Page 5 of 14 FirstFirst 123456789 ... LastLast
Results 41 to 50 of 139

Thread: Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

  1. #41
    Member boban's Avatar
    Join Date
    09-03-2011
    Posts
    99

    Tại sao ?

    [QUOTE=alamit;141029][B]

    Tại sao trước 1975 trong chế độ VNCH ở miền Nam có nhiều người " ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cọng Sản ", trong khi chế độ Cọng Sản ở miền Bắc hầu như không thấy một ai ăn cơm Cọng Sản thờ " ma " Quốc Gia , mà chỉ nghe " sinh bắc tử nam " ? . Hoặc là phe Cọng Sản cai trị , kiểm soát và tổ chức quần chúng hay hơn phe Quốc Gia để đạt mục đích cuối cùng , hay là phe Cọng Sản đă có chính nghĩa ?

  2. #42
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    "Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản" chỉ xảy ra ở miền Nam có nhiều lư do:
    1/. Nhờ đất đai ph́ nhiêu, dân lại làm chủ mảnh đất của họ, canh tác trồng trọt sanh ra của cải, dân t́nh dư ăn dư mặc, tánh khí hào phóng dể dải. Cho nên
    2/. Tánh bản thiện, thương người, ḷng nhân ái với đồng bào đồng loại. Thêm vào đó
    3/. Chánh quyền nhân bản, tha thứ, cầu hiền. Tuy Chính quyền không giàu mạnh lắm nhưng không có "Độc tài Đảng Trị, Công an Trấn áp, Hộ khẩu, Sổ gạo, Sổ lương thực thực phẩm, và nhất là không kỳ thị "Lư lịch 3 đời" nặng nề như CS.

    Chỉ tiếc ḷng nhân ái bị thua thiệt bởi kẻ mưu mô lường gạt CS Việt nam.

    Ngoài Bắc khó mà làm được "Ăn cơm CS thờ ma Quốc gia" ai cũng biết: "Độc tài Dân Đói Dân Ngu Đảng Trị, Công an kiểm soát"....

  3. #43
    lulu
    Khách

    Muốn biết tại sao tự ḿnh t́m hiểu.

    [QUOTE=boban;141244]
    Quote Originally Posted by alamit View Post
    [B]

    Tại sao trước 1975 trong chế độ VNCH ở miền Nam có nhiều người " ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cọng Sản ", trong khi chế độ Cọng Sản ở miền Bắc hầu như không thấy một ai ăn cơm Cọng Sản thờ " ma " Quốc Gia , mà chỉ nghe " sinh bắc tử nam " ? . Hoặc là phe Cọng Sản cai trị , kiểm soát và tổ chức quần chúng hay hơn phe Quốc Gia để đạt mục đích cuối cùng , hay là phe Cọng Sản đă có chính nghĩa ?
    Cách t́m ra sự that:
    1. Phải đọc từ đầu đến cuối, từ lúc thực dân Pháp xâm lược VN, hệ luỵ kéo theo: tay sai thực dân...
    2. Khởi điểm CS vào VN.
    Đọc liên tục đến ngày 30 tháng tư.
    Phải đọc nhiều nguồn, nhiều phía: CS, VNCH, dân thường, Tây, Mỹ..
    Tại sao?. V́ có thiểu số đặc quyền đặc lợi che giấu sự thật, vu khống ,bôi nhọ, cắt phần nguyên nhân.
    Tôi không tiện nói ra đây là bác hiểu rồi.

  4. #44
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
    Đại tá Phạm Ngọc Thảo
    Liệt Sĩ T́nh Báo Phạm Ngọc Thảo



    Nguyễn Văn Vĩnh









    Gần 60 năm đă trôi qua, tôi c̣n lưu lại được kỷ vật, nhất là những bức ảnh thời đang học ở trường Vơ bị Trần Quốc Tuấn, khóa 1, nhiều anh em chụp chung ở thị xă Sơn Tây. 6 anh đă hy sinh trên khắp chiến trường một cách anh dũng. Điều đặc biệt là Phạm Ngọc Thảo, một thanh niên trí thức, kỹ sư, vào làng Tây, công giáo 3 đời, yêu nước rất nồng nàn. Anh làm Trưởng pḥng quân báo Nam Bộ, rồi Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 307, đơn vị có bài ca vang dội núi sông thời chống Pháp.



    Đại tá Phạm Ngọc Thảo-sinh năm 1922 tại Sài G̣n, nguyên quán tỉnh Bến Tre. Ông là con thứ tám trong một gia đ́nh địa chủ lớn có quốc tịch Pháp, tên Pháp của ông Là Albert Phạm Ngọc Thuận, sau này lấy tên Việt mới gọi là Phạm Ngọc Thảo. V́ con thứ tám nên trong gia đ́nh mọi người thường gọi ông là Chín Thảo.



    Lúc nhỏ ông theo học tại một trường tư nổi tiếng ở Sài G̣n, trường trung học công giáo Taberd. Hết cấp tú tài, ông học ngành công chính. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông làm giao liên rồi trở thành cán bộ chỉ huy quân sự cấp trung đoàn. Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của ta. Cũng trong những năm ở chiến khu này, ông lập gia đ́nh với bà Phạm Thị Nhiệm, là em ruột giáo sư Phạm Thiều, nguyên Đại sứ nước ta tại Tiệp Khắc (c&#361....



    Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, ông ở lại miền Nam làm nghề dạy học tại một số trường tư thục Sài G̣n. V́ không chịu kư tên vào giấy “hồi chánh” nên ông đă bị mật vụ Pháp (do Mai Hữu Xuân cầm đầu) vây bắt mấy lần, nhưng ông đều trốn thoát. Cuối cùng ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng đất này thuộc địa phận của giám mục Ngô Đ́nh Thục, giám mục lại rất tin và khâm phục ông nên đă giới thiệu với anh em Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu. Được bảo đảm về chính trị, ông đă cùng vợ con trở lại Sài G̣n sinh sống. Đầu năm 1956, ông làm việc tại Ngân hàng quốc gia Sài G̣n. Sau đó được Ngô Đ́nh Diệm đưa sang ngạch quân sự với cấp bậc đại úy đồng hóa trong quân đội Sài G̣n. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ tỉnh đoàn trưởng tỉnh đoàn bảo an Vĩnh Long, rồi chỉ huy trưởng bảo an tỉnh B́nh Dương. Sau khi tu nghiệp ở các lớp chỉ huy, tham mưu quân sự trong và ngoài nước (M&#7929..., ông được thăng cấp thiếu tá và về làm việc tại Phủ tổng thống, bên cạnh Ngô Đ́nh Nhu. Ông rất được Ngô Đ́nh Diệm tin dùng trong lĩnh vực chính trị, t́nh báo và an ninh nội bộ. Đầu những năm 60, trước cao trào đồng khởi ở Bến Tre, Diệm đă cử ông giữ chức tỉnh trưởng tỉnh này (khi ấy là tỉnh Kiến Ḥa) với cấp bậc trung tá.



    Sau đảo chính lật đổ họ Ngô (11-1963), ông được thăng đại tá, làm tuỳ viên báo chí trong “Hội đồng quân nhân cách mạng”. Các giấy tờ do ông kư đều với tư cách đại tá đặc trách báo chí Phủ thủ tướng. Sài G̣n lúc này thật lộn xộn, có tới 30 đảng phái chính trị đang hoạt động hoặc đang chờ xét hồ sơ. Báo chí mọc lên như nấm sau mưa, riêng nhật báo đă có tới 44 tờ. Sự “gây nhiễu” của báo chí Sài G̣n rất có lợi cho ta lúc này. Phải chăng kế hoạch này đă nằm trong tính toán và tính khả thi của “Ngài đại tá đặc trách báo chí Phủ thủ tướng Phạm Ngọc Thảo?”.



    Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Ṭa đại sứ Việt Nam (Sài G̣n) tại Mỹ. Vợ con ông đều sống và thường trú tại Hoa Kỳ. Đầu năm 1965, ông bị gọi về nước v́ chính quyền Sài G̣n đă nghi ngờ, muốn bắt ông. Biết vậy, ông trốn luôn và bí mật liên lạc với cơ quan t́nh báo cùng các lực lượng đối lập khác để tổ chức đảo chính ở Sài G̣n. Cuộc đảo chính 19-2-1965 nổ ra không thành, ông phải tiếp tục trốn tránh và cuối cùng trú tại một tu viện công giáo ở Thủ Đức. Ngày 16-7-1965, ông bị một toán mật vụ bắt, chúng giải ông đến một b́a rừng gần Hố Nai (Biên Ḥa) để ám sát. Chúng bắn ông vào mặt, ông không chết mà chỉ bị ngất. Một linh mục đưa ông về Biên Ḥa cứu chữa, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội ngụy bắt về Sài G̣n. Tại đây ông bị sát hại lúc 1 giờ 30 phút ngày 17-7-1965. Năm đó ông 43 tuổi.



    Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một t́nh báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị và ngoại giao. Sau ngày thống nhất đất nước, ông được Nhà nước ta truy phong liệt sĩ, với quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.



    Có những con người mà hoạt động của họ như một huyền thoại. Đại tá t́nh báo liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo là một con người như vậy. Với các nhà t́nh báo Việt Nam th́ có thêm một sự bất ngờ: hóa ra đă có một thời ông là “đồng nghiệp”, hơn thế nữa, c̣n là một vị đại tá đặc trách báo chí trong chính quyền Sài G̣n!



    Phạm Ngọc Thảo, học viên khóa I Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn được chính đồng đội cùng khóa viết về ông, suy nghĩ về ông thật chân thực và cảm động xiết bao.





    * (Theo hồi kư của đồng chí Trần Ḥa B́nh và đồng chí Hồ Kỳ Lượm-học viên khóa I, Trường Vơ bị Trần Quốc Tuấn).



    Trích QĐND (Số 4: ĐỈNH CAO CHIẾN THẮNG HUY HOÀNG)

    ĐDTB, ngày 28/12/04 (91) (40)
    Last edited by alamit; 07-05-2012 at 09:32 AM.

  5. #45
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    : Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
    Phạm Ngọc Thảo, Ông là ai ?

    Posted by admin on February 9, 2011



    Tôi quen Phạm Ngọc Thảo từ năm 1939. Lúc ấy tôi mới nhập học Quốc Học Khải Định sau khi đậu bằng Thành Chung ở Thanh Hóa. Lớp có cả thẩy 40 học sinh, 33 Nam và 7 nữ gồm đủ thành phần đến từ nhiều nơi nhưng đều là người Trung chỉ trừ có Nguyễn Khắc Hoạch là cháu họa sỹ Mai Trung Thứ dậy vẽ ở đây và anh chàng cù-không-cười Nguyễn Khải Tạo, có nét mặt tưng tửng mỗi khi lên bảng làm cả lớp khúc khích, là dân Bắc Kỳ rau muống. (Tiến Sỹ Văn Chương Nguyễn Khắc Hoạch là Khoa Trưởng Văn Khoa Sài G̣n. Sau này ông trở thành Viện Trưởng Viện Việt Học thay thế Giáo Sư Nguyễn Đ́nh Ḥa).

    Được ba ngày sau Censeur Giamachi dẫn vào lớp một học sinh mới trông hơi khác lạ, có cái tên Tây Albert Phạm Ngọc Thuần, nước da mai mái đậm đà và có cái mắt trái lác xệch. Anh là người độc nhất Nam Kỳ, mặc quần short đến đầu gối để lộ cặp gị khẳng khiu. Anh được xếp ngồi cạnh tôi, ăn nói nhỏ nhẹ vói một giọng miền Nam trầm bổng và hay chêm tiếng Tây vào câu chuyện. Trong nội trú anh cũng nằm giường cạnh tôi, luôn luôn tĩnh lặng củ mỉ cù ḿ giữa một đám ồn ào nhất quỷ nh́ ma. Những ngày cuối tuần anh thường rủ tôi đi thăm Hồ Tĩnh Tâm ngồi trầm ngâm ngắm sen thơm ngát và nói toàn chuyện cách mạng Pháp. Anh ta rất ghét cái dữ tợn của Robespierre và Marat và yêu tư tưởng xă hội Rousseau và Voltaire. Anh cũng bàn về cái quá khích và vô nhân bản của Marx-Lenin với chủ trương bạo lực quá độ và duy tŕ chính quyền bằng bạo lực.

    Cuối năm học không thấy Albert trở lại, nghe nói đă được gia đ́nh gửi qua Pháp du học. Măi đến tháng Mười 1945 tôi mới t́nh cờ gặp lại anh mà lại ở Hà Nội? Hôm ấy khoảng 10 giờ tối, đă có sương mù giầy đặc và khí hậu bắt đầu xe lạnh, tôi đang đứng trước thềm nhà A th́ Albert hiện ra như trong phim trinh thám. Tôi không nhận ra v́ anh mặc bộ bà-ba đen, cổ quấn chiếc khăn rằn ri mầu hồng thẫm của dân miệt vườn Nam Kỳ. Đầu anh đội chiếc mũ vải mềm mầu nâu mà vành uốn lượn lên cụp xuống, chân anh đi đôi dép quai chéo, đế bằng vỏ lốp xe hơi. Anh hấp tấp bắt tay tôi và nói thẳng một lèo, “Moi mới ra vội vă lắm để dự khoá họp Quốc Hội đầu tiên trong phái đoàn Nam Bộ; đêm nay người ta xếp cho cả bọn ở đây và mai phải đi rất sớm”! Là một thanh niên chỉ biết yêu nước và ghét ngoại bang đô hộ, tôi chả có chú ư ǵ đến chính trị và những khúc mắc về cơ cấu chính quyền nên tôi đă không níu kéo anh vài phút để ít nhất biết phái đoàn có những ai và làm công việc ǵ? Như vậy cuộc gặp gỡ sau sáu năm chỉ có không đầy năm phút mà thôi.

    Rồi thời gian qua với trận Điện Biên Phủ đánh dấu sự chia cắt đất nước Bắc Nam. Tôi vào làm việc tại Sài G̣n rồi nhập ngũ qua học ở trường Không Quân Pháp Salon de Provence. Khi trở về th́ miền Nam đă có chính thể Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm trong khi trái lại Bắc Kỳ đă thành Cộng Ḥa Nhân Dân Mác Xít. Vào khoảng 1955 nghe nói đến một cán bộ hồi chánh tên là Phạm Ngọc Thảo về làm việc tại Viện Hối Đoái. Về sau y được Bộ Nội Vụ cho đeo lon Đại Úy và giao làm với Bảo An Tỉnh Đoàn Vĩnh Long. Rồi được bổ Tỉnh Trưởng Bến Tre. Bến Tre mà tên cũ là Thủ Đầu Một là một tỉnh trù phú và Việt Minh dùng làm nơi dưỡng quân. Tỉnh Trưởng mới hết sức năng động, hay đứng giữa công chúng diễn giảng và lập lại hoàn toàn an ninh địa phương. Một thời gian sau tỉnh trưởng được thay thế v́ đă hoàn tất nhiệm vụ.

    Năm 1960 sau vu đảo chính nhẩy dù với Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng đă lắng th́ một hôm tôi đang ngồi ngáp ruồi ở Bộ Tư Lệnh Không Quân bỗng nhiên điện thoại reo. Uể oải nhấc máy lên th́ đầu giây bên kia một giọng Nam chay nói, “Tôi là Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, tôi muốn gặp Đại Úy Trần Đỗ Cung”. Tôi vội trả lời, “Vâng thưa tôi đây nhưng Trung Tá cần ǵ và Trung Tá là ai”? Th́ được trả lời ngay, “Albert Phạm Ngọc Thuần bạn học anh ở Lycée Khải Định đây, c̣n nhớ không”? “Nhớ chứ, nhưng anh đổi tên từ hồi nào và tôi nghe nói anh làm Tỉnh Trưởng Bến Tre kia mà”? Thảo nói, “Xong việc rồi, giờ moi ngồi tại văn pḥng cố vấn chánh trị trên đường Hồng Thập Tự, xế cửa Cercle Sportif. Có rảnh th́ ghé lại chơi, chúng ḿnh sẽ nói nhiều kỷ niệm thời 1-S năm xưa Cung nhé”!

    Một hôm nhân đi tập với Maitre Vatin tôi ghé lại. Cũng hơi khớp v́ nghĩ là ḿnh sẽ vào hang hùm đây. Tôi dựa chiếc Velo Solex vào giá và một lính gác mặt lạnh như tiền bước đến. Sau khi xem giấy tờ hắn khám người tôi cẩn thận và hướng dẫn tôi đến bàn giấy Trung Tá Thảo. Tôi thấy anh không khác xưa mấy, cũng nước da mai mái, cũng cái mắt lác xệch, cũng dáng người mảnh khảnh, có chăng là bây giờ anh không mặc quần short nữa mà đóng bộ quân phục gọn gàng với hai đôi hoa mai bạc. Thảo bắt tay chặt chẽ và mời tôi ngồi, sai lính đem cho tôi một ly soda. Chúng tôi chuyện tṛ cả nửa giờ, hết các thầy rồi qua các chị, cảm động với bao nhiêu kỷ niệm hồi tuổi trẻ trong trắng hồn nhiên. Tôi đứng dậy đi qua Cercle Sportif cho kịp lớp thể dục tập thể. Thảo tiễn tôi ra đến cửa và nói bâng quơ, “không biết c̣n bao nhiêu bạn cũ ở Sài G̣n, nếu gặp nhau một bữa th́ chắc vui lắm nhỉ”! Tôi chỉ gật gù qua loa đồng ư.

    Trong lúc tập thể dục và nhất là khi đi tắm tôi nghĩ đi nghĩ lại lời nói bâng quơ của bạn và chợt nghĩ đến bạn Phạm Qụy, một Luật Sư nổi tiếng, có tư gia sang trọng ở số 132 Dường Công Lư. Có thể nếu anh ta nhận lời đứng tổ chức một bữa ăn tối th́ hay quá. Sáng hôm sau tôi điện thoại cho Qụy và Qụy hết sức hoan nghênh ư kiến. Được vài hôm anh ấy liên lạc được vài bạn cũ và mời đến dùng cơm tối. Tối hôm ấy có độ mười người như Hải Quân Trung Tá Vơ Sum, chị Ngọc Trâm tức ca sỹ Minh Trang, Phó Tổng Giám Đốc Điện Lực Tôn Thất Uẩn, Phó Tổng Giám Đốc Quan Thuế Đoàn Ḥa, Trần Ngọc Nhụy em Tổng Giám Đốc Nông Tín Cuộc Trần Ngọc Liên, Hồ Tường, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, tôi Đại Úy Không Quân và anh chị Phạm Quỵ.

    Bữa cơm đặc Huế ngon miệng do bàn tay khéo léo của bà chủ nhà kéo dài mấy tiếng đồng hồ, ai nấy tranh nhau kể lại các chuyện vui thời học tṛ vô tư và vô sự. Nào là nét cá biệt của mỗi thầy, những đặc tính của một vài bạn. Trên lầu nội trú, Trần Kế Tạo anh ruột chị Qụy lẻn vào pḥng thầy Quốc đổ đầy nước ướt sũng rương quần áo của giám thị. Sự ẩu đả giữa Tôn Thất Uẩn và Hoàng Tuệ lăn cù xéo nát mấy luống rau cải v́ “hai con gà cồ” tức nhau tiếng gáy Ngọc Trâm. Đến đây th́ chị Trâm trố mắt nói tôi không biết chuyện ấy và Tôn Thất Uẩn đỏ mặt bảo đâu có. Chuyển qua chuyện chị Trâm lấy thầy Quả và được đích người đẹp nói là tuổi trẻ quá bồng bột mà Thầy Quả thật có duyên. Những tiếng cười vang với những tràng vỗ tay bôm bốp kéo dài cho đến mười một giờ đêm th́ chia tay, tiếc một đêm họp mặt mau tàn.

    Sau khi hai phi công Quốc và Cử dội bom dinh Độc Lập vị Tư Lệnh đương nhiệm dẫn toàn thể sỹ quan tham mưu lên tŕnh diện Tổng Thống tại Dinh Gia Long để nghe ông Ngô Đ́nh Diệm đơn ca hiểu thị với giọng Huế đặc xệt mà không nh́n thẳng vào mặt cử tọa đứng cứng ngắc. Về đến Tân Sơn Nhất th́ Tư Lệnh “mặt đỏ xần mũ đội lệch” cho gọi tôi vào hất hàm nói, “Đại Tá Đỗ Mậu gọi, anh đi tŕnh diện lập tức”! Lên an ninh quân đội có nghĩa là nh́n thấy cơ nguy tra khảo đánh đập nên tôi hết sức rét. Nhưng không ngờ tôi lại được vị Đại Tá “mặt sắt đen x́” tiếp một cách rất thân t́nh và thông báo sẽ kư giấy thuận cho lên Thiếu Tá. Trở về bàn giấy ngáp ruồi văt để được Tư Lệnh dằn mặt, “Anh tưởng anh được ông Đỗ Mậu che chở mà xong hả?” th́ điện thoại lại reo vang. Đầu giây bên kia Phạm Ngọc Thảo nói “moi đang theo học Anh Ngữ bên này để sửa soạn đi học tham mưu Fort Leavenworth; Cung có rảnh th́ sang đây ăn cơm trưa và ḿnh sẽ ghé qua đón”?



    Đúng 12 giờ trưa Thảo lái xe Jeep qua và tôi theo anh ta qua Tổng Tham Mưu, định tâm sẽ cùng anh ghé ăn trưa tại Câu Lạc Bộ Sỹ Quan. Nhưng Thảo quẹo trái ngay khi qua cổng, đậu xe trước giẫy nhà hai từng của các Tướng. Tôi đi theo anh lên lầu, quẹo phải đến căn áp chót của Đại Tá Đỗ Mậu , kế cận căn của Trần Thiện Khiêm và anh thản nhiên mở cửa cho tôi cùng vào. Tôi gặp một Trung Tá lục quân lạ mặt th́ được Thảo giới thiệu là Trung Tá Phạm Đăng Tấn, phụ tá của Đại Tá Đỗ Mậu. Trung Tá Tấn mở tủ lạnh đem ra bàn ăn các đồ nguội jambon-saucisse, bánh ḿ và xếp đặt bàn cho ba người cùng ngồi ăn. Thảo mở đầu ngay, nói về t́nh h́nh chính trị rối ren nguy hiểm và cần thay đổi để cứu văn v́ ta đang đương đầu với bọn cộng sản mưu mô và xảo quyền với tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của chúng.

    Một cuộc đảo chính đang được h́nh thành hầu xoay lại t́nh thế trước đe dọa gia tăng của cộng sản. Đại Tá Đỗ Mậu cũng như ông bên cạnh Trần Thiện Khiêm đă đồng ư và đă có nhiều đơn vị cùng các Tướng Lănh sẵn sàng tham gia. Tôi ngồi nghe chăm chú, suy nghĩ cho bản thân đang bị trù dập bởi cánh Cần Lao. Bỗng Thảo nh́n thẳng mặt tôi hỏi, “Cung, toi phải nắm lấy Không Quân. Chỉ cần toi cho vài chiếc máy bay lên bay vè vè và đưa ra một số ít binh sỹ đứng các ngả đường huy trương thanh thế, không cần biết bắn cũng được. Đă có kế hoạch đối với Hải Quân, có thêm Không Quân th́ hoàn toàn”.

    Tôi nói ngay, theo tập quán trong quân chủng người chỉ huy cần phải là phi hành mà tôi chỉ là dân kỹ thuật ḅ sát nên không làm được. Tấn hỏi ngay, “anh có thể đề nghị một tên không”? Tấn nắm vững t́nh h́nh các sỹ quan nên đă cùng tôi duyệt đủ tên chỉ huy trong Không Quân. Nh́n đi nh́n lại, nào Vơ Dinh, nào Nguyễn Ngọc Oánh, Vơ Xuân Lành rồi Nguyễn Huy Ánh, Vơ Công Thống, thấy chẳng ai có thể thích hợp nên tôi nẩy ư kiến đề nghị Nguyễn Cao Kỳ đang bị thất sủng mất chức chỉ huy Liên Phi Đoàn Vận Tải và có lệnh đổi ra Nha Trang làm huấn luyện viên bay. Tấn nói hay lắm và anh có thể móc nối Kỳ được không?

    Tôi nói ngay sẽ cố gắng tuy nhiên sự giao hảo giửa tôi với Kỳ không tốt đẹp lắm. Tôi kể lại hồi làm với Trần Văn Hổ tôi hay ṃ sang đơn vị của Kỳ mỗi buổi trưa, leo lên phi cơ và rút túi chiếc mouchoir trắng tinh ra tuốt các giây cable điều khiển đuôi và bánh lái. Khi tôi thấy hầu hết các cables có các sợi nhỏ bị tưa đứt vướng các sợi chỉ trắng nên tôi đề nghị ông Hổ cho ngưng bay tất cả các C-47 chờ thay cables mới. Trong buổi họp trên bộ Tư Lệnh Kỳ nổi sùng chỉ mặt tôi nói, “kể từ nay tôi không muốn ông Đại Úy Cung leo lên phi cơ của tôi mà không có phép của tôi”. Trung Tá Hổ liền ôn tồn nói, “Ông Đại Úy Cung làm là thay mặt cho tôi”. Và Kỳ im bặt rồi từ đó chúng tôi rất lạnh nhạt với nhau. Cả Tấn và Thảo đều đồng thanh nói, “chuyện vặt mà, anh Cung cứ cố gắng”! Tôi thêm “Kỳ là một thứ Don Quichote, hùng hổ nhưng trí đoản và liều mạng. Và anh ta đang bất măn lắm”!

    Về đến nhà tôi mở tủ lấy ra một chai Johnny Walker Black Label trong số rượu quư mà học tṛ ngoại quốc biếu tôi và bỏ vào túi giấy. Sáng hôm sau tôi qua bàn giấy Kỳ th́ thấy anh ta đang lúi húi dọn dẹp các ngăn kéo ư chừng để bàn giao cho chỉ huy trưởng mới. Tôi để túi đựng chai rượu lên bàn và nói, “Tôi có nhiều rượu quư học tṛ ngoại quốc biếu mà không biết uống; nay thấy anh sắp đổi nhiệm sở tôi đem sang làm quà để anh thưởng thức”. Kỳ rút chai rượu ra ngắm nghía, xiết chặt tay tôi và cám ơn.

    Trưa tôi về nhà vừa sửa soạn ngồi vào bàn ăn th́ xe Jeep Kỳ xịch tới. Anh ta chậm răi bước lên thềm và ngồi vào sofa. Tôi chạy đến ngồi cạnh th́ Kỳ nói, “Moa cám ơn toa cho moa chai rượu ngon. Nhưng moa thắc mắc măi, phải đến hỏi toa có cái ǵ đằng sau vậy”?

    Kể ra th́ cũng tinh khôn thật. Tôi liền nói chuyện này rất nguy hiểm

    anh phải giữ kín như bưng. Kỳ gật gù và tôi kể buổi họp với Tấn và Thảo trong căn nhà của Đỗ Mậu. “Nếu anh đồng ư th́ họ sẽ liên lạc phối hợp thẳng với anh. Nhưng phải hết sức kín nếu không cả anh và tôi sẽ toi mạng”! Kỳ không nói đi nói lại, chỉ xiết tay tôi thật chặt và thêm vắn tắt, “OK”!

    Tôi thông báo cho Tấn và Thảo th́ họ mừng lắm và Thảo bảo tôi liên lạc thường xuyên với anh tại tư gia số 51 Đường Tự Đức, căn dặn nên cẩn thận, dùng Taxi trả tiền trước đề pḥng con mắt của Mật Vụ. Một lần tôi đến nhà Thảo trong một biệt thự công có lính gác. Hôm ấy vào khoảng đầu tháng Mười 1962 tôi ngồi với Thảo ở chiếc bàn gỗ dưới dàn cây leo. Thảo cho tôi biết qua loa kế hoạch, khi nổ súng th́ hai chúng tôi đều mỗi người ngồi trên một xe thiết giáp của Dương Hiếu Nghĩa tiến về dinh Gia Long. Vậy tôi phải liên lạc mật thiết với Thảo để biết ngày N, giờ G và địa điểm thiết giáp. Lúc đầu dự trù vào ngày 26 tháng Mười nhưng v́ kế hoạch Bravo và Anti Bravo của ông Nhu nên phải hủy bỏ.



    Một hai lần khác đến tôi mới biết là Thảo đă cho vợ con qua Mỹ trước và tôi được gặp một hai cấp chỉ huy quan trọng mà tôi không nhớ tên, ăn mặc thường phục. Lần cuối cùng tôi đến nhà Thảo là sáng ngày 29 tháng Mười. Tôi mới mua một chiếc xe Morris 1100 mới toanh, đậu băi trước Sở Thú và trả tiền bao thuê taxi đến 51 Tự Đức. Khi Taxi vừa đậu trước cổng và tôi nhận chuông th́ anh lính gác mở hé lỗ vuông cổng sắt rồi nói vắn tắt “có mật vụ”. Liếc mắt qua bên kia đường th́ thấy hai nhân viên nhà đèn mặc áo liền quần xanh đang lúi húi ghi chép. Tôi nhẩy phắt lên taxi về Sở Thú. Khi đi ngang một nhà có bảng SỞ XĂ HỘI PHỦ TỔNG THỐNG th́ thấy bóng một xe Jeep phóng ra. Tôi vội vă lái xe ḿnh trực chỉ Tân Sơn Nhất, vượt qua cả đèn đỏ nhưng qua kính chiếu hậu không thấy xe đuổi theo. Về đến nhà tôi lo lắng nghĩ rằng chỉ nội đêm nay hay mai chúng sẽ đến t́m ḿnh và không dám ra khỏi cổng Phi Long, vợ con chẳng biết mô tê ǵ hết!

    Bởi vậy khi nổ súng tôi đă không có mặt trên xe thiết giáp chỉ định mà tôi ngồi ở bàn giấy thường lệ, hai chân gác lên mặt bàn thoải mái, với một cái radio nhỏ vặn vừa nghe. Mấy sỹ quan Không Quân có lẽ cho rằng tôi là người biết chuyện, luôn ghé lại hỏi thăm t́nh h́nh. Độ bốn giờ sáng th́ Nguyễn Cao Kỳ ghé qua với bốn năm thủ túc súng ống đầy ḿnh. Họ đều mặc quần áo bay xám, riêng Kỳ trưng một bộ màu cam của Hải Quân Mỹ. Kỳ nói với tôi bằng một dọng khẩn cấp, “Cung, toa ở đây lo Không Quân để moa đi bắt thằng Hiền rồi thằng Sang”. Huỳnh Hữu Hiền mới được bổ nhiệm thay Nguyễn Xuân Vinh đi Mỹ c̣n Phạm Ngọc Sang th́ luôn luôn lái máy bay cho Tổng Thống. Cả hai đều là người Nam, tính t́nh hiền lành vô sự. Tôi tự nghĩ ḿnh lo Không Quân thế quái nào được, chẳng có đàn em thân tín nào mà cũng chưa bao giờ đụng đến súng.

    Hơn nữa tên Tham Mưu Trưởng Đỗ Khắc Mai, Cần Lao Gộc sờ sờ ra đấy mà Kỳ đă vô tâm không cô lập. Bởi vậy trong lúc nhốn nháo Mai điện thoại cho các Tướng phúc tŕnh, “Thưa Không Quân yên tĩnh, em chu toàn mọi viêc ở đây”. Do đó các Tướng làm lệnh cử Mai Tư Lệnh Không Quân và Kỳ bị hất cẳng. Ngay hôm sau có giấy Đỗ Mậu gửi sang thăng cấp Đại Tá cho tôi v́ có công với cách mạng. Mai đưa tôi xem rồi xin để Không Quân đề nghị lên hầu giữ hệ thống chỉ huy. Ngay hôm sau có lệnh cho Mai đi Tùy Viên Quân Sự ở Bonn, Kỳ nắm lấy Tư Lệnh Không Quân và sự việc bị chôn vùi. Tôi chẳng để ư ǵ cái vặt ấy v́ trong thâm tâm chỉ muốn xuất ngũ. Hơn nữa ḿnh đâu có nghĩ là có công cán ǵ với cách mạng? Khi Tướng Đỗ Mậu được chỉ định chức Ủy Viên Văn Hóa cho gọi tôi và Thảo lên làm việc với ông ta, tôi cũng lờ như không biết.

    T́nh hinh chính trị Sài G̣n trở nên lộn xộn khi các Tướng trong Hội Đồng Quân Lực chia chác quyền hành và thi nhau gắn lon gắn sao cho đồng bọn. Cái bát nháo này làm cho Mỹ điên đầu và Hà Nội thấy cơ hội ngàn năm một thuở đă đến. Trong thời kỳ này Nguyễn Khánh đă bứng Trần Thiện Khiêm đi làm Đại Sứ tại Washington đem theo tùy viên báo chí Phạm Ngọc Thảo. Nguyễn Khánh cho lệnh gọi Thảo về nhưng Khiêm đă lo giấy tờ cho Thảo đi Hồng Kông rồi bí mật quay về Sài G̣n qua ngă Nam Vang liên lạc với Lâm Văn Phát tổ chức đảo chính.

    Nguyễn Khánh đă thoát nạn nhờ Nguyễn Cao Kỳ lái C-47 bốc đi Vũng Tầu trước khi Kỳ bay về Biên Hoà trong căn cứ không quăn cấm trại nghiêm ngặt. Tại đây một pḥng Hành Quân Đặc Biệt được thiết lập và trên không phận một phi tuần AD-6 bao vùng ầm ́ trên không trung. Rồi Phạm Văn Liễu đi với Tướng cố vấn Không Quân Roland chở Lâm Văn Phát trên một chiếc C-123 của Mỹ đáp xuống Biên Ḥa để điều đ́nh. Anh hề Nguyễn Khánh bị Hội Đồng Quân Lực chỉnh lư cho làm Đại Sứ Lưu Động đi không biết ngày về mang theo một túi plastic đựng bụi đất Việt Nam.

    Đêm hôm ấy căn cứ không quân Tân Sơn Nhất lại cấm trại trăm phần trăm. Tôi với Nguyễn Tấn Hồng mặc quân phục lái xe Jeep ra phố vắng tanh qua các chốt gác đến nhà Bùi Diễm trên đường Charner th́ biết cả Diễm lẫn Đặng Văn Sung và Nguyễn Đ́nh Tú đă ẩn trốn trên trần nhà. Lâm Văn Phát đi trốn bị Ṭa Án Quân Sự xử tử h́nh khiếm diện và Phạm Ngọc Thảo bị tâm nă gắt. Tuy nhiên có một sự điều đ́nh để Ṭa bỏ vụ án Lâm Văn Phát.

    Khi ấy tôi đang làm Đổng Lư Văn Pḥng cho Tổng Trưởng Thanh Niên Nguyễn Cao Kỳ trong chính phủ Trần Văn Hương. Tổng Trưởng Kỳ ch́ đến bộ đúng một lần bằng trực thăng đáp xuống sân cỏ bộ dưới sự vỗ tay thán phục của công chức nam nữ. Tổng Trưởng cũng không thèm đi họp hội đồng nội các và Đổng Lư thay thế để nh́n thấy Thủ Tướng lẩm cẩm trong khi Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh ngồi dũa móng tay lơ đăng.

    Môt buổi sáng vào khoảng 9 giờ, có một em bé độ mười lăm đến bộ xin gặp tôi. Khi được đưa vào bàn giấy tôi, cô bé ấy đưa cho tôi một bức thư nhỏ viết tay nói là của ông Phạm Ngọc Thảo, “Nhờ Cung liên lạc với ông chủ giúp đỡ và em bé có thể cho biết số điện thoại và chỗ của tôi”. Tôi biết danh từ ông chủ ám chỉ Nguyễn Cao Kỳ. Tôi hỏi cô bé th́ biết là Thảo hiện ẩn trốn trên trần tiệm bán đồ thể thao Émile Bodin ở đường Bonard. Tôi quay số điện thoại mà cô bé cho tôi th́ Thảo trả lời bóng gió, “Tôi ở miệt vườn lên đây. Độ này thất bát quá, gạo khan hiếm nên nhà máy chỉ chạy cầm chừng. Tôi bị đau mắt chói lắm, đầu tóc lo nghĩ bạc phơ nên trông kỳ lắm. Ông có rảnh th́ chở tôi lên ông chủ xin giúp đỡ cho qua lúc nầy. Nếu được th́ xin ông đón tôi lúc 1 giờ hôm nay ở Givral”!

    Tôi hiểu ra là Thảo ngụy trang đeo kính đen đàu đội mũ tùm hụp. Tuy nhiên vừa lúc ấy có tin là chính phủ dân sự Phan Huy Quát đă thành h́nh mà ông Quát là chỗ đàn anh thân t́nh và đứng đắn nên tôi đắn đo suy nghĩ ḿnh có nên tiếp tay phá thối nữa không? Bởi vậy tôi đă không đến điểm hẹn Givral. Về sau có tin là Thảo đă ṃ về khu vực họ đạo Hố Nai rồi bị an ninh mai phục bắn vỡ hàm tưởng chết bỏ nằm trên bờ suối. Thảo tỉnh lại viết lên cát “xin gọi Phan Xi Cô cứu” và được một linh mục đem về chăm nom. Rồi an ninh đến chở bằng trực thăng về cơ quan, tra tấn tàn nhẫn. Nghe nói Thiếu Tá Nguyễn Mộng Hùng tức Hùng Xùi, một Biệt Động Quân được Nguyễn Ngọc Loan xin biệt phái qua Cảnh Sát, không ưa cái mắt lác của Thảo mà tra khảo và bóp dái đến chết tuốt.

    Tôi vừa được Yung Krall tức Đặng Mỹ Dung cho biết là khi cô ta lên Sài G̣n có đến thăm ông Thảo tại nhà gần Sở Thú. Rồi khi bà Thảo và các con đi Mỹ th́ cô Kim chị của Dung cũng được đi Mỹ và đă lần hồi tới gặp bà Thảo xin một chỗ dậy tiếng Việt tại Fort Bliss ở El Paso Texas. Lúc ấy ông Thảo đă bị giết rồi. Năm 1997 Yung Krall có đến thăm bà Thảo cùng gia đ́nh ở Escondido và bà c̣n giữ mối hận thù nói rằng, “Thằng giết chồng tôi, tôi và con cái sẽ t́m để giết nó”! Mỹ Dung cố khuyên giải, “Nên để cho các em sống b́nh an; bác trai làm chính trị mà chính trị th́ tàn ác mưu mô nhiều lắm”, nhưng bác gái một mực vẫn căm thù không đội trời chung.

    Theo tôi suy nghĩ th́ câu chuyện xẩy ra đă lâu quá rồi. Đống tro tàn nguội lạnh từ lâu có lẽ cũng lần hồi cuốn theo chiều gió. Vả lại bà Thảo nay cũng lớn tuổi mà lại vừa trải qua một trường hợp giải phẫu thập tử nhất sinh. Thôi th́ ân chưa trả, oán chưa báo cũng nên phú cho số mệnh!

    Bây giờ nghĩ lại tôi thấy hối hận. Nếu tôi đến đón Thảo tại Givral chở gặp Nguyễn Cao Kỳ th́ chắc là Thảo chưa chết thảm. Tuy nhiên con người ta thay đổi v́ hoàn cảnh, Kỳ đang say sưa trong vị trí mới chắc đâu sẽ làm ǵ cho Thảo. Mà tôi lại bị mắc kẹt vào một hoàn cảnh khó khăn không lường đuợc, trong thời kỳ Sài G̣n bát nháo với các Tướng Tá kèn cựa, tiêm nhiễm ích kỷ và tham vọng. Th́ hăy đổ cho số phận vậy!

    Tôi vẫn không cho Thảo là cộng sản nằm vùng mặc dầu sau khi chúng chiếm được Sài G̣n chúng đă dàn dựng tuyên dương anh là anh hùng nhân dân như chúng đă từng dàn cảnh mọi việc có lợi cho bài bản tuyên truyền của chúng, theo đúng sách vở của Marx, “la fin justifie le moyen và mentez mentez toujours et les gens finiront par le croire”. Tuy nhiên có lẽ ư kiến của tôi là do những cảm nhận chủ quan riêng mà tôi dành cho anh trong những tiếp xúc lúc c̣n trẻ. Và theo lời kể lại của Nguyễn Trung Trinh hiện ở Paris th́ vào cuối năm 1946 Trinh gặp Thảo ở Thị Nghè lúc anh đang chỉ huy một tiểu đội phục kích Pháp. Thảo dụ Trinh nhập bọn đánh Tây nhưng khi thấy bạn do dự th́ anh nói ngay, “Moa biết toa có nhiều quen biết phía bên kia; vậy toa cứ đi công chuyện của toa và chúng ḿnh vẫn là anh em bạn thân nhé”! Thật là trung hậu và quảng đại!

    Hơn nữa nếu anh là một điệp viên nhị trùng quư báu của Hà Nội th́ tại sao họ không cứu anh ra bưng để khai thác thêm tin tức. Ngay khi anh về trú ẩn tại Hố Nai th́ con đường về mật khu thật là gần xịt, tại sao anh không dọt lẹ để bị bắn và bắt giết. Một yếu tố nữa là anh đă cho vợ và sáu con nhỏ qua Hoa Kỳ trước? Bảo vệ gia đ́nh ḿnh tại một nơi chốn tự do xa lánh hẳn môi trường xă hội chủ nghĩa mà anh đă cho là không thích hợp? Hoặc giả v́ anh đă bỏ bên kia hồi chánh nên không dám trở về bưng để bị các đồng chí cũ xử giảo thảm khốc? Hơn nữa ngay cả Bác Sỹ Trần Kim Tuyến sau này cũng nói ông không tin là Thảo trá hàng. Tất cả chỉ là những suy nghĩ vẩn vơ không có một dữ kiện xác thực chứng minh. Nhưng trong cơi đời này có cái ǵ là hoàn toàn thực chất đâu, Đức Phật đă chẳng giảng là “sắc sắc không không” hay sao?

    Prunedale, 15 December 2006
    Trần Đỗ Cung

  6. #46
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
    Đại tá Phạm Ngọc Thảo
    P1



    Phạm Ngọc Thảo (1922–1965) là một t́nh báo viên bí ẩn trong suốt Chiến tranh Việt Nam. Ông là đại tá của hai quân đội đối nghịch trong cuộc chiến này: Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Ông là người có nhiều ảnh hưởng chính trị và cũng là một thành viên chủ chốt trong 2 cuộc đảo chính bất thành ở Việt Nam Cộng ḥa vào những năm 1964–1965.

    Thân thế gia đ́nh

    Ông sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922 tại Sài G̣n, nguyên quán Vĩnh Long, (có tài liệu là Bến Tre[1]). Cha ông là Adrian Phạm Ngọc Thuần một địa chủ lớn người Công giáo, có quốc tịch Pháp. Ông Adrian Phạm Ngọc Thuần có tới hơn 4000 mẫu đất và gần 1000 căn nhà rải rác ở khắp các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Sa Đéc, Vĩnh Long. Ông Thuần có quốc tịch Pháp nên các con đều được sang Pháp học.

    Phạm Ngọc Thảo c̣n có tên là Albert Phạm Ngọc Thảo, c̣n gọi là Albert Thảo. Mọi người thường gọi là Chín Thảo v́ ông thứ 8 trong gia đ́nh.

    Lúc nhỏ ông học một trường tư thục công giáo nổi tiếng ở Sài g̣n đó là trường Taberd[1] (Có tài liệu nói học trường Chasseloup Laubat- ngày nay là trường THPT Lê Quư Đôn). Khi học xong tú tài, khác với các anh em khác, ông không sang Pháp du học (do Thế chiến thứ hai xảy ra) mà ra Hà Nội theo học trường Kỹ sư Công chính Hà Nội.

    Tham gia Việt Minh

    Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh cả của ông là Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ (sau này làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tại một nước Đông Âu). Anh trai thứ bảy Phạm Ngọc Hùng học ở Pháp, lấy vợ Pháp rồi về Việt Nam ra chiến khu chiến đấu, làm Uỷ viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam. Tốt nghiệp trường Kỹ sư công chánh ở Hà Nội, khi Pháp bội ước quay lại xâm chiếm Việt Nam, ông Phạm Ngọc Thảo tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và quyết định trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến, làm việc ở Văn pḥng Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Trên đường về, ông bị dân quân Việt Minh bắt hai lần và suưt bị giết chết[cần dẫn nguồn].

    Năm 1946, trường Vơ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng. Ông cùng 12 chiến sỹ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động t́nh báo của ông sau này.

    Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng pḥng mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – tổ chức t́nh báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307). Trong thời gian này ông hướng dẫn về chiến tranh du kích cho Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng ḥa.

    Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ. Cũng trong những năm ở chiến khu này, ông lập gia đ́nh với bà Phạm Thị Nhiệm, là em ruột giáo sư Phạm Thiều, nguyên đại sứ tại Tiệp Khắc.
    Giai đoạn bắt đầu hoạt động

    Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân s&#7921... đều được tập kết ra Bắc. Cũng có nhiều cán bộ Việt Minh đă bí mật ở lại hoạt động. Riêng trường hợp của Phạm Ngọc Thảo, chính Tổng Bí Thư Lê Duẩn đă chỉ thị cho ông không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam để h́nh thành "lực lượng thứ ba". Về việc này, nguyên Thủ tướng Vơ Văn Kiệt nói: “anh Ba Duẩn rất tin cậy Phạm Ngọc Thảo và đă giao cho đồng chí Thảo một nhiệm vụ đặc biệt”.

    Do đó ông ở lại miền Nam hành nghề dạy học tại một số trường tư thục Sài G̣n. Phạm Ngọc Thảo trở lại Sài G̣n giữa lúc t́nh h́nh rất khó khăn: lực lượng B́nh Xuyên gây rối khắp nơi. V́ không chịu kư tên vào giấy "hồi chánh" theo qui định của chính quyền miền Nam Việt Nam đối với những người đă đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát.

    Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đ́nh Thục, vốn quen biết gia đ́nh ông từ lâu. Gia đ́nh anh theo Thiên chúa giáo lâu đời, rất thân thiết với giám mục Ngô Đ́nh Thục. Giám mục Ngô Đ́nh Thục rất quư mến Thảo v́ đă từng làm lễ rửa tội cho anh và coi anh như con nuôi. V́ vậy, Giám mục Thục đă bảo lănh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đă giới thiệu ông với Ngô Đ́nh Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.

    Nhờ chính sách “đả thực bài phong”, khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với “chính nghĩa quốc gia” của Ngô Đ́nh Diệm, ông khôn khéo công khai hết nguồn gốc của ḿnh, kể cả chức tiểu đoàn trưởng cũ, chỉ trừ một điều: ḿnh là Đảng viên Đảng CSVN. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài G̣n sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang hàm Đại uư “đồng hóa”.

    Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao.

    Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao.

    Hoạt động trong Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Ban đầu, Diệm – Nhu chưa thấy được tài năng của Thảo nên chỉ giao cho anh những chức vụ “hữu danh vô thực” như Tỉnh đoàn trưởng bảo an đoàn, tuyên huấn đảng Cần lao nhân vị...[cần dẫn nguồn] Nhưng Thảo đă biết cách “bộc lộ” ḿnh bằng cách viết báo[cần dẫn nguồn]. Đại tá Trần Hậu Tưởng, bạn học trường vơ bị của ông kể: Lúc học ở Sơn Tây, chúng tôi có phong trào làm báo tường rất mạnh, đại đội nào cũng làm một tờ báo, anh em tập viết báo rất sôi nổi. Có lẽ đó cũng là một “vốn” quư cho Thảo sau này.

    Thảo c̣n biết “khai thác” vốn binh pháp Tôn Tử mà thầy Hoàng Đạo Thúy từng dạy để viết báo. Thời gian này, ông cộng tác với tạp chí Bách khoa. Chỉ trong hơn một năm, ông đă viết 20 bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo.... Những bài báo đó đă được giới quân sự chú ư và Diệm – Nhu đề cao “tầm” của ông. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Pḥng Nghiên cứu chính trị của Phủ tổng thống với hàm thiếu tá. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh B́nh Dương.

    Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Vơ bị Quốc gia Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được thăng thiếu tá và được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật[cần dẫn nguồn].

    Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đ́nh Nhu đă quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Ḥa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương tŕnh B́nh định. Từ khi ông nhậm chức, t́nh h́nh an ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không c̣n bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đ́nh Diệm - Ngô Đ́nh Nhu đă ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Ḥa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu. Từ đó Bến Tre tiếp tục mất an ninh. Trước đó, khi lên tỉnh trưởng, ông đă quyết định thả ngay[cần dẫn nguồn] hơn 2000 tù nhân đang bị giam giữ, liên lạc với bà Nguyễn Thị Định, tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre bùng nổ. Chính sách không cho binh lính đàn áp dân chúng tùy tiện của Phạm Ngọc Thảo đă “bật đèn xanh” cho phong trào “đồng khởi” sau này.

  7. #47
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
    Đại tá Phạm Ngọc Thảo
    P2


    Tham gia các cuộc đảo chính
    Lần thứ nhất


    Tháng 9 năm 1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị (thực chất là trùm mật v&#7909... và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đă kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an... sẵn sàng tham gia. Để chấm dứt âm mưu đảo chính này, ngày 6 tháng 9 năm 1963, Tổng thống Diệm đă cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng lănh sự tại Ai Cập.

    Sau khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ ngày 1 tháng 11 năm 1963 (cuộc đảo chính do một nhóm tướng lĩnh khác chủ mưu), Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Ṭa đại sứ Việt Nam tại Mỹ.

    Lần thứ hai

    Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước v́ chính quyền Sài G̣n đă nghi ngờ, muốn bắt ông. V́ vậy, ông đă đào nhiệm và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập khác để tổ chức đảo chính ở Sài G̣n v́ một lí do vô cùng quan trọng. Theo một tài liệu mà ông nắm được, Mỹ và Nguyễn Khánh đă thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào 20/2/1965, v́ vậy cuộc đảo chính sẽ tiến hành đúng ngày 19/2.

    Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát,đại tá Bùi Dzinh và trung tá Lê Hoàng Thao đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài G̣n, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu.

    Ngày 20 tháng 2, hội đồng các tướng lĩnh họp ở Biên Ḥa. Các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra tŕnh diện trong 24 giờ.

    Ngày 21 tháng 2 năm 1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên Ḥa, quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    Ngày 22 tháng 2 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu kư sắc lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động (một h́nh thức trục xuất khỏi nước cho đi lưu vong). Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam.

    Khi biết tin quyền lănh đạo đă rơi vào tay các tướng lĩnh khác, Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.

    Bị bắt và qua đời

    Ngày 11 tháng 6 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả lại quyền lănh đạo quốc gia cho quân đội.

    Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Lănh đạo Quốc gia đă được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.

    Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật, nhưng ông tiếp tục chuẩn bị tư tưởng cho các hoạt động cách mạng bằng cách xuất bản tờ báo “Việt Tiến”, mỗi ngày phát hành trên 50.000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước, chống Mỹ – VNCH. Ông có cả một hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các xứ đạo Biên Ḥa tới Hố Nai, Thủ Đức, Sài G̣n; có nhiều linh mục giúp đỡ in ấn, phát hành tờ Việt Tiến. Lúc này, ông bị chính quyền Kỳ – Thiệu kết án tử h́nh và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được nhưng vẫn liên lạc với cơ sở cách mạng trực tiếp là Sáu Dân (bí danh của Vơ Văn Kiệt) để hoạt động tiếp.

    Ông Vơ Văn Kiệt kể lại: “tôi thấy Phạm Ngọc Thảo quá khó khăn nên đi t́m anh để đưa về chiến khu. Nhưng anh bảo vẫn c̣n khả năng đảo chính thành công quyết tâm ngăn chặn bàn tay đế quốc Mỹ định đưa quân viễn chinh vào miền Nam, cản trở kế hoạch ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng cuối tháng 5/1965...”.

    Đại sứ quán Mỹ cũng đề nghị đưa ông ra nước ngoài an toàn nhưng ông từ chối.

    Sau khi nhậm chức, tướng Thiệu quyết định t́m bắt và giết Phạm Ngọc Thảo[cần dẫn nguồn] để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đă ra tŕnh diện và chỉ bị cách chức, nhưng đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện Phước Lư ở xă Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Biên Ḥa.

    Cuối cùng nơi trú ẩn này cũng bị lộ. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lư th́ bị an ninh quân đội mai phục sẵn bắt rồi đưa về một suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Ḥa, định thủ tiêu.

    Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất v́ viên đạn chỉ trúng cằm. Tỉnh dậy, ông cố lết về một nhà thờ. Ông được linh mục Cường, cha tuyên úy của Ḍng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp cứu chữa. Sau đó ông chủ động xin chuyển tới chỗ khác pḥng khi An ninh quân đội tới truy t́m, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Cục an ninh quân đội, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài G̣n. Ông bị tra tấn dă man [2]và bị đánh vào hạ bộ đến [3] chết vào đêm 17 tháng 7 năm 1965[1]. Khi đó ông mới 43 tuổi.

    Di sản

    Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một nhà t́nh báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị và ngoại giao. Sau ngày Việt Nam thống nhất, nhiều đồng đội đă vô cùng chua xót khi thấy mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh. Họ đă sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân... Rất nhiều nước mắt xúc động, cảm thương của những người chiến binh già đă rơi khi kể lại câu chuyện về ông. Năm 1987, Nhà nước Việt Nam truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ, với quân hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, mộ Phạm Ngọc Thảo được đưa về nghĩa trang TP.HCM, trên đồi Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức). Mộ ông nằm cạnh mộ những tên tuổi nổi tiếng như Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Can Trường...

    Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 t́nh báo viên xuất sắc nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy[cần dẫn nguồn]). Một số người c̣n cho ông là điệp viên xuất sắc nhất[4] bởi 3 đặc điểm chính:

    Phạm Ngọc Thảo là t́nh báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự "thay đổi chế độ". Có thể nói, với nhiệm vụ này, tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân.
    So với các t́nh báo viên khác, Phạm Ngọc Thảo là người có thể tác động trực tiếp đến chính quyền và quân đội. Là sỹ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, ông có tác động, thậm chí trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển gây mất ổn định chính quyền Nam Việt Nam những năm 1964-1965.
    Trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái quân đội, Phạm Ngọc Thảo bị xem là đối tượng nguy hiểm và bị đe dọa tính mạng bất cứ lúc nào. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ mà không trốn chạy để bảo toàn mạng sống. Thậm chí, cả khi bị bắt và tra tấn đến chết, Phạm Ngọc Thảo vẫn không lộ tung tích của ḿnh. Măi sau này, khi ông được truy phong, người ta mới biết ông là t́nh báo viên.

    Thời gian ở chiến khu, Phạm Ngọc Thảo đă lấy bà Phạm Thị Nhiệm, em ruột của giáo sư Phạm Thiều, đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tại Campuchia (1956–1967) và Tiệp Khắc. Ông có 7 con và vợ ông đi dạy học. Vợ và con ông hiện đang ở Hoa Kỳ. Tất cả các con của ông đều học hành thành tài (có người là bác sĩ, đang ở Quận Cam).

    Trong ḍng đề tựa trong cuốn Ván Bài Lật Ngửa, nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lư đă trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đă chiến đấu hy sinh thầm lặng". Ông đă sử dụng chính h́nh tượng của Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của ḿnh. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do diễn viên Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm).

    Ông Trần Bạch Đằng, nguyên Phó ban tuyên huấn Trung ương cục miền Nam nhận xét: "các nhà t́nh báo thông thường có nhiệm vụ giấu ḿnh, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động v́ Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người t́nh báo đặc biệt có một không hai". Nguyên thủ tướng Vơ Văn Kiệt nói: "anh Phạm Ngọc Thảo đă nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta"
    Last edited by alamit; 07-05-2012 at 09:35 AM.

  8. #48
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
    Vụ Phạm Ngọc Thảo

    Tú Gàn
    (Saigon Nhỏ ngày 8.7.2005)



    Trong thư đề ngày 30.4.2005 gởi ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng Ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương của Đảng CSVN, ông Vơ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng CSVN, đă bàn về công tác của Ban Tư Tưởng Văn Hoá, trong đó có đoạn như sau:

    “Về lực lượng thứ ba, các lực lượng đối lập trong chính quyền nguỵ, cần có sự nhận định thực tế đủ khách quan, không nên tuỳ tiện quy kết theo chủ quan, phiến diện v́ nó liên quan đến một chính sách lớn của Đảng (phải nói là thật sự thành công). Chẳng hạn, chỉ nêu lên một trường hợp Phạm Ngọc Thảo, người được đồng chí Lê Duẩn giao trách nhiệm với danh nghĩa là người công giáo đi kháng chiến chống Pháp trở ra “hợp tác với quốc gia” để bằng mọi cách xây dựng được lực lượng chính trị quốc gia (cũng là lực lượng thứ ba, nếu có một Chính phủ quá độ ở miền Nam).”



    Với đoạn ngắn này, Vơ Văn Kiệt đă tiết lộ hai điểm chính:

    1.- Đảng CSVN đă cho h́nh thành tại miền Nam “lực lượng thứ ba” như một “lực lượng đối lập” (cuội) để yểm trợ cho các chủ trương của Đảng. Đây là một chính sách lớn.

    2.- Phạm Ngọc Thảo là một trong những cán bộ được chỉ định ở lại miền Nam sau Hiệp Định Genève để vận động h́nh thành “lực lượng thứ ba” đó.



    Bí mật về Phạm Ngọc Thảo là một bí mật đă gây nhiều tranh luận tại miền Nam Việt Nam trước cũng như sau 30.4.1975. Sau khi chiếm miền Nam, CSVN công khai xác nhận Phạm Ngọc Thảo là một điệp viên của họ và truy phong làm “liệt sĩ cách mạng” với hàm Đại Tá Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Các hoạt động t́nh báo của Phạm Ngọc Thảo được Hữu Nam viết thành bộ truyện dài mang tên “Ván bài lật ngữa” và được đóng thành phim, trong đó Phạm Ngọc Thảo mang tên Nguyễn Thành Luân. Nội dung tập truyện và cuốn phim mô tả Phạm Ngọc Thảo là một điệp viên siêu hạng, đă đóng vai tṛ quan trọng dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, làm cố vấn về chính sách quốc gia cho các nhân vật sau đây: Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt (cơ quan phản gián); Trần Kim Tuyến, Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xă Hội (cơ quan mật v&#7909...; Ngô Đ́nh Nhu, Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống và cả Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm! Phạm Ngọc Thảo được hỏi ư kiến về mọi vấn đề quan trọng. Nay Vơ Văn Kiệt đưa ra ánh sáng thêm một bí mật mới là Lê Duẫn đă ủy nhiệm Phạm Ngọc Thảo ở lại miền Nam để thành lập “lực lượng thứ ba”. Sự thật như thế nào?



    Trước khi tŕnh bày về vai tṛ thật sự của Phạm Ngọc Thảo, chúng tôi xin lược qua các “lực lượng thứ ba” đă được thành lập tại miền Nam Việt Nam để xem Phạm Ngọc Thảo có đóng vai tṛ ǵ trong các lực lượng đó hay không.


    “LỰC LƯỢNG THỨ BA” TẠI MIỀN NAM

    Chủ trương thành lập “lực lượng thứ ba” tại miền Nam của Đảng CSVN để khuynh đảo chính quyền miền Nam mà Vơ Văn Kiệt đă tiết lộ là chuyện có thể kiểm chứng được.



    Hiệp Định Genève vừa được kư kết vào ngày 20.7.1954 th́ ngày 10.8.1954 một tổ chức mệnh danh là Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh được thành lập gồm các nhân vật chính sau đây: Lưu Văn Lang (chủ tịch danh d&#7921..., Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đ́nh Thảo, Thích Huệ Quang, Nguyễn Văn Vi, Nguyễn Văn Liên, Phan Huy Thông, Trần Kim Quan, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Dưỡng, Nguyễn Văn Đệ, Từ Bá Dược, Lê Quang Định, Nguyễn Thành Châu, v.v. Phong trào đă ra mắt tại Sài G̣n ngày 29.8.1954 và đưa ra một bản tuyên ngôn đ̣i ngưng bắn vĩnh viễn, phóng thích tất cả các tù nhân chính tri, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện nhân sinh và tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tối.



    Ít hôm sau, Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh được thành lập tại Huế do Thượng Tọa Thích Trí Quang làm Chủ Tịch, gồm những nhân vật chính sau đây: Lê Khắc Quyến, Phạm Văn Huyến, Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Văn Đảng, Tôn Thất Dương Kỵ, v.v.



    Nhận ra đây là một tổ chức phản chiến của Việt Cộng được thành lập để chống lại các phong trào chống Cộng đang được phát động tại miền Nam, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă ra lệnh bắt tất cả các thành phần nồng cốt của Phong Trào gồm 26 người. Ngày 9.2.1955, tất cả 26 người này đă bị đưa ra Hải Pḥng và cho được tùy ư chọn hoặc ở lại miền Bắc hoặc trở lại miền Nam. Ngày 31.3.1954, có 5 người đă xin trở lại miền Nam. Riêng nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang ở Huế đă được ông Ngô Đ́nh Cẩn chiêu hồi. Sau đó, ông Cẩn kết nạp Thượng Tọa Thích Trí Quang vào Đảng Cần Lao để lănh đạo phong trào Phật Giáo miền Trung và giao cho các thành viên khác giữ các chức vụ quan trọng tại miền Trung.



    Chúng tôi không thấy Phạm Ngọc Thảo dính líu đến “lực lượng thứ ba” nói trên. Điều này cũng dễ hiều: Lúc đó vai vế của Phạm Ngọc Thảo c̣n quá nhỏ, nên Phạm Ngọc Thảo không đủ tầm vóc để đứng ra thành lập một phong trào như thế. Trong suốt thời gian ông Diệm cầm quyền, không “lực lượng thứ ba” nào khác dám xuất đầu lộ diện.



    Sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, các “lực lượng thứ ba” đă được tái lập nhiều lần tại miền Nam, mang những tên khác nhau, và nấp dưới danh nghĩa phong trào Phật Giáo để hoạt động. Đầu năm 1965, các phong trào sau đây đă xuất hiện: Ủy Ban Vận Động Ḥa B́nh, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh Hạnh Phúc Dân Tộc, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh..., Hai tổ chức hoạt động mạnh nhất là Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thượng Tọa Thích Trí Quang và Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh Hạnh Phúc Dân Tộc của Thượng Tọa Thích Quảng Liên.



    Cuối tháng 2 và đầu tháng 3 năm 1965, khoảng 40 thành phần ṇng cốt của các phong trào nói trên đă bị bắt. Ngày 19.3.1965, ba người bị chính phủ Phan Huy Quát trục xuất ra Bắc là Bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và kư giả Cao Minh Chiếm. Sau khi chính phủ Nguyễn Cao Kỳ được thành lập, một số khác đă bị đưa ra Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử ngày 2.8.1965, trong đó có 3 người bị phạt khổ sai hữu hạn, nhưng hai Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Quảng Liên không hề bị truy tố!



    Ngày 27.1.1973, khi hiệp định Paris vừa kư kết, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đă ra thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc và giao cho Luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ Tịch. Mục tiêu của tổ chức này là quy tụ các thành phần thân cộng để đưa vào Hội Đồng Quốc Gia Ḥa Giải Ḥa Hợp được dự liệu trong Hiệp Định Paris, giúp Cộng Sản nắm đa số trong Hội Đồng này. Nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chống lại việc thành lập Hội Đồng đó nên Lực Lượng quay lại tố cáo Việt Nam Cộng Ḥa hiếu chiến và lên tiếng đ̣i ḥa b́nh!



    Năm 1964 Phạm Ngọc Thảo đang làm tùy viên văn hóa ở Mỹ. Đầu năm 1965 Phạm Ngọc Thảo lén về nước lo việc tổ chức đảo chánh rồi sau đó bị hạ sát nên không can dự vào các “lực lượng thứ ba” nói trên. Vậy Phạm Ngọc Thảo đă làm ǵ?



    VÀI NÉT VỀ PHẠM NGỌC THẢO

    Phạm Ngọc Thảo, có tên Pháp là Albert Thảo, sinh ngày 14.2.1922 tại Sài G̣n, nguyên quán Vĩnh Long, con một điền chủ có quốc tịch Pháp và thuộc một gia đ́nh Công Giáo thuần thành. Thảo là con thứ 8 trong gia đ́nh nên thường được gọi là “Chín Thảo”.



    Lúc nhỏ Thảo học trường Chasseloup Laubat (có tài liệu nói học trường Tabert), đậu Tú Tài và đi học công chánh. Thảo chưa tốt nghiệp th́ xẩy ra Cách Mạng Tháng 8. Lúc đó anh ruột của Thảo là Gaston Phạm Ngọc Thuần ở Vĩnh Long đă đi theo Việt Minh ngay và được giữ những chức vụ khá quan trọng. Thảo đang ở Sài G̣n được tin Thuần theo kháng chiến, đă về Vĩnh Long theo anh. Trên đường về, Thảo bị dân quân của Việt Minh bắt hai lần và suưt bị giết. Chính Gaston Thuần đă giới thiệu Thảo gia nhập Tiểu Đoàn 404 thuộc Trung Đoàn Chủ Lực Tây Đô. Về sau, Thảo là Tiểu Đoàn Trưởng tiểu đoàn này.



    Trong thới gian Phạm Ngọc Thảo làm Tiểu Đoàn Trưởng, nhóm Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... cũng đă vào chiến khu tham gia kháng chiến. Tướng Nguyễn Khánh cho biết nhóm ông đă gặp Phạm Ngọc Thảo và được Phạm Ngọc Thảo hướng dẫn về chiến tranh du kích. Tuy nhiên, nhóm này không được Việt Minh trọng dụng. V́ thế, khi được tin Pháp trở lại Đông Dương, nhóm này đă trở ra hợp tác với Pháp và được Tướng Leclerc, Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chính Pháp kết nạn.



    Thấy Thảo có khả năng, Phạm Hùng đưa Thảo về làm Trưởng Pḥng Mật Vụ Nam Bộ dưới quyền điều khiển của Phạm Hùng và giao cho Thảo liên lạc với Lương Vũ để mua vũ khí.



    Lương Vũ là một gián điệp của Trung Hoa Dân Quốc đă hợp tác với Nhật làm gián điệp nhị trùng. Lương Vũ đă cùng với Trung Sĩ Kempeitai Mochizuki, một điệp viên của Nhật, hoạt động tại miền Nam Việt Nam lúc đó.



    Lúc ở trong chiến khu, Phạm Ngọc Thảo đă lấy bà Phạm Thị Nhiệm, em ruột của giáo sư Phạm Thiều, Đại Sứ Hà Nội tại Nam Vang (1956 – 1967) và Tiệp Khắc. Thảo có 7 con và vợ Thảo đi dạy học. Vợ và con Thảo hiện đang ở Hoa Kỳ. Tất cả các con của Thảo đều học hành thành tài (có người con là bác sĩ, đang ở Orange County).



    Từ năm 1952 đến 1954, Thảo trở ra làm Trung Đoàn Trưởng ở chiến trường Tây Nam Bộ.


    TRỞ LẠI VÙNG QUỐC GIA

    Sau hiệp định Genève, Thảo không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam. C̣n Gaston Thuần đă tập kết ra Bắc và về sau được cử làm Đại Sứ Hà Nội tại Đông Đức.



    Trong bức thư gởi Nguyễn Khoa Điềm, Vơ Văn Kiệt cho biết chính Lê Duẩn đă chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo ở lại nằm vùng để h́nh thành “lực lượng thứ ba”. Nếu đúng như vậy th́ Phạm Ngọc Thảo đă không hoàn thành được sứ mạng giao phó.



    Lúc đó, những người đă tham gia phong trào Việt Minh muốn ở lại miền Nam phải ra khai báo và được cấp chứng nhận, nhưng Phạm Ngọc Thảo đă tự động về Sài G̣n xin đi dạy học sinh sống mà không chịu ra khai báo. Do đó, Đại Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, đă ra lệnh t́m bắt Phạm Ngọc Thảo. Thảo phải xuống Vĩnh Long nhờ Đức Giám Mục Ngô Đ́nh Thục che chở.



    Đức Giám Mục Thục quen biết gia đ́nh Thảo từ lâu. Trong gia đ́nh Thảo chỉ có hai người đi theo Việt Minh là Thuần và Thảo, c̣n những người khác đều ở lại và giữ đạo rất đàng hoàng. Do đó, khi thấy Thảo quay trở về, Đức Giám Mục Thục đă bảo lănh cho Thảo và cho dạy học ở Trường Nguyễn Tường Tộ, Vĩnh Long, do Linh mục Nguyễn Văn Quang làm Hiệu Trưởng.



    Thấy Thảo có học vấn khá, Đức Giám Mục Thục đă giới thiệu Thảo với ông Nhu. Ông Nhu bảo cho Thảo lên tạm làm việc tại Viện Hối Đoái. Cuối năm 1955, Thảo lên Sài G̣n t́m gặp ông Huỳnh Văn Lang, Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái với giấy giới thiệu của Đức Giám Mục Thục như sau: “Giới thiệu thầy anh Phạm Ngọc Thảo, người C.G. hồi chánh. Thầy nên giúp anh một việc làm để sinh sống.” Sau khi hỏi qua học lực, Huỳnh Văn Lang quyết định cho Thảo làm việc ở Sở Tài Chánh do ông Trần Xuân Minh làm Chánh Sự Vụ, lương mỗi tháng khoảng 10.000$. Thảo được giao cho trông coi pḥng đổi bạc. Thảo xin đi học luật. Ông Huỳnh Văn Lang đă sắp xếp giờ cho Thảo đi học.



    Lúc đó ông Huỳnh Văn Lang đang làm Bí Thư Liên Kỳ Bộ Nam Bắc Việt của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái nên rất có thế lực. Ông Nhu muốn giao Phạm Ngọc Thảo cho Huỳnh Văn Lang để Huỳnh Văn Lang theo dơi.



    Khoảng tháng 5 năm 1956, Trung Tâm Nhân Vị tại Vĩnh Long mở khóa huấn luyện về Nhân Vị, Huỳnh Văn Lang đă phái Trần Văn Trị và Phạm Ngọc Thảo đi tham dự. Sau khi học khóa này, Trần Văn Trị đă giới thiệu Phạm Ngọc Thảo vào Đảng Cần Lao. Trần Văn Trị lúc đó là Trưởng Ban Tổ Chức của Liên Kỳ Bộ Nam Bắc Việt.



    Vào tháng Tháng 10 năm 1956, Thảo được tham dự khóa Khóa ... huấn luyện đảng viên Cần Lao của Nam Kỳ tại trường Taberd và được tuyên thệ gia nhập Đảng Cần Lao dưới sự bảo trợ của Trần Văn Trị và Dương Chí Sanh.



    Mặc dầu Đảng Cần Lao đă có Quân Ủy Trung Ương, Huỳnh Văn Lang muốn thành lập một tổ quân sự riêng để làm vây cánh cho ḿnh. Ông đă quy tụ được những sĩ quan sau đây: Đại Tá Nguyễn Quang Sanh, Tư Lệnh Hiến Binh; Trung Tá Nguyễn Hữu Phước, Giám Đốc Bảo An – Dân Vệ; Trung Tá Trần Thiện Khiêm, Trung Tá Trần Văn Hổ, Thiếu Tá Nguyễn Văn Hiệu.



    Biết Thảo đă từng làm Trung Đoàn Trưởng nên Huỳnh Văn Lang giao cho Thảo phụ trách tiểu tổ quân sự nói trên, có nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên.



    Tháng 1 năm 1957, một nhóm trí thức gồm Hoàng Minh Tuynh, Bùi Văn Thịnh, Phan Lạc Tuyên đă cộng tác với Huỳnh Văn Lang cho xuất bản bán nguyệt san Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang làm chủ nhiệm. Phạm Ngọc Thảo cũng có tên trong ban biên tập của tạp chí này.



    Về sau, v́ có sự xích mích giữa nhóm Nam của Huỳnh Văn Lang và nhóm Bắc của Luật sư Trần Văn Trai và Hà Đức Minh, và có nhiều vụ kinh tài bất hợp pháp, ông Diệm đă ra lệnh giải tán Liên Kỳ Bộ Nam Bắc Việt.



    Biết Thảo có nhiều kinh nghiệm về quân sự, ông Nhu quyết định đưa Thảo về Bộ Quóc Pḥng, cho mang lon Đại Úy đồng hóa rồi đưa đi làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long. Sau khi làm việc ở Vĩnh Long thành công, đầu năm 1959 Thảo được đưa về làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An B́nh Dương.



    Đầu năm 1960, ông Diệm quyết định lập Khu Trù Mật và đưa một số sĩ quan Bảo An về làm Công Cán Ủy Viên đặc trách về Khu Trù Mật, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống. Phạm Ngọc Thảo cũng là một trong những sĩ quan được giao cho chức vụ này. Khi làm việc, Thảo đă đưa ra nhiều sáng kiến được hoan nghinh. Thảo được cho đi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Đại Học Quân Sự Đà Lạt. Măn khóa, Thảo được cử làm Thanh Tra Khu Trù Mật. Để Thảo có uy tín khi đi đôn đốc và kiểm tra, ông Diệm đă cho Thảo thăng lên Thiếu Tá.



    Ngày 17.1.1960, Việt Cộng đă cho phát động phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre do Nguyễn Thị Định chỉ huy để khởi đầu chiến dịch xâm chiếm miền Nam. Từ đó, t́nh h́nh an ninh ở Bến Tre trở nên nghiêm trọng. Cộng quân quấy phá khắp nơi. Để b́nh định tỉnh Bến Tre, ông Ngô Đ́nh Nhu quyết định đưa Phạm Ngọc Thảo, một người đă từng chỉ huy du kích Việt Minh, xuống làm Tỉnh Trưởng Kiến Ḥa (tức Bến Tre) để xem Thảo hành động như thế nào.



    Đầu năm 1961, Thảo được thăng lên Trung Tá và được cử làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Kiến Ḥa để trắc nghiệm và cho nhân viên t́nh báo theo dơi rất sát. Trong thời gian Thảo làm tỉnh trưởng, t́nh h́nh an ninh tại vùng này trở nên rất tốt.



    Trong cuốn “A Viet Cong Memor”, Trương Như Tảng, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam (MTGPMN), cho biết Abert Thảo là bạn thân của ông ta lúc c̣n nhỏ, nên trong thời gian Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Ḥa, ông đă ghé thăm Thảo nhiều lần. Ông ta thấy t́nh h́nh rất yên ổn, không c̣n bị phục kích hay phá hoại nữa. Mấy năm sau, ông được tin có những báo cáo nói rằng đă có những thỏa thuận ngầm giữa du kích và Thảo: du kích để cho t́nh h́nh yên ổn c̣n Thảo dành cho du kích dùng Bến Tre làm nơi nghĩ ngơi và chuẩn bị tấn công những nơi khác. Ông nói ông không biết chuyện đó có đúng hay không, nhưng việc làm cho Bến Tre thành một khu vực yên tĩnh đă làm tăng uy tín của Thảo. Thảo được că cố vấn Mỹ lẫn ông Diệm khen ngợi. (tr. 49).



    Tuy nhiên, ông Diệm và ông Nhu đă nhận được nhiều thư tố cáo Phạm Ngọc Thảo là cán bộ cộng sản nằm vùng. Tướng Huỳnh Văn Cao đă vào gặp ông Nhu tŕnh bày các tin tức và tài liệu liên hệ đến vụ này. Nhưng ông Huỳnh Văn Lang đă đứng ra bênh vực cho Thảo. Ông vào gặp ông Nhu tŕnh rằng những tố cáo của nhóm Huỳnh Văn Cao chỉ là vu khống v́ ghen ghét. Ông biết Phạm Ngọc Thảo không hề hoạt động cho Việt Cộng.



    Theo ông Trần Kim Tuyến, mặc dầu có tố cáo, ông Nhu vẫn tiếp tục dùng Thảo nhưng cho lệnh theo dơi rất kỹ và không bao giờ giao cho Thảo một chức vụ ǵ liên quan đến bí mật quốc gia hay quốc pḥng. Nhưng v́ có quá nhiều sự tố cáo, ông Diệm đă ngưng chức Tỉnh Trưởng Kiến Ḥa của Thảo và cho qua Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham hưu như hầu hết các sĩ quan cấp tá khác. Sau khi Thảo đi, Bến Tre mất an ninh trở lại.



    Ngày 3.2.1962, Tổng Thống Diệm kư Nghị Định số 11-TTP tuyên bố quốc sách Ấp Chiến Lược. Ủy Ban Liên Bộ Đặc Trách Ấp Chiến Lược được thành lập do ông Ngô Đ́nh Nhu làm Chủ Tịch. Ngày 23.3.1962, Phạm Ngọc Thảo vừa đi Mỹ về, đă được cử làm Thanh Tra Ấp Chiến Lược.


    ÂM MƯU LẬT ĐỔ ÔNG DIỆM?

    Đọc bộ “Foreign Relations of the United States” năm 1963 của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, chúng ta thấy có rất nhiều văn kiện của CIA và chính Đại Sứ Cabot Lodge nói về âm mưu đảo chánh lật đổ ông Diệm của Trần Kim Tuyến và Phạm Ngọc Thảo, nhưng việc kiểm chứng rất khó khăn. Chưa một nhân chứng nào xác nhận điều đó. Trong những cuộc nói chuyện riêng tư, ông Tuyến nói ông không hề âm mưu lật đổ ông Diệm, ông chỉ đề nghị thay đổi mà thôi.



    Chúng ta chỉ được biết sau cuộc đảo chánh bất thành ngày 11.11.1960 của nhóm Vương Văn Đông, cơ quan CIA đă móc nối với ông Trần Kim Tuyến để t́m cách loại ông Nhu ra khỏi chính quyền. Ông Cao Xuân Vĩ cho biết vào cuối năm 1960, theo ư kiến của một số viên chức CIA, ông Tuyến có làm một tờ tŕnh dài khoảng 20 trang, trong đó phân tích t́nh h́nh, đề nghị ông Nhu nên đi ra ngoại quốc một thời gian, thành lập thêm chức Thủ Tướng để đảm nhận công việc hành chánh. Đây là ư kiến của các cố vấn Mỹ. Nhưng ông Tuyến không dám tŕnh ông Nhu mà nhờ ông Cao Xuân Vĩ tŕnh giúp. Theo ông Vĩ, người Mỹ hứa nếu ông Nhu đi ngoại quốc, ông Tuyến sẽ thay chỗ ông Nhu và bà Tuyến thay chỗ bà Nhu. Ông Nhu đă đọc và không có ư kiến ǵ.



    Trong cuốn “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Đỗ Mậu cho biết vào đầu tháng 9 năm 1963, Phạm Ngọc Thảo có đến gặp ông và mời ông tham gia một cuộc đảo chánh của Bác sĩ Trần Kim Tuyến và Thảo là đại diện. Theo Thảo, Bác sĩ Tuyến chỉ là lănh đạo tinh thần v́ đang sửa soạn đi nhận chức Tổng Lănh Sự Ai Cập nên không muốn tiếp xúc với ai. Thảo cho biết đă kết nạp được một số đơn vị Biệt Động Quân và Bảo An, và nhiều sĩ quan ở Quân Đoàn 3 và Quân Đoàn 4. Tướng Khiêm đă nhận đỡ đầu cho Thảo. Đỗ Mậu c̣n nghi ngờ Thảo nên trả lời: “Các anh muốn làm ǵ th́ làm, tôi không chống các anh và cũng không phản cụ Diệm.” (tr. 613 – 615).



    Mọi cuộc họp giữa ông Tuyến và nhân viên CIA tại nhà hàng La Cigale, ông Nhu đều biết hết. Nhưng ông Nhu tin rằng ông Tuyến và Phạm Ngọc Thảo không thể làm đảo chánh được v́ không có quân. Ông đă nắm Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, không ai có thể đảo chính được.



    Để chấm dứt âm mưu giữa CIA với Trần Kim Tuyến và Phạm Ngọc Thảo, ngày 5.9.1963, Tổng Thống Diệm đă kư Sắc Lệnh thành lập Ṭa Tổng Lănh Sự VNCH tại Le Caire, Ai Cập. Ngày 6.9.1963, Trần Kim Tuyến được cử làm Tổng Lănh Sự tại Le Caire. Nhưng một thảm họa đă xẩy ra.



    Để ngăn chận đảo chánh, theo sự phân công, ông Nhu nắm cấp Sư Đoàn, c̣n ông Tuyến nắm cấp Trung Đoàn. Khi có sự di chuyển của các đơn vị quanh Sài G̣n, các mật báo viên trong các đơn vị nói trên phải báo cáo cho ông Nhu và ông Tuyến biết. Ông Tuyến nắm trong tay danh sách các mật báo viên cấp trung đoàn quanh Sài G̣n.



    Ông Cao Xuân Vĩ cho biết, trước khi ông Tuyến ra đi, ông Nhu bảo ông Tuyến giao danh sách đó lại cho ông Vĩ, nhưng ông Vĩ không nhận v́ ông không biết về quân sự. Ông Nhu bảo giao cho Thiếu Tá Phạm Thư Đường, Chánh Văn Pḥng của ông Nhu, nhưng ông Đường từ chối v́ bận quá nhiều việc. Cuối cùng, ông Tuyến đă giao danh sách đó cho Phạm Ngọc Thảo! Ngay sau đó, Phạm Ngọc Thảo đă giao danh sách này cho CIA. CIA liền báo cho Tướng Trần Thiện Khiêm và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu biết. Hai người này đă cho di chuyễn các mật báo viên của ông Nhu ra khỏi đơn vị trước đảo chánh hai ngày, nên mọi liên lạc đều bị cắt!



    Đọc các báo cáo ngày 1.6.1963, 8.7.1963, 30.8.1963, 31.8.1963, 8.9.1963, 24.10.1963... chúng ta đều thấy CIA báo cáo hay loan tin Trần Kim Tuyến và Phạm Ngọc Thảo âm mưu đảo chánh hay đảo chánh bất thành! Nhưng các nhà phân tích cho rằng các tin tức đó được loan ra chỉ để đánh lạc hướng ông Nhu. Ông Nhu thường hỏi: “Chúng nó lấy lực lượng ở mô mà làm đảo chánh?”



    Trong thực tế, người được CIA giao cho chỉ huy cuộc đảo chánh là Tướng Trần Thiện Khiêm và lực lượng đảo chánh là Sư Đoàn 5 của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu. Điều sai lầm của ông Nhu là vẫn tin tưởng ở Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu! Ông Cao Xuân Vĩ cho biết cho đến 10 giờ 30 sáng 1.11.1963, khi lực lượng đảo chánh đă chuyển quân, Nguyễn Văn Thiệu c̣n giả vờ vào gặp ông Nhu hỏi về t́nh h́nh. Khi tin đảo chánh vừa xẩy ra, ông Nhu đă điện thoại hỏi Trần Thiện Khiêm th́ mới biết sự thật phủ phàng.



    Sau đảo chánh ngày 1.11.1963, Phạm Ngọc Thảo được thăng lên Đại Tá và làm Tùy Viên Báo Chí cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, sau đó Thảo được cử làm Tùy Viên Văn Hóa tại Ṭa Đại Sứ VN ở Washington.


    PHẠM NGỌC THẢO LÀM ĐẢO CHÁNH

    Ông Cao Xuân Vĩ cho biết năm 1967, khi ông vừa ra khỏi tù, Tướng Trần Thiện Khiêm đă gọi ông đến và thanh minh rằng ông ta không chủ trương giết ông Diệm và ông Nhu, ông chỉ muốn đưa hai ông ra ngoại quốc mà thôi. Người ra lệnh giết là Tướng Dương Văn Minh. Ông cũng tiết lộ rằng năm 1965, chính ông đă bảo Phạm Ngọc Thảo về làm đảo chánh lật đổ Tướng Khánk.



    Tưởng cần nhắc lại rằng ngày 30.1.1964, Tướng Khiêm và Tướng Khánh đă làm “chỉnh lư”, bắt các tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân. Theo sự sắp xếp của CIA, Nguyễn Khánh sẽ làm Quốc Trưởng c̣n Trần Thiện Khiêm làm Thủ Tướng. Nhưng Tướng Khánh cho rằng làm Quốc Trưởng chỉ là bù nh́n, nên ông đảo ngược thế cờ, làm Quốc Trưởng kiêm luôn Thủ Tướng, sau đó đưa hai Tướng Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm đi lưu vong ở ngoại quốc. Tướng Khiêm được cho qua làm Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ.



    Sự lộng hành của Tướng Khánh đă tạo nên những rối loại liên tục. Ngày 13.9.1964, hai tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát, với sự yểm trợ của nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn, đă tổ chức đảo chánh nhưng thất bại. Ngày 15.9.1964, Tướng Đức tuyên bố chỉ “biểu dương lực lượng” để cứu văn uy tín cho chính quyền chứ không đảo chánh.



    Tướng Khánh có nói với Tướng Đôn rằng khi Phạm Ngọc Thảo rời Hoa Thịnh Đốn về Việt Nam th́ Ṭa Đại Sứ VN tại Washington không cho hay. Khi Thảo đến Hồng Kông nghỉ một đêm, Lănh sự VN ở Hồng Kông mới đánh điện tín báo tin cho ông biết, nhưng hôm đó là ngày lễ nên hôm sau công điện đó mới được tŕnh cho ông biết th́ Thảo đă đến Sài G̣n và biến mất rồi.

    Lúc đó tôi thấy Phạm Ngọc Thảo đă kết hợp với Tướng Lâm Văn Phát và ông Nguyễn Bảo Kiếm (giáo sư Anh văn) đi vận động tổ chức đảo chánh lật đổ Tướng Khánh một cách công khai, nhưng chẳng cơ quan nào theo dơi cả!



    Lúc 12 giờ 30 ngày 19.2.1965, Tướng Lâm Văn Phát và Phạm Ngọc Thảo đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài Phát Thanh Sài G̣n, Bến Bạch Đằng và phi trường Tân Sơn Nhứt. Trong khi đó, Nguyễn Bảo Kiếm dẫn một tổ chức gọi Lực Lượng Bảo Vệ Dân Tộc đi biểu t́nh chống Nguyễn Khánh.



    Khi cuộc đảo chánh xẩy ra, Tướng Khánh đang ở trong Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Khánh liền qua Bộ Tư Lệnh Không Quân nhờ Tướng Nguyễn Cao Kỳ cho máy bay chạy thoát. V́ xe tăng đă chiếm phi trường, Tướng Khánh phải cho cắt hàng rào kẻm gai, chiu vào phi đạo, lên phi cơ ra Vũng Tàu.



    Chiều hôm đó, các tướng họp ở Bộ Tư Lệnh Không Quân Tân Sơn Nhứt, sau đó bay xuống phi trường Biên Ḥa.

    Ngày 20.2.1965, Tướng Khánh bay xuống Cần Thơ rồi qua đài phát thanh Ba Xuyên ra lệnh cho các lực lượng chiếm đống trở về đơn vị.



    Tướng Nguyễn Chánh Thi cho biết chiều 19.2.1965, lúc ông đang ở Vùng I, Đại Sứ Maxwell Taylor đă gọi cho ông và yêu cầu vào Biên Ḥa họp với các tướng lănh ngay. Ông đến Biên Ḥa lúc 6 giờ 45 sáng 20.2.1965. Tướng Khánh cũng bay đến đó với vẽ mặt tiền tụy. Sau một hồi thảo luận không đi tới đâu, Tướng Khánh lại ra đi. Các Tướng cử Tướng Thi làm Tư Lệnh Lực Lượng Giải Phóng Thủ Đô. Ông liền ra lệnh cho Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và 13 sĩ quan khác phải ra tŕnh diện trong 24 tiếng đồng hồ. Tướng Phát và Phạm Ngọc Thảo muốn lên Biên Ḥa gặp các tướng lănh và tŕnh bày rằng họ chỉ muốn loại Tướng Khánh chứ không cố ư đảo chánh.



    Ngày 21.2.1965, các tướng lại họp tại Biên Ḥa, quyết định giải nhiệm Tướng Khánh và cử Tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH. Tướng Thi được các tướng ủy nhiệm đến Dinh Gia Long gặp Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, yêu cầu kư Sắc Lệnh bải nhiệm Tướng Khánh. Ông Sửu chần chờ và hẹn đến ngày mai. Nhưng Tướng Thi yêu cầu ông Sửu kư ngay để Tướng Thiệu và Thủ Tướng Phan Huy Quát cùng kư. Tướng Thi nói nếu để châm, Tướng Khánh có thể bày những tṛ nguy hiểm, nên ông Sửu đành phải kư.



    Ngày 22.2.1965, ông Sửu kư Sắc Lệnh số 046/QT/SL bổ nhiêm Tướng Nguyễn Khánh làm Đại Sứ Lưu Động. Ngày 25.2.1965, Tướng Khánh được tặng Nhất Hạng Kim Khánh Bội Tinh, sau đó rời Việt Nam, tay cầm một nắm đất và hứa sẽ về. Nghe tin trên, Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn Bảo Kiếm đă bỏ trốn.


    PHẠM NGỌC THẢO CHẾT THÊ THẢM

    Ngày 11.6.1965, Quốc Trưởng Pham Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả lại Quân Đội quyền lănh đạo quốc gia.



    Lúc đó tôi nghe nói có 4 tướng có thể được Mỹ chọn làm Quốc Trưởng thay Tướng Khánh, đó là các tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Cao Kỳ và Đề Đốc Chung Tấn Cang. Cuối cùng, Ṭa Đại Sứ Mỹ đă chọn Tướng Thiệu.



    Ngày 14.6.1965, Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia đă được thành lập do Tướng Thiệu làm Chủ Tịch, Tướng Chiểu làm Tổng Thư Kư và Tướng Kỳ làm Ủy Viên Hành Pháp. Ngày 19.6.1965, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tức chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, ra mắt quốc dân.



    Sau khi nhận chức, công việc của Tướng Thiệu là phải t́m bắt và giết Phạm Ngọc Thảo để trừ hậu họa. Phạm Ngọc Thảo đă đi trốn nhiều nơi, nhưng cuối cùng đến trốn trong Đan Viện Phước Lư ở xă Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Biên Ḥa, nhưng cơ quan an ninh không hay biết.



    Có nhiều ngồn tin cho biết Linh mục Trần Ngọc Nhuận, chánh xứ nhà thờ Phát Diệm ở số 485 đường Vơ Di Nguy (nay là Nguyễn Kiệm) Phú Nhận, biết rơ Phạm Ngọc Thảo đang trốn ở đâu.



    Thấy Linh mục Nhuận đang làm nhà thờ Phát Diệm, Tướng Thiệu cho người đến đề nghị giúp ngài một số vật liệu để hoàn tất công tŕnh xây cất, đồng thời mời Linh mục Nhận làm cố vấn cho Tướng Thiệu và cử một đại úy đến đặt một đài truyền tin ở nhà Linh mục Nhuận để ông có thể nói chuyện với Tướng Thiệu bất cứ lúc nào. Ở cạnh cha Nhuận để coi sóc đài truyền tin, viên đại úy này khen Phạm Ngọc Thảo giỏi và nói Tướng Thiệu đang nhờ người đi t́m Phạm Ngọc Thảo về làm cố vấn. Linh mục Nhuận tưởng thật, đă tiết lộ nơi Phạm Ngọc Thảo đang ẩn núp.



    Viên đại úy liền qua Đan Viện Phước Lư thăm ḍ. Thấy có người đến hỏi, Phạm Ngọc Thảo biết là đă bị động nên tŕnh Linh mục Đan Viện Trưởng rằng ở Đan Viện Phức Lư không c̣n an toàn nữa. Thảo xin rời Phước Lư sáng sớm hôm sau.



    Khoảng 3 giờ sáng ngày 16.7.19.1965, Thảo vừa ra khỏi Đan Viện Phước Lư th́ bị An Ninh Quân Đội mai phục sẵn bắt bỏ lên xe, trói tay và bịt mắt lại rồi đưa về Tam Hiệp ở Biên Ḥa, đến cạnh một cái suối nhỏ, xô xuống và bắn. Người bắn nhắm vào mang tang, thấy Thảo ngả xuống, tưởng là Thảo đă chết rồi nên bỏ đi. Không ngờ viên đạn chỉ trúng cằm. Lúc gần sáng, có người đi qua, nghe tiếng rên, đă đến xem. Thảo lấy cây que viết lên đất: “Phanxicô cần gặp gấp một linh mục”. V́ lúc đó các linh mục ở Tam Hiệp đă đi cấm pḥng, nên người này chạy đến Ḍng Nữ Tu Đa Minh Tam Hiệp gần đó, (ở số 134/4 Khu Phố 5, Phường Tam Hiệp, Biên Ḥa) báo tin cho Linh mục tuyên úy của Ḍng biết. Linh mục này liền cho lấy một chiếc xe Lambretta ra chở về băng bó và biết đó là Phạm Ngọc Thảo!



    Lúc trời sáng hẵn, An Ninh Quân Đội đến t́m xác Thảo th́ không có. Họ hỏi những người xung quanh th́ được biết có xe đă đến chở Thảo vào Ḍng Nữ Tu Đa Minh rồi. Họ liền đến nhà ḍng xin lănh Thảo, nhưng linh mục tuyên úy không cho. Khi các nhân viên an ninh xuất tŕnh lệnh bắt Thảo, linh mục phải cho nhưng dặt điều kiện không được giết thảo. Nhân viên an ninh đồng ư.



    Một nguồn tin nói rằng khi về Nha An Ninh Quân Đội, Phạm Ngọc Thảo đă bị Hùng Xùi bóp dế chết. Hùng Xùi đă cải chính tin này.



    Tướng Nguyễn Ngọc Loan kể lại với báo chí rằng khi Phạm Ngọc Thảo được đưa về Nha An Ninh Quân Đội, ông đă cho gọi Bác Sĩ đến cứu chữa, nhưng máu đă ra quá nhiều, không cứu chửa được nữa. Lúc 1 giờ 30 sáng 17.7.1965 Phạm Ngọc Thảo đă từ trần, hưởng dương 43 tuổi.



    Cho đến nay, không ai biết rơ sự thật về cái chết của Phạm Ngọc Thảo. Giết được Phạm Ngọc Thảo, viên đại úy âm thầm gở máy truyền tin ở nhà xứ Phát Diệm và đi mất.



    Các nhà phân tích cho rằng Phạm Ngọc Thảo là gián điệp ba mang: Vừa làm t́nh báo cho Việt Cộng, vừa làm t́nh báo cho VNCH và vừa làm t́nh báo cho Mỹ, nhưng những tin tức Phạm Ngọc Thảo thu được không có ǵ quan trọng v́ các cơ quan đă đề pḥng cẩn thận rồi. Phạm Ngọc Thảo cũng không hề làm cố vấn về chính sách cho ông Diệm hay ông Nhu như cuốn “Ván Bài Lật Ngữa” đă mô tả. Phạm Ngọc Thảo cũng không hề vận động thành lập “lực lượng thứ ba” như Vơ Văn Kiệt đă tiết lộ.



    Nói chung, tất cả những điệp viên được Hà Nội đưa ra kheo khoang như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Tướng Ba Quốc hay Phạm Ngọc Thảo đều là những điệp viên hạng cắc ké. Sở dĩ Hà Nội đưa những tên này ra tŕnh diễn là để che đây những thất bại nghiêm trọng về t́nh báo của họ khiến các điệp viên cao cấp nhất của họ như Trần Quốc Hương hay Đại Tá Lê Câu đă bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt tóm gọn. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác.


    Tú Gàn
    Last edited by alamit; 07-05-2012 at 09:46 AM.

  9. #49
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản

    Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
    Phạm Xuân Ẩn




    Phạm Xuân Ẩn (12 tháng 9 năm 1927 - 20 tháng 9 năm 2006) là một thiếu tướng t́nh báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam với biệt danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Ông từng là nhà báo và phóng viên cho Reuters, tạp chí TIME, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor... Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 15 tháng 1 năm 1976.

    Thân thế

    Phạm Xuân Ẩn sinh năm 1927 tại xă B́nh Trước, Biên Ḥa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đ́nh một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Quê gốc của ông tại Hải Dương. Gia đ́nh ông chuyển đến sống tại Huế khi cụ nội của ông là nghệ nhân kim hoàn được gọi vào Kinh đô để chế tác đồ vàng bạc cho triều đ́nh. Ông nội của Phạm Xuân Ẩn là hiệu trưởng một trường nữ sinh ở Huế, đă được Vua ban Kim khánh. Cha của ông là một kỹ sư công chánh cao cấp tại Sở Công chánh, làm công tác trắc địa trên khắp miền Nam. Ông được sinh tại Nhà thương Biên Ḥa, do chính các bác sĩ Pháp đỡ đẻ. Tuy là một viên chức cao cấp, nhưng cha của ông không nhập quốc tịch Pháp.
    Thời niên thiếu và thanh niên

    Thời niên thiếu, ông sống tại Sài G̣n, sau chuyển về Cần Thơ học trường Collège de Can Tho.

    Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông bỏ học và tham gia tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau đó học một khóa huấn luyện của Việt Minh về công tác tuyên truyền.

    Hoạt động t́nh báo


    Ảnh thẻ Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, cấp năm 1965

    Năm 1947, ông trở về Sài G̣n để chăm sóc thân phụ đang bệnh nặng. Tại đây, ông tổ chức các cuộc biểu t́nh của sinh viên Sài G̣n, đầu tiên là chống Pháp rồi sau chống Mỹ. Ông làm Thư kư cho Công ty Dầu lửa Caltex cho đến năm 1950.

    Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài G̣n. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao nhiệm vụ t́m hiểu t́nh h́nh vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự và quân đội từ Pháp sang Việt Nam và từ Việt Nam về Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động t́nh báo đầu tiên của ông, một trong khoảng 14 ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động tại miền Nam Việt Nam. [1] Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ t́nh báo chiến lược.

    Năm 1953 tại rạch Cái Bát, Cà Mau trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ (khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam), Phạm Xuân Ẩn được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Năm 1954 Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay làm bí thư pḥng Chiến tranh tâm lư trong Bộ Tổng hành dinh quân đội Liên hiệp Pháp tại Camp Aux Mares (thành Ô Ma). Chính tại đây, ông đă quen biết với Đại tá Edward Lansdale, Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế là người chỉ huy CIA tại Đông Dương cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) ở Sài G̣n. Theo hồi ức của một số tướng lĩnh miền Nam Việt Nam, chẳng hạn như trong tư liệu Hồi kí Đỗ Mậu của Đỗ Mậu, nguyên trưởng cơ quan t́nh báo của miền Nam Việt Nam, th́ Edward Landsdale là người trực tiếp vạch kế hoạch cũng như chủ tŕ việc thực hiện các công tác chủ yếu nhằm tạo uy tín, chỗ đứng cho Ngô Đ́nh Diệm trong thời ḱ giữa thập niên 50. Khi nhận thấy mức độ khó khăn cũng như khối lượng công việc phải làm quá lớn, Ngô Đ́nh Diệm có ư định từ bỏ chức Thủ tướng, chính Landsdale là người cố vấn cho Diệm không quyết định như vậy.

    Năm 1955 theo đề nghị của phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (lúc này đă chính thức thay Pháp đứng ra huấn luyện và xây dựng Quân lực Việt Nam Cộng ḥa), Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo các tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Đặc biệt ông cũng tham gia thành lập bộ khung của 6 sư đoàn bộ binh đầu tiên của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa mà ṇng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính người Việt trong quân đội liên hiệp Pháp trước đây.

    Phạm Xuân Ẩn c̣n được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo (trong số này có Nguyễn Văn Thiệu, sau này trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa).

    Trong công tác t́nh báo, để có thể đi khắp nơi và tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất, tháng 10 năm 1957, theo sự chỉ đạo của Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương) Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ học ngành báo chí.

    Tháng 10 năm 1959, Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, ông được Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Văn hóa Xă hội (thực chất là cơ quan mật vụ trực thuộc Phủ Tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt tấn xă phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc tại đây.

    Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, ông làm cho Hăng thông tấn Reuters.

    Từ năm 1965 đến năm 1976 ông là phóng viên người Việt chính thức duy nhất của tuần báo Time, ngoài ra ông c̣n là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science Monitor...

    Từ khi ở Mỹ về nước cho đến năm 1975, với vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, các nhân viên t́nh báo, an ninh quân đội và người của CIA, Phạm Xuân Ẩn đă có được mọi nguồn tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và cơ quan t́nh báo.

    Những tin tức và phân tích t́nh báo chiến lược của Phạm Xuân Ẩn được bí mật gửi cho bộ chỉ huy quân sự ở miền Bắc thông qua Trung ương cục Miền Nam. Chúng sống động và tỉ mỉ đến mức người ta kể rằng Đại tướng Vơ Nguyên Giáp đă reo lên: Chúng ta đang ở trong pḥng hành quân của Hoa Kỳ[2]. Tổng cộng, Phạm Xuân Ẩn đă gửi về căn cứ 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đă được sao chụp, các thông tin mà ông thu lượm cùng phân tích và nhận định của bản thân.Cụ thể là:

    Giai đoạn 1961-1965: những bản tài liệu nguyên bản về chiến lược chiến tranh đặc biệt như Tài liệu McGarr; tài liệu Staley, tài liệu Taylor, tài liệu Harkins; tài liệu Ấp chiến lược... Ông gửi về nguyên bản kế hoạch kế hoạch Staley-Taylor.
    Giai đoạn 1965 - 1968: các kế hoạch liên quan đến chiến lược chiến tranh cục bộ, phục vụ chiến thuật cho Mậu Thân 1968;
    Giai đoạn 1969 - 1973: những tài liệu liên quan đến chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh
    Giai đoạn 1973 - 1975: hàng trăm bản tin nguyên bản "phục vụ trên hạ quyết tâm giải phóng miền Nam"...

    Ông là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan t́nh báo, kể cả CIA.

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến sự kiện xe tăng của Quân đội Nhân dân Việt Nam húc đổ cổng dinh Độc Lập. Đến thời điểm đó cũng như một vài tháng sau, các đồng nghiệp phóng viên và những người thuộc chính quyền cũ cũng như chính quyền mới vẫn chưa biết ông là một điệp viên cộng sản. Khi đó vợ con của ông đă rời khỏi Việt Nam theo chính sách sơ tán của Mỹ, theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động t́nh báo[2]. Tuy nhiên, ông đă đề nghị cấp trên cho ngừng công tác do đă hoàn thành nhiệm vụ. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đă phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường ṿng: Paris - Moskva - Hà Nội - Sài G̣n.

  10. #50
    Ngụy Tặc
    Khách
    Quote Originally Posted by tinhyeu@ View Post
    Nè !
    Nếu bạn bảo tôi so sánh giá trị bài viết của bạn và bài viết của tác giả Đặng văn nhâm th́ tôi sẽ có nhận xét như sau : Bài của tác giả Đặng văn nhâm 100 điểm , c̣n bài của bạn th́ chỉ có nửa điểm thôi , nửa điểm này không dành cho giá trị của bài viết , mà nửa điểm này là dành riêng cho bạn v́ bạn nghĩ ra được những chuyện thật ngộ nghĩnh .

    Bạn thông cảm nghe “ bị , tại , v́ ” cái óc tôi nó hơi bị ngắn nên tôi chỉ nghĩ được đến thế thôi , bạn đừng khới ra cho tôi nói , kẻo tôi lại đắc tội với đảng mà khổ cho thân tôi .

    Ừ, mà suy cho cùng th́ ông Dương văn Minh cũng là anh hùng thật , tôi nghe người ta nói “người hèn nhát mới tự tử , nhưng phải là người thật can đảm mới dám tự tử ” đúng thật , ông Dương văn Minh phải anh hùng lắm mới dám lănh chức vụ đầu hàng , hí ha hí hửng đầu hàng , tưởng lập được công to với ăn cướp , đâu phải dễ mà làm được , phải mặt dày lắm mới dám làm .
    Ơ!
    Sao lại cho có 1 chăm điểm thôi? Nhiều nhiều thêm đi chơ. Trúng tủ quá rồi c̣n ǵ.
    Nhưng mà bác phải biết Đặng Văn Nhâm là ai? ĐVN xạo ke và tưởng bở là ở Mỹ muốn phách láo cỡ nào cũng được. Lại được "thổi" dữ quá nên hăng tiết máu "nổ" banh ta lông. Bị kiện ra toà, bị dính án và bị bồi thường.
    Vấn đề là ĐVN có viết lại lịch sử được không khi mà những sử gia, những nhà nghiên cứu sử khác đă phơi bày quá nhiều những "thối nát" và phi nghĩa của chế độ VNCH rồi.

    Và 1 sự thật không ai có thể chối bỏ được là Tướng Dương Văn Minh, mặc dù không ăn dầm ở dề trên "ngai vàng" miền Nam, là người đă chính thức "ra tay" khai tử cả 2 nền Cộng Hoà Miền Nam ở hai thời điểm mà quần chúng miền Nam điêu đứng hoặc đối điện với sự giết chóc nặng nề nhất.
    Giải thoát quần chúng khỏi cơn "bĩ cực". Trừng trị anh em Ngô Đ́nh Diệm và can đảm đứng ra gánh vác "cơ đồ" mà kẻ lănh đạo phản bội như Nguyễn Văn Thiệu bỏ chạy. Như thế là đă xứng đáng là anh hùng, cứu tinh rồi c̣n ǵ.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •