Results 1 to 10 of 10

Thread: Video về Ngô Tổng Thống & Suy nghĩ về ngày 01-11-1963

  1. #1
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,749

    Video về Ngô Tổng Thống & Suy nghĩ về ngày 01-11-1963

    Trong cuộc chiến đấu chống Đế Quốc Đỏ Nga-Tàu, tổng thống Ngô Đ́nh Diệm có cùng chung mục tiêu với Hoa Kỳ là ngăn chận làn sóng CS từ phương Bắc tràn xuống phía Nam trong Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm: “Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác ǵ nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang.”

    Trong cuộc chiến đấu chống Đế Quốc Đỏ Nga-Tàu, tổng thống Ngô Đ́nh Diệm có cùng chung mục tiêu với Hoa Kỳ là ngăn chận làn sóng CS từ phương Bắc tràn xuống phía Nam trong vùTrong cuộc chiến đấu chống Đế Quốc Đỏ Nga-Tàu, tổng thống Ngô Đ́nh Diệm có cùng chung mục tiêu với Hoa Kỳ là ngăn chận làn sóng CS từ phương Bắc tràn xuống phía Nam trong vùng Đông Nam Á Châu , nhưng cụ Diệm không hoàn toàn chấp nhận sách lược của Hoa Kỳ.




    Ngài có đường lối riêng để chỉ đạo cuộc chiến ở Nam Việt-Nam. Ngay từ những năm sau Hiệp Định Geneva 1954, với Quốc sách Ấp Chiến Lược (sau chương tŕnh Khu Trù Mật/Ấp Dinh Điền) được xem là một đơn vị hành chánh nhỏ nhất của chính quyền miền Nam dùng để chống du kích quân VC. Trong đó, chủ trương Tam túc: tự túc về tư tưởng; tự túc về tổ chức và tiếp liệu; tự túc về kỹ thuật. Về tư tưởng, có thể được hiểu theo ư nghĩa ‘Nhân Vị’, nghĩa là mỗi con người sinh ra đă có sẵn một vị trí xứng đáng trong sinh hoạt xă hội. V́ thế, cần phải tôn trọng sự tự do suy tư của mỗi cá nhân trong công việc, có mối liên hệ chặt chẽ đến phúc lợi chung của toàn xă hội, bao gồm cả các nguyên tắc về lănh đạo, chỉ huy trong ư thức tự chủ và dân chủ. Trong tinh thần đó, tổng thống Diệm đă dứt khoát không để bất kỳ một ngoại bang nào, chen vào nội bộ, giành quyền quyết định trong các vai tṛ lănh đạo, chỉ huy từ trung ương đến địa phương. Chính người Việt Nam phải chủ động hành sử quyền hạn đó của ḿnh.

    Nếu nh́n về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vị anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học đă khẳng định ‘không thành công, cũng thành nhân’, th́ trong cuộc đối đầu với thực dân Pháp và CSVN nô lệ Nga-Tàu, chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm cũng khẳng định ‘hoặc có tất cả hoặc không’ (tout ou non/all or nothing), chứ không chấp nhận ‘hư vị’. Chính v́ không chấp nhận ‘hư vị’, và v́ những đ̣i hỏi về chủ quyền quốc gia của nhà yêu nước họ Ngô không được người Pháp quan tâm, cho nên ngài đă từ chức Thượng Thư Bộ Lại (tuơng đương chức Thủ Tướng) dưới triều vua Bảo Đại. Sau đó, ngài cũng đă từ chối chức Bộ Trưởng Nội Vụ do Hồ Chí Minh mời gọi v́ ngài không ưa CS và cũng v́ chính Hồ C. Minh đă giết anh của ngài là cụ Ngô Đ́nh Khôi. Chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm chỉ chấp nhận làm điều có ích thực sự cho quốc gia, có lợi thực sự cho dân tộc, và chỉ bắt chước người khác một cách có chọn lọc. Hơn nữa, đối với tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, chủ quyền Quốc Gia là tối thượng, cho nên tổng thống Diệm đă tuyên bố với kư giả Mỹ, bà Marguerite Higgins rằng: “Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác ǵ nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang.”

    Sau Hiệp Định Geneva 1954, khi là đồng minh của Mỹ, tổng thống Ngô Đ́nh Diệm biết ơn sự yểm trợ của họ, nhưng cụ đă thẳng thừng tuyên bố ‘Việt Nam không phải là xứ bảo hộ của Mỹ’. Chính v́ lập trường Dân Tộc cứng rắn, cho nên không phải chỉ có Cộng Sản căm ghét tổng thống Diệm, mà cả Thực dân Pháp lẫn ‘đồng minh’ Hoa Kỳ cũng t́m cách ám hại ngài, v́ ngài đă “cứng đầu” không chịu làm theo ư muốn của họ. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm có thể hy sinh tánh mạng, chứ nhất quyết “không muốn bị coi như bù nh́n hay tay sai của Mỹ” .

    Trong khi đó, Hồ Chí Minh có thể làm tay sai cho bất cứ ai. Hắn ta đă từng làm tay sai cho OSS (tiền thân CIA) của Mỹ, tay sai của Pháp, tay sai của Nga và của Tàu. Hắn ta cũng đă khẳng định: “Tôi không có tư tưởng nào ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê-Nin”. Lời khẳng định của của họ Hồ thể hiện rơ tinh thần yếu hèn, óc nô lệ ngoại bang. Trong lịch sử dân tộc, có lẽ Hồ Chí Minh là người duy nhất có tư tưởng đê hèn, đáng hổ thẹn: “Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, c̣n hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu". [Plutôt flairer un peu la crotte des Francais que manger toute notre vie celle des Chinois – Paul Mus, "Vietnam, Sociologie d'une guerre", Paris, Seuil, p. 185]. Đúng là lư luận và tư tưởng xuất phát từ bộ óc của một tên bồi tàu cho thực dân. Lời tuyên bố trên c̣n có ư lường gạt để chữa thẹn khi hắn ta bị dân chúng phản đối việc kư Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-1946, rước Pháp trở lại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mục đích nhờ Pháp hậu thuẫn và công nhận vai tṛ lănh đạo Việt Minh của hắn và sẽ tiến tới vị trí “cha già dân tộc” sau này. Đồng thời mượn tay Thực dân Pháp tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, nại cớ là các đảng phái Quốc Gia phá hoại Hiệp Định Sơ Bộ (v́ các đảng phái Quốc Gia không chấp nhận Hiệp Định Sơ Bộ nhục nhă này). Xong xuôi, hắn ta quay trở lại nhờ Tàu đánh Pháp (1946-1954), tạo ra 9 năm kháng chiến chống Pháp, mà thực ra không cần thiết, v́ nước ta đă lấy lại chủ quyền từ tay Nhật (với chính phủ Bảo Đại và Trần Trọng Kim) chứ không phải từ tay Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh và đồng bọn đă ‘ăn kít’ Tàu cho đến bây giờ.


    * * *


    Vào đầu thập niên 1960, ở Nam Việt Nam, v́ lầm tưởng rằng chính sách ngoại giao ‘kẻ cả’ của ḿnh sẽ dễ dàng thành công trên đường chống CS, cho nên tổng thống Mỹ John F. Kennedy đă ngạo mạn, coi thường chính sách của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Ông Kennedy đă để thuộc cấp lộng hành, vượt quá phạm vi quyền hạn của một ‘đồng minh’; t́m cách loại bỏ cố vấn chính trị Ngô Đ́nh Nhu, bào đệ của tổng thống và nếu cần th́ loại bỏ cả tổng thống Diệm “cứng đầu” ra khỏi chính trường. Chủ trương “Diem must go” của chính quyền Kennedy với hy vọng khi thay đổi người lănh đạo, th́ cục diện Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn, v́ họ cho rằng tổng thống Diệm không có khả năng chống Cộng. Đối với Tổng Thống Diệm, dù là loại bỏ bất cứ ai ra khỏi chính quyền của cụ, mà không do chính cụ định đoạt, đều xúc phạm trầm trọng đến uy quyền quốc gia. Về phía chánh quyền Kennedy, v́ nóng ḷng muốn loại bỏ tổng thống Diệm, nhưng lại muốn che giấu bàn tay tội lỗi của ḿnh, cho nên đă tung tiền ra, thuê mướn đám “tướng tá phản loạn” hiếu danh ham lợi, thảm sát tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và cố vấn chính trị của ngài là bào đệ Ngô Đ́nh Nhu vào sáng ngày 02-11-1963.

    Anh em tổng thống Diệm bị hạ sát sáng ngày 02-11-1963, th́ ngay trong buổi chiều hôm đó, nữ kư giả Marguerite Higgins, người thường bám sát tổng thống Diêm để viết báo, đă hỏi Roger Hilsman, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao đặc trách Đông Á vụ, một người trong nhóm chủ mưu giết tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và ông cố vấn chính trị Ngô Đ́nh Nhu, rằng: “Bàn tay ông đă nhuốm máu, ông thấy thế nào?” Hilsman lạnh lùng trả lời: “Ồ Maggie, thôi mà. Cách mạng th́ phải gian khổ. Máu đổ thịt rơi.” (sách Bàn Tay Hoa Kỳ Cái Chết Ông Diệm, trang 285, chuyển ngữ của Vũ Văn Ninh&Trần Ngọc Dung, nguyên tác của nữ tiến sĩ Ellen J. Hammer).

    Thế nhưng chính quyền Kennedy đă lầm to! Liên tục nhiều năm sau khi anh em tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị giết, cục diện chính trường và chiến trường miền Nam đă chẳng thay đổi tốt hơn mà c̣n dẫn đến nhiều hệ luỵ xấu hơn, cho cả Việt Nam Cộng Ḥa và Mỹ. Khi đề cập đến t́nh h́nh này, giáo sư Sử học Hoàng Ngọc Thành, trong cuốn ‘Công và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam’, trang 606, đă viết: “T́nh h́nh miền Nam trở nên hỗn loạn, các tín đồ Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo xung đột với nhau trên các đường của các thành phố lớn, các đồng chí cộng sản thừa dịp xúi giục xung đột, gây hỗn loạn thêm nữa. Vụ đảo chánh của Nguyễn Khánh mở màn cho 5 vụ đảo chánh kế tiếp và chỉ trong năm 1964, miền Nam có đến 7 chính phủ. Trước t́nh trạng như vậy, ngay cả thứ trưởng Harriman, một trong những nhân vật tích cực chủ trương lật đổ tt NĐD trước kia, cũng phải thốt ra rằng thời ông Diệm khá hơn nhiều.”

    Sách đă dẫn ở trên, trang 607&608 tác giả Hoàng Ngọc Thành cho biết thêm: “Sự kiện chính quyền John F. Kennedy mưu đồ đảo chánh kiểu thực dân và gây ra sự ám sát một nguyên thủ đồng minh là một sự phản bội đáng trách và dẫn đến việc Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam. Trái lại khi gặp gỡ cựu bộ trưởng quốc pḥng Mỹ McNamara trong một hội thảo rút các bài học về trận chiến tranh trong tháng 11-1995, đại tướng Vơ Nguyên giáp và một số đồng chí thời chiến của ông đă lập luận rằng chính sách của chính quyền John F. Kennedy về Việt Nam đă sai lầm đưa đến thất bại. Ngô Đ́nh Diệm, theo họ, là một người quốc gia, ông không bao giờ cho phép người Mỹ nắm quyền chỉ đạo trận chiến tranh, đưa cả Hoa Kỳ và đồng minh Sài G̣n không may đến sự bại trận tốn kém. Vậy vụ đảo chánh lật đổ Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm và đáng ngạc nhiên nhiều về sự can thiệp của Hoa kỳ tại Việt Nam.”

    Sự thể đă quá rơ ràng, cuộc “cách mạng 01-11-1963” ở Nam Việt-Nam không phải do “đám tướng tá phản loạn” tự ḿnh chủ mưu, tự ḿnh hành động mà do chính quyền Kennedy ‘organised’, ‘set in motion’, ‘sponsored’, ‘encouraged’. Nếu Mỹ không ‘organised’, không ‘set in motion’, không ‘encouraged’ và không ‘sponsored’ th́ chắc chắn đám phản loạn không dám hành động. Cho nên, nếu t́m đến ư nghĩa thực của sự kiện 01-11-1963, th́ đây chỉ là một vụ mưu sát và cố sát mang tính chất h́nh sự do ngoại bang núp trong vỏ bọc ‘ngoại giao’ chủ mưu và bỏ tiền ra thuê mướn đám tướng tá phản loạn thực hiện, chứ không phải là cuộc Cách Mạng theo đúng nghĩa của nó. Do đó, câu trả lời của Hilsman đối với câu hỏi của bà Higgins ở trên, hoàn toàn sai trái, đầy ư nghĩa nguỵ biện, bẩn thỉu và dă man trong vai tṛ đồng minh đối với Việt Nam Cộng Ḥa. Không ai có thể chấp nhận được câu trả lời ngang ngược đầy máu của Roger Hilsman.

    Xét về hành động của phe cánh ngoại giao Hilsman, Harriman, Cabot Lodge, tuy dă man, dơ bẩn, nhưng nếu xét về quyền lợi của nước Mỹ, th́ họ chỉ đáng trách chứ không đáng nguyền rủa. Riêng đám tướng tá phản loạn chỉ nhắm vào danh và lợi cá nhân, chia chác nhau 3 triệu đồng tiền Việt Nam Cộng Ḥa (tương đương 40 ngàn dollars), số tiền mà chính quyền Kennedy thuê để giết người, mới thực sự đáng ghê tởm và đáng nguyền rủa.

    Nh́n tổng quát về quá khứ, đám phản loạn sau cái gọi là “cách mạng 01-11-1963” đă chẳng có một đường lối ‘cách mạng’ nào, ngoài việc thả cán hộ VC như Mười Hương, Lê Câu, v.v…; giết kẻ thù của VC như ông Phan Quang Đông, là người đă có công rất lớn trong tổ chức biệt kích của Việt Nam Cộng Ḥa; phá bỏ thành quả Ấp Chiến Lược của cụ Diệm mà VC rất e ngại; đám phản loạn chỉ biết ngồi nh́n quân đồng minh tự ư ồ ạt tiến vào miền Nam như chốn không người, rồi lại ồ ạt rút lui.

    Sau hơn 10 năm kịch chiến không thành công, cuối cùng phải tuyên bố đầu hàng giặc Cộng vào trưa ngày 30-4-1975; đưa đến thảm họa 3 triệu người thương vong, quê hương bị tàn phá trầm trọng, hàng trăm ngàn người chết trên đường vượt biên, vượt biển, hàng trăm ngàn người khác bị đưa vào các trại lao tù khổ sai của VC, hàng ngàn cặp vợ chồng tan nát v́ thủ đoạn cướp vợ cướp con tù cải tạo, hàng vạn gia đ́nh ly tán, hàng ngàn người không nơi nương tựa sau khi trở về từ vùng “kinh tế mới”. Như thế th́ việc lật đổ Tổng Thống Diệm chỉ có một ư nghĩa duy nhất là thay cái ‘tốt’ đă có sẵn bằng cái ‘xấu’ vào ngày 2-11-1963; rồi đến 30-4-75 đảng giặc Đỏ lại thay cái ‘xấu’ bằng cái ‘tồi tệ’. Thực tế đă cho thấy, cái ‘tồi tệ’ cứ tiếp diễn măi cho đến ngày nay. Rơ ràng, đối với người dân miền Nam, chẳng có ư nghĩa ǵ là ‘cách mạng’ sau 2 lần ‘thay ngôi đổi chủ’, mà chỉ có ‘cách mạng’ riêng cho đảng Mafia ở Hanoi mà thôi. Dĩ nhiên, không ai phủ nhận, miền Nam sau ngày 2-11-1963, tuy quyền tự chủ trên chiến trường bị giới hạn v́ quan niệm ‘người nào chi tiền nhiều, người ấy chỉ huy’, nhưng tự do/dân chủ vẫn c̣n được duy tŕ cho đến khi giặc Đỏ tràn vào Saigon.

    Tài liệu c̣n cho biết thêm, kể từ khi ông Ellsworth Bunker được cử làm đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon năm 1967 “với nhiệm vụ bí mật, chuẩn bị việc rút quân chiến đấu ra khỏi miền Nam Việt Nam” (sách Cuộc Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ, trang 27, chuyển ngữ Nguyễn Văn Hùng, nguyên tác Stephen B.Young); không hề thấy một sách lược độc lập, tự chủ nào của Saigon được tuyên bố, khả dĩ thay thế những lỗ hổng, một khi quân đồng minh rút khỏi miền Nam Việt Nam. Chính v́ không biết rơ ư định của đồng minh, không có viễn kiến chính trị, không có khả năng tiên liệu bất trắc, chỉ trông chờ đồng minh viện trợ, bật đèn xanh lúc nào làm lúc đó, nên đám tướng tá phản loạn đă không tránh khỏi thất bại vào trưa ngày 30-4-1975. Khi thất bại th́ đám này sẵn sàng đào tẩu hoặc đầu hàng giặc, mặc kệ thuộc cấp và dân t́nh ra sao th́ ra. Khi c̣n chức quyền, đám phản loạn không nghĩ được điều căn bản là: chẳng có một đồng minh nào có thể tốt bụng đến độ viện trợ cho không, lại c̣n hy sinh xương máu, tốn công, tốn của để lo cho sự an nguy của đồng bào, Tổ Quốc của người dân nước khác.

    V́ biết trước điều đó, tổng thống Diệm t́m cách bớt dần lệ thuộc vào ‘viện trợ’ Mỹ, từng bước tiến tới tự lực tự cường, mới hy vọng mang chủ quyền thực sự về cho dân tộc, và như thế mới vô hiệu hóa được cái loa tuyên truyền láo khoét “chống Mỹ cứu nước”của giặc Cộng. Nhưng đang thực hiện th́ bị phản bội. Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă tiên liệu, nếu miền Nam rơi vào tay giặc Cộng Hanoi, th́ cả nước sẽ rơi vào tay giặc Tàu. Thật vậy, ngày nay cứ nh́n thái độ hung hăng của giặc Tàu trên Biển Đông th́ thấy rơ, trước đây nó đă tận t́nh giúp đỡ đảng giặc đỏ ở Hanoi “đánh Tây đuổi Mỹ” cũng chỉ v́ dă tâm, âm mưu cướp đất, cướp biển của Tổ Quốc Việt Nam. Đảng giặc đỏ ở Hanoi đă không nh́n thấy điều hệ trọng đó mà chỉ thấy quyền lợi riêng của đảng! Và với sự giúp sức đắc lực của các quan thái thú Tàu biết nói tiếng Việt ở Hanoi, giặc Tàu đă thực hiện thành công ư đồ đó. Mặc dầu lũ Vẹm cứ lớn tiếng tuyên truyền về “tinh thần quốc tế vô sản”, nhưng đến nay mới thấy rơ hơn, chẳng có “tinh thần quốc tế vô sản” nào cả, mà chỉ có quyền lợi của Đảng Giặc Tàu liên kết với Đảng Giặc Đỏ Hanoi để chia phần, để bán tài nguyên, để phá nát lănh thổ và biên cương của tiền nhân ta để lại.

    Xét về quyền lợi của Mỹ, cho dù chính quyền Kennedy có cho rằng chính sách chống CS của Tổng Thống Diệm kém hữu hiệu, có thể ảnh hưởng xấu đến kế hoạch của họ ở Á Châu đi nữa, th́ họ cũng không thể ngang nhiên chà đạp lên Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa -- một nước có chủ quyền và đang là đồng minh của Hoa kỳ -- thay đổi nhân sự, thay đổi cơ chế lănh đạo theo ư riêng của họ được. Nếu đám phản loạn nghĩ được điều sơ đẳng này, th́ đất nước đă không loạn, cục diện Việt Nam đă khá hơn, dân miền Nam đă không rơi vào thảm cảnh ‘quốc phá gia vong’.

    Phải nói, ngay cả khi, nếu cho rằng Tổng Thống Diệm có lỗi đi nữa, th́ quyền quyết định về số phận cụ Diệm là quyền của toàn dân miền Nam. Cụ phải được đưa ra ṭa án, nhận phán quyết của ṭa án, chứ không phải phán quyết của của Kennedy, Harriman, Hilsman, hay Cabot Loge và lũ đồ tể người Việt đâm thuê giết mướn. Nên nhớ rằng: sau ngày chia đôi đất nước 20-7-1954, Hoa Kỳ tự ư công nhận Chính Quyền của Thủ Tướng Diệm là đồng minh, tự ư chuyển viện trợ từ tay Pháp sang tay Việt Nam Cộng Ḥa, chỉ sau khi thủ tướng Diệm chiến thắng B́nh Xuyên vào năm 1955. Chính quyền Mỹ hành động như thế không v́ quyền lợi của dân tộc Việt Nam, lại càng không v́ quyền lợi của thủ tướng Diệm. Mà đó là v́ quyền lợi chung của toàn thể ‘Thế Giới Tự Do’ trong vùng Đông Nam Châu Á, trong đó có miền Nam Việt-Nam. Quyền lợi đó, lúc ấy, phù hợp với quyền lợi của Mỹ vào giai đoạn cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Cộng Sản Nga đang tiếp diễn. Đến khi không cần thiết phải hợp tác nữa th́ miền Nam Việt-Nam cũng chỉ là con số không to tướng đối với chính quyền Mỹ.

    Thực sự th́ đám chóp bu chủ mưu lật đổ tổng thống Diệm như: T.T. Kennedy, Thứ trưởng Ngoại giao Averell Harriman, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao đặc trách Đông Á vụ Roger Hilsman, Đại sứ Cabot Lodge, v.v… không hề có một chút kinh nghiệm nào, khả dĩ đấu tranh hữu hiệu chống CS Hanoi, con đẻ của Nga-Tàu vào thời điểm ấy, mà họ chỉ thích dùng vũ khí và đạn dược để giải quyết vấn đề. Họ đă chẳng hiểu ǵ về “bản chất của cuộc chiến”. Bằng chứng là sau khi đám tướng tá tồi bại hạ sát tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và cố vấn chính trị Ngo Đ́nh Nhu, t́nh h́nh chính trị miền Nam đă trở nên rối ren liên tục như đă nêu trên, làm mồi cho VC lợi dụng. Ngoài ra, c̣n phải kể thêm, kinh tế lệ thuộc vào viện trợ Mỹ nhiều hơn, đời sống xă hội miền Nam khó khăn hơn, lương bổng của lính và công chức ít oi hơn, vợ con lính sống khổ hơn, chiến trường đă trở nên sôi động hơn, phụ nữ đi bán ‘bar’ nhiều hơn; trên chiến trường máu đổ thịt rơi nhiều hơn, ở cả hai miền Nam - Bắc từ 1965 (mà trước kia chỉ xảy ra ở miền Nam, sau này v́ kế hoạch đánh bom Hanoi bằng không quân Mỹ đă làm dân cả hai miền Nam-Bắc khốn đốn, nhưng sau cùng th́ Hanoi vẫn thắng). T́nh h́nh này có lợi cho xảo kế tuyên truyền “chống Mỹ cứu nước” của Hanoi nhiều hơn. Từ đó, nó lấy cớ xua quân vào miền Nam nhiều hơn.

    Tạo ra t́nh h́nh đó, chính quyền Mỹ và đám tướng tá phản loạn đă vô t́nh khuếch đại cái loa tuyên truyền “chống Mỹ cứu nước” giùm cho Hanoi trên chính trường quốc tế. Qua âm thanh khuếch đại đó, thế giới đă nhầm lẫn, ngay cả dân chúng Mỹ cũng đă nhầm lẫn hơn là nh́n thấy thực tế dân sinh của cả 2 miền Nam Bắc Việt-Nam. Qua bức màn sắt, truyền thông báo chí thế giới không thể nh́n thấy “đại hùng binh” Nga-Tàu và các nưóc CS khác đang trá h́nh, đứng đàng sau hậu trường chính trị Hanoi. Mà chỉ nh́n thấy thực trạng ở miền Nam. V́ nhầm lẫn, cho nên cộng đồng thế giới đă không c̣n thiện cảm với miền Nam như thời tổng thống Diệm cầm quyền nữa; họ tưởng chính quyền nền đệ nhị Cộng Ḥa chỉ là một thứ tay sai của Mỹ, nhưng không hoàn toàn đúng như vậy. Nương theo lợi điểm đó, Hanoi không thèm nói chuyện với Saigon. Tổng thống Thiệu đ̣i ngồi ngang hàng với Hànoi ở bàn hội nghị mà không được, nó không thèm đếm xỉa đến, mà nó chỉ nói chuyện với Hoa Kỳ. Lúc đó, Saigon chỉ được phép nói chuyện với tay sai của Hanoi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Ḥa đàm Paris (4 bên) năm 1973, do Henry Kissinger và Lê Đ. Thọ đạo diễn, là liều thuốc tự tử mà chính quyền Saigon bị bắt buộc phải uống. Do đó, toàn dân ta mới phải gánh chịu đại thảm họa ‘nước mất nhà tan’ vào trưa ngày 30-4-1975, một sự kiện đau thương nhất trong lịch sử dân tộc. Ngược lại, giặc Tàu là người đă thủ đắc lợi lộc nhiều nhất sau khi miền Nam VN rơi vào tay đảng Mafia ở Hanoi.

    Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, cố vấn chính trị Ngô Đ́nh Nhu, ông Ngô Đ́nh Cẩn là các nạn nhân trực tiếp của đồng minh phản bội và tay sai phản loạn. Cả 3 ông đă hiểu thấu đáo bản chất của CS Hanoi chỉ là một lũ tay sai của QTCS đệ Tam, hiếu chiến, nhiều lươn lẹo. Những người theo CS, theo nhận định của ông Ngô Đ́nh Cẩn, phần đông bị bắt buộc hoặc chỉ v́ bị lầm lẫn qua xảo thuật tuyên truyền bịp bợm của Hanoi. Họ cần phải được thuyết phục, chiêu hồi bằng chính nghĩa, cần phải đưa họ về với dân tộc bằng con đường ḥa b́nh nữa, chứ không thể chỉ đơn thuần bằng nhà tù hay biện pháp quân sự. Chính sách “Chiêu Mời Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ” do ông Cẩn đề ra đă đạt thành quả mỹ măn. Xin nêu một vài chứng minh, trích nguyên văn trong cuốn ‘Ḍng Họ Ngô Đ́nh Ước Mơ Chưa Đạt’, trang 99, tác giả Nguyễn Văn Minh, Hoàng Nguyên xuất bản, tái bản lần thứ tư tháng 7-2004: “Lê Phước Thưởng, tỉnh uỷ viên Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên đă bị bắt. (Lê Phước Thưởng một người cựu kháng chiến cảm phục ông Cẩn đến độ, sau 30-4-75, ở trong tù cải tạo luôn luôn sẵn sàng đánh lộn với người nào nói xấu ông Cẩn hoặc Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung. Người từng chứng kiến những vụ đánh lộn của Lê Phước Thưởng là cựu Tr T. Lê Thiện Phước ở tù chung với Thưởng)”.

    Cùng trang 99 nêu trên: “Nguyễn Đ́nh Chơn, Thành ủy viên Thành ủy Huế là người đầu tiên thực tâm chuyển hướng đă được trả cấp bậc Thiếu tá Cảnh sát, làm Trưởng ty Cảnh sát Đặc Biệt Gia Định cho đến ngày 30-4-1975, đi tù cải tạo và hiện đă định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O.” Số cán bộ VC hoạt động ở miền Nam vĩ tuyến 17 càng ngày càng cạn dần thấy rơ, mới chỉ sau 2 năm chính sách ‘Chiêu Mời’ của ông Cẩn đề ra.

    Tổng thống Diệm cũng hiểu cả các tổ chức, các phe phái trong hoàn cảnh xă hội hỗn loạn, nhiều xu hướng chính trị phức tạp “thập nhị sứ quân” ở miền Nam do Thực Dân Pháp và Cộng Sản để lại. Đặc biệt là cụ Diệm biết rất rơ các nhu cầu thiết yếu của đời sống nông dân (chiếm 80% dân số Việt Nam) ở vùng quê và vùng núi là những an toàn khu của Việt Cộng cần phải vô hiệu hóa. Cho nên chỉ trong ṿng 2 năm sau Hiệp Định Geneva (1955-1957), với ngân quỹ trống rỗng, với binh lực vá víu, nhưng chính quyền tổng thống Ngô Đ́nh Diệm không những đă chiến thắng đám tay sai Thực Dân Pháp, mà c̣n chiến thắng CS ở Nam Việt Nam, rất vẻ vang, dẫn đến cải tiến sâu rộng toàn bộ xă hội miền Nam, mà trước đó, tưởng chừng như không một ai có thể thực hiện nổi. V́ thế mà tổng thống Mỹ Dweight D. Eisenhower đă gọi tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là người có phép lạ (A Miracle Man) trong công cuộc ổn định miền Nam Việt Nam. Tổng thống Diệm được mời đến thăm nước Mỹ trong Tháng Năm 1957, đă được tổng thống Eisenhower ra tận chân cầu thang máy bay nghênh đón rất trọng thể. Ngài cũng nhận được 10 ngàn đô-la cho giải thưởng chống Cộng Magsaysay sau đó, và ngài đă tặng hết số tiền này cho Đức Lạt Lai Lạt-Ma của Tây Tạng. Nhưng đối với tổng thống Diệm, đó không phải là hào quang. Cái hào quang mà cụ Diệm t́m kiếm đă từ 20 năm về trước, đó chính là: chủ quyền của dân tộc và nền an sinh hạnh phúc của toàn dân.

    Căn cứ vào thành quả trên, có thể nói tổng thống Diệm là người hiểu rơ mánh khoé của đảng giặc Đỏ, hiểu rơ thực dân Pháp, hiểu rơ ‘đồng minh’ Hoa Kỳ, nhưng cụ đă lầm lẫn khi tin dùng một lũ tay sai phản loạn. Tổng thống Diệm cũng đă coi thường cái chết của chính cụ và các bào đệ, chỉ v́ ngài quan niệm “quân đội để bảo vệ Tổ Quốc chứ không để bảo vệ Tổng Thống.” Tổng thống Diệm đă tôn trọng quân đội, nhưng khốn nỗi, trong đám chóp bu quân đội lúc ấy, có một số người “bất tài vô đức” lại được tổng thống tin cẩn, chỉ nghĩ đến danh và lợi nhất thời, dơ bẩn, phản phúc, không tôn trọng hiến pháp, không nh́n xa trông rộng, con nhái bén muốn to bằng con ḅ, nên mới dẫn đến ngày “găy súng” 30-4-1975, đưa cả nước vào ṿng nô lệ giặc Tàu.

    Đành rằng sự yểm trợ của Mỹ cho Saigon -- ở vào giai đoạn khó khăn bước đầu khai sinh nền đê nhất Cộng Ḥa ở Nam Việt-Nam -- là cần thiết. Nhưng cách yểm trợ của họ đă thiếu khôn khéo nếu đem so với cách yểm trợ của Nga-Tàu cho Hanoi. Tổng thống Diệm đă hiểu rất rơ cái ‘thế đứng’ của Việt Nam trên trường Quốc Tế lúc ấy rất khó khăn. Cụ muốn tách rời sự yểm trợ của Mỹ ở miền Nam và khuyến dụ Hanoi cũng tách rời sự yểm trợ của Nga-Tàu ở miền Bắc để tránh binh đao cho toàn dân, qua 6 bước phát triển giao lưu: 1) Cho dân 2 miền trao đổi thư tín. 2) Cho dân qua lại tự do. 3) Cho dân 2 bên tự do lựa chọn nơi định cư. 4) Trao đổi kinh tế. 5) Hiệp thương. 6) Tổng tuyển cử. Tiến tŕnh đó chỉ là đề nghị sẽ được tham khảo, nghiên cứu kỹ càng, và trước khi thi hành phải được quốc hội phê chuẩn. Tổng thống Diệm tin tưởng vào thế mạnh của miền Nam về kinh tế, chính trị và ngoại giao trong thời điểm lúc bấy giờ (1956-1962) để có thể nói chuyện với Hanoi. Vẫn biết, vượt qua được 6 bước giao lưu đó là một điều cực kỳ nguy hiểm và cực kỳ khó khăn cho cả 2 phía người Việt. Rất tiếc, tuy việc lớn không thành, nhưng phải công nhận, đó là sáng kiến táo bạo của một người yêu nước thương dân hết ḷng, mà chỉ có cụ Diệm mới dám nghĩ, dám thực hiện. Tổng thống Diệm không muốn nh́n người dân của ḿnh lâm cảnh binh đao, làm mồi cho các xung đột quốc tế. Thật đáng thương tiếc một người yêu dân yêu nước nồng nàn! Tổng thống và các bào đệ đă chết v́ chính sáng kiến yêu nước của ḿnh! Lại c̣n bị vu oan giá họa là “đâm sau lưng chiến sĩ”.

    Những người kém hiểu biết, hoặc đần độn, hoặc v́ định kiến sai lầm, thoạt nh́n sự kiện ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu gặp Phạm Hùng ở Tánh Linh, đă hồ đồ kết luận ngay rằng tổng thống Diệm “đâm sau lưng chiến sĩ”. Họ cần phải hiểu rằng, trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào, từ cổ chí kim, cũng đều phải kết hợp giữa đấu tranh chính trị với quân sự mới hy vọng chiến thắng. Đó là chuyện thường t́nh. Kissinger đă đi đêm nhiều lần với Tàu Cộng v́ biết Tàu Cộng là cha đẻ của Cộng đảng Hanoi, trong khi quân Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Tổng thống Thiệu cũng đă từng đ̣i nói chuyện ngang hàng với Hanoi ở bàn hội nghị mà không được. Kennedy và Khrushchev vẫn phải nói chuyện với nhau giữa lúc cuộc chiến tranh lạnh đang tiếp diễn. Mới đây, ông Hamid Karzai, tổng thống Afghanistan có ư muốn nói chuyện với thủ lănh phiến loạn Taliban trong khi quân của ông c̣n đang lâm chiến với quân Taliban. Thử hỏi, những người này có “đâm sau lưng chiến sĩ không”? Hơn nữa ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă cho Cabot biết là ông sẽ nói chuyện với Hanoi; ‘danh chính ngôn thuận’ như thế th́ sao lại gọi là “đâm sau lưng chiến sĩ”? Việt Nam Cộng Ḥa có chủ quyền, đương nhiên muốn nói chuyện với ai th́ nói. Vả lại, việc ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu nói chuyện với Phạm Hùng mới chỉ là bước đầu, chưa thể thành h́nh trong một sớm một chiều. Mọi việc, nếu 2 bên thỏa thuận cùng ngồi vào bàn hội nghị, th́ qua bàn hội nghị này sẽ c̣n tốn một thời gian lâu dài, có quốc tế chứng kiến. Như thế, th́ dù có muốn “đâm sau lưng chiến sĩ” cũng không đâm được. Dĩ nhiên, kết quả hội đàm c̣n tuỳ thuộc vào tài năng đấu lư, chiêu dụ, áp lực của mỗi phía. Ai biết trước được kết quả sẽ ra sao.

    Như mọi người đă thấy, sau khi tổng thống Diệm và các bào đệ bị thảm sát, hơn 10 năm liên tục chiến tranh với các trận đánh nảy lửa, với số bom đạn sử dụng được biết là c̣n hơn thế chiến II , đă gây thương vong cho 3 triệu người Việt, và 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ, quê hương bị tàn phá, kết quả miền Nam vẫn bị “bể dĩa”. Trước khi “bể dĩa” cũng vẫn phải đi qua ḥa đàm, nhưng ḥa đàm ở thế yếu, chứ đâu được ở thế mạnh như thời cố vấn chính trị Ngô Đ́nh Nhu đưa sáng kiến với Phạm Hùng. Đáng trách nhất là 3 tên: Cabot Lodge, Harriman và Hilsman đă chẳng hiểu một tí ǵ về CSVN và những nét đặc thù của chiến tranh Việt Nam. Họ không hiểu rơ bản chất của cuộc chiến họ đang đeo đuổi là một cuộc chiến tranh “ư thức hệ giữa CS và Tư Bản”, nhưng họ cần phải hiểu thấu đáo hơn nữa về cuộc chiến này là một bên, miền Nam VN bảo vệ nền Tự Do Dân Chủ phôi thai vừa mới lấy lại từ tay Thực dân Pháp. Quan trọng và khó khăn là c̣n phải lo chống lại một thứ vũ khí tuyên truyền rất tinh vi xảo quyệt, có khả năng thu hút quần chúng các xứ nghèo rất mạnh của Đệ Tam QTCS. C̣n bên kia, miền Bắc là con đẻ của Đệ Tam QTCS rất thạo nghề tuyên truyền xảo trá, quyết tâm “đánh Mỹ giùm cho Nga-Tàu đến người Việt Nam cuối cùng”. Sự hiện diện quá đông đảo của quân đội Mỹ lúc ấy, theo tổng thống Diệm là một điều tối kỵ. Cũng không thể chỉ đơn thuần giải quyết bằng bom đạn mà có thể thành công được. Và rơ ràng là đă không thành công. Họ cũng không hiểu nổi những khó khăn, đầy phức tạp trong xă hội miền Nam sau khi dân chúng miền Nam vừa mới thoát khỏi nanh vuốt nham hiểm của thực dân Pháp và CS. Những khó khăn chồng chất về mọi mặt, đ̣i hỏi nhiều thời gian để ổn định, không thể gấp rút được.

    Với 9 năm cầm quyền của tổng thống Diệm, là một thời gian quá ngắn, không đủ để có thể biến một miền Nam VN đầy dẫy tệ đoan xă hội, nhân tâm chia rẽ trầm trọng -- v́ đă chịu ảnh hưởng lâu dài của cả 3 chế độ: Phong Kiến, Thực Dân, Cộng Sản với 3 chính sách ‘ngu dân’ sâu đậm -- để trở thành một nước có thể chế Tự Do, Dân Chủ theo kiểu Tây Âu hoặc Hoa Kỳ, là một việc bất khả thi. Nhưng chính việc bất khả thi này đă trở thành một trong những nguyên nhân mà bọn phản bội và phản loạn dựa vào, biện minh cho việc lật đổ chính quyền của tổng thống Diệm.

    Giáo sư Sử học, ông Howard Jones tác giả cuốn ‘Death Of A Generation’, trang 97&98, đă nêu ra sự so sánh giữa Mă Lai và Nam Việt-Nam có cùng nhiệm vụ chống CS nhưng rất khác nhau về ṇi giống, về hoàn cảnh xă hội và về hoàn cảnh địa dư như sau:

    “Lemnitzer’s analysis reinforced Taylor’s feelings. The joint chiefs’chair recognized the advisability of using countersurgency tactics where applicable. But despite the similateries between the British experiences in Malaya and the situation in South Vietnam, the differences were so striking that the latter required military action. The rebels in Malaya had been denied a safe haven in neighboring Thailand; the Vietcong enjoyed that privilege in both Lao and Cambodia. The racial features of the Chinese insurgents in Malaya had distinguished them from the native populace; the Vietcong were not discernible from South Vietnam loyalists. Food war scare in Malaya but plentiful in Vietnam, meaning that the Vietcong had ample supplies. The most important differences, however, lay in leadership and field perfomance: The British had commanded well-trained Commenwealth troops, whereas the ARVN forces suffered from inadequate training and low morale that became evident in their poor fighting record. Despite all these British advantages, it took twelve years to squelch an insurgency in Malaya that was considerably weaker than the one led by Vietcong.”

    Lược dịch: Phân tích của ông Lemnitzer đă tăng cường cho cảm nghĩ của tướng Taylor. Vị tham mưu trưởng nhắc nhở lời cảnh báo về việc sử dụng chiến thuật chống nổi dậy, có thể được áp dụng. Mặc dầu có những điểm tương tự giữa kinh nghiệm của người Anh ở Mă-Lai với hoàn cảnh ở Nam Việt-Nam, nhưng những khác biệt đă thuyết phục được điều sau cùng là phải có hành động quân sự. Quân du kích ở Mă-Lai không có nơi an toàn trong đất láng giềng Thái-Lan; trong khi Việt Cộng có đặc quyền này ở cả hai nước Lào và Cambodia. Đặc điểm về ṇi giống của quân nổi dậy người Tàu ở Mă-Lai có những khác biệt với quần chúng bẩm sinh ở địa phương; trong khi Việt Cộng lại không có ǵ để phân biệt với dân chúng thuần tuư Nam Việt-Nam. Thực phẩm dùng cho chiến tranh trong đất Mă-Lai thật đáng ngại, nhưng lại đầy dẫy ở Việt-Nam, có nghĩa là Việt Cộng được tiếp tế thực phẩm đầy đủ. Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng hơn cả là sự lănh đạo chỉ huy và đặt kế hoạch: Người Anh đă chỉ huy một quân đội đại chúng, được huấn luyện kỹ càng, trong khi quân đội Nam Việt-Nam lại không được huấn luyện tương ứng và tinh thần thấp kém, nghèo nàn, đă được ghi nhận trong chiến đấu. Mặc dầu người Anh có những lợi điểm như vừa kể, mà cũng phải mất mười hai năm mới đè bẹp được quân nổi dậy ở Mă-Lai mới là điều yếu kém đáng được xem xét hơn là cái mà Việt Cộng đă chỉ đạo.

    Nội dung trích đoạn trên có thể chưa hoàn toàn đúng, nhưng phần lớn đă phản ánh những tiêu điểm khách quan, làm nổi bật về thời gian, và về nhiều ưu thế sẵn có của Mă Lai mà Nam Việt-Nam không có. Thế mà Mă Lai cũng đă phải mất 12 năm mới đè bẹp được CS. Điều quan trọng là phương pháp chống CS ở mỗi nước. Sự so sánh rất sát với thực trạng của 2 nước trong thập niên 1960.

    Nếu dùng công tâm để nhận xét, không ai phủ nhận, trong 9 năm cầm quyền của tổng thống Diệm có một số nhỏ nhược điểm. Tuy những nhược điểm đó không phải là đường lối chính sách do tổng thống Diệm đề ra, mà chỉ do cấp thừa hành phạm phải, hoặc một vài lề lối cũ chưa kịp sửa đổi, nhưng đă bị phe phái chống đối, đám bất măn và đặc biệt là CS chen vào khai thác, lợi dụng, thổi phồng, vu khống. Chỉ v́ quyền lợi phe phái nhỏ nhen, mà những người này đă cố t́nh bỏ qua những ưu điểm rất lớn về chủ quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xă hội, y tế, giáo dục, v.v…mà cụ Diệm đă đạt được cả về phẩm và lượng trong thời gian 9 năm cầm quyền; chẳng hạn như trong sách ‘Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc’, trang 219, tác giả Minh Vơ cho biết: “…ṭa đại sứ ở Saigon lúc ấy là 81, gần gấp đôi số nước có bang giao với Hanoi. Trong khi Hanoi không đủ gạo ăn th́ Saigon xuất cảng, từ 70,000 tấn vào năm 1955 đă tăng lên đến 340,000 tấn xuất cảng vào năm 1962. Số lượng gia súc như heo, gà, vịt xuất cảng trong năm 1961 đă trị giá gần 140 triệu đồng (vào khoảng 4 triệu Đô-la, tính theo giá chính thức là 35 Đồng một Đô-la). Và c̣n nhiều ưu điểm khác không kể xiết”.

    Cùng trang 219, ở một đoạn khác, ông Minh Vơ cho biết thêm: “…tác giả Hồ Sỹ Khuê, một người vốn chê ông Diệm là độc tài và kỳ thị tôn giáo, thậm chí đàn áp Phật Giáo. Ông Hồ Sỹ Khuê nói về cảnh thanh b́nh phồn thịnh ấy như sau. –Đây tôi đọc từ cuốn sách đồ sộ của ông nhan đề Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trong đó có nhiều câu đại loại như thế này: ‘nông thôn không c̣n bần cố nông. Thành thị cũng không bao giờ c̣n gọi là vô sản được…’ ‘Tài xế tắc xi nhưng trưa đến không kể khách, nằm gác chân xem báo. Đạp xích lô nhưng mỗi chiều ngồi nhậu nhẹt lai rai bàn chuyện thời cuộc với xóm giềng. Những cảnh như thế xóa sạch mọi đẳng cấp…’”

    Như thế, chỉ nói riêng về dân sinh th́ miền Nam cũng đă hơn hẳn miền Bắc với thời gian lâu hơn nhưng tồi tệ hơn, và luôn bị che khuất bởi bức màn sắt rất kiên cố. Ngoài ra, cũng c̣n nhiều ưu điểm khác đáng chú ư, mà ngay cả kẻ thù cũng không thể phủ nhận là: các hạ tầng cơ sở của Cộng đảng ở miền Nam dưới thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă bị tiêu diệt nặng nề, gần như bị phá sản không thể cứu văn. Cũng theo sđd ở trên của tác giả Minh Vơ trang 140, phần chú thích cho biết: Nguyễn văn Linh đă nói với nhà báo thân cộng Neil Sheehan các cơ sở hạ tầng bị phá vỡ là 75%. C̣n theo Văn Tiến Dũng viết trên giấy trắng mực đen th́ 90% cán binh CS ở miền Nam đă bị tiêu diệt, 60.000 chỉ c̣n 5,000 và đă phải thừa nhận: hy vọng chiến thắng rất mong manh (xem After The War Was Over của Neil và xem Về cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước của Văn Tiến Dũng, chú thích trang 16).

    Không biết sau ngày 2-11-1963, các cơ sở VC này ra sao. Chúng có hồi sinh được hay không? Nhưng các trận đánh lớn đă đưa miền Nam vào bàn hội nghị Paris 1973 ở thế yếu. Thật đáng tiếc, những thành quả to lớn về mọi mặt của tổng thống Diệm vừa nêu trên, nền đệ nhị Cộng Ḥa đă không đủ bản lănh để nối dài thêm nữa. Có rất nhiều nguyên do mà theo tiến sĩ, giáo sư sử học Mark Moyar, tác giả cuốn Triumph Forsaken, th́: “Nhiều cá nhân giữ những địa vị trong chính quyền trong thời hậu Diệm, đích thực, thiếu các đức tính cần thiết của một nhà lănh đạo, và chẳng ai có tài bằng Ngô Đ́nh Diệm.” Nhưng ông không cho đó là vấn đề quan trọng mà: “chính là sự loại trừ một số người trong giới thượng lưu ra khỏi chính phủ và sự thao túng của phong trào Phật Giáo trong việc vận dụng các nhà lănh đạo chính phủ. Kể từ tháng 11 năm 1963 về sau những lănh tụ hàng đầu ở Sài G̣n không ngừng lập đi lập lại việc loại trừ những người có tài đáng kể, hoặc v́ những người này đă trung thành với ông Diệm, hoặc v́ những lănh tụ đó bị áp lực từ nhóm Phật Giáo tranh đấu…” (trang 334, sđd, Minh Vơ).

    Đây là một sự kỳ thị thật đáng trách xuất phát từ óc bè phái nhỏ nhen. Khi nhắc đến ‘nhóm Phật Giáo tranh đấu’ là nhắc đến tên Thích Trí Quang, một người mặc áo thày tu để làm loạn. Qua nhiều tài liệu chưa phân định chính xác, hắn có là đảng viên CS hay không. Nhưng dù hắn có là đảng viên CS nằm vùng, trá h́nh dưới áo thày tu hay không đi nữa th́ thực tế hắn cũng đă lợi dụng chiếc áo cà sa để làm loạn, góp sức gây sụp đổ cả 2 nền đệ nhất và đệ nhị Cộng Ḥa ở Nam Việt-Nam. Hắn chỉ ngưng làm loạn sau ngày 30-4-75. Nhưng sau 30-4-75 nhiều người mới vỡ lẽ giặc Cộng mới chính là là kẻ thù của Phật Giáo và các tôn giáo khác, th́ hắn lại im hơi lặng tiếng, không làm loạn cũng không ‘tranh đấu’ nữa. Điều đó cho thấy ở 2 giai đoạn trước, hắn ‘tranh đấu’ không v́ ‘Pháp nạn’ mà v́ mục tiêu chính trị. Cũng có thể là v́ bản chất hèn, hắn biết rơ ở 2 chế độ trước không ai làm ǵ hắn, nhưng dưới chế độ giặc Cộng cầm quyền chuyên nghề sử dụng luật rừng, nếu làm loạn th́ hắn có thể bị cầm tù hoặc bị giết. Vào thời đệ nhất Cộng Ḥa, hắn đă xin vào núp trong ṭa đại sứ Mỹ ở Saigon và được Cabot Lodge che chở v́ đây cũng là con bài rất tốt giúp cho phe cánh của Cabot lật đổ tổng thống Diệm. Sang đến đệ nhị Cộng Ḥa, khi hắn đang ‘tranh đấu’ th́ bị tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt ở Huế đưa về Đà Nẵng bằng trực thăng. Theo lời kể lại không rơ thực hư, th́ hắn đă quỳ lạy trước tướng Loan như tế sao, v́ biết tướng Loan là ‘người dám nói dám làm’ dám đá hắn xuống khỏi trực thăng.

    Bên cạnh tên hèn Thích Trí Quang c̣n có một tên hèn khác là Dương Văn Minh. Trên tờ Hải Ngoại Nhân Văn, Số 2 - Tháng 8 Năm 1997, chủ biên Hồ Công Tâm, trang 41, có đăng bài viết tựa đề: “Lại tên vô-lại Dương Văn Minh”, tác giả bài viết, luật sư Nguyễn Văn Chức, cựu nghị sĩ quốc hội Việt Nam Cộng Ḥa. Trong một đoạn của bài viết này, luật sư Chức đă mô tả ông Minh như sau: “Tŕnh độ học vấn của Dương Văn Minh đă thấp, nhân cách của y c̣n thấp hơn. Liêm sỉ của một tướng lănh, th́ lại quá tệ. Ai cũng biết trong vụ đảo chính 1963, y đă ra lệnh ám sát Tổng thống Diệm trên chiếc xe tăng từ nhà thờ Cha Tam về Tổng Tham Mưu, rạng ngày mùng 2 tháng 11. Nhưng sau này y chối. Chẳng những chối mà c̣n đổ lỗi cho người khác. Trong cuốn Our Endless Wars, tướng Trần Văn Đôn, linh hồn của cuộc đảo chính, đă phải bực ḿnh…”

    Năm 1997, nhân dịp kỷ niệm ngày 30-4, Dương Văn Minh tuyên bố sẽ về Việt Nam để góp phần xây dựng đất nước. Luật sư Nguyễn Văn Chức nhận định: “Người ta hiểu rằng, trước khi tuyên bố như vậy, y đă được Việt Cộng cho phép về Việt Nam. Người ta cũng hiểu rằng y đă được Việt Cộng cho phép về Việt Nam để xây dựng nước Việt Nam dưới sự lănh đạo của Việt Cộng.

    Năm 1963, hèn hạ, phản bội và làm tay sai.

    12 năm sau, năm 1975, làm tay sai, hèn hạ và phản bội.

    22 năm sau, năm 1997, lại phản bội, làm tay sai và hèn hạ.

    Suốt đời phản bội. Suốt đời làm tay sai.

    Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh.

    Suốt đời đần độn. Đó là Dương Văn Minh.”

    Bây giờ nh́n về quá khứ, thành phần cam chịu nhiều thiệt tḥi nhất, nhưng hy sinh nhiều nhất là các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Suốt 20 năm (1954-1975) chiến đấu chống CS không ngừng nghỉ. Không ai có thể phủ nhận được thiện chí và công lao to lớn của họ dành cho Tổ Quốc và đồng bào. Họ đă bảo vệ nền dân chủ/tự do c̣n non trẻ cho miền Nam Việt-Nam cho đến khi không c̣n sức để bảo vệ. Nhiều chiến sĩ đă từ giă người thân, âm thầm lên đường và âm thầm gục ngă. Nhiều chiến sĩ đă bị tù mà không có tội sau ngày 30-4-1975. Ngày nay vẫn c̣n nhiều chiến sĩ bị tàn phế, bị bỏ quên sau chiến cuộc. Tất cả, họ là những người đă chiến đấu hết sức cho tự do/ dân chủ, nhưng cuối cùng họ vẫn không được hưởng tự do/dân chủ trên chính quê hương ḿnh.

    Đă 47 năm qua, bây giờ nhắc lại ngày 01-11-1963 là nhắc lại một thời điểm lịch sử đen tối, mở màn cho một thời điểm đen tối hơn: ngày 30-4-1975. Ngày này sẽ c̣n kéo dài, chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt. V́ lẽ, với óc nô lệ giặc Tàu, đảng giặc đỏ ở Hanoi vẫn nhẫn tâm, tiếp tục cai trị dân bằng bạo lực, bằng cờ máu búa liềm. Cha đẻ của cờ máu búa liềm, nước Nga đă vĩnh biệt nó từ 20 năm nay, nhưng khốn nỗi, nó vẫn c̣n in đậm nét trong đầu năo các quan thái thú Tàu biết nói tiếng Việt ở Hanoi. Có lẽ, sẽ c̣n lâu người dân Việt Nam mới nh́n thấy ánh sáng Tự Do, Dân Chủ, v́ giặc đỏ không bao giờ ‘tiêu hóa’ nổi ư nghĩa sâu xa của câu nói: “Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác ǵ nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang.”

    Sách tham khảo:

    -Bàn Tay Hoa Kỳ Và Cái Chết Ông Diệm, nguyên tác Ellen J. Hammer, do Vũ Văn Ninh&Trần Ngọc Dung dịch.

    -Cuộc Chiến Thằng Bỏ Lỡ theo các chứng liệu về Chiến Tranh Việt Nam của cựu Đại Sứ Mỹ Ellsworth Bunker, nguyên tác Stephen B. Young, do Nguyễn Vạn Hùng dịch.

    -Death Of A Generation của Howard Jones.

    -Ngô Đ́nh Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc cuả Minh Vơ.

    -Ḍng Họ Ngô Đ́nh Ước Mơ Chưa Đạt của Nguyễn Văn Minh.

    -Công Và Tội của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam cùa Hoàng Ngọc Thành.

    San Jose 29-10-2010
    Vơ Phương

    * Source: http://lyhuong.net/viet/index.php?op...ndoc&Itemid=56

    Last edited by Sydney; 31-10-2010 at 03:56 AM.

  2. #2
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,749

    Xin hăy nhấn vào link nghe thêm Audio tài liệu Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm

    http://www.esnips.com/doc/03523bb1-5...́nh-Diệm

  3. #3
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,749

    Audio: Thân thế và sự nghiệp của Cố tổng thống Ngô Đ́nh Diệm


    Nghe Audio Thân thế và sự nghiệp của Cố tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ở link dưới đây

    http://www.esnips.com/doc/41d74b05-2...́nh-Diệm

    * Source: www.huyenthoai.org
    Last edited by Sydney; 30-10-2010 at 08:27 PM.

  4. #4
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,749

    Mỹ chủ mưu giết anh em ông Ngô Đ́nh Diệm



    Đời đời nhớ ơn Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống Muôn Năm!

    (Xin nhấn vào 5 Links dưới đây nghe 5 Audio)
    Audio 1
    http://www.esnips.com/doc/01256df1-2...-Diệm-P1

    Audio 2
    http://www.esnips.com/doc/597dcfc3-f...-Diệm-P2

    Audio 3
    http://www.esnips.com/doc/753caaf7-7...-Diệm-P3

    Audio 4
    http://www.esnips.com/doc/eb19a1c3-7...-Diệm-P4

    Audio 5
    http://www.esnips.com/doc/0d9d5331-2...-Diệm-P5
    Last edited by Sydney; 30-10-2010 at 08:16 PM.

  5. #5
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,749

    Ngày Giổ Cố Tống Thống Ngô Đ́nh Diệm


    I.- 1901-1933

    Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm sinh ngày 3-1(giêng)-1901 tại Huế, là con trai thứ 3 của một gia đ́nh gồm 6 nam 2 nu*~. Hai người anh trai của Cụ Diê.m là Ông Ngô Đ́nh Khôi bị Việt-Minh hạ sát năm 1945 đang khi làm Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam và ĐTGM Ngô Đ́nh Thục. Ba người em trai là các ông Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Luyện và Ngô Đ́nh Cẩn, 2 người em gái là bà Ấm và bà cả Lễ.

    Thân sinh TT Ngô D́nh Diệm là cụ cố Ngô Đ́nh Khả, nguyên quán làng Đại Phong, quận Lệ Thủy Tỉnh Quảng B́nh. Cụ cố Ngô D́nh Kha² là vị khoa bảng nổi danh, đă từng làm Thượng Thư, thầy dậy và cố vấn của vua Thành Thái. V́ được rèn luyện trong một gia đ́nh Nho Giáo, dưới sự hướng dẫn của cụ cố thân sinh và người đỡ đầu là Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài; trong tinh thần Thiên Chúa Giáo hợp với triết thuyết Khổng Mạnh, nên cụ Diệm đă hấp thụ được những cá tính đặc biệt: cương nghị, thanh liêm, dũng cảm, chính trực, quảng đại, bất khuất, hy sinh quên ḿnh v́ dân v́ nươc, sống cho đồng bào và chết cho tổ quốc.

    Vừa trên 20 tuổi, đối với đại đa số quần chúng là năm vừa chập chững bước chân vào đời, th́ cũng vào tuổi đó, Cụ Diem đă được triều đ́nh bổ nhiệm làm Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 30 tuổi, cụ đă được thăng nhiệm làm Tổng Đốc các tỉnh Phan-Rang rồi Phan Thiết. Nổi danh như cồn v́ đă biết sử dụng uy quyền của ḿnh để bênh vực quyền lợi của dân chúng nhất là những người nghèo khổ, đă can đảm có những hành động chống lại việc sưu thuế bóc lột của thực dân Pháp.

    Năm 32 tuổi, Cụ lại được triều đ́nh mời giữ chức vụ Thượng Thư Bộ Lai kiêm thư kư Ủy Ban Hỗn Hợp Việt Pháp gồm các Bộ Trưởng và các viên chức cao cấp người Pháp. Ủy Ban này có nhiệm vụ nghiên cứu và thi hành các hiệp ước giúp cải thiện đời sống dân chúng.

    Nhưng sau 4 tháng, Cụ từ nhiệm v́ nhận thấy dă tâm của thực dân không bao giờ muốn thi hành đúng đắn hiệp ước lại c̣n trắng trợn bác bỏ các đề nghị hữu lư của Cụ và c̣n tăng gia những hành động đàn áp các tổ chức có khuynh hướng mới.

    II.- 1933-1954

    Sau khi từ quan, Cụ trở về dạy học tại trường Providence Huế và cũng từ thời gian ấy Cụ bí mật tổ chức phong trào Cách Mạng chống thực dân Pháp. Cụ liên lạc với các nhà Cách Mạng lăo thành như các cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để để học hỏi thêm kinh nghiệm.

    Chính Cụ Phan Sào Nam đă ngưỡng mộ cụ Diệm như là một anh hùng cái thế mới hơn 30 tuổi đầu mà đă v́ dân v́ nước chống lại thực dân không màng danh vọng phú quư. Phong trào của cụ phát xuất tại Huế và lan rộng đến hầu hết các tỉnh miền Trung đă bị Pháp theo dơi ŕnh rập. Năm 1944, thực dân Pháp bố ráp phong trào của Cụ, nhưng Cụ đă nhanh chân trốn thoát sang Ai Lao, v́ được người thân tín cấp báo.

    Tháng 3 năm 1945, Nhật Bản lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương. Bảo Đại tuyên bố Việt Nam Độc Lập. Toàn dân vui mừng và mong mỏi chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm đứng ra lập Nội Các. Nhưng sau nhiều lần được Đại Sứ Nhật tiếp xúc mời mọc, Cụ vẫn không nhận lời v́ t́m hiểu được rằng quân phiệt Nhật cũng như thực dân Pháp đều không muốn cho Việt Nam độc lập mà chỉ cần Cụ ra làm bù nh́n cho chúng.

    Cuối năm 1945, trên đường hoạt động từ Sàig̣n ra miền Trung, Cụ Diệm bị Việt Minh bắt tại Tuy Ḥa, đưa ra Bắc cầm tù hơn 4 tháng tại Tuyên Quang. Tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh thấy rằng nhiều người đă nhận diện Việt-Minh là Cộng Sản trá h́nh nên muốn mời tù nhân Ngô Đ́nh Diệm tham gia chính quyền để làm b́nh phong. Hồ chí Minh những tưởng sẽ đối diện với một con người hoàn toàn mất tinh thần, sẵn sàng khuất phục, nhưng ai ngờ lại chạm trán phải một người can đảm bất khuất dám nói thẳng vào mặt ḿnh:

    "Ông và Tôi đều có quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau về dân tộc Việt Nam, các hành động của thủ hạ Ông đă chứng minh điều đó. Ông hăy trả lời cho tôi biết là tại sao Ông hăm hại anh tôi (Ngô Đ́nh Khôi) và Ông cứ nh́n thẳng vào mắt tôi xem tôi có phải hạng người khiếp sợ Ông không?"

    Hồ Chí Minh không thành công nên phải miễn cưỡng để Cụ Diệm ra đi.

    Năm 1950, nhân dịp xuất ngoại dự năm Thánh, Cụ được linh mục Houssa giới thiệu sang Hoa Kỳ, trú ngụ tại tu viện Maryknoll, Lakewood Tiê²u Bang New Jersey.Tại đây Cụ đă được mời đến nhiều Đại Học danh tiếng Hoa Kỳ để diễn thuyết , cu. Diem dda~ gây được nhiều cảm t́nh và tiếng tăm với các chính khách và dân chúng Hoa Ky`.

    Đầu năm 1953, Cụ Diệm được người thân tín mời về Pháp để sửa soạn tham chính. Khi đó chính phủ Pháp đang bối rối về vấn đề Đông Dương, dân chúng bắt đầu chán ngấy chiến tranh. Tại Việt Nam th́ t́nh h́nh càng ngày càng sôi động, v́ Nga Sô và Trung Cộng ồ ạt yểm trợ vũ khí cho Việt Minh đánh phá các vùng Việt Bắc và đă chiếm được vùng Cao Bắc Lạng làm căn cứ.

    Chính phủ Pháp đưa tướng Navarre sang chiến trường Đông Dương để mong cứu văn t́nh thế. Ngày 29 tháng 11 nam 1953, Đại Tá De Castries được đề cử chỉ huy trận Điện Biên Phủ. Mục đích của Pháp đem quân vào thung lũng Điện Biên là để nhử cho cộng quân xuất đầu lộ diện hầu có thể dùng vũ khí chiến lược tiêu diệt địch quân cũng như để chặn đường tiếp tế từ Ai Lao và Trung Cộng đến.

    Đầu năm 1954, Ông Bửu Hội được mời ra lập chính phủ Liên Hiệp chuyển tiếp thay thế Nguyễn Văn Tâm, nhưng quân đội vẫn do Nguyễn văn Hinh nắm giữ. Ngày 3 tháng 2 năm 1954, trận Điện Biên Phủ mở màn. Những ước tính của tướng Navarre đều sai lầm và - gậy ông lại đập lưng ông. 12,000 quân Pháp đă bị 51,000 cộng quân vây hăm tứ phía. Ngày 7-5-1954 Điện Biên Phủ thất thủ với kết quả là 10,000 quân Pháp bị bắt làm tù binh và hơn 2,000 chết và bị thương.

    Ngày 24 tháng 6 năm 1954, Cụ Diệm lên đường về nước để lập chính phủ theo lời mời của quốc trưởng Bảo Đại. Ngày song thất 7-7-1954 Cụ Diệm chính thức nhận quyền Thủ Tướng. Mời cụ Diệm về cầm quyền trong một t́nh thế hoàn toàn đen tối và vô hy vọng này họ chỉ có dụng ư duy nhất là đốt cháy tương lai chính trị của Cụ mà thôi. Chính Cụ cũng biết dă tâm của họ như vậy, nhưng Cụ đă nói: "Đây là hy vọng của Tôi, nếu để trễ quá th́ không c̣n hy vọng nào nữa. ". Trong nước lúc bấy giờ ai ai cũng chỉ c̣n hy vọng vào một ḿnh Cụ Ngô Di`nh Diê.m .

    III.- 1954 - 1963

    Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève được kư kết giữa 2 phe Pháp và Việt Cộng, chia đôi đất nước Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới.

    Bắt đầu từ tháng 8 năm 1954, công đầu của Cụ Diệm là đưa hơn một triệu đồng bào phía Bắc vĩ tuyến 17 vào định cư tại miền Nam. Cụ đă chỉ thị cho các chính quyền địa phương tích cực giúp đỡ công cuộc định cư bằng đủ mọi phương tiện, đem lại an sinh cho đồng bào tại vùng đất mới. Những vùng định cư mới DarLac, Đức Lập, B́nh Giả, B́nh Thuận, Khánh Ḥa, Tuyên Đức, Long Khánh, Biên Ḥa được phát triển nhanh chóng và tốt đẹp.

    Ngay tại Sàig̣n, th́ Cụ gặp nhiều trở ngại lớn lao v́ những sự phá rối của tay sai thực dân cũng như của nhóm B́nh Xuyên. Tháng 10 năm 1954, một cuộc biểu t́nh tuần hành ủng hộ cụ Diệm tại trung tâm thành phố bị công an B́nh Xuyên cản trở, nổ súng giết hại mất 6 người. Cụ Diệm quá xúc động và chán nản đă định từ chức nếu không có sự cản ngăn và khuyến khích của một vị cố vấn tinh thần.

    Được khích lệ, Cụ tiếp tục công cuộc định cư và dần dần tiếp xúc với các giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo để ủng hộ Cụ hay ít ra cũng đứng ra ngoài cuộc tranh chấp của Cụ với B́nh Xuyên. Cụ kêu gọi được tướng Tŕnh Minh Thế về phe và cuộc dẹp loạn B́nh Xuyên cùng tay sai thực dân bắt đầu. Song song với chương tŕnh định cư, Cụ c̣n để tâm cải tổ guồng máy hành chánh, quân bằng nhân sự và trẻ trung hóa quân đội, xóa dẹp nhiều tệ đoan xă hội.

    Ngày 23 tháng 10 năm 1955, qua sự trưng cầu dân ư, toàn dân bỏ phiếu quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ và bầu Cụ Ngô Đ́nh Diệm làm Tổng Thống. Ngày 26 tháng 10 năm 1956, Cụ Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Ḥa. Dư luận trong và ngoài nước nhất là tại Hoa Kỳ rất thuận lợi cho Cụ. Thế giới tự do đă coi Cụ là một nhà lănh đạo sáng chói nhất Á Châu, một chiến sĩ chống Cộng tài ba nhất thế giới. C̣n được gán cho danh hiệu "Churchill của Việt Nam."

    Từ một t́nh thế hoàn toàn tuyệt vọng, đến một tương lai sán lạn, một miền Nam tự do được gần 50 quốc gia trên thế giới công nhận, trong ṿng 2 năm trời thật là một thành công hiếm có.

    Từ năm 1956 đến 1960 được coi là thời kỳ cực thịnh của Đệ I Cộng Ḥa. Rừng núi hoang vu được khai khẩn thành dinh điền trù phú, đồng khô đất nẻ đă biến thành ruộng lúa ph́ nhiêu. Bảo đảm an sinh cho đồng bào rồi, Cụ gia tăng nỗ lực phát triển văn hóa xă hội, cải tiến nền giáo dục, chỉnh đốn Viện Đại Học Sàig̣n, thành lập Viện Đại Học Huế. Tháng 10 năm 1959, Cụ giáng xuống đầu Cộng Sản một đ̣n chí tử đầu tiên bằng cách cho thi hành chiến dịch "Tố Cộng" trên toàn quốc nhằm mục đích vạch mặt chỉ tên những phần tử Việt-Cộng nằm vùng.

    Thuở ban đầu, Hồ Chí Minh và bè lũ tay sai đều nghĩ thời gian quá lắm là năm ba tháng, bo.n chúng sẽ làm tiêu tan sự nghiệp của Cụ Diệm, nhưng sau kết quả trái ngược, nên CSBV đă chỉ thị cho tay sai nằm vùng bắt đầu tái hoạt động và đưa cán bộ từ Bắc xâm nhập miền Nam để khủng bố và gây rối loạn, đồng thời trên địa hạt quốc tế CSBV vu khống cho Cụ Diệm làm tay sai cho đế quốc Mỹ.

    Cụ Diệm phản công ngay bằng quốc sách Ấp Chiến Lược từ đầu năm 1962 đến tháng 5 năm 1963, nhằm mục đích qui tụ nông dân Quốc Gia vào với nhau đồng thời cô lập hóa VC ra khỏi Ấp Chiến Lược. Sau khi xâm chiếm miền Nam năm 1975, chính VC đă phải thú nhận rằng những Ấp Chiến Lược trong thời Đệ I Cộng Ḥa đă đem lại cho chúng những khó khăn, trở ngại, lo sợ và phiền phức nhất trong cuộc chiến.

    Ngày chính biến 1-11-1963

    Chính biến ngày 1-11-1963 đă kết thúc cuộc đời sự nghiệp Cụ Diệm trong chiếc Thiết vận xa M-113 khoảng 8 giờ 30 sáng ngày 2-11-1963 trên con đường Hồng Thập Tự. Cụ Diệm chết đi, dân tộc Việt Nam đă mất đi một vị Tổng Thống anh linh tài đức có một không hai trong lịch sử và mảnh đất thân yêu miền Nam Việt Nam cũng đa~ rơi vào tay Cộng Sản hơn 1/4 thế kỷ nay.

    Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă ra người thiên cổ từ 40 năm qua nhưng ḷng ái quốc và gương hy sinh của cô´ TTNDD vẫn bất diệt trong ḷng hầu hết dân chúng Việt Nam. Âm mưu giết hại cô´TT Ngô Đ́nh Diệm là một lầm lẫn tai hại nhất trong thế kỷ 20 này, v́ hậu quả nhăn tiền là thế giới tự do đă mất đi hẳn một tiền đồn chống Cộng và đă đưa hơn 80 triệu đồng bào vô tội Việt Nam vào hỏa ngục Cộng Sản.

    Vong linh của cố TTNDDiệm, của các chiến sĩ quốc gia đă bỏ ḿnh v́ đại cuộc cũng như hàng vạn oan hồn dưới ḷng Đại Dương sẽ c̣n dầy xéo và ám ảnh lương tâm của những kẻ đă gián tiếp hay trực tiếp dính dáng vào việc hăm hại cô´ TTNDDiệm cho đến muôn đời.


    (* Trần Thiện Thành viết nhớ lại ngày Quốc Táng 2-11-1963)

  6. #6
    Member
    Join Date
    26-09-2010
    Posts
    151
    Thời xa xưa th́ Nguyễn Trăi đă lập biết bao nhiêu công trạng cho đất nước nhưng cuối cùng bọn gian thần đền đáp cho ông bằng cái án tru di tam tộc, đến thế kỷ 20 th́ tổng thống Diệm có công sáng lập ra nền dân chủ ở VN cưu mang hàng triệu người Bắc di cư, xây dựng 1 xă hội phồn thịnh nhưng cuối cùng người ta trả ơn cho ông bằng 1 vụ huyết án, tan nát cả nhà họ Ngô, thật là buồn cho cái thói đời bạc như vôi của 1 số người VN.

  7. #7
    khai quang
    Khách

    c'est la vie

    Quote Originally Posted by huy View Post
    Thời xa xưa th́ Nguyễn Trăi đă lập biết bao nhiêu công trạng cho đất nước nhưng cuối cùng bọn gian thần đền đáp cho ông bằng cái án tru di tam tộc, đến thế kỷ 20 th́ tổng thống Diệm có công sáng lập ra nền dân chủ ở VN cưu mang hàng triệu người Bắc di cư, xây dựng 1 xă hội phồn thịnh nhưng cuối cùng người ta trả ơn cho ông bằng 1 vụ huyết án, tan nát cả nhà họ Ngô, thật là buồn cho cái thói đời bạc như vôi của 1 số người VN.
    thế thái nhân t́nh chẳng thế th́ trong đạo Công Giáo - Thiên Chúa Giáo cũng đâu có h́nh tượng "Chúa Chết v́ đinh đóng trên Cây Thập Tự Giá, trước khi phải vác Cây Thánh Giá tới chỗ chết"

    c'est la vie

  8. #8
    Member
    Join Date
    02-10-2010
    Posts
    31
    Theo lời kể của ông Cao Văn Vỹ th́ Trần văn Đôn, Bùi Diễm, Nguyễn cao Kỳ đă đứng nghiêng ḿnh trước chân dung tổng thống Ngô Đ́nh Diệm tại nhà ông Vỹ. C̣n Nguyễn Khánh và Nguyễn chánh Thi th́ quỳ lạy 4 lạy.

    Vợ Nguyễn vặn Thiệu đă có lần tới dự lễ tưởng niệm tổng thống Diệm khi Nguyễn văn Thiệu đang làm tổng thống.

    Trong hồi kư " Cái Mũi Vô Duyên" đăng trên " Việt Nam Hải Ngoại" số 36, Nguyễn chánh Thi viết:

    " Những tướng lănh làm đảo chánh 1/11/1963 hầu hết là manh động theo lệnh ngoại bang, không có lư tưởng cách mạng. Cho nên lũ đầy tớ giết chủ đi rồi, th́ loạng quạng không biết làm ǵ, chỉ chờ quan thầy ra lệnh tiếp. mà quan thầy th́ mù tịt t́nh h́nh, lệnh lạc đưa ra đầu Ngô ḿnh Sở, không mạch lạc ǵ cả, đất nước hiện nay bị coi là vô chủ".

    Tổng Thống Richard M. Nixon viết trong tác phẩm “No More Vietnams” :

    "Lỗi lầm tệ hại nhất của chúng ta là đă xúi dục lật đổ tổng Thống Diệm năm 1963...”

    “Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ổn định miền Nam Việt Nam, ví như TẢNG ĐÁ ĐỈNH V̉M giữ ṿm nhà đứng vững. Các thế lực chính trị từ mọi phía quy vào ông mà chống, nhưng bằng cách thăng bằng các thế lực, cho cái nọ chống cái kia, ông đă đóng chốt tất cả lại. Chỉ khi nào đá đỉnh ṿm được lấy đi, người ta mới thấy là nó quan trọng. Th́ cũng y hệt như vậy, chỉ khi nào ông Diệm chết rồi, toàn thể hệ thống chính trị miền Nam Việt Nam sụp đổ tan tành, người ta mới nhận rơ vai tṛ sinh tử của ông ta”

    “Điều mà những kẻ chủ trương ủng hộ cuộc đảo chính thuộc chính quyền Kennedy lúc đó đáng lẽ đă phải biết th́ nay đă hiện rơ một cách đau đớn: Sự lựa chọn ở Nam Việt Nam lúc ấy không phải là lựa chọn giữa ông Diệm và một kẻ nào đó tốt hơn, mà là giữa ông ta và một kẻ nào đó tệ hơn.”

    “Dù ông Diệm có lỗi ǵ chăng nữa th́ ông ấy cũng có một căn bản pháp lư đáng kể. Ông Diệm là một lănh tụ kiên cường của một dân tộc đang vô cùng cần một nhà lănh đạo cương quyết. Ông ta mất rồi, chính quyền ở Nam Việt Nam trở thành cái mà ai cũng chộp giật được. Những viên chức chính quyền (Kennedy) đă từng ngấm ngầm mưu đồ lật ông Diệm đă sớm khám phá ra rằng những cộng tác viên của ḿnh ở Nam Việt Nam chỉ là những người lănh đạo tồi đến vô vọng. Cái tài cần có để lật đổ một chính phủ không đắc dụng để điều hành một chính phủ. Lănh đạo một cuộc đảo chính và lănh đạo một nước là hai công việc hoàn toàn khác nhau. Cuộc khủng hoảng lănh đạo đến hỗn loạn sau đó ở miền Nam Việt Nam là hậu quả trực tiếp của việc lật đổ tổng thống Ngô đ́nh Diệm....” .

  9. #9
    khai quang
    Khách

    Những tướng lănh làm đảo chánh ... P.1

    Quote Originally Posted by congno View Post
    Theo lời kể của ông Cao Văn Vỹ th́ Trần văn Đôn, Bùi Diễm, Nguyễn cao Kỳ đă đứng nghiêng ḿnh trước chân dung tổng thống Ngô Đ́nh Diệm tại nhà ông Vỹ. C̣n Nguyễn Khánh và Nguyễn chánh Thi th́ quỳ lạy 4 lạy. Vợ Nguyễn Văn Thiệu đă có lần tới dự lễ tưởng niệm tổng thống Diệm khi Nguyễn văn Thiệu đang làm tổng thống.

    Trong hồi kư " Cái Mũi Vô Duyên" đăng trên " Việt Nam Hải Ngoại" số 36, Nguyễn chánh Thi viết:

    " Những tướng lănh làm đảo chánh 1/11/1963 hầu hết là manh động theo lệnh ngoại bang, không có lư tưởng cách mạng. Cho nên lũ đầy tớ giết chủ đi rồi, th́ loạng quạng không biết làm ǵ, chỉ chờ quan thầy ra lệnh tiếp. mà quan thầy th́ mù tịt t́nh h́nh, lệnh lạc đưa ra đầu Ngô ḿnh Sở, không mạch lạc ǵ cả, đất nước hiện nay bị coi là vô chủ".
    Những tướng lănh làm đảo chánh
    Trần Văn Đôn (born 1917 in Bordeaux, France)


    Từ trái qua phải: Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Vỷ, Mai Hữu Xuân.


    Tôn Thất Đính


    Dương văn Minh và Trần văn Đôn


    Khi từ chức, Nguyễn văn Thiệu đă thề là "ở lại đến cùng như một người lính với chiến hữu của ḿnh”

    danh sách bọn hung thủ Hoa Kỳ trong vụ thảm sát TT Diệm
    1 Averell Harriman
    2 Roger Hilsman
    3 Henry Cabot Lodge
    4 Michael Forrestal
    5 Thomas Richardson
    6 Lucien Conein
    7 Henry Kissinger

  10. #10
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,749

    Quanh Chuyện Cành Đào Hồ Chí Minh Gởi Vào Nam .


    Ông Quách Ṭng Đức, Đổng Lư Văn Pḥng Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm xác nhận một Tết Nguyên Đán, một cành đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi pḥng khánh tiết Dinh Độc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cộng ḥa Xă hội Miền Bắc” (Lâm lệ Trinh, trang 89). Một số người đă gắn liền câu chuyện cành đào và một vài tin đồn khác để lư luận ông Diệm và ông Nhu đă đi đêm, hoà giải, ve văn, bắt tay, đầu hàng, … hay mắc lừa phe cộng sản. Đến đánh mất tín nhiệm và hậu thuẫn cuả Hoa Kỳ, để dẫn đến đảo chánh 1-11-1963. Nhiều người khác lại cho rằng miền Nam mất đi một cơ hội ḥa b́nh, trung lập, không cộng sản, ...

    Gần 50 năm qua, không ít người đă tranh luận về đề tài này. Tháng 3-2003, trên diễn đàn Giao Điểm, nhà sử học Vũ Ngự Chiêu chứng minh việc hai ông Diệm và Nhu ve văn nhằm bắt tay với Việt cộng. Th́ chỉ đến tháng 7, cùng trên diễn đàn ông Nguyễn Ngọc Giao lại chứng minh điều trên không đúng sự thật. Cần phải nói là cả hai lập luận cùng chủ yếu dựa trên hồi kư của Mieczyslaw Maneli, nguyên Trưởng Đoàn Kiểm Soát Đ́nh Chiến Ba Lan.

    Sự mâu thuẫn này không phải chỉ xảy ra riêng với các nhà nghiên cứu gốc Việt. Hầu hết các học giả Tây Phương cũng mắc chung một hoàn cảnh. Một phần v́ nhăn quan mỗi người mỗi khác, Maneli chỉ viết lại công việc của ḿnh, không đề cập đến một số việc chung quanh, sinh ra nhiều câu hỏi để tùy người đọc diễn giải.

    Bài viết này dựa trên một số tài liệu mới từ Đảng Cộng Sản và từ Bộ Ngọai Giao Ba lan và Liên Sô, cũng như từ phía Việt Nam để làm rơ hơn vấn đề như: Có thật hai ông Diệm – Nhu muốn thương lượng với cộng sản hay không ? Chuyện cành đào có thực hay không ? Hồ chí Minh có muốn thương lượng với miền Nam hay không ?

    Thế Giới Những Năm Đầu 1960.

    Khi đă củng cố được quyền hành, Khruschev đề xướng một chiến lược mới cho toàn khối cộng sản. Chiến lược này chủ trương chung sống ḥa b́nh giữa các nước có chế độ chính trị và xă hội khác nhau. Theo đó, Liên Sô tập trung vào việc xây dựng kinh tế cho khối cộng sản, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật mới nhất vào sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng sản xuất. Thông qua tăng trưởng kinh tế, Liên Sô kỳ vọng đủ khả năng để ủng hộ các nước đang phát triển và ủng hộ các phong trào cộng sản trên ṭan thế giới, mở rộng ảnh hưởng của Quốc Tế Cộng Sản.

    Phía Trung cộng không chấp nhận chiến lược trên. Họ cho rằng Liên Sô sợ chiến tranh với Mỹ, sợ bom nguyên tử cuả Mỹ, đầu hàng đế quốc Mỹ. Theo quan niệm của họ có chiến tranh cách mạng quốc tế càng mau thắng lợi, càng sớm tiến đến thế giới đại đồng.

    Phiá Hoa Kỳ, tổng thống Kennedy khi ấy vừa đắc cử đă phải đương đầu với tranh chấp ở Tây Bá Linh (Tây Đức), thất bại trong cuộc đổ bộ Vịnh Con Heo (Cu Ba), và tính sai trong việc trung lập hoá Lào. Những thất bại liên tục này đă dẫn đến một chiến lược chống cộng thiếu tích cực “vừa dọa vưà đàm”.

    Toà thánh Vatican cũng thay đổi chiến lược chấp nhận chung sống ḥa b́nh với những người cộng sản.

    Pháp th́ muốn tạo lại ảnh hưởng ở các quốc gia cựu thuộc địa, vận động cho giải pháp trung lập hoá Đông Dương. Tranh chấp giữa Liên Sô và Trung cộng càng ngày càng căng thẳng. Bắc Việt càng ngày càng nghiêng về phiá Trung cộng, chủ trương xử dụng vũ trang để chiếm miền Nam . Phe Liên Sô đánh giá một Việt Nam trung lập theo đề nghị của Pháp sẽ có lợi hơn một Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung cộng. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38)

    Ấn Độ khi ấy lại có chiến tranh biên giới với Trung Cộng. Theo hiệp định đ́nh chiến Genève, Ấn Độ và Ba Lan là hai quốc gia trong Phái Đoàn Kiểm Soát Đ́nh Chiến tại Việt Nam. Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai cũng đương kim chủ tịch Phái Đoàn.

    Theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, vào tháng 1-1963, Ngoại trưởng Ba Lan Adam Rapacki sang thăm Ấn Độ. Ông đă được Thủ Tướng Ấn Jawaharal Nehru và Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai tiếp đón. Trong cuộc gặp, Rapacki bàn đến một giải pháp trung lập hoá cả hai miền Nam Bắc và tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam . Thủ Tướng Ấn Độ Nehru cho biết Hoa Kỳ cũng muốn giải quyết những mâu thuẫn ở Việt Nam bằng giải pháp trung lập.

    Từ cuộc gặp trên, Rapacki đă tiếp xúc với Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ, ông John Kenneth Galbraith để t́m giải pháp trung lập Việt Nam . Trong cuộc họp từ ư kiến riêng, ông Galbraith đă đề nghị trước tiên hai phía cùng tiến hành việc ngừng bắn trong ṿng sáu tháng. (G. K. Magaret tài liệu số 1 trang 37). Trong nhật kư công tác ngày 21-1-1963, ông Galbraith xác nhận việc này. Sau đó đă báo về cho Tổng thống Kennedy đề nghị của ḿnh. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38)

    Như vậy tám tháng trước ngày hai ông Nhu và Maneli gặp nhau, phiá Hoa kỳ và Ba Lan đă thảo luận về một giải pháp cho Việt Nam . Nhưng không biết v́ lư do ǵ đề nghị cuả Đại Sứ Mỹ Galbraith đă không được tiến hành. Cũng như không hiểu giữa Mỹ và Ba Lan sau này c̣n có các cuộc gặp gỡ khác hay không ?
    Maneli và các cuộc gặp gỡ hai phía Bắc Nam

    Cũng theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, trong trừơng hợp của Maneli, Ba Lan hoàn toàn không có ư định xen lấn vào nội t́nh Việt Nam. Thượng cấp Maneli đă chính thức cấm ông ta làm trung gian hay gặp riêng ông Nhu, ngay cả nếu ông bị áp lực từ phía Bắc Việt. Họ chỉ cho phép ông ta thực hiện vai tṛ giám sát quốc tế. Phía Ba Lan đă thấy được Maneli chỉ là một chuyên viên luật, không kinh nghiệm ngọai giao, thiếu kiến thức và kinh nghiệm chính trị, dễ bị vướng những bẫy ngầm làm ảnh hưởng đến phía Ba Lan. (xem G. K. Magaret)

    Tuy vậy, Maneli với bản tính tính cực và phấn đấu, công việc giám sát quốc tế th́ lại rất nhàm chán chủ yếu chỉ viết báo cáo, lại lỡ trớn và ṭ ṃ mới xảy ra câu chuyện gặp gỡ với ông Nhu. Maneli cho biết các Đại sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ư), Ram Goburdhun (Ấn độ) và Salvatore d’Asta (Ṭa thánh Vatican) là những người đă trực tiếp thúc đẩy việc ông gặp gỡ ông Nhu. Gián tiếp th́ có Đại sứ Anh Hohler. .

    Do những thúc đẩy từ nhiều phía như đă kể ra, Maneli đă bay ra Hà Nội để xin ư kiến của phía Liên Sô và đă được Đại sứ Liên Sô tại Hà Nội đồng ư. Lúc này Ba Lan đang là một chư hầu của Liên Sô, sự đồng ư của Liên Sô đủ bảo kê cho cuộc gặp gỡ.

    Những tài liệu mới phát hiện cũng cho biết Liên Sô không mấy quan tâm đến việc Maneli muốn làm. Có lẽ cả Ba Lan lẫn Liên Sô đều đă rơ khi ấy Bắc Việt đă ngă hẳn về phiá Trung Cộng. Liên Sô chấp nhận cuộc gặp chẳng qua chỉ muốn thu nhặt thêm tin tức của cả hai phía Bắc và Nam Việt.

    Vào tháng 5-1963, ngay khi kế họach liên lạc với ông Nhu được chuyển cho phía Hà Nội, Maneli đă nhận ngay hồi đáp như sau: “Phạm văn Đồng xác quyết đề nghị (ngừng bắn và trung lập) của chủ tịch Hồ chí Minh và tuyên bố của chính phủ (VNDCCH) vẫn c̣n hiệu lực: Chính phủ nhân dân (VNDCCH) đă sẵn sàng bắt tay thương lượng vào bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai.” (M. Maneli, trang 121). Sau đó trong lần gặp gỡ Phạm văn Đồng c̣n khéo miệng tuyên bố: “Ông Nhu chắc chắn có khả năng suy nghĩ thực tế, v́ ông đă tốt nghiệp cao đẳng (lycée) ở Chartres” Khi Maneli kể lại chuyện này cho Đại sứ Pháp ông ta đă phải thốt lên “quá thích thú, quá quan trọng” (M. Maneli, trang 122).

    Ngay sau đó Maneli đă gặp, và được Xuân Thủy cho biết: “… đầu tiên là trao đổi văn hóa và buôn bán (gạo đổi than) trước khi bàn đến chuyện chính trị” (G. K. Magaret tài liệu số 16 trang 59).

    Vài ngày sau Maneli đă nhận được một lời nhắn của phái đ̣an Ba Lan từ Hà Nội: “Các đồng chí Vịêt Nam rất mong tất cả chi tiết liên hệ đến việc thu xếp cho cuộc gặp với Nhu và chi tiết về cuộc gặp gỡ này” (M. Maneli, trang 123). Trưởng đ̣an Kiểm Soát Đ́nh Chiến Bắc Việt, Hà văn Lâu c̣n gởi cho Maneli một điện tín : “Các đồng chí lănh đạo đ̣i hỏi thông báo ngay tức th́ những bước tiếp và mong rằng mọi việc sẽ tiến hành tốt đẹp, trước khi gặp Nhu, đồng chí cần ghé Hà Nội để thảo luận” (M. Maneli, trang 123).

    Đầu tháng 7-1963, Maneli trở lại Hà Nội. Lần này, Maneli được gặp Hồ chí Minh, Phạm Văn Đồng, Xuân Thuỷ và Ung văn Khiêm. Trong hồi kư, Maneli cho biết: “Tôi hỏi Phạm Văn Đồng và Xuân Thuỷ nên làm ǵ nếu Ngô Đ́nh Nhu mời tới nói chuyện. Họ trả lời ngay lập tức : nhận gặp và lắng nghe. Tôi lại hỏi họ có muốn tôi nói ǵ (với Nhu). Họ trả lời : ‘Tất cả những ǵ đồng chí biết về lập trường của chúng tôi trong sự trao đổi và hợp tác kinh tế và văn hoá (giữa hai miền). Một điều chắc chắc là: Mỹ phải rút đi. Trên cơ sở chính trị ấy, chúng tôi có thể thương lượng bất cứ điều ǵ’ ”. Maneli hỏi thêm về khả năng một chính phủ liên hiệp ở miền Nam hay một h́nh thức liên bang Bắc Nam , Phạm văn Đồng trả lời: “Trên cơ sở độc lập và chủ quyền của Việt Nam , mọi điều đều có thể thương lượng. Hiệp định Genève đă đặt ra nền tảng pháp lư và chính trị: không có căn cứ hay quân đội nước ngoài trên lănh thổ đất nước chúng tôi. Như thế, chúng tôi có thể đi tới thoả thuận với bất luận người Việt Nam nào.” (M. Maneli, trang 127-28).

    Khi nhận được dấu hiệu khuyến khích từ Đại sứ Liên Sô và biết được sự phấn khởi từ phía Hà Nội, trở vào Sài G̣n, Maneli báo cho Lalouette và d’Asta biết để thu xếp cuộc gặp với Ngô Đ́nh Nhu. Trong cuộc tiếp tân chiều ngày 25-8 của Quyền Ngọai Trưởng VNCH Trương Công Cừu, các ông Lalouette, d’Orlandi, Goburdhun and d’Asta đă giới thiệu Maneli với ông Nhu. Ông Nhu đă vui vẻ ngỏ lời mời Maneli thu xếp gặp riêng. Ngay ngày hôm sau văn pḥng của ông Nhu đă liên lạc và hẹn cuộc gặp vào sáng ngày 2-9-1963.

    Trong cuộc gặp gỡ tại dinh Độc Lập, Maneli cho biết ông Nhu dành cả hai tiếng đồng hồ nói về chủ nghĩa cần lao nhân vị, chính sách ấp chiến lược, thành quả cuả Việt Nam Cộng Hoà .v.v… Riêng về vấn đề hiệp thương giữa hai miền Nam-Bắc, Maneli cho biết ông Nhu chỉ có ư như sau: “…Tôi không chống lại việc đàm phán và hợp tác với miền Bắc, và như ông biết, nhiều nhà ngoại giao phương Tây đă đề nghị với tôi. Ngay trong những trận giao tranh tàn ác nhất, người Việt Nam cũng không quên ai là người Việt, ai là ngoại quốc. Nếu có bắt đầu đối thoại trực tiếp, th́ có thể tiến tới xích lại gần. Và Uỷ hội quốc tế - cũng như bản thân ông - sẽ đóng vai tṛ tích cực ở đây…Trong tương lai gần, tôi không dự liệu điều ǵ dẫn tới nói chuyện trực tiếp, nhưng sớm muộn có thể sẽ hé ra khả năng…” (M. Maneli, trang 146) Như vậy ông Nhu chưa có một ư để đi xa hơn nói chuyện trực tiếp với lănh đạo cộng sản Bắc Việt.

    Ngay sau cuộc họp Maneli đă báo cáo về Ba Lan với một kết luận như sau “Những tuyên bố thiếu vững chắc của ông Nhu chính là kết qủa của sự bất ổn và kỳ vọng cây cầu với người Mỹ vẫn chưa bị đốt cháy”. (Magaret K. G. tài liệu số 21, trang 67)

    Phần v́ ṭ ṃ phần v́ muốn thâu nhặt tin tức, Maneli đă đặt câu hỏi về mối liên lạc hay đàm phán trực tiếp giữa hai miền Nam-Bắc với ba ông Nhu, Thủy và Đồng. Xuân T
    hủy vừa giỡn vừa trả lời : "Có phải ông thực sự tưởng tượng rằng chúng tôi thương lượng hay đồng ư với ông Nhu?" (M.K. Gnoinska, trang 147) Ông Nhu và ông Đồng th́ cho biết đây chỉ là những lời đồn đăi: "Ông Nhu hỏi lại, có phải ông đă chịu thua dư luận? đó chỉ là chuyên đùa" (Maneli, trang 147) và ông Đồng có cùng chung phản ứng đă hỏi lại "Có phải đồng chí đă tin vào những câu chuyện như vậy hay không ?" (Maneli, trang 147) Sau 1/11/1963, Phạm văn Đồng đă giải thích cho Maneli các nguồn tin từ tướng đảo chánh về các cuộc đàm phán Bắc Nam như sau : ”Đó chỉ là giả dối, phe đảo chánh thông báo tin này chỉ để giải thích lư do phản lại Diệm”. (G. K. Magaret tài liệu số 21, trang 67)

    Ngay chiều hôm đó, ông Nhu đă tiếp Đại sứ Hoa kỳ Lodge, Đại sứ Ư d’Orlandi và Khâm sứ ṭa thánh Vatican d’Asta. Ông Nhu cho biết về cuộc gặp gỡ với Maneli vào ban sáng. Ông Nhu nói Maneli đă yêu cầu ông chú ư đến tuyên bố của De Gaulle và Hồ Chí Minh về giải pháp trung lập Việt Nam và tiến hành tổng tuyển cử, rồi hỏi ông Nhu muốn chuyển lời ǵ cho Phạm Văn Đồng. Ông Nhu trả lời “Chẳng có ǵ cả.”

    Không một dấu hiệu nào cho thấy ông Nhu muốn tiếp tục quan hệ với Maneli trong vai tṛ “đi đêm” với Hà Nội. Cuộc gặp gỡ tại Dinh Độc Lập cho thấy ông Nhu chỉ muốn chứng minh với Hoa Kỳ rằng nếu bị Hoa Kỳ bỏ rơi ông ta có khả năng thương lượng trực tiếp với Bắc Việt. Không như ông tính đây lại chính là bằng chứng duy nhất để phía Hoa Kỳ lập luận ông Nhu muốn thay đổi chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ.

    Ngược lại phía Bắc Việt lại rất mong Maneli đứng ra làm trung gian. Trước khi xem xét về phía Bắc Việt thật giả ra sao người viết sẽ phân tích một vài tin đồn khác có liên quan.


    Chuyện đồn Ngô Đ́nh Nhu gặp Phạm Hùng

    Ông Cao Văn Vỹ cho biết trong một chuyến đi săn với ông Nhu và trung tá Bường (tỉnh trưởng tỉnh B́nh Thuận) tại khu rừng Tánh Linh, tỉnh B́nh Thuận, ông Nhu đă bí mật tiếp xúc với hai người. Ông Vỹ và trung tá Bường cả hai đều không được tham dự buổi họp. Họ chỉ quan sát từ phiá ngoài, ông Vỹ chỉ biết ông Nhu ngồi trong lều săn nói chuyện với hai người, nhưng không biết là ai, v́ lúc đó là ban đêm. Theo ông, có lẽ trung tá Bường biết v́ chịu trách nhiệm an ninh và tổ chức cuộc gặp gỡ. (Vĩnh Phúc, trang 336)

    Ông Quách Ṭng Đức cho biết: “Chính ông Nhu có nhắc đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lănh tại Bộ Quốc pḥng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khóa 13.” (Lâm lệ Trinh trang 98) Ông Trần văn Đôn t́m hiểu và biết rơ nhân vật ông Nhu gặp trong rừng Tánh Linh chính là Phạm Hùng (Trần văn Đôn trang 183)

    Thực ra vào năm 1963, Phạm Hùng là uỷ viên Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam, phó thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Do đó ông họat động tại miền Bắc. Trong khi ấy, người lănh đạo Trung ương cục miền Nam là ông Nguyễn Văn Linh. Năm 1964 tướng Cộng sản Nguyễn Chí Thanh lên thay. Tháng 7 năm 1967, tướng Thanh trên đường về Bắc nhận chỉ thị tổng tấn công Mậu Thân bị bom chết dọc đường. Phía cộng sản đưa tin ông Thanh đột ngột qua đời ở Hà Nội do bị đau tim. Tháng 10 năm 1967, Phạm Hùng mới vào Nam thay thế tướng Thanh. Phạm Hùng thuộc phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, chủ chiến không chấp nhận thương thuyết với miền Nam . Tin đồn Ngô đ́nh Nhu gặp Phạm Hùng đă được cựu đại sứ William Colby ghi trong hồi kư của ông. Colby c̣n cẩn thận ghi thêm “Giai thoại này có thể là chuyện bịa ” (xem Nguyễn Ngọc Giao)

    Chiếu theo bản tóm lược về Mục tiêu cuả Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, tháng 9 năm 1963, nhiệm vụ cuả các nhân viên Hoa Kỳ là phải :”… Ngụy tạo những tài liệu liên kết Nhu với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Hà Nội) làm cho Nhu mất tín nhiệm với các tướng lănh…” (Phạm Văn Lưu, trang 246) Ở thời điểm này, ông William Colby đang làm vụ trưởng Vụ Viễn Đông của Cơ Quan T́nh Báo Hoa Kỳ (CIA). Câu chuyện biết đâu lại do chính Colby bịa rồi cho CIA tung ra trước ngày đảo chánh.

    Sau hơn 35 năm, Cộng Đồng Người Việt Hải Ngọai vẫn không chấp nhận mọi liên lạc với nhà cầm quyền cộng sản. Người miền Nam lúc ấy so ra chỉ chưa đầy 9 năm thoát khỏi Việt Minh. Cá nhân ông Nhu lại xác nhận có liên lạc với cộng sản. Hiểu được như vậy mới thấy Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ quá sức thâm độc khi đề ra nhiệm vụ nói trên. Đây chính là ng̣i nổ cho cuộc đảo chính 1/11/1963 và dẫn đến sự hy sinh của anh em ông Diệm.

    Trở lại câu chuyện ở rừng Tánh Linh, không thấy ông Vỹ nhắc đến việc bảo vệ ở phía bên kia, như vậy chỉ có 3 người họp và 2 người bảo vệ ṿng ngoài. Một cuộc họp như vậy chỉ có thể xảy ra khi hai bên cùng một phía và phải hết sức tin tưởng nhau. Như vậy có thể hai người được ông Nhu gặp là gián điệp Quốc gia về trực tiếp báo cáo t́nh h́nh với ông Nhu.

    Chuyện đồn từ những người đi từ miền Bắc

    Ông Trần Hùng Văn một nhà báo đi từ miền Bắc cho biết ông Nguyễn Tài, nguyên Thứ trưởng Bộ Công An Bắc Việt, được lệnh vào Nam để thu xếp cuộc gặp giữa hai ông Ngô đ́nh Nhu và Phạm Hùng. (Vĩnh Phúc, trang 339-340) Nguyễn Tài sau khi vào Nam bị quân đội Quốc Gia bắt. Sau năm 1975 ông lại bị Lê Đức Thọ giam lỏng để điều tra.

    Ông Tài có viết hồi kư cho biết Lê Đức Thọ đă từng nói thẳng với ông bị bắt sao không chịu chết đi. Xuyên suốt hồi kư h́nh như Nguyễn Tài vẫn thắc mắc không biết tại sao Lê Đức Thọ lại đối xử quá nghiệt với ḿnh (một đồng chí trung kiên) như vậy. Câu trả lời có thể là chính Lê Đức Thọ tung tin Nguyễn Tài làm trung gian giữa hai ông Nhu và Phạm Hùng. Lê Đức Thọ không ngờ rằng ông Tài c̣n sống để cho chúng ta biết rằng ông đă được điều động vào Nam năm 1964. Khi ấy ông Nhu đă về đất Chúa.

    Liên lạc để kêu gọi chiêu hồi

    Tháng 4-1963, Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) ban hành chính sách Chiêu Hồi. Ông Nhu cũng nhiều lần xác nhận có liên lạc với Việt Cộng để thuyết phục họ mang quân về hàng. (Chính Đạo, trang 309)

    Ông Nguyễn văn Chức, một nhân sỹ tại Canberra , đă kể cho người viết và rất nhiều đồng hương câu chuyện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) đă có ư định xin hàng. Ông Chức trước đây ngoài làm cho Đài Gươm Thiêng Ái Quốc, ông c̣n dịch và thẩm định những tài liệu cuả cộng sản. Ông Chức cho biết sau Biến Cố Mậu Thân, trong một trận phục kích quân đội VNCH đă bắn chết 1 cán bộ, 2 giao liên và thâu được một tài liệu quan trọng. Theo tài liệu này một số cán bộ cao cấp cuả MTGPMN đă họp bàn với ư định mang toàn thể MTGPMN ra hàng. Nhiệm vụ của người cán bộ bị phục kích là mang tài liệu nói trên đến một số cán bộ cao cấp khác cũng có ư định ra hàng. Cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ cho dịch tài liệu này ra Anh ngữ. Ông chức được giao trách nhiệm thẩm định tài liệu. Ông chức đă kết luận đây là một tài liệu thực, nhưng không biết Hoa kỳ có sử dụng tài liệu này hay không ?

    Xem chủ trương cuả Hồ chí Minh về MTGPMN: “Ḿnh phải đưa Mặt trận Dân tộc Giải Phóng ra. Phải chú ư đến bọn leo nheo, theo đóm ăn tàn…”(HCM, BNTS, tập 8, trang 368) Rồi mới thấy ông Nhu đă nh́n ra tổ chức này để đề ra chính sách Hồi Chánh. Đến năm 1974, sau 10 năm chính sách Hồi Chánh được ban hành, đă có trên 200.000 hồi chánh viên. Nhiều đơn vị cộng sản cấp đại đội, tiểu đoàn đă ra hồi chánh tập thể. Hồi Chánh là một chính sách nhân đạo và thành công nhất của chính quyền Quốc Gia, nhưng lại ít hay không được giới sử gia để ư tới.

    Sau 1968, Bắc Việt đă công khai điều động chiến tranh xâm lược miền Nam . Năm 1975, họ cho quân chính quy trực tiếp vượt vĩ tuyến 17, đánh chiếm miền Nam , rồi vội vàng giải thể MTGPMN. Nhiều cán bộ MT cao cấp đă bị bắt, bị quản thúc hay phải trốn tránh ra hải ngoại. Hà Nội phải mang cả một guồng máy cầm quyền từ miền Bắc vào áp đặt lên miền Nam . Hy vọng tài liệu về MTGPMN xin hàng sẽ được t́m thấy trong núi hồ sơ cuả CIA để chúng ta hiểu rơ hơn về tổ chức này.

    Hoa kỳ quyết định đảo chánh ngày 24-8-1963

    Song song với việc bổ nhiệm Đại Sứ Henry Cabot Lodge, phe chủ chiến Hoa kỳ M - W. Averell Harriman, Roger Hilsman, Ball, Getsinger và V. Forrestal, đă đồng kư một công điện mang số 243 chỉ thị cho ông Lodge thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Đây là loại công điện tối mật cần hành động lập tức (top secret and operation immediate). Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Mỹ tại Thái B́nh Dương, cũng đă góp ư kiến vạ việc soạn công điệp này. Công điện đă được đánh đi khẩn cấp vào tối thứ bảy 24-8-1993. Công điện ghi rơ: “Chính phủ Hoa Kỳ không thể để cho Nhu nắm quyền hành trong tay. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ hội để tách rời ra khỏi Nhu và bè đảng của Nhu và thay vào đó bằng những nhân vật có khả năng trong giới quân nhân và chính trị có thể t́m được. Tuy nhiên, sau khi dùng mọi nỗ lực mà Diệm vẫn khước từ và đối kháng, chúng ta sẽ phải đối diện với một khả thể: chính ông Diệm cũng không thể nào được để tồn tại.” (Nguyễn kỳ Phong, h́nh công điện bià sau sách)

    Như vậy việc lật đổ Chính phủ Ngô đ́nh Diệm đă được quyết định trước ngày Maneli gặp ông Nhu. Tất cả những tin đồn, tin chính thức, báo cáo chỉ được dựng lên hay thêm bớt nhằm thực hiện chỉ thị trên.

    Tranh chấp giữa hai phe lănh đạo Cộng sản Bắc Việt

    Từ những năm đầu 1950, Trung Cộng đă trực tiếp chỉ đạo chiến tranh, chỉ đạo cuộc chỉnh huấn (một h́nh thức thanh trừng nội bộ) và cuộc cải cách ruộng đất. Mao Trạch Đông không hề che giấu ư đồ dùng Đông Dương làm bàn đạp và đảng Cộng sản Việt Nam làm công cụ để bành trướng phong trào Cộng sản xuống các nước Đông Nam Á. Do đó không lạ ǵ khi thành phần công khai thân Trung Cộng như Lê Duẩn (bí thư), Lê Đức Thọ (Tổ Chức Đảng), Trần Quốc Hoàn (Công An), Nguyễn chí Thanh (Quân Đội), … nắm đa số lănh đạo miền Bắc. Phe thân Nga chỉ là thiểu số, họ lại c̣n bị mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất đất nước, không cổ vũ việc “giải phóng” miền Nam .

    Về mặt ch́m phe thân Trung Cộng luôn luôn thắng thế, như Hội nghị lần thứ 15 cuả Trung Ương tháng 1-1959, bí mật ra quyết định điều động bộ đội miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam, để tiến hành vơ trang thống nhất đất nước. Hay Nghị Quyết 49/NQ/TVQH, được Quốc Hội Cộng Sản ban hành ngày 20-6-1961, cho phép bắt giam công dân 3 năm không cần thủ tục tố tụng. Chiếu theo Nghị Quyết này hàng trăm, cán bộ lănh đạo thân Liên Sô sau này đă bị bắt giam không cần xét xử và nhiều người đă chết trong tù.

    Qua báo Nhân Dân có thể thấy nhiều xung đột xảy ra công khai giữa hai phe nhóm kể trên. Qua những tài liệu có được, việc nghiên cứu quá tŕnh xung đột giữa hai nhóm này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về giai đọan lịch sử này.

    Ngày 7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Sô), Hồ chí Minh chính thức xác nhận bản chất đánh thuê của tập đoàn Cộng sản Bắc Việt, (tự ví là “bộ đội biên pḥng”): “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đă đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà b́nh toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (HCMTT, tập 8, trang 258)

    Tháng 11-1960, Hồ chí Minh tham dự “Đại Hội Mạc Tư Khoa”, đồng ư kư vào Tuyên Bố chung, đồng thuận với chiến lược thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau do Liên Sô đề xướng.

    Ngày 2-10-1961, dự phiên họp Bộ Chính trị, Hồ chí Minh giải thích lư do theo Liên Sô như sau:”… Miền Nam đối với Mỹ rất quan trọng. Trước nó nói “Bắc tiến”, nay nó nói “Nam trị”, nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu Bắc Tiến. Nó sợ ḿnh đánh nó. Địch quân sự mạnh nhưng chính trị yếu. Ta, chính trị mạnh nhưng quân sự yếu. Nếu lấy sức độ sức để tiêu hao th́ không lợi. Ta không lấy đấm chọi đấm mà lấy mưu mẹo diệt nó, trừ bọn ác đi bảo vệ cơ sở, phong trào dân sẽ lên…” (HCM, BNTS, tập 8, trang 150) Chủ trương này được các phe nhóm trong đảng Lao Động chấp nhận cho đến khoảng đầu năm 1963.

    Ngày 1-1-1962, trên báo Nhân Dân có đăng “Lời chúc tết đồng bào cả nước”, trong đó Hồ chí Minh nhận xét “… lực lượng xă hội chủ nghĩa hơn hẳn lực lượng đế quốc, lực lượng hoà b́nh hơn hẳn lực lượng chiến tranh.” Và công khai đề nghị : ”Chúng ta luôn luôn chủ trương rằng: Thống nhất Việt Nam là sự kiện thiêng liêng cuả toàn dân Việt Nam . Đại diện của hai miền có thể gặp nhau, cùng nhau bàn bạc, t́m con đường tốt nhất để hoà b́nh thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ đă quy định.” (HCMTT, tập 9, trang 272)

    Ngày 28-3-1962, để trả lời phóng viên báo “Tin Nhanh Hàng Ngày” ở Luân Đôn (bài này đă được đăng trên báo Nhân Dân), Hồ chí Minh khống thiết kêu gọi : “Chính phủ nước VNDCCH đă nhiều lần đề nghị với chính quyền miền Nam, hai bên phái đại diện gặp nhau để bàn bạc cách giải quyết theo phương pháp ḥa b́nh, và vưà rồi, trong bản Tuyên Bố ngày 18-2-1962, chính phủ nước VNDCCH lại một lần nữa yêu cầu hai chủ tịch và các nước tham gia Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương nghiên cứu gấp những biện pháp có hiệu qủa để chấm dứt cuộc vũ trang xâm lược của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, nhằm bảo vệ ḥa b́nh cuả Đông Dương và Đông Nam Á. Việc miền Nam theo chế độ trung lập hay một chế độ nào khác là do nhân dân miền Nam quyết định… Chính phủ nước VNDCCH đă từng đề nghị (Công hàm ngày 22-12-1958) với chính quyền miền Nam b́nh thường hoá quan hệ giữa hai miền về mặt kinh tế và văn hóa, về việc đi lại và thư tín giữa hai miền, v.v…” (HCMTT, tập 9, trang 319-320)

    Ngày 22-7-1962, trả lời phóng viên báo Tin Tức và Sự Thật Thanh Niên (Liên Sô) về đường lối và biện pháp Hồ tuyên bố : “Chúng tôi luôn luôn chủ trương thống nhất tổ quốc bằng đường lối ḥa b́nh, luôn luôn đ̣i phải thực hiện đúng đắn Hiệp định Giơ-ne-vờ, đ̣i đế quốc Mỹ phải chấm dứt can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam”. (HCM, BNTS, tập 8, trang 267)

    Ngày 6-11-1962, kỷ niệm 45 năm Cách mạng tháng 10 Liên Sô, Hồ đă gởi điện tới Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Sô trong đă nhấn mạnh : “Từ ngày thành lập Liên Sô luôn luôn thực hiện chính sách ngoại giao ḥa b́nh và kiên tŕ đấu tranh cho chính sách chung sống ḥa b́nh giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau.” (HCM, BNTS, tập 8, trang 317)

    Ngày 22-1-1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội. Ngày 26-1, Hồ chí Minh và Novotny đă kư một Tuyên Bố Chung phản ánh quan điểm của Liên Sô và ca ngợi chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất.” Ngay sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai phe trong đảng Lao Động căng thẳng hơn.

    Ngày 17-2-1963, trong một cuộc họp Bộ Chính Trị, Hồ chí Minh đă phải yêu cầu “đoàn kết nhất trí trong đảng” trước t́nh h́nh hiện nay. Về vấn đề trung lập, Hồ đă phải gỉai thích như sau: “Mỹ bối rối, ḿnh đề xướng trung lập. Đó là thắng lợi của ḿnh. Nói hai bên đ́nh chiến, ḿnh không đánh, đ́nh chiến ǵ?” (HCM, BNTS, tập 8, trang 367)

    Kết quả, Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm v́ đă soạn thảo Tuyên Bố Chung và bị thay bằng Xuân Thủy. Nguyễn văn Trấn cho biết Hồ chí Minh đă đọc và sửa lại bản nháp của bản Tuyên Bố nhưng làm ngơ, tránh trách nhiệm (NVT, trang 328). Đây là lần đầu Hồ chí Minh bán phe thân Liên Sô để nhập vào hàng ngũ thân Trung Cộng.

    Nhờ đó mới dẫn đến thắng thế đầu tiên của phe chủ chiến chuẩn bị cho chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5-1963 của Chủ tịch Trung Cộng, Lưu Thiếu Kỳ. Chuyến thăm này đưa Bắc Việt đứng hẳn về phía Trung Cộng, Hồ và Lưu Thiếu Kỳ kư một Tuyên Bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào Cộng sản Quốc tế. Trong ṿng chưa đầy 4 tháng, hai Tuyên Bố Chung phản ảnh hai quan điểm trái ngược, Hồ đă chuyển hẳn từ nhóm thân Nga sang nhóm thân Tàu.

    Cần nhắc lại vào tháng 7, Maneli gặp Phạm văn Đồng và Xuân Thủy có cả sự hiện diện của Hồ chí Minh. Theo Hồi kư của Maneli, Hồ chỉ lắng nghe hai phía và không có ư kiến ǵ. Trong khi Maneli gặp ông Nhu th́ Hồ chí Minh đang nghỉ mát tại Quảng Đông, Trung Quốc. Hồ họp riêng với Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và đă tuyên bố như sau: “Đừng nói là phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn!”. (HCM, BNTS, tập 8, trang 457) Câu tuyên bố trên chỉ nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc, đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng lợi” do Mao Trạch Đông đề ra, nhằm biểu lộ chủ trương hiếu chiến và ḷng trung thành cuả Hồ với Mao.

    Cùng lúc ấy, một bài báo của Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong bài, nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng. Bài báo là một bước trong sự chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 tiến hành vào tháng 11 cùng năm.

    Ngày 20-10-1963, Hồ chí Minh tiếp đoàn Đại biểu viện kiểm soát tối cao Liên Sô do ông R.A.Rutencô làm trưởng đoàn. Hồ tuyên bố: “Để hoà b́nh giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam hiện nay, chỉ có một cách là: Đế quốc Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, vấn đề miền Nam Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự gỉai quyết lấy, như hiệp định Giơnevơ đă quy định”. (HCM, BNTS, trang 471) Tuyên bố này được đăng báo Nhân Dân 24-10-1993, như vậy Hồ đă chính thức từ bỏ chủ trương chung sống hoà b́nh cuả Liên Sô.

    Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam.

    Bùi Công Trừng đă kể lại cho Nguyễn văn Trấn như sau : “ Cái thằng Lê Đức Thọ trước giờ họp, nó đi đi, lại lại trong pḥng, như thể đội trưởng một tổ pháo đi kiểm tra đốc thúc pháo binh chuẩn bị… Tao đếm lăo Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn : ‘Bác hăy để cho anh em nói mà’...” (NVT, trang 328) Phe thân Liên Sô chưa biết họ đă bị Hồ chí Minh bán sống nên Lê Đức Thọ mới dám lộng quyền như trên.
    Sau Hội nghị Trung Ương lần thứ 9, nhóm Lê Duẩn tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Sô, Khrushchev, cổ vũ). Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của Lê Đức Thọ, được đăng trên báo Nhân Dân, đă thừa nhận một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm…những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn – Lê Đức Thọ trong Hội nghị 9. Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị Trung Ương 9.

    Tại hội trường Ba Đ́nh, tháng 1-1964, trước các cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết 9, Trường Chinh tuyên bố : “Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng Sản và nhà nước Trung Quốc.” (Nguyễn minh Cần, trang 129)
    Chiến lược kinh tế của Liên Sô cũng hoàn toàn thất bại ở miền Bắc Việt Nam . Qua tuyên truyền trên báo chí, miền Bắc luôn luôn đạt kế hoạch đảng giao. Qua biên bản Hội Nghị Bộ Chính Trị và qua lời Hồ chí Minh thực tế khác xa : “Từ ngày ḥa b́nh lập lại năm nào cũng thấy có thuận lợi, có khó khăn và năm nào cũng không đạt kế hoạch. T́nh h́nh mỗi ngày một căng thẳng. Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể phải giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho t́nh h́nh đời sống căng thẳng quá.” (HCMBNTS, tập 8, trang 272) Sau 1975, sự nghèo đói cả tinh thần lẫn vật chất được giải thích là để miền Bắc tập trung giải phóng miền Nam . Chẳng qua chiến tranh chỉ là cái cớ để đảng Cộng sản che dấu thất bại về xây dựng kinh tế.

    Trở lại chuyện cành đào

    Ông Cao Xuân Vỹ cũng nhớ là vào tết nguyên đán năm 1963, Hồ chí Minh đă nhờ Đại sứ Ấn Độ trong Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đ́nh Chiến chuyển tết ông Diệm một cành đào. Tổng thống Ngô đ́nh Diệm chỉ biết khi món quà xuân đă về đến Dinh Độc Lập. Ông Diệm cho lệnh mở ra thấy có cành đào, một tấm thiệp chúc tết đề đại khái “Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà kính tặng, chúc tết Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà” và một lá thơ ông Hồ gởi cho ông Diệm. (Vĩnh Phúc, trang 336)

    Trên báo Con Ong Tỵ Nạn tại Paris, vào năm 1981, có phổ biến “Bức chúc thư của Hồ chí Minh” trong đó có đoạn: “Đầu năm 1963, hồi đó tôi c̣n chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân viên Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đ́nh Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đ́nh Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó, tôi có chân t́nh yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong t́nh anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam .” Rất nhiều người tin đây là chúc thư thật với thủ bút cuả Hồ chí Minh. Bài viết này không đánh giá bức chúc thư là thật hay giả. Nhân vật Hồ chí Minh đă tự viết sách tự ca ngợi là cha già dân tộc th́ c̣n việc ǵ không dám làm. Nếu là thật, Hồ chí Minh nên dành nỗi thương tiếc “cụ Ngô” cho hằng trăm “đồng chí” tin Hồ và thân Liên Sô đă bị Hồ bỏ rơi chết trong tù hay trong đọa đày lao khổ.

    Kết

    Qua bài có thể thấy câu chuyện hai ông Diệm và Nhu muốn thương lượng với miền Bắc chỉ là một thế cờ (dọa Mỹ) tính sai nước. Người Mỹ đă phản phé nước cờ một cách tàn nhẫn lấy lư do trên.

    Ngược lại trong cuộc hội thảo do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tổ chức vào cuối tháng 9/2010 vừa qua, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger lần đầu tiên thú nhận “... Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam là do chính người Mỹ làm ra,... Nước Mỹ muốn thỏa hiệp, Hà Nội muốn chiến thắng.” Người Mỹ đổ quân vào Việt Nam sau khi ông Diệm đă chết cũng chỉ muốn thảo hiệp trong thế mạnh nào ngờ đă sa lầy tại Việt Nam .

    Trong khi đó, Hồ chí Minh và đảng cộng sản công khai chấp nhận làm “tiền đồn” đánh thuê cho phe cộng sản và xung đột để chọn giữa hai ông chủ Liên Sô và Trung Cộng. Cả hai phe đều chủ trương thống nhất Việt Nam. Phe Liên Sô, muốn dùng giải pháp chính trị thương lượng với miền Nam . Nếu bắt tay được với miền Nam là một thắng lợi lớn của phe này. Phe Trung Quốc th́ chủ trương đánh để giải phóng miền Nam và thực hiện chiến lược bành trướng phong trào Cộng sản xuống các nước Đông Nam Á.

    Cuối bàn xin dùng một h́nh ảnh dễ nhớ làm kết luận. Ở miền Nam , anh em ông Ngô Đ́nh Diệm bị người Mỹ trói tay chỉ biết la làng. Từ miền Bắc, Hồ chí Minh một tay đưa tặng cành đào, tay khác dấu đằng sau con dao nhọn. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ th́ đằng đằng sát khí “cầm gươm ôm súng xông tới” vượt sang miền Nam . Ông chủ Liên Sô, Khruschev, buồn rầu không biết sao gíup đàn em. Ông chủ Trung Cộng, Mao trạch Đông cười toe toét miệng la lớn “hẩu hẩu” khen thưởng đàn em. H́nh ảnh trên cũng bộc lộ toàn bộ cuộc chiến Bắc – Nam 1954-75.

    Nguyễn Quang Duy
    Melbourne, Úc Đại Lợi
    30/10/2010


    Tài Liệu Tham Khảo và Trích Dẫn:

    Chánh Đạo, 2004, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ.

    Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, 1996, Tập 8, Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

    Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8 và Tập 9, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.

    Gnoinska K. Magaret, 2005, Poland and Vietnam , 1963: New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the “Maneli Affair”, Working Paper No 45, Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholar.

    Lâm Lệ Trinh, 2006, Về Nguồn Sinh Lộ Cho Quê Hương, Thủy Hoa Trang , California , Hoa Kỳ.

    Mieczyslaw Maneli, War of the Vanquished, translated from the Polish by Maria de Gorgey, Harper & Row, New York , 1971.

    Nguyễn Ngọc Giao, 1963 : T́m hiểu cuộc “ đi đêm ”giữa Sài G̣n và Hà Nội, Diễn Đàn số 131 tháng 7.2003.

    Nguyễn minh Cần, 2001, Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Quốc Tế Cộng Sản, Tuổi Xanh xuất bản.
    Nguyễn Tài, Khúc khuỷu đường đời - Mười một năm liên tục đấu tranh để sự thật và lẽ phải được thừa nhận, talawas

    Nguyễn Kỳ Phong, 2006, Vũng Lầy Bạch Ốc: Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tủ Sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ.

    Nguyễn văn Trấn, 1995, Viết Cho Mẹ Việt Nam, Văn Nghệ, Hoa Kỳ.

    Phạm Văn Lưu, 1994, Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại: Ngô Đ́nh Diệm và Bang Giao Việt Mỹ 1945-1963, Centre for Vietnamse Studies.

    Vĩnh Phúc, 1998, Những Huyền Thoaị và Sự Thật về Chế Độ Ngô Đ́nh Diệm, Văn nghệ, California , Hoa Kỳ.

    Vũ Ngự Chiêu, Tướng Dương Văn Minh và Đệ Nhất Cộng Hoà , Diễn Đàn số 127 tháng 3.2003.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 12-12-2011, 04:52 AM
  2. Replies: 8
    Last Post: 03-05-2011, 11:32 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 18-04-2011, 01:13 PM
  4. Replies: 5
    Last Post: 04-04-2011, 01:10 AM
  5. Replies: 6
    Last Post: 03-02-2011, 09:55 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •