Page 14 of 55 FirstFirst ... 410111213141516171824 ... LastLast
Results 131 to 140 of 549

Thread: 30 Tháng Tư Trong Ḷng Người Việt Hải Ngoại

  1. #131
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    - Tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 cho biết :

    ‘…Sau khi Pḥng tuyến của Chiến đoàn 52BB tại Ngă Ba Dầu Giây Long Khánh.bị vỡ vào đêm 15 tháng 4 năm 1975, Ông đă xin Bộ TTM cho ném bom Daisy Cutter để ngăn sức tiến quân của CSBV. Sáng 16 tháng 4 vào lúc 11 giờ sáng 2 trái bom đă được thả..xuống khu vực đóng quân của CS BV tại khu vực từ Định Quán xuống Ngă Ba Dầu Giây, loại khỏi ṿng chiến hơn 10 ngàn quân CS, phá hủy nhiều Chiến xa và đại pháo của CS..Tôi đă đề nghị thả thêm 5 bom Daisy Cutter nữa.. nhưng được thông báo là tuy c̣n bom nhưng..không c̣n đầu nổ !’.



    Quà tặng cho Việt Cộng – Trái CBU không ng̣i nổ

    - Tường Trần Văn Nhật (Tư lệnh SĐ 2), viết trong Hồi Kư :

    ‘..Chính Tướng Toàn là Tư lệnh Chiến trường đă chấp thuận cho sử dụng 2 trong số 6 trái bom (v́ chỉ c̣n có 2 đầu đạn) Daisy Cutter..thả xuống yểm trợ cho mặt trận Xuân lộc…Đáng lư ra chúng ta có đến 27 trái bom này theo quyết định của ĐT Weyand trong chuyến viếng thăm VN vào tháng 2/75 cùng với Ông Phụ Tá Bộ trưỡng QP Eric Von Marbod, Rất tiếc chỉ có 6 trái đến được VN vào cuối tháng 4/75 và không hiểu tại sao chỉ có 2 ng̣i nổ’

    - Vào những ngày cuối cùng của VNCH, Hệ thống Chỉ huy Quân sự của QL VNCH đă gặp nhiều trắc trở, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, tuy không c̣n chức vụ chính thức trong KQ, đă ..tự động trở về Quân đội và..vẫn ra lệnh được cho các..phi công !Trong ‘The Buđha’s Child’ (trang 331) Ông ghi lại :


    ‘..v́ quả bom có sức công phá mạnh, nên TT Thiệu sợ rằng ..sẽ có kẻ ném quả bom này vào Dinh..do đó chỉ được phép sử dụng bom do chính Ông Ta quyết định (?).. Một hôm Pḥng Hành quân yêu cầu yểm trợ..Tôi không có sẵn vơ khí trong tay, nên yêu cầu Vị Chỉ huy KQ cho thả , ông cho biết không có thẩm quyền. Tôi yêu cầu Vị Tổng Tham mưu trưởng..câu trả lời tương tự.. Tôi gọi nhiều Vị Tưóng khác, tất cả đều cùng câu trả lớị Tôi biết nếu tôi gọi Thiệu, ông ta sẽ..c̣n phải suy nghĩ, do đó tôi gọi Thủ Tướng Khiêm..Ông trả lời ..tùy tôi và sau khi tôi giải thích nhu cầu của t́nh h́nh.. Ông Khiêm cho biết : Đồng ư..Tôi gọi lại cho Vị Chỉ Huy Hành quân và nói: OK , thả các quả bom.’ Ông này..chấp nhận thi hành lệnh cũa tôi.. và các quả bom được thà ‘.



    Trần Lư

    D Đ Chinhnghiaviet

  2. #132
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    EM KHÔNG NH̀N ĐƯỢC XÁC CHÀNG



    Cố Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt
    Chiến Đoàn 2 Xung Kích --Biệt Kích Lôi Hổ
    Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu,
    Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa

    "em không nh́n được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong"
    Viết theo chuyện kể của phu nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt - Hồ Đăng Nhựt.


    Thành kính đốt nén tâm hương, tưởng niệm đến những anh linh chiến sĩ QLVNCH, và đồng đội đă bỏ ḿnh trong cuộc chiến bi hùng cho Tổ Quốc Việt Nam nhân mùa Quốc Nạn - THÁNG TƯ ĐEN.
    Lưu Trùng Duơng


    Tôi lập gia đ́nh sớm, năm tôi 18 tuổi đă theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh. Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đă t́nh nguyện vào đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngủ làm Cộng quân khiếp viá, đối với Cộng quân những người chiến sĩ này là h́nh ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ -đến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm đối với chúng.

    Nhất là "đàn con của Bác" được nhồi sọ từ một chủ thuyết Nga-Tàu, tràn qua gịng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lià Nam Bắc. Vượt trường sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những h́nh hài không tim óc "sanh Bắc tử Nam" dẫm trên đường ṃn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.


    Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào h́nh ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleimer gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, B́nh Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùng bất trắc, hiểm họa ŕnh rập theo những bước chân xâm nhập, nổi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!


    Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn văn Khách, vị sĩ quan này đă thành lập 5 toán nhảy, mổi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách. Tên các toán trưởng đầu tiên là anh Phan văn Ninh, Lê kỳ Lân, Nguyễn bính Quan, Nguyễn văn Tùng và chồng tôi là Hồ đăng Nhựt. Đại úy Nguyễn văn Khách đă chỉ huy trại này được một thời gian, ông lại được lệnh thuyên chuyễn đi nơi khác. Sau đó thiếu tá Thơm và đại úy Xuân, anh em thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên khuôn mặt của đại úy Xuân không có vết xẹo nào! có lẽ một cái tên đặc biệt anh em đă tặng cho. Đại uư Xuân từ bên sư đoàn Dù về, hai ông này là xử lư của trại Đằng Vân. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xoáy ṃn tâm trí tôi, tôi vẫn c̣n nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.


    EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI

    Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận B́nh Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an ḷng được trong tâm trạng nổi ḷng chinh phụ dơi bóng chinh phu!

    Cứ mổi lần chàng chuẩn bị đi vào "miền gió cát", nhảy vào giữa ḷng đất địch là mổi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nổi lo âu, niềm đau đợi chờ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, B́nh Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà ḷng tơi bời vụn nát....sợ anh về trên đôi nạng gổ, tôi nghẹn ngào nghĩ đến ngày anh trở về "bên ḥm gổ cài hoa..." chỉ nghĩ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương ŕ rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đ́nh tôi tại Sàig̣n.


    Sài g̣n không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đă vội qua.... "Sài g̣n đẹp lắm, Sài g̣n ơi", Sài g̣n vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "nắng Sài g̣n em đi mà chợt mát, bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi c̣n tâm trí nào để ch́m đắm trong những gịng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim bay súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài g̣n, Ḥn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên h́nh hài c̣m cỏi của Mẹ Việt Nam! Tôi làm ǵ có áo lụa Hà Đông để mặc, nổi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiă, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn h́nh hài nha anh, nha Hồ đăng Nhựt dấu yêu của em!

    C̣n tiếp ...

  3. #133
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân, buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng.

    Năm đó tôi mang thai đứa con đầu ḷng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều tôi đă gặp thiếu tá Thơm, đại úy Mai việt Triết và đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: thiếm đă đến trể mất rồi, Nhựt mới vừa từ giả chúng tôi bước ra băi phi cơ trực thăng.

    Từ trong vô thức năo nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ : "bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in".

    Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mă trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bật bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái.

    Tôi, hôm nay đơn lẽ, nước mắt đoanh tṛng đứng nh́n theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng ṿng quay cánh quạt, ḷng quặn thắt từng cơn nh́n đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc B́nh Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh...!!!

    B́nh Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh....thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó!!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

    Cuộc giao tranh đă quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về.... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đă hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đă bị lộ, nên anh đă băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Văi tại Bà Rịa.

    Chàng đă nguyên vẹn trở về, cám ơn thượng đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài g̣n.

    Đến năm 1966 các anh toán trưởng cũng lần lượt mổi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ.

    Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn ngọc Thiệp, Trần anh Tuấn, Nguyễn văn Biên,v.v... các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác.

    Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ.... cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleimer, trận chiến này các đội và trưởng toán đă hy sinh rất nhiều. Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2 người bạn của chồng tôi là đại úy Nghi và Nguyễn văn Bảy, anh em thường gọi là "Bảy Lùn".

    Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đă bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực.

    Nhiều chiếc đă bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có trung úy phi công trực thăng Nguyễn văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực.Từ trên cao trung úy Vui bổng th́nh ĺnh "cúp" máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.

    Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng, vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng Hai Chiến Thuật sắp về, tôi được tin từ Sài g̣n và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép.

    Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàig̣n, anh Nguyễn ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến! bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời c̣n đỏ hỏn đă vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể trở về Sàig̣n an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bả, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.

    Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài g̣n và đứa con thứ ba đă chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài g̣n, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, trung úy Nguyễn văn Tùng đă tử trận tại Ṭa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nữa năm sau ông Phạm duy Tất đă thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đă phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Ḥa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là trung tá Phạm duy Tất đưa anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở B́nh Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972.


    Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn....bom đạn cày nát mănh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quảng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy.... Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô...!!!

    Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Pḥng, Nha Kỷ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đă chọn về Sở Liên Lạc thuộc Pḥng 7 Nha Kỷ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.


    C̣n tiếp...

  4. #134
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT

    Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuộc và Kontum. Lúc này t́nh h́nh chiến sự trở nên căn thẳng, hổn loạn, phương tiện di chuyễn vô cùng khan hiếm và khó khăn.

    Hai ngày ṛng ră chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Ḥa và đă được lên đường sau đó. Khi đến tŕnh diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá Cao triều Phát đă đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em.

    Ông thiếu tá Phát bảo chồng tôi, "mầy" đă xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc t́nh h́nh đang rối ren v́ được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng ḿnh sẽ về chung cho vui. V́ vậy, anh đă nhờ thiếu tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh sẽ về Sài g̣n.


    Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đao binh và cướp bốc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài g̣n, chỉ c̣n 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùng.

    Chiều cùng ngày trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không c̣n xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nh́n không ra. Trong xe chết 3 người, c̣n lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.

    Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn cao Vĩ trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đă thấy trung úy Thọ và thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: Xin chị b́nh tỉnh, tin chính xác báo cho biết đại úy Hồ đăng Nhựt đă tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua.

    Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đăo, tôi ngả qụy chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lănh xác chồng.



    Tang lễ Hồ đăng Nhựt


    " Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ".

    Trời ơi, Hồ đăng Nhựt ơi! Anh đă bỏ mẹ con em, anh đă bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngă.

    Tôi cùng các anh em đi đến Nghiă Trang Quân Đội tại Biên Ḥa, được một chú lính đưa tôi đi qua dăy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ.

    Chiếc hộc tủ gói gọn h́nh hài của thiếu tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi ! "em không nh́n được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đă bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài.

    Tấm thẻ bài này nó đă từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đă từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mổi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặng sim bạt ngàn. Bây giờ "áo bào đă thay chiếu anh về đất" yêu đương kia đă cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!


    C̣n tiếp...

  5. #135
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    ĐÁ NÁT VÀNG TAN

    Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xă, lúc đó tôi nhờ em tôi đưa 5 đứa con về nhà trước phần tôi thu xếp về sau.

    Chỉ có một đêm đường xá bị giới nghiêm và thiết quân luật, tôi nóng ruột không biết các con tôi như thế nào.

    Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân Sài g̣n.....

    Đến trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại cư xá Nguyễn cao Vĩ....tôi ngơ ngác nh́n và chạy theo.

    Sài g̣n súng nổ, Sài g̣n đạn lạc tên bay, tiếng pháo Cộng quân ầm đùm, tiếng xích sắt thô bạo nghiền nát mặt đường, giờ phút hấp hối của Sàig̣n, cơn đá nát vàng tan đă đến.

    Quyết một phen trống mái ngăn chận Cộng quân xâm nhập thủ đô, trên bầu trời những chiếc phi cơ đang vầng vũ đánh bom bảo vệ ṿng đai Sàig̣n, một chiếc bốc cháy chói ḷa như hành tinh lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lả chă, một chiếc khác gẫy cánh quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói đen nghịch bốc lên cao.

    Sài g̣n bốc cháy, Sài g̣n loạn lạc, Sài g̣n tiếng kêu la thất đảm. Kẽm gai như mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm trong tay bám chặt chốt. Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ cánh "Thiên Thần", giày sô "shaute" c̣n bám chặt gót chân gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào? chỉ c̣n tấm thân trần với những xâu lựu đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá đang chạy tới, chạy lui.

    Tôi như một cái xác phờ phạc, hồn đă thất lạc tự bao giờ. Tôi chạy về hướng ngă tư Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà bị đổ nát tan hoang v́ đạn pháo của địch quân, không biết họ đă tan thây trong đóng gạch vụn đó hay chạy phương nào ?

    Tôi lại trở ra đường Nguyễn văn Thoại , vừa đi vừa chạy về nhà trên đường Lư Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn c̣n đang chờ. Mẹ con chúng tôi ôm nhau ̣a khóc.

    Chiều 30/4 người người bỏ chạy t́m tự do, người người thất lạc.

    Hoàn cảnh và cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống từ giă cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm.

    Tang chồng vẫn nặng trỉu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho đất nước. Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con lớn nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm ǵ đây trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của "Sài g̣n hoang lạnh ơ thờ, môi người goá phụ nhạt mờ màu son...." Nhựt ơi, em phải làm ǵ đây anh, em phải làm ǵ và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến ???


    Cuộc đời sao lắm nỗi truân truyên, sao quá đổi đoạn trường đối với người vợ Lính?!

    Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một thể chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dă man. Tôi trong tâm trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng chiều dơi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn c̣n nhiều hạnh phúc hơn tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một "ngụy quân", họ đă lên án tôi như thế.

    Chồng tôi đă gục ngả trên đường rút quân, tôi đă lịm chết bao lần trước cổ quan tài, ḷng huyệt lạnh đă cách ngăn chúng đôi miền: dương-cảnh. Tôi c̣n ǵ để mà ngóng trông như nàng Tô Thị, có c̣n chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại, tôi phải tảo tần buôn gánh, bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau...!


    C̣n tiếp...

  6. #136
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ

    Con nước xoáy trăm gịng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời quay quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lănh từ Hoa Kỳ của em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh, về mọi mặt....nào có b́nh thường và dễ dàng như bao gia đ́nh khác? cuối cùng chúng tôi được lên đường. Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo khó, cùng 5 đứa con đă trưởng thành.

    Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt tôi đă khô cạn trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm đen mưa nắng, trên khuôn mặt hóc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đă ḥa lẫn những vui buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt "thiên đàng" Cộng Sản. Trạm dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10 ngày tại đó, rồi Tokyo, San Francisco, và chúng tôi đă đến Kansas city đoàn tụ với người em gái thứ 5 nơi thành phố này.


    Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân t́nh thế sự biến đổi theo hoàn cảnh đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi xuôi Nam về miền Cali nắng ấm tại quận Cam, tôi đă quen với đời sống mới, gặp lại những đồng đội của chồng tôi năm xưa.

    Trong một t́nh cờ giữa tiệc cưới con của người bạn cũ, tôi gặp được đại tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu. Sau đó tôi quyết định về San Jose vào tháng hai và nghe tin đại tá Ngô Thế Linh đă từ trần.

    Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc các anh đă tổ chức ngày giổ của chồng tôi rất trọng đại, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan, trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người nhưng t́nh đồng đội vẫn c̣n gắn bó, cao qúy thay cho cái t́nh huynh đệ chi binh.

    Những chiều ở đây mổi độ tháng tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến sĩ đă nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ đăng Nhựt -chồng của tôi, anh đă làm xong bổn phận của người trai thời loạn. Giờ đây niềm đau bại trận luôn đeo đẳng theo các anh -những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử một cách bi phẫn trong một cuộc chiến đấu oai hùng.

    Các anh đang trôi dạt trên xứ người, cuộc chiến đó c̣n dỡ dang và đang tiếp diễn trên một chính trường không phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lư Tưởng QUỐC GIA và DÂN TỘC. Máu các anh đă tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong loài qủy đỏ, tôi luôn hỵ vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ can trường của QLVNCH.

    CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI

    Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa đổ điù hiu se sắc buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong trại gia binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân.

    Tất cả ch́m sâu vào đáy dĩ văng rong rêu, mổi lần hồi tưởng ḷng tôi lại rạt rào thương tủi, ḷng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. "Tuư ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" h́nh bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng ḍng chữ, từng âm thanh đứt lià "vẵng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa."


    Bây giờ là THÁNG TƯ. Bây giờ đă từ bao độ mất chàng, mất quê hương.

    Vâng bây giờ là tháng 4, đă 37 năm dài(*)mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên "Quê Hương Ngh́n Trùng Tang Trắng".

    Trong một góc sâu thẳm của ḷng tôi, h́nh ảnh cố thiếu tá Hồ đăng Nhựt, người chồng thân yêu đă anh dũng ĐỀN XONG NỢ NƯỚC.

    San Jose, mùa Quốc Nạn.


    Lưu Trùng Dương

    Posted by : an do ankaydo@gmail.com

    D Đ Chinhnghiaviet

  7. #137
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN



    Lời tác giả: Nhân 30 tháng 4, để nhớ lại những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược, xin có một truyện ngắn nói về sự chiến đấu này, đây là chuyện có thực mà người viết từng tham dự năm xưa. Trân trọng.

    x x x

    Tối đó, tôi dẫn Đại đội tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi nắm Đại đội, sáng nay có cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người Đại đội trưởng tiền nhiệm, cũng là khóa đàn anh của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.

    Ra trường được sáu tháng, từ anh Thiếu úy mới ṭ te, giờ đă lên nắm Đại đội, quả là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các binh chủng khác như Nhảy dù, Thủy quân lục chiến..., có lẽ họ vẫn c̣n đang thực tập ở Trung đội hay là Trung đội trưởng mà thôi.

    Tôi nắm Đại đội hơi nhanh không phải v́ ḿnh tài giỏi ǵ mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn đi Bộ binh, các đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại đội xử lư là một Chuẩn úy, gọi là xử lư cũng không đúng v́ trong cấp số coi Đại đội th́ tối thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ quan quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt mới ra trường là các đơn vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46 th́ một ông đàn anh khóa 16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về. Ông tên Hồ Trang, khóa 16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam v́ dính dáng tới vụ Phật Giáo, ngoài đó ông đă là Tiểu đoàn phó nên vị Tiểu đoàn Trưởng cũng có hơi nể, quay quắt v́ việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng như mắm tôm, ông nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí t́nh trong việc chỉ bảo cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng c̣n quá mới, quân trường dậy là một chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.

    Cứ như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho xuống trung đội để thực tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đă tàm tạm gọi là đủ lông, đủ cánh bay solo được, ông nói với Tiểu đoàn Trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho tôi, trước đó, ông đă thu xếp người Đại đội phó đi học để tôi coi ĐĐ được danh chính ngôn thuận.

    Nói về tối đầu tiên tôi dẫn ĐĐ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân đêm cùng các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên đường tôi thấy có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, thường vụ đại đội, ông ta đi lính hồi tôi c̣n học Tiểu học:

    - Ai vậy ông Hội, sao có đàn bà lẫn lộn vào đây?

    - Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với Đại Đội lâu rồi, hồi c̣n Trung úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn xuống sống với chồng nó.

    - Tôi thấy không được rồi đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công th́ làm sao, thằng Nở chỉ lo cho vợ nó th́ c̣n đánh đấm ǵ được.

    - Thiếu úy đừng lo, vợ nó phụ nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên, biết tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu úy coi, hể rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên nữa.

    - Nhưng lỡ có chuyện ǵ làm sao ḿnh báo cáo.

    Hôm sau tôi gọi Nở lên tŕnh diện:

    - Sao cậu không để cho vợ cậu ở nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy, lỡ có chuyện ǵ th́ sao?

    - Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ nhỏ, không có nhà, em đă đưa nó về với má em rồi nhưng má em không ưng nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy cũng bất tiện, em biết chứ.

    Nở thực hiện lời "em biết chứ", vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi chung trong toán đại liên nữa, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ ra bến xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải, lỡ có chuyện ǵ th́ làm sao, rồi má con sẽ phải ḥa thuận với nhau chứ.

    C̣n tiếp...

  8. #138
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Một hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó tôi có dặn anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu có đứa bị móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ th́ Nở không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các Trung đội xem c̣n ai không biết chữ gom tất cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT mua tập vở về dậy họ học,"ngày măn khóa", tôi kêu từng người đưa tờ Chiến sĩ Cộng Ḥa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, Hạ sĩ Nở biết chữ từ ngày đó.

    Có bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở mấy nhà quen trong xă, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.

    Tôi mở lá thư của Nở ra đọc:

    Long Xuyên, ngày....

    anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi ḿnh hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu ǵ vợ chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái ǵ quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố ch́u chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.

    Em, Ba.

    Một tuần lễ sau khi đọc lá thư của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại Đội đi đóng quân, tôi lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng quân, không biết anh Hai có trả lời, trả vốn ǵ không hay nhớ chồng lên đại, tôi thấy chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nh́n thấy, hoặc có thể biết tôi đă thấy nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ mà là bộ đồ trận rộng thùng th́nh, đầu c̣n đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang che mắt tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại liên quanh người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin ǵ cả, chẳng thà để tôi lờ đi như không biết c̣n hơn là hợp thức hóa cho khó xử.

    C̣n tiếp...

  9. #139
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh thường có ba Đại đội tác chiến, chia nhau vùng trách nhiệm hoạt động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ, đôi khi có cuộc hành quân cấp Tiểu đoàn thường là nhảy trực thăng và xa hơn. Ba Đại đội trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đ́nh Hà (ĐĐ1), Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3.

    Một tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long Thượng về Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà(ĐĐ2) khoảng 500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc với Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rơ v́ đă từng đóng quân ở đây, chắc chắn là địch tấn công từ ngă rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy băng lên v́ t́nh người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch, nhưng v́ không liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn.

    Tôi chạy lại cây đại liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc, tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng bóp c̣, nhả từng loạt đạn về hướng địch.

    Như tôi đă nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai chục tên, đợi ḿnh ơ hờ, liều lĩnh tấn công.Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau, ĐĐ tôi hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng v́ địch tụ ở đâu về, ém quân trong đám dừa lá dày đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng tập trung ở đây, đợi đêm xuống có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Ḥa, Đức Huệ rồi qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả.

    Đám dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng trống, suốt vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba binh sĩ bị thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi máy bay ném bom c̣n là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế chiến, toàn là Garant, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của Hạ sĩ Nở cũng có tác dụng. Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một ḿnh vác cây đại liên cả với chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là anh ta chạy nhào lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch c̣n lo núp. Khi đă rất gần mục tiêu và có g̣ đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được hiệu quả của nó, từng loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được, cộng thêm pháo và trực thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối, địch bỏ lại 6 xác và một số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể ǵ so với sau này khi SĐ 25 rời Long An di chuyển về vùng trách nhiệm mới là Tây Ninh, cuộc hành quân vượt biên năm 1970 cũng như ở B́nh Long mùa hè đỏ lửa th́ chiến trận lên tới cấp Sư đoàn, Quân đoàn.

    Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận đánh và gắn huy chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng Tướng Chinh là người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng cấp, Nở chỉ được cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng huy chương vàng của các nơi khác (!)

    Hai ngày sau ĐĐ c̣n được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả toán đang ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng, thấy tôi, chị có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá tôi có quyền, tôi sẽ tặng cho chị ấy một cái huy chương của buổi tối yểm trợ cho Vũ đ́nh Hà.

    Đầu năm 1968, tôi được đề cử theo học khóa Tác chiến trong rừng ở Mă Lai, tôi c̣n gắn bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một buổi sáng, đang đứng trước cửa ĐĐ th́ vợ Nở bất chợt ngang qua, chắc đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại muốn thối lui nhưng không kịp, chị ta làm bạo bước tới và khi ngang qua tôi, vợ Nở mím môi lại và dơ tay chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc nhiên, trong một phản xạ, tôi chào lại, chào xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ: sao ḿnh lại chào nhỉ, hóa ra ĐĐ này có một nữ quân nhân ư? Có lẽ chị ta thấy mọi người trong ĐĐ chào tôi nên khi gặp, chị cũng chào để cho giống như những người kia chăng! Tôi thấy h́nh như bụng vợ Nở có hơi to ra. Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ Hội th́ ông ta bảo: có vẻ như vậy Trung úy.

    Tôi gọi Nở lên: - Vợ cậu có bầu phải không?

    - Dạ, thưa Trung úy.

    - Vậy th́ cậu phải đưa cô ta về với bà già đi chứ, bầu b́ rồi đi theo ĐĐ măi sao được, phải lo sức khỏe cho cô ta.

    - Dạ, em cũng tính tháng này lănh lương xong, Trung úy cho em cái phép để em đưa nó về gởi bà già.

    - Được rồi, lúc nào muốn cứ lên đây.

    Hai ngày sau, Đại Đội được lệnh đóng quân đêm và tổ chức một cuộc phục kích ở sau lưng quán Năm Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự khuấy rối của VC nơi đây, tối đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ bọn chúng gặp toán phục kích, hai tên bị bắn hạ, số c̣n lại nhập qua toán kia th́ đụng phải ĐĐ, nhờ toán phục kích nổ súng trước nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch bắn rất rát nhưng không chủ ư tấn công nên sau một hồi, chúng rút lui, h́nh như có chuyện ǵ xẩy ra ở cây đại liên v́ tôi thấy nó nổ được một chập th́ im bặt, tôi đảo nhanh ṿng quanh tuyến pḥng thủ, không có tổn thất nào, nhưng khi tới cây đại liên, tôi thấy có mấy người lố nhố, linh tính cho tôi biết có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng:

    - Ǵ vậy Nở?
    Không có tiếng trả lời, tôi bước vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ đang loay hoay băng vết thương nơi ngực chị ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào:

    - Vợ em nó chết rồi Trung úy ơi!

    Tôi ngồi xuống, chị ấy bị trúng đạn ở ngực, máu ướt đẫm cả cái áo trận, y tá Thọ đứng lên:

    - Chết rồi Trung úy.

    Tiếng thằng Năm trong toán đại liên:

    - Súng bị kẹt đạn, thằng Nở kéo măi đạn không lên, con Ba nó chồm dậy mở nắp cơ bẩm, em la nó nằm xuống nhưng không kịp Trung úy.

    Tôi thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, từng chứng kiến nhiều cái chết nhưng lần này tôi thật xúc động. Thôi, chị Nở, từ nay chị hết cần phải tránh né tôi nữa rồi, sao tôi lại không cứng rắn hơn nữa với chị, giá tôi đừng t́nh cờ đọc được lá thư chị viết cho chồng, ừ, đáng lẽ tôi phải cứng rắn hơn, nhất định không cho chị đi theo ĐĐ như vậy.

    Tôi báo với Thiếu tá Hải, Tiểu đoàn Trưởng về sự việc xẩy ra, ông có biết vợ chồng Nở, ông cho Sĩ quan CTCT/TĐ mua cái ḥm, cấp cho Nở một cái xe Dodge để đưa vợ về quê mai táng. Tôi lấy hết tiền có thể có được, cả tiền quỹ ĐĐ đưa cho Nở, buổi trưa cuối năm, trời hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và quan tài vợ đi ngang qua ĐĐ, tôi đứng nghiêm chào như một lần chị đă chào tôi, chị chết đi mà cái ḥm không có phủ cờ, không được mười hai tháng lương, không cả được lên cấp chỉ v́ chị là NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN.

    Mười ngày sau, Nở trở lại đơn vị, trước ít ngày tôi về SG để chuẩn bị đi học, Nở đào ngũ, có lẽ Nở không chịu được cái cảnh mỗi tối vác cây đại liên tới chỗ đóng quân mà không có vợ bên cạnh.

    x x x

    Chị Nở thân mến, 40 năm sau ngày chị mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện này về chị, chỉ là một sự t́nh cờ thôi, hôm nọ tôi đọc loáng thoáng đâu đó người ta nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một người không phải là quân, cũng không hoàn toàn là dân, gọi chị là ǵ nhỉ, chị lưng chừng ở giữa nhưng đă chiến đấu như một người lính thực thụ và đă hi sinh.

    Một lư do nữa để tôi viết về chị là v́ mới đây, Cộng Sản Việt Nam đă làm ầm ĩ lên câu chuyện về Đặng thùy Trâm, một nữ cán binh CS xâm nhập vào Nam và đă chết ở chiến trường Quảng Ngăi, cô Trâm này chết ở đây nhưng không ai biết nắm xương khô vùi chôn nơi đâu, một người lính Mỹ hành quân qua nơi cô chết và nhặt được cuốn nhật kư của Đặng thùy Trâm, cuốn nhật kư này, như một kỷ niệm chiến tranh của người lính, anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau, nó mới được đưa ra ánh sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy Trâm ở Hà Nội.

    Nhà nước CSVN chụp được cơ hội này cho xuất bản cuốn nhật kư, dĩ nhiên với nhiều thêm thắt để khơi động ḷng yêu nước của đám thanh niên càng ngày càng rời xa chủ nghĩa CS. Đặng thùy Trâm là một Bác sĩ, nhưng không hiểu có được học hành tử tế để thành một Bác sĩ không, tôi đă đọc được một truyện khi ở tù ngoài Bắc là có một anh công nhân được tặng danh hiệu anh hùng lao động v́ đă phục vụ 15 năm trong pḥng bào chế thuốc, và v́ phục vụ hăng say và lâu như vậy, anh được thăng lên làm dược sĩ v́ quen với công việc bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta mới đi học bổ túc văn hóa v́ anh ta viết chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy, tôi không biết Bác sĩ Thùy Trâm này tŕnh độ có khá hơn y tá Thọ của Đại Đội ḿnh năm xưa không, hay cũng như mấy bà mụ vườn ở nhà quê.

    Thưa chị Nở, cả chị và cô Đặng thùy Trâm này là hai người đàn bà ở hai chiến tuyến chết trong cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và độ tuổi cũng gần như nhau, nhưng hai cái chết mang hai ư nghĩa khác nhau, Thùy Trâm bị bắt buộc và tự đi t́m cái chết, c̣n chị, chị bị chết v́ người ta ở măi đâu vô đây t́m để giết chị, chị chỉ là tự vệ, chị không hận thù ai, không ai dậy chị oán thù, không ai tuyên truyền với chị về chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ và cũng không nhân danh chủ nghĩa để chém giết người khác, chị rất đôn hậu, c̣n cái cô Thùy Trâm kia đă từ ngoài đó vào đây, mang trong ḷng sự thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi nhét, miền Nam này nào có cần ai phải giải phóng đâu, cho măi nhiều năm sau này, người miền Nam vẫn khẳng định rằng họ không cần ai giải phóng cả.

    Chị Nở có thấy điều buồn cười này không là trong cuốn nhật kư, Thùy Trâm viết là sao quân Mỹ Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị Nở có thích chém giết ai không hay người ta vào đây t́m giết chị, từ ngoài đó lần ṃ vào tận trong này để t́m giết người ta lại c̣n hô hoán là sao người ta thích chém giết ḿnh, thật kỳ lạ. Cũng trong cuốn nhật kư, Thùy Trâm than phiền là phấn đấu đă lâu nhưng chưa được kết nạp đảng, đây cũng là lư do v́ sao Thùy Trâm đi B, cố gắng trong công tác để chỉ mong được đảng kết nạp, chị Nở có biết cô ta mong được kết nạp để làm ǵ không, thưa là để có cơ hội được làm lớn, có đảng mới được làm lớn, có làm lớn th́ mới có quyền và có tiền, bây giờ cả cái nước Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi nhau vơ vét tiền bạc của người dân, chúng giầu lắm rồi, hồi trước mị dân, chúng đem những người giầu có ra đấu tố, gọi họ là địa chủ, giờ th́ ai đấu tố chúng? Thùy Trâm này nếu mà không chết và giả như có ô dù, giờ có thể là Bộ trưởng Y tế hay làm Giám đốc một bệnh viện nào đó th́ cũng là những con gịi, con bọ đang tham gia đục khoét thân thể Việt Nam.

    Cũng là cái chết nhưng chị chết trong ṿng tay người chồng, có mồ yên mả đẹp, có nhang, có khói, tội cho cha mẹ cô Thùy Trâm, không biết nắm xương khô con giờ ở chỗ nào, họa chăng là cái bàn thờ với tấm h́nh cô ấy mà thôi.

    Bốn mươi năm đă qua, bây giờ nhiều thay đổi lắm rồi chị Nở ạ, ông Thiếu úy trẻ năm xưa giờ là ông cụ già rồi, vẫn khó tính như trước và đang phiêu bạt nơi xứ người, Thượng sĩ Hội đă mất, Nở từ ngày đào ngũ tôi không gặp lại, chắc đă có vợ khác, xin được tạ lỗi cùng chị là đă không giữ được đất nước để rơi vào tay quân thù, thật không xứng đáng với sự hi sinh của chị, chúng tôi làm mất nước không phải v́ hèn kém, không chiến đấu, mất nước v́ bị phải mất nước.

    Quên kể cho chị nghe,mấy tháng sau ngày chị mất, vũ khí được tối tân hóa, những cây Garant cổ lỗ sĩ được thay bằng súng M16, c̣n cây đại liên 30 nặng ch́nh chịt chị biết đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ hơn, bắn nhanh hơn và không hay bị kẹt đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả đă qua, chúng tôi vẫn không bao giờ quên những người đă hi sinh v́ mảnh đất miền Nam thân yêu, không bao giờ quên được những gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong việc chống lại quân Bắc phương xâm lược, hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.

    Trần Như Xuyên

    Posted by pwillay@orange.fr

    D Đ Chinhnghiaviet

  10. #140
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    HỒI KƯ NGƯỜI VỢ LÍNH

    Vào thời thập niên 60-70, ở Saigon, những rạp hát như Rex, Eden thường hay tŕnh chiếu những cuốn phim Ngoại Quốc như: Ben Hur,Samson Dalida.v.v.

    Những nam minh tinh màn bạc có thân h́nh như tượng đồng những bắp tay cuồn cuộn, ṿng vai, ṿng ngực nở rộng, bắp thịt bụng rắn chắc hiện thành 6 múi… có thể che chở và chống lại những băo táp phong ba đến với họ, đă làm cho tôi ngưỡng mộ những người hùng trong những cuốn phim đó. Không biết có phải tôi bị lậm phim ảnh quá không?

    Có lẽ ước mộng của tôi về người yêu của ḿnh cũng giống như bao cô gái khác, ở vào tuổi mới lớn. Nhưng sự mơ ước của mỗi người đều khác nhau về đối tượng của ḿnh. Ước mộng của tôi tuy rất b́nh thường, nhưng hơi khó thực hiện…

    Một hôm, tôi đi vào nhà sách Khai Trí để t́m mua vài cuốn sách Văn Phạm Anh Ngữ để trau dồi thêm cho phần Anh Văn, tôi rất say mê đọc sách đủ loại truyện và mê học Sinh Ngữ từ nhỏ, nên tôi đă ghi tên đi học thêm ở Hội Việt Mỹ và London School, mong là sau khi tốt nghiệp Văn Khoa môn Sinh Ngữ tôi sẽ có cơ hội đi du học Mỹ Quốc.

    Trong thời gian này tôi cũng có ghi tên học Trường Quốc Gia Âm Nhạc với nhiều bộ môn: Ca Kịch Cổ Nhạc, Tân Nhạc và Chèo Cổ Bắc Phần. Ba tôi th́ rất mê nghe tôi hát chèo lắm, v́ ông là người Bắc.

    Tôi lướt qua kệ sách của những nhà văn Việt Nam, tôi thấy tên của một nhà văn nghe hơi lạ :Vơ Hà Anh & Dung Saigon, tôi bèn cầm lên, đọc thử xem họ viết ǵ nào.

    Ồ! Ông ta đang nói về sự huấn luyện gian khổ của Người Nhái. Nhưng mà Người Nhái là ai vậy?

    Họ như thế nào? Lúc đó tôi chưa thể mường tượng được Người Nhái, sao không giống như những sự tập luyện của những binh chủng khác mà chúng ta thường thấy ở những Quân Trường?



    Tôi đang đọc say sưa, quên cả việc vào t́m mua những cuốn sách Anh Văn mà tôi đă dự tính lúc ban đầu, th́ có tiếng cô bán hàng hỏi:

    Cô có thích cuốn đó không? Cô có mua không?

    Tôi vội gật đầu và nói:

    - Dạ! Mua chứ!

    Chắc cô ta để ư thấy tôi đứng đọc lâu quá! Chắc sợ tôi coi chùa. Tôi t́m mua thêm vài cuốn sách Văn Phạm và vội về nhà ngay để đọc tiếp đoạn hấp dẫn của cuốn sách vừa rồi…

    Gặp gỡ và chia ly

    Năm 1966, tôi đă được xem diễn hành Ngày Quân Lực 19 tháng 6 của tất cả các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Tôi cũng có ư muốn chờ xem Người Nhái ra sao, và tôi đă thấy đoàn diễn hành của Liên đội Người Nhái, trang phục rất lạ ngồi trên chiếc xuồng cao su, c̣n chiếc xuồng khác th́ các anh thân h́nh trần không áo, màu da sạm nắng, hàng đứng bốn thanh niên với thân h́nh lực sĩ giống như tôi thường thấy trong những cuốn phim mà tôi đă kể ở trên, ḿnh trần, quần short vàng, da sạm nằng bóng như những tượng đồng đen, tay cầm khẩu Tiểu Liên trông thật oai hùng.

    Kể từ đó, tôi bắt đầu mơ màng về Người Nhái, nhưng làm sao ḿnh có thể quen và được tiếp xúc với họ. Nhưng rồi thời gian đi qua tôi không c̣n ở tuổi mơ mộng đó nữa, nhưng vẫn cứ mộng mẫu người trong mơ!

    Tôi đang cố gắng hoàn tất chương tŕnh Văn Khoa và song song trong thời gian nầy tôi cũng vẫn tiếp tục học Anh Văn để thực hiện ước mộng của ḿnh. Nhưng, ước vọng của tôi không thể thực hiện được! V́ Ba tôi đă mất trong khoảng thời gian nầy, nên ước vọng của tôi cũng tan theo, tôi phải nghỉ học để đi làm, nhưng không dám thi vào làm trong Ṭa Đại Sứ Mỹ (v́ lúc c̣n sống, Ba tôi sợ tôi sẽ lập gia đ́nh với người Mỹ nếu vào làm việc trong đó).

    V́ t́nh trạng gia đ́nh đang gặp khó khăn sau khi Ba tôi là cột trụ của gia đ́nh đă về miền vĩnh cửu, tôi bắt đầu bước vào ngành ca hát. Tôi xin vào hát những Pḥng Trà ở Saig̣n vào mỗi tối, và vừa đi làm trong Đoàn Văn Nghệ Hoa T́nh Thương.

    Trong Đoàn, công việc cũng nhàn nhă, mỗi tháng chỉ đi công tác xa một lần. Đoàn văn nghệ chúng tôi đi viếng thăm, tŕnh diễn văn nghệ giúp vui cho các anh quân nhân trên bốn vùng chiến thuật, đến những nơi tiền đồn hẻo lánh và những vùng duyên hải xa xôi…

    Có những vùng mà chúng ta nghe địa danh cũng đă thấy năo nuột rồi như là Dăy Phố Buồn Thiu. Trực thăng chở chúng tôi lướt qua vùng miền Trung nghèo nàn nầy, trên một vùng rộng mênh mông cát vàng như sa mạc, giáp cận bờ biển, cây cối không sống nổi với vùng đất cát khô cằn nầy…

    Giữa vùng cát vươn lên một dăy phố chợ dài khoảng 10 căn, với vài căn nhà lợp tôle rải rác . Nơi đây bán toàn là hải sản được đem về từ biển cả. Nh́n cảnh vật đ́u hiu đó thật đúng với địa danh Dăy Phố Buồn Thiu!

    Chuyến viếng thăm trên căn cứ Hỏa Lực An Đô nh́n xung quanh cảnh vật thật hùng vĩ, núi đồi trùng trùng điệp điệp quanh năm sương mù phủ khắp triền núi, triền đồi, v́ vị trí căn cứ nằm trên đỉnh núi thật cao, chúng tôi được các anh quân nhân tại căn cứ hướng dẫn và giải thích những điểm đặc biệt về vị trí chiến lược nầy là nhằm bảo vệ cho các ngọn đồi chiến thuật án ngữ con đường ṃn Hồ Chí Minh giáp biên hạ Lào, các ngọn đồi chiến thuật đó đều nằm trong ṿng bảo vệ tác xạ của xạ biểu đồ Sơn Pháo.Việc di chuyển đều nhờ vào trực thăng.

    C̣n đi đường bộ rất nguy hiểm v́ đường cong của các đèo và thung lũng , các anh quân nhân trú đóng nơi đây 3 tháng mới được thay toán khác Thức ăn th́ toàn là lương khô và chúng tôi cũng được khoản đăi một bữa bằng lương khô của quân đội.

    Tôi c̣n nhớ chúng tôi đến nhằm vào mùa Hè mà cũng bị lạnh run v́ những cơn gió thốc từ bên dưới triền núi. Các anh lính ở đây đều phải mặc áo lạnh quanh năm suốt tháng.

    (Căn cứ An Đô còn có tên là T.Point do Trung Đoàn 3/Sư Đoàn1/BB Trấn đóng. Sau khi Huế mất ngày 26/3/75, căn cứ nầy vẫn còn chống cự cho đến ngày 1/4/75! Tài liệu nầy do Cánh Thép ducquany bổ túc, xin cám ơn).

    C̣n tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 10-02-2012, 05:17 AM
  2. Replies: 3
    Last Post: 15-11-2011, 11:27 PM
  3. Replies: 10
    Last Post: 27-10-2011, 08:54 AM
  4. Replies: 2
    Last Post: 23-09-2010, 06:41 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •