Đừng quên “Tháng Tư Đen”
Mark Moyar - Điểm sách (Trà Mi lược dịch)

Bỏ rơi Việt Nam
Từ lúc chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời toà Đại sứ ở Sài G̣n vào tháng Tư năm 1975, sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đă đề tài chính trong các cuộc tranh luận của Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Phe bồ câu cho rằng thất bại của miền Nam Việt Nam v́ chính phủ miền Nam suy yếu và không có chính nghĩa, củng cố lập luận đồng minh của Mỹ đă không xứng đáng được viện trợ. Nhóm diều hâu đổ lỗi cho việc mất miền Nam Việt Nam v́ viện trợ Hoa Kỳ bị cắt đứt - phù hợp với niềm tin của nhóm diều hâu rằng các chính khách Mỹ đă điên rồ bỏ rơi phần đất mà gần 60.000 binh sĩ Mỹ đă chết để bảo vệ.

Tuy nhiên, không giống như các trang lịch sử trước đó của cuộc chiến, giờ phút cuối cùng của VNCH chỉ được các nhà sử học xem xét lướt qua. Tác giả viết lịch sử, được cho là toàn diện, của cuộc chiến có xu hướng lướt nhanh qua giai đoạn 1973-1975. Trong thời gian đó, không có lực lượng chiến đấu của Mỹ tại Việt Nam và báo giới cùng các quan chức dân sự Mỹ cũng quan tâm rất ít đến Việt Nam; học giả, v́ thế, có ít nguồn tài liệu bằng tiếng Anh để tham khảo.

Cuốn “Tháng Tư Đen” của George J. Veith đă lấp đầy khoảng trống lịch sử đó một cách khác thường. Tác giả George Veith đă đào sâu vào những nguồn tài liệu Việt Nam bị bỏ quên trước đó, gồm cả lịch sử của Bắc Việt, và ông đă phỏng vấn nhiều vị chỉ huy đơn vị chiến đấu miền Nam Việt Nam. Trong cách kể tỉ mỉ, Veith tŕnh bày cả núi chi tiết mới đă cho phép ông trả lời các câu hỏi chính của lịch sử.

Mặc dù các nhà lănh đạo miền Nam Việt Nam đă làm một số lỗi nghiêm trọng trong cuộc tấn công năm 1975 của Bắc Việt, ông Veith nói, không thể đổ thất bại v́ chính phủ vớ vẩn được và chắc chắn không phải v́ khả năng chiến đấu kém cỏi của quân đội VNCH. Ở vào lúc đó lănh đạo quân đội miền Nam Việt Nam, gồm nhiều sĩ quan đă chiến đấu giỏi, đẩy lui cuộc tấn công mùa Hè đỏ lửa năm 1972 và các cuộc đụng độ lớn nhưng ít được biết đến trong những năm 1973 và 1974. Trong cuộc tấn công cuối cùng của Bắc Việt, cấp chỉ huy và các đơn vị của miền Nam Việt Nam đă chiến đấu giỏi hơn nhiều người đă tưởng.

Nếu người Mỹ c̣n nhớ, một chiến thắng của miền Nam Việt Nam vào năm 1975, đó là trận chiến Xuân Lộc, ở đó một sư đoàn của quân đội miền Nam Việt Nam đă đập tan 3 sư đoàn Bắc Việt. Tuy nhiên, ông Veith cũng ghi lại một số các cuộc đụng độ khác, trong tháng Ba và tháng Tư năm 1975, chứng tỏ sức đề kháng mănh liệt của quân đội VNCH - từ Mỏ Tàu và Núi Bông ở địa đầu giới tuyến, đến Bến Cầu và Chơn Thành ở vùng biên giới, rồi Cần Thơ và Long An ở phía nam.

Ông Veith chứng minh một cách thuyết phục rằng nguyên nhân gốc rễ đưa đến thất bại của miền Nam Việt Nam chính v́ Quốc hội Hoa Kỳ đă cắt giảm viện trợ năm 1974, khi đó viện trợ quân sự đă giảm gần một nửa. Khi Bắc Việt bắt đầu tấn công dữ dội từ tháng 3 năm 1975, miền Nam Việt Nam đă rơi vào t́nh trạng thiếu nhiên liệu máy bay và phụ tùng thay thế, không cho phép quân đội chuyển quân đến để củng cố mạn sườn, dễ bị tấn công dài 900 dặm, về phía tây. Bắc Việt do đó được tự do tập trung các cuộc tấn công,với số lượng áp đảo, vào các thị xă, thành phố chính yếu.

Chiến thắng An Lộc (1972)
Nguồn ảnh: vnafmann.com
Do sự khan hiếm lực lượng không vận, đe dọa quân đội Nam Việt Nam, trong t́nh trạng hiểm nghèo, thường xuyên phải rút lui bằng xe tải hoặc đi bộ. Thường dân chạy phía sau các binh sĩ, sợ bị các lực lượng cộng sản tàn sát, những người đă thảm sát dân Huế năm 1968 và thường dân dọc theo Quốc Lộ 1 vào mùa Hè đỏ lửa năm 1972. Phụ nữ và trẻ em và các loại xe dân sự làm tắc nghẽn cầu, đường, làm cuộc di tản chậm lại. Do đó, một số đơn vị chiến đấu bị quân Bắc Việt chận đường và tiêu diệt.

Khi cuộc di tản chiến thuật, khi lực lượng Nam Việt Nam cố gắng để tạo thành một vành đai pḥng thủ tại thành phố Đà Nẵng, th́ hơn một triệu thường dân đă đổ tràn vào thành phố của 500.000 người đang trong trạng thái hoảng loạn. Đường phố đă kẹt cứng v́ giao thông dân sự, ông Veith giải thích, do đó sự vận chuyển của xe quân sự và h́nh thành đội quân lớn đă không thể phối hợp được. Một số binh sĩ bỏ đơn vị ḿnh để bảo vệ thân nhân hoặc giúp họ chạy trốn. Tướng Ngô Quang Trưởng, một tướng lănh tài ba và lôi cuốn của VNCH, đă quyết định tổ chức quốc pḥng là điều không thể thực hiện được, ông đă ra lệnh sơ tán của quân đội chiến đấu bằng đường biển. Một số binh lính miền Nam Việt Nam đă thoát khỏi bằng tàu thuỷ, nhưng hàng ngàn người khác đă bị đơn vị quân đội Bắc Việt đang ồ ạt truy đuổi và bắt sống trên băi biển.

“Tháng Tư Đen” cho thấy rằng việc cắt giảm viện trợ của Mỹ quá nhanh khiến niền Nam Việt Nam đă không thể đánh bom các lực lượng của đối phương ngay cả khi họ đang tụ tập đông đảo và là mục tiêu mời gọi. Lực lượng không quân Nam Việt Nam không thể bay đủ phi vụ, và khả năng của không quân tiếp tục bị xói ṃn khi các sân bay bị quân Bắc Việt tràn ngập. Trong tháng Giêng năm 1973, Tổng thống Nixon đă hứa với Việt Nam là không lực Mỹ sẽ đánh tan quân Bắc Việt nếu họ đă vi phạm hiệp định ngưng bắn sắp được kư kết tại Paris. Nhưng sau đó vụ Watergate bùng nổ, và Quốc hội, dùng Nghị quyết Quyền lực Chiến tranh 1973, để ngăn cản người kế nhiệm TT Nixon, là TT Gerald Ford, thực hiện các cam kết với VNCH.

Mặc dù miền Nam Việt Nam có 763.000 người vào năm 1975, sự hạn chế di động chiến lược chỉ cho phép quân đội VNCH tập trung 110.000 binh sĩ làm pḥng tuyến sau cùng ở Sài G̣n. Quân Bắc Việt, có 350.000 quân được cung cấp đa dạng nhờ sự thay đổi biến đường ṃn Hồ Chí Minh thành một đường trải nhựa và có cả đường ống dẫn dầu bên cạnh. Mặc dù trước t́nh h́nh tuyệt vọng, ông Veith lưu ư, nhiều đơn vị miền Nam Việt Nam đă chiến đấu đẩy lui nhiều cuộc tấn công lớn của quân Bắc Việt Nam tại Sài G̣n và phản công có hiệu quả. Theo ước tính của riêng Hà Nội, lực lượng Bắc Việt Nam có 6.000 binh sĩ tử thương trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Người lính miền Nam Việt Nam đă chiến đấu cho đến khi chính phủ (Dương Văn Minh) mới được dựng lên ra lệnh đầu hàng với ảo vọng được phe thắng trận nhượng bộ.

Black April của George Veith; 587 trang, 29.95 USD
Nguồn ảnh: NXB Encounter Books
Hơn 100.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà tử thương trong các trận chiến cuối cùng, hay đă bị xử tử ngay sau đó hoặc đă chết dần ṃn v́ bị ngược đăi trongcác trại “cải tạo” khổng lồ. Nửa triệu người miền Nam Việt Nam đă chết trên đường chạy trốn sự đàn áp cộng sản. Trong lúc đang toan tính viện trợ cho Afghanistan trong tương lai, “Tháng Tư Đen” là một lời nhắc nhở đúng mức với chính phủ Mỹ về thiệt hại nhân mạng khi bỏ rơi đồng minh đang bị bao vây.



© DCVOnline

Nguồn: Abandoning Vietnam. Mark Moyar. WSJ, BOOKSHELF - May 4, 2012.
Tác giả là một chuyên viên tư vấn quốc pḥng và là tác giả cuốn “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965.”

http://www.dcvonline.net/modules.php...ticle&sid=9118