Page 5 of 7 FirstFirst 1234567 LastLast
Results 41 to 50 of 62

Thread: Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

  1. #41
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Tướng Cao Văn Viên
    Wikipedia





    Cao Văn Viên (11 tháng 12 năm 1921 – 22 tháng 1 năm 2008) là một trong 5 người được phong hàm Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng ḥa. Ông cũng là vị tướng giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng của quân lực này trong thời gian lâu nhất (1965-1975).

    Cuộc đời binh nghiệp

    Ông sinh tại Lào. Năm 1949, ông tham gia quân đội Pháp và được đưa đi học khóa đào tạo sĩ quan người Việt tại trường Vơ bị Cap Saint Jacques (Vũng Tàu), tốt nghiệp với quân hàm Thiếu úy. Sau khi tốt nghiệp, ông được điều về công tác tại bộ tham mưu quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1953, ông được nhận công tác chỉ huy của địa phương quân, khu vực Hưng Yên, lần lượt chỉ huy các tiểu đoàn 10, tiểu đoàn 56 thuộc vùng III.

    Sau khi chế độ Việt Nam Cộng ḥa được thành lập, ông được điều về công tác tại Pḥng 4 (Tiếp vận) thuộc Bộ Tổng Tham mưu vừa được thành lập, hàm Thiếu tá. Năm 1956, ông được cử làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng thống, hàm Trung tá. Năm 1960, ông được thăng Đại tá, cử làm tư lệnh Lữ đoàn Dù thay Đại tá Nguyễn Chánh Thi vừa đào tẩu do đảo chính thất bại vào ngày 11 tháng 11 năm 1960.

    Trong cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, kiên quyết không đứng về phe đảo chính do các tướng lĩnh Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim tiến hành. V́ vậy ông bị các tướng lĩnh tước quyền chỉ huy Lữ đoàn Dù. Tuy nhiên do sự can thiệp của tướng Tôn Thất Đính nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại tá Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung.

    Đầu năm 1964, tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc chỉnh lư để giành quyền lực. Để tranh thủ sự ủng hộ của các sĩ quan trẻ, tướng Nguyễn Khánh đă thăng ông lên quân hàm Chuẩn tướng (vừa được đặt ra) và bổ nhiệm ông vào chức vụ Tham mưu trưởng của Bộ Tổng tham mưu. Tháng 10 năm đó, ông được điều động vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III, hàm Thiếu tướng.

    Sau cuộc chính biến của các tướng trẻ gạt bỏ tướng Nguyễn Khánh khỏi chính quyền, ông được thăng quân hàm Trung tướng và được cử vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, thay tướng Nguyễn Hữu Có (kiêm nhiệm). Năm 1967, khi tướng Nguyễn Hữu Có bị băi chức, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc pḥng trong thời gian ngắn. Cũng trong năm này, ông được thăng quân hàm Đại tướng.

    Trong suốt thời gian giữ chức vụ Tổng tham mưu trưởng, ông được đánh giá là một tướng lĩnh có tài và không liên quan đến các hoạt động chính trị. Tuy nhiên, ông cũng bị đánh giá là một người an phận và không muốn tạo trách nhiệm.

    Hồi kư "Việt Nam Nhân Chứng" của tướng Trần Văn Đôn viết: "Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở măi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đă xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn pḥng làm việc mà thôi!"

    Trong hồi kư "Đôi ḍng ghi nhớ" của cựu đại tá Phạm Bá Hoa, chánh văn pḥng Tổng tham mưu trưởng, cũng nhận xét là trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng, ông không thực sự làm hết trách nhiệm, đến văn pḥng cho có lệ, ít ra chiến trường, đặc biệt là vào những năm 1973-1975, ông chỉ c̣n chú trọng nhiều đến việc tập luyện yoga và thậm chí, đi học lấy bằng Cử nhân Văn chương Pháp tại Đại học Văn khoa Sài G̣n ngoài giờ làm việc.

    Lư giải sự việc này, theo cuộc phỏng vấn của Lư Thanh Tâm tháng 12 năm 2004, ông cho rằng do Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, đă tập trung hết quyền binh trong tay, đă cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham mưu chỉ c̣n giữ vai tṛ tuân hành và thị chứng. Do đó, ông đă nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp thuận. V́ vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực như trên.

    Năm 1975, trước sức ép mănh liệt của dư luận và áp lực quân sự của quân Giải phóng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Cũng không lâu sau đó, tướng Cao Văn Viên cũng từ nhiệm vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, khi chưa có quyết định chính thức của tân tổng thống Trần Văn Hương. Ông giao việc xử lư thường vụ lại cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên và lên máy bay di tản sang Mỹ.

    Sau 1975, ông sống b́nh lặng tại Arlington, Virginia. Thời gian cuối đời ông sống ở viện dưỡng lăo. Ông mất vào rạng sáng ngày 22 tháng 1 năm 2008, thọ 87 tuổi. [1]
    Last edited by alamit; 24-05-2012 at 07:44 AM.

  2. #42
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Một Góc Khác của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu


    Nguyễn Đạt Thịnh




    Nhà văn Trần Phong Vũ vừa phỏng vấn ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của tổng thống Nguyễn Văn Thiệụ Nội dung cuộc phỏng vấn giúp chúng ta hiểu thêm một vài góc cạnh khác của ông Thiệu, nhưng không trả lời được câu hỏi đau xót nhất là vai tṛ của ông trong việc phá tan hai quân đoàn 1 và 2, và để mất một nửa đất nước. Ông có thi hành mệnh lệnh của Hoa Kỳ không? Thái độ của ông, bỏ đất nước, bỏ dân chúng và quân đội để thoát thân chạy theo vợ, con ra ngoại quốc có là chỉ dấu cho thấy ông "mua" sự an toàn của bản thân và gia đ́nh ông bằng cái giá dâng hiến đất nước cho Việt Cộng không?

    Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân Đoàn 1, và thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2, đă nêu lên nhiều nghi vấn về những mệnh lệnh rút quân của ông. Tôi trân trọng đề nghị nhà văn Trần Phong Vũ và ông Nguyễn Văn Ngân khai phá những điểm c̣n gói kín bí mật nàỵ Ông Ngân có thể không biết chi tiết, nhưng chắc chắn ông cũng có thể giúp đánh giá thái độ của ông Thiệu trong những ngày Việt Nam bị bức tử, có thể với sự đồng loă của ông Thiệụ Ông Vũ giải thích nguyên nhân ông thực hiện cuộc phỏng vấn, và giới thiệu ông Ngân, "Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vai chính nắm giữ ch́a khóa mở vào những bí ẩn của một giai đoạn lịch sử, đă vĩnh viễn ra đi ngày 29-9-2001 không để lại một vết tích nào, ít nữa là về phía ông. Không hồi kư. Không di chúc chính trị. Ông lặng lẽ trở về ḷng đất mang theo một trời tâm sự u uẩn của một nhà lănh đạo từng được dư luận đặt lên bàn cân với nhiều suy đoán, nhận định, lượng giá khác nhau, đôi khi đối nghịch nhaụ Một khuôn mặt thời cơ? Một kẻ tham quyền cố vị? Một lănh tụ gan lỳ, nham hiểm, nhiều thủ đoạn? Một người yêu nước cô đơn? Một nhà lănh đạo quốc gia thông minh, mưu trí, nhưng… sinh bất phùng thời

    Do một trùng hợp t́nh cờ, 5 năm sau ngày TT Thiệu từ trần, chúng tôi đă gặp gỡ ông Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá đặc biệt về chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu dưới thời Đệ Nhị Cộng Ḥa để thực hiện cuộc phỏng vấn này trong nhiều ngày của tháng 9 năm nay (2006). Là một cộng sự viên lâu năm và là một Phụ tá trẻ tuổi nhất trong số những Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu, ông Ngân thường được giới báo chí ngày đó coi là một khuôn mặt bí ẩn. Đối với các chính khách "ṿng trong" th́ ông là người đă nắm giữ nhiều quyền lực quan trọng trong hậu trường chính trị miền Nam bấy giờ.

    Ông Nguyễn Văn Ngân khởi sự làm việc với TT Thiệu năm 1965, thời gian ông Thiệu giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng trong chính phủ Phan Huy Quát. Năm 1967, ông là đại diện của Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ tại Hội đồng Tuyển cử Trung ương, trong cuộc chạy đua vào dinh Độc lập. Năm 1971, TT Thiệu ủy nhiệm ông chỉ đạo toàn bộ cuộc bầu cử tháng 10-71; ông là tác giả đạo luật bầu cử tổng thống với điều 10 khoản 7 đưa đến t́nh trạng độc cử. Năm 1974, ông là tác giả tu chính án Hiến pháp tháng 01-74 gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống. Ông là người trách nhiệm điều hợp các cơ chế hiến định: Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Giám sát viện… và có ảnh hưởng quan trọng đến sinh hoạt của các cơ chế này; đồng thời là người tổ chức đảng Dân Chủ là đảng cầm quyền của TT Thiệu gồm hệ thống quần chúng, chính quyền và quân độị Tháng 5-1974 ông bị TT Thiệu giải nhiệm và buộc phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng 01-75, ông từ Mỹ và Gia nă đại về nước. Đầu tháng 4 năm ấy ông bị TT Thiệu hạ lệnh cho cơ quan an ninh "cô lập" và chỉ được trả tự do sau khi TT Thiệu rời Việt Nam đi Đài Loan tối ngày 25- 4-1975.

    " Ông Vũ hỏi ông Ngân, "Dưới thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cũng như Tổng thống Thiệu, sự lănh đạo đều có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Điều này có phải v́ đầu óc độc tôn, tham quyền cố vị của lănh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến?

    Đ.- Tại miền Nam Việt Nam dưới thời Tổng thống Diệm và Tổng thống Thiệu có nhiều nguyên nhân đưa đến t́nh trạng lănh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân: nền dân chủ phôi thai, sinh hoạt chính đảng yếu kém, xă hội phân hóa, chiến tranh v.v..nhưng một trong những nguyên nhân chính có tính cách quyết định là chính sách can thiệp của người Mỹ.

    Người Mỹ đă thay thế nguời Pháp với chánh sách thực dân mới Vào thế kỷ 19 người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt Nam trong việc thiết lập một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á của chủ thuyết Dominọ Người Mỹ đến Việt Nam không v́ quyền lợi người Việt Nam mà v́ quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ xiển dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm b́nh phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích t́nh trạng vô chính phủ, nội loạn…để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chánh và ám sát lănh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ.

    Chánh sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đă được xử dụng như lưỡi gươm Damoclès. Trong khi viện trợ của Nga-Tàu cho Bắc Việt nặng tính cách sản xuất th́ viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hoàn toàn có tính cách tiêu thụ. Trong thời chiến Bắc Việt có khu kỹ nghệ nặng gang thép Thái Nguyên và cục quân giới của tướng Trần đại Nghĩa có khả năng cải tiến Sam 2 bằng cách ngăn chận hệ thống nhiễu sóng radar và đạt tầm cao hạ máy bay B52 của Mỹ bấy giờ đươc xem là loại máy bay bất khả xâm phạm có sức oanh tạc phá hoại ghê gớm – th́ kỹ nghệ quốc pḥng của miền Nam Việt Nam là con số không. Những dự án xây dựng cơ sở đúc súng đạn, nhà máy lọc dầu, phân bón… từ thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đều bị người Mỹ ngăn chận.

    Đối với một dân tộc, dù viện trợ có tính cách sản xuất, muốn xử dụng hữu hiệu cũng đ̣i hỏi phải có tinh thần tự lực, tự cường; huống hồ dân tộc đó vừa thoát khỏi ách đô hộ trăm năm của thực dân Pháp, chính sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ư chí đề kháng và nô lệ hóa Cùng với chính sách viện trợ có tính cách tiêu thụ và nhân danh dân chủ để can thiệp vào nội bộ quốc gia được viện trợ, chính quyền của quốc gia được viện trợ bị xem là công cụ của ngoại bang, đă đẩy một số quần chúng đi về phía cộng sản và dưới mắt thế giới Việt Nam Cộng Ḥa đă bị cô lập, cuộc chiến đấu bảo vệ dân chủ và tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam bị mất chánh nghĩa.

    Những khó khăn thực sự của ông Diệm và ông Thiệu phát xuất từ chính sách can thiệp của người Mỹ, có thể nói nếu giải quyết được những khó khăn nầy th́ sẽ giải quyết được 90% những khó khăn trong việc xây dựng đất nước và chống cộng. Để đối phó với chánh sách hai mặt của người Mỹ, ông Diệm và ông Thiệu bị dồn vào thế lănh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, và như một ṿng luẩn quẩn không lối thoát, sự lảnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân đă làm mất hậu thuẫn rộng răi trong quần chúng. Chính sách thực dân mới của người Mỹ là yếu tố có tính cách quyết định đă làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Sau thế chiến thứ I, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền đă đưa ra một bản cáo trạng lên án thực dân Pháp, thiết tưởng chế độ thực dân mới của Mỹ c̣n tàn bạo gấp nhiều lần so với thực dân cũ v́ sau 30/4/75 Việt Nam Cộng Ḥa đă hoàn toàn bị xóa sổ trên bản đồ thế giới.

    H.- Ông có đồng ư rằng chế độ đệ I và đệ II Cộng ḥa cũng như ông Diệm và ông Thiệu đă được Hoa Kỳ yểm trợ nếu không muốn nói là đă góp phần quyết định?

    Đ.- Không ai phủ nhận điều đó. Cũng như chế độ miền Bắc với Hồ Chí Minh. Đó là hậu quả đương nhiên của một thế giới lưỡng cực sau thế chiến thứ hai mà Việt Nam là một điểm nóng trong cuộc tranh chấp giữa tư-bản và cộng-sản. Người ta có thể nói Hồ Chí Minh là công cụ của cộng-sản quốc tế nhưng ông Diệm và ông Thiệu trong thực tế không phải là tay sai của Mỹ.

    Hồ Chí Minh đă áp đặt chế độ cộng sản trên đất nước, thay thế xiềng xích nô lệ thực dân, phong kiến bằng xiềng xích cộng sản; sự dă man và tàn bạọ như thế nào th́ tất cả mọi người đều biết. Và hậu quả di lụy của tinh thần nô lệ đă khiến cho một dân tộc vốn giàu ḷng hy sinh, siêng năng, nhẫn nại, đă chiến thắng trong chiến tranh nhưng đă thất bại trong ḥa b́nh – đất nước tụt hậu trong đà tiến của nhân loạị Sau Hiệp Định Genève 1954, người Pháp rút lui để lại miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ v́ chiến tranh – để chống lại cộng sản quốc tế và Bắc Việt, chúng ta chỉ c̣n tài nguyên nhân lực là máu để đánh đổi viện trợ Mỹ cùng với các điều kiện áp đặt, không c̣n một sự lựa chọn nào khác. Ông Diệm và ông Thiệu đă lảnh đạo đất nước trong những điều kiện vô cùng khó khăn: xây dựng chế độ dân chủ trên một xă hội băng hoại bởi phân hóa với lịch sử ngàn năm phong kiến, nô lệ ngoại bang, chưa hề kinh qua một giai đoạn quá độ có ư niệm về dân chủ, tự do – không phải là một công việc dễ dàng; đồng thời phải chống lại xâm lăng cộng sản và chánh sách thực dân mới của đồng minh Mỹ, những người quốc gia Việt Nam đă phải chiến đấu sinh tồn trong một hoàn cảnh nghiệt ngă, trong cái thế trên đe dưới búa, giữa gọng kềm tư bản và cộng sản.

    Chế độ đệ I và đệ II Cộng Ḥa của miền Nam trước 1975 dẫu có nhiều khuyết điểm nhưng không ai có thể phủ nhận rằng các cấu trúc chính trị, xă hội, kinh tế ngày đó đă đặt nền móng vững chắc làm bệ phóng dẫn đầu những con rồng Á Châu sau nầy để trở thành một quốc gia hùng cường tại Đông Nam Á. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là một nhà ái quốc, người của chủ nghĩa dân tộc, đă bị người Mỹ giết v́ bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chính biến 1/11/63 và cái chết của ông là sự thất bại chung cho tất cả mọi người quốc gia Việt Nam về một giải pháp quốc gia. Hậu quả là việc quân đội Mỹ trực chiến và sự sụp đổ miền Nam Việt Nam 30/4/75. Chúng ta đă bị lôi kéo vào một cuộc chiến hoàn toàn không cần thiết v́ đă không làm chủ được số phận của ḿnh và tất cả dân tộc Vịệt Nam đều là nạn nhân với hơn hai triệu thương vong, hơn bảy triệu tàn phế, hơn hai triệu người bỏ nước ra đi tị nạn với hàng vạn người vùi thân trong biển cả, đất nước đổ nát...

    Thời Tổng thống Thiệu khó khăn hơn thời Tổng thống Diệm rất nhiều: hơn nửa triệu lính Mỹ trấn đóng; ṭa Đại sứ Mỹ thực tế là một chánh phủ Mỹ tại hải ngoại với một hệ thống cố vấn dày đặc trong tất cả mọi lănh vực sinh hoạt quốc gia từ trung ương tới địa phương; số lượng nhân viên CIA chỉ sau trụ sở trung ương (Langley), là chi nhánh có nhân viên đông nhất trên thế giới; và ông Thiệu đă phải đối phó với một nghịch lư: trong khi khối cộng sản quốc tế và Bắc Việt tiếp tục leo thang chiến tranh th́ người Mỹ thực hiện giải kết bằng cách rút quân trên chiến trường và nhượng bộ chính trị trên sinh mạng miền Nam Việt Nam tại hội đàm Paris.

    Trong cuộc chiến chống cộng và suốt thời gian lănh đạo quốc gia, có thể nói 90% thời giờ của ông Thiệu được xử dụng trong nỗ lực không ngừng để tranh thủ và đối phó với người Mỹ mặc dầu phạm vi xoay sở của ông mỗi ngày một thâu hẹp; lư do giản dị là chánh sách của Mỹ sẽ quyết định sinh mạng cuả miền Nam Việt Nam chứ không phải cộng sản. Trong đời chánh trị của ông Thiệu có hai kẻ thù chính là cộng sản và Mỹ, và ông đă mang mối hận thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đờị Năm 1983, một buổi chiều ông lái xe cho tôi xem thành phố Londres, ông chỉ vào cái ảnh nhỏ của đứa con út sinh tại Londres sau 1975 gắn gần tay lái, ông nói: khi nó mới tập nói, tôi dạy cho nó: "kẻ thù của con là cộng sản và Mỹ…". Lúc ông chết, ư nguyện của ông muốn hỏa táng để đem tro cốt về Việt Nam nếu có điều kiện, không th́ sẽ rải xuống biển chứ không muốn chôn trong ḷng đất Mỹ.

    H.- Dù sao ông Thiệu đă cầm quyền 10 năm từ 1965-1975, -ḥa đàm Paris kéo dài từ 1968 đến 1973– thời gian đủ để tiên liệu và thực hiện những biện pháp cần thiết hầu ứng phó với vấn đề giải kết của Hoa Kỳ nhưng ông Thiệu đă hoàn toàn thụ động. Theo ông, phải chăng t́nh trạng nầy đă đóng góp vào sự sụp đổ của miền Nam ngày30/4/75?

    Đ.- Ông Thiệu thực sự cầm quyền qua cuộc bầu cử tháng 9/1967. Trong khi quân đội Mỹ c̣n đổ quân vào Việt Nam th́ ông Thiệu đă đưa vấn đề giải quyết chiến tranh như một trong ba vấn đề căn bản của chương tŕnh tranh cử: Xây dựng dân chủ - Giải quyết chiến tranh – Cải tạo xă hộị Sau vụ Tết Mậu thân 1968, ông Thiệu là người chủ động đưa ra đề nghị Hoa Kỳ có thể thực hiện việc rút quân từng giai đoạn trong mục tiêu tranh thủ thời gian đổi lấy viện trợ kinh tế và quân sự v́ ông hiểu Việt Nam Cộng Ḥa sẽ không có tư thế tại hội nghị ḥa đàm nếu không chủ động trên chiến trường v...v…

    Nếu cai trị là tiên liệu th́ ông Thiệu là người có khả năng tiên liệu nhưng ông không có khả năng để thay đổi được chính sách của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu mà vị thế địa lư chánh trị của miền Nam Việt Nam không c̣n nằm trong quyền lợi ưu tiên của Mỹ, mặt khác, chúng ta không c̣n ở vào thời đại có thể dùng " tầm vông vọt nhọn " để chống trả với quân thù. Năm 1967 cùng với việc tiếp tục đổ quân vào Việt Nam đại sứ Bunker đă được tổng thống Johnson gởi sang Việt Nam với sứ mạng thực hiện việc giăi kết để rút quân. Khi Nixon thắng cử 1968, đại sứ Bunker đă được yêu cầu lưu nhiệm cho đến tháng 5/1973 sau khi Mỹ đă thực hiện xong việc rút quân và lấy lại tù binh.

    Chính sách của đảng Dân Chủ và Cộng Ḥa Mỹ trong vấn đề giải kết chiến tranh Việt Nam hoàn toàn có tính cách nhất quán. Nếu sau Hiệp Định Genève 1954, người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đ́nh Diệm lật đổ Bảo Đại để thiết lập nền đệ I Cộng Ḥa (1956 – 1963) như căn bản chánh trị để biện minh cho nhân dân Hoa Kỳ và thế giới về chính nghĩa của sự can thiệp vào Việt Nam nhằm ngăn chận sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á, th́ năm 1967, người Mỹ đă áp lực chánh quyền quân nhân phải khai sinh nền đệ II Cộng Ḥa, thực hiện chánh quyền dân chủ hợp hiến, hợp pháp để đưa Việt Nam Cộng Ḥa vào bàn hội nghị và tạo bàn đạp cho Hoa Kỳ ḥa đàm với cộng sản để rút quân, lấy lại tù binh, chấm dứt sự can thiệp và để miền Nam cho các phe phái chính trị tự giăi quyết trên căn bản "dân tộc tự quyết", điều mà hai thập niên trước đó Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận.

    H.- Ông nghĩ sao về nỗi căm phẫn của đại đa số quần chúng đối với ông Thiệu sau 30/4/75?

    Đ.- Quần chúng đánh giá lănh đạo qua sự thành bại, họ có quyền căm phẫn v́ họ là lớp người bị hy sinh nhiều nhất cho đất nước cũng như phải gánh chịu những hậu quả bi đát nhất sau 30/4/75 – nỗi căm phẫn của họ là chính đáng; hơn nữa người lănh đạo cũng như thuyền trưởng một con tàu, dù tàu ch́m bởi bất cứ lư do ǵ th́ thuyền trưởng phải là người rời tàu sau cùng hoặc phải chết theo tàu; mặt khác họ không ở cương vị để có thể nh́n vào mặt trái của cuộc chiến - vừa có tính cách nội chiến vừa có tính cách ủy-nhiệm mà những yếu tố quyết định hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của người quốc gia.

    Tôi nhớ vào khoảng 1990 ông Thiệu có buổi nói chuyện với một số đồng bào tại Westminster, California, một người đàn bà được một tổ chức chống đối sắp đặt đă cầm micro chửi bới ông Thiệu nặng nề. Ông Thiệu chỉ trả lời: tôi rất thông cảm với nỗi căm phẫn của bà. Tôi hiểu sự im lặng của ông, nỗi cô đơn và cay đắng ông đă mang theo đến cuối đờị Ông Thiệu đă chết chắc hẳn không cần tôi biện hộ. Tôi cũng không làm công việc biện hộ mà chỉ nói lên sự thực mà tôi biết – tôi không có bổn phận tranh luận với bất cứ ai và cũng không nhằm thuyết phục bất cứ người nàọ

    Đối với tôi, nói những điều tốt mà người ta không có cũng tệ hại như nói những điều xấu mà người ta không phạm phải v́ tất cả đều là dối trá – nhất là đối với những người có đời sống công liên hệ đến vận mạng quần chúng th́ c̣n là vấn đề trách nhiệm. Ông Thiệu có những lỗi lầm trầm trọng trong vấn đề lănh đạo quốc gia cũng như có những sai phạm cá nhân ảnh hưởng đến uy tín lănh đạọ Ông là một nhà chính trị thực tiễn mà hoàn cảnh và môi trường trưởng thành không thể tạo ông thành một kẻ tử đạọ Tuy nhiên đến nay tôi vẫn nghĩ rằng nếu sự hy sinh có thể cứu văn t́nh thế th́ ông sẽ không từ nan. Lần tôi gặp lại ông ở Londres, ông nói như tâm sự: làm một người lính ra trận và hy sinh là một hành động dũng cảm, nhưng làm sao có thể sống sót để tiếp tục cuộc chiến đấu th́ thật là khó. Xét định một con người cần nh́n vào tổng thể và đặc biệt là những giờ phút nghiêm trọng sinh mạng bị thử thách. Không thể chỉ dùng những sự việc tiêu cực để tổng quát hóa mà phải xét đến các mặt tích cực của cá nhân đó. Tuy nhiên việc định công luận tội là côngviệc của lịch sử sau nầỵ

    H.- Nhiều hồi kư chánh trị nói rằng ông Thiệu luôn luôn bị ám ảnh bởi việc người Mỹ thảm sát các ông Diệm, Nhu nên thường thay đổi chỗ ngủ hàng đêm v.v… Điều này có thực không, và nếu thực th́ đă ảnh hưởng như thế nào đến vấn đềlănh đạo.

    Đ.- Hàng năm đến 1/11, ông Thiệu có xin thánh lễ cầu hồn cho cố tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu tại dinh Độc-Lập. Ông Thiệu có kể cho tôi nhiều lần về sáng 2/11/63 sau khi thanh toán mục tiêu dinh Gia-long, ông về tŕnh diện Bộ Tổng –Tham- Mưu và sau đó có ra lệnh cho lính mở bửng thiết vận xa để chào thi hài ông Diệm, Nhu trước khi về nhà.

    Tôi thường qua chỗ ở của ông Thiệu để làm việc những khi ông không qua văn pḥng và có khi làm việc trong pḥng ngủ khi ông bị đau, tôi không thấy dấu hiệu thay đổi chỗ ngủ hàng đêm như đồn đại sau nàỵ Có những biện pháp an ninh lúc ông đi ra ngoài, chẳng hạn mặc áo chắn đạn, hoặc cái podium ông đứng nói chuyện ngoài bằng gỗ nhưng trong có tấm thép chắn đạn, những biện pháp an ninh đặc biệt trong các cuộc diễn binh v.v…Tôi không để ư những chuyện nầy, đây là công việc của bộ phận an ninh. Chỉ có điều là những đề pḥng nầy nhằm về phía Mỹ hơn là cộng sản.

    Thực ra ông Thiệu đă sống trong sự đe dọa thường trực của người Mỹ về đảo chánh và ám sát suốt thời gian từ lúc cầm quyền 1967, đến lúc rời Việt Nam đi Đài Loan 1975. Đồng minh Mỹ là một đồng minh bất trắc, khó tiên liệu, và ông Thiệu luôn ở trong t́nh trạng của người làm xiếc đi dây nguy hiểm. Có lần tôi lưu ư ông Thiệu về trường hợp Tổng Thống Magsaysay, Lư Thừa Văn, Ngô Đ́nh Diệm…, ông Thiệu nói với tôi là ông không có an ninh…

    Trong giai đoạn giải kết, quyền lợi của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Ḥa tách rời đi đến đối nghịch, trong khi đó quyền lợi của Hoa Kỳ và của cộng sản xích lại gần nhau để đi đến thỏa hiệp chung. ếu cộng sản áp dụng chính sách vừa đánh vừa đàm với Việt Nam Cộng Ḥa và phối hợp cuộc đấu tranh trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao…th́ chính sách của "đồng minh" Hoa Kỳ đối với "đồng minh" Việt Nam Cộng Ḥa cũng tương tự: cà rốt và cây gậy đă được áp dụng triệt để với ông Thiệu trên mọi b́nh diện để buộc Việt Nam Cộng Ḥa phải chấp nhận đường lối thương thuyết nhượng bộ cộng sản của Mỹ. Người Mỹ đă tiếp tay với cộng sản trong việc cổ vơ, ủng hộ các phong trào phản chiến, đ̣i ḥa b́nh, ḥa hợp ḥa giải dân tộc, lực lượng thứ ba… mà thực chất là những tổ chức trá h́nh của cộng sản nhằm phá vở thế hợp hiến, hợp pháp của chế độ VNCH, và đă không ngần ngại đâm sau lưng những người lính VNCH đang chiến đấu trong cái gọi là chương tŕnh "Việt Nam hóa chiến tranh" để người Mỹ rút quân. Ông Thiệu nói với tôi vụ sư đoàn 3 rút bỏ Quảng- trị 1972 là một "sabotage politique".

    Nixon đă viết thư cho ông Thiệu nhắc đến ư đồ thanh toán ông Thiệu của chính quyền Johnson vào năm 1968 và vụ đảo chánh 1/11/63 như một đe dọa trực tiếp nếu ông Thiệu không tuân thủ những đ̣i hỏi của Mỹ. Vào những tháng cuối trước khi kư HĐ Paris, ông Thiệu nuôi ư định tự sát như một phương cách chống trả cuối cùng. Vào lúc căng thẳng nầy chúng tôi đă triệu tập đại hội nghị viên toàn quốc về Saig̣n, tuần hành vào dinh Độc Lập cùng các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ lập trường "bốn không" của ông. Tài liệu của đại sứ Bunker đă ghi nhận ư định tự sát nầy của ông Thiệu qua một báo cáo của ông Trần Thiện Khiêm ghi âm cuộc đối thoại giữa ộng Thiệu, Khiêm. Chính ư định tự sát nầy đă khiến ông Thiệu "ĺ lợm" trước những đe dọa của Nixon và đă đưa đến những nhượng bộ của Nixon bằng những cam kết mật. Mỗi lần nhớ đến ông Thiệu, thực sự tôi không nghĩ đến những vinh quang bề ngoài của một Tổng Thống mà là những chuỗi ngày khó khăn của đất nước, những áp lực có tính cách quyết định ngày đó của Hoa Kỳ đă đè nặng lên ông, ông đă chiến đấu như một người lính đơn độc không vũ khí, bằng ḷng dũng cảm và sinh mạng của chính ḿnh. Tôi không có đức tin tôn giáo nhưng tôi vẫn cầu mong cho ông, một tín đồ ki-tô-giáo, được b́nh an và thanh thản nơi vĩnh hằng.

    H.- Có phải tổng thống Thiệu nói với ông là việc sư đoàn 3 tháo chạy đă để lại "đại lộ kinh hoàng" và Quảng-trị thất thủ vào tháng 5/72 là một "sabotage politique" của người Mỹ?

    Đ.- Đúng như vậỵ Hậu quả đă để lại hơn 20 ngàn thương vong trên "đại lộ kinh-hoàng."

    H.- Ông Thiệu đă nói với ông trong bối cảnh nào

    Đ.- Ngay hôm Quảng-trị thất thủ. Hôm đó vào lúc xế chiều tôi đang họp trung ương đảng bộ Dân – Chủ tại lầu nhà trắng trong khuôn viên dinh Độc-Lập th́ được điện thoại của nhân viên văn pḥng cho biết đại tá Đỗ Đức Tâm, thuyết tŕnh viên quân sự của Tổng-Thống đang có mặt tại Văn Pḥng của tôi để thuyết tŕnh về t́nh h́nh quân sự sau khi vừa thuyết tŕnh cho Tổng-Thống xong.
    Last edited by alamit; 29-10-2012 at 07:30 AM.

  3. #43
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Một Góc Khác của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
    P2



    V́ bận họp nên tôi yêu cầu đại tá Tâm gặp tôi tại lầu nhà trắng để thuyết tŕnh cho tất cả cùng nghẹ Sau phần thuyết tŕnh, tôi nhớ rơ câu hỏi sau cùng của nghị sĩ Trần Trung- Dung, nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng của tổng thống Diệm: "…liệu chúng ta có giữ được Quảng-trị không? " Đại tá Tâm "…chắc chắn chúng ta giữ được." Chừng nửa giờ sau, điện thoại trên bàn họp reo, tôi nhắc máy, đầu dây là đại tá Tâm cho biết trung tướng Hoàng Xuân Lăm, tư lệnh quân đoàn I vừa điện tŕnh Tổng Thống là Quảng trị đă thất thủ trưa hôm naỵ Sự việc cho thấy là trung-tướng Lăm không biết sư đoàn 3 rút bỏ Quảng-trị và như vậy là đă có một "sự cố bất thường" xẩy ra nên tôi bỏ pḥng họp đi gặp tổng thống Thịêu ngay lúc đó. Tôi thấy ông rất b́nh tĩnh. Ông nh́n tôi nói: tôi điện thoại gần như mỗi ngày cho ông Lăm về t́nh h́nh quân sự Quảng–trị, tối qua tôi c̣n nhắc ông Lăm phải coi chừng "thằng cộng sản" ngày 1/5, ông Lăm bảo đảm với tôi là không việc ǵ, thế mà như vậỵ Ông dằn mạnh: đây là một "sabotage politique". Lúc bấy giờ chỉ có tôi và ông.

    Những chuyện như vậy thuộc loại "cấm kỵ" không phải có thể nói với bất cứ ai và không bao giờ ông nói khi có sự hiện diện của người thứ ba. Đó là nguyên tắc ngăn cách ông vẫn thường áp dụng và cũng là cách để bảo đảm sựï an toàn cho chính ông. Trong trường hợp này, ông Thiệu là người duy nhất có đủ yếu tố chính trị để thẩm định, v́ ông là người trực tiếp chịu các áp lực của Mỹ. Bấy giờ là tháng 5/1972, trong mật đàm Paris Mỹ và cộng sản đă đạt được các thỏa thuận căn bản, chỉ c̣n trở ngại về phía ông Thiệu. Gần đây tôi có đọc một chứng liệu của đại-sứ Bunker thuật lại phiên họp tại dinh Độc-Lập một ngày sau khi Quảng-trị thất thủ giữa đại-sứ Bunker, tướng Abrams và tổng thống Thiệụ Ông Thiệu đă không hề quy trách cho các giới chức quân sự Việt Nam, ông im lặng một cách khó hiểu và măi đến phút cuối cùng "bật nói" :…" không có lư do ǵ Quảng trị lại bị thất thủ, tướng Giai phải chịu trách nhiệm về việc nầỵ"

    Tướng Vũ văn Giai, Tư lệnh sư đoàn 3 giới tuyến, được di tản bằng trực thăng của Mỹ, bỏ lại binh sĩ và dân chúng với "đại lộ kinh hoàng" - đă bị đưa ra Ṭa án quân sự, bị tước đoạt binh quyền và ở tù. Tổng thống Thiệu đă ra lệnh tái chiếm Quảng trị ngay sau đó mặc dầu biết rằng Quảng trị sẽ thành một đống gạch vụn, sẽ phải hy sinh những người lính thiện chiến của những đơn vị thiện chiến nhất mà tổn thất khó có thể bù đắp được trong thực tế bấy giờ – nhưng ông đă phải quyết định như vậy, một quyết định chính trị để chứng tỏ quyết tâm của quân dân miền Nam với thế giới, với nhân dân Hoa-Kỳ, nhằm chống trả các thỏa hiệp mật giữa cộng sản và Mỹ mà sau nầy được cụ thể trong Hiệp Định Paris 1973.

    Cũng tương tự như vậy, việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đă được sự thỏa thuận ngầm của Mỹ để đặt cộng sản Hà Nội sau nầy trước một "fait accompli ". Ông Thiệu biết Hải Quân Việt Nam không đủ sức đương đầu với hải quân Trung Cộng và hạm đội 7 Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nhưng ông vẫn ra lệnh tái chiếm như một chứng liệu về chủ quyền lănh thổ sau nầỵ Bởi chính sách hai mặt của Hoa Kỳ, nhiều áp lực nặng nề riêng cá nhân ông phải chịu đựng không được chia sẻ và trong nhiều trường hợp ông phải đưa ra những quyết định chuyên độc mà không thể giải thích với đồng bào cùng chiến hữu của ông.

    H.- Nhận định của ông Thiệu về vụ sư đoàn 3 tháo chạy có mâu thuẫn với các quyết định của người Mỹ mở rộng chiến tranh qua các cuộc tấn công của QLVNCH vào hậu cần của cộng sản tại Miên năm 1970 và hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào 1971 hay không?

    Đ.- Không. Các cuộc tấn công vào hậu cần cộng sản tại Miên 1970 và Hạ Lào 1971 chỉ có tính cách nhất thời nhằm mục đích chính là dùng xương máu của quân đội VNCH để mở rộng hành lang an toàn cho việc triệt thoái quân đội Mỹ.

    Ông Thiệu miễn cưỡng phải chấp nhận mở cuộc hành quân Lam Sơn 1971 v́ Hạ Lào tiếp giáp với hậu phương lớn Bắc Việt. Khi có dấu hiệu sa lầy ông đă ra lệnh cho trung tướng Hoàng Xuân Lăm đưa ngay một đơn vị vào Tchepone "đái một băi" (nguyên văn) và rút ra ngay lập tức. Cần lưu ư là chương tŕnh rút quân của Mỹ không phụ thuộc vào khả năng thay thế của quân lực VNCH, và chương tŕnh Việt Nam hóa thực chất chỉ nhằm yểm trợ cho việc rút quân của Mỹ chứ không phải để VNCH có đủ sức đề kháng và tồn tạị

    H.- Sau này, nhiều người trong đó có những viên chức chính phủ của ông Thiệu cho rằng ông Thiệu đă dựa vào những cam kết mật của tổng thống Nixon nên đă chấp nhận kư kết Hiệp Định Paris v́ không hiểu rơ tổ chức công quyền của Hoa Kỳ – thẩm quyền của hành pháp và lập pháp. Như tiến sĩ Kissinger đă nhận định: đó chỉ là những ư định của tổng thống Nixon, không có tính cách cam kết quốc gia v́ không có phê- chuẩn của quốc-hộị

    Đ.- Vào lúc bấy giờ ông Thiệu cũng hiểu như giải thích của Kissinger sau nầy, nhưng ông cũng hiểu rơ vị thế yếu kém của VNCH và giới hạn cuối cùng mà ông có thể đ̣i hỏi ở Nixon. Ông Thiệu có chủ định rơ ràng là mua thời gian c̣n lại của nhiệm kỳ Nixon trong hoàn cảnh "c̣n nước c̣n tát ".
    Chúng ta cần nhớ rằng không hề có một hiệp ước Việt Mỹ nào về việc Mỹ đổ quân và tham chiến ở Việt Nam cũng như không có một văn kiện pháp lư nào về quy chế trấn đóng của quân đội đồng minh trên lănh thổ Việt Nam bấy giờ. Những tiểu đoàn TQLC Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng đầu năm 1965 dưới thời chính phủ Phan Huy Quát, ông Thiệu là Tổng trưởng Quốc Pḥng kiêm Phó Thủ tướng; ông nói với tôi: t́nh h́nh bấy giờ hơn hai phần ba lănh thổ bị cộng sản ung thối, nếu quân đội Mỹ không can thiệp kịp th́ miền Nam mất. Thời đệ I Cộng Ḥa, tổng thống Diệm muốn có một hiệp ước hỗ-tương như ở Đại Hàn nhưng người Mỹ từ chốị Các cố vấn quân sự Mỹ đến và đi không qua sự kiểm soát của nhà chức trách Việt Nam. Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi, hậu quả là vấn đề đơn phương rút quân, Việt Nam hóa, Hiệp Định Paris… Tương quan Việt Mỹ là một tương quan thực tế mà người Mỹ cố t́nh không để bị ràng buộc vào những văn kiện pháp lư "giấy trắng mực đen" như ở Triều tiên, Nhật bản, Âu châu là những nơi Hoa Kỳ có mục tiêu dài hạn.

    H.- Đến bao giờ th́ ông Thiệu mất tin tưởng vào các cam kết mật của Nixon? Vụ ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vào đầu năm 1975 có phải là một trắc nghiệm về những cam kết mật hay không?

    Đ.– Ngay sau cuộc gặp gỡ Thiệu – Nixon tại San Clemente tháng 4/73. Về phương diện biểu kiến cuộc gặp gỡ mang nhiều ư nghĩa tích cực như là một sự xác nhận các cam kết mật, sự tiếp tục ủng hộ của Hoa Kỳ với VNCH và đặc biệt với ông Thiệu, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược.

    Cuộc gặp gỡ mặt đốimặt đă khẳng định cho ông Thiệu thấy không c̣n hy vọng vào các cam kết mật cũng như các viện trợ quân sự và kinh tế đă được hứa hẹn trước đâỵ Đây là lư do và thời điểm quyết định việc tu chính hiến pháp: gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thổng. Cuộc độc cử 1971 đă làm sút giảm uy tín chính trị của ông Thiệu; Hiệp Định Paris thừa nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam, ngưng bắn tại chỗ, chinh phủ liên hiệp ba thành phần đă hoàn toàn xóa bỏ lập trường bốn không của ông; người Mỹ đă hoàn tất việc rút quân và lấy lại tù binh; và nay là hiểm họa Hoa Kỳ bỏ rơi… khiến ông Thiệu bị lột truồng như câu chuyện ông vua không quần áo (the emperor without any chothes) và hoàn toàn trắng taỵ Tư thế lănh đạo của ông Thiệu bị đặt trong hoàn cảnh thử thách nghiêm trọng và đây là lư do thực sự của vụ tu chính hiến pháp đă không bao giờ được tiết lộ. Nội dung tu chính bấy giờ được giữ mật v́ phải chờ sau cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện tháng 10/73 mới đủ túc số thực hiện.

    Việc tu chính không nhằm vào nhiệm kỳ 3 Tổng Thống mà mục đích thực sự là bày tỏ sự tín nhiệm của dân chúng qua Quốc Hội "để tái trang bị" tư thế lănh đạo của ông Thiệu hầu đối phó với t́nh thế mớị Dù muốn hay không sinh mạng chính trị của ông Thiệu đă gắn liền với sự c̣n mất của chế độ và sau ông sẽ là trận hồng thủỵ Trong cuộc gặp các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ tu chính Hiến Pháp tại hội trường khách sạn Majestic vào đêm trước hôm biểu quyết, tôi có nói rơ: "đây không phải là hành động ủng hộ cá nhân tổng thống Thiệu mà là hành động của mỗi chúng ta để tự cứu". Có thể họ hiểu là t́nh h́nh nghiêm trọng nhưng không biết là đang bị Hoa Kỳ bỏ rơi và đất nước đă ở trên bờ vực thẳm.

    Nếu Kissinger đă tiên liệu thời gian có thể coi được (decentinterval) từ HĐ Paris 1/73 đến lúc miền Nam sụp đổ là một năm rưỡi th́ ông Thiệu đă tiên liệu một thời gian ngắn hơn. Đầu năm 1974 cũng là lúc Quốc Hội biểu quyết tu chính Hiến Pháp, ông Thiệu nói tại Hội đồng Tổng trưởng: "…các quan sát viên quốc tế rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta c̣n ngồi ở đây hôm nay, tất cả đều nghĩ rằng miền Nam Việt Nam chỉ có thể tồn tại không quá sáu tháng sau HĐ Paris…". Như một người chết đuối vớ bất cứ bèo bọt nào, ông ra lệnh mật cho Bộ Tổng Tham Mưu kiểm thính điện đài các dàn khoan để t́m hiểu trữ lượng dầu hỏa với hy vọng Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam, ông nói: tôi sẽ làm bộ trưởng dầu hỏa chứ không làm tổng thống. Ông chỉ thị cho chính phủ tạo điều kiện dễ dàng cho ngoại quốc đầu tư, ông nói với tôi: bây giờ cho không để bọn nó vào (đầu tư) cũng phải "cho không".

    Đối với cộng sản, cuộc tấn công chiếm Phước Long đầu năm 1975 là một trắc nghiệm về ư đồ tái can thiệp của Mỹ được mệnh danh là đ̣n "trinh sát chiến lược", sau đó Bộ Chính trị đă quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên và tiếp theo là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đối với ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long v́ sẽ tổn thất rất nặng không thể bù đắp, có chiếm lại cũng không giữ được, lực lượng trừ bị không c̣n và phải bảo toàn lực lượng cho các cuộc tấn công sắp tới của cộng sản.

    H.– Ngoài việc tu chính gia tăng ba nhiệm kỳ Tổng Thống, c̣n có việc gia tăng thời hạn mỗi nhiệm kỳ từ 4 năm lên 5 năm.

    Đ.– Lư do được viện dẫn của tu chính là chương tŕnh kinh tế ngũ niên nhưng sự thực là chúng tôi muốn có khoảng cách xa giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ và Tổng Thống Việt Nam v́ nhiệm kỳ Tổng Thống Mỹ cũng 4 năm, và cứ 4 năm th́ nước Mỹ lại bị một cơn sốt chính trị ảnh hưởng nặng nề đến cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam. Đây không phải là mục tiêu chính của tu chính Hiến Pháp nhưng nhân việc tu chính Hiến Pháp th́ chúng tôi bỏ vào luôn.

    H.- Ông Thiệu có tham khảo ư kiến của người Mỹ về việc tu chính Hiến Pháp hay không?

    Đ.- Không.

    Như tôi đă nói ở trên, nội dung tu chính Hiến Pháp đă được quyết định ngay sau khi tổng thống Thiệu ở San Clemente về nhưng được giữ mật cho đến sau cuộc bầu cử bán phần TNV tháng 10/73. Đại sứ Martin chỉ được tổng thống Thiệu thông báo sau khi dự luật tu chính được đệ nạp tại Quốc hội tức là vào khởi đầu giai đoạn công khai. Ông Thiệu nói với tôi: Ngày hôm qua tôi có mời ông Martin vào đây (dinh Độc Lập) để thông báo về việc chúng ta tu chính Hiến Pháp – tôi nói với ông Martin là tôi nhận thấy có bổn phận phải thông báo cho ông đại sứ v́ Hoa Kỳ là đồng minh chính yếu đă giúp đỡ chúng tôi trong cuộc chiến… Cụ Hương được ông Thiệu thông báo vào lúc dự luật tu chính được đưa cho các dân biểu, nghị sĩ đứng tên tác giả v.v… Nội vụ hoàn toàn được giữ mật cho đến giờ cuối. ÔNG NGÂN NÓI NHIÊU về vai tṛ xấu xí của người Mỹ tại Việt Nam. Điều này không phải là một khám phá mới. Chúng ta cảm phục chế độ chính trị dân chủ và tổ chức kinh tế, xă hội công bằng và cổi mở của Hoa Kỳ, nhưng nhiều người bất măn về ngoại chính của họ đối với Việt Nam ngày trước, và đối với nhiều nước khác hiện nay.

    Ông Ngân cũng thành công trong việc vẽ ra một ông Thiệu sợ Mỹ hơn sợ Việt Cộng, ưu tư và toan tính đối phó với Mỹ hơn là t́m cách bảo vệ miền Nam bằng những phương tiện quân sự eo hẹp hơn, nhưng cũng thích hợp hơn với hoàn cảnh của đất nước. Nhưng ông không trả lời đúng vào câu hỏi thứ 3, về việc ông Thiệu không làm những điều cần phải làm để bảo vệ đất nước trong giả thuyết người Mỹ giải kết. Ông nói ông không bào chữa cho ông Thiệu, nhưng trút toàn bộ trách nhiệm làm mất Việt Nam cho Hoa Kỳ lại là cách bào chữa kiến hiệu nhất. Ông Thiệu sợ Mỹ nhưng cũng chính ông lại tuyên bố là "không có viện trợ Mỹ, tôi không làm tổng thống nữa", xin ông Ngân giải thích mâu thuẫn nàỵ Quan trọng nhất vẫn là vai tṛ của ông Thiệu trong những ngày tháng cuối cùng của Nam Việt.


    Nguyễn Đạt Thịnh
    Last edited by alamit; 29-10-2012 at 07:38 AM.

  4. #44
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Mối t́nh ’thủa hàn vi’ của Tổng thống đa t́nh



    (Người nổi tiếng) - Chuyện giới chóp bu của chế độ Sài G̣n có bồ nhí, có vợ nọ con kia không phải chuyện lạ, nên chuyện Nguyễn Văn Thiệu có những nghi án t́nh ái với những giai nhân thời đó cũng không phải chuyện ǵ đáng thắc mắc. Nhưng có điều Nguyễn Văn Thiệu không chỉ trăng hoa khi đă lên làm Tổng thống


    Từ khi c̣n là một tay Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, Thiệu đă có một cuộc t́nh thi vị, lăng mạn với cô gái quê nghèo khó bên bến sông Cầu – Phú Yên. V́ cuộc t́nh này mà sau đó, khi biết nàng Oanh ở bến Sông Cầu thành bồ nhí của một tay cấp dưới của ḿnh, Thiệu đă thẳng tay vùi dập công danh của tay cấp dưới dám “trêu gan Tổng thống”.

    Nàng Oanh, cô gái lai Tây ở bến sông cầu Phú Yên

    Năm 1954, Nguyễn Văn Thiệu lúc đó là Thiếu tá, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn địa phương quân đóng tại Sông Cầu, Phú Yên. Mỗi ngày vị Thiếu tá tiểu đoàn trưởng bảnh trai, oai vệ đều có dịp đi ngang bến Sông Cầu và trong một lần rất t́nh cờ, Thiếu tá Thiệu đă gặp một cô gái rất đẹp, có gương mặt lai Tây, da trắng, dáng cao, rơ ràng là một hoa khôi trong vùng.

    Ngay lần gặp đầu tiên, Thiếu tá Thiệu đă “kết mô đen” cô gái lai Tây đẹp ngời ngời này. Cất công t́m hiểu gia thế cô gái, Thiệu được biết cô là con gái của một góa phụ, người địa phương, gia cảnh nghèo khổ. Cô gái tên Oanh nên thường được gọi là nàng Oanh.

    Sau vài lần lui tới viếng thăm, Thiếu tá Thiệu chiếm được cảm t́nh của người đẹp và bà mẹ nghèo lam lũ. Dưới mắt hai mẹ con, viên Thiếu tá tiểu đoàn trưởng oai vệ, đẹp trai, người Phan Rang nói được hai thứ tiếng Pháp, Anh lưu loát là một mẫu đàn ông lư tưởng.

    Do đó việc nàng Oanh từ chỗ cảm phục đi đến yêu say đắm viên Thiếu tá đẹp trai chỉ là “một việc phải đến đă đến”.





    Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

    Ngược lại Thiếu tá Thiệu dù đă có vợ là Mai Anh ở nhà, nhưng là người lính trong thời chiến, rày đây mai đó chẳng biết sống chết thế nào, lại xa vợ con, thiếu thốn t́nh cảm nên trước một cô gái trẻ trung, xinh đẹp như nàng Oanh chẳng khác nào một thỏi nam châm có sức hút mănh liệt trái tim hạn hán của chàng lính trẻ xa nhà, thiếu thốn t́nh cảm.

    Và chuyện ǵ phải đến đă đến, họ trở thành một đôi t́nh nhân hết sức lăng mạn của những đêm trăng đẹp tại bến Sông Cầu.

    Giữa lúc cuộc t́nh của viên Thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cô gái lai Tây tại bến Sông Cầu ngày càng trở nên thắm thiết th́ đùng một cái, Thiếu tá Thiệu được lệnh chuyển quân.

    Thời gian chia tay ngắn ngủi, nàng Oanh cũng chỉ biết tin theo những lời thề non, hẹn biển của viên Thiếu tá hứa chắc như đinh đóng cột rằng sẽ quay trở lại bến Sông Cầu một ngày không xa.

    Nhưng rồi không biết bao nhiêu mùa trăng treo trên bến Sông Cầu, có một người con gái vẫn luôn mong ngóng bóng h́nh viên Thiếu tá quay trở lại mà h́nh bóng ấy vẫn măi mịt mù, chẳng khác nào bóng chim tăm cá.

    Cuộc chia tay đầy nước mắt

    Thời cuộc biến chuyển, Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu cũng bị xoay theo những cơn lốc lịch sử và cuộc đời binh nghiệp nay đây mai đó theo những cuộc hành quân vạn dặm mà mỗi ngày mỗi xa h́nh bóng cô gái ở bến Sông Cầu đă từng khóc hết nước mắt trong ngày chia tay.

    Giờ đây, Thiếu tá Thiệu đă thăng Trung tá, có lẽ ông ta cũng chẳng c̣n nhớ ǵ đến ánh mắt của nàng Oanh, bom đạn chiến tranh đă xóa nḥa tất cả và trái tim của Trung tá Thiệu giờ là Trung đoàn trưởng chắc cũng không c̣n khoảng trống để chứa t́nh cảm của cô gái mà h́nh bóng đă nhạt nḥa ở tận cuối chân trời.

    Huống chi con đường binh nghiệp của Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đang gặp thuận lợi, c̣n có cơ hội để tiến xa trong tương lai mà đối với Thiệu, công danh sự nghiệp là trên hết, t́nh cảm chỉ là chuyện gia vị của một bữa ăn đời thường trên bước đường binh nghiệp.

    Quả nhiên, thời cuộc biến chuyển rất nhanh sau năm 1954, Bảo Đại bị truất phế, Ngô Đ́nh Diệm từ Thủ tướng lên làm Tổng thống của nền đệ nhất cộng ḥa, Nguyễn Văn Thiệu cũng như nhiều sĩ quan binh lính của Pháp chuyển sang lính của Việt Nam Cộng Ḥa và năm 1955.

    Thiệu thăng cấp Đại tá, giữ chức Chỉ huy trưởng trường Vơ bị Đà Lạt, một trường “đại học” chuyên đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp mà sinh viên phải tốt nghiệp tú tài đôi mới được gọi vào học, khi ra trường được móc luôn lon Thiếu úy không qua cấp chuẩn úy như sĩ quan trừ bị Thủ Đức và có thể lên tới cấp Tướng.

    Năm 1962, Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5 Bộ binh. Và chỉ 1 năm sau đó, 1963, Nguyễn Văn Thiệu tham gia vào nhóm tướng lănh đảo chánh kéo quân về vây Đinh Độc Lập lật đổ Ngô Đ́nh Diệm.

    Cuộc đảo chánh thành công, anh em Diệm Nhu bị giết, Nguyễn Văn Thiệu cũng đóng góp công lao vào vụ lật đổ này nên được phong Tướng rồi nhảy luôn vào chính trường và chỉ một thời gian sau, do biến chuyển của thời cuộc, Nguyễn Văn Thiệu lên làm Quốc trưởng của nền đệ nhị cộng ḥa.

    Nấc thang danh vọng và quyền lực của Thiệu như vậy là đă lên đến tột đỉnh. Lúc này chắc chắn Nguyễn Văn Thiệu chẳng c̣n nhớ ǵ đến nàng Oanh ở bến Sông Cầu ngày xưa.

    Cơ hội gặp lại nàng Oanh

    Khi Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng th́ thời đó (1965-1967) tỉnh trưởng Phú Yên là Trung tá Trần Văn Hai, biệt danh Hai “trề”. Trần Văn Hai quê Cần Thơ, được tiếng là một sĩ quan thẳng thắn, không nịnh bợ, hết ḷng v́ nhiệm vụ.

    Phú Yên thuộc vùng 2 chiến thuật mà tư lệnh vùng 2 là Trung tướng Vĩnh Lộc - một sĩ quan thuộc hoàng tộc, anh em với Bảo Đại và rất thân cận với Bảo Đại, khi trở thành sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa thời Ngô Đ́nh Diệm, cũng là một tướng lănh thân Diệm và có nhiều thế lực.

    Là tư lệnh vùng 2, tức tướng vùng, Vĩnh Lộc chẳng khác nào một ông vua không ngai, chỉ đứng sau Phủ Đầu Rồng và chỉ huy tối cao Nguyễn Văn Thiệu.

    Vĩnh Lộc ỷ thế tướng vùng nên khi đi thăm thú đâu đó, nhất là các đơn vị đóng quân ở Tây Nguyên thường biểu lộ tính ngông nghênh không thèm đi ô tô mà… cưỡi voi cho nó “sốc”. Bởi vậy nên khi nói đến Vĩnh Lộc, người ta cũng kêu luôn biệt danh của viên tướng ngông nghênh này là “Anh cả Trường Sơn”.

    Một hôm Vĩnh Lộc bất ngờ gọi cho Trần Văn Hai, tỉnh trưởng Phú Yên đích thân mang “công xa” của tỉnh trưởng ra sân bay đón ca sĩ Minh Hiếu, “người yêu bé nhỏ” của ḿnh rồi đưa về dinh tỉnh trưởng nghỉ ngơi, tiếp đăi trọng hậu để chờ Vĩnh Lộc vào sau do bận việc.

    Tỉnh trưởng Hai “trề” dư biết ca sĩ Minh Hiếu là ai, đóng vai tṛ ǵ với Trung tướng Vĩnh Lộc, cấp trên trực tiếp của ḿnh. Nhưng Trung tá Hai “trề” cũng ngông nghênh không kém Vĩnh Lộc, khi nhận được lệnh đă nổi máu điên, chỉ chấp hành có một nửa lệnh trên.

    Thay v́ dùng công xa của tỉnh trưởng ra sân bay đón người đẹp cho hoành tráng, Hai “trề” dùng xe riêng của ḿnh ra đón, và thay v́ đưa nàng Minh Hiếu thẳng về dinh tỉnh trưởng cho long trọng, lại cả gan vứt người đẹp ở một khách sạn sang trọng nằm trên đường Lê Thánh Tôn thị xă Tuy Ḥa.

    Ca sĩ Minh Hiếu lúc đó đang nổi tiếng như cồn, bài tủ của cô ca sĩ này là bài “Quen nhau trên đường về” và là người yêu của ca sĩ Nhật Trường tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.

    Chính v́ bị ông tướng vùng 2 Vĩnh Lộc dùng uy quyền “cuỗm” mất người yêu nên Trần Thiện Thanh lúc đó chỉ là một hạ sĩ quan Tâm lư chiến vừa thất t́nh, vừa oán hận đă sáng tác bài “Hoa trinh nữ” để than thân trách phận, đồng thời trách luôn cả nàng Minh Hiếu đă tham tướng, bỏ lính… v́ vậy trong bài “Hoa trinh nữ” đă có câu: “Tôi không phải là vua nên mộng ước thật b́nh thường”.

    “Vua” ở đây ám chỉ “vua” không ngai Vĩnh Lộc “Anh cả Trường Sơn”. Khi Vĩnh Lộc vào tới Phú Yên, gặp nàng Minh Hiếu, người đẹp liền tỉ tê, trách móc việc bị Hai “trề” xem thường sau đó rồi giận dỗi bỏ về Sài G̣n.

    Mất hứng, lại bị bẽ mặt với người đẹp, Vĩnh Lộc đă nổi điên lấy cớ Hai “trề” làm tỉnh trưởng chẳng được cái tích sự ǵ, để cho Việt Cộng đánh Phú Yên tơi bời rồi… cách chức tỉnh trưởng Phú Yên, chuyển ra đơn vị chiến đấu ngoài mặt trận.

    Người thay thế Hai “trề” giữ chức tỉnh trưởng Phú Yên là Trung tá Trần Văn Bá. Và đây là cơ hội để Nguyễn Văn Thiệu t́m lại nàng Oanh, người đẹp ở bến Sông Cầu.

    T́m lại người xưa

    Trung tá Trần Văn Bá chẳng phải ai xa lạ, lúc Nguyễn Văn Thiệu làm Tiểu đoàn trưởng, đóng quân ở bến Sông Cầu Phú Yên th́ Trần Văn Bá mới là Trung úy Tiểu đội phó, thuộc cấp của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thiệu.

    Năm 1971, sau khi xích mích với Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu “độc diễn” ứng cử Tổng thống. Màn độc diễn… có một không hai này thành công tốt đẹp, Nguyễn Văn Thiệu “lên ngôi”.

    Nhân lúc tỉnh trưởng Phú Yên c̣n khuyết người, Nguyễn Văn Thiệu đưa luôn Trần Văn Bá bấy giờ là Thiếu tá thăng luôn Trung tá lên ngồi ghế tỉnh trưởng Phú Yên.

    Bởi Trần Văn Bá là con của bác sĩ Trần Văn Chẩn - Giám đốc Bệnh viện Mỹ Tho, vừa là thuộc cấp cũ, vừa là họ hàng với bà Mai Anh, vợ của Nguyễn Văn Thiệu, không ai có đủ chuẩn để ngồi vào ghế này hơn Trần Văn Bá.

    Sau đó không lâu, Nguyễn Văn Thiệu có chuyến kinh lư Phú Yên. Khỏi phải nói, “đệ tử ruột” Trần Văn Bá đă tổ chức đón tiếp Nguyễn Văn Thiệu long trọng đến cỡ nào.

    Tại dinh tỉnh trưởng, đang trong buổi đại tiệc tiếp đón Tổng thống diễn ra tưng bừng, đầy khí thế bỗng dưng Nguyễn Văn Thiệu quay qua hỏi Trần Văn Bá một câu bất ngờ, khó đỡ:

    - Cô Oanh ở bến Sông Cầu bây giờ ra sao, có c̣n ở chỗ ngày xưa không?

    Trần Văn Bá đang nhậu, mặt đỏ như mặt trời mọc bất ngờ nghe câu hỏi trên bỗng dưng tái mét, xanh như đít nhái. Bởi hơn ai hết, khi c̣n là thuộc cấp của Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thiệu thủa đóng quân tại bến Sông Cầu, Trần Văn Bá biết mối t́nh thắm thiết giữa Thiệu và cô gái lai Tây thường được gọi thân mật là nàng Oanh.

    Nhưng rồi Thiệu chuyển quân ra mặt trận, bỏ nàng Oanh ở bến Sông Cầu ṿ vơ đợi trông, chẳng biết bao giờ người xưa trở lại nên sau đó nàng Oanh đă lấy một anh lính địa phương quân làm chồng. Anh này tên Hoanh, chẳng may anh Hoanh tử trận.

    Thực hiện chính sách đối với gia đ́nh thương binh, tử sĩ của chính Nguyễn Văn Thiệu ban hành, Trần Văn Bá t́m nàng Oanh vợ của tử sĩ đưa về dinh tỉnh trưởng làm điện thoại viên, trực điện thoại văn pḥng tỉnh trưởng.

    Cô gái ở bến Sông Cầu vẫn đẹp rực rỡ, không chỉ là một bông hoa tươi thắm trang trí cho văn pḥng tỉnh trưởng mà c̣n là thư kư riêng, nhân t́nh của Trung tá Tỉnh trưởng Trần Văn Bá.

    Rồi theo thời gian, từ vai tṛ nhân t́nh, tiến lên một bước thành “vợ bé”, cuối cùng th́ nàng Oanh ở bến Sông Cầu, từng là người yêu của Nguyễn Văn Thiệu đă sinh cho Tỉnh trưởng Trần Văn Bá một cậu con trai kháu khỉnh.

    Thế mới rắc rối. Trần Văn Bá lo cuống cuồng, sợ chuyện đổ bể, tới tai bà vợ dữ dằn, máu ghen c̣n hơn Năm rado vợ của Trung tá Thức công binh tạt axít vũ nữ Cẩm Nhung th́ ít mà sợ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phát hiện th́ nhiều. Bởi nếu Thiệu phát hiện ra chuyện này th́ cuộc đời, sự nghiệp của Bá chắc chắn sẽ tan thành mây khói.

    Trần Văn Bá cũng tiêu đời như Trần Văn Hai

    Nàng Oanh ở bến Sông Cầu lại không ngây thơ, trong lúc Trần Văn Bá muốn ém nhẹm sự việc tày đ́nh th́ người đẹp lại muốn công khai hóa chuyện Trần Văn Bá ăn ở với ḿnh để làm áp lực ṿi vĩnh tiền bạc và quyền lợi.

    Nàng Oanh đi đâu cũng ẵm con theo, công khai nói đó là con của ông tỉnh trưởng và yêu cầu Bá làm khai sinh cho con trai đứng tên cha hẳn hoi.

    Ông tỉnh trưởng biết đă “vào tṛng” th́ đă muộn nên mọi yêu sách của nàng Oanh bến Sông Cầu đều được đáp ứng đầy đủ kể cả việc mua một ngôi biệt thự, đầy đủ tiện nghi cho hai mẹ con nàng Oanh ở chỉ với mục đích nàng Oanh đừng làm ầm ĩ chuyện Bá trót lỡ dại nên gây ra thảm họa khó lường mà thôi.

    Nhưng cái mà Bá không lường nổi là Nguyễn Văn Thiệu sau bao nhiêu năm tháng vật đổi sao dời, hoàn cảnh đổi thay, biến cố dồn dập, tưởng rằng khi lên đến tuyệt đỉnh danh vọng và quyền lực, Thiệu không c̣n tâm trí và thời gian để nhớ chuyện xưa, một mối t́nh qua đường với cô gái ở bến Sông Cầu xa lắc.

    Thế mà Thiệu vẫn nhớ và Trần Văn Bá biết ngày tàn của ḿnh đă tới, nhưng với bản chất xảo trá, ham danh lợi và quyền lực, Trần Văn Bá không thể bó tay ngồi chờ chuyện xảy ra mà phải lật ngược t́nh thế.

    Thiệu đả hỏi thế tức là chưa biết mối quan hệ chết người giữa hắn và nàng Oanh ở bến Sông Cầu nên Bá c̣n hy vọng để lấp liếm. Thế là Bá tạm yên tâm, t́m cách nói cho qua chuyện với hy vọng trên cương vị Tổng thống, bây giờ Thiệu sẽ không t́m hiểu sâu chuyện này và nhanh chóng bỏ qua.

    Suốt những ngày sau đó, Trần Văn Bá cuống cuồng lo t́m đủ mọi cách để che mắt Thiệu và để Thiệu không c̣n những ư nghĩ bất chợt về nàng Oanh bên bến sông Cầu.

    Nhưng Bá đă lầm, câu hỏi của Nguyễn Văn Thiệu không phải một câu hỏi vu vơ. Thiệu cũng không bao giờ bỏ qua những nghi vấn trong đầu ḿnh. Bằng quyền lực và nhiều tai mắt ở tại dinh tỉnh trưởng của Trần Văn Bá, ít lâu sau Thiệu đă biết tỏng mọi chuyện và nổi điên lên v́ tay “đệ tử ruột” lại dám cả gan “phỗng tay trên” … đĩa mứt gừng của ḿnh xơi lén.

    Bằng nhiều lư do có cơ sở, Nguyễn Văn Thiệu đă lần lượt đánh cho Trần Văn Bá tơi tả và cuối cùng cách chức tỉnh trưởng Phú Yên của Trần Văn Bá khiến hắn ôm hận mà chẳng biết làm sao để rửa hờn, bởi ḱnh địch và t́nh địch của Bá lại là…Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

    Cuối cùng Trần Văn Bá chỉ c̣n cách ngước cổ lên trời bắt chước Chu Du của Đông Ngô mà than ai oán rằng: “Trời đă sinh Bá tại sao c̣n sinh Thiệu”? Một câu hỏi thậm ngu!.

    Đoạn kết của nàng Oanh ở bến sông Cầu

    Sau khi Trần Văn Bá bị cách chức tỉnh trưởng Phú Yên, bị Nguyễn Văn Thiệu chơi cho thân bại danh liệt, công danh sự nghiệp, kể cả con đường binh nghiệp cũng tiêu vong th́ nàng Oanh ở bến Sông Cầu không c̣n lư do ǵ để yêu sách nọ kia với Trần Văn Bá nữa.

    Nguyễn Văn Thiệu hạ Trần Văn Bá v́ tội dám trêu gan Tổng thống chứ chẳng phải v́ mục đích muốn chiếm lại nàng Oanh ở bến Công Cầu.

    Bởi lẽ, trong mắt Thiệu, nàng Oanh bây giờ không c̣n là nàng Oanh ngây thơ, trong sáng của ngày xưa lúc gạt lệ chia tay Thiếu tá Thiệu dưới bóng trăng huyền ảo nơi bến Sông Cầu lăng mạn, đầy t́nh tứ mà là một phụ nữ đă có con với một anh lính quèn, rồi c̣n sống “già nhân nghĩa non vợ chồng” với Trần Văn Bá - viên tỉnh trưởng thuộc quyền của ḿnh. Kịch đă hạ màn th́ vai diễn cũng chấm dứt.

    Chỉ khổ cho nàng Oanh, không c̣n là bồ nhí của Trần Văn Bá, lại không thể nào nối lại t́nh xưa nghĩa cũ với Nguyễn Văn Thiệu, cuộc đời nàng Oanh đang sống trong nhung lụa bỗng chốc mất tất cả.

    Về sau, nghe đâu nàng Oanh ở bến Sông Cầu lại lấy thêm một đời chồng nữa, đó là ông N.H.T, dân biểu chế độ cũ sống tại Phú Yên. Đến năm 1990, ông dân biểu này cùng nàng Oanh xuất cảnh sang Mỹ theo diện HO nhưng qua Mỹ rồi th́ đường ai nấy đi. Từ đó nàng Oanh ở bến Sông Cầu cũng mất tăm, biệt dạng.


    http://www.baomoi.com/Moi-tinh-thua-...19/9428943.epi

  5. #45
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Những bóng hồng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu


    (Người nổi tiếng)


    - Trái với người phó của ḿnh là Nguyễn Cao Kỳ thủa c̣n làm việc chung ở Phủ Đầu Rồng tức Dinh Độc Lập, Nguyễn Văn Thiệu trên cương vị Tổng thống của nền đệ nhị cộng ḥa trong chuyện t́nh ái có phần kín kẻ hơn, đúng với bản chất của một tay họat đầu chính trị gặp thời. Nếu Nguyễn Cao Kỳ “phổi ḅ”, đúng chất vơ biền của con nhà tướng bất đắc dĩ nhảy ra làm chính trị nên trong chuyện “cua gái” cũng tỏ ra hào hoa, phong nhă, thích được người ta ca ngợi là một người đàn ông có nhiều “tuyệt chiêu” chinh phục mỹ nhân.



    Ngược lại, Nguyễn Văn Thiệu cũng khoái “ăn vụng” nhưng “ăn vụng trong bóng tối, cũng thích “cua gái” nhưng “cua gái” bằng những tính toán, mưu mô thâm hiểm và giấu rất kỹ như “mèo giấu cứt”.

    Tuy nhiên, ở Sài G̣n trước năm 1975 chuyện “ăn vụng” của Nguyễn Văn Thiệu vẫn bị phát hiện, có điều do ở cương vị đương kim tổng thống đương thời, thế lực trùm thiên hạ nên những bê bối t́nh ái này được đám đàn em thân tín, vây cánh của Thiệu cố gắng dàn xếp, bưng bít.

    Nhưng “cây kim giấu trong bọc lâu ngày cũng ḷi ra”. Cuộc đời, ái t́nh, sự nghiệp của Nguyễn Văn Thiệu riêng phần ái t́nh ít nhất có 3 mỹ nhân đă được ghi nhận là người t́nh hoặc “vợ ngoài luồng” của ông ta được dư luận biết đến.

    Đặc biệt cả 3 “chuyện t́nh” này đều rất ly kỳ, thuộc vào loại “thâm cung bí sử” của ông chủ Phủ Đầu Rồng trước năm 1975 được bàn tán suốt mấy chục năm qua mà vẫn chưa ngă ngũ: trong đó có câu chuyện t́nh với ca sĩ Kim Loan và nàng gái nhảy Kim Anh Cyrnos

    Lời phủ nhận yếu ớt của ca sĩ Kim Loan

    Ở số báo trước, chúng tôi đă đề cập đến nghi vấn về mối t́nh của ca sĩ Kim Loan với Nguyễn Văn Thiệu – nguyên nhân khiến Kim Loan phải bỏ sự nghiệp đang rực sáng của ḿnh ở Sài Gon để sang Đức sống.

    Mặc dù ca sĩ Kim Loan đă phủ nhận mối quan hệ của cô vói TT Nguyễn Văn Thiệu. Tuy nhiên những lời giải thích của ca sĩ Kim Loan đă không thuyết phục được dư luận, nhất là với cánh nhà báo.


    Ca sĩ Kim Loan - người t́nh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu?

    Bởi lẽ chuyện Kim Loan trở thành “pḥng nh́ “ của TT Nguyễn Văn Thiệu được Trung tướng Đặng Văn Quang và Trung tá Ngân kể cả Hoàng Đức Nhă, Tổng trưởng Dân vận-Thông tin và Chiêu hồi chế độ cũ cố gắng dàn xếp, tém dẹp gọn gàng bằng cách “gài độ” cho Kim Loan…di tản sang Đức với người chồng hờ làm “Lê Lai cứu chúa” cũng không che mắt được thế gian, nhất là với bà Mai Anh, vợ chính thức của Nguyễn Văn Thiệu.

    C̣n v́ sao, phải đợi khi TT Nguyễn Văn Thiệu mất rồi, ca sĩ Kim Loan mới “dám” lên tiếng nhằm “giải nỗi oan t́nh” bấy lâu nay phải đa mang cũng là chuyện dễ hiểu.

    Nhưng Kim Loan đă quên rằng vẫn c̣n nhiều nhân chứng sống biết được chuyện này tường tận đến từng chân tơ kẽ tóc mà có thể hồi c̣n “dung dăng dung dẻ” với ngài Tổng thổng đầy quyền uy, Kim Loan đă không để ư hoặc đă quên.

    Trong số những nhân chứng sống ấy có một người từng là “đầu bếp” của đôi t́nh nhân Thiệu-Loan, phục vụ trên chiếc tàu chiến của lực lượng Hải Quân vùng Duyên Hải để lo câu cá, chế biến những món ăn “đặc sản biển” theo kiểu dân dă, lạ miệng, hợp khẩu vị với ngài Tổng thống đă chán cao lương mỹ vị và người đẹp ca sĩ cũng bắt đầu quen thói cao sang, thích được Tổng thổng chiều chuộng và có “lính” để hầu hạ 24/24 giờ những khi Thiệu lén lút bà Mai Anh với lư do công vụ để ra đảo Phú Quốc du hí với Kim Loan.

    Phải nói đây là mưu kế của Đặng Văn Quang và Trung tá Ngân nhằm tổ chức một cuộc hẹn ḥ cho Thiệu với Kim Loan xa đất liền, tới một nơi chỉ có trời và nước và những tay chân thân tính nhằm tránh miệng lưỡi thế gian.

    Nhất là tai mắt của “đệ nhất phu nhân” Mai Anh và những đối thủ chính trị của Thiệu. Nhưng Đặng Văn Quang cũng không dại ra mặt, tay trùm t́nh báo này có thừa mưu ma chước quỷ để “né đạn” với cô cháu gái Mai Anh gọi ông ta bằng cậu mà vừa lấy được ḷng đứa cháu rể Tổng thống nên đă giao nhiệm vụ tổ chức cuộc hẹn ḥ, du hí này cho đàn em thân tín dưới quyền của ḿnh là Trung tá Ngân, c̣n Quang chỉ đứng phía sau chỉ đạo.

    Trung tá Ngân đă tới tận nhà gặp ca sĩ Kim Loan khéo léo nhắn lời của ngài tổng thống mời cô tham gia với đoàn văn nghệ hát giúp vui cho sĩ quan, binh lính Hải Quân thuộc Bộ Tư lệnh vùng 4 Duyên Hải tại căn cứ An Thới đảo Phú Quốc. Tất nhiên Kim Loan hoan hỉ nhận lời.

    Cuộc hoan lạc trên đảo Phú Quốc của TT Thiệu và người t́nh

    Tới ngày N, giờ G của cuộc ḥ hẹn với người đẹp, Đặng Văn Quang tổ chức cho Nguyễn Văn Thiệu bay ra đảo Phú Quốc trước với một toán cận vệ trung thành bằng chiếc D.C4 đáp xuống sân bay An Thới (Lúc này Phú Quốc có 2 sân bay dă chiến, nhưng chỉ có sân bay An Thới sử dụng, c̣n sân bay Dương Đông bỏ hoang).

    Trước khi Thiệu bay ra Phú Quốc, Đặng Văn Quang đă mật lệnh cho cho Đại tá Đỗ Kiểm Tư lệnh Hải Quân vùng 4 Duyên Hải và Đại tá Trần Văn Th́, Đặc Khu trưởng Phú Quốc biết tổng thống sẽ ra Phú Quốc nghỉ mát xă stress để hai ông trùm xứ biển này tổ chức nghênh đón và dàn đội h́nh tàu chiến ra bảo vệ an ninh ṿng ngoài.

    Đại úy Phạm Ngọc Ḱnh chỉ huy Hải đội 4 lập tức nhận lệnh đưa toàn bộ tàu PCF của Hải đội ra biển án ngữ cách địa điểm tổng thống “nghỉ mát” chỉ non cây số để cảnh giới, đề pḥng bất trắc từ đêm hôm trước.

    Khi chiếc D.C4 vượt trùng dương vừa đưa ngài tổng thống đáp xuống phi trường An Thới, hai ông đại tá trùm xứ biển Phú Quốc đă tục trực, tiền hô, hậu ủng đón rước đưa ra một chiếc tàu chỉ huy lúc bấy giờ đă được ngụy trang giống như một chiếc du thuyền nghỉ ngơi chờ người đẹp.

    Trong khi đó, ở đất liền, Trung tá Ngân tới tận nhà đón ca sĩ Kim Loan ra phi trường Tân Sơn Nhất có Trung tướng Đặng Văn Quang chờ sẵn cũng trên một chiếc D.C4 rồi cùng bay ra Phú Quốc hội ngộ với tổng thống Thiệu.

    Có lẽ chán những món cao lương mỹ vị mà trùm xứ biển khoản đăi hay người đẹp Kim Loan nổi chứng…thèm hải sản nên một hôm Thiệu hỏi “chúa đảo” Trần Văn Th́ xem có đệ tử nào là tay sát cá tiến cử cho Thiệu để đưa lên “du thuyền” làm nhiệm vụ câu cá, rồi chế biến luôn trên tàu thành những món ăn dân dă để Thiệu và “em bé ca sĩ” thưởng thức.

    “Chúa đảo” Trần Văn Th́ đáp ứng ngay yêu cầu của ngài tổng thống, lập tức Phan Văn Muôn, một anh lính nghĩa quân người tại An Thới xuất thân từ gia đ́nh “ ngư ông” thứ thiệt thuộc thế hệ thứ 2 được tay chân của “Chúa đảo” truy t́m đưa tới, Th́ tiến cử ngay Phan Văn Muôn cho Thiệu.

    Ngắm nghía Phan Văn Muôn từ đầu tới chân, Thiệu rất ưng ư gă thanh niên cục mịch, vai u thịt bắp ra dáng một ngư ông đích thực, nhất là gương mặt lầm ĺ, ít nói và hầu như chẳng quan tâm tới người ngồi trước mặt ḿnh là ai.

    Cái ngữ lầm ĺ, ít nói này rất được việc và kín tiếng, đó là điều kiện tiên quyết để trở thành người hầu cận thân tín của thiệu trong những chuyến vui chơi, giải trí với người đẹp mà không sợ “tai vách, mạch rừng”. Thiệu hài ḷng cho Phan Văn Muôn thử tay nghề “thợ câu”.

    Ngay lập tức, Phan Văn Muôn đă cho ngài tổng thống biết tài nghệ siêu quần của ḿnh. Anh ta câu được rất nhiều cá, mực, tôm, cua, ghẹ…nói chung là quà tặng của biển cả.

    Phan Văn Muôn c̣n hay ở chỗ là biết chế biến các loại hải sản tươi sống thành những món ăn dân dă tuyệt ngon khiến Thiệu và người đẹp Kim Loan mê tít và giữ rịt anh thợ câu này suốt 24/24 trên tàu và lệnh cho Trần Văn Th́ miễn tất cả mọi thứ trực gác cho anh lính nghĩa quân, biệt phái luôn lên tàu làm hầu cận cho “vợ chồng” Thiệu suốt những ngày du hí ở Phú Quốc.

    Sau đó “cái ông tổng thống mê hài sản” này c̣n ra du hí với người đẹp ca sĩ vài lần nữa rồi…mất h́nh luôn. Phan Văn Muôn cũng được “giải tháo số phận hầu cận, đưa về vị trí cũ.

    Anh ta thắc mắc với ngài Đại tá “Chúa đảo” sao không thấy tổng thống và người đẹp mê hải sản ra chơi nữa? Trần Văn Th́ chỉ nói một câu gọn lỏn: “Từ bây giờ mày hăy quên chuyện ấy đi”.

    Nhưng ca sĩ Kim Loan có thể quên hoặc cố t́nh không nhớ chứ Phan Văn Muôn th́ c̣n nhớ rất rơ những cuộc du hí giữa trời nước mênh mông của cô với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bởi ngoài những kỷ niệm câu cá, chế biến các món ăn từ hải sản tươi sống cho hai người ăn ngon miệng, tăng cường sinh lực tha hồ du hí.

    Phan Văn Muôn trong vai tṛ người hầu cận thân tín suốt một thời gian cho ngài tổng thống đă được ông ta tưởng thưởng rất nhiều tiền, đồng thời cả hai ông Đại tá trùm xứ đảo Phú Quốc v́ muốn lấy ḷng “người hầu cận thân tín của vua” nên cũng cho rất nhiều bổng lộc đủ để Phan Văn Muôn xây một ngôi nhà khang trang tại An Thới.

    Và trở thành một trong những nhân chứng sống kể chuyện mối t́nh của ngài tổng thống đệ nhị cộng ḥa Nguyễn Văn Thiệu và cô ca sĩ Kim Loan thời ân ái mặn nồng tại đảo Phú Quốc mà dù muốn quên đi chuyện cũ, cô ca sĩ cũng khó “đỡ” nổi.

    Nàng Kim Anh Cyrnos

    Nàng Oanh ở bến Sông Cầu tỉnh Phú Yên mối t́nh thắm thiết, lăng mạn của Nguyễn Văn Thiệu thời trai trẻ, công chưa thành, danh chưa toại gặp nhiều trắc trở, do hoàn cảnh chiến tranh nên chia tay rồi không có con đường quay lại.

    Đến cô ca sĩ Kim Loan khi danh đă toại, công đă thành th́ Nguyễn Văn Thiệu sợ các thế lực chính trị thù địch moi móc ra chuyện bê bối này để tấn công, hạ uy thế nên cực chẳng đă trong lúc hương đang đượm, lửa đang nồng mà phải tổ chức…di tản người đẹp sang Tây Đức để lánh nạn.

    Nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa dừng lại trong cuộc chơi ái t́nh khi Nguyễn Cao Thăng, một dược sĩ tên tuổi, giàu nứt đố đổ vách trước năm 1975 ở Sài G̣n đồng thời giữ chức “phụ tá” cho tổng thống v́ mưu đồ chính trị, lợi lộc kinh doanh đă bày mưu tính kế với Đặng Văn Quang và Hoàng Đức Nhă gài độ cho Nguyễn Văn Thiệu một kiều nữ lẳng lơ, dâm đăng bậc nhất Sài G̣n để “ăn vụng” rồi trở thành vợ bé của ông ta măi tới khi Sài G̣n sụp đổ.

    Người đẹp lẳng lơ dâm đăng nổi tiếng “chài trai” này chẳng phải ai khác mà chính là “nhân t́nh” của Nguyễn Cao Thăng.

    Nàng tên là Trần Thị Kim Anh, một phụ nữ không c̣n trẻ, chẳng phải thuộc hạng hoa khôi, hoa hậu, chân lại ngắn, thân h́nh đẩy đà, nước da chẳng trắng như trứng gá bóc nhưng bù lại ăn nói có duyên, giọng như rót mật vào tai dàn ông và có biệt tài trong khoa giường chiếu nên làm cho bao đàn ông mê mệt.

    Trần Thị Kim Anh xuất thân là ca ve hạng sang rồi nhảy lên làm chủ quán bar, vũ trường Cyrnos nổi tiếng ở Vũng Tàu nên có biệt danh là Kim Anh Cyrnos. Nguyễn Cao Thăng đă “xài” nàng Kim Anh Cyrnos chán chê nên đă biến cô nàng thành “hàng gài” cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

    Chắc chắn Thiệu cũng như Nguyễn Cao Thăng chẳng yêu thương ǵ Kim Anh Cyrnos, nhưng rơ ràng là rất “kết mô đen” người phụ nữ dâm đăng lộ ra tới gương mặt này. Do đó khi được bộ ba hoạt đầu chính trị Đặng Văn Quang-Hoàng Đức Nhă-Nguyễn Cao Thăng gợi ư, tổ chức cho Thiệu gặp Kim Anh Cyrnos tại Vũng Tàu, Thiệu hoan hỉ OK.

    Đứa con rơi của Tổng thống Thiệu và Kim Anh Cyrnos

    Chỉ một vài lần Nguyễn Văn Thiệu và bộ sậu: Quang, Nhă, Thăng đi họp “chuyện quốc gia đại sự” ở Vũng Tàu th́…nàng Kim Anh Cyrnos mang thai và hạ sinh một cậu con trai. Cậu con trai không mong muốn này chẳng biết có phải của Thiệu không chắc chỉ có…nàng Kim Anh Cyrnos biết hoặc một người nữa là “phụ tá tổng thống” Nguyễn Cao Thăng biết.

    Nhưng con rơi thiệt hay con “gài hàng” sự có mặt của cậu bé này sau khi nàng Kim Anh Cyrnos quan hệ với ngài tổng thống dù bí mật, cũng không thể chấp nhận, bởi nếu thông tin này lọt ra ngoài th́ sự nghiệp chính trị của Thiệu có thể đi tong trong phút chốc.

    Do đó sau khi sinh ra được ít lâu, cậu bé này bỗng dưng…biến mất như chưa hề có mặt trên đời. Người ta đồn rằng n2ng Kim Anh Cyrnos đă gửi con cho người khác nuôi ở một nơi bí mật, lớn lên cậu bé đă được đưa ra nước ngoài du học.

    C̣n nàng Kim Anh Cyrnos th́ từ giă quán bar, vũ trường Cyrnos ở Vũng Tàu nhảy vào chính trường, được Nguyễn Văn Thiệu chống lưng đưa lên làm dân biểu quốc hội, tức bà Nghị Kim Anh danh giá một thời ở Hạ nghị viện Sài G̣n.

    Gần ngày 30/4/1975 thời thế đă xoay chuyển với tốc độ cực nhanh. Quân Giải phóng đă làm chủ miền Trung và Tây Nguyên đang tiến về Sài G̣n bằng 5 cánh quân thần tốc.

    Ván cờ đă sắp tàn, con cờ Nguyễn Văn Thiệu không c̣n sử dụng vào việc ǵ được nữa, ngay cả làm con chốt thí cũng chẳng xong nên Mỹ muốn thay Thiệu bằng ê kíp khác bằng giải pháp chính trị hơn là quân sự.

    Do đó Nguyễn Văn Thiệu bị Mỹ ép từ chức và ra đi trong danh dự, không c̣n con đường nào khác, nguyễn Văn Thiệu chấp nhận giải pháp này và lên truyền h́nh đọc bài diễn văn lâm ly bi đát khóc than đă bị Mỹ bỏ rơi rồi nhường ghế tổng thổng lại cho ông già gân Trần Văn Hương vào ngày 21/4/1975.

    Rồi cũng rất nhanh chóng ông già gân Trần Văn Hương lên đài giọng run rẩy, lắp bắp…nhường ghế Tổng thống lại cho Big Minh, tức tướng Dương Văn Minh dẫn tới sự đầu hàng vô điều kiện của chính phủ này vào trưa 30/4/1975 lịch sử.

    Trước đó, sau khi đọc xong bài diễn văn từ chức có những lúc phải nghẹn ngào dừng lại trong khoảnh khắc, Nguyễn Văn Thiệu lập tức ra phi trường Tân Sơn Nhất “bỏ của chạy lấy người”.

    Thiệu đi một ḿnh mà không có vợ con, bởi “đệ nhất phu nhân” Mai Anh đă mang theo của nả, con cái đi trước đó mấy ngày. Người ta cũng chẳng thấy Thiệu cho nàng Kim Anh Cynos đi theo mà bị Thiệu bỏ lại trong t́nh thế hỗn loạn của cuộc đào thoát có tổ chức.

    Kim Anh Cyrnos là CIA của Mỹ "Gài" cho Thiệu ?

    Chuyện Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đào thoát không mang theo nàng Kim Anh Cynos trong giờ phút cuối cùng, cũng như nghi vấn đứa con rơi của ông ta với người t́nh Kim Anh Cynos vẫn c̣n là một ẩn số cho tới ngày Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam.

    Nhưng chuyện nàng Kim Anh Cyrnos là một nhân viên CIA th́ đă rơ, sau ngày 30/4/1975 Trần Thị Kim Anh bị bắt đi cải tạo tập trung tại trại giam Tam Hiệp, TP Biên Ḥa- Đồng Nai.

    Tại đây Kim Anh Cynos có cơ hội gặp gỡ một người đàn ông khác, một cán bộ cách mạng biến chất và một lần nữa đă dùng nhan sắc và sự hấp dẫn của ḿnh để mồi chài Nguyễn Hữu Giộc tức Mười Vân Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai thời kỳ đó để được Nguyễn Hữu Giộc kư lệnh trả tự do, thoát khỏi trại giam Tân Hiệp sống lén lút với nhau “già nhân ngăi non nghĩa vợ chồng”.

    Chính cuộc gặp gỡ định mệnh và mối t́nh sét đánh với nàng Kim Anh Cyrnos đă biến Mười Vân thành con cờ trong tay để nàng sai khiến, rồi đưa Mười Vân ra pháp trường lănh án tử. Nhưng đó lại là một câu chuyện khác.

    Trở lại với Nguyễn Văn Thiệu, sau khi ra nước ngoài ông ta không chung sống với vợ con ở Mỹ mà sống riêng một ḿnh ở Anh Quốc. Không biết có phải Thiệu sống như vậy là cố ư đợi nàng Kim Anh Cyrhos tái hợp ở trời Tây không?

    Nhưng khi nàng Kim Anh Cyrnos xỏ mũi được Nguyễn Hữu Giộc, được ông Đại tá Giám đốc CA Đồng Nai chống lưng cho làm chủ một số băi đáp tổ chức đưa người vượt biên có thu tiền thời đó, cả hai đă tạo được một khối lượng tài sản kếch sù, thu cả bao vàng mỗi đêm.

    Sau đó Nguyễn Hữu Giộc đă tổ chức cho nàng Kim Anh Cyrnos vượt biên mang theo số tài sản khổng lồ mà hai người kiếm được qua Mỹ với kế hoạch mua nhà, chuẩn bị điều kiên vật chất đầy đủ đợi Nguyễn Hữu Giộc t́m cơ hội vượt biên qua đó sống chung.

    Tái hồi Kim Trọng và cú đánh hiểm hạ Nốc - ao Mười Vân

    Nhưng với một người như Kim Anh Cyrnos, gián điệp của CIA th́ Nguyễn Hữu Giộc cũng chỉ là một con cờ để ả lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ của ḿnh. Sau khi qua Mỹ, Kim Anh Cyrnos đă t́m cách liên lạc với Nguyễn Văn Thiệu và hai người đă “tái hợp” nơi đất khách sau khoảng thời gian dài cách biệt.

    Đồng thời không biết có phải nàng Kim Anh Cyrnos đă bàn mưu, tính kế với Thiệu để “triệt buộc” Nguyễn Hữu Giộc hay không mà sau đó nàng đă viết đơn gửi về tố cáo “ân nhân” đă cứu ḿnh ra khỏi trại giam Tam Hiệp rồi tạo dựng cho nàng một sự nghiệp bên trời Tây với lời hứa hẹn sẽ gặp lại nhau, hưởng vinh hoa phú quư, hạnh phúc suốt đời.

    Nhưng khi đă đạt được ư nguyện, nàng Kim Anh Cyrnos đă quay lại với người t́nh cũ, một ông tổng thống thua cuộc, chạy trốn, náu thân nơi xứ người để quay ngoắt 180 độ đánh cho Nguyễn Hữu Giộc tức Mười Vân một đ̣n hiểm hóc hạ đo ván ông này ngay tại vơ đài.

    http://phunutoday.vn//blog-nguoi-noi...Thieu-2183182/

  6. #46
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Ca sĩ Kim Loan và oan t́nh với Tổng thống Thiệu?

    (Người nổi tiếng)


    - Là ca sĩ được xếp vào hàng ngôi sao tại Sài G̣n trước năm 1975, đột nhiên Kim Loan sang Tây Đức định cư rồi lấy chồng ở đó. Điều ǵ đă khiến một cô ca sĩ đang trên đỉnh vinh quang bỗng từ bỏ tất cả để đến sống ở đất khách quê người?

    Tuy Kim Loan vẫn luôn luôn phủ nhận, nhưng nhiều nguồn tin cho rằng Kim Loan sang Tây Đức với cái bào thai của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và nỗi sợ hăi về sự ghen tuông của bà Mai Anh – vợ Tổng thống Thiệu, người đàn bà nổi tiếng với máu “Hoạn Thư” nhất nh́ Sài G̣n thời đó.

    Những ḷ đào tạo ca sĩ trước năm 1975

    Cũng giống như bây giờ, nhiều cô gái không có năng khiếu hoặc có chút ít năng khiếu ca hát bẩm sinh mà muốn trở thanh ca sĩ th́ phải đầu quân vào một ḷ chuyên đào tạo, rèn luyện ca sĩ. Chỉ khác một điều, những ḷ đào tạo ca sĩ trước năm 1975 rất có trách nhiệm.

    Nếu các cô gái trẻ thích đi theo nghề ca hát được một “ông bầu” hay “chủ trung tâm” nhận lời th́ chắc chắn sẽ có cơ hội tiến thân và chắc chắn sẽ trở thành ca sĩ.

    Họ chịu trách nhiệm từ A đến Z, tức là đào tạo, rèn luyện theo cách của ḿnh, có phương pháp, bí quyết riêng… đến khi “coi gị coi cẳng” thấy “gà” có thể ra đấu trường họ sẽ t́m mọi cách lăng xê, giới thiệu trên báo, đài, các chương tŕnh đại nhạc hội, pḥng trà, thu băng, thu đĩa, tŕnh diễn trên màn ảnh nhỏ.

    Tên tuổi của ca sĩ sẽ gắn kết với uy tín của “ḷ đào tạo” để hai bên cùng có lợi.

    Trước năm 1975, xuất phát từ nhu cầu vui chơi, giải trí của xă hội, mà đặc trưng là của thành phố Sài G̣n vốn được mệnh danh là “ḥn ngọc Viễn Đông”, hệ thống pḥng trà, quán bar, vũ trường mọc lên khắp nơi, và hút vào đó là các gái nhảy và cả ca sĩ và nghề đào tạo ca sĩ của các “ḷ” cũng là một nghề ăn nên làm ra.


    Kim Loan là ca sĩ được xếp vào hàng ngôi sao tại Sài G̣n trước năm 1975.

    Một số “ḷ” đào tạo ca sĩ nổi tiếng, có uy tín thời bấy giờ như Nguyễn Đức, Tùng Lâm, Duy Khánh, Lan Đài, Hoàng Thi Thơ… đă liên tiếp cho tŕnh làng những thế hệ ca sĩ nổi tiếng, trong đó thành công nhất là ḷ Nguyễn Đức với ông bầu là nhạc sĩ “Nguyễn Đức”.

    Ông này nổi tiếng không phải về sáng tác nhạc mà là… đào tạo ca sĩ tay ngang thành danh cho sân khấu ca nhạc Sài G̣n.

    Ca sĩ Kim Loan của ḷ Nguyễn Đức

    Ca sĩ Kim Loan là thế hệ ca sĩ được ông bầu Nguyễn Đức đặt nghệ danh hàng chữ “Kim” cùng thời với những: Kim Cương, Kim Hương, Kim Anh… Kim Loan được bầu Nguyễn Đức nhận làm đệ tử từ lúc c̣n nhỏ, ở lứa tuổi thiếu nhi, lúc đó, Kim Loan mới vừa được 8-9 tuổi.

    Và qua những năm tháng được thầy Nguyễn Đức vốn được mệnh danh là “phù thủy” có thể biến một giọng hát “tay ngang” thành một ca sĩ nổi tiếng, cô bé Kim Loan ngày nào bỗng chốc đă trở thành một giọng ca đầy triển vọng.

    Và quả thật như thế, năm 17 tuổi, nói chính xác là 17 tuổi rưỡi, Kim Loan đă ra mắt khán thính giả bài hát “tủ” được thầy Nguyễn Đức chọn là bài “Căn nhà ngoại ô” và lập tức trở nên nổi tiếng. Ngày đáng nhớ của một giọng ca mới “ra ḷ” này chính là ngày 8/8/1966.

    Kim Loan c̣n rất trẻ, nhưng nổi trội về nhan sắc. Cô có nét đẹp rất “Tây”, từ gương mặt bầu bĩnh, đôi mắt to sâu thẳm, tóc dài, nụ cười duyên dáng tới dáng người thon thả, quyến rũ trong tà áo dài kiểu nữ sinh.

    Sở hữu một chất giọng mũi khàn, đục phù hợp với những điệu boléro, rumba, slow… Kim Loan nhanh chóng trở thành giọng ca ăn khách của các vũ trường, pḥng trà, đại nhạc hội, đài phát thanh, màn ảnh truyền h́nh, thu băng, thu đĩa…

    Nhờ nhan sắc và giọng ca đặc biệt không lẫn lộn, Kim Loan đă trở thành một ngôi sao trong làng ca nhạc thời bấy giờ. Nhất là khi bước lên sân khấu pḥng trà, hay vũ trường dưới ánh đèn rực rỡ, cô càng trở nên rực rỡ, quyến rũ hơn.


    Kim Loan trước sau như một khẳng định với các phóng viên rằng trong giới chính khách, tướng lĩnh Sài G̣n cũ cô chỉ gặp ông Nguyễn Cao Kỳ một vài lần, c̣n Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu th́ chưa hề.

    Bởi thế Kim Loan mới chen chân được với thế hệ ca sĩ hàng chữ “Phương” lúc bấy giờ đă nổi danh như: Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế… hay cả thế hệ ca sĩ đàn chị như: Phương Dung, Hoàng Oanh, Hà Thanh…

    Giữa lúc con đường ca hát của Kim Loan đang lên như diều gặp gió và là niềm kỳ vọng của bầu Nguyễn Đức th́ định mệnh nghiệt ngă đă đến với cô ca sĩ trẻ đẹp này chỉ trong một đêm, năm đó cô vừa 20 tuổi.

    Gặp gỡ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

    Đó là đêm Kim Loan nhận lời hát phục vụ cho quân lính binh chủng Biệt Động Quân tại trại Đào Bá Phước có Tổng Thống chế độ cũ Nguyễn Văn Thiệu dự. Cô ca sĩ trẻ đẹp, hát không hay nhưng có chất giọng ấn tượng, phong thái như “ Tây” đă lọt vào mắt xanh của vị Tổng Thống đa t́nh.

    Lập tức, Nguyễn Văn Thiệu đă “trải ḷng thầm kín” của ḿnh cho Đặng Văn Quang, một viên tướng t́nh báo dưới quyền, đồng thời là cậu vợ của Nguyễn Văn Thiệu và Trung tá Ngân, sĩ quan tin cẩn đứng ra thu xếp để Nguyễn Văn Thiệu sớm gặp được “người đẹp” đă có sức mạnh giáng cho ngài Tổng Thống một cú sét ái t́nh làm ông ta bị “choáng”.

    Tất nhiên Tổng Thống muốn là “vua” muốn, bằng nhiều cách, nhiều kênh bí mật, Đặng Văn Quang và Trung tá Ngân đă đưa được ca sĩ Kim Loan vào Dinh Độc Lập mà báo chí bấy giờ gọi là “Phủ Đầu rồng” với lớp vỏ bọc ngụy trang là” “hát cho Tổng Thống nghe”.

    Nhưng hát rồi Tổng Thống giữ luôn cô ca sĩ ở lại “Phủ Đầu rồng” không cho về nhà. Và sau một năm, Kim Loan “hát” thường xuyên cho Tổng Thống “nghe” như vậy th́ cô mang thai.

    Lúc này chuyện cũng đă lùm xùm, cánh báo chí lúc đó cũng đă biết và nghe đâu chính bà Mai Anh vợ của Nguyễn Văn Thiệu cũng đă biết. Nhưng v́ giữ thể diện cho chồng và chiếc ghế Tổng Thống, người đàn bà có máu ghen Hoạn Thư này đă nuốt giận, khôn khéo lên kế hoạch để “làm thịt” bí mật cô t́nh địch ca sĩ.

    Tất nhiên, Đặng Văn Quang và Trung tá Ngân cũng nắm được t́nh h́nh nên báo cáo cho Nguyễn Văn Thiệu mối hiểm họa đang tiềm ẩn và có nguy cơ bùng phát bất cứ lúc nào.

    Lập tức, Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho tâm phúc chiêu “xóa sạch tang chứng”, thế là Đặng Văn Quang và Trung tá Ngân thực hiện kế hoạch “hỏa tốc”, họ đă “đẩy” cái bào thai trong bụng cô ca sĩ cho một Đại úy dưới quyền và đưa cả hai “vợ chồng” này qua Tây Đức sinh sống, vĩnh viễn không trở về Việt Nam khi nào Nguyễn Văn Thiệu c̣n làm Tổng Thống.

    Năm đó là năm 1969, chính xác là vào ngày 6/11/1969, cũng là ngày chấm dứt cuộc đời ca hát của ca sĩ Kim Loan ở trong nước. Câu chuyện ly kỳ này th́ chưa rơ trắng đen, chính xác đến bao nhiêu phần trăm, nhưng có lẽ chuyện sau đây là sự thật:

    Số là cùng thời điểm đó, có hai ca sĩ trùng tên Kim Loan và đều trẻ đẹp. Một là Kim Loan nhân vật trong bài này, hai là Kim Loan vừa hát tân nhạc vừa hát cải lương mà nổi tiếng với làng cải lương nhiều hơn.

    Do trùng tên với ca sĩ Kim Loan, người t́nh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nên không biết có một thế lực ngầm nào yêu cầu cô Kim Loan cải lương phải đổi tên khác, không thể để trùng tên với cô Kim Loan tân nhạc được.

    Và chắc chắn “thế lực ngầm” này rất mạnh nên sau khi Kim Loan cải lương lănh giải Thanh Tâm năm 1963, người ta thấy cô Kim Loan cải lương đổi tên thành Mộng Tuyền. Và rồi Mộng Tuyền từ cải lương bước sang điện ảnh, nổi tiếng ngay với phim “Gánh hàng hoa” của hăng phim Thái Dương.

    Những ngày lưu lạc

    Kim Loan sang Tây Đức th́ định cư ở thành phố Cologne. Và không hiểu cặp vợ chồng “gán ghép” này sống thế nào nhưng nghe nói chỉ sau 1 năm, Kim Loan đă kết hôn với một Việt kiều tại Tây Đức.

    Kim Loan không chỉ t́m được hạnh phúc mới mà c̣n chứng tỏ cô là một người có ư chí v́ đă theo học khoa Xă hội Sư phạm, sau đó được Bộ Xă hội Tây Đức nhận vào làm việc.

    Hiện ca sĩ Kim Loan là chủ một thẩm mỹ viện, vừa kinh doanh, vừa đi hát trở lại trong những chương tŕnh văn nghệ phục vụ kiều bào hải ngoại.

    Trước đó vào năm 1978, Kim Loan được mời đóng vai Điêu Thuyền trong vở “Phụng Nghi Đ́nh” do đoàn Kim Chung dàn dựng phục vụ kiều bào ở Pháp do Hội Việt kiều yêu nước ở Paris tổ chức. Trước đó nữa, năm 1977, ca sĩ Kim Loan cũng đă tham gia một chương tŕnh văn nghệ ở khu Maubert Mutualité tại Paris.

    Nhưng có thể nói, ngày 17/8/2006 là một dấu mốc trong sự nghiệp ca hát của ca sĩ Kim Loan kể từ khi cô rời Việt Nam sang định cư ở Tây Đức.

    Đó là ngày Kim Loan đi hát trở lại nhưng không phải tại nơi cô định cư mà nơi cô tŕnh diễn là Trung tâm Asia ở miền Nam California Mỹ trong chương tŕnh văn nghệ chủ đề “Huyền thoại Lê Minh Bằng” đề cập đến 3 nhạc sĩ kư một tên chung là Lê Minh Bằng, nổi tiếng ở Sài G̣n trước năm 1975.

    Đó là Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng. Trong chương tŕnh này, Kim Loan đă hát lại bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ “3 trong 1” Lê Minh Bằng trước năm 1975, đó là bài “Đôi bóng”.

    Ngày Kim Loan đi hát trở lại ở hải ngoại cũng lại là một sự t́nh cờ thú vị, v́ ngày này cũng là kỷ niệm 40 năm lần đâu tiên đi hát của ca sĩ Kim Loan ở Sài G̣n, đánh dấu bằng bài hát “Căn nhà ngoại ô”.

    Tuy nhiên khi trở lại với sân khấu, dù chỉ thỉnh thoảng mới có show, ca sĩ Kim Loan sau ngần ấy thời gian “im hơi lặng tiếng” để sống với vai tṛ người vợ, người mẹ, chăm lo hạnh phúc gia đ́nh và kinh doanh thẩm mỹ viện, hầu như lăng quên mọi chuyện xảy ra trước đây ở Việt Nam th́ lại đối mặt với “nghi án” chuyện t́nh với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu như đă nói ở trên.

    Một số phóng viên đă phỏng vấn Kim Loan về “nghi án” này bằng những câu hỏi thẳng thắn, không rào đón, có lẽ họ muốn làm rơ trắng đen về câu chuyện một thời đă gây xôn xao dư luận ở Sài G̣n và nó dính tới Tổng Thổng Nguyễn Văn Thiệu-một nhân vật chop bu của chế độ cũ.

    Bí ẩn chưa được giải đáp

    Tuy nhiên, Kim Loan đă phủ nhận tin đồn này. Cô trả lời rằng, cô sang Tây Đức vào năm 1969, không phải với bào thai nằm trong bụng hay chạy trốn sự đe dọa trả thù của bà Mai Anh - vợ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà cô sang Tây Đức để du học.

    Kim Loan đă theo học khoa Xă hội Sư phạm và trong lúc chưa tốt nghiệp đă được Bộ Xă hội của chính phủ Đức mời làm việc. Kim Loan trở thành nhân viên của Bộ này và nhiều cơ quan chính quyền Đức trong nhiều năm.

    Vừa đi làm vừa đi học và nhờ học mấy năm Khoa Cosmotology nên Kim Loan đi làm việc ở các cơ sở thẩm mỹ viện của Đức, sau này mở riêng thẩm viện của ḿnh và làm chủ cho đến khi vừa kinh doanh vừa đi hát trở lại tính ra đă 30 năm.

    Kim Loan khẳng định, cô qua Đức ngày 6/11/1969, một năm sau, ngày 6/11/1970 Kim Loan đúng 21 tuổi và lập gia đ́nh với anh Minh, chồng cô bây giờ. Hai người sống với nhau rất hạnh phúc.

    Vào năm 1972- 1973, con trai của Kim Loan bị bệnh phải điều trị trong bệnh viện, Kim Loan ra vào thường xuyên có nghe tin đồn này, đồng thời ở Sài G̣n người thân trong gia đ́nh cô cũng có viết thư sang báo rằng có tin đồn không hay như thế.

    Chính gia đ́nh cũng như bản thân Kim Loan cũng rất ngạc nhiên tại sao lại có tin đồn ác ư trong khi Kim Loan chưa từng gặp Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, chưa từng vào Dinh Độc Lập để hát cho ông ta nghe và ở lại suốt đêm như một số dư luận đồn đại.

    Giải thích chuyện này, Kim Loan cho rằng có lẽ lúc ấy Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đang tái ứng cử trong vai tṛ “độc diễn” nên các thế lực chính trị tung tin đồn ác ư nhằm hạ uy tín ông ta v́ mục đích chính trị.

    C̣n tại sao dư luận không đồn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lăng nhăng t́nh ái với các ca sĩ khác mà với Kim Loan? Th́ cô ca sĩ này cũng hồn nhiên giải thích rằng v́ nếu đồn cho ca sĩ c̣n ở Sài G̣n th́ không ai dám v́ chắc chắn có người đối chứng, làm dữ, chỉ đồn cho ca sĩ ờ nước ngoài th́ không căi lại được.

    Kim Loan c̣n khẳng định rằng, nếu cô c̣n ở Sài G̣n lúc ấy, chắc chắn cô sẽ làm toáng lên rồi. Sẵn dịp được phỏng vấn, Kim Loan cũng có cơ hội để bày tỏ ư định của ḿnh từ lâu, cô muốn nói rơ trắng đen chuyện này và chê luôn bà Mai Anh, vợ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rằng bà này đă ứng xử quá kém, quá vô t́nh trước những tin đồn đầy ác ư cho chồng bà mà không công khai đính chính hay tỏ thái độ phản bác v́ hơn ai hết, chính bà Mai Anh biết rơ chồng bà là nạn nhân của những tin đồn quái ác này.

    Ca sĩ Kim Loan chỉ thừa nhận trong khi c̣n ở Sài G̣n và đi hát, một vài lần cô phục vụ ở Hội quán Huỳnh Hữu Bạc của binh chủng Không Quân chế độ cũ, và một lần nọ khi hát xong, Kim Loan định ra về th́ bị binh lính ngăn chặn buộc cô phải ở lại v́ có một nhân vật quan trọng sắp tới dự.

    Cô hỏi nhân vật đó là ai th́ được trả lời là Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Kim Loan đă phản ứng rằng ông Kỳ đến th́ có liên quan ǵ tới cô và Kim Loan vẫn kiên quyết ra về. Nhưng không kịp nữa rồi, ông Kỳ đă đến và lần đó, Kim Loan có nói chuyện một lúc với ông ta.

    Ông Kỳ hỏi nhà Kim Loan ở đâu? Cô trả lời và ông Kỳ đă bảo rằng ông ta hay ăn phở ở tiệm phở nổi tiếng số 1, …đường Trương Tấn Bửu gần đấy.

    Và Kim Loan trước sau như một khẳng định với các phóng viên rằng trong giới chính khách, tướng lĩnh Sài G̣n cũ cô chỉ gặp ông Nguyễn Cao Kỳ một vài lần, c̣n Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu th́ chưa hề.

    Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu th́ đă chết, nỗi “oan t́nh” của ca sĩ Kim Loan không c̣n người đối chứng. Thời gian sẽ qua rất nhanh, năm tháng sẽ phủ lên tất cả bằng lớp lớp tro bụi và sự lăng quên, trong đó có những điều không đáng để nhớ.

    Hy vọng những khẳng định về một “nghi án” chuyện t́nh giữa một vị Tổng thống bại trận bỏ chạy khỏi đất nước và một cô ca sĩ nổi tiếng do chính cô ca sĩ ấy công khai lên tiếg “giải oan” sẽ được khép lại, đủ thuyết phục dư luận và ch́m dần vào lăng quên. Ca sĩ Kim Loan và oan t́nh với Tổng thống Thiệu?

  7. #47
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Viết Nhớ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu &
    Cuộc Chiến Đấu Chống Cộng Sản Bắc Việt Của QLVNCH

    Kính tặng tất cả anh hùng liệt nữ VNCH đă hy sinh v́ đại nghĩa dân tộc
    Riêng Quân dân B́nh Thuận và các cựu học sinh PBC-PT dă hy sinh trong cuộc chiến vừa qua


    Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă vĩnh viễn ra đi nhưng ư chí chống cộng quyết liệt của Ông đă nổi bật trong những năm đảm nhiệm chức vụ lănh đạo Quốc Gia (6/1965 -4/1975) và đă chứng minh qua câu nói hùng hồn, bất hủ 'Đừng nghe những ǵ cọng sản nói, hăy nh́n những ǵ cọng sản làm'.

    Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm có công giữ vững VNCH trong chín năm và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người đă tiếp tục lèo lái con thuyền Quốc-Gia chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn, dầu sôi lửa bỏng trước áp lực bành trướng của cọng sản quốc tế, trong lúc đồng minh Hoa Kỳ lúc đó, không bao giờ có thực tâm yểm trợ hữu hiệu cho QLVNCH. Nhưng với quyết tâm của TT.Thiệu, chính phủ và toàn dân, cũng như với sức chiến đấu anh dũng của quân đội Miền Nam, nhờ vậy VNCH mới tồn tại được cho tới ngày 30-4-1975.

    Và bây giờ dù ai có thương ghét, hoan hô hay đả đảo, th́ cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu cũng đă trở thành người thiên cổ vào ngày 29-9-2001 tại Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, hưởng thọ 78 tuổi. Ông mất để tự ḿnh chấm dứt những oan khiên, lụy phiền chồng chất. Tất cả đều là hậu quả tất yếu của mười năm làm người lănh đạo VNCH, chống lại cuộc xâm lăng của cọng sản Bắc Việt. Đây là một cuộc chiến bi thảm nhất của dân tộc VN, v́ phải đương đầu với toàn khối cọng sản quốc tế, được tiếp tay công khai bởi một số ít người luôn được ưu tiên trong xă hội miền Nam lúc đó, suốt cuộc chiến. Chúng là thành phần ngụy ḥa của VNCH, gồm đám quan quyền đa số xuất thân từ lính Tây, bị thất sủng, hay vẫn đang tại chức nhưng bất măn v́ túi tham chưa đầy. Bên cạnh đó là một bọn người vong ơn bạc nghĩa, tất cả mang mặt nạ trí thức khoa bảng nhưng trái tim và cơi hồn th́ bần tiện ích kỷ trước những người lính trận đă hết ḷng liều chết để bảo vệ mạng sống ăn bám kư sinh cho họ. Nhưng trên hết vẫn là nỗi buồn nhược tiểu VN trước thái độ và hành động kiêu căng của đồng minh Hoa Kỳ, luôn ỷ vào đồng đô la viện trợ, bắt buộc VNCH phải phục tùng, rồi cuối cùng v́ quyền lợi riêng tư mà trơ trẽn bán đứng bạn bè cho cọng sản Bắc Việt vào ngày 30-4-1975.

    Công hay tội của những người có liên hệ tới vận mệnh Quốc Gia Dân Tộc, hiện nay có ai dám vỗ ngực nói là ḿnh có đủ tư cách để phê phán, khen chê? tuy rằng ai cũng cho là ḿnh có quyền nói lên sự thật. Ngày nay, lịch sử hầu như đă được bật mí, nên tất cả những uẩn khúc của nhân loại đă được phơi bầy ra ánh sáng và ai cũng được đọc, biết hay nghe người khác kể. Thôi th́ tất cả hăy dành cho lịch sử mai này quyết định, trong đó chắc sẽ không chừa ai, mà có luôn mấy kẻ tư cách chẳng ra ǵ, thế nhưng lúc nào cũng đạo đức giả. Ngoài ra c̣n có cả bia đá và bia miệng, cũng là một phần của lịch sử, xưa nay không hề biết thiên vị ai, dù đó là vua chúa, sử gia hay kẻ hèn nghèo trong xă hội.

    V́ lịch sử không bao giờ tự bẻ cong ng̣i bút và chạy theo đuôi phường mạnh để phê phán hàm hồ. Bởi vậy mới có những câu chuyện sử về Hồ Quư Ly, Mạc Đăng Dung, Quang Trung và cả Dương văn Minh, Hồ Chí Minh cùng với bè nhóm trên dưới của đảng cọng sản, đang chờ ngày đền tội trước sự quật khởi của đồng bào VN trong và ngoài nước.

    Bỗng dưng cảm thấy nghẹn ngào khi nghĩ tới số phận hẳm hiu của những vị lănh đạo quốc gia cận đại, từ Cựu Hoàng Bảo Đại, cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, Trần văn Hương.. nay tới phiên cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tất cả gần như không được ngủ yên nơi chín suối, chẳng những từ bộ máy tuyên truyền của kẻ thù cọng sản, mà tàn nhẫn hơn là do chính miệng của những người thường mệnh danh là sử gia, thật sư chỉ là những thợ viết không tim óc, thường mượn sự tự do quá trớn, để trả thù đời, sau khi đất nước trải qua một cuộc bể dâu tận tuyệt, ông xuống hàng chó và sâu bọ thành người.

    Ba mươi năm Việt Nam sống ngoi ngóp trong thiên đàng xă nghĩa, mới thật thấm thía và ư nghĩa biết bao về câu nói của người xưa, nay vẫn c̣n văng vẳng bên tai, hiển hiện trong mắt: 'Đất nước c̣n th́ c̣n tất cả - Đừng nghe những ǵ cọng sản nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ cọng sản làm'.

    Tóm lại điều quan trọng của chúng ta hôm nay, nhất là những sử gia hiện đại, có dám bắt chước Tư Mă Thiên hay ít nhất như Phạm Văn Sơn, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Đức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng hay ít nhất như Tú Rua, Duyên Anh năm nào, đă gục chết trước bạo lực, khủng bố, v́ dám đối diện với sự thật, để nói lên những điều tai nghe mắt thấy qua sự hiểu biết của ḿnh, bằng lương tri và trái tim nhân bản VN. Những tên ngụy văn, ngụy sử, nguỵ quân tử của một thời hỗn mang điên loạn, giờ đă không c̣n thời cơ lên chức trời, để lấy giấy gói lửa hay dùng tay che mặt trời. Bởi v́ hiện nay, gần như tất cả các văn khố trên thế giới, kể cả Nga Sô-Trung Cộng.. cũng đang lần hồi bạch hóa nhiều tài liệu lịch sử có liên quan tới chiến cuộc Đông Đương, Đảng và các nhân vật cọng sản quốc tế VN liên hệ, trong đó có chân tướng Hồ Chí Minh.

    Đất nước hiện nay đang ngả nghiêng trong băo tố v́ sự xâm lăng không tiếng súng của kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng. Đảng và các chóp bu cọng sản VN, qua Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Khoa Điềm.. đang theo gót đàn anh thuở trước, dâng đất, bán biển, đem tài nguyên của dân tộc cống hiến cho ngoại bang, vinh thân ph́ gia và t́m một chỗ dựa để kéo dài quyền lực, được xây dựng trên núi xương sông máu VN, suốt bảy mươi lăm năm qua.

    Nhưng thời cơ đă thay đổi rồi, vận mệnh của đất nước, sớm muộn ǵ cũng do toàn dân định đoạt, chứ không phải do VC, Tàu, Nga hay Mỹ dù VC đang nắm quyền cả nước. Họ mới chính là những nhân chứng lương tâm cuối cùng của thời đại, để trả lời, minh oan và đ̣i lại công lư danh dự, cho những người Việt Quốc Gia và người Lính VNCH, qua bao thế hệ, đă hiến thân cho đại nghĩa dân tộc.

    Nên những câu chuyện ba xạo, mà đài BBC tại Luân Đôn vừa mới phổ biến, có liên quan tới Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, trước và sau 1975, cho dù nói là của Văn khố Vương quốc Anh, th́ cũng chẳng có ai tin, v́ tất cả những ǵ về Cuộc chiến Đông Dương lần 2 (1960-1975), do bọn trí thức Tây phương-Hoa Kỳ dàn dựng ngày nay, đều dựa theo các tài liệu tuyên truyền của VC.

    1- THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CHÍNH TRị CỦA CỐ TT.THIỆU

    Như hầu hết vua chua từ cổ tới kim, thường vẽ chân cho rắn để tạo uy vũ cho người lănh đạo. Thân thế của vị tổng thống đệ nhị cọng ḥa miền Nam VN, cũng bị sự huyển hoặc và bói toán che phủ làm cho ta không biết đâu là hư thực.

    Theo các tài liệu hiện hành, TT Thiệu sinh ngày 5-4-1923 tại Tri Thủy, làng Khánh Hải, quận Thanh Hải, tỉnh Ninh Thuận (Trung phần). Nhưng cũng có nguồn tin, đa số phát xuất từ những người chống đối, cho rằng Ông Thiệu v́ tin vào các quân sư bói toán thân cận, nên đă đổi lại ngày sinh là 25-12-1924 dương lịch, nhằm ngày 18-11 năm Giáp Tư. Thật ra trong thời kỳ nhiễu nhương tại VN, việc khai trồi sụt tuổi so với năm sinh, là một việc quá đỗi b́nh thường. Song le, đối với những vị lănh đạo của đất nước, trực tiếp cầm đầu cuộc chiến đấu chống xâm lăng cọng sản Bắc Việt như cố Quốc trưởng Bảo Đại, TT Ngô Đ́nh Diệm, TT. Trần văn Hương và Nguyễn Văn Thiệu.. th́ sẽ trở thành đề tài lớn để kẻ thù, những kẻ đố kỵ ganh ghét, vin vào đó để mỉa mai xuyên tạc. Nhưng chuyện này chỉ có thể xảy ra ở Miền Nam trước năm 1975, chứ tuyệt đối, vĩnh viễn và sẽ chẳng bao giờ có thể xảy ra tại Miền Bắc trước tháng 4-1975 và cả nước từ đó tới nay, v́ bất cứ ai, chỉ lỡ làm rụng một cọng râu của Hồ Chí Minh thôi, cũng đủ để cho ba họ bị tru di, đó là sự thật. Cũng v́ Miền Nam có tự do, nên đă phát sinh nhiều danh từ và các câu chuyện trào phúng, hạ bạc như 'Năm Chuột, Tám Thẹo, Năm Lỳ..', quá ư là tàn nhẫn, xuất hiện trên báo chí, sách vở và ngay cả những cái được gọi là sử liệu, do những tiến sĩ, giáo sư viết lạch, lừng lẫy một thời.

    Nhưng đó cũng chỉ là một thiểu số với ác ư có mục tiêu. Riêng trong tâm tư của hầu hết quần chúng thầm lặng, th́ sự thay đổi trên nếu có, cũng chẳng qua là một thái độ hợp thời, một hành động tâm lư, nhằm gây ấn tượng và t́nh cảm tốt đẹp với mọi người, khi vị nguyên thủ quốc gia có chân mạng đế vương, xứng đáng nhận lănh trọng trách lănh đạo đất nước.

    Về thân thế của TT Thiệu, hiện cũng có nhiều tài liệu đề cập tới nhưng tựu trung đều viết, Ông xuất thân từ một gia đ́nh nghèo nhưng cũng đă theo học hết các bậc tiểu và trung học tại Thị Xă Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Sau đó vào Sài G̣n, học Trường Kỹ Thuật Đổ Hữu Vị (sau đổi là trường Cao Thắng) và cuối cùng là Trường Hàng Hải Dân Sự, đồng môn với Chung Tấn Cang (Tư lệnh Hải Quân VNCH).

    Theo Nguyễn Khắc Ngữ trong tác phẩm 'Những ngày cuối cùng của VNCH', xuất bản sau năm 1975 tại Canada, th́ ông Thiệu:

    - 1948, theo học khóa sĩ quan trung đội trưởng tại Trường Sĩ Quan Đập Đá (Huế). Căn cứ vào kỷ yếu của Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, th́ khóa này chính là Khóa 1 Phan Bội Châu của trường. Năm đó khóa này có 63 SVSQ theo học và thủ khoa là tướng Nguyễn Hữu Có, người mà mới đây được VC cho lên đài truyền h́nh phỏng vấn, cùng với Nguyễn Hữu Hạnh.. trong dịp kỷ niệm 30 năm, mừng VN được sống trong thiên đàng xă nghĩa sau khi đất nước đă chấm dứt chiến tranh, do Đài Voa thực hiện.
    - 1949 măn khóa, Ông Thiệu về phục vụ tại Miền Tây Nam Phần, rồi được sang tu nghiệp quân sự tại Coequidan. Ông cũng đă phục vụ trong các đơn vị tác chiến, của Quân Đội Quốc Gia tân lập, tại Hưng Yên (Bắc Phần), do Trung Tá Dương Quư Phàn chỉ huy. Lúc đó, cùng chung đơn vị có Cao Văn Viên, cả hai mang cấp bậc Trung Úy.
    - 1955 là Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh tại Huế.
    - 1958 thăng cấp Trung Tá, là Chỉ Huy Trưởng Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
    - Được theo tu nghiệp các khóa quân sự cao cấp về tham mưu, chính trị tại các quân trường của Hoa Kỳ như Port Leavenwort, Fort Blifs cũng như Okinawa (Nhật).
    - 1959 tới 1963: Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, đồn trú tại Biên Ḥa.
    - 1/11/1963 tham dự cuộc binh biến và được thăng Thiếu Tướng, làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
    - Ngày 18/1/1965 thăng Trung Tướng, là Đệ Nhị Phó Thủ Tướng trong Nội Các Trần Văn Hương.
    - Ngày 19-6-1965, quân đội VNCH chánh thức đổi thành Quân Lực VNCH và ngày đó đă trở thành NG?Y QUÂN LựC hằng năm cho tới nay, dù Miền Nam đă bi cọng sản Bắc Việt xâm lăng cưỡng chiếm tháng 5-1975. Ngày này, Trung Tướng Thiệu được Hội Đồng Quân Lực cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia (Quốc Trưởng).
    - Ngày 4/9/1967 đắc cử Tổng Thống Đệ Nhị Cộng Ḥa Miền Nam. Thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ là Phó Tổng Thống. Trong nhiệm kỳ này, chính phủ VNCH đă thực thi được nhiều cải cách quan trọng về giáo dục, nông nghiệp.
    - Tháng 4/1972 tái đắc cử Tổng Thống lần thứ hai, cụ Trần Văn Hương là Phó Tổng Thống.
    - Từ đầu năm 1973, qua áp lực cúp viện trợ đồng thời với những bức thơ của Tổng Thống Mỹ là Nixon hứa hẹn sẽ yểm trợ và can thiệp khi VC xâm lăng Miền Nam, nên TT Thiệu đă bắt buộc kư vào Bản Hiệp Ước Ngưng Bắn tháng 2-1973, dù đă biết rơ ràng đây là văn tự mà người Mỹ kư bán VNCH cho khối cọng sản quốc tế để đánh đổi quyền lợi của nước ḿnh.
    - Ngày 26/3/1973 TT.Thiệu ban hành Luật Người Cầy Có Ruộng. Cũng từ đó cho tới lúc tàn cuộc chiến, người Mỹ đă gần như chính thức bỏ rơi miền Nam. TT Thiệu trước cảnh thù trong giặc ngoài, thêm CIA và điệp viên cọng sản nằm vùng ngay trong Dinh Độc Lập phá hoại, nên đă phải từ chức vào lúc 19 giờ 30 đêm 21-4-1975. Phó TT Trần Văn Hương lên thay thế nhưng cũng chỉ được vài ngày, rồi giao việc nước lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh để ông đầu hàng cọng sản vào trưa ngày 30-4-1975.
    - Đêm 26-4-1975, TT Thiệu cùng Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, được Hoa Kỳ giúp đỡ phương tiện, di tản tới Đài Loan. Sau đó Ông tới định cư ở Anh Quốc và cuối cùng cư ngụ tại Boston-Hoa Kỳ.
    - Ngày 29/9/2001 Ông ngă bệnh và qua đời, hưởng thọ 78 tuổi.


    Theo báo chí loan tải cũng như video ghi lại, th́ đám táng của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có rất nhiều người tham dự, với đủ mọi thành phần. Nhiều người đă đến từ Âu-Úc, Canada và các tiểu bang xa xôi, thuộc các đảng phái chính trị, chính quyền, các quân binh chủng VNCH. Hiện diện trong suốt thời gian tang chế có 10 cựu tướng lănh QLVNCH như Ngô Quang Trưởng, Phạm Quốc Thuần, Lê Minh Đảo, Đào Duy Ân (KQ), Phan Ḥa Hiệp, Lâm Ngươn Tánh (HQ), Trần Bá Di, Văn Thành Cao và Mạch Văn Trường. Ngoài ra Ông c̣n vinh hạnh, khi được đồng đội, đồng bào phủ lá quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ của Quốc Dân VN trên quan tài, cũng như đă được Đức Hồng Y, Tổng Giáo Phận Boston, đến thăm viếng và ban phép lành, trước khi xác thân được hỏa táng.

    Qua lời kể của Băng Đ́nh, cựu trưởng phái đoàn báo chí Phủ Tổng Thống, trên tạp chí Thế Giới Ngày Nay số 168 và Thiếu Tá Châu Bích, từng phục vụ nhiều năm tại Dinh Độc Lập, hiện sống tại Hạ Uy Di. Cả hai đều có nhiều cơ hội gần gũi với vị nguyên thủ quốc gia khi công tác, th́ TT Thiệu là người có tính t́nh rất b́nh dân mộc mạc, ăn nói huỵch toẹt theo nếp sống của người miền biển PhanRang-Phan Thiết, không cần màu mè, mà chỉ muốn nói sao cho mọi người mọi giới, thông cảm là đủ rồi. Nhưng ngược lại khi muốn phổ biến văn bản tới quốc dân cũng như người ngoại quốc, ông lại tỉ mỉ cẩn thận từ nội dung tới h́nh thức. Ông rất coi trọng thể diện quốc gia và cá nhân, nhất là không bao giờ sử dụng ngoại ngữ dù ông rất giỏi, chứ không phải như những tin đồn ác ư, nói v́ sợ ám sát nên ông rất sợ và lệ thuộc người Mỹ trong mọi phương diện.

    Thật sự hoàn toàn trái ngược, căn cứ theo những nguồn tư liệu ghi lại, thái độ của TT Thiệu đối với TT Nixon, trong các cuộc Họp Thượng Đỉnh tại Honolulu và Midway.. Nhưng quyết liệt nhất là đối với Kissinger tại Dinh Độc Lập, khi đương sự tới Sài G̣n vào những ngày cuối năm 1972 để bắt buộc VNCH kư vào bản hiệp ước ngưng bắn.

    Tóm lại, TT Thiệu là một trong những nhà lănh đạo VNCH có lập trường kiên quyết chống cọng sản xâm lăng Bắc Việt. Hành động này chẳng những được thể hiện từ lúc c̣n có thực quyền, mà vẫn tiếp tục trong lúc lưu vong khắp nẻo đường viễn xứ.

    Từ sau khi LX và khối cọng sản quốc tế tan ră gần hết, khiến cho t́nh h́nh thế giới rối loạn khắp nơi. Khác với quan niệm xưa trong giới truyền thông tây phương và VNCH, chỉ cần ngồi một chỗ, hay tới các thư viện ngoại quốc đọc sử liệu rồi từ đó mao tôn cương ng̣i bút theo sự thương ghét mà khen chê trên bá-sách. Ngày nay những người làm truyền thông phương tây, không cần là nam giới mà ngay cả những nữ phóng viên chiến trường, cũng đă từng trải qua những giây phút hiểm nguy nơi đầu súng, chẳng khác ǵ người lính trận tại các điểm nóng Kosovo, Grozny, Islamabad, Peshawar, Kabul, Kunduz, Iraq.. Những nữ phóng viên chến trường Christiane Amanpour (CNN), Jacky Rowland (BBC), Maggie O'Kane (Ireland), Marie Colvin (Hoa Kỳ).. đă trở thành thần tượng của các nhà báo, v́ phong cách nói thật, khác hẳn với những đồng nghiệp thuở trước.

    Như các phóng viên chiến trường ngày nay, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu ngày xưa, luôn chứng tỏ là một tướng lănh gan lỳ, biết chia xẻ với đồng đội nhũng hiểm nguy nơi chiến trường. Bởi vậy ông luôn có mặt ngay trong những miền lửa khói, đẫm máu và tàn bạo nhất trong quân sử VN và thế giới, giữa lúc vừa tạm ngưng tiếng súng, bom đạn, pháo kích như hồi Tết Mậu Thân (1968), Mùa hè đỏ lửa 1972 tại Trị-Thiên, B́nh Định, Kon Tum, An Lộc.. và nhiều địa danh hiểm ác nhất khắp bốn vùng chiến thuật, tại miền nam VN, trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975). Cảm động nhất đối với tâm tư của những người lính trận, trẻ tuổi xa nhà, là gần như tất cả các dịp xuân về, ông đều tới các tiền đồn nguy hiểm, xa xôi hẻo lánh hay các đơn vị nghĩa quân, để cùng ăn tết với họ, giữa bom đạn thay tiếng pháo mừng xuân. Thử đếm trên đầu ngón tay, suốt cuộc chiến, đă có bao nhiêu vị tướng lănh miền nam dám đem cái sinh mạng kim cương vàng ṛng, để giỡn mặt với tử thần như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu? Họa chăng mới thấy có một người, cũng gan lỳ liều lĩnh như vậy: Đó là Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh Trưởng B́nh Thuận, từ cuối năm 1969 cho tới đêm 18 tháng 4-1975.

    Đặc biệt, trong cuốn video ghi lại cuộc họp mặt của tổng thống Thiệu và đồng hương người Việt tị nạn tại Colorado năm 1993, vào dịp ra mắt 'Ủy Ban hậu tái thiết cho một VN dân chủ'. Trong dịp này, cựu TT Thiệu đă tuyên bố trước cử tọa là ḿnh đă không c̣n xứng đáng để tiếp tục giữ bất cứ một chức vụ lănh đạo nào nếu có trong tương lai. Hơn nữa trong cộng đồng Tị Nạn VN hải ngoại, hiện có rất nhiều người tài đức và xứng đáng hơn ông nhiều, đă và đang dấn thân lèo lái con thuyền quốc gia, trong ḍng sông lịch sử. Cuối cùng, ông thành thật gửi lời tạ tội và xin lỗi quốc dân v́ đă thất hứa bỏ nước ra đi trước ngày 30-4-1975, cũng như v́ hoàn cảnh bắt buộc đă phải cắn răng ban hành những mệnh lệnh quái ác trong năm 1975, làm cho hằng triệu đồng bào và đồng đội phải chết thảm thiết, oan khiên, đưa đất nước sớm lọt vào ṿng nô lệ của đệ tam quốc tế.

    Chính những điều kể trên, khiến cho những người lính già VNCH từng chiến đấu ngoài mặt trận lúc đó, nay may mắn được sống sót, sau khi đă nếm đủ đắng cay nhục hận nơi mười hai tầng địa ngục trong cơi thiên đàng xă nghĩa Việt Nam càng thấy gần gũi hơn với vị lănh đạo của ḿnh, ít ra trong việc ông đă cùng đồng chung chịu khổ với người lính trận tại chốn sa trường.

    Ngày nay qua núi sử liệu mọi phía được công khai mở rộng và quan trong nhất là mới đây, những nhân vật từng có liên hệ tới cuộc chiến VN, trong cũng như ngoài nước, bạn hay thù, như TT Nixon, ngoại trưởng Kissinger, Hoàng Đức Nhă, Nguyễn Tiến Hưng, Nguyễn Phú Đức, Lâm Lễ Trinh, Bùi Tín, Vơ văn Kiệt, Lư Quư Chung.. giúp ta thẩm định lại, một cách công bằng và can đảm, khi xuống bút ghi lại những lầm lỗi to lớn của ông, vào những giờ phút nguy ngập của đất nước, như bất nhất ra lệnh bỏ cao nguyên, Huế-Đà Nẵng, triệt thoái QDI-II.. làm tan vỡ nửa lực lượng quân đội và mất vào tay giặc hơn 3/4 lănh thổ.

    Tệ nhất là ông cũng giống như Đại tướng Dương Văn Minh, không dám ở lại cùng lính và dân, khi 'thành mất th́ chủ tướng phải chết theo thành', để muôn đời sống trong thanh sử như các vị nam nữ anh hùng dân tộc Trần B́nh Trọng, Nguyễn Biểu, Lê Lai, Vơ Tánh, Ngô Tùng Chu, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Khoa Nam, Phạm văn Phú, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn.. như lời hứa hẹn trong buổi lễ bàn giao chức vụ Tổng Thống VNCH cho Phó TT. Trần văn Hương.

    Nhưng dù tài liệu có hé mở cách nào chăng nửa, việc bắt từ chức và bỏ nước ra đi của TT Thiệu, cho tới nay c̣n khuya các sử gia biết hết sự thật, ngoại trừ các chóp bu Mỹ trong Ṭa Bạch -c, ông Thiệu, Cụ Hương, ông Dương văn Minh, mới có đủ tư cách và thẩm quyền trả lời. Tiếc thay người Mỹ có bao giờ thành thật để ai tin? c̣n tất cả các vị trên nay đă trở thành người thiên cổ, không nói được và cũng không lưu lại cho hậu thế một lời nào. Riêng Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, th́ vẫn như thuở nào, im lặng mặc cho miệng đời dị nghị. Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên có nói và viết nhiều, nhưng cũng chỉ là cái tôi muôn đời nay ai cũng biết. Tóm lại theo Nguyễn Văn Ngân, nguyên phụ tá chính trị lâu năm tại Phủ Tổng Thống, một cộng sự thân tín, dù đă bị chính ông Thiệu bắt giam v́ nghi kỵ phản bội, cũng vẫn phát biểu rằng 'Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong mười năm tại Dinh Độc Lập, đâu có khác ǵ ngồi trên bàn chông núi đao, v́ luôn luôn phải đối phó với thù trong giặc ngoài và chính cả những người thân tín quanh ḿnh, mà một số không ít, nếu chẳng là điệp viên của đệ tam cọng sản Hà Nội nằm vùng, th́ cũng làm việc cho CIA Mỹ hay bọn gian thương bất lương Ba Tàu Chợ Lớn. Tất cả đă cùng hiệp đảng với đồng đô la viện trợ, góp phần lớn làm sụp đổ VNCH'.

    Về trách nhiệm đối với cuộc binh biến ngày 1-11-1963, cũng theo các nguồn sử liệu hiện có, th́ lúc đó ông Thiệu, tuy là đại tá tư lệnh SD5BB nhưng đối với hàng tướng lănh quyền cao chức lớn, tại Bộ TTM cũng như Bộ TL/QD3, th́ ông cũng chỉ là một thuộc cấp phải thi hành lệnh theo trên, đúng kỷ luật quân đội. Hơn nữa, ông chỉ ra lệnh tấn công Dinh Gia Long khi biết chắc TT Diệm không c̣n trong phủ tổng thống. Bởi vậy sau này, ông thường tỏ thái độ ân hận, v́ ḿnh có quân trong tay nhưng lại bất lực không cứu nổi tổng thống trong lúc nguy khốn. Cuối cùng người đă phải chết thảm trong ḷng chiếc thiết vận xa M113 mang số 80989 bởi sát thủ của Dương văn Minh là Nguyễn văn Nhung. Do ḷng kính trọng trên, nên suốt thời gian làm tổng thống VNCH, ông Thiệu và gia đ́nh luôn luôn tham dự các thánh lễ tưởng niệm cố tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.

  8. #48
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Viết Nhớ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu &
    Cuộc Chiến Đấu Chống Cộng Sản Bắc Việt Của QLVNCH
    P2


    2- BA NĂM XÁO TRộN (1964-1967):

    Nền đệ nhất cộng ḥa miền nam (1955-10/1963), tuy đă phạm nhiều lầm lỗi nhưng vẫn là một thể chế hợp hiến và trên hết có tự do dân chủ, đă mang lại phần nào ấm no hạnh phúc cho đồng bào miền Nam, trong lúc đất nước đang bị tai họa chiến tranh. Bởi vậy nếu đem so sánh, th́ miền Nam lúc đó c̣n hơn nhiều quốc gia đương thời. Trong chín năm dài (1955-1963), VNCH đă ngăn chận hữu hiệu cuộc xâm lăng trắng trợn của cọng sản đệ tam quốc tế, đem lại an ninh hầu như khắp lănh thổ Nam VN, từ Bến Hải vào tới Cà Mâu, chấm dứt sự hỗn loạn do hậu quả và tàn tích của 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ.

    Rồi cuộc binh biến dành ngai vàng ngày 1-11-1963, gần như làm đổ vỡ tất cả những ǵ mà đồng bào đă có. Thật sự không có ǵ cả như lời hứa hẹn của các lănh tụ và giả sử nếu có, cũng chẳng qua là cái men say chiến thắng, cùng sự tự phong gắn lon lá cho nhau của những người trong cuộc. Cái trơ trẽn của nhân t́nh, khiến Lư Chánh Trung phải hạ bút một cách cay độc khi nói tới hai chữ cách mạng, đă khiến cho mọi người phải ngao ngán tủi ḷng, khi nghĩ về những cuộc cách mạng trong cận sử, qua các năm 1945, 1963 và cuối cùng là cuối tháng 4-1975. Tất cả đều cùng mang chung cái bản chất dối trá, mị dân bằng lớp son hào nhoáng bên ngoài, chỉ nhằm ru ngủ và thỏa măn một vài đ̣i hỏi nhất thời của đám đông. Tóm lại cuộc binh biến ngày 1-11-1963 đă mở đầu cho ba năm xáo trộn chính trị tại VNCH. Tất cả cũng chỉ v́ tranh giành địa vị, lợi lộc và chiếc ngai vàng ba chân đang bỏ trống, nên phải chỉnh lư, đảo chính, xuống đường.. cho tới khi hai tướng Thiệu và Kỳ lên nắm quyền, dù nội bộ có tạm yên nhưng cũng là lúc lửa sân si bốc cháy rực trời, suưt chút nữa để Nam VN lọt vào tay cọng sản quốc tế Hà Nội vào thời điểm đó.

    Hỡi ơi chỉ có ba năm sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nằm xuống trong ḷng chiếc thiết vận xa của ta, do những viên đạn cũng của phe ta, th́ Miền Nam đă có tới sáu chính phủ liên tiếp cầm quyền, trị nước. Đó là Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Nguyễn Xuân Oánh, Phan Huy Quát và Nguyễn Cao Kỳ. Rồi th́ biểu t́nh và thiên tai tại miền Trung. Tiếp theo là cuộc nổi loạn của bốn trại Lực Lượng Đặc Biệt Thượng tại Darlac. Nhưng trên hết vẫn là cái vô t́nh, vô luân, vô nghĩa của bọn giàu sang no cơm ấm cật, rửng mỡ nên cứ đứng núi này trông núi nọ, luôn luôn bốc lửa bỏ vào kho xăng hỗn loạn đang ngùn ngụt cháy, làm cho VNCH gần như vô chính phủ, khiến nền pháp trị có sẵn từ trước, đă bị đám loạn tướng, kiêu tăng và bọn cha cố ích kỷ, toa rập phá vỡ toàn bộ. Chính cái bi thảm này mới là nguyên nhân then chốt đưa tới sự sụp đổ của đất nước vào tay cọng sản, làm cho dân chúng cả nước đồ thán khổ sở, dân tộc VN bị thoái hóa và tận tuyệt nhất vẫn là giang sơn cẩm tú của Tiền nhân xây dựng bồi đắp bằng máu lệ xương thịt đă bị VC đem bán buôn dâng hiến lần hồi cho ngoại bang, trong đó có Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp của Đại Việt.

    Theo sử liệu, trong ba năm xáo trộn chính trị, th́ thời kỳ Nguyễn Khánh tham chính, từ cuối tháng 1-1964, gây chỉnh lư để hạ bệ các tướng Big Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân.. cho tới khi bốc nắm đất Sài G̣n, bỏ quê hương tới Mỹ sống kưu vong, là chuỗi ngày hỗn mang nhất trong 20 năm tồn tại của VNCH.

    Ngày 4-9-1967, liên danh quân đội của hai tướng Thiệu-Kỳ đắc cử tổng thống, mở đường cho sự ổn định của nền đệ nhị cọng ḥa Miền Nam (1967-1975). Ngày nay dù ai có gọi bằng một danh xưng nào chăng nữa, th́ thực tế đây là thời kỳ an ninh trật tự xă hội đă được văn hồi khắp nước, tạm thời chấm dứt những xáo trộn trầm kha trên sân khấu chính trị. Nhờ vậy nên đă giúp cho QLVNCH an tâm và đoàn kết trở lại như xưa, tạo nên sức mạnh, ngăn chống được giặc Bắc xâm lăng. Cuộc chiến c̣n đang tiếp diễn, th́ năo nùng thay Dương Văn Minh lên thay ngựa, đă dùng quyền lực, bắt người lính buông súng ră ngũ, để đầu hàng cọng sản quốc tế vào trưa ngày 30-4-1975

    Tóm lại trên đường tiến vào Dinh Độc Lập năm 1967, tổng thống Thiệu đă phải cơng trên lưng cái gia tài Mẹ VN hấp hối và rỉ máu do Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh phá sản, trong cảnh tan hoang của buổi chợ chiều thời Ngô triều. Nói về thời kỳ nhiễu nhương trên, Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch bù nh́n của cái mật trận ma, tay sai Hà Nội, sau khi xâm lăng cưỡng cướp được Miền Nam, đă phán "Chính nhờ những cơ hội trên trời rớt xuống như thế này, nên CSBV mới chuyển bại thành thắng và cướp được VNCH". Bởi vậy khi nhắc tới thời kỳ ổn định của Miền Nam, từ 1967-1975, ai cũng bảo đó là phép lạ.

    3- TỔNG THỐNG THIỆU VÀ CUộC CHIẾN CHỐNG CSBV TỪ 1967-4/1975:

    Mỗi lần nghỉ tới cảnh nhà tan người chết, nỗi đói nghèo của đồng bào, cảnh trẻ em phụ nử VN v́ muốn cải thiện cuộc sống nghèo cực trầm luân dưới mười hai tầng địa ngục của chế độ đương thời, mà nhắm mắt nghe lời theo đảng, để rồi bị bán ra nước ngoài làm điếm quốc tế. Và trên hết, vẫn là nỗi niềm đau xót tủi nhục trước cảnh cọng sản VN công khai bán đất dâng biển, làm đầy tớ cho ngoại bang như hôm nay, khiến cả nước đều khinh ghét bọn việt gian, đội lớp trí thức và tôn giáo thời VNCH. Đây mới chính là những vết dao trí mạng đâm bồi thêm sau lưng người chiến sĩ Quốc Gia, giữa lúc họ đang hứng chịu bom đạn nơi sa trường.

    Trong hoàn cảnh hỗn mang đó, ông Nguyễn Văn Thiệu xuất hiện đúng lúc trên sân khấu chính trị Miền Nam, qua tầm vóc dù nay có bị thiên hạ ganh tị, bới móc chửi rủa chê bai. Nhưng lúc đó, thật sự ông vẫn hơn nhiều người đương thời và quan trọng hơn hết là lập trường chống cộng sản rất kiên quyết, không bao giờ khoan nhượng. Những yếu tố trên rất phù hợp quan điểm và chính sách của Hoa Kỳ lúc đó, là muốn chiến thắng cọng sản đệ tam quốc tế, đang xâm lăng thôn tính VN. Do trên, ông đă được sự ủng hộ thành thật ban đầu của Mỹ. Nhờ vậy Tổng thống Thiệu mới ổn định được thời cuộc và giữ vững được Miền Nam cho tới cuối tháng 4-1975.

    Mới đây cựu ngoại trưởng Mỹ là Kissinger, một nhân vật bị mang tiếng là đă toa rập với cố Tổng thống Hoa Kỳ Nixon, dùng Hiệp định ngưng bắn Paris năm 1975 để bán đứng Đồng Minh của ḿnh là nước VNCH cho cọng sản đệ tam quốc tế. Ông đă viết trong tác phẩm "Diplomacy" rằng Hoa Kỳ v́ muốn cứu ḿnh, nên bắt buộc đă phải phản bội Miền Nam. Cũng v́ vậy tới nay, nước Mỹ đă phải trả một giá thật đắt với nhân loại, qua cái gọi là 'Hội Chứng Chiến Tranh VN', về tội bất nhân, bất nghĩa, bất tín và hành động kẻ cướp của bọn con buôn chính trị hoạt đầu.

    Tóm lại cũng nhờ học được bài học 'Mỹ bán đứng đồng minh VNCH cho VC', mà Đài Loan lẫn Đại Hàn và nhiều nước đang làm bạn với Hoa Kỳ, đă nhanh chóng xét lại sự liên minh, hợp tác với kẻ bội tín, bất nghĩa. Hậu quả ngày nay, khiến không một ai muốn hợp tác thật sự với một quốc gia không có t́nh nghĩa mà chỉ biết tính toán trong cuộc chơi, đem lợi lộc về phần ḿnh. Trung Cộng, Đài Loan, Bắc Hàn, A Phú Hăn, Iraq và mới đây là Iran.. là những bằng chứng của sự bang giao quốc tế, đồng thời cũng là một bài học lịch sử dạy khôn người Mỹ, đừng tưởng ai cũng hiền như Nam VN, nên cứ tiếp tục thất hứa, bất nhân. Rốt cục gần như cô đơn tại Liên Hiệp Quốc ngày nay. Và trên hết, trong canh bài bịp chung chiếu với các nước trên, kể cả VC, chừng nào người Mỹ mới lên mặt, c̣n nói chi tới chuyện gạt đưọc bọn chúng?

    Cũng trong tác phẩm dẫn chứng, Kissinger đă đề cập tới sự sai lầm trầm trọng của Hoa Kỳ, khi t́m đủ mọi cách được vào tham chiến tại Nam VN nhưng chỉ chiến đấu bằng lư thuyết tại bàn giấy mà chẳng bao giờ thèm để ư tới thực tế chiến trường. Do đó, quân đội Hoa Kỳ phải đánh giặc theo chủ đích có sẵn trong đơn đặt hàng của bọn siêu quyền lực lái súng, phần lớn là Mỹ da trắng gốc Do Thái, thời nào cũng nắm vận mệnh của Hiệp Chủng Quốc bằng thế lực kim tiền.

    Tóm lại đây là chiến thuật, chiến lược, quốc sách đầu voi đuôi chuột của J.Kennedy, Johnson, Mc.Namara.. chỉ nhằm phơi bày lớp hào nhoáng bên ngoài, cộng thêm thái độ độc tôn của kẻ giàu, có học, luôn muốn người khác phải nhắm mắt làm theo ư ḿnh, nếu căi hay phản đối lại sẽ bị trù dập, ám sát hay dùng những câu chuyện bịa sử để mà bôi bác hăm hại. Tất cả bí mật hậu trường Dinh Độc Lập, mới đây đă được Nguyễn Tiến Hưng, phần nào hé lộ, qua hai tác phẩm 'Bí mật Dinh Độc Lập và Khi Đồng Minh tháo chạy'. Tuy không phơi bầy hết cái thân phận nhược tiểu VN, nhưng ít ra cũng xác nhận hiện tượng 'Đưa quân vào, rút lính ra, dựng lănh đạo, giết tổng thống' của người Mỹ đă và đang làm, không riêng ǵ tại Nam VN trước đó, mà hầu như khắp mọi nơi trên thế giới, mà mới nhất là câu chuyện sử có liên quan tới các nhân vật Bin Laden, Taliban và Sadam Hussein.

    Đây cũng là căn bệnh trầm kha của xă hội Mỹ, quen sống chủ quan trong cảnh thừa mứa tự do và vật chất, đến lúc sự lạc quan sụp đổ, th́ đă vội chán nản tuyệt vọng, mau chóng buông xuôi tất cả để tháo chạy giữ mạng. Tệ nhât là v́ muốn rửa mặt với kẻ khác, Hoa Kỳ đă trơ trẽn dựng thêm lư do "MI"N NAM KHÔNG ĐÁNG ĐƯợC CỨU VỚT", nên phải bỏ. Nhưng dù có biện bạch thế nào chăng nữa, th́ người ta cũng không thể nhắc tới vấn đề nhân đạo trong một cuộc chiến tiêu hao lâu dài với một kẻ thù dă man cuồng sát như Cọng sản Bắc Việt, coi sinh mạng con người (trừ thân nhân ḿnh), rẻ hơn con sâu cái kiến. Bởi vậy từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Độ.., tới các chóp bu đang lănh đạo Đảng tại Bắc Bộ Phủ ngày nay, đều giống nhau, chỉ biết lấy thân xác của đồng bào vô tội, làm phương tiện đạt cứu cánh sau cùng, nên bất chấp thủ đoạn, nhân t́nh, nói chi tới ḷng ái quốc và t́nh thương dân.

    Bao nhiêu tội ác của Đảng Cọng Sản suốt bảy mươi lăm năm qua, chỉ riêng bắt trẻ vị thành niên cầm súng, dùng chế độ hộ khẩu công an khu vực để kềm kẹp khủng bố đồng bào miền Bắc phục vụ hy sinh cho Đảng suốt cuộc chiến Đông Dương lần 2 (1960-1975). Do coi mạng người rẻ hơn cây kim sợi tóc, nên lúc nào VC cũng bắt chước theo binh pháp thí quân của Nga-Tàu, Clausewits, lấy thịt đè người mỗi khi xáp trận. Lại c̣n bắt cán binh xiềng chung với tăng, pháo hay cho bộ đội uống thuốc kích thích trước giờ ra quân. Chiến đấu với một kẻ thù ĺ lợm, bất nhân, mất nhân tính như VC, thử hỏi làm sao Hoa Kỳ, Đồng Minh và VNCH không thua trận? Cho nên dù có tranh luận như thế nào chăng nữa hay đổ tội cho ai, th́ cuối cùng cũng phải đi tới kết luận như Bộ trưởng Tư pháp Mỹ Robert Kennedy lúc sinh thời từng nói "Lỗi lầm tại VN nhiều tới nỗi, bất cứ ai có liên hệ, cũng đều ít nhiều phạm phải ".

    Nói về chiến tranh Việt Nam hay đúng hơn là cuộc chiến Đông Dương lần 2, các nhà sử học trong và ngoài nước hay lấy Trận Ấp Bắc (Định Tường ) năm 1963, cuộc triệt thoái của Quân đoàn II tại Cao nguyên Trung phần và QĐI ở Huế-Đà Nẵng, vào những ngày đầu tháng 4-1975, như là những sự kiện lịch sử quan trọng nhất, để mà phê b́nh chỉ trích các cấp lảnh đạo đầu năo của VNCH tại Dinh Độc Lập cũng như ở các Quân khu. Theo họ, chính những trung tâm quyền lực này đă lợi dụng chức vụ và kỷ luật quân đội để ngăn cản làm rối loạn, cùng sự tiêu hao việc thống nhất hệ thống chỉ huy tại chiến trường. Ngoài ra không có kế hoạch thích ứng để kịp thời giải quyết những khó khăn nguy ngập. Tệ hơn hết là t́nh trạng chia rẽ, bè phái, bất hợp tác trong nội bộ, khiến không mấy ai thực ḷng nghĩ tới đại sự của Quốc gia Dân tộc.

    Cũng may QLVNCH c̣n có rất nhiều Sĩ quan các cấp tài giỏi đạo đức, có t́nh yêu nước nồng nàn nhưng trên hết là những người lính chiến can trường, khắp mọi quân binh chủng, kể cả những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân, Cảnh Sát Dă Chiến và Người Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn áo đen, ngày đêm bám trụ khắp mọi nẻo đường đất nước, với những vũ khí thô sơ nhưng đă dám đối mặt với kẻ thù bằng một trái tim yêu quê hương rực lửa.

    Chính nhờ họ, chứ không phải hàng thủ lănh chính trị, trí thức khoa bảng chốn thị thành, mà Miền Nam mới tồn tại được trong suốt hai mươi năm khói lửa. Cũng nhờ họ thây phơi máu đỏ, làm vỉ sắt lót đường ṃn mà nhiều kẻ không ra ǵ mới có cơ hội thăng tiến mang hàm tá-tướng, trở thành ông này bà nọ, trí thức, văn nhân nghệ sĩ.. nay đang khoe mặt với đời ô trọc, biển dâu, tôn ti đảo lộn, nhiều lúc được chạm mặt, không biết đâu mà ṃ, v́ không biết ai là ông hay thằng, bà hoặc mụ, v́ ai cũng có hồi kư riêng để tự khoe ḿnh tài giỏi và đầy chức phận. Sau rốt cũng nhờ có QLVNCH mà phút cuối, người Mỹ mới chạy được, theo như nhận xét của Sir R. Thompson, một nhà quân sử nổi tiếng, đă nhiều lần không tiếc lời ca tụng sự thiện chiến và ḷng can đảm nhưng lại vô cùng bất hạnh của Người Lính Trận Miền Nam.

    Từ tháng 2-1965, v́ t́nh h́nh chính trị hỗn loạn tại Miền Nam do Cọng sản nằm vùng gây ra, nên Tổng thống Mỹ L. Johnson đă ra lệnh oanh tạc Bắc Việt đồng lúc gởi quân vào giúp VNCH. Nhiều đồng minh của Mỹ lúc đó như Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan và Phi Luật Tân.. cũng tham dự cuộc chiến. Mặc dù ngày nay ai cũng biết rơ là lúc ấy, Hồ Chí Minh cũng được cả khối Cọng sản đệ tam quốc tế và các đảng bộ cọng sản Tây phương quân viện giúp đỡ, kể cả hằng trăm ngàn quân Trung Cộng, Bắc Hàn.. đổ bộ vào Miền Bắc.. Nhưng nhờ giỏi che đậy, tuyên truyền và được một vài trí thức khoa bảng Miền Nam toa rập, cho nên đă bưng bít được suốt cuộc chiến và tới ngày nay khi bộ mặt thật của VC đă phơi bày. Thế nhưng cọng sản và đám lục b́nh phản tặc vẫn không ngớt rêu rao tuyên truyền rằng VNCH, rước voi dầy mả tổ, bán nước, giết hại đồng bào.

    Sau ngày 1-5-1975, những huyền thoại dỏm của VC lần lượt tan biến và trở thành những câu chuyện khôi hài cười ra nước mắt, xác nhận hai phía, ai là kẻ bán nước, ai là người v́ dân. Tất cả đă bị lịch sử lột trần ra ánh sáng. Theo tài liệu của C.JIan trong 'China and VN war 1945-1975' và gần đầy là 'Đêm giữa ban ngày' của Vũ Thư Hiên, ta mới biết vào ngày 16-5-1965, chính Hồ Chí Minh lúc đó là Chủ tịch nước VNDCCH (Bắc Việt), đă công khai yêu cầu các nước XHCN Liên Xô, Trung Cộng, Đông Đức, Đông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba.. viện trợ và gửi quân tiếp viện miền Bắc. Sốt sắng hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ là Mao Trạch Đông đă đưa ngay Hồng quân vào đất Bắc. Tính tới cuối năm 1968, Trung Cộng quân viện cho Hà Nội 7 Sư đoàn Công binh và 16 Sư đoàn Pháo binh Pḥng không đủ loại, trong đó có nhiều súng Cao xạ Pḥng không kiểu mới nhất do Liên Xô vừa chế tạo.

    Quân Tàu Đỏ thay thế Bộ đội Bắc Việt vào Nam xâm lăng giúp Hà Nội pḥng thủ khắp nơi, từ biên giới Việt-Hoa-Lào vào tận Vỹ tuyến 20 ở Thanh Hóa. Tháng 3-1969, do sự bất ḥa giữa hai đảng anh em v́ tranh dành ảnh hưởng tại Lào và Kampuchia, nên Mao đă rút hết Hồng quân về nước. Ngoài ra trong suốt cuộc chiến, đất Bắc c̣n có nhiều cố vấn Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc.. c̣n Bắc Hàn và Cu Ba th́ gửi tới giúp nhiều đơn vị tác chiến. Ngày nay tại Hà Nội, vẫn c̣n nhiều mồ mả các cán binh ngoại quốc đă chết trong chiến tranh VN. Có điều nhờ Hồ và đảng che đậy quá kỹ, nên mặt thật của cái gọi là 'đánh Mỹ cứu nước' gần mấy chục năm sau mới được phơi bày ra ánh sáng.

    Ngày 4-9-1967, tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống, nhờ đó những xáo trộn chính trị tại Miền Nam mới dần hồi chấm dứt. Đây cũng là thời gian thành công của Chiến dịch Phượng Hoàng nhằm loại trừ các thanh phần CSVN đang nằm vùng khắp nơi. Song song, chính quyền đă thành lập các cơ cấu hạ tầng và hệ thống thẩm định đồng bào nông thôn đang sống tại các xă ấp xôi đậu. Nhờ các chiến dịch trên đă giúp văn hồi an ninh khắp lănh thổ, được tướng Westmoreland, tổng tư lệnh quân đội đồng minh và Hoa Kỳ tại VN nhận xét 'Năm 1967, QLVNCH đă tiến bộ vượt bực. Nhờ vậy đă bảo vệ được lănh thổ trong hoàn cảnh đất nước đang bị nguy ngập, khó khăn, sau mấy năm biến loạn chính trị, với thù trong giặc ngoài'.

    Theo tài liệu của Bộ TTM/QLVNCH, th́ Miền Nam trước khi xẩy ra cuộc chiến Tết Mậu Thân (1968), ngoại trừ lực lượng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Lực Lượng Đặc Biệt, được Mỹ trang bị một số vũ khí tự động, trong đó có tiểu liên M15. C̣n các đơn vị khác, kể cả binh chủng Biệt Động Quân, Bộ binh vẫn c̣n xử dụng số vũ khí lỗi thời của Pháp để lại. Riêng viện trợ Mỹ, hầu hết cũng đều là các quân cụ thặng dư có từ thời đệ I,II thế chiến. Nếu không có cuộc chiến tranh Việt Nam th́ cũng phải đem phế thải mà thôi. Đây là hàng bán, tính bằng tiền mặt, rồi trừ vào ngân khoản viện trợ, lại được miễn thuế khi nhập vào nước ta. Trong khi đó CSBV được toàn khối Cọng sản đệ tam quốc tế viện trợ tối đa, từ tiền bạc, t́nh báo, tinh thần, cho tới quân trang dụng rất đầy đủ, nhiều nhất của Liên Xô, Trung Cộng, Đông Đức và các nước Đông Âu. Tóm lại toàn là vũ khí hiện đại đă được bộ đội Bắc Việt đem xử dụng trên khắp chiến trường miền Nam như các loại Tiểu liên AK-47 (LX), AK-56 (TC), AK-MPiKM (Đông Đức), AKM-63 (Hung), AKVZ-58(Tiệp), Súng chống chiến xa RPG-2B hay B40 của LX, B-56 (Tiệp), B-27 (TC), RPG-7 (B41 của LX), B-69 (TC) và các loại chiến xa T-54, Thủy xa PT-76 cùng các loại đại bác tầm xa 122-130 ly do LX chế tạo.

    Nhưng dù đạt được nhiều ưu thắng, VC vẫn bị thất bại quân sự gần như trên khắp mọi chiến trường, nên Hà Nội đă phải thay đổi chiến thuật, chiến lược. Về chính trị, Bắc Việt tận lực xử dụng bọn Việt gian nằm vùng đang trà trộn trong hàng ngũ khoa bảng trí thức giáo vận, sinh viên, văn nghệ sĩ, sống kư sinh khắp Miền Nam để đánh phá không ngừng nghỉ chính quyền qua chiêu bài đ̣i hỏi tự do, dân chủ, trên báo chí, sách vở, trong các cuộc biểu t́nh, xuống đường, nhiều lúc thật phi lư trong một đất nước đang bị kẻ thù xâm lăng tàn phá.

    Về quân sự, thay đổi từ Du kích chiến của Mao sang Địa chiến, tấn công biển người của Liên Xô. Dùng xác người làm phương tiện mở các cuộc tấn công biển người vào đồn bót, căn cứ, thôn làng và đô thị Miền Nam, chỉ nhằm mục đích gây tiếng vang khắp thế giới, để che dấu việc xâm lăng VNCH. Tại Âu Châu, Úc, Canada và Hoa Kỳ, qua thế lực cọng sản đệ tam quốc tế và các đảng bộ cọng sản bản địa, dùng tiền bạc và tuyên truyền, cho cán bộ trà trộn vào các phong trào phản chiến thân Cộng tại điạ phương. Mục đích làm mất uy tín của Miền Nam trên diễn đàn quốc tế, nhất là tại nước Mỹ, đang có nhiều thanh niên gia nhập vào quân đội sang chiến đấu tại VN. Để lừa bịp mọi người, VC dùng thủ thuật đánh lạc hướng dư luận thế giới về ư nghĩa của cuộc chiến đấu chống xâm lăng của Người Việt Quốc Gia. Nhờ vậy Bắc Việt đă đạt chiến thắng cuối cùng, không phải trên chiến trường, mà ở New York, Hoa Thịnh Đốn, Paris, Luân Đôn.

    Ngày 30-1-1968, nhằm mồng một Tết Nguyên Đán năm Mậu Thân, giữa lúc đồng bào đang nô nức đón xuân trong thời gian hưu chiến. Nhưng VC đă bội ước, lợi dụng QLVNCH không đề pḥng và phần lớn về nhà ăn tết. Nên bất thần xua 283.000 cán binh bộ đội Miền Bắc gây nên một cuộc chiến long trời lở đất tại thủ đô Sài G̣n, 5 thành phố, 36 thị xă, 64 quận lỵ và 50 xă ấp. Cuộc tàn sát đẫm máu trên của Cộng quân đă làm cho hơn 40.000 đồng bào vô tội chết thảm. Ngoài ra c̣n có hằng ngàn nhà cửa, trường học, cơ sở tôn giáo, bệnh viện và nhiều di tích lịch sử lâu đời của dân tộc, bị bom đạn tàn phá tiêu hủy tận tuyệt.

    Nhưng man rợ và thê thảm nhất vẫn là cố đô Huế. Tại đây cọng sản Bắc Việt và địa phương như Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng phủ Ngọc Từờng, Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Hoàng Lanh, Hoàng Kim Loan.. trước khi tháo chạy vào rừng ngày 26-2-1968 đă sát hại hơn 4000 thường dân vô tội. Trong số này có các vị giáo sư Tây Đức đang giảng dạy tại Đại học Y khoa Huế như vợ chồng bác sỹ Hort Gunther Krainich, bác sỹ Raimund Discher và Alois Alterkoter. Thi thể các nạn nhân bị vùi dập trong các nấm mồ tập thể trong nội thành và ngoại ô Huế. Xác các nạn nhân sau đó, được chính quyền VNCH cải táng tại nghĩa trang Ba Tầng ở Hương Trà (Thưà Thiên). Sau ngày 30-4-1975, để phi tang tất cả những tội lỗi thiên cổ, bọn ác tặc nắm quyền lúc đó tại Huế như Điềm, Tường, Phan, Xuân.. đă gây thêm tội ác một lần nữa, khi đem xe ủi đất tới san bằng toàn bộ nghĩa trang trên. Nhưng cho dù xác thân họ nay đă biến thành cát bụi, vẫn c̣n bia miệng và sử liệu nhắc nhớ ngàn đời.

    Tóm lại trong cuộc chiến Tết Mậu Thân (1968), cọng sản Bắc Việt hoàn toàn thất bại về quân sự nhưng lại được hệ thống báo chí truyền thông truyền h́nh của Tây phương và Hoa Kỳ đổi trắng thay đen, thổi phồng sự thật, bẻ cong ng̣i bút, khiến cho QLVNCH, Đồng Minh và Mỹ lại bị chiến bại. Hậu quả làm cho nước Mỹ bi quan về cuộc chiến đang theo đuổi, gây nên sự chia rẽ khắp nước, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ cọng sản quốc tế trà trộn vào các phong trào phản chiến đ̣i hỏi Mỹ rút quân, làm cho Tổng thống Mỹ thời đó là L. Johnson không ra tái cử.

    Tháng 11-1968, R.Nixon đảng Cộng ḥa đắc cử tổng thống và trước thành quả ổn định của VNCH, năm 1969 Mỹ tuyên bố sẽ rút quân và bắt đầu kế hoạch bằng VN hóa chiến tranh qua chương tŕnh hiện đại hóa QLVNCH. Từ các năm 1970-1971, Nam VN đă mở nhiều cuộc hành quân ngoại biên Toàn Thắng tại Kampuchia và Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, đă phá hủy hầu hết các mật khu và căn cứ của Bộ đội miền Bắc, đă thiết lập trên đường ṃn Hồ Chí Minh. Cũng nhờ các chiến thắng bằng máu xương cằn cỗi của QLVNCH, đạt được tại các chiến trường lửa máu nguy hiểm nhất trên thế giới lúc đó. Nhờ vậy năm 1972, Nixon tái tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2, giữa lúc Liên Xô và Hoa Kỳ đang thương thảo về Hiệp ước giới hạn vũ khí chiến lược (SALT), cùng việc tài giảm binh bị. Đồng lúc, Nixon và Kissinger đă nối kết được sự giao hảo với Trung Cộng sau mấy mươi năm gián đoạn v́ Đài Loan. Do đó TT Mỹ được Mao đón tiếp rất nồng hậu tại Bắc Kinh.

    Do sự đổi chác của các đàn anh với nhau nên Bắc Việt đă bị Liên Xô lẫn Trung Cộng áp lực nặng nề. Để gây lại tiếng vang với chủ gần như bị đánh mất sau những thất bại quân sự liên tiếp. Đó là lư do Bắc Việt đă liều lĩnh điên cuồng mở các cuộc tổng tấn công vào mùa hè máu lửa 1972 tại Quảng Trị, Kon Tum, B́nh Định và An Lộc. Kết quả đă khiến cho hơn 100.000 cán binh bỏ mạng tại các chiến trường. Riêng Hoa Kỳ v́ nhu cầu chính trị có lợi cho ḿnh, nhất là đang lúc Nixon cần tái đắc cử, nên đă phản ứng mạnh nhất, bằng cuộc dội bom vô tiền khoáng hậu trên đất Bắc. Đồng thời c̣n dùng cả thủy lôi để phong tỏa hải cảng Hải pḥng khiến cho CSBV chịu nghiêm chỉnh hơn, dù chỉ là đóng kịch, khi cùng Mỹ lại ngồi vào bàn hội nghị tại Ba Lê.

    Rốt cục, bản Hiệp ước ngưng bắn cũng được Mỹ và Bắc Việt đồng thuận dàn dựng vào ngày 27-1-1973, sau những màn kịch cỡm, để che đậy sự bán đứng Nam Việt Nam cho kẻ thù, mở đường cho sự sụp đổ của VNCH vào trưa ngày 30/4/1975. Viết về sự bi thảm trên, Sir R.Thompson nhận xét rằng 'Khi kư hiệp định Ba Lê năm 1973, Nixon và Kissinger, đă bỏ lỡ cuộc chiến thắng gần kề của QLVNCH, bằng sự tự ư ngưng oanh tạc miền Bắc, cũng như ngăn cản Miền Nam tái chiếm lại các vùng đất đă bị VC cưỡng chếm trong trận mùa hè 1972'.

    Đây mới là yếu tố then chốt để VC biết cây bài tẩy của Mỹ, nên khinh thường bắt bí đủ điều. Ngay cả con cáo già Kissinger cũng bị Lê Đức Thọ đùa cột chơi chữ, lừa vào bẫy rập, như người lớn dùng kẹo ngọt dụ dỗ trẻ nít thơ ngây, để rồi hành động không bao giờ biết suy nghĩ. C̣n Tổng thống Nixon th́ thú nhận rằng 'V́ áp lực của quốc hội Mỹ, lúc đó đa số là đảng dân chủ với thành phần phản chiến. Cuối cùng để giữ chức quyền, nên đương sự đă muối mặt lấy viện trợ đô la quân viện để làm một điều kiện sống chết, bắt Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải kư vào bản hiệp ước một cách bất công vô nhân đạo'.

    Nhưng ư nghĩa hơn hết vẫn là lời kết luận của Đô đốc US.G.Sharp, nguyên tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái B́nh Dương 'Hiệp định Ba Lê mà Hoa Kỳ đă kư kết với CSBV, không phải là công thức ḥa b́nh, v́ kẻ xâm lược là VC, vẫn ở lại Miền Nam Việt Nam để tiếp tục gây chiến tranh một cách công khai mà không c̣n sợ Mỹ can thiệp như trước'. Tệ hại hơn hết là điều 4 của Bản hiệp ước, bắt xóa bỏ chế độ hiện hữu hợp pháp của VNCH, lập một chính quyền mới, trong đó có ba thành phần Quốc gia, Mặt trận giải phóng miền Nam và Lực lượng thứ ba Ḥa hợp ḥa giải dân tộc.

    Theo nhận xét của hầu hết các sử gia trong và ngoài nước, th́ Điều 4 trong bản hiệp ước, mới chính là giọt nước mắt nhược tiểu Việt Nam. Khôi hài hơn, bản hiệp ước chính chưa được các phe tham chiến liên hệ đồng ư kư kết tại Ba Lê, th́ người Mỹ đă trao cho CSBV Bản dự thảo, để Hà Nội ban lệnh trước, cho các cán binh bộ đội VC học tập, chuẩn bị tấn công Miền Nam qua chiến dịch dành dân lấn đất. Tàn nhẫn hơn hết lúc đó, QLVNCH đang trong tư thế của kẽ chiến thắng th́ bị Mỹ dùng quân viện bó tay, trở thành kẻ thua bại, v́ các điều kiện áp đặt, chỉ nhằm có lợi cho người Mỹ được rút quân về nước an toàn. Có như thế Nixon mới hy vọng tái đắc cử và Kissinger được tiếp tục nắm quyền, trực tiếp lo cho nước mẹ của ḿnh là Do Thái.

  9. #49
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
    Viết Nhớ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu &
    Cuộc Chiến Đấu Chống Cộng Sản Bắc Việt Của QLVNCH
    P3


    Sau đó, qua Hiệp định Ba Lê, biết chắc Hoa Kỳ đă tháo chạy và sẽ không bao giờ c̣n can thiệp vào chiến tranh VN, nên Bắc Việt công khai đổ quân ào ạt vào Nam qua đường ṃn HCM. Ḥa b́nh đâu chẳng thấy mà cuộc xâm lược của giặc Cộng càng lúc càng ác liệt, diễn ra tại Cửa Việt (Quảng Trị), Sa Huỳnh (Quảng Ngăi), Hồng Ngự (Kiến Phong), Trung Nghĩa (Kon Tum), Tống Lê Chân (B́nh Long) ở đâu chiến cuộc cũng bạo tàn đẫm máu.

    Tại Hoa Kỳ, như để sớm dứt điểm VNCH, quốc hội Mỹ mà đa số là bọn phản chiến thuộc đảng Dân chủ, thân Cộng sản, lại liên tiếp ban hành hai đạo luật, nhằm trói tay, ngăn cản chính phủ Mỹ không được xử dụng ngân khoản để hoạt động quân sự tại Đông Dương (tháng 8-1973) và đạo luật War Power Art (tháng 10-1973), bắt buộc Tổng thống Hoa Kỳ, nếu muốn tham chiến ở nước ngoài phải có sự phê chuẩn của quốc hội. Cũng nhờ hai đạo luật mới vừa được ban hành nên cọng sản miền Bắc công khai đưa quân xâm lăng miền Nam, xé bỏ hiệp định Ba Lê vừa kư kết chưa ráo mực. Vậy mà bọn đầu gấu tại Na Uy, Thụy Điển, vẫn trơ trẽn, cho cặp Kissinger - Lê Đức Thọ, giải Nobel ḥa b́nh, th́ thử hỏi trên đời c̣n có câu chuyện nào trào phúng, lợm giọng hơn.

    Lợi dụng VNCH đang cùng khốin trong binh lửa, Trung Cộng qua sự đồng ư của Mỹ và sự đồng thuậc của Bắc Việt, bất thần xua tàu thuyền, phi cơ, tấn công cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của VN trong biển Đông vào những ngày đầu năm 1974.

    Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, th́ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, vô cùng nan giải trong giai đoạn này, v́ nếu cứ kiên quyết giữ vững lập trường chống Cộng, th́ Mỹ sẽ cắt đứt quân viện tức khắc, khiến cho Miền Nam sẽ không c̣n phương tiện tiếp tục cuộc chiến đấu với kẻ thù trong hoàn cảnh dâu sôi lửa bỏng. Ngược lại nếu theo Mỹ, rút bỏ đất đai cho VC th́cũng coi như sắp đầu hàng giặc. Đây cũng chính là nguyên nhân gần như sự bắt buộc Tổng thống Thiệu và các tướng lănh nắm vận mệnh quốc gia lúc đó như Khiêm, Viên, Quan.. đă quyết định rút quân bỏ Cao Nguyên Trung Phần và cả Quân khu 1, để gom lực lương c̣n lại bảo vệ các tỉnh duyên hải, từ B́nh Định trở vào, trong những ngày đầu tháng 4-.1975.

    Tháng 5-1974, Thượng viện Mỹ lại biểu quyết không tăng quân viện cho VNCH, đồng thời cũng thất hứa trong việc 'Một đổi một' các quân dụng như đă kư kết. Sự kiện trên, làm cho hầu hết các đơn vị của VNCH đang chiến đấu ngoài mặt trận không đủ hỏa lực để chống cự với giặc. Đồng thời cũng làm cho phi cơ, quân xa, đại bác của VNCH nhiều thứ phải nằm ụ, bất khiển dụng, v́ hư hỏng, thiếu cơ phận thay thế, sữa chữa. Nhưng dù gặp phải trăm điều khó khăn chồng chất, kể cả sự đói rách thê thảm của binh sĩ và gia đ́nh, do ảnh hửng của xă hội leo thang lúc đó. Nhưng tinh thần của QLVNCH vẫn cao, người lính luôn can trường chiến đấu, cho tới giờ thứ 25, bị Dương Văn Minh, dùng quyền tổng tư lệnh quân đội, bắt buông súng ră ngũ.

    Ngày 9-8-1974, Nixon từ chức tổng thống v́ vụ vụ Wategate. Lại thêm một thời cơ vàng ṛng để Bắc Việt quyết tâm cưỡng chiếm VNCH, mà mở đầu là trận Thường Đức (Quảng Nam), kế tiếp tới Phước Long, vào ngày 6-1-1975. Cũng từ đó tại Mỹ, từ Tổng thống Ford mới nhậm chức thay thế Nixon, tới Quốc hội, Bộ Quốc pḥng chẳng ai c̣n đề cập tới t́nh h́nh VN. Tàn nhẫn hơn, qua bọn dân cử đảng Dân chủ phản chiến thân Cộng lúc đó, c̣n tận tuyệt cắt xén gần hết số ngân khoản quân viện cho VNCH, từ 1 tỷ 126 triệu, chỉ c̣n 700 triệu, trong số này có cả tiền trả lương cho người Mỹ đang phục vụ tại Miền Nam VN. Trước sự kiện bi thảm trên, S.Thompson đă ngao ngán viết "Trong suốt cuộc chiến tranh tại VN, người lính VNCH đă đóng góp phần ḿnh, bằng phong độ phi thường, một điều mà ai nghĩ tới là họ khó có thể làm, trước sự đá cá lăn dưa của Hoa Kỳ'.

    Tháng 3-1975 Ban Mê Thuột thất thủ. Để có lực lượng phản công tái chiếm phần đất c̣n lại trong điều kiện vô cùng khó khăn thiếu thốn, Tổng thống Thiệu đă phải ra lệnh rút bỏ Cao nguyên và QĐ1. Nhưng cả hai cuộc triệt thoái đều thất bại hoàn toàn, làm tan ră gần nửa lực lượng quân sự tinh nhuệ nhất của Miền Nam và mất hơn 3/4 lănh thổ của đất nước.

    Ngày 19-4-1975 B́nh Thuận-Phan Thiết, một tiền đồn chống Cộng hữu hiệu nhất tại QĐII cũng bị thất thủ trước biển người và núi tăng pháo của CSBV, sau khi Phan Rang mất vào ngày 16-4-1975.

    Nhưng tại Xuân Lộc-Long Khánh, từ ngày 8-4 tới 15-4-1975, QLVNCH ở đây gồm SD18BB, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 82 BĐQ (Liên Đoàn 24) + DPQ/NQ, Cảnh sát dă chiến, Xây Dựng Nông Thôn của Miền đất đỏ, đă dạy cho quân cọng sản Băc Việt xâm lăng một bài học để đời trong ḍng sử Việt, với hơn 20.000 cán binh bỏ mạng tại chỗ, trả thù cho đồng bào Miền Nam bị VC trực xạ, tàn sát tại Ấp Tân Lập cũng như trên khắp các nẻo đường lánh nạn.

    Ngày 21-4-1975, TT Thiệu bị bó buộc từ chức, Phó TT Trần Văn Hương lên thay thế nhưng chỉ được vài ngày, lại phải giao quyền cho Dương Văn Minh từ 28-4-1975, để hợp thức hoá đầu hàng giặc Cộng vào trưa ngày 30-4-1975.

    4- TỔNG TH-NG THIỆU: Vụ 16 TẤN V?NG V? Sự TỪ CHỨC RA KHỎI NƯỚC

    Sau ngày 30-4-1975, qua phút huy hoàng ngắn ngủi, cũng là thời gian mặt nạ những kẻ nằm vùng, đâm sau lưng người lính VNCH được lột, cũng là sự kết thúc vai tṛ làm hề của trí thức miền nam. Từ đó, tất cả đều chung niềm tân khổ, nhưng người dân và lính chỉ hận hờn v́ đầy đoạ, trái lại người trí thức phản bội năm nào, mới là thành phần bị thiệt tḥi nhất, v́ vừa bị mất hết những đặc quyền đặc lợi mà chế độ cũ dành cho lớp người khoa bảng, luôn được ngồi trên đầu dân đen miền Nam, lại phải mang thêm sự bóp nát lương tâm v́ hối hận và trên hết đă thấu rơ nguyên tắc của xă nghĩa: 'TRÍ THỨC THUA CụC PHÂN V̀ VÔ DụNG V? PHẢN TRẮC LẬT LọNG'.

    Nhưng người trong nước th́ an ḷng chịu đựng, ngược lại có một số loạn thần, nhanh chân chui được vào ḷng máy bay Mỹ, chạy ra hải ngoại lúc đó, hay mới đây qua các diện vượt biên, đoàn tụ, tù nhân chính trị vẫn tiếp tục to miệng làm hề, dù rằng nay đă biển dâu, ông bà sư cố cũng y chang xếp hàng như me Mỹ, Ba Tàu Chợ Lớn và bần dân xóm biển. Màn chửi rủa, đổ tội, vu khống Miền Nam v́ tham nhũng bất tài, nên thua VC được chấm dứt, khi thành đồng tổ phụ Mac Lê, tan hoang, sụp nát vào năm 1990, chẳng những ở Đông Âu, khắp năm châu, mà c̣n ngay tại Tổng Đàn Nga Sô Viết. Cũng từ đó, xă nghĩa thiên đàng thu gọn tại Tàu Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cu Ba. Rồi các đỉnh cao tại Bắc Bộ Phủ v́ cái ăn bản thân cùng sự sống của đảng, đă muối mặt, mở cửa đổi mới, trải thảm đỏ, lạy mời những kẻ thù năm nào như Mỹ, Pháp, Nhật, Nam Hàn, Đài Loan.. kể cả Liên Xô, Âu Châu.. vào, để cùng nhau hợp sức, kết đoàn, làm nhanh sự sụp đổ của một quốc gia mang tên VN, từng liệt oanh lừng lẫy dưới trời Đông Nam Á.

    Cũng nhờ mở cửa, những tin tức bán nước, hại dân và đại họa tham nhũng cả nước, từ lớn tới bé của Cộng Đảng.. bị quốc dân ṛ rỉ phanh phui, tràn lan khắp chân trời góc biển và ngay trên mạng truyền thống quốc tế từng giờ, đă khóa kín những cái miệng thúi của bọn trí thức bợ bưng VC, vẫn c̣n lẩn quẩn trong tập thể người Việt hải ngoại, đợi dịp và cơ hội đâm sau lưng đồng bào như chúng từng làm khi c̣n sống tại VNCH trong cảnh no cơm ấm cật, ai chết mặc bay, vô luân vô tích sự.

    Theo tin của Nguyễn Hữu từ Paris, được đăng trên tờ Việt Nam Hải Ngoại số 132 ngày 31-1-1983, th́ Nguyễn Văn Hảo, nguyên phó thủ tướng trong triều vua Dương văn Minh hai ngày, nhờ bảo vệ được '16 Tấn Vàng, tài sản của quốc dân Miền Nam', để dâng cho tập đoàn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm văn Đồng.. ngay khi chúng vào được Sài G̣n buổi trưa ngày 30-4-1975. Theo nguồn tin từ các hàng thần VC, ngay khi vào Sài G̣n trưa đó, th́ 16 tấn vàng trên, được Duẩn-Thọ dùng máy bay chở về dấu tại Côn Sơn-Hải Dương. Sau đó đảng nhóm tự chia chác ăn xài. Cũng nhờ công lao hăn mă trên, nên Hảo Tiến Sĩ được VC cho xuất ngoại công khai sang Pháp. Tại Ba Lê, y ngự trong một khách sạn sang đẹp mà chủ nhân cũng là chủ của Nhà Hàng Đồng Khánh tại Chợ Lớn năm nào.

    Sự việc Nguyễn Văn Hảo xuất ngoại bằng thông hành chính thức và liên hệ thường trực với ṭa đại sứ VC tại Pháp, cho thấy y ra ngoại quốc với sứ mạng bí mật. Hiện nay Hảo được Cao Thị Nguyệt, vợ góa của tướng Ḥa Hảo Ba Cụt, bảo lănh sang Mỹ, trước đó ở Texas.

    Tuy VC đă cưỡng chiếm được miền Nam gần 30 năm qua, nhưng duới đống tro tàn của quá khứ, vẫn c̣n âm ỷ các sự kiện nóng bỏng của cận sử VN, trong đó ác nhất là chuyện 'Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tẩu tán 16 tấn vàng y của Ngân Hàng Quốc Gia VN khi chạy ra ngoại quốc vào những ngày cuối thàng 4-1975'. Đây là một sự kiện lớn của người Việt Quốc Gia, trong và ngoài nước. Và dù nay mọi sự đă được sáng tỏ, số vàng trên được Nguyễn Văn Hảo giữ lại và chiều ngày 30-4-1975, đem dâng cho Lê Duẩn, chở ngay về Bắc.

    Theo tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng, trong tác phẩm 'Bí Mật Dinh Độc Lập', cũng là người chủ xướng trong việc dùng 16 tấn vàng dự trữ tại Ngân Hàng Quốc Gia, theo thời giá lúc đó là 120 triệu Mỹ Kim, để mua vũ khí đạn dược cung cấp cho QLVNCH tiếp tục chiến đấu, chờ xin viện trợ của nước khác, v́ Hoa Kỳ qua đảng Dân Chủ phản chiến, đă chấm dứt giúp đỡ miền Nam.

    Ai cũng biết, từ tháng 4-1975, miền Nam đă mất tinh thần v́ sự tan ră của hai quân đoàn 1 và 2 khi triệt thoái, theo lệnh của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thêm vào đó là sự việc Hoa Kỳ cố ư cắt đứt hết viện trợ trong lúc đồng minh của ḿnh đang dần ṃn thoi thóp chiến đấu trong tuyệt vọng v́ cạn kiệt đạn súng, nhiên liệu. Do trên, liên tiếp qua nhiều phiên họp tại dinh Độc Lập, Nguyễn Tiến Hưng đề nghị dùng số vàng dự trữ để mua súng đạn. Song song là việc tăng cường canh gác, bảo vệ trụ sở Ngân Hàng trung ương tại Bến Chương Dương-Sài G̣n, đề pḥng Cọng Sản Bắc Việt thừa dịp đánh cướp, v́ tin tức các cuộc họp kín chắc chắn đă bị điệp viên nằm vùng ngay dinh tổng thống báo về Bắc Bộ Phủ. Và lần này, VC đă xuống tay trước, để chúng không bị hố như hồi tháng 8-1945, để mất toi số vàng bạc châu báu dự trữ tại Viện phát hành giấy bạc Đông Dương (Institut d'Emission) ở Hà Thành.

    Như vậy theo kết quả buổi họp, có đủ các tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang.. số vàng trên sẽ được gởi ra ngoại quốc. Người nhận chỉ thị thi hành là Lê Quang Uyển, Thống Đốc Ngân Hàng VNCH. Ông có nhiệm vụ thuê mướn may bay chuyên chở (hăng hàng không Mỹ TWA, Pan Am) và hăng bảo hiểm quốc tế Lloyd's tại Luân Đôn, Anh Quốc. Nhưng kế hoạch bất thành v́ tin mật bị lộ ra ngoài, với sự xuyên tạc đầy ác ư: 'Thiệu mang 16 tấn vàng theo ra ngoại quốc, sau khi từ chức'. Tin trên khiến các hăng máy bay cũng như công ty bảo hiểm từ chối chuyên chở, v́ sợ bị phạm pháp.

    Cuối cùng Chính Phủ VNCH phải nhờ Bộ Ngoại Giao Mỹ, qua Đại Sứ Martin giúp. Sự việc kéo dài tới khi TT Thiệu từ chức và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế. Ngày 26-4-1975, Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n mới cho biết đă t́m được một hăng bảo hiểm số vàng trên nhưng giá trị chỉ c̣n 60.240.000 Mỹ kim, mất đi nửa nếu tính theo thời giá. Riêng việc chuyên chở cũng phải hoàn tất trước ngày 27-4-1975 v́ phi cơ đang đậu sẵn tại phi trường Clark, Manila, Phi Luật Tân, sẵn sàng tới Sài G̣n chuyển vàng.

    Nguyễn Văn Hảo bấy giờ là Phó Thủ Tướng phụ trách kinh tế, được ủy nhiệm thi hành công tác trên. Nhưng y đoán biết VNCH sẽ thất thủ trong nay mai. Do trên đă manh tâm phản bội, thừa cơ hội lập công dâng cho VC để mong vinh thân ph́ gia. Y vào gặp thẳng TT Trần Văn Hương, hăm đoạ và áp lực đủ điều. Rốt cục Hương v́ sợ trách nhiệm nên đành giao số 16 tấn vàng trên cho Nguyễn Văn Hảo giữ lại, chờ giao nạp cho VC. Nhờ thế, sau ngày 30-4-1975, tên trí thức trở cờ, ăn cơm quốc gia lật lọng, hàm tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo được những người chủ Rừng Xanh, trả ơn cho chức 'Cố Vấn Kinh Tế' trong chính phủ Ma Miền Nam. Sau đó không lâu, tiến sĩ giấy cũng theo vận nước, tàn với mặt trận. Rồi cũng như bao kẻ khác, ḅ tới Mỹ, trốn nhủi tại một vùng nào đó ở TX, ôm hận và xú danh muôn thu ngàn kiếp trong sử Việt.

    Mới đây vào ngày 19-12-2005, cái gọi là Đài BBC Luân Đôn, đưa một bản tin giựt gân, nói là dựa theo tài liệu mật, đă được Cục Văn khố Anh cho phổ biến, trong đó có nói về sự ra đi của Tổng thóng VNCH Nguyễn Văn Thiệu từ hơn 30 năm trước. Theo nhận xét của tất cả các nhà viết sử hiện nay cũng như những người trước đây từng liên hệ hiểu biết về hậu trường chính trị Nam VN trong Dinh Độc Lập, th́ tin trên hoàn toàn láo khoét, bịa xạo và rơ ràng nhất cho thấy, đây là tài liệu của VC đă có sẵn từ trước, nhằm bôi bác, làm mất uy tín người Việt Quốc Gia, cũng như chính quyền VNCH thời trước.

    Cũng theo nguồn tin VC trên, th́ TT.Thiệu đă bỏ trốn khỏi Sài G̣n vào cuối tháng 4-1975 bằng trực thăng Mỹ, chở từ đất liền ra Hạm đội 7 ngoài hải phận. Sau đó mới tới Đài Loan với vợ con và các phụ tá. Sở dĩ có t́nh trạng thúi tha này, là v́ sau ngày Miền Nam bị sụp đổ, người Tây phương cũng như Việt hải ngoại khi muốn t́m hiểu về thực trạng của cuộc chiến vừa qua, hay tới t́m tài liệu tham khảo tại các văn khố Pháp, Anh, Mỹ, các thư viện mà gần hết sách báo, tài liệu được sản xuất ở Bắc Bộ Phủ hay của bọn nhà văn, nhà báo thân hoặc theo cọng sản. Do trên nội dung chỉ viết một chiều, nói tốt tất cả cho đảng và phe ḿnh với chủ đích mạt sát những người Miền Nam VN thua trận.

    Trong lúc đó những vị nguyên thủ như Trần Văn Hương, Nguyễn Văn Thiệu.kể cả Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, th́ im lặng lại không viết hồi kư. C̣n đa số các vị tướng lănh có lương tâm, tự cảm thấy ḿnh có tội với đồng bào và đất nước sau ngày 30-4-1975, nên cũng không muốn viết ǵ về những kỷ niệm đau thương cũ, cuối cùng để cho bí mật cận sử, chôn vùi theo thân xác, tạo cớ cho bọn bồi bút, ngụy sử của cả trăm phía, hư cấu, viết xạo về trận đánh không có đại bàng, nhục mạ các chiến sĩ Quốc gia, mà Đài BBC Luân Đôn đă làm, là một biểu tượng đáng phỉ nhổ.

    Theo các nhà biên khảo về chiến tranh VN, th́ tin tức có liên quan tới sự ra đi của TT.Thiệu đầu tiên được x́ ra do Trưởng pḥng CIA của Mỹ ở Sài G̣n là Frank Sneepp, viết trong 'Decent Interval', từ trang 434-437, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1978. Theo đại sứ Martin, th́ chính ḿnh thay v́ nhờ cơ quan Dao giúp lại yêu cầu Giám đốc CIA ở VN, lúc đó là Polgar, giúp đưa TT.Thiệu, Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan bằng chiếc DC-6 của Ṭa Đại sứ Mỹ từ Thái Lan bay qua Sài G̣n trong đêm 25-4-1975. Theo Snepp viết th́ TT Thiệu đă bỏ trốn khỏi VN, v́ khi ra đi, chẳng có một giấy tờ của VNCH hay Hoa Kỳ cho phép hay chứng nhận.

    C̣n tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, trong sách 'Khi Đồng Minh tháo chạy' vừa xuất bản, viết về sự ra đi của TT.Thiệu và Thủ tướng Khiêm nơi trang 391-392, cũng chỉ dựa theo tài liệu từ 'Decent Interval' của Frank Snepp nhưng sai chi tiết, khi nói TT.Thiệu ngồi giữa tướng Timmes và một sĩ quan tùy viên VN trong lúc đó ông ngồi giữa Polgar và Timmes.

    Nhưng qua lời kể lại của một nhân chứng đă cùng đi với TT.Thiệu và đến Mỹ vào tháng 6-1975, hiện c̣n sống tại Nam California, th́ trước khi ra đi, TT Thiệu và người này có tới văn pḥng của TT Trần Văn Hương để tŕnh một bức thư, đại ư 'Theo lệnh TT.Hương, cựu TT.Thiệu, Thủ tướng Khiêm sẽ hướng dẫn một Phái đoàn, tới các quốc gia Đông Nam Á, để giải độc.' Sau đó đoàn người, gồm TT.Thiệu, Thủ tướng Khiêm và tuỳ tùng, rời nhà trong Bộ TTM lái xe chạy theo hướng Sài G̣n, Chợ Lớn, đường Nguyễn Văn Thoại, Trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả rồi mới vào cổng Phi Long, ra phi đạo, lúc đó có mặt Đại sứ Martin, chào tiễn biệt. Như vậy, theo nguồn tin này đă hoàn toàn khác hẳn với lời Frank Snepp, là TT Thiệu đi Đài Loan, có giấy tờ của Chính phủ VNCH giới thiệu với nhà cầm quyền Đài Loan, chứ không phải bỏ trốn.

    Vẫn từ lời kể trên, th́ chính Frank Snepp là tài xế trong chiếc xe chở TT Thiệu, ghế trước c̣n có Trung Tá tùy viên Tôn Thất Ái Chiêu, xe từ nhà Thủ tướng Khiêm trong Bộ TTM tới phi trường Tân Sơn Nhất. Băng sau TT Thiệu ngồi giữa tướng Timmes và Đại tá Chánh tuỳ viên Nguyễn Văn Đức. Sau khi tới Đài Loan, TT Thiệu đă xin tới Anh định cư, mà không vào Mỹ.

    Sau này khi viết về cuộc chiến VN, thủ tướng sau cùng của VNCH là Nguyễn Bá Cẩn đă có nhận xét rất xác thực, đă diển tả thái độ hờ hững của đồng bào Miền Nam qua suốt cuốc chiến. Sỡ dĩ có sự đối xử trên, không phải v́ chính phủ VNCH chỉ kiểm soát được 30% dân số và phần c̣n lại chỉ là đám lục b́nh trôi nổi như nhận xét của một sử gia nào đó. Thật sự Miền Nam hoàn toàn khác biệt với chế độ độc tài khủng bố của Bắc Việt. Ngoài ra hầu hết các nhà lănh đạo của Miền Nam từ Cựu Hoàng Bảo Đại tới các vị Tổng thống Diệm, Thiệu, Hương.. quá tự do và nhân đạo. Trong lúc đó, do cơ quan tuyên truyền của Miền Nam yếu kém, phần nữa hầu hết tŕnh độ hiểu biết của đồng bào rất hạn hẹp, nhất là ở nông thôn, miền núi, xóm biển.. nên đă bị giặc Cộng dụ dỗ, đầu độc. Đă vậy dân chúng c̣n thờ ơ lănh đạm với thời cuộc, hầu như chỉ muốn giao phó hết cho chính quyền, quân đội, ai chết mặc bây.

    Người dân đă vậy, đất nước càng bất hạnh v́ đă không có một vị lănh đạo nào đủ khả năng đạo đức, tầm vóc để ứng phó kịp thời với hoàn cảnh, nh́n thấu đáo toàn diện chính sách của Hoa Kỳ để mà phối trí kịp thời lực lượng bảo vệ lănh thổ trong lúc khẩn cấp. Thêm vào đó, c̣n có các chính khách sa lông, nhiều nhà báo thân Cộng nằm vùng, luôn thừa nước đục thả câu, t́m cách phá rối xách động mọi người, chống lại chính quyền, giúp cho giặc có cơ hội cưỡng chiếm đất nước. Tới khi Sài G̣n thất thủ, sau ngày 1-5-1975, những thành phần trí thức xôi thịt trên cũng bị VC vắt chanh bỏ vỏ, đào thải không thương tiếc chút công lao đă dâng hiến cho đảng.

    Lịch sử VN suốt mấy ngàn năm, trang nào cũng đẵm đầy máu lệ chứ không phải chỉ có giai đoạn đau thướng mất nuớc, dưới thời các vị TT Thiệu và Hương. Nay cũng đă hơn ba mươi năm (1975-2006) mà đồng bào cả nước vẫn phải sống trong hàng rào kẽm gai, trước súng đạn mă tấu dao găm, trong màng lưới vô h́nh ŕnh rập của công an, bộ đội, cán bộ và ngay chính thân nhân ḿnh.. trong thân phận của kiếp đời nô lệ, phó thường dân, ngay chính quê hương ḿnh, mới là điều thương tâm thống hận.

    Điều này cho thấy đất nước tới nay vẫn đâu có kẻ hùng tài minh đức thật sự, để cầm đầu toàn dân nổi dậy, diệt tan cái đám sâu bọ lạc hậu già nua VC vẫn c̣n ngồi trên đầu cả nước, chẳng những bán nước cho Tàu và bọn tư bản, mà c̣n bóc lột, đầy đoạ cả một dân tộc, càng lúc càng lún thúi trong ảo vọng xă hội chủ nghĩa hiện bị nhân loại vứt vào quên lăng.

    Đến nay c̣n chưa có lănh đạo, th́ những người như Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương qua ḍng cận sử hai mươi năm tồn tại của VNCH, cho dù có bị ganh tị, bôi bác, ít ra họ cũng xứng đáng đại diện cho Nam VN trong giai đoạn lịch sử thời đó.

    Cho nên nói th́ ai cũng nói được.

    Xóm Cồn
    MƯ?NG GIANG
    http://motgoctroi.com/StNguoiNViec/NVThieu.htm

  10. #50
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bài diễn văn của Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa: Nguyễn Văn Thiệu
    vào ngày 24 tháng 10 năm 1972

    Trần Quốc Việt (Danlambao)

    - Lời mở đầu cho chuyên đề về Hiệp định Ḥa b́nh Paris



    Lịch sử là lớp sương mù khi diễn ra và là bi kịch khi nh́n lại. Càng bi kịch hơn khi ta nhận ra lịch sử là khởi đầu cho tấn bi kịch mà hồi kết vẫn chưa chấm dứt trong tương lai gần.

    Đấy là ư nghĩ riêng của tôi sau khi đọc nhiều tài liệu, đa phần từ sách báo Mỹ, về Hiệp định Ḥa b́nh Paris. Số phận của một quốc gia và số phận của hàng chục triệu người dân không ngờ lại bị chi phối nặng nề bởi một hiệp định mà đă bị vi phạm ngay từ ngày đầu.

    Là người hậu sinh, hôm nay tôi t́m về lịch sử để hy vọng qua đó hiểu về ḿnh và về dân tộc ḿnh. Bốn mươi năm trôi qua là bốn mươi năm chứa đựng biết bao nước mắt và tang thương cho Việt Nam. Đối với người cộng sản đây là chiến thắng của "nhân dân", đối với nhân dân đây là bi kịch lớn.

    Lịch sử phải được nh́n qua nhiều phía, qua nhiều lăng kính. Trên tinh thần ấy, hôm nay tôi sẽ chia sẽ với các bạn những điều tôi đọc được trong thời gian dài qua.

    Loạt bài về Hiệp định Paris sẽ được mở đầu bằng bài diễn văn dài của Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu. Bài diễn văn này được đăng nhiều kỳ. Sau đó là các bài dịch và tổng hợp về Hiệp định Ḥa B́nh Paris. Mời các bạn đọc theo dơi.

    *







Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 18
    Last Post: 15-09-2011, 03:27 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 28-07-2011, 12:19 AM
  3. Replies: 9
    Last Post: 08-04-2011, 04:20 PM
  4. Phu nhân tổng thống VNCH -Nguyễn văn Thiệu
    By dangcongsan in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 47
    Last Post: 14-01-2011, 06:46 AM
  5. Replies: 2
    Last Post: 27-10-2010, 03:19 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •