Page 3 of 3 FirstFirst 123
Results 21 to 24 of 24

Thread: CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?

    Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?
    Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Câu lạc bộ Kháng chiến "?
    Lột Mặt Nạ Tổ Chức Bịp Bợm "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam"
    (Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản)
    Giáo sư Hứa Hoành


    Các ông, các bà trí thức tư sản miền Nam trốn theo "Mặt Trận Giải Phóng" (gọi tắt của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam), ông nào ông nấy chức tước to tổ bố, cao đụng trần nhà, đọc lên kêu như sấm. Nào là:

    - Trịnh Đ́nh Thảo, Chủ Tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa Binh Việt Nam, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, Chủ tịch đoàn Ủy Ban Trưng Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
    - Bác sĩ Phùng Văn Cung, Phó Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, kiêm Bộ Trưởng Nội Vụ...

    Nhưng tại mật khu, hàng tuần, tất cả quí vị trí thức khoa bảng ấy phải họp lại để học "nghị quyết". Nắm giữ các chức vụ chóp bu, quí vị ấy không có quyền thảo ra nghị quyết, đường lối sao mà phải học tập?

    Vậy th́ các ông bà trí thức ấy chỉ là những con hạc trong đ́nh, các chậu hoa trong pḥng khách, c̣n quyền hành thực sự do "bác và đảng" núp trong bóng tối chỉ huy. Khi tỉnh ngộ, bao nhiêu biệt thự, phố xá, đồn điền, gia sản, ruộng đất (Trịnh Đ́nh Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Lâm Văn Tết... ), cơ xưởng (hăng sơn của kỹ sư Nguyễn Hữu Khương), cửa hàng (nhà thuốc của dược sĩ Mă Thị Chu ở Cần Thơ, dược sĩ Hồ Thu) trở thành tài sản của nhà nước. Nhiều vị gia đ́nh tan nát như Trịnh Đ́nh Thảo, Phùng Văn Cung, Hồ Thu, nhà văn Thanh Nghị .

    “Giải phóng” miền Nam rồi, quí vị ấy được “Bác và Đảng” đền bù công lao xứng đáng bằng phiếu mua lương thực: 13 kư gạo, nửa cân đuờng cát, 2 bao diêm quẹt, 2 cái lưỡi dao lam cạo râu, nửa cân thịt ba rọi ... mỗi tháng để ngồi chơi xơi nước, hoặc giữ các chức "hàm" (hữu danh vô thực). Mấy năm sau, họ chết trong âm thầm ghẻ lạnh của chính quyền mà họ đă cúc cung phụng sự, thiếu cả tiếng trống, tiếng kèn tiễn đưa đến phần mộ.

    "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam", sao y bản chánh "Mặt Trận Dân Tộc" của Trung Cộng:

    Cái gọi là "Ban nghiên cứu lịch sử đảng", chỉ là một sự tập họp các bồi bút, được gọi là sử gia, nhận chỉ thị của Bộ Chính Trị thêu dệt, bịa đặt, rồi tô vẽ, minh họa để cá nhân ông Hồ trở thành một vĩ nhân, văn vơ toàn tài, một vị thánh sống. Sự thật lịch sử đă được phơi bày: tŕnh độ học vấn của ông Hồ chỉ dở dang lớp 7, ông Hồ chưa biết khái niệm phổ thông về các khoa học thường thức. Trong cuộc đời lưu lạc với tư cách một bồi tàu, một cán bộ làm lính đánh thuê cho cộng sản quốc tế nhiều năm, ông có đủ kinh nghiệm, nhiều mưu gian mẹo vặt để cóp tổ chức nầy, bắt trước tác phẩm kia, mượn danh ngôn của người khác, làm của riêng ḿnh, mà không bao giờ nêu xuất xứ. Đó là thái độ thiếu minh bạch, người tự trọng không ai làm.

    Trong thời “kháng chiến chống Pháp” 1945-1954, ông Hồ luôn ngụy trang, đội lốt người quốc gia, lập các tổ chức dưới danh nghĩa dân tộc như Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941), rồi Mặt Trận Liên Việt để che giấu bộ mặt thật cộng sản của ḿnh. Trong cuộc chiến tranh Quốc Cộng với người quốc gia ở miền Nam, ông mập mờ lập lại tổ chức mà danh xưng na ná như tổ chức của người quốc gia. Rồi dùng lời ngon ngọt tuyên truyền lừa dối, phỉnh gạt các trí thứ miền Nam. Có khi giả mời đi họp, rồi cưỡng bách, bắt cóc đưa ra mật khu, gán cho họ những chức vụ hữu danh vô thực để làm b́nh phong và lừa dối quốc dân đồng bào cùng dư luận ngoại quốc.

    Hơn 20 năm làm cán bộ cộng sản quốc tế, lănh lương, phụ cấp, cả giấy thông hành, ông Hồ qua các nước hoạt động để xuất khẩu chủ nghĩa cộng sản, chớ đâu phải để “giải phóng dân tộc Việt Nam”.

    Với nhiệm vụ nầy, ông Hồ tới lui Trung Quốc trước sau tới 5 lần. Những năm ở mật khu Diên An (1938-1939), ông Hồ gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa, làm lính đánh thuê cho Mao Trạch Đông. Nhờ đó, ông đă cóp nhặt được các tổ chức bịp bợm của Trung Cộng đem về áp dụng tại Việt Nam. Nhiều người không biết, tưởng đâu ông Hồ tài ba, c̣n đảng Cộng sản là "đỉnh cao trí tuệ".

    Để quí độc giả thấy rơ bộ mặt của họ, chúng tôi kính mời quí vị đọc qua giáo điều của Cộng Sản quốc tế: “Muốn tiến hành cuộc cách mạng vô sản, phải chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1 dùng chủ nghĩa dân tộc làm chiếc áo che ngoài và thiết lập chính quyền giai cấp tư sản (tức là Chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam sau nầy); giai đoạn 2 thật sự đi vào cách mạng xă hội chủ nghĩa."
    Trong đại hội Cộng Sản quốc tế kỳ 7 (1935), họ đă chỉ thị cho Trung Cộng: “Phải thay đổi đường lối làm sao khi Mao Trạch Đông chạy thoát được sự bao vây của Quốc Dân Đảng trong cuộc ''vạn lư trường chinh'' (1935) là phải lập Mặt Trận Dân Tộc, rồi dùng chiêu bài kháng Nhựt cứu nước". Ông Hồ đă bê nguyên xi các tổ chức của Trung Cộng từ các "hội cứu quốc, căn cứ địa, lực lượng vũ trang”, đến các khẩu hiệu lừa bịp quần chúng ... về áp dụng tại Việt Nam. Ông áp dụng y chang các tổ chức ấy như “sao y bản chánh” mà thôi. Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941) rồi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1960), gọi tắt là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) cũng chỉ là một sự bắt chước các tổ chức của Trung Cộng trong thời kỳ tương tranh với chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng khi Nhựt đang xâm lăng lục địa.

    Sách lược nầy, ngoài mặt th́ kêu gọi "đoàn kết rộng răi toàn dân, các đảng phái, tôn giáo, nhưng chủ ư của họ là phân hóa hàng ngũ người quốc gia, tiêu diệt chủ nghĩa dân tộc, dồn tất cả mọi lực lượng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam (tức Việt Nam Cộng Ḥa).

    Người ta c̣n nhớ, tại hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941, ông Hồ có nhắc nhở cán bộ của ông ta: “Trước cục diện mới, vấn đề đoàn kết dân tộc càng quan trọng. Chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng để thành lập một mặt trận mà h́nh thức và tên gọi sao cho tuyệt đối phù hợp với cục diện đó” (”Hồ Chí Minh tại Trung Quốc”, Tưởng Vĩnh Kinh, Thượng Huyền dịch, trang 186).
    Rơ ràng ông Hồ đă "sao y bản chánh" các tổ chức "mặt trận dân tộc" của Trung Cộng cùng các khẩu hiệu, tên gọi các tổ chức phụ (cứu quốc), các khẩu hiệu (chống Mỹ cứu nước) chỉ là sao chép lại "kháng Nhựt cứu nước" của Trung Cộng từ năm 1937.

    Khi Mao Trạch Đông nhận chỉ thị của cộng sản quốc tế để thành lập Mặt Trận Dân Tộc và tung ra khẩu hiệu Kháng Nhựt Cứu Nước th́ mục đích thật sự của nó không phải là đánh Nhựt, mà nhắm tấn công chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. “Mặt Trận Dân Tộc Giải Pḥng Miền Nam” cũng không phải chống Mỹ như họ đề ra, thật sự chỉ là sự tập họp các phần tử bất măn với chính quyền miền Nam, tạo sức mạnh để cộng sản xâm lược miền Nam và tiến hành cách mạng vô sản mà thôi. MTGPMN chỉ là một sự a ṭng mập mờ theo tổ chức Mặt Trận Dân Tộc của Mao Trạch Đông do cộng sản quốc tế chỉ đạo, có mục đích phục vụ lợi ích cho Liên Xô. Lập MTGPMN, cộng sản có mục đích theo đuổi con đường cách mạng vô sản, làm tay sai cho Liên Xô, rồi Trung Quốc để xuất cảng chủ nghĩa cộng sản qua các lân quốc. Sau năm 1975, chúng ta đă thấy rơ việc làm của họ, và sự sụp đổ của nó theo mẫu quốc Liên Xô vào năm 1989.

    Loạt bài nầy chia làm 4 phần:

    - phần 1,và 2: Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản.
    - phần 3: Những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.
    - phần 4: Văn tuồng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

    Phần 1.Lột mặt nạ tổ chức bịp bợm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam

    * MTGPMN gởi Ba Trà, cán bộ trí vận xuống chùa Phước Hậu ở Trà Ôn để tuyên truyền rỉ tai Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa (Viện trưởng Viện Hóa Đạo) về chủ trương, đường lối của Mặt Trận đối với Phật Giáo. Trước đó, họ cho người đến chùa Ấn Quang hẹn ngài về Trà Ôn.
    * Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo tại nhà khách trung ương Đảng tại Hà Nội: "Bọn ḿnh chỉ là những h́nh nộm, người ta sai làm ǵ th́ làm nấy, chứ chẳng có chút quyền hành nào cả..."

    * Trần Bạch Đằng, Thường vụ ủy viên Mặt Trận Saigon Gia Định, có nhà trọ ở đường Phan Kế Bính và mua một chiếc xe du lịch Simca 1000 do người nhà là Nguyễn Hải Thọ đứng tên kiêm tài xế. Nguyễn Hải Thọ là em vợ của người anh ruột bà Nguyễn Văn Thiệu, giáo sư Pháp Văn ở trường Trung Học Bến Tranh (Tân Hiệp, Định Tường). Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, Thọ làm giám đốc công ty cung ứng xuất khẩu...

    Nhớ lại cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập, Việt Minh không bao giờ tự nhận ḿnh là cộng sản. Trong suốt đoạn đường chiến đấu 9 năm đó (1945-1954), Việt Minh tạo ra “chính nghĩa giai đoạn”, để tập họp mọi tầng lớp dân chúng ủng hộ và hy sinh cho quyền lợi của đảng họ. Sắp tới chiến thắng, họ trở mặt: gạt tất cả mọi thành phần trí thức, tiểu tư sản, địa chủ ra ngoài cuộc kháng chiến. Chiến thắng rồi, những thành phần ấy trở thành kẻ thù, chỉ trừ giai cấp vô sản.

    Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, không có một trí thức nào ở miền Nam ủng hộ cộng sản. Biết rơ như vậy, nên Việt Cộng phải ngụy tạo một chiêu bài mới: Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để lừa dối đồng bào, dư luận cả trong lẫn ngoài nước. Việt Cộng cưỡng ép một số thân hào nhân sĩ tiêu cực, đối lập, những trí thức bất măn với chính quyền quốc gia, trốn ra bưng, rồi gắn cho họ cái chức ủy viên trung ương MTGPMN để họ tiến hành cuộc chiến tranh du kích, phá hoại. Lúc đó, họ gọi là "chiến tranh giải phóng" và đảng cộng sản được gọi là “đảng cách mạng”, giấu kín tông tích để mọi người hiểu lầm rằng “MTGPMN là tổ chức không phải cộng sản". Cái gian hùng và lừa bịp của Việt Cộng khiến nhiều trí thức ngây thơ, cả tin, lầm lạc mà trót theo họ. Sự thật, cái nhăn của MTGPMN là cộng sản. Chiếm được miền Nam rồi, MT và cái chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam trở thành cộng sản một cách trơ trẽn.

    Trong "chiến tranh chống Mỹ", MT nhiều lần phong chức cho người nầy người nọ, dù khéo léo đến đâu, cũng chỉ tạo ra một tấm b́nh phong che chắn những thủ đoạn bất chính, những hành động tàn bạo, phi nghĩa. Người CS luôn luôn có tâm địa lắt léo, miệng lưỡi tráo trở. Chỉ tội nghiệp các phần tử trí thức miền Nam v́ tin họ mà phải chịu làm bù nh́n, làm người tù bị giam lỏng ở mật khu để hưởng sự biệt đăi, mặc t́nh cho cán bộ CS tiếp tục dùng mưu gian mẹo vặt chiếm cho được miền Nam trù phú...

    Trong cuộc chiến tranh quốc Cộng 1954-1975, các chính phủ VNCH phải luôn luôn vất vả đối phó với các phong trào phản chiến, đ̣i "ḥa b́nh" tại hậu phương. Họ chiến đấu như người vơ sĩ bị trói tay. Ngoài một thiểu số tu sĩ Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo bị VC tuyên truyền, liên miên làm áp lực, c̣n sinh viên, các trí thức thân Cộng, đối lập, bất măn, nhưng chưa hiểu MTGPMN là CS, tập họp thành một lực lượng chống đối, làm cho t́nh thế mỗi ngày trở nên nguy ngập, tiềm lực chiến đấu của quân đội suy yếu. Trong môi trường đó, người bạn đồng minh chiến đấu Mỹ lại can thiệp vào nội bộ chúng ta, cưỡng bách chính quyền quốc gia nhập cảng thứ tự do quá trớn của Mỹ, tạo ra sự sơ hở, kẻ thù lợi dụng xâm nhập, lũng đoạn hàng ngũ, tuyên truyền, phá hoại. Đất nước đang lâm chiến một mất một c̣n với CS, lẽ ra tất cả mọi người không phân biệt, tôn giáo, đảng phái... phải tập họp thành một sức mạnh chung để chiến thắng, th́ lại vô t́nh tiếp tay cho địch, làm đồng minh cho họ. Chính quyền quốc gia miền Nam sụp đổ do nhiều nguyên nhân, trong đó các phong trào phản chiến của các giới đă “đóng góp” công lao làm "ung thối" chế độ mà họ đang sống, đang hưởng những tiện nghi và phúc lợi. Lúc đó, báo chí miền Nam gọi những người nầy là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” cũng không sai lắm. Chúng tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng phải nh́n nhận những đoàn thể, tổ chức tôn giáo, sinh viên cũng có người tốt kẻ xấu. Chính v́ ngây thơ tưởng rằng MTGPMN không phải là CS, nên nhiều người đă ủng hộ họ, để rồi sau năm 1975, phải bỏ tất cả sản nghiệp bôn đào ra ngoại quốc một cách tức tưởi. Bài học ấy c̣n sờ sờ, nhưng người quốc gia hay quên và dễ tha thứ..
    .
    Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, CS không có một người nào đủ uy tín để lôi kéo những phần tử trí thức, thân hào nhân sĩ miền Nam theo họ, CS “mượn đầu heo nấu cháo”, cưỡng bức một số trí thức tên tuổi ở miền Nam theo họ làm b́nh phong, rồi tuyên truyền lừa bịp, lợi dụng tên tuổi các trí thức ấy, lập mặt trận nầy, liên minh kia... thực chất chỉ là những tổ chức hữu danh vô thực, những con bù nh́n. Sách lược lừa bịp của VC trước sau như một, không bao giờ thay đổi. "Sông có thể cạn, núi có thể ṃn, nhưng VC không bao giờ hết lừa bịp".

    Chiếm được miền Nam rồi, các trí thức trong MT, trong chính phủ lâm thời bị thay thế, giải thể, để những tên CS lưu manh, thất học thay thế. Lúc chưa chiếm được miền Nam, họ mời mọc, quyến rũ, ép uổng để trí thức tham gia. Các ông Trịnh Đ́nh Thảo, Lâm Văn Tết (nguyện Thượng Hội Đồng Quốc Gia), Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Kiết, các giáo sư Nguyễn Văn Ch́, bà Nguyễn Đ́nh Chi ... ra ŕa hoặc giữ những chức vụ hàm, trang điểm cho Mặt Trận Tổ Quốc.

    Trong bài "Số phận trí thức trong hàng ngũ kháng chiến của Việt Minh" (1945-1954), chúng tôi quên, không nhắc đến một trí thức khác, cũng rất nổi tiếng, quê ở Bến Tre, du học bên Pháp về, tốt nghiệp ngành sinh vật học. Tuy khả năng chuyên môn của ông không liên quan ǵ tới kháng chiến chống Pháp như kỹ sư Vũ Quư Hân về Bắc, nhưng v́ ḷng yêu nước bồng bột, nên sau khi nghe ông Hồ và phái đoàn thuyết tŕnh về hiện t́nh "hiện nay nước nhà đă độc lập", ông sẵn sàng về "xây dựng quê hương”. Người đó là giáo sư Dương Hữu Thời. Tôi không rơ giáo sư Dương Hữu Thời có liên hệ ruột thịt họ hàng ǵ với giáo sư Dương Minh Thới, thân phụ của bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hay không.
    Mấy tháng cuối năm 1946, Dương Hữu Thời về tới Saigon. T́nh h́nh chiến sự mỗi ngày một gia tăng, c̣n kháng chiến quân liên tiếp thất bại, rút lui xa đô thành, làm cho giáo sư Dương Hữu Thời thất vọng. Tuy nhiên, giáo sư Thời là con người thầm lặng, ít lâu sau được “móc” ra bưng chiến đấu. Gặp các cấp chỉ huy kháng chiến, Dương Hữu Thời kể lại quá tŕnh được đào tạo chuyên môn về sinh vật học của ḿnh, nhưng mọi người hờ hững v́ không biết ứng dụng tài năng ấy vào việc ǵ trong lúc chiến tranh. Tuy nhiên, nhờ chịu khó, ông ṃ mẫm tự coi sách chế tạo vơ khí, đạn dược và trở thành một Trần Đại Nghĩa thứ hai ở khu 8, tuy không có một điều sáng tạo hay phát minh nào đáng kể. Từ đó, trong kháng chiến, giáo sư sinh vật học Dương Hữu Thời được gọi là kỹ sư Phương Thanh v́ ông có giúp sửa chữa súng, chế tạo đạn. Năm 1954, Dương Hữu Thời tập kết ra Bắc, được bổ vào làm giáo sư trường đại học tổng hợp Hà Nội. Ông âm thầm làm việc, tận tụy giảng dạy, tự học tiếng Nga để nghiên cứu thêm sách Nga, cập nhật hóa kiến thức chuyên môn. Có người từng học với giáo sư Dương Hữu Thời kể lại: "Tuy là một nhà khoa học tận tụy với sinh viên, đóng góp nhiều công sức cho đất nước nầy, nhưng sự đăi ngộ của nhà nước dành cho ông rất đạm bạc, muộn màng. Ông như đứa con ghẻ, con rơi của chế độ, đầy nghi kỵ và mặc cảm về hàng ngũ trí thúc do tư bản đào tạo. Trong cuộc sống gian khổ của một công chức hạng trung, lẽ ra phải được đăi ngộ xứng đáng v́ công lao to lớn, thế mà nhà nước lại bỏ rơi ông. Dù vậy, giáo sư luôn luôn làm việc cật lực, có lúc làm hiệu phó trường đại học, để đóng góp vào sự phát triển của đất nước lẽ ra phải có, nhưng đất nước càng ngày càng kiệt quệ, khánh tận, nghèo đói thêm. Nhiều lần ông kín đáo tâm sự với vài sinh viên thân tín. Cũng theo dư luận trong giới sinh viên, giáo sư Dương Hữu Thời là người rất xứng đáng phong danh hiệu "hàm giáo sư, phó tiến sĩ, nhà giáo nhân dân ..." tuy nhiên những chữ xa xỉ ấy không đến được với ông.

    Giáo sư Dương Hữu Thời âm thầm, tận tụy đóng góp tài năng của ḿnh trong các lănh vực khoa học, nhưng đời ông là cả một sự gian khổ, bất hạnh và bị lăng quên.
    Đó cũng là số phận chung của những người trí thức trót theo phụng sự cho chế độ CS, phải tuyệt đối phục tùng, tận tụy và được hưởng sự... bạc đăi của họ.

    Nói về những động lực khiến một số trí thức miền Nam theo MTGP th́ có nhiều nguyên do khác nhau. Tuy nhiên, lư do chính và quan trọng hơn hết là tất cả đều tin rằng MTGPMN không phải là một tổ chức của CS. Theo họ, MTGPMN tập họp những thành phần quốc gia yêu nước, bất măn chế độ hiện tại, muốn dấn thân tranh đấu cho nước nhà độc lập ḥa b́nh, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các cường quốc tư bản. Một lư do thầm kín khác là trong mỗi con người trí thức ấy, đều bộc lộ một tham vọng chính trị vô bờ "muốn làm lănh tụ". Với họ, việc nầy thường bộc lộ qua việc cả hai vợ chồng đều trốn ra mật khu. Mong muốn chồng làm lớn luôn luôn thôi thúc các bà xúi chồng cùng tham gia MTGPMN để t́m địa vị. Chẳng hạn như trường hợp vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang, vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung, vợ chồng luật sư Trịnh Đ́nh Thảo.

    Sinh ra trong một gia đ́nh đại trí thức, giàu có, gia sản cá nhân và bên vợ ông Thảo là những gia đ́nh đại phú gia. Bà Thảo, nhũ danh Ngô Thị Phú, thuộc gia đ́nh danh giá lớn, giàu có ở Sóc Trăng, thuộc ḍng dơi hội đồng Ngô Phong Điều mà khắp miền Nam ai cũng nghe danh. Với thành phần giai cấp, gia sản như vậy, chắc chắn ông Thảo không bao giờ muốn theo VC. Lúc mới ra bưng, trong một lần họp mặt với các trí thức Saigon trốn ra, chính bà Thảo tuyên bố một câu giựt ḿnh. Quí vị có biết bà Thảo nói ǵ không? Trong một bữa ăn do bà Thảo đăi, có bơ, sữa, phó mát, nho và vài món nổi tiếng của Pháp do chính con bà, đang học ở Thụy Sĩ gởi qua tiếp tế bằng máy bay, qua ngă Phnom Penh. Giữa bữa ăn thịnh soạn, đông đủ các trí thức Saigon mới trốn ra mật khu, bà Thảo nói:
    - Thôi đừng nói tới CS tôi nghe, tôi sợ quá! Hồi ở dưới xứ tôi (Sóc Trăng), ai nghe nhắc tới CS cũng kinh hồn, v́ hồi CS dậy (tức Nam Kỳ khởi nghĩa 1941), họ bắt người mổ bụng dồn trấu...
    Nữ sĩ Vân Trang, vợ giáo sư Trần Kim Bảng nói:
    - Gặp phản ứng của "bà cả" rồi!

    Trong khi Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát cũng mỉm cười cho vui ḷng bà Thảo. Ông Vơ Ngọc Thành, công chức cao cấp trong chính phủ VNCH mới trốn vô bưng cũng phụ họa thêm:
    - Làm ǵ th́ làm, không bao giờ tôi theo VC. (Tiết lộ của một ủy viên trung ương MTGPMN).

    Các trí thức miền Nam ngây thơ, tin vào sự tuyên truyền của CS mà bị họ lợi dụng. Khi đă trốn ra bưng, họ bị kèm kẹp, không bao giờ có dịp "hồi chánh". Chúng tôi muốn kể lại vài trường hợp điển h́nh.
    Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo (1901-1982), là một trí thức lớn của miền Nam, sinh trong một gia đ́nh danh giá, giàu có tại miền Bắc. Ông Thảo là người thứ ba trong số 4 anh chị em đều đỗ đạt.

    - Anh cả Trịnh Đ́nh Huyến, tốt nghiệp ngành canh nông (trường Công Chánh Hà Nội), ông được bổ nhiệm làm đốc công thủy lợi nhiều nơi tại Nam kỳ, có lúc ông sống ở Giá Rai, Bạc Liêu. Chính tại nơi đây, nhà văn Nguyễn Hiến Lê đi công tác thủy lợi, được quen biết với ông và trở thành con rể ông Huyến.
    - Con thứ hai cũng tốt nghiệp trường Công Chánh ra, làm công chức cho Pháp.
    - Ông Trịnh Đ́nh Thảo, tốt nghiệp tiến sĩ luật khoa tại Pháp rất sớm, hồi hương về Nam kỳ năm 1929, hành nghề luật sư tại ṭa Thượng Thẩm Saigon đến năm 1945. Trong thời gian ấy, nhiều lần ông bênh vực cho các nhà ái quốc Việt Nam bị Pháp bắt, đưa ra xét xử. Năm 1945, ông Thảo tham gia chánh phủ độc lập đầu tiên do cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Sau khi Việt Minh cướp chánh quyền, ông Thảo vẫn sống ở Saigon bằng nghề luật sư cho đến năm 1954, tên ông xuất hiện trong "phong trào ḥa b́nh" cùng với một nhóm các trí thức khác như các ông Lưu Văn Lang, Michel Văn Vĩ, dược sĩ Trần Kim Quan, Từ Bá Đước, Phạm Huy Thông, Nguyễn Thị Lựu...

    Ông Thảo có một người em gái, được gả cho một luật sư ở Hà Nội.

    Ngày 10/8/1954, phong trào ḥa b́nh chính thức ra tuyên ngôn: ngừng bắn vĩnh viễn; trao trả tù binh; thực hiện tự do dân chủ...

    Ông bà Thảo có một ngôi nhà lớn như dinh tham biện tại Thông Tây Hội, G̣ Vấp. Năm 1963, VC cho người móc nối luật sư Trịnh Đ́nh Thảo (có lẽ là bà luật sư Ngô Bá Thành) cùng một số trí thức đối lập, bất măn với chính quyền quốc gia, chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm về việc để Mỹ đổ quân ồ ạt vào Việt Nam, can thiệp vào nội bộ. Cán bộ trí vận MTGPMN luôn luôn t́m cách đưa chỉ thị, giao nhiệm vụ cho ông ta để lôi cuốn thêm các phần tử bất măn khác, lập thành một nhóm làm áp lực, tranh đấu công khai chống chính quyền. Đầu năm 1965, tại tư gia ở Thông Tây Hội, G̣ Vấp, luật sư Thảo tổ chức một buổi họp dưới h́nh thức ăn tiệc, đưa ra thăm ḍ ư kiến các trí thức đă được mời tới, nhưng chưa nói rơ công tác. Trong lần họp ấy, các trí thức đồng ư lập Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết theo chủ trương của MTGPMN đề ra. Sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân thất bại (1968), MTGPMN bây giờ hết ăn khách, VC lập thêm một tổ chức mới qui tụ các trí thức, nhân sĩ tên tuổi của miền Nam lấy tên Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh Việt Nam. Muốn vậy, họ phải t́m cách mời các trí thức tên tuổi ấy ra bưng: đi đêm có ngày gặp ma. Các trí thức bất măn, chống chế độ, thậm thụt giao thiệp với VC đă thấu tới tai chánh quyền quốc gia. Nhiều vị bị mời điều tra, hỏi cung, hoặc tạm giam, thẩm vấn. Với chứng cớ đầy đủ, dễ ǵ họ chối được. Các trí thức bị chính quyền quốc gia thẩm vấn hay tạm giam. gồm các ông kỹ sư Hồ Văn Bửu, luật sư Nguyễn Long, luật sư Ngô Bá Thành (tức Phạm Thị Thanh Vân, con gái bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên Tổng Ủy Trưởng Di C&#432..., luật sư Trịnh Đ́nh Thảo... VC cho người liên lạc, hối thúc các vị ấy "cứ ra bưng, vô vùng giải phóng để được bảo vệ”.

    Trong thế “chẳng đặng đừng”, ông Thảo được du kích tới nhà, khiêng đi vào một đêm tối, sau khi đưa ông ra khỏi Sàig̣n an toàn.

    Trường hợp này cũng giống như việc ḥa thượng Thích Đôn Hậu. Trong khi tấn công Huế (1968), Việt Cộng "mời" ông lên núi "họp". Ngài không đi, chúng cho bộ đội thay phiên vơng ngài lên núi. (lời giáo sư Lê Văn Hăo)

    Khi chiến trường miền Nam sôi động, MTGPMN liền gởi các trí thức miền Nam ra Hà Nội, trọ tại nhà khách Trung Ương đảng. Trong lúc gặp nhau đủ mặt, luật sư Trịnh Đ́nh Thảo đă lên tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo rằng:

    - Bọn ḿnh chỉ là những h́nh nộm. Người ta sai làm ǵ th́ làm nấy, chớ chẳng có chút quyền hành ǵ cả...Lần đó, luật sư Thảo gặp các bà Nguyễn Đ́nh Chi, giáo sư Lê Văn Giáp, ông Nguyễn Đóa, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (một trong “3 ông ḥa b́nh"), Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thúc Tuân (em ông Nguyễn Thúc Hào (?).. .

    * Lâm Văn Tết (1896 - 1982):

    Là một trí thức, nhân sĩ có uy tín lớn trong hàng trí thức miền Nam, Lâm Văn Tết xuất thân trong một gia đ́nh đại điền chủ tại Bạc Liêu, từng làm trong sở Công Chánh Pháp nhiều thập niên. Từ năm 1943, Lâm Văn Tết bắt đầu hoạt động chống Pháp có khuynh hướng thân Nhựt, rồi lại ủng hộ Việt Minh kháng chiến. Sau đó ông theo Việt Minh một thời gian ngắn, thấy rơ VM không thật tâm yêu nước, chỉ lợi dụng xương máu người dân để họ phục vụ cho quyền lợi của CS, th́ bỏ về thành. Dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Lâm Văn Tết bất măn khi thấy người Mỹ càng ngày càng can thiệp vào nội t́nh VN. Sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, Lâm Văn Tết được mời làm hội viên Thượng Hội Đồng Quốc Gia (giống như Thượng Viện, nhưng không do dân bầu). Ông được cử làm Phó Chủ Tịch đủ biết uy tín của ông ra sao. Từ năm 1965, cán bộ trí vận móc nối, ông Tết bày tỏ tích cực thái độ chống đối và bất măn của ông trước việc Mỹ xua quân ồ ạt vào miền Nam. Chiến tranh mỗi ngày một leo thang, Mỹ đưa quân thêm vào, làm cho miền Nam mất chính nghĩa. Từ đó, VC tuyên truyền "đánh Mỹ cứu nước”. Sau Tết Mậu Thân (1968), cụ Lâm Văn Tết được móc nối trốn vô mật khu R, để được “bảo vệ”. Cũng như Trịnh Đ́nh Thảo, ông v́ già, sức yếu, đă 72 tuổi, nên được du kích khiêng bằng vơng vô khu. Sáu năm sống trong rừng, cụ Tết chỉ làm có mỗi một công việc "cho MTGPMN" "mượn cái tên" để tuyên truyền, phỉnh gạt mọi người. Hàng ngày cụ uống trà, đọc sách báo, học chính trị (mỗi tuần 2 buổi) về đường lối, chính sách và “thế tất thắng” của MTGP. Khi chính phủ lâm thời CHMNVN được thành lập, cụ được gởi ra nước ngoài để tuyên truyền, rồi được qua Đông Đức chữa bịnh ... Tại mật khu R, VC “gắn” cho cụ nhiều chức vụ rất kêu, nhưng hữu danh vô thực với mục đích lợi dụng tên tuổi cụ để lôi cuốn đồng bào và trí thức ngây thơ như: Phó Chủ tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh. Đến tháng 6 năm 1969, cụ được “gia phong” chức mới để ngồi chơi xơi nước là Ủy Viên Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Kể cả ông Nguyễn Hữu Thọ lẫn cụ và các ủy viên trong Hội Đồng cố vấn đều bị VC cố vấn, chớ các cụ cố vấn được ai. Nói cách khác, cụ bị cố vấn th́ đúng hơn.

    "Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và ḥa b́nh", "Hội đồng cố vấn chính phủ", cũng như nhiều tổ chức khác do VC lập nên, chỉ là những tổ chức chính trị, lừa bịp thế gian, chớ không phải "tổ chức chính quyền", vậy các trí thức theo VC chỉ là những tấm b́nh phong che chắn cho những việc làm gian ác của họ.. Tuy vậy, nhiều người chưa rơ CS, cho rằng các trí thức miền Nam theo MTGP đều "làm lớn lắm".

    Nói đến trường hợp các ông chồng trí thức theo VC, bị các bà vợ giựt dây, muốn cho chồng “được làm lớn", chúng tôi xin kể lại trường hợp bác sĩ Phùng Văn Cung và vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang.

    Bác sĩ Phùng Văn Cung cùng với vợ thoát ly theo VC từ ngày VC mới chuẩn bị thành lập MTGP. Xuất thân trong một gia đ́nh tiểu tư sản, chào đời tại Chợ Lớn và gia đ́nh bên vợ Lê Thoại Chi cũng thuộc hàng giàu lớn, trí thức, nhiều người học cao, đỗ đạt, vô “dân Tây”, bác sĩ Phùng Văn Cung không phải là mẫu người dấn thân, ham hoạt động chính trị. Một người em bà con của bà Phùng có bí danh là Ba Trà, người trực tiếp ra vô Sàig̣n Chợ Lớn như ăn cơm bữa. Chính Ba Trà là người móc nối nhiều trí thức bất măn, đối lập với chính quyền quốc gia từ năm 1957.

    Theo lời ông Trương Như Tảng, Bộ Trưởng Tư Pháp trong chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam cho biết: "Nguồn tin của t́nh báo Mỹ hiểu lầm rằng bác sĩ Phùng Văn Cung là người chủ trương khủng bố."

    Sự thật ông chỉ thuộc thành phần bất măn với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Trước khi thoát ly, trốn ra mật khu vào đầu năm 1960, bác sĩ Cung phục vụ nhiều năm trong các bịnh viện lục tỉnh. Sau đó ông đổi về là giám đốc một bịnh viện ở Sàig̣n. Theo một vài người có quen biết với bác sĩ Phùng Văn Cung th́ bác sĩ Cung là người thích hưởng nhàn, tính t́nh hiền lành. Những ngày cuối tuần rỗi rảnh, ông thường đến nhà, hoặc mời các đồng nghiệp, bạn bè tới nhà đánh bài tứ sắc. Về quan điểm chính trị, bác sĩ Cung là người chủ trương ḥa giải hơn cứng rắn, ít thích nghi với cuộc sống kham khổ. Lúc sống trong mật khu, các bạn bè bác sĩ Cung cũng đều cho rằng những điều nhận xét trên là đúng. Nhiều thành viên của bác sĩ Cung như dược sĩ Hồ Thu, Trần Bửu Kiếm ... đều có cảm tưởng rằng bác sĩ Phùng Văn Cung không thể làm người cách mạng được. Trái lại vợ ông là một người đàn bà nhiều tham vọng, Lê Thoại Chi hoạt động tích cực, lấn lướt và chế ngự ông chồng hiền lành trước mặt bạn bè. Bà Phùng Văn Cung là người có ư chí mạnh mẽ. Tôi được nghe một ủy viên trung ương MTGP quen biết với vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung xác nhận:

    Chính bà Phùng Văn Cung đă thúc đẩy chồng tham gia hoạt động chính trị, trốn ra mật khu theo MTGP từ lúc chuẩn bị thành lập và họ không ngờ rằng MTGP chỉ là chiêu bài do CS miền Bắc dựng lên để có chính nghĩa xâm lăng, chiếm trọn miền Nam. Khi t́m các thành viên để lập chiêu bài MTGP, các cán bộ CS đă t́m hiểu, phân tích uy tín, thái độ chính trị của một số trí thức, nhân sĩ thân Cộng.

    Vai tṛ chủ tịch MTGPMN chính VC đă thảo luận trước, không cần tiếp xúc hay hỏi ư kiến của đương sự, rồi “bắt cóc họ”, đưa ra mật khu phong chức hàm. Khi đă chọn xong, họ mời các vị ấy đi họp, rồi bắt cóc luôn vô rừng. Trong một bài trước, chúng tôi có nhắc đến việc VC bí mật lựa chọn người đóng vai chủ tịch MTGPMN giữa các trí thức, nhân sĩ được dân chúng nghe danh, biết tên như dược sĩ Trần Kim Quan, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giám đốc nhà băng Michel Văn Vĩ ... sau cùng họ chọn luật sư Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó đang bị chính quyền quốc gia giam lỏng tại Cũng Sơn, tỉnh Phú Yên.

    Sau đó họ tổ chức bắt cóc Nguyễn Hữu Thọ, gọi là “giải thoát” Thọ, rồi đem giấu tại một nơi nằm trong rừng sâu, giữa biên giới Nam Kỳ, Miên, Lào, gọi là vùng "Trois frontiers", đợi ngày thành lập MTGPMN (20-12-60) bầu ông Thọ vào chức chủ tịch. Tuy nhiên, vào ngày đó, ông Thọ về căn cứ MTGP không kịp, nghĩa là không có mặt. Mặt trận đă không có quyền ǵ, th́ chức chủ tịch cũng chỉ là ... hàm mà thôi. Tất cả mọi thành viên trong mặt trận này cũng được lựa chọn từ trước, không hỏi qua ư kiến đương sự. Theo chỉ thị từ Hà Nội, VC dàn cảnh để tổ chức lập “MTGPMN”. Họ mời các trí thức, nhân sĩ “đi họp” rồi dẫn đi luôn vô rừng.

    Trở lại việc bà Cung là người tích cực, lấn lướt quyền chồng ... Trong cái gọi là "Đại hội mừng công” dỏm, tổ chức tại mật khu năm 1964 có một chuyện lừa bịp do chính người được lănh mề đay, cờ lưu niệm và nhận miếng vải có thêu mấy chữ MTGP để lưu niệm. Người đó là anh Dương Đ́nh Lôi, người Tân An, tập kết ra Bắc, làm thiếu tá huấn luyện viên trường dạy pháo binh ở Sơn Tây, mới xâm nhập miền Nam, chẳng biết ất giáp ǵ cả.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?

    Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?
    Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Câu lạc bộ Kháng chiến "?
    Lột Mặt Nạ Tổ Chức Bịp Bợm "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam"
    (Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản)
    Giáo sư Hứa Hoành
    P2




    Nguyên lúc đó là năm 1964, sân bay Biên Ḥa bị VC pháo kích, làm hư hại nhẹ 2 chiếc phản lực cơ Skyraiders. Liền sau đó, phi cơ trực thăng vọt lên, phát hiện chỗ đặt súng pháo kích nhờ đốm lửa phát ra, liền xạ kích, hạ sát tất cả mấy tên du kích đó, trong ấy có Huỳnh Thành Đồng làm “tổ trưởng đoàn 69".

    Tuy vậy, độ một tháng sau, để tuyên truyền lừa bịp, MTGP tổ chức “đại hội mừng công” tại mật khu, trước sự hiện diện của một số trí thức mới trốn ra, các ủy viên trung ương của Mặt trận. Sau lúc Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn chào mừng, ca ngợi công trạng láo khoét, tới phiên các chiến sĩ có công lên nhận huy chương. Ông Dương Đ́nh Lôi được gọi lên khán đài, và biết rằng "bị đóng kịch”, phải giả vờ đóng trọn vai người chiến sĩ thi đua, anh dũng lập công. Huỳnh Tấn Phát bước lên khán đài tặng ông Lôi "Huy chương kháng chiến hạng 3". Tới phiên tặng lá cờ kỷ niệm, th́ đến bác sĩ Phùng Văn Cung phó chủ tịch bước lên khán đài, nhưng bà Cung nhanh chân, giành lên khán đài trước. Bà ôm hôn thắm thiết "chiến sĩ thi đua lập công Dương Đ́nh Lôi", rồi mới trao cờ kỷ niệm. Anh Lôi kể:
    - Bà Phùng Văn Cung già ngắt, phấn son thơm phức, nhưng da mặt đă nhăn!

    Trong “đại hội mừng công này”, lần đầu tiên có đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí danh Sáu Vi xuất hiện. Ông từ Hà Nội mới vô R bằng phi cơ qua ngả Phnom Penh để nắm tất cả quyền hành. Ông bà Phùng Văn Cung có gởi một đứa con gái ra Hà Nội học tập, v́ để nó học trong Nam "sẽ hư con người".

    Theo ông Lê Tùng Minh, giáo sư Đại Học Tổng Hợp, quê ở Sóc Trăng, tập kết ra Bắc cho biết:

    - Cô gái con ông bà Phùng Văn Cung khi ra Bắc được gởi theo học lớp y tá, thay v́ bác sĩ như bà Cung muốn. Nhớ lại hồi năm 1960, khi cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm bất thành, một số sĩ quan VNCH, trốn lên Cam Bốt rồi được VC móc nối, trốn vô mật khu, theo VC. Trong số đó có đại úy Phan Lạc Tuyên, thiếu úy Thái Trần Trọng Nghĩa, bút hiệu Thủy Thủ. Phan Lạc Tuyên được MTGP gởi ra Hà Nội làm "tùy viên văn hóa" cho MT, bên cạnh chính phủ HCM. Cô gái con ông bà Cung lấy ông Phan Lạc Tuyên, ăn ở với nhau có một đứa con. Sau năm 1975, ông Tuyên trở về Nam, thôi hẳn người vợ đó. Gia đ́nh ông Tuyên trước năm 1960 cũng đă đổ vỡ. Ông về Sàigon ăn ở với người em dâu, (?) là vợ của người em, bị đi học tập cải tạo.

    Cũng trong lần “đại hội mừng công” nầy, bà Nguyễn Thị Định được Nguyễn Chí Thanh (Sáu Vi) phong chức “Tư lệnh phó các lực lượng vơ trang miền Nam". Sau đó, Sáu Vi có một buổi họp với một số trí thức Saigon mới ra, và nói một câu dằn mặt, làm cho mọi người thất vọng:

    - Quư vị ra đây là để “phục vụ cách mạng”, chớ không phải để được hưởng sự biệt đăi của cách mạng. Nên nhớ, hồi đó, họ chưa dùng các chữ “phục vụ đảng” mà chỉ nói "phục vụ cách mạng". Ai hiểu sao th́ hiểu. mấy chữ "đảng CS" c̣n giấu kín như bưng.

    Chúng tôi muốn kể thêm một trường hợp khác về việc "mời họp", rồi cưỡng ép ra mật khu tham gia MTGPMN với chức vụ "ủy viên trung ương" mà họ "gắn” cho. Người đó là ông giáo Nguyễn Văn Ngỡi, quê tại Tam B́nh, là một chức sắc trong đạo Cao Đài. Ông Ngỡi là một người hiền lành, có lúc ăn chay trường, được phụ huynh và các học sinh kính trọng. Ông Ngỡi có một người con trai tập kết, tên Nguyễn Hồng Quang. Quang được du học bên Bulgaria và đậu kỹ sư, nhưng lúc về nước, được bổ làm nhân viên sứ quán VC tại Algeria. Biết rơ ông Ngỡi có liên lạc với người con tập kết, VC cho người móc nối, phổ biến tin tức miền Bắc. Họ đă nhắm "chức sắc đạo Cao Đài" của ông Ngỡi, nên vào một đêm tối giữa năm 1960, du kích tới nhà ông ở Tam B́nh "mời đi họp”, rồi cưỡng bách, dẫn ông đi theo họ luôn.

    Khi thành lập MTGPMN, ông Ngỡi được phong chức “ủy viên trung ương". Nhiều người ủy viên trung ương MTGPMN đều ở trong trường hợp đó. (Tôi được nghe chính người con trai của ông là Nguyễn Hồng Quang k&#7875.... Cho tới nay, nhiều trí thức miền Nam, trót nghe lời tuyên truyền đường mật của VC, rồi bị họ quyến rũ, thoát ly gia đ́nh, trốn ra mật khu. Tới nơi, những vị nầy được phong các chức vụ nghe rất kêu mà hữu danh vô thực. Tới nơi, họ chỉ ngồi chơi xơi nước, biết ḿnh bị lừa, nhưng rất ít người thoát được sự kềm kẹp của họ để trở về. Sau này, nhiều vị cũng thú nhận lầm lỗi của ḿnh là tưởng rằng MTGPMN là tổ chức của những người quốc gia yêu nước, muốn đuổi Mỹ, để đ̣i chủ quyền và độc lập dân tộc. Lúc mới thành lập MT này, họ công bố chủ truong "độc lập dân tộc, ḥa b́nh và trung lập", không bao giờ để lộ “cái đuôi CS”. V́ lẽ đó, nhiều nhà trí thức, các chủ đồn điền, các cơ sở làm ăn lớn, nhưng không hiểu rơ thực chất của MTGPMN chỉ là công cụ của CS miền Bắc, nên đă bị họ đánh lừa, rồi lợi dụng. Chúng tôi muốn nói đến trường hợp các ông Trịnh Đ́nh Thảo, bác sĩ Phùng Văn Cung, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang.

    Trong kháng chiến chống Pháp, buổi đầu (1945-1950), mặt trận Việt Minh đă lừa bịp được các trí thức bằng cách đặt ra hai đảng Dân Chủ và Xă Hội để lôi cuốn những thành phần nói trên. Trong quá tŕnh kháng chiến, CS luôn ngụy trang, che giấu mục tiêu thật sự của họ. Cán bộ, đảng viên CS núp trong bóng tối để chỉ huy. Tùy thời gian, họ dựng lên những chiêu bài khác nhau, mới nh́n người nào cũng thấy họ có chính nghĩa. Đó là "cái chính nghĩa giai đoạn". Khi nào t́nh thế thuận lợi, họ trở mặt ngay. Khi CS Trung Quốc chiếm Hoa Lục, nối liền các nước thuộc khối xă hội chủ nghĩa th́ ông Hồ theo lịnh của Mao Trạch Đông, tái lập đảng CS mà ông đă giả bộ tự giải tán tháng 11 năm 1945, rồi lập đảng Lao Động vô sản. Nước VN là một bộ phận của cách mạng vô sản toàn thế giới và sẽ đi theo con đường xă hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa CS.

    Sau hiệp định Genève, CS có âm mưu chiếm miền Nam bằng vơ lực, nên gài cán bộ ở lại để phát động cuộc chiến tranh du kích, và cho cán bộ trí vận móc nối với những người kháng chiến cũ để mở đầu phong trào “tranh đấu chính trị trong quần chúng”. Những người đóng vai tṛ cán bộ trí vận, móc nối với các trí thức miền Nam là ai? Đó là Tạ Bá Ṭng, Ba Trà (Trần Văn Paul), Tư Đen ...

    Nhiều trí thức đối lập, sẵn sàng theo Mặt Trận để chống lại chính phủ quốc gia, vô t́nh họ trở thành những kẻ nối giáo cho giặc mà báo chí miền Nam trước đây gọi những thành phần đó là "ăn cơm quốc gia thờ ma CS".

    Trong số những trí thức, khoa bảng miền Nam theo CS có một số người tham vọng quyền lực như luật sư Trịnh Đ́nh Thảo, có nhà riêng như dinh tham biện, nằm trong một vườn xoài rộng lớn, mát mẻ; giáo sư Nguyễn Văn Kiết, từng làm lớn trong Bộ Giáo Dục, được cấp tư gia, có công xa đưa đón; ông bà Phùng Văn Cung ... chắc chắn không muốn theo CS để rồi tất cả tài sản bị tịch thu ...! Họ là những người thuộc giai cấp thượng lưu xă hội, hưởng mọi sự ưu đăi, không bị áp bức, bốc lột th́ làm sao theo CS được, nếu không hiểu lầm rằng MTGPMN là của những người quốc gia yêu nước? Nguyên nhân đó cũng là lư do thầm kín, chẳng hạn như các ông nhắm vào chức thủ tướng, bộ trưởng sau này?

    Về trường hợp vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng cũng là những người ngây thơ, tin rằng MTGP không phải là CS. Khi họ thành lập "chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam VN" (cũng là chiêu bài mới), bà Vân Trang, vợ giáo sư Bảng có hỏi:
    - Tại sao nước ta là nước nông nghiệp, lại không có bộ Canh Nông?

    Rơ ràng bà tưởng cái chính phủ ấy thực sự có quyền hành! Nó chỉ là công cụ của CS miền Bắc, để có tư thế tham dự ḥa đàm tại Paris.
    Ông Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vừa là nhà văn, nhà giáo và nhà cách mạng ôn ḥa. Ông Thiên Giang là thân phụ của giáo sư địa chất Trần Kim Thạch, dạy tại trường Đại Học Khoa Học Sàig̣n. Trần Kim Bảng là người sinh quán tại Quảng Nam, học hết cao đẳng tiểu học Pháp (tức trung học đệ nhất cấp), hoạt động trong nhóm CS đệ tứ như các ông Hồ Hữu Tường, Trần Văn Thạch ... là kẻ thù không đội trời chung với CS đệ tam, tức phe ông Hồ. Tuy nhiên thời kỳ sau này, CS đệ tam vẫn lợi dụng họ mà không giết như hồi kháng chiến chống Pháp ... Có lúc ông Bảng bị Pháp bắt giam tại Lao Bảo (Quảng Tr&#7883....

    Từ năm 1949-1952, Trần Kim Bảng sống tại Sàig̣n, viết báo, cộng tác với các tờ báo có khuynh hướng xă hội. Trong thời gian đó, ông tiếp tục làm giáo sư địa tại một số tư thục ở Sàig̣n. Bà vợ ông, người ta chỉ biết bút hiệu Vân Trang, họ Đào (?), con một gia đ́nh điền chủ ở miền Tây. Ông Trần Kim Bảng có một người em gái, cũng có khiếu văn chương, thường làm thơ, bút hiệu là Hợp Phố.
    Trong thập niên 1950, bà Vân Trang vừa là nhà văn chuyên viết các truyện ngắn về phụ nữ trung lưu, tiểu tư sản ở thôn quê miền Nam khá có tiếng tăm. Nữ sĩ Vân Trang là con gái út của gia đ́nh có 4 người con gái, đều thông minh, học giỏi, có tài viết văn, làm thơ và đàn ca ...

    Người chị cả là vợ của học giả Hồ Hữu Tường, quê ở Thường Thạnh, Cái Răng, Cần Thơ hoạt động trong nhóm đệ tứ, nổi tiếng là lư thuyết gia của nhóm. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Tường là người đệ tứ duy nhứt c̣n sống sót, thoát khỏi những đợt thanh trừng của phe ông Hồ. Từ năm 1949, ông Tường, cùng với các ông Trịnh Khánh Vàng, Trần Văn Ân, Lê Văn Ngọ, Jean Baptise Đồng ... đều làm cố vấn cho Bảy Viễn. Năm 1955, ông Tường bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bắt, kêu án tử h́nh và đày ở Côn Đảo. Sau khi nhà Ngô bị đảo chánh, ông Tường được trả tự do. Sau đó ông ứng cử dân biểu quốc hội và đắc cử. Sau năm 1975, ông bị VC bắt cải tạo và chết trong tù ở Hàm Tân.

    Người chị thứ hai được biết đến qua mấy chữ “Bà Tân Sinh" v́ bà có nhà sách "Tân Sinh" ở đường Đinh Tiên Hoàng, Dakao. Có lúc bà Vân Trang đứng trông coi nhà sách phụ với chị. Chồng bà Tân Sinh, cũng là nhà văn, có viết quyển truyện ngắn “Nọc Nạn” kể lại biến cố lớn ở Nam Kỳ năm 1928, trong đó cường hào ác bá (ông chủ H. với Mă Ngân) cấu kết với nhau, cướp đất của nông dân trực tiếp đứng ra khai khẩn, nhưng không biết thủ tục giấy tờ xin hợp thức hóa.

    Người kế là nữ sĩ Mộng Trung, đa tài, biết đàn ca, viết văn, làm thơ, là vợ của giáo sư nhạc sĩ Trần Văn Khê ... Cả hai vợ chồng ông Trần Kim Bảng đều hoạt động chính trị, và bà Vân Trang có nhiều tham vọng, muốn chồng giữ chức vụ quan trọng. Hai vợ chồng thoát ly gia đ́nh, trốn ra mật khu vào năm 1968. Tuy nhiên, trong MTGPMN cũng như cái gọi là "chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam", cả hai ông bà đều không được "gắn" một chức vụ nào cả, trong khi đó, bác sĩ Phùng Văn Cung làm Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ.

    Cán Bộ Trí Vận Móc Nối Các Nhà Trí Thức Miền Nam Như Thế Nào?

    Trước hết, cán bộ trí vận nhắm vào thành phần kháng chiến cũ, có liên hệ ít nhiều với Việt Minh từ sau năm 1945. Phần lớn những người này đều có cảm t́nh với MTGPMN. Những cán bộ trí vận (vận động trí thức) mà chúng tôi được biết là Tạ Bá Ṭng, Tư Đen, (Nguyễn Thanh Phong) Ba Trà (Trần Văn Paul ...)

    Trước hết chúng tôi xin kể về trường hợp cán bộ trí vận Ba Trà. Ba Trà c̣n có tên là Trần Văn Danh hay Paul, em ruột của bà Phùng Văn Cung, người sinh trưởng tại Chợ Lớn. Trà theo học chương tŕnh Pháp nhưng dở dang ở bậc đại học, rồi bỏ theo kháng chiến. Tôi xin mượn lời của một ủy viên "Mặt Trận Liên Minh Các Lực Lượng Dân Chủ và Ḥa B́nh" kể lại những hoạt động của Trà:

    "Tôi làm cho ... tại đồn điền cao su Lai Khê, cách quận Bến Cát chừng 4km. Chỗ này vắng vẻ, ban đêm VC thường lén về đ̣i tiền, thu thuế và tuyên truyền "cách mạng". Tôi bị họ đến hăm dọa, đ̣i tiền nhiều lần, và tuyên truyền về đường lối, chính sách của cách mạng. Có lúc tôi đấu lư với chúng, nhưng không thể nào dứt khoát cự tuyệt được ... Tôi “ủng hộ cách mạng” nhiều lần, mỗi lần một số tiền tượng trưng. Quen mùi thấy bùi, cứ cách vài ba đêm, chúng cử người tới diễn tṛ cũ: đ̣i tiền yêu cầu ủng hộ và tuyên truyền rỉ tai.

    "Chừng vài tháng sau tôi mới cảm thấy ḿnh dại v́ đùa với lửa. Tôi đă đấu lư và làm cho chúng bực bội, hậm hực bỏ đi. Tôi nghĩ trước sau ǵ tôi cũng bị VC trả thù. Nếu tôi tiếp xúc thường xuyên và ủng hộ cách mạng bằng tiền nhiều lần, trước sau ǵ, chính quyền quốc gia cũng phát giác, hoặc nghi ngờ, làm khó dễ, khiến tôi thấy cuộc sống bị đe dọa từ nhiều phía. Trong một dịp t́nh cờ, người bạn tôi, anh kỹ sư Tô Văn Cang giới thiệu một cán bộ VC vừa mới xâm nhập Sàig̣n, Gia Định. Tôi sốt sắng làm quen liền v́ nghĩ rằng nó sẽ là "cái mộc" để bảo vệ tôi ở Lai Khê khỏi bị VC khủng bố. Người đó là Tư Đen (tên thật là Nguyễn Thanh Phong), từng du học ở Pháp về, không có bằng cấp ǵ. Sau năm 1975, có lúc hắn làm giám đốc công an thương cảng Sàig̣n. Qua sự gặp gỡ với Tư Đen, tôi được quen thêm một cán bộ khác có bí danh Ba Trà. Lúc đó Ba Trà cũng là cán bộ trí vận, hoạt động như thế nào tôi không rơ. Mỗi lần y ghé thăm tôi, nhờ tôi chở đi chỗ này chỗ nọ. Tôi như một người tài xế cho y. Có lần y bắt tôi chở tới gần một địa điểm rồi xuống xe, đi một ḿnh đến chỗ mà y muốn sau khi thấy xe tôi chạy khuất. Một lần tôi đi công chuyện ở Dầu Tiếng, Ba Trà xin quá giang về Núi Cậu ...

    Nhưng khi đến Dầu Tiếng, không thấy người đi đón ở điểm hẹn, nên y phải trở về Sàig̣n ... Sau này tôi mới biết y đi đổi dollars ra tiền Việt Nam Cộng Ḥa, để đem về mật khu.

    Sau nầy tôi mới biết núi Cậu là mật khu của Ủy Ban MTGPMN khu Sàig̣n - Gia Định do khu ủy thường trực là Trần Bạch Đằng nắm giữ. Trần Bạch Đằng tên thật là Trương Gia Triều, bí danh Tư Ánh (tên con gái ông ta). Trong đợt tổng công kích vào Tết Mậu Thân năm 1968, Trần Bạch Đằng làm phó bí thư đảng ủy tiền phương 2, c̣n bí thứ là Vơ Văn Kiệt. Vợ của Trần Bạch Đằng là Nguyễn Thị Chơn (thường được gọi là D́ Năm Chơn), có lúc bị chính quyền quốc gia bắt giam. Trần Bạch Đằng phải t́m cách trao đổi tù binh với Mỹ để cứu bà Chơn. Khi chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam ra đời, bà Chơn được cử làm thứ trường Bộ Tư Pháp. Năm 1969 bà Chơn có tham gia phái đoàn dự hội nghị Paris.

    Có một lần Ba Trà biểu tôi chở đi Dầu Tiếng để đón một ông lớn. Khi tới suối ông Hùng, c̣n cách Dầu Tiếng 10km, gặp du kích chận xe lại. Nh́n mặt, họ biết Ba Trà là người của họ, và bảo tôi trở đầu xe. Lúc đó Trần Bạch Đằng mới xuất hiện, lên xe cùng với Ba Trà trở về Sàig̣n. Sau này tôi mới biết Trần Bạch Đằng là thường vụ khu ủy Sàig̣n - Gia Định. Trần Bạch Đằng có nhà trọ ở đường Phan Kế Bính, và mua một chiếc xe du lịch Simca 1000, do người nhà là Nguyễn Hải Thọ đứng tên và làm tài xế. Nguyễn Hải Thọ là em vợ của người anh ruột bà Nguyễn Văn Thiệu (bà Mai Anh), giáo sư Pháp Văn ở trường trung học Tân Hiệp (Bến Tranh) tỉnh Định Tường. Hiện nay Thọ làm giám đốc công ty cung ứng xuất khẩu ở Sàig̣n (1990).

    Trong thời gian giao thiệp với Ba Trà, có lần anh ta nhờ tôi đem tờ tạp chí của VC tựa "Trí Thức Mới" phổ biến trong giới trí thức ở Sàig̣n, đặc biệt là đem tới nhà hai ông: Dương Minh Thới, thân phụ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, và Nguyễn Xuân Bái, thân phụ của Nguyễn Xuân Oánh. Tôi nhận mấy tạp chí đem về nhà, nhưng rồi v́ lo sợ, đă đốt sạch, không giao và không phổ biến cho ai cả. Tuy nhiên tôi cũng báo cáo với Ba Trà tôi đă tiếp xúc với hai ông trí thức kể trên, và đă cho hai ông biết đường lối sắp tới của MTGPMN sẽ tấn công để cướp chính quyền, để đưa toàn thể miền Nam được độc lập, ḥa b́nh và trung lập như hội nghị Nhân Dân Đông Dương chủ trương theo ư kiến của Tổng Thống De Gaulle. Tôi cũng bịa ra rằng cả hai nhà trí thức ấy rất hài ḷng và ước mong cán bộ MTGPMN cứ đến thăm người trí thức ở thương cảng Sàig̣n để giới trí thức miền Nam không c̣n sợ MTGP là CS nữa.

    Tất nhiên, những điều tôi báo cáo láo với Ba Trà, được anh ta tŕnh về mật khu, về cục R. V́ vậy, sau này Ba Trà được lịnh kết nạp tôi làm cán bộ trí vận của MTGPMN khu Sàig̣n - Gia Định, nhưng chỉ là cán bộ trên danh nghĩa, chớ không có giấy tờ ǵ chứng minh cả.

    Cũng từ đó, tôi tưởng rằng ḿnh có thể yên tâm đi làm việc ở các đồn điền cao su hẻo lánh. Nếu bị VC bắt, chắc chắn tôi sẽ được thả liền và không c̣n nguy hiểm nữa. Tôi ngây thơ tin tưởng như vậy. Sự thật cả hai ông trí thức kể trên đều là những nhà tư sản, giàu có, chưa chắc ǵ họ sẵn sàng tin và theo MTGP. Tôi thâm thụt đi lại với Ba Trà trong gần 3 năm. Có những dịp tôi được gặp Vương Văn Lễ, Trần Văn Kiểu, Lê Thị Riêng và Đổ Thị Duy Liên ...

    Đi đêm có ngày gặp ma. Ngày 28 tháng 4 năm 1967, ông bạn kỹ sư Tô Văn Cang điện thoại cho tôi:
    - Đừng run nghe! Đây là tin giật gân! "Ba Trà đă bị bắt rồi", nhưng anh cũng cố trấn an tôi bằng cách nói thêm:
    - Anh Ba Trà có 30 tuổi đảng, sẽ giữ khí tiết và không tiết lộ bí mật. Đừng sợ!

    Phía VC, khi hay tin Ba Trà bị bắt, cho người nhắn tin Tô Văn Cang hăy ra vùng giải phóng ngay để được bảo vệ. Tuy nhiên, anh Cang không đi. Ngày 30 tháng 4 năm 67, vào lúc 3 giờ sáng, cảnh sát quận 3 đô thành bao vây nhà kỹ sư Cang và lục soát. V́ có chuẩn bị trước, anh Cang trốn trên trần nhà, nên thoát khỏi, chỉ có bà vợ bị bắt mà thôi.
    Trường hợp của tôi bị bắt cũng tương tợ. Tôi bị giam giữ tại bót Ngô Quyền, đường An B́nh, Chợ Lớn. Vào chỗ tạm giam, tôi c̣n gặp một số đông người quen biết th́ vững bụng là Ba Trà đă khai hết, nên không ai bị đánh đập ǵ cả và c̣n hy vọng được chính quyền quốc gia khoan hồng! Sau đó, tôi hỏi vài người quen về trường hợp Ba Trà bị bắt. Thực ra, Ba Trà bị theo dơi từ mấy tháng trước. Khi Ba Trà từ nhà kỹ sư Cao Văn Bổn đi ra, công an chính quyền VNCH xác nhận đúng là VC, chận y lại, rồi bắt đưa lên xe. Tới nơi hỏi cung, Ba Trà thú nhận y là cán bộ trí vận, không chối căi hay giữ bí mật như mọi người lầm tưởng. Cuối cùng, chính quyền quốc gia cho Ba Trà tự chọn lựa:

    - Một là hợp tác với chính quyền quốc gia.
    - Hai là chịu tra tấn.
    - Ba là chịu thủ tiêu.

    Sau một hồi suy nghĩ, Ba Trà đầu hàng, và viết bảng tự khai sự thật 100% với chính quyền quốc gia. Ba Trà phải để hai ngày ṛng ră viết lại các hoạt động của y và sự liên hệ của các cán bộ trí vận CS nào liên lạc với các trí thức nào ở Sàig̣n, Chợ Lớn, Gia Định. Có một điều là Ba Trà thổi phồng sự thật về địa vị và chức vụ của y cho quan trọng hơn: khai tùm lum, khiến nhiều người chỉ mới tiếp xúc, chưa hoạt động cũng bị bắt như: Trương Như Tảng, giám đốc công ty đường Việt Nam, ông Đinh Xáng, chủ tịch một ngân hàng, Cao Thị Quế tự Đức Anh ... Ba Trà cộng tác đắc lực với chính quyền quốc gia, nên công an VNCH c̣n bắt được bà Nguyễn Thị Chơn là vợ của Trần Bạch Đằng, hai khu ủy viên Sàig̣n, Gia Định là Trần Văn Kiểu và Lê Thị Riêng. Hai người này không chịu đầu hàng và bị đưa đem bắn trong đêm đầu tiên của cuộc tổng công kích Mậu Thân (1968). Sau khi chiếm được miền Nam, VC lấy tên bà Lê Thị Riêng đặt cho con đường Tôn Thọ Tường, chỗ bán phụ tùng xe đạp và xe Honda trong Chợ Lớn.

    Những việc không có liên hệ với y th́ Ba Trà không khai như việc tôi và bà Ngô Bá Thành đi thăm các thượng tọa tại chùa Ấn Quang, đi gặp Linh Mục Hoàng Quỳnh. Tất nhiên những lời khai của Ba Trà về tôi th́ tôi phải nhận, c̣n việc tiếp xúc với giáo sư Dương Minh Thới và ông Nguyễn Xuân Bái (mà tôi báo cáo láo) th́ phải đối chất với hai ông ấy khi hai ông bị mời tới Tổng Nha CSQG. Đồng thời tôi phải làm giấy xác nhận là tôi đă "báo cáo láo" với Ba Trà, th́ hai ông này mới không bị chính quyền quốc gia làm khó dễ.

    Dù sao tôi cũng đă tiếp tay, hoạt động cho VC với bằng chứng cụ thể, nên tôi bị giam trong pḥng tối 9 tháng và 3 tháng tại Câu Lưu xá Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Dưới thời đệ nhứt Cộng Ḥa (1955-1963) những trí thức hoạt động cho VC có bằng chứng cụ thể, có thể bị kết án 15 năm tù và bị đày đi Côn Đảo như trường hợp chị dược sĩ Phạm Thị Yến, vợ anh Trần Bửu Kiếm, và giáo sư Nguyễn Văn Ch́ năm 1960. Chị Yến được ân xá dưới thời cụ Trần Văn Hương. Chị có đến thăm cụ và sau đó được cắp phương tiện đi Phnom Penh đoàn tụ với chồng. Riêng kỹ sư Tô Văn Cang sau đó chính vợ đă khai thật v́ bị dọa tịch thu tài sản, nên cũng bị bắt. Cang bị phạt nặng hơn tôi, nhưng cũng được tha cùng một lúc với tôi."

    Giáo Sư Hứa Hoành

    http://www.tinparis.net/thamluan/08_..._huahoanh.html

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?

    Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?
    Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Câu lạc bộ Kháng chiến "?
    NỖI L̉NG HUỲNH TẤN PHÁT


    BS Trần Nguơn Phiêu



    Kể từ những ngày khởi đầu kháng chiến chống Pháp cho đến ngày quân Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong các nhân vật liên quan đến việc đấu tranh ở Nam bộ, Huỳnh Tấn Phát phải được coi là có vai tṛ sáng giá nhất. Những gương mặt nổi bật lúc ban đầu khi Việt Minh đoạt chánh quyền ở Nam bộ như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Trấn... sau đó đă “được” mời ra Bắc hoạt động. Riêng những người như Huỳnh Tấn Phát, Trần Bạch Đằng... là những người gắn bó nhất với miền Nam, đă bám trụ từ đầu cho đến cuối.

    Huỳnh Tấn Phát đă được biết tiếng v́ các hoạt động trong giới sinh viên khi đang theo học kiến trúc ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội vào các năm 1936-1938. Anh tham gia phong trào Đông Dương Đại Hội, tổ chức phái đoàn sinh viên, học sinh lên gặp phái đoàn Godart của Chánh phủ Mặt trận B́nh dân Pháp để tŕnh “Thư Thỉnh Nguyện”. Năm 1938, Phát đă tốt nghiệp thủ khoa khi ra trường. Trở về sinh sống ở Sài G̣n, sau một thời gian tập sự với kiến trúc sư Pháp tên Chauchon, Phát mở văn pḥng riêng tại 68-70 đường Mayer (Hiền Vương thời VNCH).

    Năm 1941 Toàn quyền Decoux tổ chức Hội chợ Triển lăm Đông Dương ở Vườn Ông Thượng ( Tao Đàn). Huỳnh Tấn Phát đă đoạt giải nhất cuộc thiết kế và xây dựng Hội chợ. Nhưng việc nổi bật nhất vào thời bấy giờ là việc đứng ra làm Chủ nhiệm tuần báo Thanh Niên vào năm 1944. Phát đă mua lại “manchette” tờ báo công khai Thanh Niên để làm báo hằng tuần với nhóm sinh viên từ Hà Nội trở về Nam như Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước... Tuần báo được sử dụng để tập hợp lực lượng thanh niên yêu nước, kín đáo lên tiếng gọi đàn, cổ động phát triển Hội Truyền bá Quốc ngữ. Ngày 30-9-1944, Chánh quyền thực dâân Pháp ra lịnh đóng cửa tờ báo.

    Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, nhằm mục đích huy động thanh niêân , lănh sự Nhật Iito khuyến khích Hồ Văn Ngà , Phạm Ngọc Thạch thành lập Thanh Niên Tiền Phong. Huỳnh Tấn Phát đă tích cực tham gia phong trào này với trách nhiệm trưởng ban tổ chức. Thanh niên Tiền Phong là một phong trào đă phát triển mạnh mẽ ở miền Nam trong thời khoảng năm 1945. Những người nắm vai tṛ thủ lănh là Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Kỹ sư Kha vang Cân, Luật sư Thái Văn Lung, Nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, nhưng Huỳnh Văn Tiểng, Huỳnh Tấn Phát là những người thật sự đă góp công xây dựng phong trào. Trần Văn Giàu trong bóng tối, thấy Huỳnh Tấn Phát và Huỳnh Văn Tiểng có tờ báo công khai đă t́m cách liên lạc. Thông qua Phát và Tiểng, Trần Văn Giàu đă lợi dụng nắm lấy Thanh niên Tiền phong, dùng phong trào để đoạt chánh quyền cho Việt Minh. Nguyễn Văn Nguyễn, Ủy viên Xứ ủy Nam kỳ được gài ở chung nhà của Huỳnh Tấn Phát ở 68 đường Mayer để “hợp tác” làm báo với Phát.

    Khi các sinh viên miền Nam “xếp bút nghiên” từ Bắc trở về v́ phi cơ Đồng Minh đă bắt đầu tấn công vào Đông Dương, họ đă gây được một phong trào văn nghệ và thanh niên để đánh thức ḷng yêu nước của dân chúng miền Nam. Những buổi tŕnh diễn rất thành công các bản nhạc yêu nước của Lưu Hữu Phước ở Nhà Hát Lớn Sài G̣n, các kịch lịch sử như Đêm Mê Linh, các trại hè như Trại Suối Lồ Ồ đă được Xứ Ủy Đảng Cộng sản Nam Kỳ chú ư và Trần Văn Giàu đă bắt liên lạc để tổ chức các lớp huấn luyện chánh trị cho các sinh viên trẻ đầy nhiệt huyết này để hướng dẫn họ theo đường lối Đảng Cộng sản. Lúc ấy, phần đông các sinh viên này, kể cảû Huỳnh Tấn Phát đều thuộc đảng Tân Dân Chủ (sau sẽ đổi tên thành Đảng Dân Chủû). Nhà và Văn pḥng của Huỳnh Tấn Phát ở 68-70 đường Mayer là trụ sở lớp học chính thời bấy giờ cho các học viên trí thức như Huỳnh Văn Tiểng (Trưởng lớp), Mai Văn Bộ, Vương Văn Lễ, Nguyễn Việt Nam, Trần Bửu Kiếm, Trương Công Cán, Huỳnh Tấn Phát ...Những lớp học khác cho công nhân, viên chức của thành bộ Đảng được tổ chức ở các nơi khác.

    Huỳnh Tấn Phát được Trần Văn Giàu chú ư và bí mật kết nạp Phát vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5 tháng 3 năm 1945, trong khi ngoài mặt th́ Huỳnh Tấn Phát vẫn là đảng viên đảng Tân Dân Chủ . Khi tổ chức cướp chánh quyền ngày 25 tháng 8-1945, trong Hội nghị Xứ ủy mở rộng kỳ thứ ba ở Chợ Đệm (Tân An) ngày 23-8-1945, Huỳnh Tấn Phát được chỉ định làm Ủy viên Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ. Phát đă từ chối và xin nhường cho Huỳnh Văn Tiểng thay thế. Huỳnh Tấn Phát với tư cách kiến trúc sư đă là người dựng lên kỳ đài sơn đỏ, cao 15 thước ở ngă tư Charner-Bonard trong đêm 24 rạng 25-8-1945, ghi danh tánh 11 ủy viên Ủy ban Hành chánh Nam Bộ.

    Trước đó, trong thời gian cầm quyền của chánh phủ Trần Trọng Kim, để chuẩn bị đấu tranh, Huỳnh Tấn Phát đă đưa Huỳnh Văn Tiểng đến gặp chú của Phát là luật sư Huỳnh Văn Phương, người đang đảm trách Cơ sở Mật thám Catinat. Ông Phương đă nói với Phát và Tiểng: “V́ lúc này Việt Minh chưa thể ra được. Tụi bây nói với các anh trên việc này. Các anh có cần ǵ, cho tao hay,tao sẽ t́m cách đáp ứng”. Phát và Tiểng đă báo cáo với lănh đạo (tức Trần Văn Giàu?) và được trả lời:”Ai làm ǵ cho đất nước có lợi trong lúc này th́ cứ làm”. Đồng thời “ cấp trêân” của Tiểng xin Huỳnh Văn Phương giúp ngay các việc gấp: Cấp cho súng và thay đổi nhân viên bộ máy công an của Pháp để lại.

    Huỳnh Văn Phương đă đồng ư và đă tặng cho 50 súng ngắn mới toanh. Chính tay Tiểng và Phát đă đem xe vào bót Catinat để lănh số súng này. Ngoài ra ông Huỳnh Văn Phương c̣n t́m đào được súng của Pháp chôn dấu trong Đô thành Sài G̣n - Chợ Lớn để giao lại cho Phát cất ở nhà 68-70 đường Mayer và trụ sở hướng đạo của Nguyễn Việt Nam ở Ngă Ba Cây Điệp (Trích bài: “Mùa Thu Khởi Nghĩa” của Huỳnh Văn Tiểng trong sách “Làm Đẹp Cuộc Đời”, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia). Ông Phương c̣n để cho bộ phận vơ trang của Thanh niên Tiền phong xửû dụng sân tập bắn của sở cảnh sát Chợ Quán . Những người tù chánh trị bị Pháp bắt cũng đă được Huỳnh Van Phương trả tự do, trong đó có tướng Trần Văn Trà sau này, lúc đó lấy tên là Thắng.

    Cũng vào thời này, Huỳnh Văn Phương đă khám phá ra được tài liệu Mật của Sở Mật thám Catinat về việc liên lạc giữa Trần Văn Giàu và những nhân vật mật thám Pháp “mới”, trong đó có Duchêne, thanh tra chánh trị bót Catinat (Nguyễn Văn Trấn trong “ Viết cho Mẹ và Quốc hội”, trang 106, có đề cập đến việc gặp Duchêne). Huỳnh Văn Phương đă sao tài liệu làm 3 bản, để giao lại cho Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ và luật sư Dương Văn Giáo, mỗi người một bản. Huỳnh Văn Phương cũng giữ riêng một bản. Việc này đă được Dương Văn Giáo trưng ra trong một buổi hội ở nhà Luật sư Hồ Vĩnh Kư cho lối hơn mười người xem. Trần Văn Giàu rất thù hận cay cú việc này nên ngay sau ngày quân Pháp tái chiếm Sài G̣n ngày 23 tháng 9-1945, Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn đă bắt và xử bắn Huỳnh Văn Phương ở Tân An ngay sau khi họ rút ra khỏi Sài G̣n để lui vềà Chợ Đệm, mặc dầu Huỳnh Văn Phương là người đă từng giúp phương tiện cho họ trong những ngày dự bị khởi nghĩa. (Việc này đă được tác giảû đề cập chi tiết hơn trong bài “Những Nhân chứng Cuối cùng”được đăng trong Thế Kỷ 21,số 121,tháng5-1999).

    Huỳnh Văn Phương là một trong số 19 sinh viên bị Pháp trục xuất về Việt Nam v́ tham dự vào cuộc biểu t́nh trước Điện Élysée (dinh Tổng Thốâng Pháp) ngày 22-5-1930, chống việc kết án tử h́nh Nguyễn Thái Học và các đồng chí trong cuộc khởi nghĩa ởû Yên Bái. Tạ Thu Thâu, Trần Văn Giàu, Hồ Văn Ngà...đều đi chung trong chuyến tàu Athos II, từ bến Marseille chở họ về Việt Nam ngày 24-6-1930. Huỳnh Tấn Phát gọi Huỳnh Văn Phương là “ chú Một” v́ Phương thứ Mười Một trong gia đ́nh. Sau khi bị trục xuất về Việt Nam một thời gian, Huỳnh Văn Phương tiếp tục học Luật ở Hà Nội. Trong thời gian này, Huỳnh Tấn Phát cũng ra Hà Nội học nghề Kiến trúc. Bà Đặng Hưng Thọ, hoa khôi khu Hoàn Kiếm thời bấy giờ, vợ của Huỳnh Văn Phương đă kể lại các việc “chú Một” từng giúp đỡ cháu Huỳnh Tấn Phát như cấp cho áo lạnh, giày mới thay thế những đôi giày “há mồm” v...v. Huỳnh Tấn Phát v́ hảo tâm với các bạn đồng song nghèo đă tặng cho bạn giày hay cho mượn áo lạnh đem đi cầm để có tiền sinh sống. Việc người chú ruột thân thương, một chánh khách yêu nước, bị giết trong những ngày đầu cuộc chiến chắc hẳn đă gieo trong tâm tư Huỳnh Tấn Phát nhiều ray rức.

    Khi Pháp chiếm lại Sài G̣n ngày 23 tháng 9-1945, Huỳnh Tấn Phát bị bắt nhưng sau 3 ngày đă được thả v́ Huỳnh Tấn Phát là một kiến trúc sư đă có danh tiếng và v́ Pháp muốn lấy ḷng dân trí thức. Huỳnh Tấn Phát lo tản cư vợ mới cưới là Bùi Thị Nga về Quán Tre, xong tiếp tục gia nhập kháng chiến chống Pháp. Cuộc chiến lan rộng Bùi Thị Nga đă phải dời liên tiếp về Thủ Thừa, Phú An Ḥa, Bến Tre và cuối cùng trở về Sài G̣n ở nhà cha mẹ chồng ở 99 đường Faucault, Tân Định. Trong khi đó Huỳnh Tấn Phát được cử làm Trưởng đoàn Đại biểu Thanh niên Nam bộä được chọn ra Hà Nội dự Đại hội Thanh niên Toàn quốc. Đây là thời kỳ Hoàng Quốc Việt thay mặt Tổng bộ Việt Minh, được Hồ Chí Minh gởi từ Bắc vào để “chỉnh lại”cuộc đoạt chính quyền của Trần Văn Giàu. Thanh niên Tiền phong phải “ đồng thanh nhận” đổi tên thành Thanh niên Cứu quốc. Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch được quyết định của Trung ương ra Bắc “nhận nhiệm vụ mới”. Hơn 100 đại biểu thanh niên Nam bộ, khi đến B́nh Dương th́ Hoàng Quốc Việt quyết định chỉ cử 6 đại biểu. Sau thời gian dự hội nghị, đoàn của Huỳnh Tấn Phát trở lại về Nam. Huỳnh Tấn Phát được Bộ Quốc Pḥng tín nhiệm giao một số tiền lớn đem về cho Tướng Nguyễn B́nh ở miền Đông Nam Bộ.

    Về Sài G̣n, Huỳnh Tấn Phát nhận chỉ thị của Nguyễn B́nh, thành lậäp ở vùng Minh Phụïng , Câây Gơ một cơ quan Tuyên truyền Xung phong in truyền đơn, cờ, báo để phân phát trong Đô thành. Liên tiếp sau đó Cơ quan này được dời sâu vào Đô thành như ở nhà bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, trước thành Ô-ma hoặc nhà em bác sĩ Nguyễn Thị Lợi (vợ bác sĩ Lương Phán) ở đường Boudonnet gần chợ Sài G̣n. Lúc ban Tuyên truyền Xung phong này dời về căn nhà lầu ở 160 đường Lagrandière th́ bị lộ và bị bắt, gồm cả vợ chồng Huỳnh Tấn Phát.

    Mẹ và vợ Huỳnh Tấn Phát được trả tự do sớm v́ chỉ bị bắt khi đến thăm Phát lần đầu tiên ở trụ sở 160 đường Lagrandière. Sau một thời gian ở bót Catinat, Phát được đưa về Khám Lớn Sài G̣n. Tại đây vào tháng 10-1947 Huỳnh Tấn Phát tham gia lănh đạo tổ chức cuộc tuyệt thực 3 ngày. Do đó chế độ nhà tù ở Khám Lớn được cải thiện. Những người cùng bị bắt với Phát bị xử 4 tháng tù v́ tội phá rối trị an. Riêng Huỳnh Tấn Phát v́ bị gán thêm tội liên hệ với Tướng Nguyễn B́nh nên phải ra ṭa án binh, bị xử hai năm tù và đến tháng 11 năm 1947 mới được thả.

    Trong lúc Huỳnh Tấn Phát bị bắt ở Catinat th́ Bùi Thị Nga cho chồng hay là đang mang thai lần đầu. Bác sĩ Hồ Văn Nhựt , bác sĩ sản khoa đă tận t́nh giúp bà Nga sanh đẻ miễn phí con trai đầu ḷng Huỳnh Thiện Hùng, ngày 2-12-1946, trong lúc Phát c̣n trong tù.Bà Nga đă chọn luật sư Moréteau để lo biện hộ cho chồng. Luật sư Moréteau đă quen biết trước và có cảm t́nh với Phát nên đă nhận bào chữa nhưng không tính thù lao. Huỳnh Tấn Pháùt có người cô ruột gọi là Cô Tám, cư ngụ ở B́nh Phước. Cha của Huỳnh Tấn Phát thỉnh thoảng lên thăm Cô Tám, ở chơi vài tuần. Giữa năm 1947 cha của Huỳnh Tấn Phát lên B́nh Phước thăm Cô Tám và bị Việt Minh bắt !

    Khi bà Nga báo hung tin này cho Huỳnh Tấn Phát th́ Phát đă hốt hoảng dặn ngay vợ: “Em đến luật sư Moréteau nhắn mai anh cần gặp ổng. Rồi em đón ổng lấy cái thơ anh viết bảo lănh cho ba. Thơ này em t́m cách trao tận tay các anh lănh đạo ở B́nh Phước”.(Trích bài “ Phối hợp Đấu tranh, Trong và Ngoài Khám Lớn” của Bùi Thị Nga trong “ Làm Đẹp Cuộc Đời”, sđd ) Bà Nga đă làm y lời chồng căn dặn nhưng không có kết quả ǵ. Cha của Huỳnh Tấn Phát đă bị giết. Tiếp đó em của cha HTP là Cô Tám nóng ḷng đi t́m cũng bị sát hại, giống như chú Một Huỳnh Văn Phương đă bị xử bắn năm 1945 ở Tân An v́ liên hệ đến nhóm Đệ Tứ. Được tin động trời này, Huỳnh Tấn Phát đă nói với vợ: “Anh biết tánh Ba, chút rượu vào, nhớ chú Một, giận chưởi đổng ít câu vậy thôi, quyết không có vấn đề chánh trị đâu”. Cha, chú rồi cô đều bị giết v́ t́nh nghi dính líu với Đệ Tứ, tâm tư Huỳnh Tấn Phát hẳn không bao giờ quên được việc ấy!

    Để giúp biện hộ cho Huỳnh Tấn Phát, luật sư Moréteau đă yêu cầu bà Nga mời thêm luật sư danh tiếng thời bấy giờ là luật sư Bazé tiếp sức. Thời gian này nhằm lúc thi hành Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 nên không khí chánh trị Sài G̣n có những trạng thái đặc biệt. Tết năm 1947, chị em phụ nữ đảng Dân chủ ( Huỳnh Tấn Phát là Ủy viên Kỳ bộ Đảng Dân Chủ ở Nam k&#7923... tổ chức thăm nuôi tù nhân Khám Lớn đă nhận được báo và tập san của anh em tù nhân bí mật phát hành. Các tác phẩm được Bùi Thị Nga gom góp và tổ chức triển lăm gây quỷ ở nhà của Thái Thị Liên, mẹ của nhạc sĩ dương cầm Đặng Thái Sơn sau này. Đến tham dự cuộc họp có đệm nhạc này ở nhà kỹ sư Thái Văn Lân (cha của Thái Thị Liên) có các trí thức như Bác sĩ Phạm Kim Lương, Dược sĩ Trần Kim Quan, Kỷ sư Nguyễn Xuân Quyến, Trần Văn Khê đàn tranh, Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương... Hôm đó, Thái Thị Liên đệm dương cầm và kết thúc bằng tự hát bản “Quốc tế ca”làm mọi người phải sửng sốt. Thái Thị Liên lúc ấy cũng phụ trách thăm nuôi hai nhà trí thức Pháp là Giáo sư Tiến sĩ Chesneau của Đại học Sorbonne và Pételot. Hai vị này bị nhốt ở Khám Lớn v́ vào khu kháng chiến với danh nghĩa nhà báo. Cũng vào thời buổi này, xảy ra việc Dương Bạch Mai bị bắt. Để biện hộ cho Dương Bạch Mai, đảng Cộng sản Pháp đă gởi qua Sài G̣n nữ luật sư Marie Louise Cachin, con gái của lănh tụ nỗi tiếng Marcel Cachin, người đă từng giữ chức Bí thư Đảng Cộng sản Pháp. Dương Bạch Mai được trắng án và Thái Thị Liên đă tham dự tổ chức buổi ăn mừng và tiễn đưa đồng chí Marie Louise Cachin về Pháp. Trong buổi tối tiệc tiễn đưa ấy, Thái Thị Liên đă mặc áo dài đỏû lộng lẩy, bên ngực cài mộät bông hoa vàng rực rỡ, biểu hiệu cho cờ đỏ sao vàng!

    Ra tù, Huỳnh Tấn Phát liên hệ ngay với Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) và chuyên phụ trách công tác trí vận vùng Sài G̣n Chợ Lớn v́ anh quen biết nhiều trong giới này. Vợ Phát, Bùi Thị Nga, tháng 5-1948 được luật sư Hoàng Quốc Tân kết nạp vào Đảng Cộng sản. Hoàng Quốc Tân (cháu nội của Hoàng Cao Khải, Khâm sai Đại thần Triều đ́nh Hu&#7871..., đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, có vợ người Pháp, được về Nam phụ trách phong trào Trí vận. Bùi Thị Nga được Hoàng Quốc Tân phân công làm Đảng đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động trong giới trí thức.

    Như thế là kể từ đấy, hai vợ chồng Huỳnh Tấn Phát trong bí mật là đảng viên Cộng sản nhưng đă được Đảng bố trí ở Đảng Dân Chủ để dễ bề kết nạp trí thức miền Nam!

    Huỳnh Tấn Phát cộng táùc với Mai Văn Bộ, Nguyễn Văn Hiếu trong việc xuất bản loại báo Nguyên tử, mua lại manchette báo dở chết, bất th́nh ĺnh ra số ủng hộ kháng chiến, bán vội ở các sạp trước khi kiểm duyệt hay tin. Việc trí vận ở Sài G̣n vẫn tiếp tục với sự trợ giúp của các nhân vật mới như Bác sĩ Trần Cửu Kiến, Bí thư Tỉnh ủy Đảng Dân chủ tỉnh Sa Đéc được Phát điều động từ Cao Lănh lên...

    Trước Tết 1949, Huỳnh Tấn Phát được gọi ra khu, được cử làm ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ. Đồng thời Phát kiêm chức Giám đốc Sở Thông tin Nam bộ khi giáo sư Phạm Thiều được chuyển về Khu Chín. Bùi Thị Nga được ra ở cùng chồng trên bờ kinh Dương Văn Dương, Đồng Tháp đến tháng Giêng 1950 th́ trở lại Sài G̣n. Huỳnh Tấn Phát phụ trách đài Tiếng nói Nam bộ nhưng đến năm 1950, đài này trở về lại Khu 9 . Đặc khu Sài G̣n-Chợ Lớn được thành lập và Huỳnh Tấn Phát đă đôn đốc Đặng Trung Hiếu ( Giám đốc Đài Truyền h́nh Sài G̣n sau 30-4-1975) thiết kế thành lập đài Tiếng nói Sài G̣n- Chợ Lớn Tự do ở Chiến khu Đ.

    Năm 1954 sau Hiệp định Genève, Huỳnh Tấn Phát được chỉ định trở về Sài G̣n và làm việc tại văn pḥng Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Năm 1955, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm tổ chức cuộc thi thiết kế khu Văn Hóa để xóa bỏ khu di tích Khám Lớn Sài G̣n. Văn pḥng Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện chiếm được giải nh́ (không có giải nhất), giải thưởng một trăm ngàn đồng. Đây là công tŕnh của Huỳnh Tấn Phát và nét vẽ phối cảnh của Phát được ban giám khảo nhận ra. Kiến trúc sư Thiện chia cho Huỳnh Tấn Phát ba mươi ngàn. V́ dư luận Sài G̣n bàn tán đến tai cơ quan an ninh khiến một hôm văn pḥng Kiến trúc sư Thiện bị bao vây nhưng v́ Phát đang ở công trường xây cất nên không bị bắt. Từ đó Huỳnh Tấn Phát , biệt danh là Tám Chí và Bùi Thị Nga lui trở lại trong ṿng bí mật, luôn luôn di chuyển.

    Tuy nhiên trong thời gian đó Huỳnh Tấn Phát vẫn t́m cách hành nghề như phác thảo biệt thự của giáo sư Dương Minh Thới để văn pḥng Kiếân trúc sư Thiện thực hiện. Biệt thự này, đối diện với Bộ Y Tế đường Hồng Thập Tự là nhà của bác sĩ Dương Huỳnh Hoa hiện nay. Huỳnh Tấn Phát cũng đă nhận thiết kế Viện sản xuất dược phẩm Trang Hai ở số 5, Ngô Thời Nhiệm v́ Dược sĩ Nguyễn Thị Hai là bạn học của Bùi Thị Nga, vợ Huỳnh Tấn Phát. Sau vài lần gặp gỡ Phát đăơ nhận lời vẽơ v́ cho làø công tŕnh sẽơ tạo công ăn việc làm cho lao động. Dược sĩ Trang đă đứng ra xây dựng cơ sở này. Năm 1993 Dược sĩ Hai đă trở về thăm cơ sở và Bùi Thị Nga nhưng Huỳnh Tấn Phát th́ đă mất tháng 9 năm 1989.

    Huỳnh Tấn Phát được bổ sung vào Thành ủy Sài G̣n, phụ trách Ban Trí vận cho đến năm 1959. Sau đó, Phát được cử làm Khu ủy viên chính thức Đặc khu Sài G̣n-Gia Định và ra ở vùng Tam Giác Sắt.

    Lúc c̣n hoạt động ở Sài G̣n, năm 1956, Phát đă nhờ giáo sư Lê Văn Huấn, em của cựu Thủ tướng Lê Văn Hoạch để bắt liên lạc với Pauline Trần Thị Mỹ đang hoạt động trong Nghiệp đoàn Giáo giới Tư thục. Trần Thị Mỹ là em gái của Kỹ sư Trần Lê Quang, tốt nghiệp kỹ sư Trường Cầu cống Ponts & Chaussées danh tiếng của Pháp. Kỹ sư Quang về nước năm 1951, làm Giám đốc Đường sắt Đông Dương và được Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cử làm Bộ trưởng Giao thông Công chánh. Phát bố trí cho Trần Thị Mỹ thực hành công tác tế nhị là xuyên qua anh là Trần Lê Quang để biết được t́nh h́nh nội bộ của từng bộ trưởng trong Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm cũng như các hành động của Chánh phủ. Có lần Trần Thị Mỹ, bí danh Mười Lêâ, đă xin anh đồng ư cho Huỳnh Tấn Phát mượn nhà để họp với Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh).Phương cách làm việc này đă được Huỳnh Tấn Phát sử dụng lại nhiều lần trong công tác trí vận đối với một vài nhân vật trong các chánh phủ thời Việt Nam Cộng Ḥa. Trường hợp của Dược sĩ Phạm Thị Yên có thể là một việc tiêu biểu. Dược sĩ Phạm Thị Yên, vợ của một nhân vật quan trọng trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam là Trần Bửu Kiếm, có nhà thuốc đông khách ở cuối đường Đồng Khánh, Chợ Lớn. Dược sĩ Yên, có tên là Chị Bảy Yên, đă được bầu làm trưởng Ban Trí vận và cũng đồng thời là bí thơ chi bộ trí thức Đô thành Sài G̣n-Chợ Lớn trong một buổi hội ở Long Hải. Buổi hội được tổ chức ở một biệt thự nghỉ mát của Dược sĩ Trần Văn Tánh, chủ nhân Viện Bào chế TVT. Năm 1960, Ban Cán sự Trí vận của Phạm Thị Yên bị bắt trọn bộ. Phạm Thị Yên sau đó bị đày Côn Đảo. Cuối năm 1968, Thủ tướng Trần Văn Hương trước kia từng có thời phụ giúp nhà thuốc của Dược sĩ Trần Kim Quan đă ra quyết định âân xá cho Dược sĩ Yên. Ra được Bắc, Dược sĩ Yên đă được phân công đi tố cáo “Mỹ, Ngụy”ở một số nước Bắc Âu.

    Bác sĩ Dương Quang Trung, tốt nghiệp ở Bordeaux (Pháp) trở về Hà Nội đă được đưa vào Nam tăng cường cho Ban Trí vận Mặt trận T4 với bí danh Hai Ngọï. V́ là cán bộ mới, chưa bị lộ nên Huỳnh Tấn Phát đă đưa vào nội thành hoạt động. Sau 30-4-75, Hai Ngọ được cử làm Giám đốc Sở Y tế Thành phố Sài G̣n. Công tác trí vận của Hai Ngọ chưa thành công lúc vào nội thành v́ gặp phải đối tượng có cảnh giác?

    Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam được tuyên bố thành lập. Huỳnh Tấn Phát cùng Vỏ Chí Công, Phùng Văn Cung đứng đầu Ủy ban Trung ương Lâm thời Mặt trận. Huỳnh Tấn Phát đă có dịp thi thố tài năng Kiến trúc sư khi tổ chức Đại hội MTDTGP Đặc khu Sài G̣n Gia Định vào dịp Tết Nhâm Dần (1962). Đại hội tổ chức ở An Thành, nằm sâu trong rừng bên kia Lộ 14. Hội trường tổ chức khá mỹ thuật để đập vào mắt các nhân sĩ trí thức, văn nhgệ sĩ, tư sản được mời từ thành phố vào khu. Mỗi người được chỉ định ngồi riêng từng người trong ô ngăn cách căng ny long ba phía, phía trước che màn tuyn. Khách có thể nh́n lên chủ tọa đoàn và hội trường nhưng không biết mặt các khách tham dự khác.

    Rút kinh nghiệm tổ chức ở Đặc khu Sài G̣n, Huỳnh Tấn Phát lên R chuẩn bị cho Đại hội Mặt trận toàn Miền Nam ở Ḷ G̣. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bố trí giải thoát khỏi Tuy Ḥa để về dự và được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận GPMN. Huỳnh Tấn Phát và Bác sĩ Phùng Văn Cung làm Phó Chủ tịch.

    Sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ngày 1-11-1963, Trung ương Cục Miền Nam điều Huỳnh Tấn Phát về công tác ở R. Thường vụ Khu ủy Sài G̣n-Chợ Lớn có cuộc kiểm thảo Phát trước khi nhận nhiệm vụ mới, bí thư Vỏ văn Kiệt tức Chín Dũng (bí danh được biết khác là Sáu Dân) ngồi ghế chủ tọa. Trong thời gian này, vợ của Phát đă bị lộ và bị bắt từ 5-5-1960. Sau gần năm năm tù, Bùi Thị Nga được thả ngày 3-10-1964 từ khám Chí Ḥa.

    Tháng 3 năm 1965, theo lời mời của Hoàng thân Sihanook, Huỳnh Tấn Phát hướng dẫn một phái đoàn Mặt trận GPMN đi Phnom Penh. Đây là lần đầu tiên HTP xuất ngoại qua xứ láng giềng.

    Năm 1967, trong trận Cedar Falls ( Trận “ Lột vỏ đất” theo danh từ trong khu) tấn công vào Củ Chi và Tam giác sắt, Huỳnh Tấn Phát đă phải gian nan 18 ngày trong ṿng vây v́ địa đạo bị đánh phá, chỉ thoát được với 2 bảo vệ. Sau Tết Mậu Thân 1968 Huỳnh Tấn Phát và Ban Trí vận Mặt trận Khu Sài G̣n-Gia Định vận động một số nhân sĩ trí thức ra khu thành lập Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Ḥa b́nh Miền Nam. Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo được chọn làm Chủû tịch Liên minh. Đây là một tổ chức thứ hai bên cạnh Mặt trận GPMN để thu hút vài thành phần nhân sĩ trí thức khác ở miền Nam.

    Ngày 6-6-1969, Đại hội Đại biểu Quốc dân Miền Nam bầu Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch Chánh phủ Lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam. Từ ngày này cho đến thời kỳ Ḥa đàm Paris và 30 tháng Tư, 1975 có thể xem là thời kỳ đắc ư nhất của Huỳnh Tấn Phát v́ từ lâu anh vẫn thường t́m cách lôi kéo nhân sĩ trí thức miền Nam là anh tranh đấu cho miền Nam có một chế độ Cộng Ḥa khác biệt với miền Bắc trong khi chờ đợi việc thống nhứt trong tương lai. Năm 1972 Chánh phủ của Phát đă ban hành nhiều sắc luật, đă thông báo Mười chánh sách đối với các “ vùng giải phóng” và Mười điều Kỷ luật cho cán bộ. Trong thời kỳ Hội đàm Paris và cả những ngày đầu sau ngày 30-4-1975, báo Đoàn Kết ở Pháp cổ động trong giới hải ngoại về thể chế chính trị miền Nam, cam kết sẽ tôn trọng quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh v...v. Bên trong thật sự ai cũng biết là các sắc luật của Chánh phủ của Phát tất nhiên đều phải được Hà Nội đồng ư chấp thuận.

    Sau 30-4-1975, nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh ...đă kiêu hănh qua mặt Chánh phủ của Phát, chủ trương phải thống nhất ngay và Chánh phủ Huỳnh Tấn Phát, Mặt trận Giải phóng, Liên Minh v..v, không kèn không trống đă bị giải tán hồi nào không ai biết!

    Để xoa dịu phần nào phản ứng dân kháng chiến miền Nam, năm 1976 Huỳnh Tấn Phát được cử làm Phó Thủ tướng Chánh phủ Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa VN, lo việc quy hoạch đô thị, thiết kế xây dựng thủ đô Hà Nội v...v! Năm 1977, Huỳnh Tấn Phát được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc và đến năm 1983 được lên chức làm Chủ tịch Đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc, toàn những chức vụ không quyền lực!



    * * *

    Trong suốt thời gian chiến đấu, từ 1945 cho đến ngày từ trần, với bao nhiêu công trận nguy hiểm vào sanh ra tử, Huỳnh Tấn Phát chưa bao giờ được mời đặt chân vào cơ quan chánh trị đầu năo của Đảng Bộ ở Hà Nội. Sau Hiệp định Genève 1954, cơ quan quyền lực này đă khép kín chia chác quyền hành ở miền Bắc tương đối thanh b́nh so với phần máu lửa ở miền Nam.

    Sau 30-4-1975, bao nhiêu cán bộ từ Bắc vào, từ tay không đă trở nên giàu có tột bực trong một thời gian ngắn. Trong lúc đó, vợ của Huỳnh Tấn Phát đă viết: “...Tôi nhớ đến ước mơ của anh, lúc gần cuối đời, anh ao ước có một chiếc Honda, để khi về hưu chở vợ hay cháu nội cháu ngoại đi chơi...” (Trích bài “Đám cưới giữa Mùa thu Khởi nghĩa” của Bùi Thị Nga, trong “Làm Đẹp Cuộc Đời” sđd) . Sợ Phát ở lại miền Nam, gần gũi Nhóm Câu Lạc Bộ Kháng Chiến, Huỳnh Tấn Phát được Hà Nội mời ra Bắc tiếp tục tham gia chánh phủ. Huỳnh Tấn Phát được cấp một nhà khiêm tốn so với chức vụ ở số 9, đường Ngô Thời Nhiệm. Mùa Thu 1988, Huỳnh Tấn Phát đột ngột trở bịnh vàø được đưa điều trị ởû Bịnh viện 108. Pháùt từ chối không muốn ra nước ngoàøi chữa trị. Khi thuyên giảm được phần nào, Phát quyết định trở về Nam. Tờ lịch trong pḥng Huỳnh Tấn Phát vẫn dừng giữa ngày 27-11-1988, ngày Phát rời Hà Nội. Ngôi nhà chức vụï ởû số 9 Ngôâ Thời Nhiệm vẫn chờ Phát trở lại, nhưng Phát đă vĩnh viễn ra đi ngày 30 tháng 9 năm 1989.

    Huỳnh Tấn Phát, Kiến trúc sư có tiếng tăm trong giới chuyên nghiệp, đă thiết trí bao nhiêu đồ án công cũng như tư, cho đến ngày chết vẫn chưa có cơ hội tự xâây được một mái nhà theo ư muốn cho gia đ́nh trú ngụ, không có được một chiếc xe riêng để chở vợï con !

    Phạm Thiều, một giáo sư khả kính, người gốc Nghệ Tỉnh, dạy chữ Nho và Toán tại Trường Trung học Pétrus Kư đă ra khu kháng chiến từ 9-1945, tập kết ra Bắc, trở về Nam sau 30-4-1975. Ông được bầu làm Đại biểu Thành phố Sài G̣n - Chợ Lớn. Không hiểu có phải v́ ông đă chán ngán cái cảnh thoái hóa, tham nhũng của cán bộ Cộng sản sau 1975 hay v́ ông đăơ nhận thức được các sai trái của đường lối chủ nghĩa Cộng sản củûa Stalin khiến làm sụp đổ các nước Xă hội chủ nghĩa ở Trung Âu, nên ông đă ân hận và treo cổ tự tử ! Trước khi tự kết liễu đời ḿnh, ông đă nhờ Đại tá hồi hưu Xuân Diệu ( không phải thi sĩ Xuân Diệu) nhắn giùm ông trước Đại hội Đảng Q3, Thành phố Hồ Chí Minh:

    “Dốt mà lănh đạo nên làm Dại,

    Dại mà muốn thành tích nên báo cáo Dối,

    Dốt, Dại, Dối,

    Đó là ba điều làm cho các nước Xă hội Chủ nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm nầy đến sai lầm khác”
    (Trích thư của đảng viên kỳ cựu La Văn Lâm, tức cựu trùm Công an La Văn Liếm gởi Tổng Bí thư Đổ Mười ngày 30-4-1994). Tướng Trần Văn Trà, tướng trách nhiệm quân sự miền Nam, đă viết Hồi kư gián tiếp “chỉnh” các khoe khoang của Văn Tiến Dũng trong quyển : “Đại thắng Mùa Xuân”. Hồi kư của Tướng Tràø vừa mới xuất bản lại có lịnh phải tịch thâu ngay. Trần Văn Trà sau đóù có một lúc liên hệ với Câu lạc bộ Kháng chiến Miền Nam và đă được mời ra Bắc ởû cho đến khi chết. Trần Văn Trà đă viết về Huỳnh Tấn Phát: “Có một điều cần nói. Anh Phát không thuộc một gia đ́nh “trơn tru”, anh vẫn có tâm tư riêng”.

    Trần Bạch Đằng, người Cộng sản kỳ cựu ở miền Nam từ 1945 đến 1975, có viết về Huỳnh Tấn Phát: “Anh không cầm súng, chưa bao giờ là chỉ huy quân sự, song lại cáng đáng một trận địa mà có lẽ không dễ có người thay: huy động lực lượng trí thức vào hàng ngũ đấu tranh...Càng biết nhiều khía cạnh riêng của anh Phát càng khâm phục anh-những mất mát của anh về những người thân (cha, chú, cô) là quá lớn...”Được Trần Văn Giàu kết nạp vào Đảng Cộng sản từ ngày 5-3-1945, Huỳnh Tấn Phát đă được bố trí tiếp tục hoạt động cho đảng Dân Chủ ở miền Nam. Để chiêu dụ những nhân sĩ và trí thức miền Nam tham gia tranh đấu, Huỳnh Tấn Phát đă cổ vơ cho một chiêu bài ḥa hợp, một thái độ cách mạng kiểu đảng Dân Chủ . Khi Hà Nội chủ trương vội vă thống nhất sau ngày 30-4-1975, giải tán Chánh phủ Lâm thời Cộng Ḥa miền Nam, lừa gạt đưa quân nhân, công chức, văn nghệ sĩ miền Nam vào các trại lao tù, giải tán đảng Dân chủ và đảng Xă hội, thiêu đốt cáùc táùc phẩm văn hóa, sách vở dân chúng miền Nam vân...v. Huỳnh Tấn Phát đă được nhiều nhân sĩ trí thức cho là Huỳnh Tấn Phát đă mang tội thất tín với dân chúng miền Nam.

    Người viết bài có một cộng sự viên đă ở lại trong xứ sau ngày 30-4-1975 và đă có cơ hội biết Huỳnh Tấn Phát trong những ngày nằm bịnh viện Thống Nhứt vàø bịnh viện Chợ Rẫy. Anh ấy đă cho biết: “ Ở Chợ Rẩy, Huỳnh Tấn Phát trong những ngày bịnh, không nói năng ǵ, chỉ mỉm miệng cười cho đến khi chết”.Những ai có dịp sống gần Huỳnh Tấn Phát đều biết anh là người rất tốt về mọi mặt, có cái đặc biệt là miệng lúc nào cũng nở nụ cười rạng rỡ .

    Không ai biết được nỗi ḷng Huỳnh Tấn Phát ra sao trong những ngày sắp đi sang thế giới khác. Không biết Huỳnh Tấn Phát đă mỉm cười trước khi chết v́ cảm thấy đă làm tṛn những ước vọng của đời ḿnh trước khi ra đi, hay cái cười im lặng của Anh là một cách cười chua chát?

    Ngày 30 tháng Tư
    B.S. Trần Nguơn Phiêu

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?

    CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?
    Vài bí mật chưa tiết lộ về cái gọi là "mặt trận giải phóng miền nam"




    Kháng Cộng Cứu Nước Đồng bào miền Nam VN, ai cũng biết rằng CS chiếm được miền Nam nhờ bịp bợm và khủng bố, "mặt trận giải phóng miền Nam" không đại diện cho ai cả, chỉ là côngcụ do CS dựng lên để lừa bịp dư luận trong và ngoài nước, lừa bịp ngay các thành viên của mặt trận nàỵ

    Từ "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam" qua "Liên Minh Dân Chủ", rồi đến "Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam VN" đều là những màn tŕnh diễn bịp. Thành viên của 3 tổ chức trá h́nh đó đều là những tên múa rối, bị điều khiển bởi những tên cán bộ CS núp trong hậu trường. Các tổ chức trá h́nh trên là những vở tuồng được soạn sẵn, các đào kép bị phỉnh gạt đưa vào, phải đóng trọn vai của ḿnh, nếu không sẽ bị thủ tiêu.

    Tuy là thành viên của mặt trận, họ luôn luôn bị ḱm kẹp (VC gọi là bảo vệ), theo dơi, kiểm soát chặt chẽ. Hàng ngày chúng nhồi nhét chính trị. Chúng tôi xin tường thuật quá tŕnh lừa bịp của CS qua các tổ chức bịp bợm ấy ở miền Nam do kỹ sư Hồ Văn Bửu, từng là ủy viên của chính phủ lâm thời (ngang hàng Bộ trưởng), hồi chánh năm 1970 kể lạị Tập hồi kư này không xuất bản, chỉ dành cho các bạn thân của ông. Tôi may mắn được đọc bản chính tập hồi kư đó, và được phép khai thác để cống hiến độc giả. Hiện ông kỹ sư Bửu vẫn c̣n trong trại tỵ nạn Thái Lan. Chúng tôi xin trân trọng biết ơn ông Hồ Văn Bửu đă kể lại những âm mưu, những thủ đoạn lừa bịp trong hậu trường bọn CS ở miền Nam để độc giả thấy được sự gian trá của chúng.

    Ông Hồ Văn Bửu sinh năm 1932 tại Biên Ḥạ Thân phụ là ông Hồ Văn Tam, nhà giáo, sau khi hồi hưu làm chủ tịch hội đồng chủ tịch tỉnh Biên Ḥa 1962-1963. Năm 1948, ông Bửu qua Pháp du học cùng chuyến tàu với Đỗ Cao Trí, lúc dó qua Pháp học về nhảy dù. Ông vừa là bà con vừa là bạn học với cố Đại tướng Đỗ Cao Trí. Qua Pháp, ông Bửu theo học trường Bernard Palassy ở Monpellier, sau dó lên Paris tiếp tục học và đổ kỹ sư Canh nông năm 1958. Năm sau ông về miền Nam được chính phủ VNCH bổ nhiệm làm phụ tá cho tiến sĩ Thái Công Tụng đang làm trưởng bang Thổ nhưỡng Trường kỹ thuật nông nghiệp.

    Kể từ năm 1964, ông thôi làm công chức ở Bộ canh nông, qua làm chuyên viên khảo cứu cao su cho các đồn điền cao su Pháp ở miền Đông Nam phần. Trong những năm c̣n là sinh viên ở Pháp, ông Bửu đă có cảm t́nh với VC v́ bị tổ chức Liên hiệp Việt kiều của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện tuyên truyền. Lúc đó ở Pháp, nhiều trí thức mới tốt nghiệp như ông, c̣n ngây thơ chính trị, chưa hiểu CS là ǵ, đến khi có người tuyên truyền về chủ nghĩa CS, họ thấy tốt đẹp, nên theo, rồi bị mắc lừa. Cụ thể có bác sĩ Trương Công Trung tức Hai Ngọ, kỹ sư Phạm Tám, kỹ sư Trần Văn Thiện, nghe lời đường mật của CS hồi hương về Bắc. Nguyễn Khắc Viện vẽ ra trước mắt họ một chương tŕnh "về phục vụ đất nước sau chiến thắng Điện Biên Phủ" với cả một tương lai rực rỡ. Về đến Hà Nội, các trí thức ấy được bổ nhiệm dưới quyền những tay CS bần cố nông, không biết chuyên môn. Hàng ngày, họ bị cán bộ nhồi sọ về chính tri, kiểm thảo thường xuyên. V́ thuộc thành phần tiểu tư sản, giới trí thức hồi hương này không bao giờ được Đảng CS tin cậy, cũng không bao giờ cho giữ chức vụ chỉ huy nào cả.

    Trường hợp ông Bửu có hơi khác. Khi làm chuyên viên cho Viện khảo cứu cao su cho các đồn điền Pháp, ông có dịp tới lui nhiều lần các đồn điền cao su nằm trong chỗ khuất vắng của các tỉnh miền Đông Nam phần, là nơi có du kích, cán bộ CS núp lén hoạt động kể từ sau năm 1963. Thỉnh thoảng ông gặp họ, nói chuyện, bị họ tuyên truyền rồi ngả theo cái gọi la "mặt trận giải phóng miền Nam", công cụ của CS Bắc Việt mà ông tưởng là tổ chức củạ...người quốc gia yêu nước, có khuynh hướng độc lập, chống lại sự can thiệp vào nội bộ nước nhà của Mỹ. Khi đă lọt vào tay CS rồi, thấy ḿnh bị mắc lừa, ông Bửu chỉ t́m cơ hội vượt thoát khỏi cái tổ chức bịp bợm đó. Từ căn cứ của "chính phủ lâm thời" nằm sâu trên đất Miên, ông Bửu nhờ một người dẫn đường, t́m cách trốn qua Miên, bị cầm tù một thời gian, rồi bị trục xuất qua Lào. Ở đây ông bị điều tra mấy tháng rồi giải giao cho chính phủ VNCH.

    Cuộc vượt thoát khỏi nanh vuốt của bọn CS phải mất 6 tháng. Sau năm 1975, ông bị bắt cầm tù cho đến cuối năm 1980 mới được thả. Về Saigon, ông sống không có hộ khẩu suốt 10 năm, t́m cách vượt biên nhiều lần nhưng thất bại. Lần sau cùng, ông đến được trại tỵ nạn Thái Lan năm 1990. Mới đây, nghe tin ông bị lọt sổ thanh lọc, chúng tôi thấy cách làm việc của Ban thanh lọc người tỵ nạn ở Thái Lan rất khó hiểu. Ông Bửu là một nhân viên cao cấp của CS, chống đối chế độ, trở về hồi chánh, rồi trốn thoát, bị tù đày, sau cùng vượt biên nhiều lần mới tới được bến tự do, nhưng không được nh́n nhận tư cách tỵ nạn chính trị. Ông có đủ giấy tờ chứng minh, h́nh ảnh báo chí ngoại quốc chụp khi ông công du Ấn Độ tố cáo chế độ CS, thế mà vẫn bị đánh rớt. Không biết Ban thanh lọc đ̣i tiêu chuẩn của người tỵ nạn như thế nào mới gọi là hội đủ điều kiện của người tỵ nạn chính trị?


    PhongTrào Ḥa B́nh, mở màn cho cuộc đấu tranh chính trị của CS ở miền Nam:


    Hiệp định Geneva 1954 có điều khoản qui định rằng 2 năm sau, sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Tại miền Nam, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa biết rằng nếu tổ chức bầu cử, miền Bắc sẽ gian lận, và chiến thắng. Hơn nữa, viện lẻ chính quyền quốc gia không kư tên vào Hiệp định Geneva, nên chính phủ miền Nam tự coi ḿnh không bị ràng buộc bởi những điều kiện trong đó. Năm 1956, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm thông báo cho Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến ở VN, lúc đó là Đại sứ Ấn độ Christian Menon. Ông này vốn thiên Cộng, đă t́m cách thuyết phục chính phủ VNCH nhiều lần nhưng thất bạị Được tin đó, Hồ Chí Minh thất vọng ra mặt, nhưng hắn đă có chuẩn bị trước, cài nhiều cán bộ ở lại (từ 3000-5000 người) ngay khi kư Hiệp định Geneva. Bọn CS Bắc Việt phát động một h́nh thức đấu tranh chính trị mới: Đó là nguyên nhân chào đời của cái gọi là "phong trào đ̣i ḥa b́nh và dân tộc tự quyết" ở miền Nam.

    Để phát động phong trào này, trước hết, bọn cán bộ CS nằm vùng bắt đầu hoạt động bí mật. Họ móc nối các trí thức ngây thơ, những người kháng chiến cũ đă bỏ họ về thành sau 1954. Cụ thể là Tạ Bá Ṭng, cán bộ trí vận CS tự là Năm Thới, hoạt động bí mật để tạo sự bất ổn trong dân chúng. Để mở đầu, Tạ Bá Ṭng móc nối gia đ́nh bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên là Tổng ủy trưởng Di cư năm 1954, có nhiệm vụ chuyên chở người tỵ nạn từ Bắc vô Nam ! Gia đ́nh ông Huyến có một người con gái tên là Phạm Thị Thanh Vân, lại có cảm t́nh với CS. Bà ta kết hôn với ông Ngô Bá Thành nên lấy tên chồng để hoạt động trong hàng ngũ trí thức. Qua sự trung gian của gia đ́nh bác sĩ Huyến, Tạ Bá Ṭng tiếp xúc với nhiều trí thức bất măn khác ở miền Nam, nhưng cũng không ưa CS. Tạ Bá Ṭng không bao giờ ra mặt. Từ trong tối, hắn chỉ thị cho bác sĩ Huyến, bà Ngô Bá Thành đi móc nối các vị lănh đạo tôn giáo, các nhà báo, nhà giáo có uy tín để lập "liên hiệp hành động" chống sự can thiệp của Mỹ.

    Giai đoạn này, mục tiêu của CS là phát động một phong trào của dân chúng đ̣i "Ḥa b́nh và Tự quyết", có lúc báo chí miền Nam gọi là "Phong trào Ḥa b́nh". Mục đích sâu kín bên trong là yêu cầu chính phủ VNCH thi hành Hiệp định Geneva, tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, để "mọi người dân tự quyết lấy số phận đất nước và thể chế tương lai của VN". Phong trào này c̣n hô hào tẩy chay người Mỹ can thiệp vào nội t́nh miền Nam VN. Cán bộ CS chỉ đạo phong trào không bao giờ ra mặt. Chúng núp lén để ra chỉ thị. Chúng t́m một số gương mặt trí thức được quần chúng biết đến để lôi kéo. Những người lănh chỉ thị của CS mời các bạn bè, thân hữu, vốn chỉ có cảm t́nh với nhau thôi, đến nhà hàng Thanh Thế để ăn cơm. Tới nơi, mới biết chúng tổ chức họp báo và ra tuyên ngôn đ̣i hỏi, yêu sách như đă nói trên.

    Phiên họp vừa mới bắt đầu th́ cảnh sát áp vào bắt đủ mặt (lời ông Bửu). Ông Bửu cũng có dự phiên họp này nhưng đă lanh chân chạy thoát.
    Hôm đó, "Buổi họp báo ngụy trang dưới h́nh thức buổi tiệc" có những người sau đây:

    - Luật sư Nguyễn Long
    - Bà Ngô Bá Thành
    - Bác sĩ Phạm Văn Huyến
    - Kinh lư Đào Văn Nhơn
    - Hoạ sĩ Đặng Văn Kư
    - Kỹ sư Hồ Gia Lư
    - Kư giả Cao Minh Chiếm
    - Giáo sư Đại học Văn khoa: Tôn Thất Dương Kỵ...

    Sau đó họ bị chính quyền VNCH đưa ra ṭa xét xử. Những người trong Ban Chấp hành bị 5 năm tù, những người bị mời ăn tiệc, chỉ mới kư tên bị 6 tháng tù ở. Luật sư Nguyễn Long trong Ban chấp hành bị 5 năm tù.

    Ít lâusau, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm nhất định đưa 3 ông: Bác sĩ Phạm Văn Huyến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và nhà báo Cao Minh Chiếm được gọi là "3 ông ḥa b́nh" trục xuất ra Bắc qua ngă cầu Hiền Lương.
    Khi hay tin "3 ông ḥa b́nh" bị áp giải qua cầu Hiền Lương, VC đă tổ chức một cuộc mít-tinh để đón tiếp và tuyên truyền. Đây cũng là một cuộc đấu tranh chính trị giữa 2 miền Nam Bắc. Khi "Các ông ḥa b́nh" được cảnh sát miền Nam dẫn độ ra đến sông Bến Hải, có khuyên các ông một lần chót nên xin ở lại để được khoan hồng, nhưng các ông đă lở leo lên lưng cọp rồi, khó xuống được. Cây cầu Hiền Lương lúc đó sơn 2 màu khác nhau: phân nửa phía bên CS sơn màu đỏ, phân nửa bên VNCH sơn màu xanh.

    Khi 3 ông ḥa b́nh vừa bước qua ranh giới phân chia Nam Bắc, công an VC chạy tới tiếp dón, giành các túi xách của 3 ông để 3 ông rảnh tay đến dự cuộc mít-tinh do CS tập trung dân chúng ở huyện Vĩnh Linh đến để tuyên truyền. Cuộc mít-tinh này gọi là dân chúng tự động họp mít-tinh chào mừng 3 nhà trí thức yêu nước của miền Nam. Về sau, thân nhân của một trong 3 vị ấy (xin giấu tên) nói rằng khi trở lại lấy túi đồ, th́ túi đồ đă bị lục soát, bị mất đi mấy bộ đồ mới.

    Sau đó, 3 ông ḥa b́nh được dẫn đi thăm viếng các xí nghiệp, nông trường và hợp tác xă ở miền Bắc để tuyên truyền cho chính sách đoàn kết chiến đấu của VC. Số phận của 3 nhà trí thức miền Nam này ra sao?

    Hết giai đoạn tuyên truyền rồi, cả 3 ông được đưa sang Cam-bốt để tiếp tục làm công tác đánh lừa dư luận dân chúng hải ngoại với đường lối mới, đ̣i "trung lập hóa miền Nam theo chủ trương của Tổng Thống De Gaulle là trung lập hóa toàn thể Đông Dương". Trái lại, lúc này quốc trưởng Sihanouk không đồng ư sự có mặt của 3 ông ḥa b́nh trên xứ Chùa Tháp, nên ra lịnh cho cảnh sát mời 3 ông đến yêu cầu rời khỏi lănh thổ Cam-bốt lúc nào thuận tiện nhất. Họ khuyên 3 ông làm đơn lên quốc trưởng Sihanouk, để xin đi bất cứ nơi nào cũng được. Riêng một ḿnh giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ làm đơn xin ra Bắc, được bố trí làm Tổng thư kư Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đ́nh Thảo sau này. Đó là chức vụ hữu danh vô thực, khiến ông chán nản, và bất măn từ đó. C̣n 2 ông Phạm Văn Huyến và Cao Minh Chiếm th́ xin qua Pháp, không bị VC lợi dụng nữa.

    "Phong trào ḥa b́nh và Tự quyết" của CS bị thất bại. Nó tạm lắng dịu một thời gian chờ cơ hội khác tái sinh dưới một tổ chức khác để rù quyến những con mồi ngây thơ khác, đó là Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đ́nh Thảo.


    Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đ́nh Thảo:


    Chế độ Ngô Đ́nh Diệm miền Nam sụp đổ là một nguy cơ cho đất nước. Thời kỳ sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, miền Nam rơi vào t́nh trạng khủng hoảng lănh đạo trầm trọng, khủng hoảng về đường lối chiến tranh (quốc sách Ấp Chiến Lược đang có hiệu quả, nhưng v́ mặc cảm với chế độ củ, nên băi bỏ để lập Ấp Đời Mới, Ấp Tân Sinh, đó chỉ là các h́nh thức vá víu tạm bợ.) Chế độ mới chỉ lo thỏa măn tham vọng của ḿnh và lo trả thù những quân nhân, công chức có liên hệ với chế độ cũ, làm thiệt hại đến tiềm năng chiến đấu chống CS.

    Tất cả những điều đó tạo ra sự bất ổn chính trị, chia rẽ và CS liền khai thác triệt để. Chúng đưa cán bộ xâm nhập vào dân chúng miền Nam để tuyên truyền, móc nối với các thành phần trí thức, tôn giáo. Nhiều trí thức trong "Phong Trào Hoà B́nh" lúc trước đă măn hạn tù. Họ bất măn chính phủ VNCH. Khi CS chủ trương mở ra mặt trận tranh đấu mới th́ họ sẵn sàng tham gia, đó là "Liên Minh Dân Chủ" của luật sư Trịnh Đ́nh Thảọ.

    Lúc này Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đă chào đời, nhưng chỉ đóng trong rừng. Cục R và mặt trận này cứ dời đổi địa điểm tới lui 2 bên con sông nhỏ, làm ranh giới giữa Tây Ninh và Kampuchea. MTGPMN ra đời mấy năm nhưng tỏ ra không hữu hiệu, nên họ mới dựng ra cái gọi là "Liên Minh Dân Chủ", để lôi cuốn trí thức tranh đấu ngay trong vùng chính phủ VNCH kiểm soát. Trịnh Đ́nh Thảo là người miền bắc, sinh trong một gia đ́nh có tiếng tăm, cả thảy 4 anh em, đều đổ đạt, hay giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền Pháp thuộc. Người anh cả là Trịnh Đ́nh Huyến, tốt nghiệp Trường Canh nông Hà Nội, là đốc công ở Bạc Liêu, người anh kế tốt nghiệp trường Công chánh, và người em gái út gă cho một luật sư ở Hà Nội. Ông Thảo tốt nghiệp tiến sĩ Luật khoa bên Pháp, về mở văn pḥng luật sư ở Saigon.

    Buổi họp đầu tiên của Liên Minh Dân Chủ vào tháng 1/1964 tổ chức tại nhà ông Kinh lư Đào Văn Nhơn, đường Hàn Thuyên, thẳng góc với Dinh Độc Lập. Lời ông Bửu:

    "Trước ngày họp, tôi được tiếp xúc với một cán bộ VC tên Tư Đen mời tôi tới làm thư kư cho Liên Minh đó. Phản ứng đầu tiên của tôi là từ chối, v́ lẽ tôi đang ở trong tuổi động viên, đi lính VNCH." Tư Đen lư luận rằng, "Trong số thư kư đó, cũng có Lư Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung (giáo sư Đại học Văn khoa) cũng ở lớp tuổi của anh có sao đâu!" . Tôi (Bửu) suy nghĩ một lúc rồi cũng nghe theo lời của anh ta, để rồi hôm sau tôi đến chỗ họp.

    Tại nhà ông kinh lư Đào Văn Nhơn, vào lúc 16 giờ, có mặt gần như đông đủ hết các trí thức được mờị Kế tiếp, thẩm phán Trần Thúc Linh, thuyết tŕnh mục đích và yêu cầu việc thành lập Liên Minh Dân Chủ. Sau khi Trần Thúc Linh kêu gọi anh em đóng góp ư kiến, th́ giáo sư Lư Chánh Trung mới đặt vấn đề:

    - Người ta mời tôi vào một tổ chức quốc gia mà trong chương tŕnh hành động không có đề cập đến vấn đề chống CS, th́ vô t́nh chúng ta sẽ bị chánh quyền chụp mũ rằng chúng ta hoạt động có lợi cho CS th́ sao?

    Chỉ một ḿnh Trần Thúc Linh trả lời rằng:

    - Chúng ta là những người dân không bị CS cai trị. Chúng ta không có cơ sở nào nêu lên vấn đề chống Cộng.

    Cuộc họp gây cấn sắp đổ vỡ. Đến giai đoạn bầu ban chấp hành, th́ ông Kha Văn Dưỡng, dân biểu khóa I của VNCH được bầu làm chủ tịch.

    Các chức vụ khác như sau:

    - Phó chủtịch: Luật sư Trịnh Đ́nh Thảọ
    - Tổng thư kư: Trần Thúc Linh
    - Phó Tổng thư kư: (?)
    - Ủy viên: Bà Ngô Bá Thành, Nhà văn Thanh Nghị, Thiếu Sơn...

    Sau cuộc họp, chủ nhà mời ăn tiệc th́ tôi được rỉ tai rằng: "Chỉ làm biên bản đưa về Cục R, chứ không đứng tên, tức là VC có âm mưu sử dụng tôi (Hồ Văn Bửu) vào việc khác".

    Chừng một tuần sau, tôi đọc báo được biết rằng con trai của ông Kha Văn Dưỡng là Thiếu tá quân lực VNCH (1964) viết báo đính chánh: Cha của anh được mời đi ăn tiệc, rồi tên ông ta (Kha Văn Dưỡng) được đưa lên làm chủ tịch "Liên Minh Dân Chủ" mà chính ông không biết. Một vài ông khác cũng viết báo đính chính, cho nên liên minh này của VC chết ngay sau khi công bố danh sách, và chính phủ VNCH cũng không bắt bớ ai cả.

    Tuy nhiên qua hành động quá lộ liễu của ông Trần Thúc Linh, hoạt động chống phá VNCH mà chính quyền không đủ chứng lư để bắt ông ta. Vào một ngày nào đó của năm 1967, con trai ông đang học năm thứ hai trường Đại học Y khoa Saigon, bị 2 thanh niên lực lưỡng từ bên ngoài, đột nhập vào trường Y khoa, bắt ném qua balcon từ lầu hai xuống đất. Chú sinh viên y khoa năm thứ hai này chết ngay tại chỗ. Đó là hành động trả đủa của ông Thiệu hay ông Kỳ ǵ đó (lời ông Bửu), cho nên công an VNCH khỏi mất công đi t́m thủ phạm.

    Sau lễ an táng con trai, ông Trần Thúc Linh có đăng báo cáo phó, cám ơn các bộ trưởng và thân hào nhân sĩ đă chia buồn với gia đ́nh ông. Vả lại, khi thấy sinh mạng bị đe dọa, Trần Thúc Linh không c̣n dám hoạt động cho CS nữa. Trái lại, hành động ném lựu đạn giết chết luật sư Dương Trung Tín (anh ruột bà Dương Quỳnh Hoa, theo CS) tại nhà ở Đà Lạt đă thúc đẩy bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (KN: đang làm việc móc nối trí thức cho CS; Hoa vào Đảng CS khi c̣n học ở Pháp) chạy theo VC sau cuộc Tổng công kích Mậu Thân của CS năm 1968. Luật sư Tín là người đă từng mang thư riêng của Lê Duẩn gởi cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ để móc nối ông này tham gia MTGPMN vào năm 1960.)


    CS sắp đặt cuộc tiếp xúc của trí thức miền Nam và Đặc sứ lưu động Mỹ:


    Cuộc tiếp xúc này cũng là một đ̣n chính trị của VC, nói thẳng cho Mỹ biết thái độ của trí thức thân Cộng miền Nam muốn đuổi Mỹ, muốn Mỹ ngưng viện trợ, rút cố vấn, và không can thiệp vào nội bộ miền Nam. Người Mỹ cũng ṭ ṃ, họ muốn biết quan điểmra sao của một số trí thức không ủng hộ chính phủ VNCH hiện hữu, mà cũng chưa ra mặt hoạt động cho CS. Liên Minh Dân Chủ thất bại, CS xoay qua một h́nh thức tranh đấu khác, lợi dụng các nhà trí thức ngây thơ về CS. Đây không phải là một phong trào, mà chỉ là một cuộc trực diện đấu khẩu với Mỹ, do CS chủ mưu từ trong bóng tối. Họ đâu có người trí thức. Họ chỉ lợi dụng trí thức làm công cụ để họ đạt được mục đích mà thôi. Phần này chúng tôi ghi lại lời thuật của ông Bửu.

    Vào năm 1965, qua sự sắp xếp của CS, chúng tôi một số trí thức có cảm t́nh với CS được đưa đến một nhà hàng để gặp gỡ với Đặc sứ lưu động của TT Johnson. Buổi tiệc này dược tổ chức bí mật tại một pḥng trên lầu 3 nhà hàng Á đông trong Chợ Lớn. Đúng giờ hẹn, chúng tôi đến th́ ông Yamato đă có mặt một ḿnh trong pḥng khách, đang xem báo. Qua lời giới thiệu của bà Ngô Bá Thành, chúng tôi chào hỏi xă giao bằng tiếng Pháp. Ông Yamato mời chúng tôi vào pḥng ăn. Bửa cơm Tàu thịnh soạn được lần lượt dọn lên, không có ai uống rượu cả, và đàm thoại tự do, không có máy ghi âm. Mục đích của ông đại sứ này là đi nhiều nước, tiếp xúc với giới trí thức và chính quyền sở tại để thăm ḍ ư kiến về việc Mỹ trực tiếp tham chiến ở VN. Ông tṛ chuyện với người ngồi kế bên. Rồi ông tự động xin đổi chỗ ngồi để tiếp chuyện với từng người một. Ông hỏi tôi:

    - Ông nghĩ ǵ về cuộc chiến tranh hiện nay?

    Tôi đáp:

    - Thưa ngài đại sứ, cuộc chiến tranh này không thấy chiến thắng quân sự. Người Mỹ có phương tiện hiện đại và vũ khí tối tân, nhưng không tiêu diệt được người du kích CS. Chúng tôi đề nghị người Mỹ đ́nh chiến để thương thuyết và rút quân Mỹ đi th́ sẽ có ḥa b́nh. Bởi chiến tranh lâu dài chỉ gây chết chóc cho "người dân vô tội".

    Ông ta (Yamato) nói thêm:

    - Các anh có tiếp xúc với bên kia (CS) không?

    Tôi (Bửu) trả lời không.

    Ông Yamato nói:

    - Hăy chờ đợi vài năm nữa sẽ chấm dứt chiến tranh.
    Kế đó, ông chuyển ghế để ngồi gần người khác và tôi không nghe ông hỏi ǵ thêm.

    Chúng tôi gồm có luật sư Trịnh Đ́nh Thảo, bà Ngô Bá Thành, thẩm phán Đỗ Quang Huệ, thẩm phán Trần Thúc Linh, kỹ sư Trương Như Tảng, kỹ sư Hồ Gia Lư, kỹ sư Tô Văn Cang (KN: một cán bộ cao cấp của VC; người sau này chứng nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh trong Dinh Độc Lập), bác sĩ Trần Văn Du, Kinh lư Đào Văn Nhơn, hoạ sĩ Đặng Văn Kư và kỹ sư Hồ Văn Bửu.

    Cuối cùng, ông đại sứ Yamato mới lên tiếng cho cả bàn tiệc nghe rằng trước đây ông đă từng đi Âu Châu, sang Đông Nam Á, tiếp xúc với các chính quyên địa phương, rồi trạm chót là VN, để gặp gỡ các trí thức VN, trước khi ông về Mỹ báo cáo cho TT Mỹ...Tiếp đó, ông đưa ra một quyển sổ yêu cầu mỗi người ghi tên họ, tuổi tác và nghề nghiệp của ḿnh. Cuôi cùng ông vui vẻ đứng dậy chia tay từng người, và chúc sức khoẻ. Ông yêu cầu mọi người kiên tŕ chờ đợi ngày hoà b́nh sẽ đến VN không xa lắm đâu.

    Cũng theo lời ông Bửu, lúc đó Mỹ chưa trực tiếp tham chiến tại VN. Vài tháng sau, Mỹ đổ quân ào ạt vào Saigon và Đà Nẵng.

    Sau cuộc gặp gỡ đại sứ Yamato th́ vài tháng sau, có một số người Mỹ t́m gặp một số trí thức VN đối lập với chính quyền VNCH. Một dịp t́nh cờ, tôi đến nhà ông Trịnh Đ́nh Thảo ở Hạnh Thông Tây, G̣ vấp, lời ông Bửu, đây là một vườn xoài rộng 6 mẫu, ông Thảo cho xây một nhà đúc kiên cố, theo kiểu nhà khách ở bịnh viện Cộng Ḥa.

    Chúng tôi ngồi uống trà dưới bóng mát của 3 cây xoài, trên những ghế đá màị Tôi được ông Thảo giới thiệu với một người Mỹ nói tiếng Pháp, c̣n tôi được gọi là kỹ sư không xưng tên. Sau lơi chào hỏi lịch sự theo xă giao Tây phương, chúng tôi nói chuyện thoải mái với ông Mỹ này. Tôi nói:

    - Nguyện vọng của chúng tôi là yêu cầu Mỹ rút quân để vấn đề chiến tranh này cho người VN giải quyết với nhau.

    Người Mỹ đáp:

    - Nếu quân đội Mỹ rút đi, th́ CS sẽ chiếm miền Nam.

    Tôi nói tiếp:

    - Nếu CS có thắng th́ chúng tôi hợp tác với họ trong ḥa b́nh, không c̣n bắn giết nhau nữa, người dân Việt Nam mới sống yên ổn, sinh hoạt b́nh thường, không c̣n lo sợ chiến tranh.

    Người Mỹ này đứng dậy, lấy khăn lau mồ hôi trán, rồi chậm răi đáp:

    - Nếu CS vào Saigon, th́ sẽ bắn giết lực lượng VNCH. Saigon sẽ thành biển máu lửạ VC sẽ bỏ tù hết các ông.

    Tôi đáp ngay:

    - Chúng tôi là dân sự, không chống đối họ th́ họ sẽ trọng dụng chúng tôi, nhất là chúng tôi là những chuyên viên về kinh tế, kỹ thuật, có thể phục vụ cho đất nước bất cứ lúc nào cũng được.

    Ông Mỹ nói:

    - Ông c̣n ảo tưởng lắm ! Người CS có đường lối độc tài của họ, không sử dụng người trí thức đâu. Họ sẽ tiêu diệt giai cấp bằng cách quốc hữu hóa tài sản của người dân, biến con người thành công cụ sản xuất, nhằm bảo vệ giai cấp lănh đạo của họ, được gọi là giai cấp công nhân thất học đó.

    Tôi có cảm tưởng khinh thường ông Mỹ này, v́ tôi cho rằng ông đi tuyên truyền chống cộng như con vẹt. Tôi đáp:

    - Xin lỗi ông, tôi không tin !

    Trong khi đó, trước sự chú ư của nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, kư giả Hoàng Trọng Miên, bà Ngô Bá Thành, kỹ sư Trần Văn Quyến, kư giả Thiếu Sơn, kỹ sư Hồ GiaLư...th́ ông Thảo cắt ngang lời nói của tôi. Ông nói:

    - Cháu c̣n trẻ nên c̣n hăng đấy.

    Ông Mỹ cười và quay sang bà Ngô Bá Thành ngồi kế bên nói chuyện một lúc. Rồi ông nói rơ lập trường của Mỹ như sau:

    - Người Mỹ sang VN chiến đấu v́ lư tưởng tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc VN. Với tư cách một người trí thức Mỹ, tôi tin rằng số đông trí thức VN đều có du học ở phương Tây, sẽ hiểu biết được thực tâm của chính phủ Mỹ, để không chống đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở VN, nhằm ngăn chặn làn sóng sẽ do Trung quốc đang muốn bành trướng sang VN và Đông Nam Á. Trong dịp này, CS núp dưới chiêu bài "giải phong miền Nam", để rồi sau khi chiếm được VNCH, họ sẽ thôn tính luôn cả Lào và Kampuchea.

    Qua cuộc tiếp xúc này, tôi được biết ư định của Mỹ, nhưng tôi vẫn xem Mỹ là kẻ xâm lược VNCH, v́ lẽ "người dân có kêu Mỹ tham chiến đâu" ! Tự nhiên người Mỹ vào thay thế người Pháp sau Hiệp định Geneva 1954 và cai trị chế dộ VNCH xuyên qua các chính quyền do Mỹ dựng lên. Sự có mặt của người Mỹ như chủ nhân ông, không có chính nghĩa. Đối với lương tri con người, mặc dù chính quyền Mỹ đă tốn rất nhiều tiền, và thanh niên Mỹ phải bỏ mạng ở chiến trường VN. Bởi v́ nếu CS xâm lược th́ nhân dân miền Nam có quyền tự vệ và đánh đuổi CS ra Bắc Việt. Cũng bởi v́ quốc sách Ấp Chiến Lược của VNCH đang tỏ ra hữu hiệu th́ Mỹ lại thay đổi chính sách chống Cộng !


    Hoạt độngcủa "Chính phủ Lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam":


    Sau khi MTGPMN không c̣n hữu hiệu nữa, CS giải tán để lập thành "Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam VN". Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa từ Ban Y tế qua làm Bộ trưởng Y tế. Các ông trong Ban tuyên huấn mặt trận th́ trở thành Bộ trưởng Thông tin hay Giáo dục. Các ông già như ông Trịnh Đ́nh Thảo, Lê Văn Giáp, Lâm Văn Tết ra Bắc lánh nạn. Vợ chồng Thiên Giang, Trần Kim Bảng ra Bắc để qua Đông Đức chữa bệnh. Lâm Văn Tết là kỹ sư, có chân trong Thượng hội đồng quốc gia, thành lập sau khi lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Tết được Trần Bạch Đằng móc nối theo CS.

    Sau khi chính phủ ma này được dựng lên th́ nó được lệnh của CS Bắc Việt tổ chức đi thăm hữu nghị chính phủ Hoàng gia Kampucheạ Trong buổi họp, đại diện chi bộ đảng là Huỳnh Tấn Phát tiết lộ cấp trên chỉ định "chị Bảy Hồng", tức bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, tham gia phái đoàn của chính phủ do Huỳnh Tấn Phát cầm đầu. Trên thực tế, phái đoàn này gồm toàn thể cán bộ cao cấp của Đảng CSVN, chỉ có 2 người của "chính phủ cách mạng lâm thời" như kể trên. Phái đoàn được dự trù tự động đến thị xă Sway-riêng th́ xe chính quyền Kampuchea đón rước đưa về Phủ Thủ tướng cho Lon Nol tiếp đón. Sau nghi lễ tiếp đón ở Dinh thủ tướng, LonNol, thủ tướng chính phủ hướng dẫn phái đoàn "chính phủ cách mạng lâm thời" đến hoàng cung ra mắt thái tử Sihanouk và hoàng hậu Monique. Tối lại, phái đoàn được mời dự tiệc và nghỉ đêm tại nhà khách của hoàng cung. Qua hôm sau, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Hoàng Bích Sơn và Nguyễn Văn Hiếu được Sihanouk hướng dẫn đi tham quan các cơ sở văn hóa của kampuchea như Chùa Vàng, Chùa Bạc và vài cơ sở kinh tế trong thành phố Nam Vang. Trong khi đó, phái đoàn chuyên viên kinh tế giữa 2 chính phủ làm việc với nhau.

    Cụ thể như VC cần mua 90,000 tấn gạo, nhưng VC kư hiệp định mua của Kampuchea 60,000 tấn thôi, v́ lẽ VC cảnh giác rằng chính phủ Kampuchea có thể lật lọng th́ CS sẽ ở vào thế bí. C̣n 30,000 tấn gạo kia th́ sẽ giữ bí mật để mua gạo chợ đen của dân chúng Miên tự động chở xuống biên giới Việt-Miên bán cho cơ quan hậu cần của VC. Qua 3 ngày viếng thăm chính thức Kampuchea, "chính phủ cách mạng lâm thời" muốn mua ḷng Sihanouk, nên biếu cho Kampuchea 5 ḥn đảo của VN đối diện với thành phố Kép của Kampucheạ 5 ḥn đảo này nguyên là chủ quyền của VNCH, có dân cư VN đang sinh sống và VC biếu không cho Kampuchea để lấy ḷng Sihanouk, nhờ y cho phép chỡ vũ khí từ Kompongsom lên biên giới Việt-Miên theo giá biểu 4000-5000 riel một tấn.

    Nói về sự lănh đạo của đảng CS, th́ trong phái đoàn này có Hoàng Bích Sơn của Bắc Việt là người trực tiếp đưa ra đường lối và chủ trương của đảng, v́ lẽ Sơn là người với danh nghĩa thư kư của MTGPMN, nhưng lại lănh đạo trực tiếp Nguyễn Hữu Thọ trong thời kỳ chiến tranh VN. C̣n tại "Phủ chủ tịch" của "Chính phủ Cách mạng Lâm thời" th́ tên Tư Dũng là Bí thư đảng đoàn của Phủ chủ tịch, tức là lănh dạo luôn cả Huỳnh Tấn Phát trong mọi sinh hoạt.

    C̣n ở Ṭa Đại sứ VC ở nam Vang, th́ tên Ba Dũng là Đệ nhất bí thư Toà Đại sứ, lănh đạo Đại sứ Nguyễn Văn Hiếu, măc dù Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát và Nguyễn Văn Hiếu đều là đảng viên, nhưng không thuộc thành phần công nhân và bần cố nông vô sản, nên không được quyền lănh đạo theo chủ trương của Đảng CSVN. Tôi nói rơ như vậy để chứng minh rằng CSVN không bao giờ sử dụng khả năng của người trí thức. Nếu người trí thức đó do chế độ tư bản đào tạo mà đứng được trong hàng ngũ CS th́ có 2 lẽ: một là đảng viên kỳ cựu cở Nguyễn Khắc Viện và Huỳnh Tấn Phát, đă lỡ phóng lao th́ phải theo lao. Nhưng sau này, Nguyễn Khắc Viện cũng bị thất sủng rồi; thứ hai là các trí thức cơ hội, chế độ nào cũng hùa theo để kiếm ăn cở Nguyễn Xuân Oánh, Nguyễn Ngọc Hà, Ngô Bá Thành, Lư Chánh Trung,...

    Sau khi kết thúc việc viếng thăm chính thức kampuchea, Lon Nol đích thân đưa phái đoàn"chính phủ cách mạng lâm thời" của VC từ Nam Vang về biên giới Việt-Miên. Tại biên giới này, nhờ con sông Saigon chia đôi 2 nước, VC chuẩn bị sẵn xuồng để băng qua sông. (chỗ hẹp nhất phía trên đó như 1 ḍng suối) ở đoạn hẹp nhất để trở lại căn cứ VC trên đất Kampuchea. Trong dịp này, Hoàng thân Sihanouk có biếu cho "chính phủ cách mạng lâm thời" 16 tấn cá khô, gọi là món quà hữu nghị Khmer-Việt Nam.

    Từ đất Miên băng qua sông, tưởng là qua lănh thổ VN cũng rất thực tế. Có lần, kư giả Burchette, 2 giáo sư y khoa người Pháp tên là Can và Crévin và Đại sứ Raoul Castro của Cuba từ Nam Vang đến vùng VC có nhiệm vụ ǵ đó, cũng bị VC đánh lừa bằng cách cho xuống xuồng băng ngang qua sông, đi một đổi thật xa, lên tới nguồn sông Saigon, rồi băng trở lại chỗ hẹp nhất như băng qua suối để đi về căn cứ VC trên đất Miên mà họ tưởng rằng căn cứ đó ở miền Nam VN. Nhờ những thủ đoạn vặt như vậy mà CS mới tuyên truyền bịp dư luận ở ngoại quốc, và căn cứ trên đất Miên không bị tiêu diệt bởi lực lượng VNCH. Điều đó chứng tỏ VC không thành thật ngay với cán bộ của ḿnh, lẫn đồng minh.

    Trong một dịp tṛ chuyện với bác sĩ Nguyễn Văn Thủ và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp năm 1969 tại "phủ chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời", 2 anh này nói với tôi rằng 2 anh có nhiệm vụ đi rước khách nước ngoài kể trên tại bờ sông biên giớị 2 anh hướng dẫn khách nước ngoài lên bờ bên này, đi rất xa nhưng khi lên ngọn suối băng trở lại th́ giáo sư Crévin nói rằng, "Tôi có cảm tưởng là tôi trở lại đất Kampuchea". Anh bác sĩ Thủ liền đáp:

    - Xa đất Kampuchea lắm rồi.

    Tất cả đều cười hả hê v́ đi quá xa, qua trảng th́ sợ máy bay xạ kích tự do nên cũng thắm mệt, không nhớ phương hướng ǵ cả. Trên thực tế, căn cứ của Ban Dân Y chỉ nằm cách chỗ xuồng đậu 500m trên đất Kampuchea, tức là khỏi cần qua sông cũng đi tới rất mau lẹ thôi !

    Tôi và anh Trương Như Tảng có đến căn cứ này dự lễ măn khóa đào tạo 200 bác sĩ y khoa do bác sĩ Trần Hữu Nghiệp mời. Trong số sinh viên y khoa, tôi để ư một nhóm nữ sinh người Hoa, không thạo tiếng Việt mà cũng đi học. Đó cũng là đường lối chính trị lừa bịp của CS, khích lệ người Hoa tham gia mặt trận chống Mỹ. Đó là lời tiết lộ của cô Phùng Ngọc Anh, 21 tuổi, bị nhốt tại Tổng nha Cảnh sát VNCH sau khi bắn lính Mỹ bằng cả 2 tay cầm 2 cây súng nhỏ, giữa thành phố Saigon. Cô là người Hoa Chợ Lớn, bị quân cảnh bắt tại hiện trường, nhưng đưa qua Cảnh sát Quốc gia điều tra không ra manh mốị. Đêm đầu tiên của trận Mậu Thân 1968, cô bị đem thủ tiêu mà không chết. Cô được xe cứu thương đem về Nhà thương Chợ Rẫy th́ công an phát hiện, đem biệt giam bỏ luôn không chữa và không cho ăn uống. Nhưng có một sinh viên người Việt ở lứa tuổi của cô, vận động anh em tù gởi thuốc trụ sinh vào cho cô uống và đem cơm cho cô ăn. 2 tháng sau, cô lành bệnh v́ bị một lằn đạn xuyên qua mông đít.

    Sau này tôi xem báo biết cô ta bị kêu án 20 năm tù và bị đày ra Côn Đảo. Đến năm 1973 khi được trao đổi tù binh, cô được đưa về Hà Nội. Lần cô bị đem thủ tiêu năm 1968 có 2 người khác nữa là Lê Thị Riêng và Trần Văn Kiểu. Cả 3 người bị bắn ở đường Hồng Bàng, trước Trường Cây Mai. Riêng cô Phùng Ngọc Anh đă may mắn bị đạn nhưng không chết.

    Trong hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh VN, VC tố cáo hành động này của VNCH, rồi qua lời tŕnh bày của Đỗ Thị Duy Liên (vợ Trần Bạch Đằng), là người đồng cảnh với Phùng Ngọc Anh, hội nghị Paris bị VC tẩy chay một tuần lễ để phản đối VNCH. Đó là năm 1969.

    Theo Hứa Hoành

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 9
    Last Post: 08-11-2011, 08:37 PM
  2. Replies: 2
    Last Post: 06-11-2011, 10:19 PM
  3. Replies: 1
    Last Post: 24-05-2011, 11:10 PM
  4. Replies: 5
    Last Post: 09-09-2010, 02:02 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •