Results 1 to 2 of 2

Thread: Bí ẩn trận hải chiến Hoàng Sa 1974

  1. #1
    Member
    Join Date
    04-11-2010
    Posts
    543

    Bí ẩn trận hải chiến Hoàng Sa 1974


    Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh gặp lại Thiếu tá Phạm Văn Hồng – ảnh do Thiếu tá Phạm Văn Hồng cung cấp

    WESTMINSTER – Để chuẩn bị cho việc tổ chức Ngày Tưởng Niệm Hoàng Sa, Hội Hải Quân Cửu Long đă tổ chức bữa cơm thân mật với các Đoàn thể và báo giới vào trưa ngày Chủ nhật 13-12-2009 vừa qua tại Paracel Seafood Restaurant. Trong bữa cơm trưa này, được sự giới thiệu trước của Thiếu tá Hồ Đắc Huân, chúng tôi gặp Thiếu tá Phạm Văn Hồng, Sĩ Quan Lănh Thổ Pḥng 3, Quân Đoàn I, người bị Trung cộng bắt làm tù binh trong trâïn hải chiến Hoàng Sa giữa Hải quân VNCH và Hải quân Trung Cộng vào ngày 19-1-1974. Sau bữa cơm, Thiếu tá Phạm Văn Hồng đă kể cho Phóng viên Viễn Đông nghe câu chuyện của 35 năm về trước với nhiều t́nh tiết khá đặc biệt mà ông chưa hề phổ biến trên báo chí. Sau đây là câu chuyện chúng tôi ghi lại theo lời kể của ông (đă có hiệu đính từ phiên bản trước đây).

    Nhận lệnh ra Hoàng Sa với nhiệm vụ thiết lập phi trường
    Buổi sáng 15-1-1974 tôi nhận lệnh thượng cấp ra đảo Hoàng Sa để thiết lập một phi trường quân sự, lúc đó tôi là sĩ quan lănh thổ Pḥng 3 thuộc Quân Đoàn I nên việc thượng cấp giao cho là hợp lư. Chiều hôm đó thay v́ di chuyển bằng xe quân sự, th́ nhân viên Ṭa Tổng Lănh Sự Mỹ tại Đà Nẵng là ông Kosh lại lấy chiếc Falcon chở tôi cùng đi với ông qua bên Tiên Sa. Đến nơi vào khoảng 5, 6 giờ chiều, trời đă gần tối, chúng tôi lên chiếc HQ16 do Hải quân Trung tá Lê Văn Thự là Hạm trưởng; HQ16 đưa chúng tôi ra tới đảo Hoàng Sa vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau. Trời hừng sáng, tôi thức dậy và nh́n ra khơi, xa xa có mấy chiếc tàu nhỏ đang di chuyển, dần dần những chiếc tàu đó nhắm hướng HQ16 chạy tới, nó cứ chờn vờn trước mũi tàu ḿnh và nói theo ngôn ngữ lúc bấy giờ gọi là “kỳ đà cản mũi”. Hải quân Trung tá Lê Văn Thự lấy làm lạ và nói với tôi: “H́nh như nó muốn khiêu khích ḿnh”. Nó giả dạng tàu đánh cá, cho một vài tên mặc quần đùi, ở trần ra ngồi bên mạn thuyền thả câu, câu cá. Chúng tôi mặc kệ nó và ở đó vài tiếng sau th́ đổ bộ lên bờ. Ngoài tôi làm toán trưởng, c̣n có một Trung úy Liên Đoàn 8 Công Binh Kiến Tạo, một Trung úy Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu, hai Hạ sĩ quan đi theo hai Trung úy và ông Kosh, như vậy toán chúng tôi có tất cả 6 người đặt chân xuống đảo.
    Hai Trung úy lo đi thám sát địa h́nh, đo đạc để có dữ kiện thiết lập phi trường. Ở trên đảo có sẵn một toán Khí Tượng nên cần biết ǵ về thời tiết, Nhóm Khí Tượng sẵn sàng cung cấp đầy đủ. Ngoài Nhóm Khí Tượng c̣n có một đơn vị Địa Phương Quân trú đóng.
    Biển Đông dậy sóng
    Sáng ngày 18-4-1974 từ trên đảo nh́n ra biển thấy t́nh h́nh khác hẳn mấy ngày trước. Tàu của Trung Cộng nhỏ nhưng khá nhiều, c̣n bên Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa thấy có bốn chiếc HQ16, HQ4, HQ10 và HQ05. Hai chiếc HQ05 và HQ16 là Dương Vận Hạm; chiếc HQ04 là Khu Trục Hạm c̣n HQ10 là Hộ Tống Hạm. HQ04 nhỏ hơn nhưng hỏa lực mạnh hơn. Chiều ngày 18 tôi nhận được lệnh của Hải Quân Trung tá Lê Văn Thự nói sẽ cho dzu dzu (một loại xuồng cao su) đến đón chúng tôi lên HQ05. HQ05 bây giờ được gọi là Soái Hạm (tàu chỉ huy) v́ có Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc đang ở trên đó để tổng chỉ huy. Tôi lên HQ05 và chờ đến khoảng 10 giờ th́ loa phóng thanh nói: “Mời Thiếu tá Phạm Văn Hồng lên đài chỉ huy để gặp Hải đội trưởng”. Tôi lên pḥng chỉ huy, Đại tá Hà Văn Ngạc vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cái thằng Kosh này là bạn moa, nó nhát gan, nó sợ và muốn lên đảo, nó bảo ở trên tàu nguy hiểm quá, vậy toa đi với nó lên đảo trở lại”. Rồi ông ra lệnh lấy dzu dzu đưa chúng tôi vào đảo. Cặp vào đảo th́ đă khuya, anh em Địa Phương Quân họ cũng đă ngủ hết .
    Suốt một đêm vật vă với sóng gió, tôi cũng mệt nhoài nên sáng hôm sau khi nghe có tiếng heo kêu tôi mới thức dậy th́ trời đă sáng rơ. Sở dĩ có tiếng heo kêu là v́ mấy anh em Địa Phương Quân khi nhận lệnh ra giữ đảo, biết nhiệm kỳ của ḿnh sẽ ăn Tết trên đảo nên họ mang một con heo ra nuôi để Tết mổ thịt.
    Khi vừa rửa mặt xong th́ nghe mấy anh em Điạ Phương Quân nhao nhao nói: “Có lẽ không xong rồi Thiếu tá ơi!” Và tôi bắt đầu nghe tiếng súng nổ; lúc đó vào khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 19-1-1974. Tôi leo lên sân thượng của Đài Khí Tượng nh́n ra biển thấy hai chiếc tàu Trung Cộng chưa ch́m nhưng đang trong tư thế sắp ch́m và tôi nghĩ chắc chắn sẽ ch́m, c̣n bên phía Hải Quân ḿnh tôi thấy các lằn đạn của tàu Hải quân Trung cộng cũng đang ghim vào chiến hạm của ḿnh. Hai bên đang thi nhau nă đạn. Tiếng súng lớn, súng nhỏ thi nhau nổ ḍn dă. Tôi xuống pḥng truyền tin, ở đây chỉ có mỗi chiếc máy C.25 để anh em liên lạc với tàu khi lên xuống thôi. Tôi nghe âm thoại viên của Hải Quân nói: “Thiếu tá Hồng, tôi đă mất liên lạc, nhờ Thiếu tá gọi ngay về Đà Nẵng giúp, nói là tàu tôi đă bị nghiêng 30 độ, mắt thần chúng tôi đă bị hư”. Đó là tất cả những ǵ tôi nghe được qua máy truyền tin C.25. Tôi nhờ bên Đài Khí Tượng cho sử dụng máy Motorola, anh em bên Khí Tượng cho biết, họ chỉ lên máy mỗi đầu giờ, bây giờ đang là giữa giờ, lên máy không có tín hiệu nhận. Nhưng anh em bên Đài Khi tượng vẫn mở máy. May quá, có Phú Quốc lên máy. Tôi nhờ Phú Quốc gọi về Sài G̣n, yêu cầu Sài G̣n gọi ra Đà Nẵng nói Đà Nẵng “lên máy”. Nói th́ nghe ngắn gọn như vậy nhưng lúc đó mất rất nhiều thời gian, không như bây giờ có cell phone, liên lạc với nửa ṿng trái đất cũng chỉ trong tíc tắc!
    Khi tôi liên lạc được với Đà Nẵng, tôi yêu cầu Đà Nẵng gọi “Uy Dũng” là tên Tổng đài Quân Đoàn I của chúng tôi, tôi cho số máy của Trung tâm hành quân và số máy của Quân Đoàn I, yêu cầu liên lạc ngay với tôi qua tổng đài của Ban Khí Tượng ngoài đảo Hoàng Sa. Lúc đó tiếng súng giữa các chiến hạm của ta và của Trung Cộng đă tạm lắng dịu nhưng súng bắt đầu nổ trên đảo. Tôi lên Đài Khí Tượng quan sát th́ thấy các chiến hạm của ta ở ṿng ngoài, c̣n tàu Trung Cộng th́ lại ở ṿng trong, có nghĩa là chúng tôi đă bị tàu Trung Cộng bao vây. Những chiếc tàu của Trung Cộng theo anh em Hải quân ta cho biết là những chiếc Kronstad, tất cả đều quay mũi tàu của họ vào đảo, c̣n các chiến hạm của ta th́ quay mũi ra phía ngoài biển. Các chiếc Kronstad tiến sát vào bờ và đổ quân, chúng dàn hàng ngang tiến lên đảo. Lúc này trên đảo bên ta chỉ có một Trung đội Địa Phương Quân hơn 20 quân nhân, bốn năm anh em chuyên viên Khí Tượng và thêm toán chúng tôi 6 người nữa mà phải đương đầu với khoảng một tiểu đoàn Trung Cộng. Cũng cần biết thêm là theo anh em đi thám sát đo đạc để lập phi trường có cho biết, chu vi đảo chỉ chừng 1 cây số 6. Nếu thiết lập phi trường th́ chỉ có thể làm phi đạo dài 500 thước, ngang 300 thước mà thôi, và phi đạo như thế chỉ sử dụng cho các loại phi cơ 123 Caribou chứ loại C.130 không thể hạ cánh được. Cho nên với chu vi gần 2 cây số mà chỉ có khoảng 20 người, làm sao kiểm soát hết được, trong khi đó sở trường của Trung Cộng luôn luôn là “lấy thịt đè người”. Với quân số ít oi và vũ khí cũng không có ǵ mạnh mẽ lắm, mỗi người chỉ có vài gắp đạn nên bắn mấy lần là hết đạn. Tuy nhiên anh em vẫn chiến đấu với biển người Trung Cộng.
    Mưu mô của Trung Cộng
    Để nắm vững t́nh h́nh trên đảo về quân số cũng như cách bố pḥng của ta, vào khoảng đầu tháng 10 năm 1973, thời điểm tháng 10 thường hay có mưa băo xảy ra ở vùng biển Đà Nẵng, nên Trung cộng cho một chiếc tàu giả dạng tàu đánh cá vào đảo xin tránh băo. Việt Nam Cộng Ḥa ḿnh vốn có tính nhân đạo và thật thà, thấy họ xin núp băo th́ đồng ư ngay, lại c̣n tiếp tế cho họ nước uống nữa, chúng làm bộ thân thiện với ta, tặng cho anh em quân nhân những bộ bài có h́nh khỏa thân, và rủ lính của ta chơi tṛ “trốn t́m”, mục đích là ḍ xem ḿnh có hầm hố ǵ không, nhưng các anh em Điạ Phương Quân của ta đâu có ngờ, đó là mưu mô “thám sát” của lính Tàu. V́ thế khi chúng tấn công lên đảo, chúng đă nắm rơ quân số của ta có bao nhiêu người, vũ khí ra sao, có hầm hố chiến đấu hay không, c̣n ta, ta không biết ǵ về địch. Lực lượng hai bên quá chênh lệch như thế nên chúng ta bị thất bại là lẽ đương nhiên.
    Tin vào lời hứa, t́m cách ẩn trốn và bị bắt
    Khi tôi liên lạc bằng máy Motorola của Đài Khí Tượng trên đảo về Đà Nẵng, tôi được bên Hải Quân cho biết, Thiếu tá Hồng cứ yên trí, sẽ có máy bay ra yểm trợ. V́ tin lời hứa đó, tôi nghĩ trong ḷng rằng không bao giờ tôi đầu hàng, giả sử nếu cùng lắm bên Không quân ta phải thả bom trên đầu, tôi cũng chịu v́ đó là chuyện b́nh thường của quân đội; v́ tôi và anh em trên đảo sẽ được cứu nên tôi t́m cách ẩn trốn vào một bụi cây rậm rạp trên đảo, do đó khi chúng đă bắt hết các anh em, chúng kiểm soát danh sách và biết rằng c̣n thiếu một viên Thiếu tá là tôi, cả một Tiểu đoàn lính Trung Cộng dàn hàng ngang lùng sục làm sao mà tôi thoát được, và tôi bị chúng bắt sống lúc xế trưa.

    Cuộc đời tù binh
    Sau khi Trung Cộng bắt được tôi, chúng không đánh đập nhưng có dọa nạt và áp đảo tinh thần. Khoảng 2, 3 giờ chiều chúng cho chúng tôi ăn cơm, ăn với thịt heo của anh em Địa Phương Quân nuôi, như tôi đă tŕnh bày ở phần trước, nói là thịt heo nhưng thật sự chỉ có mỡ thôi, c̣n nạc bọn lính Trung Cộng ăn hết rồi. Ăn xong nó nhốt chúng tôi trong căn nhà có lẽ trước đây dùng chứa phân chim hay làm cái ǵ đó tôi không biết rơ. Đến khuya chúng nó bắt tất cả anh em ra xếp một hàng dọc ngoài sân. Tôi nghĩ trong đầu chắc chúng đem đi xử bắn. Một vài anh em trong bọn tôi có vẻ lo lắng, thấy thế tôi mới trấn an: “Các anh cứ b́nh tĩnh, dù chúng ta có chết cũng chết cho tổ quốc, đừng sợ, cứ b́nh tĩnh và giữ khí phách của một người lính VNCH”. Nhưng cuối cùng chúng không bắn ai hết!
    Di chuyển qua Trung Quốc
    Gần rạng sáng chúng cho chúng tôi lên tàu, tôi nghe ngoài biển có nhiều tiếng lào xào, nh́n ra th́ thấy nhiều chiếc dzu dzu đang chèo vô bờ. Nó chuyển chúng tôi cứ 4, 5 người xuống một xuồng cao su (dzu dzu) và đưa ra tàu Kronstad. Nhóm sĩ quan nó đưa riêng lên một tàu, mấy chục anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ lên các tàu khác và tàu bắt đầu di chuyển. Khoảng trưa hôm sau, tức là trưa 20-1-1974, chúng tôi tới đảo Hải Nam. Nó cho tôi lên bờ trước, sau đó mới đưa các anh em c̣n lại lên, rồi nó đưa đám sĩ quan vào pḥng ăn riêng gồm tôi và 1 Trung úy Hải Quân, 1 sĩ quan Địa Phương Quân, 2 sĩ quan Công Binh và anh Kosh, cả thảy là 6 người. Sau khi ăn cơm xong, chúng đưa chúng tôi ra phi trường để bay về Quảng Châu. Khi lên máy bay chúng đưa tên Kosh lên ngồi trên cabin, c̣n anh em chúng tôi ngồi ở khoang dưới. Đến Quảng Châu trời đă tối. Riêng nhóm Hạ sĩ quan, binh sĩ và nhân viên đài Khí tượng chúng nhập chung thành một toán cho xuống tàu lớn chở về sông Châu Giang cũng thuộc thành phố Quảng Châu.
    Hôm sau tất cả đám tù binh gồm 49 người, tính luôn cả anh Kosh người Mỹ; trong đó có 23 chiến sĩ Địa Phương Quân, 6 người toán chúng tôi, 5 nhân viên Khí tượng và 14 quân nhân Hải quân, có thêm một sĩ quan nữa là HQ. Trung úy Nguyễn Văn Dũng.
    Tôi bị gọi lên lấy khẩu cung nhiều lần, chúng cố t́nh khai thác tôi về tổ chức quân đội VNCH, nhưng tôi viện lư do “bí mật quân sự”, pḥng nào biết pḥng đó, tôi chỉ nói một cách tổng quát và cứ lập đi lập lại rằng, bên quân đội chúng tôi bảo mật rất kỹ, tôi chỉ biết danh số có những pḥng ǵ, c̣n mỗi pḥng có những ai, làm việc ǵ, điều đó tôi không biết. Tôi thấy nó chú tâm vào anh Hải quân Trung úy nhiều hơn tôi, có lẽ muốn điều tra, khai thác kỹ về Hải quân của ta để dự pḥng những trận hải chiến sau này có thể xảy ra.
    Sau khi bị giam một tuần lễ, chúng lựa ra mỗi toán một người để thả. Người đầu tiên là anh Kosh, chúng cho biết anh này bị một bệnh mà họ gọi nguyên văn là “măn tính kinh niên” nên cho về sớm, bên Khí Tượng thả một người, bên Địa Phương Quân thả một người, bên Hải quân thả một anh bị thương nhẹ.
    Vai tṛ của ông Kosh trong âm mưu của Mỹ
    Lần xuống đảo trước, tôi và anh Kosh này ngồi bên nhau, anh ta kể, anh là Trung úy Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh, anh làm cho Ṭa Tổng Lănh Sự Mỹ. Lần này anh đi với tôi trong vai tṛ giám định để xem thực hiện phi trường tốn phí ra sao và đề nghị Ṭa Tổng Sự chi trả.
    Trên nguyên tắc th́ như vậy, nhưng thực tế đây chỉ là phi trường ảo mà thôi, không có thật, anh ta đi với chúng tôi trong một sứ mạng đặc biệt đă được Hoa Kỳ và Trung cộng bí mật dàn dựng từ trước. Sứ mạng đó là dùng chúng tôi làm con cờ thí, làm vật tế thần cho Trung cộng có cớ xâm lăng Hoàng Sa. Đây là điều bí mật từ trước tới nay chưa có báo chí nào loan tải. Chúng ta hăy xem thái độ và cách hành xử của anh Kosh này cũng như sự đối xử của nhà cầm quyền Trung cộng th́ sẽ rơ.
    Trên giấy tờ, anh này đi công tác với chúng tôi chỉ có vài ngày, nhưng khi anh mở cái sắc của anh ra, trong đó có đến hai cây thuốc lá. Nếu tính thời gian công tác, anh hút nhiều lắm cũng chỉ 5, 6 gói thuốc, vậy anh mang tới 20 gói thuốc để làm ǵ? Ngoài thuốc lá, trong sắc tay của anh có đầy đủ dụng cụ mưu sinh thoát hiểm như lưỡi câu, thuốc chống cá mập. Sau khi bị bắt, trong buổi chiều ngồi cạnh tôi trên đảo, anh mở một hộp cá ra ăn, anh mời tôi một lát cá. Tôi để ư thấy hộp cá nhỏ và mỏng hơn hộp cá ṃi Sumaco của Marốc, anh đưa cho tôi một lát mỏng như miếng khô mực đă bị ép rất sát, anh nói với tôi: “Anh ăn đi, no đấy!” Tôi nghĩ anh chàng này đùa dai, miếng cá mỏng dính và nhỏ xíu thế này làm sao no. Vậy mà khi ăn xong, tuy không no thiệt nhưng mà ngang dạ liền. Tiếp theo là sự kiện anh đang ở trên HQ16 lại đ̣i lên bờ và bảo ở dưới tàu nguy hiểm quá, mà lúc đó trận hải chiến chưa xảy ra. Phải chăng anh đă biết trước sẽ có hải chiến và ở trên tàu khi đánh nhau th́ nguy hiểm thật, nên lên đảo để quân Trung Cộng làm bộ bắt cho chắc ăn hơn, và chúng ta thấy, người đầu tiên Trung Cộng thả là anh chàng Kosh này. Nói đến đây, tôi cũng xin mở dấu ngoặc là bây giờ biết anh chàng này đóng vai tṛ ǵ trong kế hoạch của Mỹ, nhưng tôi cũng phải cám ơn anh ta, nếu anh không đ̣i xuống đảo, th́ tôi ở trên chiến hạm HQ16 cũng không c̣n sống trên cơi đời để thuật lại chuyện bí mật này, v́ khi ở trên tàu, tôi cứ thích đứng ở trên cái pháo tháp, mà khi hải chiến xảy ra, pháo tháp của HQ16 đă bị trúng đạn Trung Cộng.
    Sự đổi chác giữa Mỹ và Trung Cộng
    Khoảng 10 giờ sáng, sau khi chúng tôi bị đưa vào trại giam có tên là “Trại Thu Dung Tù Binh” thuộc Huyện Hoàng Hóa, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông th́ có một toán cán bộ Trung Cộng đến. Đám này nói tiếng Việt rất rành và hầu hết đều nói giọng Bắc, dấu hỏi, dấu ngă phân minh, chính xác. Một tên trưởng toán nói với chúng tôi: “Hiện bây giờ Tiến sĩ Kissinger của Mỹ đang ngồi ở Bắc Kinh, chiều hôm nay mọi người sẽ biết tin này, chúng tôi sẽ mang đến đây một chiếc radio mở cho các anh nghe”.

    Buổi chiều họ mang radio đến và mở cho chúng tôi nghe, đồng thời mở luôn cả đài phát thanh Úc Đại Lợi cho nghe luôn. Trong bản tin của đài phát thanh Trung Cộng có loan thế này: “Trong cuộc chiến đấu, chí nguyện quân Trung Quốc đă bắt được một đám tù binh miền Nam Việt Nam, trong đó có tên Thiếu tá Phạm Văn Hồng”. Hồi đó nếu ai có theo dơi tin tức trên các đài phát thanh cũng đă nghe thấy như vậy. Điều đó cho thấy rơ ràng có âm mưu dàn xếp giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Mỹ muốn dùng Hoàng Sa của VNCH làm món quà để b́nh thường hóa quan hệ với Trung Cộng. Muốn trao Hoàng Sa cho Trung Cộng, chính quyền Hoa Kỳ thời bấy giờ phải tạo ra một cuộc chiến, để Trung Cộng có cớ xâm chiếm Hoàng Sa, và VNCH chúng ta tuy mắc bẫy, nhưng chúng ta đă cho Hoa Kỳ, Trung Cộng và cả thế giới thấy tinh thần yêu nước của chúng ta như thế nào. Hải quân chúng ta dám đương đầu chống Hải quân xâm lược hùng mạnh hơn ḿnh gấp bội. Chúng ta đă anh dũng và hy sinh nhiều sĩ quan, binh sĩ Hải quân cũng như thiệt hại một số chiến hạm, nhưng chúng ta cũng đă đánh ch́m một số tàu Trung Cộng tương đương và chắc chắn nhiều tên gọi là chí nguyện quân của chúng đă bị tử thương.
    Thêm bằng chứng về âm mưu giữa Mỹ và Trung Cộng trao đổi Hoàng Sa
    Trước khi kể cho anh nghe chuyện trao trả tù binh, tôi cần nói thêm chuyện này: Sau khi về đến Việt Nam, tôi gặp Trung tá Lâm (khóa 10 Vơ Bị Đàlạt), Trung tá Lâm nói với tôi: “Không quân của ḿnh đă chuẩn bị sẵn sàng từ phi trường Biên Ḥa bay ra Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa oanh kích, và các phi công cũng chấp nhận sẽ chơi theo kiểu Nhật, khi phi cơ bay ra Hoàng Sa th́ đủ nhiên liệu nhưng lúc về th́ không, do đó các anh phi công sẽ bỏ phi cơ và nhảy dù xuống biển, tàu của Hải quân ta ứng trực sẵn sàng để tiếp cứu. Mọi việc đă chuẩn bị đâu vào đấy, nhưng phút chót lệnh này bị hủy bỏ!”
    Thêm nữa, có Đại tá Lê Khắc Lư (ông này đang ở Nam California), lúc đó Đại tá Lê Khắc Lư là Tham Mưu Trưởng tiền phương Quân Đoàn I, Trung tướng Lâm Quang Thi là Tư Lệnh tiền phương, Trung tướng Ngô Quang Trưởng là Tư Lệnh Quân Đoàn I ở Đà Nẵng; các vị này gọi tôi ra thuyết tŕnh hai lần, buổi sáng cho các cơ quan hành chánh Thừa Thiên – Huế, buổi chiều cho các quân nhân đồn trú nghe về trân chiến Hoàng Sa tại Phú Văn Lâu.
    Sau buổi thuyết tŕnh, Đại tá Lê Khắc Lư vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cố vấn mới nói chuyện với moa, moa bảo nó: ‘Tôi không hiểu tại sao Trung Cộng nó lại đánh chiếm Hoàng Sa?’ Cố vấn Mỹ đă ‘hố’ khi trả lời tôi: ‘Trung cộng lấy Hoàng Sa, anh ngạc nhiên lắm à?’, moa mới nói trớ đi: ‘Không, ư tôi nói là tại sao nó lại chiếm vào lúc này?’” Rồi Đại tá Lư nói tiếp: “Toa thấy không, tụi nó có kế hoạch cả rồi, nó đă sắp xếp hết rồi!”
    Thời đó Ngoại Trưởng Henry Kissinger chuyên môn đi đêm, và Tổng Thống Mỹ Richard Nixon muốn bắt tay với Trung Cộng th́ phải có một cái ǵ đó. Tôi nghĩ món quà chính người Mỹ muốn tặng Trung Cộng là Hoàng Sa của ta, bởi Trung Cộng muốn làm chủ Biển Đông mà Mỹ giao Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ đâu có mất ǵ, chỉ tội nghiệp cho đất nước Việt Nam chúng ta là thân phận một nước nhược tiểu!
    Cách đối xử của Trung Cộng với tù binh
    Phải công bằng mà nói, viết lịch sử th́ phải viết trung thực, không nên viết theo kiểu tuyên truyền, cho nên tôi nói rất thật là Trung Cộng hơn hẳn Việt Cộng trong cung cách đối xử với tù binh. Họ cho chúng tôi ăn uống theo quy chế tù binh chiến tranh đă được quốc tế qui định, như tôi mang cấp bậc Thiếu tá th́ để tôi ở một pḥng riêng, bốn Trung úy th́ cứ hai ông một pḥng, như vậy chúng tôi có ba pḥng ở liền nhau, c̣n ông Kosh người Mỹ một pḥng riêng. Mỗi ngày họ đem đồ ăn lên tận pḥng cho chúng tôi, c̣n anh em Hạ sĩ quan và binh sĩ th́ ăn ở nhà ăn tập thể của quân đội Trung Cộng. Sau thời gian 2, 3 tuần phải học tập mỗi ngày vào buổi tối để nghe cán bộ Trung Cộng tuyên truyền thế này thế nọ. Tuần lễ thứ tư họ dẫn chúng tôi đi thăm vài nơi (mấy anh chàng Trung Cộng nói tiếng Bắc, bảo là dẫn chúng tôi đi tham quan). Đầu tiên thăm một Bệnh viện rồi thăm mấy hợp tác xă. Tôi để ư, hầu như tất cả các nơi gọi là Trụ Sở Hợp Tác Xă đều là những ngôi chùa xưa kia, bởi v́ kiểu dáng là chùa, chữ đắp trên tường tuy bị đục bỏ hết nhưng vẫn c̣n dấu tích rơ ràng, điều đó cho thấy tín ngưỡng đă bị đè bẹp tại nước Cộng Sản đông dân nhất thế giới này!
    Sau khi thăm các hợp tác xă, họ dẫn đi thăm nhà máy cơ khí. Tại đây họ giới thiệu là nơi đúc các khẩu Thượng liên và súng AK, sau đó lại dẫn đi xem nhà máy làm xe đạp, gọi là xe đạp Hồng Kỳ th́ phải, rồi thăm một vài cư xá của công nhân. Tôi có hỏi một công nhân, lương hàng tháng được bao nhiêu, th́ người công nhân nói được trên 100 Nhân dân tệ, trong lúc đó chiếc xe đạp Hồng Kỳ trị giá 130 Nhân dân tệ, cho ta thấy mức sống của một công nhân trong chế độ Cộng Sản Trung Quốc như thế nào.
    Trao trả tù binh
    Tôi c̣n nhớ hôm đó là thứ Bảy, có lẽ ngày 16, 17 tháng 2 năm 1974, sau khi cho chúng tôi ăn uống xong, họ tập trung lại và tuyên bố sẽ trả chúng tôi về Việt Nam. Họ phát cho mỗi người một bộ quần áo màu xanh và cái mũ mà anh em chúng tôi gọi đùa là cái bánh tiêu. Một tên cán bộ hỏi tôi muốn về miền nào, Bắc hay Nam Việt Nam. Tôi trả lời: “Chúng tôi là người Việt Nam, Bắc hay Nam đều là tổ quốc tôi, nhưng hiện tại hai miền có hai thể chế khác nhau, tôi không chấp nhận chế độ của miền Bắc, tôi yêu cầu trả chúng tôi về miền Nam”.
    Họ đưa chúng tôi từ huyện Hoàng Hóa về thành phố Quảng Châu, đường dài hơn 40 cây số, rồi lại từ Quảng Châu đưa ra Tô Giới tức là Thẩm Quyến để trao trả chúng tôi tại Hồng Kông.

    Ngay khi chúng tôi bước qua lằn ranh từ Thẩm Quyến sang Hồng Kông, người đầu tiên chúng tôi gặp là ông Tổng Lănh Sự VNCH tại Hồng Kông. Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi và cho người mang đến cho tất cả anh em chúng tôi mỗi người một bộ quần áo dân sự mới toanh. Khi lên xe buưt ra phi trường Khải Đức, chúng tôi vứt bỏ lại trên xe bộ quần áo xanh do Trung Cộng cấp phát và thay đồ dân sự.
    Ra đến phi trường, chúng tôi hết sức xúc động thấy Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh Phó Hải Quân và một sĩ quan cao cấp bên Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (tôi không nhớ tên) đến đón. Vị này mang cho chúng tôi quân phục đầy đủ, ai binh chủng ǵ th́ mặc quân phục binh chủng đó, ông c̣n mang cho tôi cặp lon Thiếu tá nữa. Chúng tôi lại thay đồ dân sự và mặc quân phục về nước. Chính phủ VNCH thuê nguyên một chuyến Boeing 727 của Hàng Không Việt Nam qua Hồng Kông đón chúng tôi trở về sau một tháng bị Trung Cộng bắt làm tù binh.
    Về đến phi trường Tân Sơn Nhất, ngoài thân nhân, chúng tôi c̣n được đại diện các cơ quan chính phủ và quân đội đón tiếp, choàng ṿng hoa và đưa về trại an dưỡng Lê Văn Duyệt để nghỉ ngơi. Câu chuyện bí ẩn trận Hoàng Sa và cuộc đời tù binh của tôi kết thúc.

    Trước khi chia tay với Thiếu tá Phạm Văn Hồng, chúng tôi xin phỏng vấn ông thêm mấy câu.
    Viễn Đông: Sau khi miền Nam rơi vào tay Việt Cộng, lúc đó Thiếu tá đang ở đâu?
    Th/t. Phạm Văn Hồng: Tôi phục vụ tại Đà Nẵng, và Đà Nẵng bị bỏ ngỏ ngày 29-3-1975, ngày 5-4-1975, tôi bị bắt ngay đưa vào trại tù gọi là cải tạo.
    Viễn Đông: Thiếu tá bị giam giữ đến ngày nào th́ được thả về?
    Th/t. Phạm Văn Hồng: Việt Cộng thả tôi vào tháng 2 năm 1982.
    Viễn Đông: Trong thời gian bị tù, cán bộ Việt Cộng có tra vấn ǵ về vụ Hoàng Sa cũng như thời gian Thiếu tá bị bắt làm tù binh ở Trung Cộng?
    Th/t. Phạm Văn Hồng: Không những bọn cán bộ mà ngay cả rất nhiều anh em cùng cảnh ngộ như tôi đều hỏi vụ này, đến nỗi tên tôi được anh em gọi là “Hồng Hoàng Sa”. Một hôm trong buổi gọi là “tọa đàm” anh em có nêu vấn đề Hoàng Sa ra hỏi tên cán bộ cao cấp từ Trung Ương đến chủ tọa; tên này ấp úng và sau một phút suy nghĩ hắn nói: “Chuyện Hoàng Sa, Đảng và nhà nước ta đă có hướng giải quyết cụ thể và đă giải thích trên báo Quân Đội Nhân Dân số… ngày…” rồi y chuyển qua đề tài khác ngay.
    Viễn Đông: Khi được về với gia đ́nh, Thiếu tá làm ǵ, ở đâu cho đến khi sang định cư tại Hoa Kỳ?
    Th/t. Phạm Văn Hồng: Khi ra khỏi tù, tôi không về tŕnh diện, tôi trốn lên Sài G̣n và t́m cách vượt biên. Tôi vượt biên tổng cộng 25 lần không thoát, ba lần bị bắt vào tù tiếp. Sau đó tôi trốn sang Campuchia, ghi tên giả làm Việt kiều yêu nước, mục đích để tránh theo dơi. Khi bộ đội Việt Cộng rút về nước năm 1990, tôi xin được giấy Chứng nhận là Việt Kiều yêu nước do ṭa Đại sứ Việt Cộng ở Campuchia cấp, thế là tôi về nước an toàn và cho tạm trú tại Sài G̣n. Tôi lén gửi hồ sơ sang Bangkok, Thái Lan. Đến khi có lệnh nộp hồ sơ đi Mỹ theo diện HO, tôi được xếp vào danh sách HO 39 nhưng khi họ đối chiếu với hồ sơ tôi nộp lén ở Bangkok, thấy khớp nhau nên họ đôn lên HO 29 và gia đ́nh tôi qua Mỹ vào năm 1995.
    Viễn Đông: Qua sự kiện Hoàng Sa, Thiếu tá muốn nói thêm điều ǵ c̣n trăn trở chưa nói ra được?
    Th/t. Phạm Văn Hồng: Chuyện dĩ văng đă đi vào lịch sử, nhiều người đă kể lại trận chiến Hoàng Sa với đầy đủ chi tiết, và chúng ta sẽ c̣n nghe nhiều lần khác nữa, vẫn không thừa, v́ đó là những điều chúng ta cần nói để vinh danh các chiến sĩ Quân Lực VNCH, đặc biệt binh chủng Hải Quân, để các thế hệ con em chúng ta biết về cha ông của chúng đă không hổ thẹn với tiền nhân, với Quang Trung – Nguyễn Huệ… Tôi không thuộc binh chủng Địa Phương Quân nhưng có một điều tôi mong ước, đó là khi vinh danh các anh hùng ǵn giữ bờ cơi tổ quốc, chúng ta đừng quên các chiến sĩ Địa Phương Quân cũng như các anh em chuyên viên Khí Tượng, họ đă đóng góp phần ḿnh vào việc ǵn giữ một phần hải đảo thiêng liêng của tổ quốc, họ đáng được tổ quốc ghi công bên cạnh tất cả các chiến sĩ Quân Lực VNCH đă vị quốc vong thân.

    Nguồn Viễn Đông


    Tất cả nhóm tù binh do Trung Cộng trao trả, đă về tâp trung tại trại dưỡng quân Lê Văn Duyệt, Sài G̣n – ảnh do Thiếu tá Phạm Văn Hồng cung cấp

  2. #2
    Member Dr_Tran's Avatar
    Join Date
    23-03-2011
    Location
    Northeast US
    Posts
    8,654

    Mỹ coi VNCH như thằng lùn làm xiếc.

    Lần kia TS Nguyễn Tiến Hưng kể cho 1 nhân viên CIA nghe 1 câu chuyện vui TT Thiệu kể cho ông ta.

    Chưa kể xong, nhân viên CIA không cười, mà c̣n nói tiếp lời TS Hưng cho xong câu chuyện.

    TS Hưng ngạc nhiên, hỏi bộ CIA nghe lén Dinh Độc lập hả?

    Người nhân viên kia không trả lời thẳng, mà nói: "We KNOW, we KNOW EVERTTHING".

    Ba tôi mỗi lần gặp TT Thiệu, là ông kêu lại sát bên, vặn nhạc thật lớn, và chỉ nói th́ thầm, chen vô tiếng Việt, Anh, Pháp đủ thứ. Mỹ dùng kỹ thuật cực cao theo dơi, nghe lén. Phản gián VNCH không đủ tŕnh độ t́m ra, hóa giải.

    ---------

    Mỹ coi VNCH như thằng lùn làm xiếc.


    VNCH đứng lên, ngồi xuống, đi ngủ, làm t́nh, v.v... Mỹ kiểm soát hết.

    Tôi không nói ra thôi, nhưng biết, Mỹ ĐĂ check lư lịch, credits, v.v... của NS Trúc Hồ trước khi mời vào WH. Và check nhiều việc RẤT riêng tư, kể cả sở thích, ăn ǵ, uống ǵ, có vợ bé hay không, có nhân t́nh không, từng có bao nhiêu bạn gái, v.v...

    Mỹ rất ngạo mạn, họ KHÔNG bao giờ coi ai là đồng minh cả, kể cả Anh, Pháp, chứ đừng nói đời nào tới phiên VNCH.

    Ngày nào họ coi VN là ĐỐI TÁC là may, khỏi bị coi là thằng khờ, khùng, là may cho VN.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 12-07-2011, 10:37 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 08-07-2011, 07:09 AM
  3. TQ cô đơn, VN đơn cử trận Hoàng Sa 1974
    By nguoibatcao in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 27-06-2011, 09:40 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 11-02-2011, 06:38 PM
  5. Replies: 5
    Last Post: 05-01-2011, 03:33 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •