ở bên này… Ngồi một ḿnh trong căn nhà này, tôi cảm thấy thật là cô đơn và trống vắng, tôi sợ quá! Nghĩ đến việc phải lo cho các con ăn học làm tôi lo lắng vô cùng: Một trách nhiệm nặng nề đang đè lên vai tôi! v.v... Chúc anh luôn khỏe mạnh

    Chào anh,
    Nguyễn Thị Y



    Đọc xong lá thư, tôi có một ư nghĩ rằng nếu tôi lượm được nó ở đâu đó th́ tôi không thể tưởng tượng đó là một lá thư của người vợ viết cho chồng ḿnh sau 5 năm xa cách. Lối xưng hô “anh – tôi” nghe thật chơi tai trong khi tuổi đời của Y chưa tới 40. Không thấy có một lời lẽ ǵ để tỏ ḷng thương yêu, nhung nhớ. Lẽ ra phải là “Anh yêu quí của em”, “Honey”, “Ḿnh ơi”…, th́ lại có vỏn vẹn hai chữ “Anh X”. Phần kết thư thay v́ phải viết “Thương nhớ anh nhiều”, “Yêu anh nhiều”…, th́ chỉ có hai chữ “Chào anh” cứng cỏi và lạnh lùng đến tàn nhẫn!

    Tôi biết chắc X là người nhận ra điều này trước tiên bởi v́ X hẳn chưa quên được lối xưng hô thường ngày khi hai vợ chồng c̣n chung sống dưới một mái ấm gia đ́nh. Tôi có linh cảm lá thư này là khúc nhạc dạo đầu cho một bản “Tuyệt t́nh ca” nhưng tôi không dám tỏ lộ cho X biết. Và từ sau bức thư, tôi cũng không bao giờ nhắc đến vợ con của X, sợ rằng sẽ gợi lên cho X một nỗi buồn đang ẩn núp đâu đó trong ḷng anh.

    Tôi được thả ra tháng 8 năm 1984, sau một vài ngày bận rộn với gia đ́nh, tôi sực nhớ đến chuyện của X. Tôi hỏi vợ tôi về chị Y mà tôi được biết (do X kể) là hai người cùng ở một giáo xứ trước khi bà xă tôi đi lấy chồng. Bà xă tôi nói rằng, “Thế th́ đúng là Y đó rồi, nó chịu chơi lắm! Hồi c̣n ở trong đoàn Nghĩa Binh (?) mà nó đă đi nhảy nhót tùm lum. Nó c̣n nhiều lần dụ em đi với nó cho vui nhưng em không đi. Chẳng hiểu sau này chồng con nó ra sao?” Tôi cho bà xă tôi biết là chồng của Y ở tù chung với tôi và tôi đă được đọc lá thư mà Y viết cho chồng. Vợ tôi bèn nói, “Thế là hỏng rồi, ngựa quen đường cũ mà, làm sao mà nó chịu ở yên trong một xă hội quá tự do như vậy?” Nghe bà xă nói vậy, tôi nghĩ rằng cái linh cảm của tôi khi đọc lá thư có thể đă đúng được 90% rồi. Hăy đợi xem sao.

    Chừng một tháng sau ngày ra tù, vợ chồng tôi có ghé thăm X (lúc này đang ở nhà bố mẹ vợ). X đang ngồi học tiếng Anh ở trên lầu và cũng tiếp vợ chồng tôi ở đó luôn. X cho biết là đang chuẩn bị để vượt biển. V́ có mặt vợ tôi cho nên tôi không đề cập ǵ đến Y cả. Bẵng đi được ít lâu th́ tôi được tin rằng X vượt biển đă thành công và đang chờ được phỏng vấn để đi Mỹ.

    Tôi sang Mỹ giữa năm 1991. Sau một thời gian ổn định công việc làm ăn, tôi t́m cách bắt liên lạc với những người đă sang Mỹ trước tôi. Tôi đă liên lạc được với một số bạn cũ nhưng vẫn c̣n thiếu nhiều người, trong đó có X. Mới năm ngoái (2007), tôi may mắn có được số điện thoại của X. Chúng tôi đă chuyện tṛ mệt nghỉ. Qua giọng nói, tôi thấy X nói cười có vẻ sảng khoái lắm nên tôi đă mạnh dạn hỏi thẳng X về chuyện gia đ́nh. Sau đây là tóm tắt đại khái lời kể của X:

    Tôi sang Mỹ do bà Y bảo lănh. Bà ấy và mấy đứa con ra phi trường đón tôi và đưa tôi về nhà. Nhưng ông biết không? Bà ấy cứ một đêm ở nhà với tôi th́ lại một đêm đi ngủ nơi khác! Chưa hết đâu, tuần lễ đầu, bà ấy cho ḿnh ngủ cùng giường. Sang tuần lễ thứ hai, bà ấy cho tôi ra ngủ ở sô pha. Tệ hơn nữa là sang đến tháng thứ hai th́ tôi phải ra ngủ ngoài ga-ra! Tôi thấy sống kiểu này đếch khá được cho nên tôi dọn ra ngoài, ở chung pḥng với một người nữa, ở như vậy mà thoải mái hơn nhiều. Thế rồi một ít lâu sau, tôi gặp bà Z, bà này vẫn c̣n độc thân, và dần dần hai đứa yêu nhau rồi mướn pḥng ở chung với nhau. Hai đứa sống với nhau như vợ chồng thật (nhưng không “trước mặt Đức Chúa Trời” đâu nhé). Bà Z đă tốt nghiệp đại học trước khi qua Mỹ nên rất lịch sự. Bà ấy chăm sóc tôi từng ly từng tí, c̣n hơn mẹ tôi chăm sóc cho tôi nữa. Sống với nhau được mấy năm, t́nh vẫn nồng duyên vẫn thắm nhưng tôi (cũng như bà ấy) đều cảm thấy có ǵ bất an trong ḷng. Hai đứa bàn với nhau là nên chấm dứt t́nh trạng chung sống như hiện nay. Hai đứa thực hiện từ từ bằng cách không nằm chung giường với nhau, nếu thấy ổn th́ sẽ tiến thêm bằng cách thuê pḥng ở riêng. Nhưng không được ông ạ, “mỡ để miệng mèo” th́ dù mèo cái hay mèo đực cũng chịu không thấu, phải nhào vô thôi…Hai đứa bàn với nhau là phải cầu nguyện – xin Chúa nhúng tay vào giúp tụi con, chứ tụi con đă làm hết sức ḿnh rồi mà không thành công. Thế rồi Chúa nhúng tay vào thiệt ông ạ…

    Tự nhiên, bà Y đi vận động những người quen thân với tôi, nhờ họ thuyết phục tôi trở về sống với bà ấy. Tôi nghĩ đúng là Chúa đă giúp bằng cách hoán cải ḷng bà ấy cho nên mới có sự việc lạ như vậy. Việc Chúa làm th́ con xin tuân theo. Tôi đồng ư là sẽ thu xếp trở về. Bà Z th́ ra điều kiện với tôi rằng bà chỉ đồng ư chia tay với tôi để tôi về sống với bà Y, nếu tôi sống với ai khác là không được đâu.

    Tôi về sống với bà Y được ít tháng th́ bà Y lại trở chứng, vẫn chứng nào tật nấy. Tôi giận quá bèn t́m cách trở lại với người t́nh Z của tôi nhưng bà ấy đă đi biệt tăm, sau này biết được là bà Z đă về một thành phố khác cách chỗ tôi ở chừng 7 giờ lái xe. Tôi cũng không gọi điện thoại cho bà Z được v́ bà ấy đă đổi số điện thoại. Điều đó chứng tỏ rằng bà Z đă thực t́nh dứt khoát. Nhưng tôi cũng không thể tiếp tục ở với bà Y được nữa, tôi lại đi mướn nhà riêng để ở. Tuy ở riêng nhưng chúng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp nhau trong những dịp lễ tết, lễ ra trường, và sinh nhật của các con tôi…

    Sống như vậy được mấy năm th́ một hôm gặp tôi, bà Y cho biết là bà đă làm thêm một căn pḥng dành riêng cho tôi v́ muốn tôi về ở chung nhà. V́ nghĩ đến các con cho nên tôi đồng ư là sẽ trở về. Lần này trở về th́ nó khác với lần trước, nghĩa là mỗi người ở riêng một pḥng, cơm ai người ấy ăn, việc ai người ấy làm, không ai để ư ǵ đến chuyện của nhau. Tôi nấu nướng riêng cho tôi, thỉnh thoảng vợ chồng đứa con (cũng ở cùng nhà) có món ǵ ngon th́ đem cho tôi một ít. Hoạ hoằn lắm th́ bà Y cũng đem sang cho tôi tô canh…Năm nào bà Y cũng về Việt Nam chơi chừng ba tháng. Tôi cũng chẳng cần biết bà ấy làm ǵ ở bên ấy. Bây giờ đă nghỉ hưu, công việc của tôi là coi con cho vợ chồng thằng con, thế thôi, cũng khoẻ…


    Tôi giỡn với X:
    - Thế những lúc “thằng nhỏ” có ư kiến th́ bồ nhờ “chị năm” giải đáp thắc mắc à?

    X cười thoải mái:
    - Bút hết mực mẹ nó rồi, c̣n ư kiến ư c̣ ǵ được nữa!

    Tôi chọc thêm:

    - Cấp số mỗi người được có một gallon mực mà bồ không biết
    tằn tiện, cứ xài vung vít, bạ đâu viết đó, viết không kịp thở th́
    hết sớm là phải rồi c̣n than văn ǵ nữa. Cứ như mỗ đây, biết
    tiết kiệm mực viết tối đa cho nên vẫn c̣n khá lắm. Ông đồ già
    của Vũ Đ́nh Liên chỉ múa bút “mỗi năm hoa đào nở”, c̣n mỗ
    th́ mỗi tuần vài ba lần múa bút mà nét chữ vẫn “như phượng
    múa rồng bay” cho nên luôn luôn được “cô giáo” cho điểm
    xuất sắc. Đôi khi “cô giáo” mệt không chấm bài kịp, phải cho
    mỗ cái raincheck đấy…, nể chưa ?

    Thấy điện thoại đă gần hết phút, tôi hẹn X lần sau nói chuyện
    tiếp rồi cúp máy.


    5.20. Đi khiêng mật mía

    Có một năm trại Vĩnh Quang B trồng mía khá nhiều. Mía trồng ở đây không đủ mầu mỡ nên cây mía rất nhỏ và ngắn so với mía ở Miền Nam. Đến mùa thu hoạch, trại cho khiêng về một ít đủ để chia cho mỗi người một cây. Số mía c̣n lại th́ được để ngay tại ruộng mía để ép thành mật. Trại mượn ở đâu được một cái máy ép mía, dùng trâu để kéo máy ép. Nước mía lấy ra được nấu lên thành mật ngay tại chỗ và chứa vào những thùng kẽm (loại thùng 20 lít/5 gallons đựng dầu hôi). Công việc làm mật mía xong th́ số mật này được đem về cất trong kho của trại nhưng tôi chưa hề thấy trại cho chúng tôi ăn bao giờ. Việc ép mía và làm mật được giao cho mấy người tù h́nh sự phụ trách v́ họ được trại tin tưởng, không sợ họ trốn trại trong lúc làm việc cách xa trại. Việc khiêng mật về trại th́ chúng tôi đảm trách.

    Đội tôi được may mắn chọn đi khiêng mật mía. Cứ hai người thành một cặp để khiêng một thùng mật. Chúng tôi không ai bảo ai mà người nào cũng chuẩn bị sẵn một cái muỗng ở trong túi (để múc mật). Trong khi khiêng th́ chỉ người đi sau mới có cơ hội dùng muỗng thọc vào thùng để múc mật. Người đi sau phải kéo thùng mật gần với tầm tay của ḿnh, do đó phải chịu sức nặng của thùng mật nhiều hơn. Bây giờ th́ hết cảm thấy nặng mà trái lại, c̣n thấy sảng khoái là khác. Muốn được ăn th́ phải chịu nặng chứ sao. V́ thế, tôi và anh Nguyễn Văn Diện (đă chết sau khi đến định cư tại Mỹ) thay phiên nhau, mỗi người đi sau một quăng. Và, có lẽ các cặp khác cũng làm như vậy. Cùng một quăng đường dài nhưng có người ăn được nhiều, có người ăn được ít tùy theo t́nh h́nh. Những cặp nào không may bị tên công an bảo vệ đi sát bên th́ khó ăn hơn. Hậu quả chuyến khiêng mật mía đó là hầu hết chúng tôi bị đi tiêu chảy. Cơ thể lâu ngày không có chất ngọt mà tự nhiên lại phải tiêu thụ một số đường quá nhiều th́ tránh sao khỏi tiêu chảy. Tôi nhớ người bị nặng nhất là anh Đ. cố đạo (không phải Đồng cố đạo đâu). Đúng là cái miệng làm hại cái thân, Đ. cố đạo sau cái vụ tiêu chảy này chắc phải tởn đến già?

    Nói đến tiêu chảy, tôi lại nhớ tới anh Hậu (không nhớ họ). Anh Hậu là đội trưởng của một đội ở cùng buồng với đội tôi. Một buồng chứa được hai đội, mỗi đội 30 người. Anh Hậu cũng rất khéo trong khi giữ chức đội trưởng, không ai có thể ghét anh được. Hậu cũng như Thiện (đội trưởng đội tôi) đều có mánh để qua mặt mấy tên quản giáo dốt nát. Lúc nào đội của hai người cũng đạt và vượt chỉ tiêu, “Làm láo báo cáo hay” là vậy.

    Một hôm tôi bị tiêu chảy v́ ăn đậu phọng sống mà lại uống nước nóng. Hậu thấy tôi ra vào nhà cầu nhiều lần (v́ tôi nằm đối diện với Hậu), anh lấy thuốc tiêu chảy của anh, tới kín đáo dúi vào tay tôi và nói nhỏ “Uống đi”. Tôi biết ngay đó là thuốc ǵ và cho ngay vào miệng uống liền. Nhờ vậy mà tôi hết tiêu chảy. Năm 1988 (?), tôi và anh Phạm Dư Chất có ghé nhà Hậu ở xă An Nhơn, G̣ Vấp. Chúng tôi tới gặp lúc hai cha con anh Hậu đang chăm bón hoa ở vườn sau. Phía sau nhà Hậu là một khu vườn tương đối rộng. Sau khi ra tù, Hậu dùng khu vườn này trồng hoa để cung cấp cho Sài G̣n. Cuộc sống của gia đ́nh Hậu có vẻ sung túc lắm v́ hoa của anh không đủ cung cấp cho khách hàng. Nghe nói Hậu không đi Mỹ mà chấp nhận cuộc sống hiện có của anh. Tôi luôn mong rằng anh và gia đ́nh có một cuộc sống tốt đẹp và tôi sẽ c̣n nhớ măi nghĩa cử của anh.


    5.21. Ăn khoai lang

    Ăn sống.
    Đến mùa thu hoạch khoai lang th́ chúng tôi lại có dịp ăn khoai lang sống. Trước khi đi đào khoai, tôi và một số anh có máu kiếm ăn linh tinh đều chuẩn bị sẵn một cái khăn ướt để khi hữu sự th́ dùng khăn ướt lau sạch đất ngoài củ khoai mà ăn. Lần đầu chưa có kinh nghiệm, tôi ăn hết cả vỏ nên bị một trận đau bụng kinh khủng. Củ khoai vừa bới lên, trong lớp b́ (dưới lớp vỏ mỏng) có rất nhiều nhựa, trông giống như mủ cây cao su. Chính cái nhựa này là nguyên nhân làm cho đau bụng. Biết thế, ngày hôm sau, tôi cạp bỏ hẳn lớp b́ khoai lang, mà chỉ ăn phần thịt củ khoai th́ không bị đau bụng nữa.

    Ăn luộc.
    Sau khi thu hoạch khoai lang về trại th́ chúng tôi cũng là người tiêu thụ khoai lang cho trại. Thay v́ ăn cơm, bây giờ chúng tôi phải ăn khoai lang thay cơm. Bữa đầu tiên, ăn khoai lang thấy dễ ăn hơn sắn (khoai ḿ) nhưng sang đến ngày thứ hai th́ hết chịu nổi mặc dù trong bụng vẫn đói. Khoai lang làm cho ḿnh cảm thấy đầy hơi ở phần dạ dầy và nhất là ở phần cổ họng th́ cảm thấy nóng hơn. Chúng tôi phải kiếm bất cứ thứ rau/cỏ ǵ có thể ăn được mà ăn cho bớt cảm giác nóng đó. Ai cũng mong sao cho trại chóng hết khoai lang để c̣n được ăn thứ khác.


    5.22. Mùa thu hoạch

    Trại Vĩnh Quang B trồng ba loại hoa mầu chính, gồm có khoai lang, sắn (khoai ḿ), và lạc (đậu phọng). Mùa thu hoạch ba loại này không xảy ra cùng một lúc, mà chúng xen kẽ nhau. Tháng này thu hoạch khoai lang th́ tháng khác đi đào sắn hoặc nhổ đậu phọng. V́ thế tù cũng có những dịp để kiếm chác đồ ăn linh tinh. Không những thế, mà người dân trong vùng cũng có dịp ăn ké bằng cách rủ nhau đi mót (lượm lặt những cái c̣n sót lại).

    Phải công nhận mạng lưới “t́nh báo nhân dân” ở đây rất hay. Họ biết rơ ngày nào chúng tôi đi thu hoạch cho nên họ thường đến nơi cùng lúc hoặc chỉ chậm hơn ít phút mà thôi. Trường học cũng đóng cửa để cả cô giáo và học tṛ vác cuốc đi mót. Gọi là trường cho nó oai, chứ thực ra chỉ có một hai gian nhà lá, tường vách trống trơn. Học tṛ th́ cỡ tuổi chỉ từ 7 đến 10 mà thôi, và cũng chẳng đông, lèo tèo vài chục đứa, đúng là “Học tṛ dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” (Thơ của Cao Bá Quát). Buổi sáng, trên đường đi làm, chúng tôi thường gặp những đứa học tṛ một tay cầm một quyển vở đă nhầu nát, hoặc đứa nào sang th́ có cái bị cói để đựng quyển vở; tay kia th́ giữ cái cán cuốc đang vác trên vai. Nh́n cái cuốc của tụi nó mà thấy nản, đó là cái cuốc mà người lớn đă dùng (chắc hẳn phải vài chục năm rồi). Lưỡi cuốc ṃn gần sát với chỗ xỏ cán cuốc, bề rộng toàn bộ mặt cuốc chỉ chưa bằng bàn tay người lớn. Đôi khi chúng c̣n đeo theo một bó hom sắn (chắc là để tới trường “trồng cây nhớ ơn bác” đấy!). Hôm nào đi mót sắn/khoai th́ không thấy có vở, mà có một cái rổ để đựng chiến lợi phẩm.

    Đoàn quân đi mót phân tán đều theo từng nhóm chúng tôi. Mỗi khi chúng tôi đào xong một luống hoặc một khu đất, chúng nhào tới đào bới tiếp kiếm ăn. Bọn tôi thấy mấy đứa nhỏ ốm nheo ốm nhách hoặc những bà già lưng c̣ng th́ thương hại. Chúng tôi thường bỏ sẵn năm mười củ khoai/sắn rồi lấy thân và lá cây (vừa nhổ) phủ lên trên, sau đó liếc mắt thấy đứa nào đứng gần đó th́ làm bộ vơ mấy đám cây sắn/giây lang đi gần tới đứa bé và bảo nó “Cháu tới chỗ nào mà chú bỏ mấy cái cây này, ở dưới có sắn đấy.” Việc làm này cũng phải kín đáo v́ nếu tên công an bảo vệ mà thấy được th́ có thể mang vạ vào thân. Cứ thế, dần dần cả đám đi mót đều có “chiến lợi phẩm”, chỉ khác một điều là kẻ có trước người có sau, mà ưu tiên dành cho mấy đứa trẻ ốm yếu và những bà già.

    Chúng tôi làm như vậy có hai cái lợi. Cái lợi trước mắt mà chúng tôi thấy được là chúng tôi đỡ phải khiêng nặng về trại. Dù ḿnh có thu hoạch nhiều đến cỡ nào th́ tiêu chuẩn ăn vẫn cứ vậy mà thôi, ngu ǵ mà làm cho nhiều, khiêng cho nặng. C̣n cái lợi thứ hai mà măi sau này chúng tôi mới nghiệm ra là thái độ và t́nh cảm của người dân đối với chúng tôi đă trở nên tốt hơn. Họ đă từng bị guồng máy tuyên truyền của Việt Cộng nhồi nhét vào đầu họ những ư nghĩ xấu về những người như chúng tôi, nào là bọn ác ôn côn đồ, nào là bọn Việt Gian bán nước, nào là bọn chuyên hăm hiếp đàn bà con gái, nào là bọn ăn gan uống máu người ta v.v…Bây giờ đối mặt với chúng tôi, họ không thấy chúng tôi ăn nói tục tằn thô lỗ, mà c̣n thấy chúng tôi có những cử chỉ thương người như cho họ những cái mà họ đang cần trong khả năng của chúng tôi. Một vài người trong chúng tôi đôi khi có dịp đi lao động riêng lẻ mà gặp lúc họ có thân nhân đang đau yếu th́ hôm sau đem tới cho họ một vài viên Aspirine hoặc Peniciline tùy theo bệnh… th́ họ mừng lắm v́ thuốc của “bọn Mỹ Ngụy” ăn đứt mấy viên xuyên tâm liên của “nhà nước ta”.

    Việt Cộng đă mất mấy chục năm và tốn bao nhiêu tiền của để tuyên truyền nói xấu người và chế độ Miền Nam. Chúng tôi chỉ mất vài ba mùa thu hoạch và mấy củ khoai/củ sắn (của chùa) là đă hóa giải được món đ̣n tuyên truyền của chúng.

    Nhân chuyện thu hoạch, tôi nhớ có lần đi bới khoai lang mà tôi là người may mắn nhất. Vài ngày trước khi đi bới khoai lang, trời mưa lớn khiến cho các luống lang đều ướt và trở thành chỗ trú ẩn tốt của mấy chú ếch. Trước khi đào lang, tôi phải vén mấy dây lang sang một bên để cho dễ đào. Sau khi đào được mấy gốc, tôi định vén dây lang cho gốc kế tiếp nhưng vừa nhấc sợi dây lang lên th́ một con ếch to tổ chảng ngồi trong gốc lang, đang giương mắt nh́n tôi. Nói là “nh́n” chứ thực ra nó đâu có nh́n thấy ǵ bởi v́ hôm đó trời có nắng, ánh sáng mặt trời chiếu vào mắt nó, làm cho nó bị chóa mắt, không c̣n nh́n được nữa. Dựa vào đặc tính này mà người dân quê đi bắt ếch ban đêm bằng đèn, gọi là đi soi ếch. Họ dùng một cái đèn (nhiên liệu bằng khí đá/gió đá - Acetylene) có một cái chóa h́nh chóp nón bằng nhôm trắng để cho ánh sáng chiếu xa về phía trước. Họ cứ đi từ từ và rọi đèn vào những chỗ nào nghi ngờ có ếch; chú ếch gặp ánh đèn th́ coi như bị đui, mắt vẫn mở nhưng chẳng nh́n thấy ǵ. V́ thế mới có câu thành ngữ “Ngồi giương mắt ếch” để mô tả những người nh́n ai mà chẳng có phản ứng ǵ, chẳng có lấy một lời chào hỏi theo phép xă giao, ư nói là bất lịch sự, là vô lễ. Trở lại con ếch tôi vừa kể, tôi vội chụp nó, bẻ gị (cẳng) để cu cậu không thể nhảy được nữa, và bỏ vào lon gô của ḿnh. Con ếch này được coi như tương đương với số thịt heo chia cho một người tù trong ngày trại giết heo đấy; nó choán hết ½ lon gô chứ ít sao. Xong xuôi, tôi tiếp tục công việc bới lang. Khi sang tới luống lang thứ hai, dịp may lại đến với tôi lần nữa: Một chú ếch nữa cũng gần bằng chú ếch ban đầu đang giương mắt nh́n tôi, chờ nạp mạng. Tôi chụp lẹ và bỏ nó vào lon gô. Thế là hai con ếch nằm gọn gần đầy lon rồi. Ḷng mừng thầm v́ tôi và anh Lương Văn Quang bữa nay trúng mánh, cơ thể có thêm chất đạm rồi. Việc tôi bắt được ếch không qua khỏi mắt của quản giáo (tên Lưu) nhưng đây không phải là “cải thiện linh tinh” cho nên hắn không có lư do ǵ để hoạnh họe với tôi. Tuy nhiên, hắn không muốn người bắt được ếch là tôi v́ hắn sẵn có ác cảm với tôi. Khi ngồi nghỉ giải lao, có một anh bạn tới nói nhỏ với tôi rằng “Thằng Lưu khi thấy anh bắt được ếch, nó lẩm bẩm trong miệng, ‘Không biết có chia ai hay là lại ăn hết đấy?’”

    (c̣n tiếp)

  9. #29
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.23. “Gánh hát HLV”

    Trại Vĩnh Quang B có một nhà đại tư bản, tên là HLV. Vào những ngày nghỉ hoặc Chủ Nhật tôi luôn luôn phải chứng kiến cái hoạt cảnh diễn ra bởi nhóm của HLV mặc dù ḿnh không muốn.

    Dăy buồng ngủ của tôi và dăy buồng ngủ của anh HLV nằm song song với nhau, chỉ cách nhau một khoảng trống chừng 20 mét (hơn 60 ft), vừa là đường đi vừa là sân tập họp. Phía trước cửa buồng tôi nh́n qua sân bên kia là tường phía sau buồng của anh HLV. Vào buổi sáng th́ phía sau buồng HLV có bóng mát v́ mặt trời buổi sáng chiếu vào phía trước buồng của anh. Do đó gánh hát chọn phía sau buồng để diễn tuồng. Đứng ở trước cửa buồng, tôi có thể xem diễn tuồng miễn phí.

    Buổi sáng Chủ Nhật, sau khi được mở khoá ra khỏi buồng, mọi người lo công việc vệ sinh cá nhân rồi bắt đầu nấu nướng linh tinh tùy theo khả năng và hoàn cảnh từng người. Gánh hát cũng vậy, mấy anh “tà lọt” (xin lỗi các anh nghe) chuẩn bị sân khấu bằng cách trải ra một tấm nhựa rộng cỡ cái chiếu đôi (6 ft x 8 ft), người th́ lo quét dọn chung quanh sân khấu cho sạch sẽ, người th́ chuẩn bị ghế ngồi cho ông bầu HLV, người th́ lo nấu nướng đồ ăn. Ông bầu HLV áng chừng sân khấu đă sẵn sàng th́ thủng thỉnh đi ra sân khấu. Mặc dù ghế đă để sẵn nhưng anh Đ. Rè (Tên là Đ. và biệt danh là Rè) cũng phải dùng tay cầm vào cái ghế, kéo xích đi một chút như thể một động tác mời ông bầu ngồi. Ông bầu vừa an tọa th́ Đ. Rè lấy dẻ chùi, chùi cái điếu cho nó sạch sẽ sau đó nạp một bi thuốc lào vào điếu, xong, hai tay đưa điếu cho ông bầu. Khi điếu đă nằm gọn trong tay ông bầu th́ Đ. Rè vội rút bật lửa ở trong túi ra, bật lửa và châm lửa vào đóm rồi đưa đóm cho ông bầu “phi”. Ông bầu hít một hơi dài, nín hơi một chút rồi ngửa cổ lên từ từ nhả khói ra. Trong khi hai mắt lim dim mơ màng th́ tay cầm điếu của ông bầu hơi đưa ra một chút để cho Đ. Rè đỡ lấy điếu cất đi chờ “phi vụ” kế tiếp. Cứ mỗi lần ông bầu cần phi một điếu, ông bầu chỉ cần đưa tay hướng về cái điếu (không nói nha) là Đ. Rè biết ḿnh phải làm ǵ rồi. Khi mặt trời lên cao, có thể làm cho ông bầu nóng th́ mấy anh tà lọt lo căng tấm bạt để lấy bóng mát cho ông bầu.

    Tôi gọi HLV là ông bầu v́ nó đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Ông có cái bụng giống như thùng nước lèo. Ngày nóng bức, ông thường cởi trần, mặc quần xà lỏn trễ xuống dưới rốn, trông không khác ǵ mấy chú Ba Tầu Chợ Lớn. Mặt ông bầu hơi có vẻ hăm tài. Chưa khi nào tôi thấy ông nở một nụ cười với ai cả mặc dù cùng ở Vĩnh Quang B mấy năm trời. Tôi cũng ít thấy có ai đến với ông trong tính cách bạn bè cùng khóa, cùng binh chủng, hoặc cùng đơn vị. Có lẽ họ coi thường tư cách của ông hoặc tránh bị hiểu lầm là lân la tới để nhờ vả. C̣n đối với ông bầu th́ có lẽ ông nghĩ rằng ḿnh đă đầy đủ mọi thứ, đâu cần phải giao tiếp với ai cho mệt, dưới con mắt của ông th́ mọi người đều “chẳng là cái ǵ cả”.

    Gánh hát của ông vẫn sống hùng sống mạnh cho đến ngày chuyển trại, lớp th́ vô Nam, lớp th́ chuyển đi trại khác. Tôi nghĩ rằng cả ông bầu và những diễn viên đều hài ḷng với cách cư xử của nhau. Nếu một ai trong đám diễn viên không thích lối sống đó th́ chỉ việc “say bye-bye” là xong ngay. Ông bầu th́ nghĩ rằng ḿnh chẳng ǵ cũng cứu đói được mấy người “bạn tù, con bà phước,” lương tâm thấy yên ổn. C̣n đối với những diễn viên kia, họ đến với HLV hoàn toàn tự nguyện, có ai bắt buộc đâu, v́ thế không những họ rất vui vẻ mà c̣n biết ơn ông bầu là khác. Đối với những người bàng quan th́ thấy có cái ǵ chướng mắt quá, lẽ ra không nên làm như vậy. Người có của (HLV) chắc không bao giờ nhớ tới câu “Của cho không bằng cách cho.” Những người con bà phước th́ quên mất hai chữ liêm sỉ miễn là làm sao cho cái bao tử no là được. Biết đâu giờ này Đ. Rè đang làm hội trưởng một hội Tù Nhân Chính Trị nào đó, đời mà! Tuy nhiên phải công b́nh mà nói th́ HLV vẫn c̣n hơn cái ông thiếu tá “Tiểu Khu Phó” nọ. Quà thăm nuôi tính bằng tạ (100 kg/220 pounds) nhưng không ai được ông cho một cái ǵ!

    Trên đây tôi chỉ viết ra những ǵ tôi chứng kiến và nói lên những suy nghĩ với nhiều tính chủ quan. Chỉ những người đă ở cùng buồng với HLV mới biết nhiều sự thực mà thôi.


    5.24. Súng vẫn chưa rỉ

    Khi đi lao động ở ngoài trại, tới giờ nghỉ giải lao, bọn tôi thường hay ngồi xúm lại quanh bếp lửa (chỗ dùng để nấu nước uống cho đội) để hút thuốc lào và tán gẫu. Một hôm, có người đưa ra một câu hỏi thuộc loại “thăm ḍ dư luận” rằng bây giờ tỉ như bạn được chọn lựa một trong hai thứ: một chén cơm hoặc “vui vẻ” với đàn bà th́ bạn chọn cái nào? Chúng tôi lúc đó có khoảng trên mười người mà cũng có đến hai ba ư kiến. Người th́ nói sẽ chọn chén cơm, lúc này cơm là nhất. Trong nhóm này dĩ nhiên là phải có anh Nguyễn Tiến Hanh v́ anh đă từng nói là anh chỉ sợ môn phái “Thiếu Cơm” mà thôi. Nhóm thứ hai th́ thích chọn sự “vui vẻ” với đàn bà, mà bỏ cơm. Mấy người thuộc nhóm hai đều là những người có gia đ́nh thăm nuôi đều đặn, không bị cái đói nó hành hạ nhiều. Duy có một người trong nhóm thứ hai, mặc dù chưa có gia đ́nh thăm nuôi lần nào nhưng cũng vẫn chọn “vui vẻ” với đàn bà. Người đó là anh Nguyễn Tương. Anh lư luận rằng chả có cái chết nào sướng bằng chết trên lưng ngựa (thượng mă phong), sướng cho đến lúc chết, vậy th́ tội ǵ mà phải nhịn? C̣n nhóm thứ ba th́ trả lời lạc tông, không đúng với câu hỏi đề ra, nghĩa là chọn cả hai. Rơ nghèo mà ham, ai cho cả hai mà chọn?

    Từ ngày trại cho phép gia đ́nh thăm nuôi tù, trại cất thêm vài gian nhà tranh vách đất và đặt cho nó một cái tên hoa mỹ là nhà hạnh phúc. Nhà hạnh phúc dùng để cho tù và vợ con tù được ở lại qua đêm với nhau. Ai muốn được hưởng ân huệ này th́ phải đạt yêu cầu của trại đề ra. Trại quy định như sau: a) người nào đang bị cùm nhà đá hoặc vi phạm nội quy nặng, không được gặp gia đ́nh mà chỉ được nhận quà do trại chuyển vào, b) người nào vi phạm kỷ luật nhẹ, hoặc chây lười lao động, chỉ được gặp gia đ́nh 30 phút thôi, c) người nào lao động tương đối tốt th́ có thể được gặp vợ con từ 1 tiếng đến 2 tiếng tùy theo “t́nh h́nh cụ thể”, và d) người nào lao động tốt và có đề nghị của quản giáo, được ở lại qua đêm với vợ con trong căn nhà hạnh phúc.

    Anh Tương là một trong vài ba người lớn tuổi nhất của đội tôi. Ở thời điểm 1980, anh đă tṛm trèm 50. Anh lại có gương mặt già trước tuổi, trông như ông cụ 60 vậy. Tuy lớn tuổi nhưng tính t́nh anh c̣n rất trẻ trung, hay đùa giỡn, dễ hoà nhập với bọn trẻ tuổi hơn ḿnh. Anh thích đề cập đến vụ “sex” cho nên nếu có ai gợi chuyện về “sex” là coi như đă mở trúng đài rồi và tha hồ mà nghe “đài phát thanh” nói. Trong lúc riêng tư, tôi biết anh chẳng ưa ǵ mấy thằng Việt Cộng nhưng anh rất khéo che đậy. Nói theo kiểu Việt Cộng, anh thuộc loại “nín thở qua sông” rất hay. V́ thế mà khi vợ anh ra thăm (một lần duy nhất trong thời gian ở trại Vĩnh Quang B), anh được ở lại qua đêm với vợ. Trưa ngày hôm sau, anh mới ḷ ṭ vác trên vai một bao đồ thăm nuôi, chừng 30 kg (hơn 60 pounds). Thấy quà thăm nuôi của anh chẳng là bao nhưng mặt anh th́ rất rạng rỡ. Đa số những người được thăm nuôi thường đem vào trại một vài tin đồn về t́nh h́nh ở bên ngoài, tỉ như đài BBC nói ǵ, VOA nói ǵ có liên quan đến tù “cải tạo”. Thời gian này đang có tin đồn rằng Mỹ đang thương luợng với Việt Cộng để giải quyết nhóm tù “cải tạo”. Vậy mà anh Tương th́ trái lại, chúng tôi chẳng nghe được “tin ǵ vui” ở anh cả. Anh đâu có “guởn” để t́m hiểu tin này tin nọ. Ưu tiên hàng đầu của anh là “chuyện ấy” thôi mà. Gặp tôi anh cười cười nói nói “Súng vẫn chưa rỉ ông ơi, bắn vẫn ngon lành lắm!” Chả là trước đây tôi thường chê anh là, “Mă ông th́ c̣n làm chó ǵ được nữa mà ham, có chăng chỉ c̣n mấy viên đạn lép th́ bắn bung cái ǵ.” Nghe anh nói tôi cũng mừng cho anh v́ đă được thoả măn “chuyện ấy” mà không bị thượng mă phong.

    Ông Tương bây giờ đă mấp mé 80 rồi, nếu có đọc được những ḍng tôi viết về ông th́ cũng thông cảm cho rằng tôi viết chỉ để gợi lại kỷ niệm một thời khốn khổ nhưng đầy ắp thân t́nh của những kẻ bị tù đầy như hai chúng ta. Bây giờ tôi chắc rằng súng của ông không rỉ th́ cũng hết mẹ nó đạn rồi, đúng không nào?


    5.25. Chuyện kể của TTT (Xin quí vị tu sĩ đừng đọc phần này)

    Thói thường, khi người ta thiếu thốn hay thèm khát thứ ǵ th́ người ta hay nghĩ tới và hay nói đến những thứ đó. Đời sống tù đầy của chúng tôi có hai cái thiếu (đói) lớn nhất, đó là đói ăn và đói t́nh. Xin bỏ ra ngoài, không bàn đến ở đây là cái đói tự do. Nếu chúng tôi đă được tự do th́ chắc chắn hai cái đói kia đă biến mất.

    Đói ăn, chúng tôi luôn nghĩ đến ăn uống và bất cứ khi nào thuận tiện là đề tài ăn uống lại được đưa ra bàn luận/kể chuyện. Thành ngữ “Đi ăn phở ngó” để nói về những người thèm phở mà không có tiền cho nên chỉ c̣n cách đi ngang tiệm phở ngó người ta ăn cho đỡ cơn thèm. Đỡ thèm hay không th́ c̣n phải hỏi lại. Bây giờ ở trong tù th́ ngó cũng không được nữa, chỉ có thể ngóng (nghe) mà thôi. Chúng tôi gọi việc nghe này là ăn hàm thụ. Một người rành về món ǵ th́ kể về món đó cho những người khác nghe.

    Đói t́nh cũng vậy. T́nh ở đây có xu hướng mạnh về t́nh dục hơn là t́nh yêu. Chúng tôi thuộc lớp tuổi trung niên, đă từng dầy dạn “chiến trường” trên khắp bốn vùng chiến thuật mà bây giờ bỗng dưng bị tạm thời cất vũ khí vào kho th́ thấy bứt rứt khó chịu lắm. Cách giải quyết những dồn nén/những thèm khát là kể chuyện hoặc nghe người khác kể chuyện về t́nh (dục). Chuyện kể th́ rất nhiều nhưng tôi chỉ nhớ được vài ba chuyện, trong đó có chuyện của anh TTT. Sau đây là đại khái lời kể của TTT:

    Các bạn biết không, năm tôi 17 tuổi là tôi đă trở thành đàn ông rồi. Bố tôi là một công chức làm việc tại Huế. Bố tôi mướn một căn nhà gần nơi làm việc để tiện việc đi làm mỗi ngày. Căn nhà bố tôi mướn được xây theo kiểu h́nh chữ U mà hai nhánh của chữ U quay vào phía trong vườn. Phần giữa chữ U là một cái sân xi măng. Gia đ́nh tôi không mướn trọn căn nhà v́ trước đó đă có một chị mướn một pḥng nằm ở một nhánh của chữ U. Pḥng tôi ở đối diện với pḥng của chị đó, cách nhau bằng cái sân xi măng. Tuổi chị phỏng chừng gần 30, nước da trắng trẻo, khuôn mặt bầu bĩnh và hồng hào; nhất là chị lại có cái răng khểnh trông rất có duyên. Những lúc chúng tôi không đi học và làm việc, chị và tôi thường thấy nhau qua mảnh sân. Chừng dăm bảy bữa sau khi dọn tới ở là chúng tôi đă làm quen với nhau, chào hỏi nhau mỗi khi gặp mặt. Tôi thường học khuya đến chừng 9, 10 giờ tối mới đi ngủ. C̣n chị th́ cũng vậy, chị thường tắt đèn đi ngủ vào khoảng 10 giờ tối. Chúng tôi đă quen với giờ giấc sinh hoạt của nhau như vậy rồi.

    Một đêm, gần lúc tôi tắt đèn đi ngủ th́ thấy tiếng gơ cửa nhè nhẹ. Tôi mở cửa th́ thấy chị đứng đó và chị nói nhỏ,” Chị nhờ em sang cạo gió cho chị một chút v́ chị có lẽ bị trúng gió nên hơi khó chịu.” Tôi vẫn ngây thơ, không nghĩ ngợi ǵ cả và trả lời, “Chị về trước đi, em sang ngay.” Tôi vội vă thu xếp sách vở, tắt đèn pḥng và sang bên pḥng chị. Tôi cũng chẳng biết giữ ư tứ ǵ về cách ăn mặc, v́ thế khi sang pḥng chị, tôi chỉ mặc áo thung và quần xà lỏn như lúc đang ngồi học. Lúc tôi sang th́ chị đă tắt đèn lớn và chỉ để một ngọn đèn nhỏ đủ để nh́n mờ mờ thôi. Thấy tôi sang, chị mở cửa cho tôi vào và chốt cửa lại. Sau đó chị ngồi lên giường, quay mặt vào vách và từ từ mở nút áo để cởi bỏ hẳn áo ra. Chị bảo, “Dầu nóng đây, em cạo lưng cho chị xem có nhiều gió không.” Tôi làm theo lời chị. Mới cạo có dăm phút mà người tôi đă nóng bừng v́ tôi chưa từng được đụng chạm tới da thịt đàn bà. Mùi thơm da thịt đă làm tôi bấn lên, thằng nhỏ đă ngóc đầu lên từ lúc nào không biết. Tôi cố quên nó đi và chỉ chú tâm vào việc cạo gió thôi. Cạo xong phía sau lưng, chị quay mặt ra phía tôi và bảo, “Em cạo tiếp cho chị phía trước ngực đi.” Và chị cầm tay tôi đặt lên phía trên vú bên trái của chị bởi v́ lúc đó tôi đang cầm đồng xu cạo gió trên tay phải của tôi, bảo tôi cạo đi. Nh́n cặp vú no tṛn của chị với núm vú đo đỏ, và nhất là hơi thở đàn bà của chị, người tôi xốn xang quá sức và hơi thở tôi cũng càng lúc càng dồn dập. Chị cũng biết vậy và chị muốn kiểm tra cho chắc ăn bằng cách dùng tay phải của chị quơ qua thằng nhỏ của tôi. Chị chắc ăn rằng tôi đă lên tới tột độ rồi, chị bảo tôi ngưng cạo gió rồi chị tḥ tay tắt luôn ngọn đèn nhỏ ở đầu giường. Bây giờ bóng tối đă giúp chị mạnh bạo hơn. Chị đè tôi nằm ngửa ra, rồi lột quần của tôi, và chị bắt đầu thổi kèn sắc sô phôn. V́ là lần đầu tiên trong đời cho nên tôi không chịu được lâu, mới chừng một phút là đă xuất tinh rồi. Chị cứ ngậm và nuốt hết mọi tí. Sau hiệp nhất th́ chị lại mơn trớn thằng nhỏ của tôi, tôi cũng không biết chị đă cởi quần của chị ra từ lúc nào mà tay tôi rờ rẫm không c̣n thấy mảnh vải nào trên người chị nữa. Khoảng chừng 20 phút sau th́ thằng nhỏ của tôi lại cương lên. Lần này chị không thổi kèn nữa, mà chị ngồi lên tôi, chị chủ động mọi thứ cho đến khi tôi xuất tinh lần thứ hai xong, chị xuống ngựa và nằm cạnh tôi, cả hai cùng đê mê ngất ngây, quấn chặt lấy nhau. Tay tôi không ngừng hoạt động, di chuyển tới những nơi hiểm hóc để thám hiểm cho thoả tính ṭ ṃ của một thằng con trai mới lớn. Chừng hơn một tiếng sau, chúng tôi lại có thể bắt đầu cho hiệp thứ ba. Lần này chị để tôi nằm trên, chị nằm dưới và dùng tay hướng dẫn cho thằng nhỏ biết đường đi vào trong hang. Khi thằng nhỏ đă vào sâu trong hang th́ tôi tự động làm những động tác theo bản năng của người con trai. Trận chiến lần này rất dai dẳng cho nên tôi đă đưa chị lên đến tuyệt đỉnh vu sơn. Lúc th́ chị vít đầu tôi xuống, lúc th́ chị gh́ chặt lấy tôi và rướn người lên, lúc th́ chị rên lên nho nhỏ một cách sung sướng. Sau khi chấm dứt cuộc chiến, cả hai đều mồ hôi nhễ nhại và tay tôi đụng phải một khu nệm ướt sũng. Sau này tôi mới hiểu ra lư do tại sao nệm bị ướt nhẹp như vậy - hồng diện đa dâm thuỷ mà – Da mặt chị hồng hào th́ phải đa dâm thuỷ chứ sao. Nằm nghỉ một lúc rồi tôi mặc lại quần áo và tôi trở về pḥng tôi. Lúc chị ra đóng cửa cho tôi chị c̣n dặn nhỏ rằng, “Tối mai nhớ qua chị nữa nhé, đừng để chị chờ.” Dĩ nhiên tôi phải nhớ chứ, bỏ sao được.

    Cứ thế chúng tôi tiếp tục sống với nhau như một cặp vợ chồng trẻ mới cưới. Chỉ khác một điều: Vợ chồng trẻ th́ đêm bẩy, ngày ba, vào ra không kể nhưng hai chúng tôi không thể có ban ngày, cho nên phải dành hết lại cho ban đêm. Qua một tuần lễ đầu, tôi đă được chị chỉ cho những chỗ nhậy cảm nhất trên cơ thể người đàn bà để tôi dễ dàng đưa chị lên đỉnh vu sơn mỗi khi xáp trận.

    Từ ngày tôi biết mùi đời tôi trở nên lơ là khi nghe thày cô giảng bài. Khi ở nhà mở sách ra học th́ không thể chú tâm vào bài học được, đầu óc tôi cứ luôn luôn mong cho trời mau tối… Một niên học trôi qua, kỳ thi Tú Tài I tôi bị rớt luôn cả hai khóa. Bố mẹ tôi thấy người tôi xanh xao th́ nghĩ rằng tôi lo học ngày học đêm mà ra như vậy. Bố tôi dẫn tới bác sĩ để chẩn bệnh cho tôi. Sau một hồi nghe tim, khám phổi, khám đủ thứ, bác sĩ kê toa cho tôi mấy loại thuốc bổ sức. Rồi ông nói chuyện riêng với bố tôi một lúc lâu. Bố tôi dẫn tôi về nhà nhưng không nói ǵ cả. Bố tôi âm thầm sắp xếp cho tôi vào Sài-G̣n học. Công việc xong, bố tôi báo cho tôi biết để chuẩn bị vài ngày trước khi đi. Bố tôi giải thích rằng ở Sài-G̣n sẽ có nhiều thày cô giỏi th́ sang năm tôi sẽ thi đậu. Trong vài đêm cuối cùng, hai chúng tôi tận hưởng những hoan lạc nam nữ v́ linh cảm rằng khó có thể có dịp để gặp nhau lại.

    Những ngày đầu ở Sài-G̣n, tôi nhớ “chị tôi” vô kể nhưng rồi dần dần nỗi nhớ cũng giảm đi v́ phải lo bài vở nhà trường. Cuối niên học đó tôi đă đậu Tú Tài I và trở về Huế thăm gia đ́nh. Ḷng tôi hồi hộp thầm mong rằng “chị tôi” vẫn c̣n ở đây nhưng chị đă dời đi nơi khác trước khi tôi trở về vài tháng. Dù sao th́ tôi cũng biết ơn chị đă dẫn dắt tôi vào lănh vực ân ái một cách tuyệt vời! Chuyện của tôi có vậy thôi, bạn nào có chuyện hay ho hơn th́ xin kể tiếp.


    Bạn TTT, có những chi tiết mà bạn không thấy tôi nhắc tới ở đây là v́ hai lư do: Thứ nhất là v́ đă gần ba chục năm rồi, tôi không thể nhớ 100% câu chuyện của bạn. Thứ hai có vài chi tiết tôi nhớ nhưng không dám viết ra, sợ rằng vi phạm đến nội qui của Thư Viện Việt Nam (Website). Và, có những chi tiết khi viết ra trên đây, tôi đă thay đổi ngôn từ cho nó có vẻ “thanh” hơn là lời bạn kể. Mong bạn thông cảm.

    (c̣n tiếp)

  10. #30
    Member
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    89
    (tiếp theo)

    5.26. Một tấm ḷng

    Anh Lương Văn Quang và tôi ở cùng một đội, cùng ngồi ăn chung với nhau gần suốt quăng thời gian ở Vĩnh Quang B. Hai người hợp tính nhau cho nên càng ngày càng thêm thân thiết. Trong hai đứa tôi, người nào kiếm được cái ǵ th́ cũng chia cho người kia một nửa. Khi chụp được một chú thằn lằn, bỏ vào đống lửa cho chín, lấy ra cũng bẻ đôi mỗi người một nửa con. Ở Vĩnh Quang B có một loại cây leo, trông gần giống như cây lá dang mà chúng tôi gọi là cây “sâm sa”. Loại cây này có nhiều và mọc (leo) lẫn trong các bụi cây dọc đường đi lao động. Chúng tôi lấy về, tước lấy lá rồi cho vào thau với một ít nước nguội, ṿ lá cho nát ra, sau đó quậy đều rồi dùng một miếng vải lọc lấy nước trong, và chứa vào lon gô/ca cóng, để chừng hơn một tiếng là có một lon “sâm sa” rồi. Khi nó đặc lại, trông không khác ǵ sâm sa thiệt cả. Nếu có tí đường mà ăn với nó th́ thật tuyệt. Tuy nhiên, đâu dễ ǵ mà kiếm ra đường cho nên chúng tôi dùng muối thay cho đường. Hai chúng tôi thường chống đói bằng cách đó. Tôi thấy có người c̣n dùng lá găng (loại cây thân mộc, có gai) thay cho lá dang nhưng ăn không ngon bằng.

    Một hôm, trong lúc ngồi ăn cơm, anh Quang cho biết là mẹ anh viết thư báo rằng bà cụ sẽ ra thăm anh nay mai. V́ nhà tôi và nhà anh Quang ở cách nhau không xa nên tôi hỏi địa chỉ nhà anh và viết thư về báo cho vợ tôi biết để vợ tôi đến gặp mẹ anh Quang, gửi cho tôi ít đồ ăn. Vợ tôi không c̣n khả năng tài chánh để đi thăm tôi như người khác sau một lần duy nhất ra thăm tôi giữa năm 1979 (sẽ kể sau). Bây giờ chỉ c̣n cách gửi ké dăm ba kư đồ ăn khi nào có dịp. Chừng vài tháng sau th́ mẹ anh Quang ra thăm nuôi. Ra gặp mẹ xong, khi vào anh Quang cho tôi biết rằng vợ tôi có ghé nhà gặp mẹ anh để xin gửi quà nhưng mẹ anh bảo không cần gửi v́ mẹ anh đă có đủ rồi. Sau này khi tôi được thả, về nhà, th́ được vợ tôi kể lại rằng:

    “Mẹ anh Quang thật là phúc hậu, bà cụ sống trong một căn nhà rất lớn chứng tỏ rằng gia đ́nh bà thuộc loại giàu có. Khi bà cụ biết em là vợ của anh tới xin gửi đồ cho anh, bà cụ nhất định không nhận v́ bà cụ biết rằng em đang gặp cảnh khó khăn tài chánh, bà cụ bảo rằng, ‘Hai anh em nó ăn chung những thứ tôi đem ra cũng đủ rồi.’ Lúc tới gặp bà cụ th́ em chưa mua thứ ǵ cả, em phải hỏi xem bà cụ có đồng ư nhận mang cho bao nhiêu kư th́ em mới về mua sắm sau. Bà cụ đă nói vậy th́ em chỉ c̣n biết cám ơn bà mà thôi. Ngồi nán lại ít phút thăm hỏi bà cụ th́ mới biết rằng bà cụ cũng đă biết anh và anh Quang chơi thân với nhau và cùng ăn cơm chung với nhau, chắc là do anh Quang nói. Khi em ra về, bà cụ c̣n bảo em rằng đừng lo, anh Quang có ăn th́ anh cũng có ăn.”

    Tôi bàn với vợ tôi rằng sẽ tới vấn an bà cụ đồng thời hỏi tin tức về anh Quang. Từ ngày rời Vĩnh Quang B, tôi và Quang đi mỗi người mỗi ngả cho nên không có tin tức ǵ cả. Rất tiếc là bà cụ đă bán căn nhà cũ và dọn đi nơi khác rồi. Sau này sang Mỹ, liên lạc được với anh Quang th́ được biết bà cụ đă qua đời mấy năm sau khi anh Quang tới Mỹ. Cách đây hơn một tháng (9/2008), anh Quang cho biết rằng anh sắp về Việt Nam để làm đám giỗ cho bà cụ. Tôi nhờ anh thay tôi thắp mấy cây nhang vái bà cụ để tỏ ḷng nhớ tới một nghĩa cử tốt đẹp mà bà cụ đă dành cho tôi.


    5.27. Vợ tôi đi thăm nuôi

    Khi trại thông báo là sẽ cho phép gia đ́nh thăm nuôi, hai tháng một lần, th́ tôi viết thư về báo cho vợ tôi biết. Tuy nhiên tôi không hy vọng ǵ vợ tôi có đủ tiền bạc để đi ra Bắc thăm chồng. V́ thế tôi bảo vợ tôi rằng điều quan trọng là hăy chăm lo cho 4 đứa con mà đứa lớn nhất lúc đó mới được 13 tuổi, đứa nhỏ nhất 6 tuổi. C̣n việc đi thăm tôi có th́ tốt, mà không có cũng đừng ái ngại ǵ cả. Trong một lá thư gửi cho tôi sau đó, vợ tôi nói bằng mọi giá cũng phải đi thăm tôi một lần. Vợ tôi nói là nói theo cảm tính, chứ thực lực th́ chưa biết kiếm đâu ra tiền đi thăm tôi.

    Thế rồi vào khoảng giữa năm 1979, tôi được báo là có gia đ́nh thăm nuôi. Tôi được nghỉ một ngày lao động để ra gặp người nhà. Cán bộ trại yêu cầu tù nhân phải ăn mặc đàng hoàng, quần áo phải lành lặn và sạch sẽ, đầu tóc phải chải gọn gàng trước khi ra gặp gia đ́nh. Bọn chúng bắt chúng tôi phải làm như vậy v́ chúng muốn chứng tỏ cho vợ con của tù thấy rằng chúng tôi không bị đối xử tệ như người ta nghĩ đâu; chúng tôi vẫn “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” mà! Thật đúng là hành động “lấy vải thưa che mắt thánh!” Vợ con của tù chỉ cần nh́n cái h́nh hài lúc này để so sánh với nó trước khi ở tù th́ sẽ thấy ngay sự thực, cần ǵ phải nói ra mới biết chứ. Thời gian tôi được phép gặp gia đ́nh là 30 phút v́ “cải tạo chưa tiến bộ”. Đối với tôi 30 phút cũng chẳng sao nhưng chỉ tội cho vợ tôi, đi từ Nam ra Bắc, đường dài vạn dặm thăm chồng mà chỉ được 30 phút th́ quá tàn nhẫn!

    Nhà thăm nuôi hôm đó có 4 cặp được thăm nuôi. Gian nhà thăm nuôi có một cái bàn lớn dùng cho tù và gia đ́nh ngồi nói chuyện. Bề ngang cái bàn rộng 1 mét, chiều dài 3 mét (40” x 10’) . Bốn người tù ngồi một bên bàn. Bên kia là vợ con của tù ngồi. Chồng ngồi đối diện với vợ con ḿnh. Tên cán bộ phụ trách thăm nuôi ngồi ở đầu bàn để có thể nh́n suốt chiều dọc cái bàn, theo dơi cuộc nói chuyện của chúng tôi. Khi hắn cho phép bắt đầu th́ gian nhà ồn lên như một cái chợ con v́ ai cũng phải nói lớn th́ người đối diện mới nghe được. Thời gian ngắn ngủi cho nên chỉ nói qua nói lại một chút là đă hết giờ. Vợ chồng tôi ngồi ở phía gần đầu bàn bên kia, nghĩa là cách xa tên cán bộ cả một chiều dài của bàn. V́ thế, lợi dụng lúc tên cán bộ ngó qua chỗ khác, tôi đạp chân vợ tôi và nháy mắt cho vợ tôi hiểu ư, rồi tôi nói lớn “Nhà ḿnh có 4 đứa con, em liệu nếu nuôi không xuể th́ gửi bớt một vài đứa xuống quê ngoại ở Mỹ Tho cho bà ngoại nuôi giúp để em bớt vất vả.” Vợ tôi nghe là hiểu ngay tôi muốn nói ǵ rồi v́ họ hàng bên ngoại đều ở Sài-G̣n, có ai ở Mỹ Tho đâu, Mỹ Tho tức là nước Mỹ. Vả lại, bà ngoại xấp nhỏ đă chết mấy năm trước khi vợ tôi đi lấy chồng th́ làm ǵ c̣n bà ngoại ở Mỹ Tho. Thời gian này, ở bên ngoài đang có phong trào vượt biên rầm rộ, cho nên tôi chỉ cần nói mánh một chút là vợ tôi hiểu ra ngay. Vợ tôi cho biết là đi thăm tôi bằng đường hàng không; tôi rất ngạc nhiên v́ thời buổi đó đâu có dễ dàng ǵ mà mua được vé máy bay, thậm chí vé xe lửa cũng c̣n khó khăn, trầy vi tróc vẩy nữa là. Vợ tôi bảo chuyện đi bằng máy bay th́ dài lắm, để khi nào có th́ giờ sẽ kể cho tôi nghe sau.

    Lúc giao đồ ăn cho tôi trước khi về, tôi làm bộ cúi xuống soạn đồ v́ đồ của tôi đă để sẵn trong một cái rương bằng kẽm (cỡ 40 x 80 x 35cm, loại dùng để đựng quần áo), không cần phải soạn ǵ cả. Vợ tôi nói, “Em mua cái rương này để anh đựng đồ khỏi bị chuột cắn. Em chỉ tốn tiền mua rương thôi, c̣n đồ đạc trong này là do các chị bạn trong nhóm đi buôn của em góp lại gửi cho anh, em không phải mua ǵ thêm đâu, vả lại đi máy bay không thể mang được nhiều. Anh nên chia sẻ với bạn bè cùng ăn và ráng giữ ǵn sức khỏe v́ em có nghe người ta đồn rằng Mỹ đang thương lượng với Việt Cộng về việc giải quyết t́nh trạng của các anh đấy.” Hai cái đầu sát nhau, tôi lặp lại cho chắc ăn câu nói bóng mà tôi vừa nói trong bàn rằng, “Em t́m cách cho con đi vượt biên, càng nhiều càng tốt.” Hơn một năm sau, khi tôi đă đang ở trại Vĩnh Quang A th́ được tin hai đứa con lớn của tôi đă tới trại tị nạn Bi Đông rồi. Tôi mừng vô kể! Khi ra tù, tôi được biết là mặc dù vợ tôi không có tiền để nạp cho chủ tầu, 3 lượng vàng một người, nhưng vợ tôi, bù lại, phải giới thiệu cho họ 5 người khách. Rất may là hai đứa con tôi chỉ đi một chuyến là trót lọt ngay.

    Cũng may là bốn cặp thăm nuôi hôm đó đều được 30 phút nói chuyện cho nên vợ tôi đỡ tủi thân. Giao nhận đồ xong, vợ tôi phải ra về ngay (đi bộ) để c̣n kịp chuyến xe đ̣ chót từ Vĩnh Phú về Vĩnh Yên. Ba người kia c̣n nán lại qua đêm, sáng hôm sau mới ra về.

    Khi tôi được thả về xum họp với gia đ́nh, vợ tôi mới có th́ giờ kể lại chuyến đi ra Bắc thăm tôi năm 1979.

    Hăy nghe vợ tôi thuật:

    "Nghĩ lại, chuyến đi thăm anh ở ngoài Bắc năm đó như là một giấc mơ mà em không thể tưởng tượng nó lại xảy ra như vậy được. Đúng là Đức Mẹ đă khiến sự việc xảy ra như thế.

    "Khi nhận được thư anh báo là trại cho phép thăm nuôi, em muốn đi ngay nhưng vấn đề quan trọng là tiền. Tiền ở đâu ra mà đi? Nào là tiền tầu xe, nào là tiền mua thực phẩm cho anh, nào là tiền chạy chọt giấy tờ cho phép thăm nuôi, nào là tiền ăn cho các con trong thời gian em nghỉ chạy hàng, ít nhất là hơn một tháng v́ phải ăn chực nằm chờ mua vé tầu xe. Em rất buồn v́ khả năng ḿnh không thể làm được! Thế rồi tự nhiên em nghĩ tới Đức Mẹ, em bèn cầu xin cùng Đức Mẹ, “Xin Mẹ giúp cho con cách nào đó để con có thể ra thăm chồng của con đang bị tù đầy ở miền Bắc, con tin rằng chẳng có sự ǵ mà Mẹ không làm được.” Em lặp lại lời cầu nguyện đó hằng ngày mỗi khi nh́n thấy tượng Đức Mẹ đứng dang tay trên bàn thờ.
    Thời gian này, em đang hợp tác với mấy chị bạn, cũng là vợ sĩ quan, đi buôn chung. Chúng em gặp ǵ buôn nấy. Tuy nhiên chúng em thường kiếm những món không cần nhiều sức lực mang vác mà lời nhiều hơn, chẳng hạn như các loại hóa chất, thuốc tây v.v… Một hôm trong lúc đang chuyên chở hai thùng thuốc tẩy đường (loại thuốc dùng để biến đường cát vàng thành đường cát trắng), bọn em bị tụi thuế vụ bắt và tịch thu hai thùng thuốc tẩy (trị giá gần hai lượng vàng) đem về Ty Thuế Vụ quận. Em nghĩ thế là tiêu rồi, các con lại phải ăn cháo mà sống thôi. Buồn nhất là lúc này em đang cố gắng dành dụm và nếu trúng được mấy mối th́ hy vọng có tiền đi thăm anh. Trong nhóm của em, th́ em là người ít tuổi nhất, 34 tuổi nhưng bề ngoài trông như mới 30 mà thôi nhờ vóc dáng nhỏ bé và nước da trắng trẻo. Các chị bạn bàn với nhau là để em làm đại diện vào gặp trưởng ty thuế vụ quận để xin lấy hàng ra, nếu có phải chi chút ít cho ông ta th́ vẫn c̣n hơn là mất luôn. Vả lại các chị c̣n tin vào khả năng ứng đối của em, hy vọng sẽ gỡ lại ít nhiều. Được sự khích lệ của các chị cho nên em đến quận xin gặp trưởng ty thuế vụ, c̣n các chị kia ở ngoài, ngồi chờ.

    "Rất may là hôm đó ông Trưởng Ty Thuế Vụ (tạm gọi là X để tránh phiền lụy) có mặt ở văn pḥng, và ông X cho phép em vào tŕnh bày sự việc. Vào trong văn pḥng, em chỉ mới nói được mấy câu rồi không thể nói nên lời nữa, chỉ ngồi khóc nức nở v́ tủi thân tủi phận khi nghĩ đến các con và anh. Ông cứ để cho em khóc chán, khi em ngừng khóc th́ ông hỏi gia cảnh, em cũng khai thực mọi sự không dấu diếm cái ǵ, sau đó xin ông cho lấy hàng ra. Ông ngồi suy tư một chút rồi ông gọi nhân viên dẫn em ra kho để nhận hàng. Trước khi ra về, ông c̣n dặn rằng trong cuộc sống có cần ông giúp ǵ th́ đừng ngại, cứ cho ông biết để ông giúp cho. Các chị bạn thấy em vời vào phụ khiêng hai thùng thuốc ra th́ mừng vô kể. Mọi việc xong xuôi, bọn em chung tiền mua biếu ông X một cái nồi cơm điện và một cái máy xay sinh tố, tốn hết một chỉ và 5 phân vàng, c̣n lời chán.

    "Sau này em được biết ông là người Miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, vợ ông là người Hà Nội và làm Trưởng Pḥng Lương Thực ở một quận khác. Hai ông bà đă lớn tuổi, coi em như em gái út trong nhà. Bà ấy c̣n nói khi nào cần thực phẩm th́ ghé cho bà biết để bà liệu, nhưng em chưa bao giờ làm chuyện đó."

    Ghi chú:
    Những người Miền Nam tập kết ra Bắc đă sáng mắt ra rồi. Nhất là sau vụ thống nhất hai miền Nam-Bắc năm 1976 th́ mắt lại sáng thêm ra nữa. Có điều là họ đă trót phóng lao th́ phải theo lao. Ông bà X cũng trong hoàn cảnh đó, đang hưởng quyền lợi đấy nhưng không biết sẽ bị bứng đi lúc nào không hay. Ông X vẫn c̣n giữ được bản chất của người Miền Nam, không căm thù/sắt máu như những người Bắc chính cống, ông dễ thông cảm với những kẻ thất trận của Miền Nam. Do đó mà vợ tôi mới xin được hàng ra và lại c̣n được hứa hẹn giúp đỡ sau này.


    Vợ tôi đi kể tiếp:

    "Qua vài ba lần tiếp xúc với ông bà X, em thấy ông X là người tốt, có thể nhờ cậy được. Rồi một hôm, em đem lá thư của anh báo là trại cho phép thăm nuôi cho ông đọc và xin ông có cách nào giúp em ra Bắc thăm anh không. Ông đọc xong lá thư, rồi bảo em rằng, “Cô về địa phương xin một cái giấp phép đi thăm nuôi, có giấy phép đó rồi th́ đưa ngay cho tôi, mọi công việc c̣n lại để tôi lo cho.” Theo lời ông, em về nhà làm đơn lên xă xin phép đi thăm anh. Khi lên xă, tụi nó làm khó dễ, không cho phép đi với lư do là từ xưa đến giờ chưa bao giờ em chịu tham gia các công tác của xă ấp cả. Em trả lời tụi nó là nếu tôi tham gia các công tác xă ấp th́ ai chạy gạo cho bốn đứa con của tôi ăn, rồi em bỏ về. Em nghĩ là do anh K.(*) đă xúi bọn ở trên xă không cấp giấy tờ ǵ cho em. V́ thế, sáng sớm ngày hôm sau em không đi chạy hàng, mà ra thẳng ngoài huyện. Em chẳng biết huyện nằm ở đâu v́ đây là lần đầu em phải tới huyện, phải hỏi thăm mới t́m được văn pḥng huyện. Lúc em tới th́ chưa tới giờ làm việc, ngó sang bên quán cà phê, em thấy một thanh niên đang ngồi uống cà phê một ḿnh, em đoán là anh này làm việc trong huyện nhưng chờ giờ mở cửa. Em tới bàn hắn, chào làm quen, rồi hỏi thăm xem có phải hắn làm việc trong huyện không, hắn xác nhận là nhân viên trong huyện (sau này mới biết hắn là trung úy Công An). Em ngỏ lời xin hắn giúp cho cái giấy phép đi thăm nuôi v́ ở xă không chịu cấp phép. Hắn bảo, “Được, em sẽ lo cho chị, và em sẽ đem thẳng giấy phép về nhà chị, khi xong việc chị cho em xin 150 đồng.” Em mừng quá, chịu liền. Thế là em đưa đơn cho hắn rồi đi về. Chiều hôm sau hắn đem giấy phép đến tận nhà trao cho em và nói rằng, “Em phải tới xă của chị, mất cho họ một chầu cà phê để lấy con dấu và chữ kư của xă th́ mới hợp lệ.” Em nhận giấy phép và trao cho hắn 200 đồng thay v́ 150 đồng như hắn đ̣i hỏi để bù lại tiền hắn chi phí cà phê cho xă.”

    (*) Ghi chú: Anh K. là anh rể của tôi. Tôi có hai bà chị & hai ông anh rể cùng ở một xă với gia đ́nh tôi và cách nhà tôi chừng 500m. Từ ngày mẹ tôi chết, năm 1977, vợ tôi và mấy bà chị không có sự ḥa thuận, có thể nói là căm thù nhau th́ đúng hơn. Thời gian này anh K. thường hay liên lạc và quen biết nhiều với bọn ở xă. V́ thế mà anh K. mới xúi xiểm xă không cấp giấy tờ cho vợ tôi. Sự bất ḥa có nguyên nhân của nó, cả nguyên nhân xa lẫn nguyên nhân gần. Sau này họ nhận ra là họ hoàn toàn có lỗi và đă xin lỗi vợ chồng tôi, tôi sẽ nói đến trong một dịp khác nếu tiện.


    Vợ tôi kể tiếp:

    "Em cầm giấy phép thăm nuôi tới đưa cho ông X. Ông thấy giấy phép đă hợp lệ, ông bảo em rằng “Cô về chuẩn bị 750 đồng tiền vé máy bay khứ hồi, c̣n mọi chuyện để tôi thu xếp, chừng ba bữa nữa cô lên gặp tôi xem có ǵ cần làm thêm nữa không.” Em cám ơn ông và về nhà lo kiếm tiền đủ để chi cho chuyến thăm nuôi, chuẩn bị đồ đạc đem ra cho anh. Em phải thông báo cho mấy chị bạn trong nhóm đi buôn, có ǵ cho anh th́ chuẩn bị sẵn, vài ngày nữa em sẽ tới lấy. Em nghĩ đi máy bay th́ không thể đem nhiều được. Tất cả mọi thứ em bỏ vào một cái rương cỡ trung b́nh. Như vậy quà thăm nuôi mà mấy chị bạn cho cũng đầy rồi, nếu c̣n rộng chỗ em sẽ mua thêm một vài món bỏ cho đầy rương thôi. Em nói với bố và các em của em đừng mua đồ, mà cho tiền để em chi phí dọc đường thôi.

    "Em mong cho chóng hết thời hạn ba ngày để lên gặp ông X. Trong ba ngày này, ban ngày th́ bận rộn chuẩn bị cho chuyến đi, ban đêm th́ khó ngủ v́ cái ư nghĩ sắp sửa được gặp anh, sẽ được nh́n tận mắt con người của anh ra sao, chứ làm sao tin được những lời anh viết trong thư, nào là khỏe mạnh, nào là ăn uống đầy đủ, nào là được… đủ thứ. Em biết những điều anh viết trong thư đều là bị bắt buộc phải viết như vậy th́ thư mới được về tới tay em.

    "Hết hạn ba ngày, em lên Sài-G̣n gặp ông X. Ông vời em vào văn pḥng, mở ngăn kéo bàn, lấy ra một xấp giấy tờ và nói rằng mọi sự đă xong xuôi hết kể cả việc mua vé máy bay cho em, em chỉ phải hoàn lại số tiền 750 đồng cho ông mà thôi. Nghe ông nói vậy, ḷng em mừng không biết đâu mà kể! Nói rồi, ông lấy ra từng tờ giấy và dặn em phải nhớ những điều ông nói để khi bị hạch hỏi th́ cứ theo đó mà trả lời.

    "Đầu tiên là một cái thẻ công nhân viên của Ty Thuế Vụ mang tên em, thứ đến là một công vụ lệnh cho em đi Hà Nội, để họp thay thế cho ông, tiếp theo là vé máy bay khứ hồi Sàig̣n – Hà Nội, khởi hành sáng Thứ Hai tuần tới và trở về Thứ Bảy trong tuần. Ông nói, nếu thấy không về kịp ngày Thứ Bẩy th́ báo trước cho pḥng vé xin đổi lại ngày về. Ngoài ra, ông c̣n đưa cho em vài ba thứ giấy tờ để làm ra vẻ là hồ sơ mang đi họp.

    "Ông nói, “Tôi sẽ cho nhân viên ra phi trường Tân Sơn Nhất vào sáng ngày Thứ Hai tuần tới, chờ cô ở đó để đóng vai bạn đồng sự giúp cô đem đồ ra phi trường, cô chỉ trả lời những câu hỏi nào mà cô biết chắc, c̣n những câu nào khó th́ nhân viên của tôi sẽ đảm trách. Khi cô lên phi cơ rồi th́ nhân viên của tôi xong nhiệm vụ. Vợ chồng cậu em vợ của tôi ở Hà Nội đă được thông báo ngày giờ cô tới phi trường Nội Bài, họ không ra phi trường đón cô nhưng sẽ chờ cô tại trạm xe ca (bus) Hàng Không ở hồ Hoàn Kiếm và vợ chồng cậu ấy sẽ lo cho cô trong thời gian cô ở Hà Nội.” Nghe ông nói tới đâu, người em nhẹ đi tới đó. Ông đă quá chu đáo ngoài sự mong đợi của em.

    "Sáng sớm Thứ Hai, hai mẹ con em đón xe đi Tân Sơn Nhất. Vừa xuống xe là đă thấy một người của Ty Thuế Vụ đến, phụ với em đưa đồ vào phi trường làm thủ tục giấy tờ để lên phi cơ. Mọi việc diễn tiến tốt đẹp, không ai nghi ngờ ǵ những giấy tờ của em. Khi em ra tới cửa phi cơ, em quay lại ra dấu cho con và nhân viên sở thuế có thể về được rồi. Tuy nhiên khi máy bay đă cất cánh em vẫn c̣n thấy con gái ḿnh c̣n đang đứng nói chuyện với nhân viên của ông X.

    "Ngồi trên máy bay, em thầm cảm tạ Đức Mẹ đă dùng bàn tay ông X lo liệu cho em. Lại nữa, ngồi bên cạnh em là một ông dáng chừng trẻ hơn ông X dăm tuổi. Ông này gợi chuyện làm quen, và tự giới thiệu ông là người Hà Nội nhưng làm việc ở Sài-G̣n, ông đi về thường xuyên thăm gia đ́nh v́ vợ con ông vẫn ở Hà Nội mà chưa thể xin cho gia đ́nh chuyển hộ khẩu vào Sài-G̣n được. Khi ông biết em đi thăm anh, ông cũng chỉ vẽ cho một ít kinh nghiệm về mua vé xe, về trộm cắp v.v… Nhờ vậy mà khi xuống tới phi trường Nội Bài, ông giúp em lấy hành lư và đưa ra xe buưt để về hồ Hoàn Kiếm, em chẳng phải đụng tay tới hành lư ǵ cả. Tới trạm Hoàn Kiếm, ông thấy đă có người lo cho em th́ ông chào từ giă và cho em địa chỉ ở Sài-G̣n, dặn rằng khi về lại Sài-g̣n th́ liên lạc với ông. Ông này về sau trở thành một mối cung cấp hàng lậu cho nhóm buôn của bọn em v́ lúc đó ông đang là Tổng Giám Đốc của một công ty lớn ở Hà Nội và có chi nhánh ở Sài-G̣n.

    "Vợ chồng cậu em bà X đưa em về khách sạn mà cậu đă đặt pḥng trước. Cậu cho biết là vé xe đi Vĩnh Yên đă mua xong, rồi cậu giải thích thêm về lộ tŕnh từ Hà-Nội đi Vĩnh Quang B như sau, “Chặng đầu là từ Hà-Nội đi Vĩnh Yên, chặng hai là từ Vĩnh Yên đi Vĩnh Phú nhưng chưa tới bến xe Vĩnh Phú là chị phải xuống để đi bộ vào Vĩnh Quang B, chị đừng lo v́ tài xế đă quen với việc chở người đi thăm nuôi rồi, khi nào tới chỗ xuống để đi Vĩnh Quang B là họ sẽ ngừng cho chị xuống. Ở đó có sẵn những người gánh mướn, chị thuê họ gánh đồ cho.”

    "Em nghỉ qua đêm Thứ Hai ở khách sạn. Sáng Thứ Ba, cậu em bà X tới giúp em mướn xe xích lô chạy ra bến xe Vĩnh Yên. Cậu ấy c̣n gửi gấm em cho anh lơ xe, nhờ anh này khi tới bến Vĩnh Yên th́ mua vé cho em đi Vĩnh Phú ngay. V́ có sẵn người giúp đỡ mua vé xe (vé chợ đen) cho nên em xuống xe là có thể lên xe đi Vĩnh Phú được ngay. Nếu lớ ngớ th́ thường phải chờ một hai ngày như chơi, mà muốn mua vé chợ đen cũng chẳng biết đâu mà ṃ, mà cũng không dám tin tưởng vào một hai người đến dụ mua vé chợ đen, sợ rằng trao tiền cho họ rồi họ biến luôn th́ sao.

    "Tới trạm ngừng cho những người đi trại Vĩnh Quang B xuống, nh́n đi ngó lại chỉ có một ḿnh em, trong bụng đă thấy lo lo. Những người mang vác thuê th́ xúm lại mời chào, níu kéo um xùm, em phân vân không biết chọn ai, chợt nh́n ra bên ngoài em thấy một ông cỡ 50 hơn, người ông ốm nheo ốm nhách, tay cầm cái đ̣n gánh nh́n em với ánh mắt van nài v́ ông không thể chen lấn, giành giật với bọn trai trẻ được. Em vời ông lại v́ nghĩ rằng vừa có thể giúp ông bằng cách mướn ông gánh đồ dùm và cũng vừa đỡ lo sợ cho thân gái (sề) trên đường vắng vẻ. Biết đâu mà tin được bọn trai tráng kia. Em hỏi ông lấy công bao nhiêu, ông xin cho ông 40 đồng, em đồng ư ngay. Bọn trai tráng đứng đó nghe được giá tiền em trả th́ nói lớn, “Chị bị hớ rồi, giá chỉ có 20 đồng thôi.” Ông già nghe được họ nói thế th́ tỏ vẻ bối rối, sợ rằng em đổi ư. Em trấn an ông ấy rằng, “Bác cứ tiếp tục đi, tôi không đổi ư đâu.” Ông mở rương của em ra, chia làm hai phần cho cân bằng để móc vào hai đầu đ̣n gánh.

    "Chuẩn bị xong, ông gánh đồ đi trước và em theo sau. Ông già vừa gánh vừa đi như chạy. Có lẽ vừa gánh vừa chạy th́ nó nhẹ hơn là đi chậm? Cứ đi một quăng, ông lại ngừng, ngồi chờ cho tới khi em bắt kịp th́ ông lại gánh đi tiếp. Đường đi vắng tanh, có khi cả cây số mới có một căn nhà nhỏ, trên đường chỉ có em và ông ấy thôi, em mừng trong bụng là ḿnh đă làm đúng khi chọn mướn ông già này. Nếu mướn một thanh niên gánh đồ mà đi trên quăng đường vắng vẻ như thế này th́ không nói mạnh được, biết đâu nó nổi cơn lên, đè ḿnh ra và làm bậy th́ cũng chịu chết thôi chứ biết làm sao?

    "Từ trạm ngừng xe tới Vĩnh Quang B, phải qua một cái phà, nhưng em không biết nó tên ǵ (*), và mấy con suối cạn, chỗ sâu nhất cũng chỉ tới gần đầu gối của em. Mỗi khi gặp suối, ông già gánh đồ qua suối, bỏ gánh đồ ở đó rồi trở lại dắt em qua v́ ḷng suối gập ghềnh mà nước lại chảy xiết. Cứ thế mà đi cũng phải mất mấy tiếng đồng hồ mới tới nhà thăm nuôi của trại.

    (*) Những người đi Vĩnh Quang A th́ đi lối khác, gần hơn; và họ phải qua bến phà Trang trước khi tới trại. (Giải thích của tác giả).

    Bản đồ hai trại Vĩnh Quang A & B


    (c̣n tiếp)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 57
    Last Post: 08-12-2011, 09:43 PM
  2. Replies: 2
    Last Post: 06-12-2011, 08:29 PM
  3. Replies: 9
    Last Post: 08-11-2011, 08:37 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 21-08-2011, 07:12 PM
  5. Replies: 2
    Last Post: 31-01-2011, 10:37 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •