Page 5 of 9 FirstFirst 123456789 LastLast
Results 41 to 50 of 83

Thread: Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

  1. #41
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Đỗ Cao Trí - Danh Tướng - Chiến Tuớng
    Cái Chết của một Chiến Tướng


    Quan ngại bởi bước tiến chậm chạp xâm nhập vào Hạ Lào, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lấy một quyết định nan giải đầu tuần trước. Ông phải đặt để một người chỉ huy mới. Vào 7 giờ sáng, ông triệu Trung Tướng Đỗ Cao Trí, 41 tuổi, một quân nhân mang nhiều huy chương nhất và danh tiếng nhất nước, đến dinh tổng thống tại Sài Gòn. Và ông ủy thác cho Tướng Trí công việc này. Hai người thảo luận ngắn ngủi thể thức và lúc nào Tướng Trí sẽ nắm quyền chỉ huy Lam Sơn 719 thay tư lệnh Quân Đoàn I Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Sau buổi đàm thoại, Tướng Trí đáp trực thăng đi thị sát quân lính của ông đang hành quân vượt biên trong một cuộc săn đuổi địch quân ngay tại các mật khu nằm trong vùng đông nam Căm Bốt. Không đầy 2 tiếng rưỡi sau, xác Tướng Đỗ Cao Trí được lôi ra khỏi thân xác tan tành của trực thăng trong tỉnh lỵ Tây Ninh.

    Cả thảy mười người tử nạn trong chuyến bay, gồm có một vài cộng sự viên của Tướng Trí và phóng viên Newsweek François Sully. Theo lời thuật chính thức của phát ngôn nhân chính phủ, một bộ phận trực thăng bị hư hỏng khiến cho máy bay bị phát nổ trong khi đang bay cao 100 feet. Lẽ đương nhiên là lời đồn đãi thì đưa ra một giả thuyết khác: Tướng Trí là nạn nhân của một cuộc âm mưu tinh vi - theo thói thông thường và là một lời giải thích không chính xác cho bất cứ biến cố nào xảy ra tại Nam Việt Nam. Theo lập luận này, ông bị bắn hạ bởi các kẻ thù cá nhân hay chính trị. Các sĩ quan tình báo Mỹ nghi là trực thăng Tướng Trí bị hỏa lự̣c súng phòng không ̣địch bắn hạ; giới chức chính quyền tung tin trục trặc máy móc để ngăn ngừa địch lấy công là đã hạ thủ được một trong những anh hùng tài ba nhất của Nam Việt Nam.

    Tướng Trí thường được đánh giá là chiến tướng cừ khôi nhất của QLVNCH, và các thành tích dũng cảm của ông đã được thần thoại hóa. Trong chiến dịch vượt biên Căm Bốt trong tháng 5 vừa qua, Tướng Trí thường đáp trực thăng xuống đất để nắm lấy quyền chỉ huy một đơn vị đang lâm nguy. Một lần nọ, sau khi người đứng cạnh ông bị mảnh pháo kích đốn hạ, Tướng Trí can trường nhảy lên một thiết vận xa và thôi thúc chiến xa tiến thẳng vào nơi phát xuất hỏa lực, "Tiến tới, tiến tới!"

    Y phục chiến trường thông thường của Tướng Trí là một bộ đồ ngụy trang cây lá rừng, một chiếc mũ baseball với ba ngôi sao và một cây gậy, mà ông nói bông đùa luôn cầm trên tay để "phát đít Việt Cộng." Ông say sưa với địa vị nổi bật và đơn sơ đủ để nhìn nhận điều đó. "Tôi thích trở nên một anh hùng," ông nói một cách thật là thẳng thừng trong cuộc xâm chiếm Căm Bốt năm ngoái. Điều ít biết đến hơn là sự kiện "Tướng Patton của Vùng Mỏ Vẹt", danh xưng được gán cho ông, cũng còn là một nhân vật hành chánh khôn khéo chỉ huy ba trong bốn vùng chiến thuật và có lúc được nhắm bổ nhiệm cho vùng chiến thuật thứ bốn. Ông hỗ trợ việt nam hóa chiến tranh lâu trước khi điều này trở thành quốc sách.

    Sinh trưởng trong một gia đình điền chủ giàu có trong tỉnh Tây Ninh, Tướng Trí bay trực thăng hằng ngày giữa chiến trường và ngôi biệt thự sang trọng của ông, gồm có một hồ bơi, bên cạnh một con sông tại Biên Hòa. Tại đây, Tướng Trí ham thích đóng vai trò chủ khách, nhậu nhẹt và chuyện vãn tán gẫu. Ông cũng còn làm chủ một vườn thú gồm vịt, ngỗng, chim bồ câu, một con nai, một con bò và một con heo chạy quanh trong vườn. Tướng Trí chăm lo vợ và sáu người con; ông dạy kinh tế cho mấy đức nhỏ bằng cách dùng tiền túi của chúng để mua thực phẩm cho heo, rồi chia phần lời với chúng khi bán được con heo. Nhưng cách lối sống của ông quá xa xỉ khiến cho người đời luôn nghi ngờ ông tham nhũng, và năm 1965, trong một vụ chính phủ điều tra tài sản ông, ông toan tính quyên sinh. Một trong số người bảo lãnh cho cuộc điều tra là Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó cầm đầu Không Quân. Hai người trở nên thù địch không đợi trời chung, và tuy là họ thường thấy mặt nhau tại các công vụ sau khi Tướng Trí trở lại nắm quyền chỉ huy quân sự năm 1967, họ không bao giờ bắt tay nhau.

    Tướng Trí thường nói ông sung sướng nhất khi ông ở cạnh bên các chiến binh của ông ngoài mặt trận. Tuần qua, trong khi một quân nhân cầm trên tay một bó hoa hồng với một dải ruy băng có ghi hàng chữ VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC, quan tài Tướng Trí được hạ huyệt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Y phục, mũ, găng tay, cây kiếm và cây gậy của ông được cài đặt trên mặt quan tài.

    Time Magazine
    Monday, Mar. 08, 1971

  2. #42
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Đỗ Cao Trí - Danh Tướng - Chiến Tuớng
    Lượng Giá Tướng Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III


    Khi trở về Mỹ, sau khi mãn nhiệm kỳ phục vụ trong tư cách Cố Vấn Phó của Quân Đoàn III (từ tháng 12 năm 1969 đến tháng 11 năm 1970), Chuẩn Tướng D.P, MacAuliffe đệ trình Bản Tường Trình của Sĩ Quan Cao Cấp do ông thảo lên Bộ Quân Lực ngày 26 tháng 11 năm 1970. Trong tài liệu này, Tướng McAuliffe có viết phần lượng giá về Tướng Đỗ Cao Trí như sau:

    Tôi có dịp phục vụ với Trung Tướng Đỗ Cao Trí trong một mối giây liên hệ làm việc rất gần kề, phải kể là thường nhật với ông trong năm vừa qua. Tôi rất cảm kích bởi lòng ái quốc, tận tâm đối với Quân Đội và sứ mạng, một lối lãnh đạo rất là thực tiễn, một ý chí quyết tâm kiên trí chống kẻ thù, loìng dũng cảm cá nhân (tính khí anh hùng của ông trong chiến trận là một huyền thoại), danh dự, và yêu mến đối với quân lính Việt Nam dưới quyền ông. Không thể chối cãi phần lớn công lao khiến cho sự tiến triển khác thường trong Quân Đoàn III và Vùng 3 Chiến Thuật trong năm qua là của cá nhân Tướng Trí, là do tài lãnh đạo, sáng kiến, quyết tâm, cảm thức và cảm quan của ông. Mặc dù vậy, tiếng đồn đ ãi tham nhũng bám sát ông, chẳng hạn, cho là ông nhận tiền đút lót từ các tỉnh trưởng và từ giới đốn cây làm gỗ, và ông can dự vào các sinh hoạt chợ đen. Tướng Trí nhìn nhận là ông giàu có, nhưng khẳng định là ông thừa hưởng sự giàu sang của cha ông. Gia đình ông, qua nhiều thế hệ, làm chủ nhiều ruộng đất trong tỉnh Biên Hòa. Ông không mẩy may che đậy nề nếp sống xa hoa của ông tại doanh trại cũng như tại tư gia. Vốn sanh trưởng trong sự giàu sang, ông không lấy gì làm điều. Tôi thấy là các lời cáo buộc tham nhũng -- theo như chúng ta hiểu theo quan niệm âu mỹ -- hoàn toàn không tương đồng với các phẩm chất trổi vượt trong cá tính con người của ông. Hơn nữa, theo nhận xét riêng của tôi thì các lời đồn đ ãi tham nhũng liên hệ với Tướng Trí hình như thăng trầm theo trính độ thăng tiến và mức độ nổi tiếng đương thời của ông. Vùng 3 Chiến Thuật, và phải nói là toàn quốc sẽ là những đối tượng thua thiệt thật sự nếu những lời cáo buộc đó được phép vô hiệu hóa hay cách chức quyền lãnh đạo của ông.

    Bản tường trình này được giải mật ngày 11 tháng 6 năm 1983

    Nguyễn Văn Tín
    Ngày 28 tháng 8 năm 2009

    -------------------------------------------------------

  3. #43
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Đỗ Cao Trí - Danh Tướng - Chiến Tuớng

    Hai Vị Tướng Tác Chiến Giỏi
    Đỗ Cao Trí và Nguyễn Viết Thanh


    Những vị Tướng lớn chỉ huy quân đội lớn. Lịch sử đă chứng minh như vậy. Nhưng tại Việt Nam Cộng Ḥa, quân lực bị sa lầy trong tham nhũng, đố kỵ, và chính trị hóa quá mạnh, nên những vị Tướng có tài muốn nổi cũng không được. Trong lúc lực lượng Mỹ rút bỏ lại những khoảng trống quá lớn, trên chiến trường, nước nhà đă nẩy sinh ra hai vị Tướng tài giỏi làm nâng cao tinh thần quân đội có thể lấp vào chỗ trống trên.

    Bấy giờ, Cơ Quan Viện Trợ Mỹ MACV đă đưa ra bản tường tŕnh có tính cách phê b́nh các vị Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Điều nghịch lư ở đây là một vị Tướng nổi danh về tài hành binh bố trận, được binh sĩ trung thành, lại bị đe dọa chính trị, trong một nước đầy cuộc đảo chánh quân sự. Một nhà quan sát Mỹ ở Sài G̣n hồi đó đă giải thích: "Đây là một quốc gia không cho phép ai được làm anh hùng quá lâu. Nhưng người ta vẫn xài anh hùng nhất thời."

    Lúc đó QLVNCH có hai anh hùng tài ba trên chiến trường (không phải anh hùng chính trị), đă vượt trội và lănh trọng trách chỉ huy Quân Đoàn III và IV ngay sau vụ Tổng Phản Công Tết Mậu Thân 1968. Đó là Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí và Cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Hai ông đă chứng tỏ là những vị Tướng có tầm nh́n chiến lược sắc bén và có tài điều quân trận địa chiến. Trong lần chấn chỉnh sau vụ Tết Mậu Thân 1968, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă loại những sĩ quan trung thành với PTT Nguyễn Cao Kỳ, và giao cho Tướng Trí và Tướng Thanh đảm nhận chức Tư Lệnh hai Vùng Chiến Thuật đông dân và nhiều yếu tố tế nhị chính trị nhất.

    Tướng Nguyễn Viết Thanh nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, một đơn vị nổi danh cách tiêu cực là "Sư Đoàn T́m và Tránh Địch", tuy trội hơn hai Sư Đoàn 9 và 21 của Quân Đoàn IV đương thời. Tướng Thanh được Tướng William Westmoreland, Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ ở Việt Nam, ca ngợi như là một Tướng tài giỏi của QLVNCH, ông e ngại sự quan tâm của ông và các Cố Vấn Mỹ sẽ biến Tướng Thanh trở thành đối thủ của các nhà lănh đạo chính trị và quân sự ở Thủ Đô Sài G̣n. Tuy nhiên, Tổng Thống Thiệu không những công nhận tài ba và đức độ của Tướng Thanh mà ông cũng an tâm v́ biết vị Tướng này không có tham vọng chính trị nào khác, nên ông đă mạnh mẽ nâng đỡ hết ḷng.

    Tướng Thanh được thuộc cấp thương mến hết mực đến nỗi trong kỳ Tết Mậu Thân, ông suưt mất mạng nếu không được quân sĩ yêu mến. Ông và gia đ́nh bị kẹt trong ḷng địch, nhưng nhờ binh sĩ trung thành nên cả nhà được thoát hiểm. Vị Tướng Cố Vấn Quân Đoàn IV đă kể chuyện Tướng Thanh được ái mộ như thế nào: Trong một dịp, lúc đó Tướng Thanh c̣n làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở Cần thơ, ông cùng vị Tướng Cố Vấn bay lên Bản Doanh BTL Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho. Hai vị Tướng ăn cơm trưa một cách kín đáo trong một nhà hàng ở Thị Xă; người ta xầm x́ rỉ tai và mọi người cuối cùng rồi cũng hay tin. Dân chúng và binh sĩ ùn ùn kéo đến chào mừng vị Tư Lệnh cũ của họ. Trong suốt cả tiếng đồng hồ, Tướng Thanh phải gật đầu, bắt tay liên tục cả trăm người. Nên biết rằng ít có vị Tướng Lănh, sĩ quan cao cấp có sự gần gũi ḥa đồng thân thiện với lính và dân ở miền quê như Tướng Thanh. Ông là một trong những vị Tướng thanh liêm trong sạch "Nhất Thắng, nh́ Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng" được lưu danh muôn thuở.

    Tại Quân Đoàn III, Tướng Đỗ Cao Trí đă chỉnh đốn lại khả năng tác chiến của ba Sư Đoàn 5, 18 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Ông có bản lănh hoàn thành những việc dù khó khăn cách mấy. Thoát chết ba lần ám sát. Không ai dám làm phật ḷng chính phủ và Bộ TTM Sài G̣n, nhưng Tướng Trí đă dám thay thế hai vị Tư Lệnh bất tài và là tay chân thân tín của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng ông không gặp phản ứng nào của dinh Độc Lập. Tướng Trí hứa sẽ biến ba sư đoàn bộ binh yếu kém thành tinh nhuệ trong ṿng 2 năm, và ông đă giữ đúng lời hứa.

    Tướng Trí và Tướng Thanh đă cùng các sư đoàn thuộc quyền đă được thử lửa một trận đánh lớn, với cuộc hành quân phối hợp đổ bộ vào Campuchia tháng 5/1970. Tổng Thống đă cử Tướng Trí làm Tư Lệnh cuộc hành quân càn quét cục R, căn cứ an toàn của VC ở vùng Mỏ Vẹt, và cử Tướng Thanh chỉ huy bốn lực lượng đặc nhiệm Bộ Binh, Thiết Giáp của Quân Đoàn IV đánh từ dưới thốc lên (từ Nam lên Bắc) để bắt tay với lực lượng của Tướng Trí.

    Trong ngày đầu tiên của cuộc hành quân, Tướng Thanh bay lên chiến trường chỉ huy và điều động các đơn vị trực thuộc. Khi bay sâu vào nội địa Campuchia khoảng 10 dặm, chiếc trực thăng của ông đụng vào một chiếc Cobra. Tai nạn thật khủng khiếp, không một ai sống sót! Cái chết của Tướng Thanh là một cái tang lớn cho QLVNCH, một màu tang chế phủ lên cuộc hành quân! Để tỏ ḷng ngưỡng mộ và tri ân vị Tướng tài ba, quân nhân thuộc cấp đă hết ḷng chiến đấu để đem lại chiến thắng dâng lên hương hồn vị chỉ huy tài đức vẹn toàn.

    Trong khi tin tức chiến thắng lớn lao của QLVNCH bay về Sài G̣n tới tấp, cái chết của Tướng Nguyễn Viết Thanh làm mọi người luyến tiếc. Tướng Đỗ Cao Trí được ca ngợi như vị anh hùng của Quốc Gia, ông làm việc không mệt mỏi, kế hoạch hành quân được chuẩn bị rất kỹ càng, chu đáo, và linh động, cùng sự có mặt thường xuyên ở chiến trường khích động ḷng quân là những yếu tố đem lại chiến thắng cho đơn vị thuộc quyền của ông. Tướng Trí đă dùng chiến thuật "Diều hâu" và "Nhị thức chiến xa bộ binh" phối hợp một cách thần kỳ nên đă gặt hái kết quả không thể ngờ được. Không ai can đảm và xông xáo như vị Tướng ba sao này, mặc đồ rằn ri, đội mũ lưỡi trai, tay cầm cây gậy chỉ huy, nhảy theo toán quân đổ trực thăng đầu tiên; hoặc đứng trên pháo tháp xe tăng hô to: "Nhanh lên! Tiến nhanh lên các em!"

    Trước ngày thực sự đổ quân qua Campuchia, có lần khi đang tới thị sát BCH Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Tướng Trí nghe báo cáo lính Miên đang "Cáp Duồn" chặt đầu thả trôi sông đồng bào Việt Nam ở vùng đồn điền Michelin bên kia biên giới. Ông vội điều động một tiểu đoàn Nhảy Dù cấp tốc đổ bộ bằng trực thăng Việt Nam (v́ trực thăng Mỹ chưa có lệnh Tổng Thống Nixon nên không dám vượt biên) xuống sân banh trong đồn điền cao su. Khi hai đại đội vừa xuống th́ chiếc trực thăng của ông cũng đáp xuống theo, ông lấy tay cầm "Can" chỉ về phía trước hô xung phong. Khiến anh Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó giật ḿnh vội báo cáo về xin đổ quân xuống bảo vệ an toàn cho ông. Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng cấp tốc bay đến hiện trường. Binh sĩ thấy hai vị Tướng cùng có mặt tại trận địa, nên ai nấy đều hăng hái xung phong đánh đuổi giặc ác ôn và giải thoát hằng ngàn đồng bào chở về bên nây biên giới (sau này dân chúng địa phương đă tạc tượng Tướng Trí thờ cúng ơn cứu mạng).

    Đối với một người tài ba và khát khao chỉ huy lập chiến tích oai hùng như Tướng Trí, xá ǵ chiếc trực thăng an toàn hay không, xá ǵ chiến trường hung hiểm ra sao, Tướng Westmoreland đă cảm phục tài ba và ḷng can đảm này nên ông đă viết: "Tướng Trí là một con cọp của chiến trường, một Tướng Patton của Việt Nam." Tuy nhiên, cái tài của Tướng Trí đă làm nhiều Tướng Lănh khác ghen tị, họ đă nêu ra những hành động của ông trong trận đánh đồn điền cao su Chup ở Cam Bốt; bắt bẻ ông đă nhảy xuống hồ bơi tắm chơi trong lúc cuộc giao trang đang hồi dữ dội nhất. Họ rêu rao rằng: "Tướng Trí chỉ muốn tạo tiếng tăm anh hùng cho riêng ḿnh, chứ không đếm xỉa đến lợi ích quân sự." Ngoài ra lối sống xa hoa ngang tàng và giàu có của ông đă gây ganh ghét và nghi ngờ ở Sài G̣n. Hai Thượng Nghị Sĩ Nam Việt Nam đă gọi là "vụ tham nhũng trắng trợn", khi tố cáo ông có chân trong đường giây buôn lậu tiền. Vụ tham nhũng này tung ra cùng lúc với những tin chiến thắng của Tướng Trí bay về thủ đô Sài G̣n. Mặc dù đời sống cá nhân bị tai tiếng, Tướng Trí vẫn nổi danh như cồn, ông là vị Tướng Lănh chiến trường tài giỏi nhất QLVNCH. Ngay cả sau cuộc hành quân Campuchia kết thúc. Dưới sự chỉ huy của ông, QLVNCH đă liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân vượt biên triệt hạ sào huyệt an toàn của địch, khiến chúng chạy xất bất sang bang.

    Trong lúc Tướng Trí hăng hái với kế hoạch tấn công của QLVNCH, ông có ư định đưa quân sĩ QĐ III lên Kratie để bắt tay với cánh quân ở đây th́ bị tử nạn phi cơ trực thăng cuối tháng 2/1971. Trên máy bay c̣n có kư giả Pháp nổi tiếng là Francois Sully.

    Chuẩn Tướng Mỹ George Wear đă ghi lại: "Khi quân sĩ VNCH được cấp chỉ huy giỏi sẽ chiến đấu xuất sắc không thua bất cứ quân đội nào khác. Họ chỉ cần những vị chỉ huy hết ḷng với họ, chiếm được ḷng tin của họ, và làm cho họ dám chết v́ chính nghĩa." Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh là hai vị chỉ huy có được tư cách và tài ba đó.

    David Fulghum, Terrence Mailand
    South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience.
    Boston Publishing Company
    chuyển ngữ: Trương Dưỡng

    ------------------------------------------------------
    Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh
    Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc


    Cuộc chiến đấu gian khổ chống lại làn sóng xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Việt Nam Cộng Ḥa, trong đó quân lực Việt Nam Cộng Ḥa làm nỗ lực chính thường không được báo chí ngoại quốc coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Báo chí Pháp th́ vẫn cay cú v́ cú đá "Điện Biên Phủ" của người Mỹ, hất cẳng đám con cháu của ông già mũi lơ De Gaulle ra khỏi Đông Dương, đâm ra giận lây đất nước non trẻ Việt Nam Cộng Ḥa, cho nên thường lái ngọn bút hướng dẫn sai dư luận quần chúng, coi thường tư thế quốc tế và ư nghĩa chiến đấu của miền Nam. Báo chí Pháp không nói làm ǵ, đến báo chí Mỹ "phe ta" mà cũng kiếm chuyện bôi nhọ quân lực VNCH mới là chuyện ly kỳ. Có nhiều kẻ đoán già đoán non cho rằng có lẽ lũ chúng nó ngậm miệng ăn tiền của Việt cộng và mấy "ông thày " vĩ đại như Liên Xô, Trung cộng đến bạc tỉ nên chúng nó cứ chửi bới ba họ nhà miền Nam, bóp méo sự thật làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoảng kinh hồn vía dậy lên những làn sóng phản chiến ồn ào vui vẻ đếch chịu nổi.

    Tuy nhiên không phải lúc nào quân lực VNCH cũng chiến đấu trong cô đơn thầm lặng và trong nỗi đắng cay cơ cực không ai biết đến. Cũng vẫn c̣n những cái đầu sáng suốt và tỉnh táo, những lương tâm trong sáng và những tấm ḷng trân trọng với Việt Nam Cộng Ḥa. Thí dụ như nhóm của đại tài tử Charlton Heston, ông từng thủ diễn trong nhiều bộ phim vĩ đại như Ben Hur, Mười Điều Luật Chúa, Con Thuyền Noé,v.v...Charlton Heston đă cất công sản xuất một cuốn phim tài liệu bênh vực quân lực VNCH và đích thân Charlton Heston đứng thuyết tŕnh để tăng thêm liều lượng thuyết phục quảng đại quần chúng. Công việc hoàn toàn vô vị lợi và không thu vô được một xu nhỏ nào, v́ VNCH nghèo lắm không có tiền lo lót. Charlton Heston chỉ thấy "ngứa mắt" v́ thiên hạ bất công với VNCH cho nên ông nổi máu người hùng miền viễn Tây lên bênh vực kẻ cô thế. Một khuôn mặt khác từ giới báo chí Mỹ, ông David Fulghum, cựu sĩ quan hải quân Mỹ, tốt nghiệp ngành "Lịch Sử Quân Sự và Ngoại Giao" tại đại học danh tiếng Georgetown, làm việc cho tổ chức U.S. News & World Report Book Division; và ông Terrence Mailand viết cho báo Newsweek và Boston Globe. Hai ông này có một bài viết chung trong quyển "South Vietnam On Trial" (Miền Nam Trên Đà Thử Nghiệm), nhận định "sơ khởi" về t́nh h́nh khan hiếm chỉ huy chiến trường cấp sư đoàn và cấp quân đoàn trong cuối thập niên 60. Hai ông đă đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu và kiệt xuất nhất của quân lực VNCH trong thời điểm đó là Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh mà chúng tôi xin được tóm lược nội dung bài viết như sau. Dĩ nhiên dưới cái nh́n của những người ngoại quốc dù là có thiện cảm rất nhiều nhưng có thể cũng có một số điểm phê b́nh đụng chạm một cách phiến diện đến t́nh h́nh chung của tướng lănh thời ấy. Chưa chắc họ đă nhận đúng và chúng ta cứ tự an ủi là hết thảy tướng tá của ta đều số dzách, cho vui vẻ cả làng.

    Theo hai me sừ như đă giới thiệu ở trên, hai ông cho rằng hễ một khi có tướng lănh lừng lẫy th́ sẽ có quân đội anh dũng, lịch sử giữ nước của Việt Nam đă chứng tỏ điều đó. Cho nên để chận đứng đà tiến công mạnh mẽ của Bắc quân, Nam quân cần có những tướng lănh giỏi có thể thổi bùng lên niềm hùng khí chiến đấu của quân sĩ và tư cách của những vị ấy có thể thay thế được chỗ trống to tổ bố một khi quân Mỹ rút hết về nước. Nhưng theo một bản tường tŕnh dài dằng dặc và đáng buồn của cơ quan MACV (Military Assistance Command in Vietnam), tức Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự tại Việt Nam, về t́nh h́nh chỉ huy chiến trường trong cuối những năm 1960, th́ hầu hết những tướng lănh Việt Nam nằm trong bảng phong thần đều được cho điểm...rớt lạch bạch như những chiếc lá mùa thu. Đại khái MACV dám cả gan phê b́nh giới tướng lănh là "hết sức thụ động", nào là "yếu kém", nào là "thầy chạy" (coward). Tuy vậy để bào chữa cho những yếu kém ấy, bản tường tŕnh đă cho thêm một câu tḥng là có thể những cái đó xuất phát từ thái độ thận trọng, không muốn bộc lộ tài năng chăng. V́ thực trạng miền Nam lúc đó bất cứ một tướng lănh nào cùng với một đội quân thiện chiến và trung thành với ông ta cũng đều bị những cặp mắt nḥm ngó nghi kỵ từ cấp cao nhất. Kinh nghiệm của những cuộc đảo chánh năm 1960 và 1963 đă chứng minh điều đó, một xứ sở không cho phép bất cứ một ai trở thành người hùng dài lâu.

    Rà tới rà lui măi mới đề ra được hai khuôn mặt sáng giá nhất, có tài chỉ huy trên chiến trường nhưng không có tham vọng chính trị. Đó là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật (năm 1972 tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu kư sắc lệnh chuyển những vùng chiến thuật thành quân khu) với các sư đoàn thuộc quyền là Sư Đoàn 5 Bộ Binh, SĐ18BB và SĐ25BB. Vị thứ hai là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật với các SĐ7BB, SĐ9BB và SĐ12BB. Cả hai vị tướng đều trẻ, tự tin và vô cùng năng động, chỉ mới nổi lên sau Tết Mậu Thân, chứng tỏ được là những vị tướng có thực tài, có khả năng kích thích tinh thần chiến đấu quân sĩ và có tầm nh́n chiến lược. Sự nổi lên của hai vị tướng lănh một phần cũng xuất phát từ ư đồ chính trị của TT Thiệu nhằm loại bớt một số tướng lănh thuộc "phe" Phó TT Kỳ, đưa những tướng lănh "trung lập" lên hay ít ra, không có tham vọng chính trị, chỉ biết đánh giặc làm niềm...vui duy nhất mà thôi. Hay biết chắc là họ sẽ trung thành và cho họ trấn đóng ở hai quân khu giàu có nhất và gần cận nhất để đem quân về cứu giá khi cần. Cho nên những vị tướng tá nào được cho về làm tư lệnh SĐ7BB coi như nắm chắc chiếc ghế tư lệnh quân khu trong tương lai gần. Thí dụ như trường hợp Tướng Nguyễn Viết Thanh, kế đến là Thiếu Tướng Nguyễm Khoa Nam, đều là những vị tư lệnh quân khu 4 xuất thân từ tư lệnh SĐ7BB.

    Theo bảng lượng định của MACV th́ tuy SĐ7BB không có ǵ xuất sắc hơn SĐ9BB hay SĐ21 BB, tuy nhiên Thiếu Tướng Thanh có phần nhỉnh hơn với những tiếng tốt trong quân đội. "Nhất Thắng, Nh́ Chinh, tam Thanh, Tứ Trưởng", là những vị tướng đánh giặc lả lướt nhưng cũng rất thanh liêm. Hơn nữa, Tướng Thanh được Đại Tướng William C. Westmoreland đánh giá là viên tướng kiệt xuất nhất trong các vị tư lệnh sư đoàn. Tuy nhiên Westmoreland và bộ tham mưu của ông ta cũng rất dè dặt không dám ra mặt thổi phồng Tướng Thanh nhiều hơn nữa, v́ sự ủng hộ về phía Mỹ đối với một tướng lănh nào đó một cách lộ liễu, ở một khía cạnh nào đó có thể là bản án...tử h́nh cho ông ta mà thôi. Nhưng may mắn cho Tướng Thanh, Tonton không những hài ḷng khả năng tác chiến của Tướng Thanh mà "người" c̣n rất tán thưởng thái độ thờ ơ với chính trị của ông.

    Trở lại với những huyền thoại về Thiếu Tướng Thanh. Có thể nói ông là một trong những vị tướng hiếm hoi được ḷng binh sĩ và cả ḷng dân. Chỉ có những vị tướng lừng lẫy khác như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng hay Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam mới đạt được cả hai thứ ấy. Danh tiếng của Tướng Thanh và ḷng dân thương yêu ông to lớn như thế nào, chúng ta hăy nghe một câu chuyện cảm động do Thiếu Tướng Cố Vấn Quân Đoàn 4, ông George Eckhardt, kể lại. Trong một dịp đi thanh sát đơn vị cũ của ông là SĐ7BB tại Mỹ Tho, đoàn của Tướng Thanh đang dùng cơm trưa trong một nhà hàng, vô cùng âm thầm và không kèn không trống. Nhưng không hiểu sao tin tức x́ ra ngoài và chẳng mấy chốc dân thị xă rần rần kéo tới như đi hội chợ và reo ḥ chào mừng vị tướng thân mến của họ. Trung Tướng Thanh buộc phải ngừng bữa ăn và tiến ra chào hỏi bắt tay từng người dân một trong suốt 45 phút. Một sự kiện kỳ lạ lẫn kỳ diệu xảy ra ngay trước những cặp mắt sửng sốt của người Mỹ.

    Cũng trong thời điểm ấy Trung Tướng Đỗ Cao Trí mới vừa nhiệm chức đă hăng hái bắt tay ngay vào việc chỉnh đốn những sư đoàn nghiêng ngả và rách nát của ông, mà theo lượng giá của các cố vấn quân sự Mỹ th́ SĐ5BB là "sư đoàn bết bát nhất chưa từng thấy", c̣n SĐ25BB th́ là "sư đoàn dở nhất trong tất cả các sư đoàn", trong khi SĐ18BB cũng không khá hơn và đă được cải đổi từ sư đoàn "bù mười nút", tức SĐ10BB ra thành sư đoàn "hên chín nút", tức SĐ18BB cho măi đến ngày nay. Công việc của Tướng Trí hết sức vất vả, nhưng chẳng mấy chốc phần thưởng xứng đáng đă hiện ra rơ nét. Trong cuộc tấn công của Quân Đoàn 3 vào đất Kampuchea, SĐ5BB đă không phụ ḷng trông cậy của ông và đă đánh những trận để đời. Sau này Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng cũng đă cùng với SĐ5BB tử thủ anh dũng ở An Lộc, viết nên trang sử hào hùng trong chương sử hoàng tráng của Việt Nam Cộng Ḥa. SĐ18BB trong những giờ phút hấp lối của VNCH đă vượt trội lên thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH dưới quyền của Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo đă làm cho Văn Tiến Dũng, vị tướng "hay không bằng hên", phải ngừng ngay tiếng hót và ngậm bồ ḥn ngay tại ngưỡng cửa Sàig̣n. Việt Cộng đă cay đắng quá đối và đă hèn hạ trả thù vị tướng anh dũng ấy sau năm 75 bằng cách giam ông hơn 20 năm và có lẽ ông là vị tướng ra về chót hết trong số những vị tướng VNCH. SĐ25BB của Chuẩn Tướng Lư Ṭng Bá trấn thủ vững vàng ở mặt Tây Bắc Sàig̣n và chỉ chịu ră ngũ vào những giờ phút cuối cùng nhất của cuộc chiến. Riêng viên tướng trẻ từng nổi danh thế giới trong mùa hè binh lửa 72 ở mặt trận Kontum, chỉ với một mảnh rách nát của SĐ23BB đă chuyển bại thành thắng, góp phần tống tiễn tướng "hên" trong trận Điện Biên Phủ Vơ Nguyên Giáp cay đắng lui về vườn đuổi gà, nằm gậm nhấm nỗi buồn bại tướng.

    Đánh giá của bảng tường tŕnh th́ Tướng Trí là mẫu người ngoại hạng, có thể hoàn thành những công việc hầu như là vượt quá sức người. Ngôi sao Đỗ Cao Trí sáng chói quá đỗi cho nên cấp chỉ huy cao nhất cũng không thích ông và có tin đồn rằng cả 2 cuộc mưu toan ám sát ông bất thành đều có sự nhúng tay từ trên tận chóp đỉnh quyền lực. Tướng Trí cũng bị tung hỏa mù là một tay tham nhũng gộc, có lẽ muốn hạ uy tín quá lớn của ông. Những tờ báo lá cải th́ tung tin Tướng Trí đào địch lăng nhăng trong giới thượng lưu. Bỏ qua hết thảy những tin tức giật gân và tào lao đó, Tướng Trí đúng là một con người cứng đầu cứng cổ, khi ông dám đương nhiên thay thế hai viên tư lệnh sư đoàn cục cưng của Tonton bằng hai viên tướng có thực tài khác. Một vị tướng tài năng về nắm SĐ5BB, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu từng 2 lần làm Tư Lệnh SĐ22BB ngoài Quân Khu 2 và đă tạo được nhiều chiến công vang dội, ông đă bỏ nhiều công sức nhào nặn sư đoàn "Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà" 22 Bộ Binh thành một lá chắn thép không thể nào Bắc quân có thể đánh thủng nổi để cắt Việt Nam Cộng Ḥa ra làm hai khúc. Giờ đây, Thiếu Tướng Hiếu về làm tư lệnh SĐ5BB, ông đă dẫn dắt sư đoàn làm nỗ lực chính, mũi đột phá của Quân Đoàn 3 trong chiến dịch tấn công sang lănh thổ Kampuchea trong năm 1970. Để xoa dịu tự ái Tonton, Tướng Trí đă hứa chỉ đến cuối năm 1970 là ông sẽ nhào nặn 3 sư đoàn của Vùng 3 Chiến Thuật thành những sư đoàn thiện chiến nhất.

    Cả hai viên tướng ấy và 6 sư đoàn thiện chiến đă sẵn sàng cho cuộc thử lửa trong chiến dịch tấn công sâu vào đất Kampuchea vào tháng 5, 1970 mà chúng ta quen gọi là chiến dịch KPC70. Tướng Trí được chỉ định làm tư lệnh quân đoàn VNCH làm cỏ các căn cứ Bắc quân trong khu vực Mỏ Vẹt (Parrot's Beak). Trong khi đó Tướng Thanh làm tư lệnh 4 chiến đoàn bộ binh-thiết giáp tấn công từ Vùng 4 Chiến Thuật lên hướng Bắc đến khi bắt tay với quân đoàn của Tướng Trí. Một nỗi bất hạnh cho người dân vùng 4 nói riêng và cho quân lực VNCH nói chung là trong ngày đầu của chiến dịch, Trung Tướng Thanh bay thị sát chỉ huy mặt trận để thúc giục ḷng quân và nhịp độ tiến quân. Chiếc UH1 trực thăng chở Tướng Thanh đă vào sâu trong nội địa KPC được gần 20 cây số th́ bất ngờ đụng nhau với một chiếc trực thăng tấn công Cobra. Tất cả những người trên 2 chiếc phi cơ đều tử nạn. Cái chết của Thiếu Tướng Thanh, giờ đây là Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, đă phủ một màu tang tốc lên hai quân đoàn đang hừng hực hùng khí tiến công. Nhưng trái với sự hí hửng hả hê của cộng quân, Quân Đoàn 4 tuy thiếu vắng con chim đầu đàn đă tràn lên tấn công như vũ băo và đă đánh một trong những trận lừng lẫy nhất. Chuẩn Tướng Trần Bá Di, Tư Lệnh SĐ9BB đă điều động sư đoàn làm mũi đột phá chính của Quân Đoàn 4.

    Tướng Trí đă tạo ấn tượng rất mạnh lên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Nh́n tới nh́n lui, nếu Tướng Trí không ở trên trực thăng gọi máy chỉ huy th́ đă thấy ông ngồi ngất ngưởng trên thiết vận xa M113 cùng tiến lên với binh sĩ. Lúc nào ông cũng mặc chiếc áo rằn Nhảy Dù, binh chủng hào hoa ông xuất thân, không đội nón sắt, chỉ tà tà chiếc mũ lưỡi trai đính 3 sao, dưới nữa là cặp kính đen quen thuộc nằm thường trực trên khuôn mặt đẹp hùng dũng, tay cầm cây "ba toong" vung vẩy về phía trước gào to: "Tiến lên! Nhanh Lên!". Westmoreland đă phải viết trong bản báo cáo: "Trí đúng là một con hổ trong chiến đấu, một George Patton (tướng thiết giáp lừng danh của Mỹ) của Việt Nam." Tuy vậy nhiều vị tư lệnh sư đoàn thuộc quyền cũng không khoái mấy cung cách chỉ huy quá lả lướt ấy, họ cho rằng Tướng Trí muốn chơi trội, ông ta chỉ chú ư đến việc tạo ánh hào quang anh hùng cho riêng ḿnh hơn là những quyết định quân sự thích ứng. Có ít nhất hai vị thượng nghị sĩ đă lên tiếng tố giác Tướng Trí có dính líu tới đường dây buôn lậu tiền tệ ở Sàig̣n. Và nhiều cáo giác khác nữa, nhưng không làm lu mờ được những chiến công hiển hách và rơ ràng của ông.

    Mặt trận Hạ Lào với cuộc hành quân Lam Sơn 719 khởi diễn hồi đầu tháng 2.1972 do Quân Đoàn 1 cùng với các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị khựng lại bất lợi trong khoảng trung tuần cùng tháng. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi Tướng Trí từ mặt trận KPC về để trao cho ông quyền tư lệnh mặt trận Hạ Lào thay thế cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm. Tướng Trí như thường lệ đứng nghiêm chào vui vẻ nhận nhiệm vụ mới, to lớn hơn, khó khăn hơn. Tuy nhiên công vụ bề bộn ở Quân Đoàn 3 và diễn biến của chiến dịch KPC c̣n cần đến sự hiện diện của Trung Tướng Trí. Trong một phi vụ quan sát hành quân, Trung Tướng Trí bay trên một chiếc UH1 về hướng biên giới Miên-Việt. Nhưng ông không biết rằng đó là chuyến phi hành cuối cùng. Khi chiếc UH1 bay ra khỏi không phận Biên Ḥa và đang tiến vào không phận tỉnh Tây Ninh th́ th́nh ĺnh nó lảo đảo nghiêng ngửa, mất cao độ và đâm sầm xuống đất nổ tung lên. Một số các vị trí dưới đất các chiến sĩ Mũ Nâu nh́n thấy một chiếc trực thăng bao bọc bởi khói và lửa mất cao độ và rơi chúi đầu xuống cực nhanh. Không ai có thể ngờ đó chính là chiếc trực thăng đang chở vị tướng lừng danh nhất của Nam quân. Trung Tướng Trí, giờ đây là Đại Tướng Đỗ Cao Trí đă tuẫn nạn phi cơ cùng với toàn bộ phi hành đoàn. Lại thêm một mất mát quá lớn khác cho quân lực VNCH. Có nguồn tin cho rằng Tướng Trí bị mưu sát v́ thanh danh quá lừng lẫy của ông. Nhưng theo bản phúc tŕnh của phái bộ MACV th́ chính là do t́nh trạng thiếu kinh nghiệm bảo tŕ phi cơ của các chuyên viên Việt Nam, Nếu Đại Tướng Trí không bất ngờ bị tử nạn và ông ra Vùng 1 làm tư lệnh chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719, biết đâu lịch sử chiến đấu bảo quốc của người miền Nam và Vùng 1 Chiến Thuật sẽ được viết bằng những trang chữ vàng chói lọi hơn. Nam quân dưới sự điều động thần sầu của vị tướng tài sẽ đánh những trận lừng lẫy, đập nát các căn cứ tiếp liệu quân sự quan trọng của Bắc quân nằm trên tục đường Hồ Chí Minh, từ đó Bắc quân không c̣n tiềm lực để mở trận tấn công Việt Nam Cộng Ḥa trong mùa hè năm 1972.

    Hai viên đại tướng cùng hy sinh v́ tổ quốc đă để lại một khoảng trống lớn trong cấp chỉ huy chiến trường trong một thời gian dài và phần nào làm khựng lại đà tiến của hai Quân Đoàn 3 và 4 QLVNCH. Viên Thiếu Tướng Mỹ George Wear đă đưa ra nhận xét như sau để thay cho lời kết thúc một chương sử u ám của QLVNCH: "Một khi mà QLVNCH được chỉ huy tốt th́ họ chiến đấu dũng mănh như bất cứ quân đội nào. Họ cần những vị chỉ huy biết cách hỗ trợ một cách thích đáng và lấy được ḷng tin của lính tráng th́ với giá nào binh sĩ cũng sẵn sàng dâng hiến đời họ cho những giá trị tuyệt đối của chiến thắng. Trung Tướng Thanh và Đại Tướng Trí chính là những mẫu người ấy."

    Phạm Phong Dinh
    phỏng theo
    David Fulghum, Terrence Mailand
    South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience.
    Boston Publishing Company

  4. #44
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Đỗ Cao Trí - Danh Tướng - Chiến Tuớng
    Ai Giết Tướng Đỗ Cao Trí ?


    Có một khoảng thời gian sau 1970, dư luận ở miền Nam than phiền: cứ để Tổng Thống Thiệu ôm chân Mỹ kiểu này thi` có ngày mất nước. Thời điểm đó, trong quân đội, người ta chú y' đến Trung Tướng ?ổ Cao Trí, đương kim Tư Lệnh vùng III chiến thuật, một trong những người bạn chí thân của tôi. Thậm chí một số người coi tướng Trí là một viên tướng không mấy ủng hộ Tổng Thống Thiệu. Tôi không hiểu dư luận này bắt nguồn từ đâu. Chúng tôi thường tâm ti`nh với nhau tự do thoải mái, từ chuyện ti`nh duyên, dạy dỗ con cái, buồn phiền gia đi`nh đến chính trị và quân sự. Có một hôm Tướng ?ỗ Cao Trí bị cúm, nằm đắp chăn trên giường, tôi đến chơi không đúng lúc, tùy viên đem ghế tôi ngồi đối diện với anh thăm hỏi vấn an. Tôi co`n nhớ anh nói với tôi:

    - Triều à, moa là thằng lính nhà binh không biết chính trị, nhưng moa thấy ông Thiệu lừng khừng quá. Hi`nh như ông ta không biết mi`nh muốn gi`. Hay là ông ta bị Mỹ khóa tay khóa chân. Hoặc ông ta tự mi`nh bán thân cho Mỹ rồi.

    Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

    - Tại sao toa nói như vậy?

    - Thi` chính toa cũng thấy và chắc toa co`n hiểu nhiều hơn moa.

    - Chính Tướng Kỳ cũng có than phiền điều đó với moa vài lần. Nhưng biết làm sao bây giờ?

    - Nếu moa làm một cuộc đảo chánh, toa thấy có nên không? Thú thật với toa từ khi mới có binh quyền trong tay cho đến ngày nay moa chưa hề đánh thua một trận nào. Tụi Mỹ kính phục moa về vấn đề nầy và chúng nó luôn luôn thỏa ma~n mọi yêu cầu của moa.

    Tôi giật mi`nh suy nghĩ, ?ỗ Cao Trí nhi`n tôi ngạc nhiên vi` không thấy tôi trả lời. Trong khi tôi nghĩ rằng: thằng bạn mi`nh muốn dấn thân vào đại sự. Trước kia như tôi đa~ viết trong hồi ky' tập I, Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ có đề nghị với tôi hai lần nhưng tôi không thấy lo`ng mi`nh có chút lo lắng nào. Lần nầy có lẽ vi` ?ỗ Cao Trí với tôi thân thiết nhiều nên tôi có phần lo cho anh nhiều hơn là lo cho tôi. Sự im lặng của tôi gần cả phút làm nặng nề cho cả đôi bên. Tôi hỏi lại?

    - Liệu toa có thể đảo chánh thành công không?

    - ?ó là chuyện chơi đối với moa.

    - ?ừng có đùa. Bộ toa đang lên cơn sốt nên nói sảng phải không?

    - Ê, toa quên rằng moa là Tư lệnh quân đoàn III và Trung Tướng Minh là em út ruột của moa, hiện đang nắm quyền Tổng Trấn Saigon sao? Co`n bao nhiêu em út khác rải rác mà toa chưa biết. ?ời binh nghiệp của moa toa có biết sơ rồi. Phần toa, liệu có khả năng đảm nhận trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia không?

    - Khả năng thi` chắc chắn có, hơn nữa bạn bè đông, thừa sức hành xử đối phó với mọi vấn đề. Nhưng moa đề nghị tụi mi`nh nên suy nghĩ kỷ việc nầy. Khi toa hết bệnh mi`nh sẽ gặp lại bàn rộng hơn.

    Một tuần sau đó, Trung Tướng Trí mời tôi dùng cơm trưa tại dinh Tỉnh Trưởng Biên Ho`a, vừa là tư gia tạm của ông vừa dùng làm văn pho`ng Bộ Tư Lệnh Quân ?oàn. Cơm dọn xong, tùy viên và người hầu biến mất. Chúng tôi tay đôi bàn việc tương lai, nhận định về những khó khăn chính trị, về nguy cơ quân sự do cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam khá nhiều, về chính sách Hoa Kỳ thi` chúng tôi chỉ đoán mo`. ?iều chúng tôi biết chắc là Mỹ muốn có một nhà la~nh đạo của miền Nam sẵn sàng bán mi`nh cho họ. ?ối với Việt Nam yếu tố Mỹ vô cùng quan trọng vi` sự hiện diện của năm trăm ngàn quân, vi` số tiền và vũ khí viện trợ. Nhưng ngược lại lấy trí mà suy thi` đối với Mỹ yếu tố Việt Nam cũng có tầm quan trọng tại vi` sao?

    Nhi`n lại cuộc chiến ?ông Dương những năm 45-54, Pháp thua trận tại Paris chớ không phải tại ?iện Biên Phủ. Phong trào đo`i ho`a bi`nh cho ?ông Dương làm tê liệt nước Pháp hằng ngày, làm sụp đổ chính phủ liên tục. Cho đến ngày Mendes France bị bắt buộc ky' hiệp ước Ho`a Bi`nh với cộng sản Bắc Việt vào giờ cuối cùng của đêm khuya sắp chấm dứt hội nghị, chỉ vi` lời hứa với Quốc Hội trước khi đi Genève: giá nào cũng phải có hiệp ước Ho`a Bi`nh. Nếu Mendes France trở về Pháp tay không thi` nội các của ông phải cuốn gói ra đi. Yếu tố Việt Nam đối Với Mỹ quan trọng là vi` phong trào phản chiến ngày càng ồn ào chia rẽ nước Mỹ, Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ Mỹ muốn giữ ghế phải chạy theo sự đo`i hỏi của cử tri. Người Mỹ không muốn đưa con cái mi`nh đi ti`m cái chế ở Việt Nam nữa. Nếu có một chính quyền mạnh ỏ Miền Nam Việt Nam, nếu tập thể quân đội kiên cường anh dũng có được Tướng La~nh chỉ huy xứng đáng, thi` Việt Nam Cộng Ho`a hùng mạnh sẽ giúp chính quyền Mỹ mạnh dạn giải thích với nhân dân của họ, thi` bọn phản chiến khó sách động quần chúng.

    ?ổ hết tội lỗi cho đồng minh Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Ho`a cũng đúng, nhưng ta nên xét lại mi`nh đa~ góp đủ phần để cho phép Mỹ giúp ta hết ti`nh chưa? Cái khó là làm cho quyền lợi của mi`nh phù hợp song song với quyền lợi của Mỹ trong giai đoạn đó. Vấn đề là nếu ta có đủ sức mạnh để đương đầu và có đủ khả năng thúc đẩy toàn dân đoàn kết thi` thời cuộc có thể chuyển hướng ngược vo`ng, phần lợi về ta. Chính sách của Mỹ thay đổi tùy thuộc nhiều yếu tố ngoại lại, giải pháp nào có lợi cho nước Mỹ thi` họ chọn.

    Theo chủ quan của Trung Tướng ?ỗ Cao Trí thi` ông có thể tạo được sự đoàn kết trong quân đội và cũng theo chủ quan của tôi thi` đông đảo bạn bè có thừa khả năng đặt nhiều kế hoạch kích thích toàn dân tham gia xây dựng kinh tế, thực hiện công bằng xa~ hội, phá vỡ môi trường hoạt động và tuyên truyền của cộng sản. Chúng tôi bàn thảo sâu rộng, đắn đo cũng nhiều. Cuối cùng quyết định thực hiện kế hoạch thay Tổng Thống Thiệu. Tướng ?ỗ Cao Trí âm thầm và khéo léo chuẩn bị hành động, nhưng dường như Nguyễn Văn Thiệu đánh hơi thấy một điều gi` đó, tôi chưa biết ro~ nhưng tôi có linh cảm như thế.

    Rồi có một ngày Trung Tướng Trí có vẻ lo ngại vừa thông báo vừa hỏi y' tôi về đề nghị của cố vấn Mỹ, yêu cầu anh đưa trực thăng của mi`nh vào ba~i đáp của Mỹ để họ giữ an ninh giùm. Tôi hỏi ngược Tướng Trí: “Toa giữ an ninh cho cả một vùng III được mà giữ anh ninh cho một chiếc trực thăng của toa không được sao?” Liền sau đó, Trung Tướng Trí đổi hết phi đoàn trực thăng của ông thay bằng những bà con xa gần trong đó có Thiếu Tá ?ẳng vai chú của ?ỗ Cao Trí. Một tuần lễ sau Trí lại hỏi: “Mỹ bảo moa không chịu đưa trực thăng vào ba~i đậu cho nó giữ an ninh giùm mi`nh không chịu vậy thi` trước khi bay đưa cho tụi nó kiểm máy lại giùm, y' toa nghĩ sao?

    Bất cứ một người bi`nh thường nào cũng phải đánh hàng trăm dấu hỏi, trừ hai người chúng tôi mù mờ, u mê vi` y' trời xui khiến hay là số mạng của ?ỗ Cao Trí đến hồi sắp tận, chúng tôi đồng y' nghĩ rằng: Trực thăng do Mỹ sản xuất, thợ sửa máy bay của mi`nh do Mỹ huấn luyện, thi` bây giờ đưa trực thăng cho họ kiểm máy là hợp ly' và bi`nh thường. Hai ngày sau trực thăng nổ cháy. Toàn bộ phi hành đoàn theo Trung Tướng ?ỗ Cao Trí đều tử nạn.

    Khoảng 10 giờ trưa ngày hôm đó tôi đang làm việc tại Tổng Tham Mưu, ?ại Tá Trần Kim Hoa, Chánh Vo~ Pho`ng Phủ Thủ Tướng, hiện định cư ở Texas, điện thoại cho tôi báo tin nói: “Ông bạn của ông chết rồi” Tôi hỏi gặn: Ông bạn nào? Bên kia đầu dây trả lời ngắn gọn: “Thi` ông Trung Tướng Tư Lệnh bạn của ông đó”. Tôi đờ người bỏ ống nghe xuống, bước ra cửa về.

    Thông báo chính thức của chính phủ trên đài phát thanh và truyền hi`nh là trực thăng của vị Tư Lệnh Quân ?oàn III bị hỏa tiễn Việt Cộng bắn rơi. Ma~i về sau này, anh ruột của ?ỗ Cao Trí là nha sĩ ?ỗ Cao Minh, hiện định cư tại Pháp, to nhỏ cho tôi biết về một lời tâm sự của ?ại Tá Chiêm, đàn em của Tướng Trí, Phụ trách ban anh ninh phủ Tổng Thống tường thuật với ?ỗ Cao Minh như sau: Sáng hôm đó ky' giả tuần báo Newsweek, ông Francois Sully, diện kiến Tổng Thống Thiệu đúng 8 giờ, sau đó ky' giả nầy có hẹn với Trung Tướng ?ỗ Cao Trí lúc 9 giờ để tháp tùng đi thi sát mặt trận Campuchia. Theo thông lệ mọi người vào diện kiến các cấp la~nh đạo cũng phải để xách tay lại văn pho`ng bí thư hay tùy viên. Francois Sully gia~ từ Tổng Thống xách cặp của ông ra đi. Không hiểu giữa thời gian đó, có ai bỏ bom nổ chậm trong cặp không?

    Ai giết Trung Tướng ?ổ Cao Trí? Việt Cộng chăng? Người Mỹ chăng? Tổng Thống Thiệu chăng? Cho tới nay, chưa có một cuộc điều tra nào khả dĩ khẳng định chính xác nguyên nhân cái chết của Tướng ?ỗ Cao Trí. Tôi nghĩ chỉ có Thượng ?ế mới trả lời được thắc mắc tại sao chiếc trực thăng của Tướng Trí lâm nạn mà thôi.

    Võ Long Triều
    Trích Hồi Ký Võ Long Triều - Tập II- 8
    Việt Nam on line
    Ngày 21 tháng 10 năm 2007
    Last edited by alamit; 05-10-2012 at 06:29 AM.

  5. #45
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Đỗ Cao Trí - Danh Tướng - Chiến Tuớng
    Nhân chứng cái chết của Tướng Đổ Cao Trí

    Posted on November 30, 2011

    (Trung Tướng Đổ Cao Trí QL VNCH)

    John Paul Vann dám bẻ gảy kế hoặch không cho Hà-Nội chiếm Tỉnh Kuntom làm Thủ đô cho MTGPMN để có tiếng nói trong Ḥa-đàm Paris-1973, dù rằng CSBV đă có 3 Sư-đoàn bao vây không kể pháo binh diện điạ và pḥng không, cùng 3 Tiễu đoàn chiến xa PT-76, T-54 thuộc Trung Đoàn 203, trong ṿng 2 tháng, trong khi phi trường Kontum phải đóng v́ trận địa pháo và tiếp tế hoàn toàn bị cắt đứt. [John Paul Vann’s Mystenous Death – Institute of International studies globetrotter Berkeley edu/conversations/Sheehan-con4.html. Harry Kreisler interviews Neil Sheehan on covering the Vietnam War; November 1988]

    Ngày 14/5/1972 B-52 và KQVN Sư-đoàn-6 đă oanh liệt triệt tiêu lực lượng của 3 Sư-đoàn nầy loại ra khỏi ṿng chiến đấu khoảng 16.000 quân, thể theo sách A Better War, trang 337, hàng 34. Và lời nhận xét của Vann ca ngợi chỉ có Địa phương quân và Nghĩa quân mà đă chống giử Kontum một cách oanh liệt, tất cả Tăng T-54 đều bị triệt hạ xung quanh ṿng đai thị xả. Thật là một sự mầu nhiệm vô lư cần phải suy gẫm !? Các bạn là quân nhân có tin 3 sư-đoàn và 3 thiết-đoàn mà không chiếm được Kontum hay không? Mà chĩ có ĐPQ và Nghĩa quân trấn giữ, và chĩ có con đường độc đáo tiếp viện duy nhứt từ Pleiku tới ? Dưới đây là bút tích cũa John Paul Vann:
    “John Vann credited the Territorial Forces, not the Army, with much of what went right in MR-2. The RF and PF, in most places, have performed quite well and were a much more stabilizing force than the ARVN” Vann bị thanh toán là phải rồi v́ nói theo luật gian hồ là “phản đảng” hay nói theo tin huyền thoại th́ “Vann đả từng v́ nước quên ḿnh nhưng chuyện nầy có thể Vann v́ gái Việt mà bỏ mạng?

    Cũng như Tướng Westmoreland dám gợi ư tại Quốc-hội chiếm vùng hành quân Hạ-Lào nầy bằng cuộc Hành Quân Lam Sơn 689 [năm 68 trên đường 9] với lực lượng Mỹ cùng LLĐB/Biệt Kích Dù của VNCH vào những năm trước đó nên phăi bị cách chức Tư lệnh chiến trường tức khắt, lập lại sự việc đề nghị cũng y chang của Tướng Mc Arthur khi đề nghị với Quốc Hội đ̣i giải phóng lục địa Trung-Hoa, trong lúc Mỹ độc quyền nguyên tử. Nói tóm lại dù Mỹ hay Việt ai đụng đến Xa-lộ Harriman [đường ṃn HCM] đều bị thảm hại.
    Dưới đây nhân chứng ghi lại cái chết của tướng Đổ Cao Trí:
    CIA đả dùng quỹ kế chiếc C&C có trang bị đặc biệt để ám-sát Tướng Đổ Cao Trí hầu xoa dịu Liên Xô và Lê Đức Thọ, v́ vi phạm Rule Of Engagement (không được phá hủy kho vũ khí hậu trạm của Cục R (COSVN) để chiếm Saigon theo axiom-1: There was never a legitimate non-communist in Saigon) mà Thọ đả chuyển vận từ Hải-cảng Sihanouk Ville đến Cục R vào khoản 4000 lược xe Molotova, làm chết oan một phóng viên Francois Sully, người mà chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đả trục xuất v́ viết báo có lợi cho CS
    – Dưới đây là nhân chứng:

    Tôi là Cơ phi thuộc in Saigon. PĐ 221, ngày đó tôi đi gunship chung với tr/uư Thanh (tức Thanh hề và tr/uy Hiển (tức Hiển Mad).Chúng tôi theo hợp đoàn đáp xuống phi trường Tây Ninh East chờ lệnh, lúc đó Trung Tướng Đổ Cao Trí đang họp trong pḥng Hành Quân Chiến Thuật đặt tại phi trường TN East.Tôi có qua nói chuyên với Cơ Phi của chiếc UH biệt phái cho Trung Tướng vi cùng chung PĐ 221 cùng khoá 4/69 với tôi, khoảng chừng 20 phút th́ ông Đ/uư Thắng(không phải Đ/uư Thanh) có hỏi tôi chừng nào biệt phái về để đi chung với ông ấy(v́ ông là chú của tôi nên tôi gọi bâng chú không có gọi bằng cấp bậc) Dạ thưa chú tuần tới con về) luc đó tôi c̣n đứng đó thi nghe Đ/tá cố vấn Mỷ nói rằng chiếc trực thăng của Trung Tướng Radio Box không có gọi được nên đổi phi cơ qua chiếc C&C của My Radio tốt hơn ( Mổi chiếc tàu C&C đều có 1 Radio Box nằm ngay giửa sàn tàu).

    Lúc bấy giờ th́ chúng tôi đươc lệnh cất cánh trước theo hợp đoàn221 và 2 hợp đoan khác để đi qua Kampongcham, chúng tôi tới Thiện Ngôn th́ nghe trên tần số tât cả hợp đoàn quay về phi trường TN East chờ lệnh c̣n những gunship th́ có nhiệm vụ đi t́m chiếc trực thăng rớt, khi chúng tôi tới chổ khói bốc cháy th́ thấy chỉ c̣n có cái đuôi có chử US Army chúng tôi chỉ nghỉ là trực thăng của mỷ.

    Sau đó chúng tôi về đáp tại phi trường TN East, khi về đáp th́ chúng tôi vẩn thấy chiếc trực thăng của Trung Tướng vẫn c̣n đó (Sơn màu rằn ri) khoảng chừng 10-15 phút th́ ở trong pḥng hành quân cho hay là chiếc trực thăng của Trung Tướng Đỗ Cao Trí bị rớt làm tôi bật khóc, cách đây khoăng nửa tiếng tôi c̣n nói chuyện với chú tôi bây giờ ông đă ra đi.

    Đó là những ǵ tôi kể lại đây là lúc đó tôi hiện đang có mật tại đó và những phi hành đoàn đang đi hành quân chung.

    Quách thanh Ṭng
    Khoá 4/69 Co Khí Viên Phi Hành.
    Phi Đoàn 223, 221, 245, 251.
    KĐ43CT/SĐIIIKQ/BH.

  6. #46
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tuớng Dương Văn Minh

    Wikipedia

    Tiểu sử
    Biệt danh Big Minh, Minh Cồ
    Nơi sinh Mỹ Tho, Liên bang Đông Dương
    Nơi mất California, Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ
    Binh nghiệp
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Năm tại ngũ 1940-1975
    Cấp bậc Đại tướng
    Chỉ huy Quân đội Pháp
    Quân đội Quốc gia Việt Nam
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa



    Dương Văn Minh (16 tháng 2 năm1916 – 6 tháng 8 năm 2001), c̣n gọi là Minh Cồ hay Big Minh, là tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng ḥa.

    Dù làm tổng thống trong thời gian quá ngắn ngủi, vỏn vẹn 3 ngày (từ ngày 28 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975), nhưng ông được xem là có công chính cho Sài G̣n khỏi bị tàn phá bằng cách kêu gọi binh sĩ của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện thể theo yêu cầu của Quân giải phóng miền Nam khi họ bắt đầu tấn công vào thành phố này vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.[1] Tuy nhiên, điều này cũng c̣n gây nhiều tranh căi trong dư luận cả hai phía và cả trong giới sử học[cần dẫn nguồn].
    Tiểu sử

    Dương Văn Minh sinh năm 1916 tại Mỹ Tho (có tài liệu cho rằng nơi sinh có thể là Long An hoặc Vĩnh Long). Lúc nhỏ ông học trường Collège Chasseloup-Laubat (nay là trường THPT Lê Quư Đôn) ở Sài G̣n, đỗ Tú tài II chương tŕnh Pháp ban toán vào năm 1938 cùng một lớp với tướng Trần Văn Đôn (Quốc vương Norodom Sihanouk của Campuchia cũng từng là học sinh trường này).
    Tham gia quân đội Pháp

    Gia nhập quân đội Pháp năm 1940 với cấp bậc Aspirant tức Chuẩn úy sau khi tốt nghiệp Trường Hạ sĩ quan Thủ Dầu Một.

    Khi Nhật đảo chính Pháp, ông Minh đang phục vụ tại Cap St. Jacques và bị Nhật cầm tù năm 1945. Khi Pháp trở lại, ông bị Tây bắt cùng với ông Nguyễn Ngọc Thơ. Hai cái răng cửa của ông bị Tây đánh gẫy và nhiều năm sau này ông vẫn không trồng răng giả để giữ kỷ niệm về trận đ̣n của cảnh sát Pháp. V́ vậy trong quân đội c̣n gọi ông là "Minh Sún".

    Năm 1946, ông được thăng cấp thiếu úy, hai năm sau lên trung úy. Năm 1952 ông là đại úy tùy viên tại Phủ Thủ hiến Nam phần ; năm 1953-1954 là thiếu tá, rồi Trung tá Tham mưu trưởng Quân khu 1.

    Biệt danh "Minh Cồ" là do chiều cao 1,83 m của ông, dùng để phân biệt với "Minh Con" (hay Trần Văn Minh), người đă cùng tham gia cuộc đảo chính năm 1963. Báo chí Hoa Kỳ gọi ông là "Big Minh".
    Tham gia Quân lực Việt nam Cộng ḥa

    Năm 1955, khi Quân lực Việt Nam Cộng ḥa được thành lập, ông giữ chức Chỉ huy trưởng Phân khu Sài G̣n, sau được thăng Đại tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 8 cùng năm, ông được Ngô Đ́nh Diệm (lúc đó là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam) cử làm Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu, tiêu diệt lực lượng B́nh Xuyên. Với công tích này, ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông được thăng thiếu tướng. Sau khi hoàn tất việc dẹp B́nh Xuyên, ông Minh được cử giữ chức vụ tư lệnh Chiến dịch Nguyễn Huệ rồi tiếp đến Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu để b́nh định miền Tây, đánh quân Ḥa Hảo của tướng Ba Cụt.
    Tướng Dương Văn Minh, lúc là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng

    Tuy nhiên, ông nhanh chóng bị thất sủng v́ bị Ngô Đ́nh Diệm (lúc này là Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa) nghi ngờ. Năm 1956, ông giữ chức Tổng thư kư thường trực Bộ Quốc pḥng. Năm 1957, thăng trung tướng. Từ tháng 7 năm 1957 đến tháng 12 năm 1962, Tư lệnh Bộ Tư lệnh hành quân; từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 11 năm 1963, Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống. Cộng với mâu thuẫn tôn giáo (ông theo đạo Phật) với sự kiện Phật Đản, 1963 của chế độ Ngô Đ́nh Diệm, ông nảy sinh tâm lư chống lại chế độ này.
    Vai tṛ chính trong cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm

    Trong cuộc đảo chính chế độ Ngô Đ́nh Diệm (do Mỹ hậu thuẫn) ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đóng vai tṛ chính với cương vị Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, cùng với các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu... Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, tướng Nguyễn Khánh lật đổ chính quyền quân sự này và giành quyền cai trị miền Nam Việt Nam. Ông bị thất thế trong một thời gian ngắn, mặc dù vẫn được giữ chức Chủ tịch Hội đồng kiêm Quốc trưởng.Từ năm 1962 ,phía Bắc việt đă đưa em trai ông là tướng t́nh báo Dương Văn Nhật vào nam tiếp xúc với ông Minh để vận động ông theo về với Cách Mạng .Thông tin này đă có từ những ngày đầu Giải phóng,nhưng đến gần đây mới chính thức được công khai.[2]
    Những năm tháng thăng trầm

    Năm 1964, ông được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng đại tướng, nhưng ông không nhận. Tháng 12 năm đó, ông bị ép đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng ḥa tại Thái Lan cho đến năm 1968 mới được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hồi hương.
    Huy hiệu bông lan của Tổng thống Dương Văn Minh

    Năm 1971, ông trở lại chính trường để đối đầu với đương kim tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ ủng hộ, trong cuộc tranh cử tổng thống. Tuy được nhiều người cho rằng rất có thể ông là lănh đạo của "Lực lượng thứ ba", có thể nói chuyện ḥa b́nh với miền Bắc để tránh một chiến tranh lâu dài, nhưng nỗ lực của ông đă bị Nguyễn Văn Thiệu cản trở. Cuối cùng, ông đă rút ra khỏi cuộc tranh cử sau khi tuyên bố rằng cuộc bầu cử chỉ là tṛ múa rối. Nguyễn Văn Thiệu, do đó, đắc cử tổng thống mà không phải cạnh tranh với ai cả.
    Vai tṛ Tổng thống cuối cùng của Việt nam Cộng ḥa

    Tuy nhiên, với sự sụp đổ nhanh chóng của Việt Nam Cộng ḥa sau khi Mỹ rút quân, ông lại trở thành một nhân vật quan trọng cho chức vụ tổng thống. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu, rồi Trần Văn Hương từ chức, ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông chính thức nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa.

    Hai ngày sau (30 tháng 4), trong cương vị Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa, ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên đài phát thanh trước đại diện của Quân giải phóng miền Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng ḥa chính thức sụp đổ.
    Cuối đời

    Sau năm 1975 ông sống tại TP Hồ Chí Minh. Năm 1983, chính quyền Việt Nam cho phép ông được tự do định cư. Ông sang Pháp, nhưng sau đó lại chuyển sang California (Hoa Kỳ), sống với vợ chồng người con gái. Ông qua đời ngày 6 tháng 8 năm 2001 tại đó, thọ 86 tuổi.

  7. #47
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Dương Văn Minh, Công Và Tội




    Dương Văn Minh (1916-2001)

    Sau khi miền nam VN mất về tay Cộng Sản ngày 30-4-1975 nhiều người kết tội Dương Văn Minh đầu hàng giặc, dâng nước cho Bắc Việt, họ nói v́ ông mà miền Nam mất. Những người cảm t́nh với Dương Văn Minh nói ông có công cứu Sài G̣n và miền Nam Việt Nam thoát chết, “nếu ông không ra lệnh đầu hàng th́ nó pháo kích chết hết !!!” Sau khi ra Hải ngoại trả lời phỏng vấn báo chí ông nói : “Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.

    Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công, dù ông có hay không ra làm Tổng thống ‘hơn một ngày rưỡi’ th́ t́nh h́nh miền nam VN và Sài G̣n cũng vẫn y nguyên như thế. Hẳn mọi người đều biết, vào thời điểm ấy miền nam VN hầu như vô chính phủ, các vị Tổng thống, Thủ tướng, các vị Bốn sao , Ba sao, các ông lớn…đều đă “tẩu vi thượng sách”, Việt Cộng đang tiến quân vào.

    Ngược ḍng thời gian tháng 11-1972 khi sắp kư Hiệp định Paris Hoa kỳ đă vội vă cung cấp cho VNCH khoảng gần 600 máy bay các loại gồm : 200 máy bay phản lực chiến đấu, khoảng 340 trực thăng các loại và mấy chục máy bay vận tải, thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48, 286. (Theo Nixon, No More Vietnams, trang 170-171). Miền Bắc bị thiệt hại nặng sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, họ mất khoảng 100 ngàn quân, 700 xe tăng (Nguyễn đức Phương- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587), lại nữa cuối 1972, TT Nixon cho B-52 oanh tạc dữ dội Hà nội, Hải pḥng đánh phá tan nát bộ máy chiến tranh của Bắc Việt”( No More Vietnams. Trang 158). Sau ngày kư Hiệp định Paris 27-1-1973, VNCH yên tâm v́ tiềm năng quân sự miền Nam mạnh hơn miền Bắc.

    Tuy nhiên t́nh h́nh thay đổi rất nhanh, cán cân lực lượng hai miền đă đảo ngược từ 1974, CS quốc tế vẫn tiếp tục vẫn viện trợ quân sự đều đặn cho Hà Nội: Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006). Theo Kissinger, Hà nội đă xin được viện trợ của Xô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày kư Hiệp định Paris . Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ băi bỏ hạn chế trước đây. Xô Viết đă chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn (Years of Renewal trang 481)

    Trong khi đó miền nam bị Quốc hội Mỹ xiết cổ từ từ, Hạ Viện Mỹ 1972 Dân chủ chiếm đa số 242 ghế, Cộng Ḥa 192 ghế, họ chống đối chiến tranh VN rất mạnh, trước hết họ cắt giảm quân viện xương tủy mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống c̣n một tỷ tài khóa 1974 và xuống c̣n 700 triệu tài khoá 1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu v́ dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Ngày 15-8 -1973 ban hành luật của Quốc hội cắt bỏ tất cả các ngân khoản dùng trực tiếp gián tiếp cho các hoạt động quận sự Mỹ tại Đông Dương. Ngày 7-11-1973 Quốc Hội ban hành luật War Powers Resolution hạn chế quyền Tổng thống trong chiến tranh, Tổng thống muốn đem quân ra ngoại quốc phải đưa ra Quốc hội để trói tay hành pháp th́ số phận của VNCH coi như đă được quyết định rồi .
    Kỳ bầu cử Hạ viện Mỹ tháng 11-1974, Dân chủ chiếm đại đa số, tỷ lệ 66.9% Hạ viện với 291 ghế, Cộng Ḥa 144 ghế. Dân chủ chống chiến tranh Đông Dương quyết liệt, cắt bỏ bất cứ ngân khoản viện trợ nào giành cho Đông Dương. VNCH lâm vào t́nh trạng đen tối. Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho miền Nam ngày càng thiếu thốn tiếp liệu đạn dược. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực giảm trên 70%. Theo ông Cao Văn Viên nạn đào ngũ (Những ngày cuối VNCH trang 79) khiến cho quân số thiếu hụt. Hàng tháng lính đào ngũ trung b́nh lên tới 1,5 hay 2 phần trăm tổng số quân và như vậy hàng năm quân đội mất đi gần 1/4 quân số, hàng năm phải tuyển mộ từ 200 tới 240 ngàn người để thay thế số thương vong, đào ngũ nhưng trên thực tế không tuyển mộ được đủ số tân binh như phỏng định v́ nạn trốn quân dịch.

    Cuối 1974 đầu 1975 CSBV đánh chiếm Phươc Long để thăm ḍ Mỹ. Trước nguy cơ sụp đổ, TT Thiệu gửi thư cho TT Ford xin Viện trợ bổ túc 300 triệu. Tháng 3-1974 BV tấn công chiếm Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ bác bỏ khoản viện trợ cho miền Nam và không chuẩn chi cho năm tới 1976.

    T́nh h́nh quân sự ngày càng thê thảm, ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH, trang 92) cho biết vào tháng 2-75, đạn tồn kho chỉ c̣n đủ dùng khoảng 30 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày. Kể từ sau Hiệp định Paris VNCH không c̣n trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.

    Cuối tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT Thiệu đă khiến VNCH mất hai quân khu I và II, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và II trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng trừ bị.. vũ khí đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng quân.

    BV hối hả đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn 1) vào Nam, Hà Nội dùng mọi phương tiện không quân, hải quân, đường bộ để chuyển quân gấp rút vào Nam bao vây Saigon. Họ dốc toàn bộ lực lượng vào Nam Lực lượng tham chiến của BV vào khoảng gần 20 Sư đoàn (gồm 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232, sáu trung đoàn đặc công, 6 trung đoàn độc lập). Vũ khí đạn dược của BV gấp bội lần năm 1972.

    Trong thời gian này tại Hoa Thịnh Đốn Kissinger báo cáo trong phiên họp Nội các:

    “Toàn bộ lực lượng của QĐBV hiện đă vào nam, chỉ cần một Lữ đoàn TQLC là ta có thể chiếm hết miền Bắc, một sự vi phạm trắng trợn
    (Larry Berman, No Peace No Honor trang 266)

    Ông cũng nói “Chúng ta không c̣n tiền để chơi ván bài”, sự thật Hành pháp đă bị Quốc hội trói tay

    Ngày 10-4-1975 VNCH c̣n hy vọng vào viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT Ford đưa ra Quốc hội, ngày 18-4 ngân khoản này bị bác bỏ. Nhiều chính khách nhận định khoản viện trợ này nếu được chấp thuận cũng chỉ kéo dài thêm sự hấp hối của miền Nam mà thôi. Ngày 21-4-1975 TT Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên thay, mấy ngày sau ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm rời Sài G̣n ra đi hôm 24-4..
    Trở lại chuyện ông Dương văn Minh. Sải g̣n có nhiều tin đồn về việc ông Dương Văn Minh sắp lên làm Tổng Thống thay Trần Văn Hương.

    Cụ Hương lên thay ông Thiệu được bốn năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về hiện t́nh đất nước trên đài phát thanh Sài G̣n, giọng sướt mướt, vừa nói vừa khóc.

    “Thưa đồng bào, t́nh h́nh hiện nay vô cùng bi đát… Một vùng Hai miền Trung đă hoàn toàn tan ră, vùng Ba, vùng Bốn nay cũng đă bị nhiều sứt mẻ. Rồi mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi thủ đô Sài G̣n này sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đă nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và đă bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh t́m cái giải pháp hoà b́nh cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng th́ bàn giao làm ǵ. . hở trời!!. .

    Người dân vừa sợ vừa thông cảm cho cụ già v́ cụ quá thật thà, cụ đă đem hết mọi bí mật quốc gia nói huỵch toẹt trên đài phát thanh!! Thực ra nay cũng chẳng c̣n bí mật ǵ để giữ.

    Những lời đồn nay đă thành sự thật, ông Dương văn Minh sẽ lên làm Tổng thống. Theo lời kể của ông Nguyễn đ́nh Toàn trong bài “Đại Tướng Dương Văn Minh: Em Làm Chứng Cho Goa” (Người Việt Dallas, tháng 4-2011), ông Toàn và các ông Đỗ đ́nh Tứ, Nguyễn Văn B́nh đi thuyết phục Dương Văn Minh ra nhận nhiệm vụ, Đại tướng thất vọng nói:

    “Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói: “Em thấy đó, tối hổm Trung Tướng Đôn đă tŕnh bày cho chúng ta biết về t́nh h́nh quân đội, về khả năng tái phối trí của quân đội… quân của ḿnh hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, c̣n các kho vũ khí, súng đạn của ḿnh trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không c̣n kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Sàig̣n, hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ quyền tối thiểu của ḿnh cũng không c̣n, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra vào tự do, muốn đưa ai đi th́ đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh ḿnh có chặn lại cũng bị MP và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi… T́nh h́nh như vậy em bảo làm sao mà ” Goa ” dám nhận nữa? Vậy em nghĩ sao?”

    Ông Toàn và mấy người bạn nói

    “Nếu Đại Tướng thương nước thương dân th́ Đại Tướng phải biết hy sinh chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói t́nh h́nh nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như vậy mà Đại Tướng không nhận nữa… th́ Đại Tướng đâu có thương dân thương nước,
    Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nh́n thẳng vào tôi và nói:

    “Bây giờ em nói sao? Em nói “Goa” phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một ḿnh sao?”

    Nghe lời thuyết phục của ông Toàn, về sau Đại Tướng Minh nhận ra trách nhiệm cứu nước.

    T́nh h́nh quân sự khi ấy vô cùng nguy khốn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn Ba VNCH tổ chức pḥng thủ Sài G̣n trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly của BV.

    Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi. Tuyến B́nh Dương ở phía Bắc. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc. Tuyến Vũng Tầu và Quốc lộ 15 phía Đông. Tuyến Long An phía Nam . Lực lượng mỗi tuyến chưa tới một Sư đoàn trong khi VNCH gần hết đạn phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp năm, sáu lần với hỏa lực áp đảo.

    Chiều ngày 28-4 Đại Tướng Dương Văn Minh lên nhậm chức Tổng Thống do Cụ Trần Văn Hương trao lại. Ông đọc diễn từ ngỏ lời cùng đồng bào, một lúc sau năm máy bay CS ném bom phi trường Tân Sơn Nhât gây kinh hoàng cho cả thành phố Sài G̣n.
    Đúng bẩy giờ đài BBC đọc bản tin tóm tắt về t́nh h́nh Việt Nam

    “- Hôm nay tại Sài G̣n ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.

    -Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.

    -Nhiều loạt súng nổ tại Sài G̣n không biết thuộc phe nào.”

    Qua phần b́nh luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao chức vụ Tổng thống tại Dinh Độc lập chứng tỏ cho thấy sự tan ră của chính quyền Sài G̣n.
    Sáng ngày 29-4 Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc Văn thư của Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tùy viên quân sự DAO phải rút lui trong ṿng 24 giờ đồng hồ. Ngay sau đó đoàn trực thăng gồm 80 chiếc từ hạm đội vào phi trường Tân Sơn Nhất và ṭa Đại Sứ Mỹ để di tản 1,000 người Mỹ và 6,000 người Việt ra ngoài hạm đội sau 19 giờ bay liên tục.

    Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi các lực lượng Quân đội VNCH trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.

    “Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hăy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”

    Các Tướng Tư lệnh Lư Ṭng Bá, Lê Minh Đảo, Lê Nguyên Vỹ, Trần Quang Khôi… đă chiến đấu rất anh dũng trong những giờ phút cuối cùng nhưng không cứu văn nổi t́nh thế. Cộng quân đă phá vỡ các pḥng tuyến VNCH và tiến vào Thủ đô Sài G̣n. Lúc 10 giờ rưỡi sáng 30-4-75, ông Dương Văn Minh kêu gọi các cấp quân đội giao nạp vũ khí cho Quân đội Cộng Ḥa miền nam VN nơi gần nhất để tránh đổ máu vô ích. Lúc 12 giờ trưa, Quân dội BV tràn vào dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng không điều kiện.

    Tính ra ông Dương Văn Minh làm Tổng thống từ chiều tối ngày 28 -4 cho tới 12 giờ trưa 30-4 th́ chỉ được có hơn một ngày rưỡi, chưa tới hai ngày. Nhiều người trách ông không rút về Quân khu Bốn tiếp tục chiến đấu nhưng vấn đề không đơn giản, nếu làm được th́ người ta đă làm rồi. Khi ông vừa lên nhậm chức th́ CSBV tấn công hối hả, ông chưa kịp trở tay th́ đă bị địch sông vào dinh Độc lập thộp cổ rồi. Vấn đề rút về Quân khu Bốn không đơn giản, đạn dược c̣n bao nhiêu? tinh thần c̣n bao nhiêu? chiến đấu được bao lâu? Cầm chắc cái thua trong tay rồi chết thêm có lợi ích ǵ không?

    Tác giả Vũ Ánh trong bài: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, đăng trên trang mạng Nguoivietboston tháng 4-2012 đă tiếp xúc với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền khi ông tới đài Truyền h́nh Sài g̣n chiều tối 28-4-1975. Cụ Phó cho biết đă nhịn nhục vào Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn CS chỉ để yêu cầu họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài G̣n, chết người thêm vô ích. Cụ nói khi ông Thiệu bỏ đi ai cũng biết t́nh h́nh cuối cùng sẽ bi đát như hiện nay, cụ ra nhận trách nhiệm khi biết rơ không c̣n phương cách nào có thể cứu văn được. Trước khi cụ quyết định nhiều người ngăn cản đừng dại ǵ làm việc trong hoàn cảnh này nhưng là kẻ sĩ th́ không thể thiếu trách nhiệm được, thời b́nh th́ xe ngựa xênh xang, khi đất nước tan hoang th́ bỏ trốn.
    Nhiều người trách ông Dương văn Minh đầu hàng giặc, nhưng nếu ông không ra cứu nước th́ t́nh h́nh cũng không khác ǵ hơn. Chiều 28-4 các vị Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân đoàn Ba đă “tẩu vi thượng sách”. Cụ Hương biết làm ǵ hơn? cụ cũng sẽ lên đài phát thanh than thở, khóc lóc cùng đồng bào và Cộng quân cũng sẽ tiến vào dinh Độc Lập bắt tuyên bố đấu hàng, hoặc một người thay mặt cụ tuyên bố hàng. Ông Dương Văn Minh chẳng có tội ǵ với đất nước.

    Nhiều người khen ông Minh có công cứu nguy Sài g̣n, nếu ông không lên làm Tổng thống và nếu không kêu gọi đầu hàng th́ Việt Cộng đă pháo kích chết hết, thành phố tan nát. Như đă nói ở trên Tướng Toàn thành lập năm tuyến pḥng thủ Sài G̣n cách trung tâm thành phố 27 cây số, bằng tầm pháo cùa đại bác 130 ly của quân thù.
    Tại trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975, Cộng quân không đánh theo lối bóc vỏ mà đánh chiếm thị xă trước rồi từ đó mới đánh ra các quận bên ngoài. Khi đánh Sài G̣n th́ ngược lại, họ đánh theo lối bóc vỏ, tấn công phá sập các tuyến pḥng thủ bên ngoài rồi mới tiến vào trung tâm thành phố. Mà thực ra sau khi ṿng đai bảo vệ Sài G̣n sụp đổ th́ các ổ kháng cự bên trong thành phố không c̣n bao nhiêu, VC chẳng cần phải pháo kích cho tốn đạn, ông Dương Văn Minh cũng chẳng có công trạng ǵ.



    © Trọng Đạt

    © Đàn Chim Việt

  8. #48
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    THƯ CỦA ĐẠI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH GỬI CHO TƯỚNG NGUYỄN CHÁNH THI
    GIẢI THÍCH V̀ SAO ÔNG KHÔNG TỰ SÁT TRONG NGÀY 30/4/1975...


    Phamvietdao.net: Lịch sử của một dân tộc là “ tấm thảm “ dệt lên từ xương máu, số phận của hàng triệu sinh linh của dân tộc đó; khi đề cập tới một giai đoạn lịch sử đă qua thật là tàn nhẫn vô luân khi nhà chép sử chỉ viết và mô tả những ǵ mà ḿnh muốn muốn thấy, muốn tô, muốn vẽ theo quan điểm chính trị của ḿnh...
    Nhân có loạt bài về chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm, về khái niệm nhân dân Phamvietdao.net xin công bố bức thư của Đại tướng Dương Văn Minh gửi cho Tướng Nguyễn Chánh Thi, bức thư này được một nguồn tài liệu cung cấp; cả 2 tướng này đă từng tổ chức đảo chính lật đổ chế độ độc tài gia đ́nh trị Ngô Đ́nh Diệm...Ông Dương Văn Minh đă thành công c̣n Tướng Nguyễn Chánh thi th́ đă thất bại và cam chịu cuộc sống lưu vong...
    Về Đại tướng Dương Văn Minh, báo chí chính thống Việt Nam đă nhắc nhiều về quyết định lịch sử của ông trong ngày 30/4/1975: Tuyến bố và ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng, không tiếp tục hô hào tử thủ...V́ quyết định lịch sử đó, nên khi ông sang Pháp sống cuộc đời của một người Việt lưu vong, ông không khỏi có lúc đă bị “mắc kẹt” với những người từng có nhiều duyên nợ với chính quyền Việt Nam cộng ḥa...
    Đăng bức thư của Đại tướng Dương Văn Minh để chúng ta biết thêm của số phận của một con dân của đất Việt, một con người từng lên đến chức Đại tướng, từng có thời làm đến chức Tổng thống của một chính phủ, được ghi vào sử sách nhưng cuối đời đành phải chấp nhận kiếp sống lưu vong, “ sống nhờ đất khách, chết chôn quê người “; nỗi khát khao khắc khoảy được làm một con dân Việt Nam b́nh thường mà vẫn không thể nào được toại nguyện...
    Phamvietdao.net sẵn sàng công bố những thư từ, nhật kư, tâm nguyện... của những người con đất Việt tha phương, thổ lộ thân phận của ḿnh, nhất là đối với những người từng một thời gắn bó sâu nặng với chính quyền Việt Nam Cộng ḥa hiện nay đang bị mắc kẹt hay tha phương khắp bồn phương trời...
    Hy vọng với bộ sưu tập này, Phamvietdao.net sẽ góp phần giúp hậu thể hiểu được đúng bản chất sắc màu gốc của giai đoạn lịch sử cận đại đau thường của dân tộc Việt Nam ta; bởi phần lớn những nhân chứng lịch sử, những người trong cuộc vẫn đang c̣n tản mác đâu đó khắp bốn phương trời, song lại chưa có ư thức lên tiếng và ghi nhận lại...

    THƯ CỦA ĐẠI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH GỬI TƯỚNG NGUYỄN CHÁNH THI

    France, Ngày 15-4-87

    Thi


    Được tin Thi, tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi c̣n lưu lại rất nhiều kỷ niệm. Từ khi tôi dến nước Pháp tới nay, lật bật đă gần 6 năm rồi, sống với cuộc đời réfugié ( lưu vong ) tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát đuơc chế độ với hai bàn tay không. Pháp chẳng giúp đỡ ǵ. Ḿnh sống trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên. Nghe tin Thi kể truyện an em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó, tôi bị đầy ở Bangkok, cho nên có nhiều việc tôi không rơ biết. Anh em có đọc sách Đỗ Mậu kể truyện lại cho tôi nghe, tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể truyện lại như vậy là rất can đảm. Lên án Công Giáo và Cần Lao đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu cũng trách tôi sao không biết tự tử như các bậc tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là vấn đề quan niệm mà thôi.Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng đúng. Đôi khi ḿnh phải dám sống để hứng nhận những hậu quả do sự quyết định của ḿnh gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu và (cũng như nhiều người) không rơ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đă tham khảo ư kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ c̣n lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ phút chót, với các bậc thầy, trong đó có thầy Trí Quang và Trí Thủ đă khuyên tôi nhiều nhất để cứu dân.
    Riêng tôi, tôi không tự tử không phải v́ thiếu can đảm, nhưng v́ những lư do rất đơn sơ.Tôi không thể tự sát, v́ thân thể ḿnh do Trời Đất ( Ân Trên) kết tạo, cha mẹ sinh dưỡng, ḿnh không có quyền quyên sinh. Ḿnh có quyền hy sinh tên tuổi, uy tín tài sản, công nghiệp . v.v .
    Tóm tắt, ḿnh chỉ hy sinh những ǵ ḿnh tạo ra mà thôi. Đây là một lư thuyết tôi đă hấp thụ từ khi tôi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi, cũng như tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, v́ lúc nào tôi củng coi Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi..


    Tướng Nguyễn Chánh Thi...

    Tôi đă dám làm th́ tôi cũng dám chấp nhận những búa ŕu dư luận bất cứ từ đâu tới.. Không có ǵ thắc mắc cả; và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi.. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần th́ có ngày xum họp trên quê cha đất tổ.Tôi đă nói nhiều quá! Lúc nào cũng nhớ anh em, nhờ Thi gửi lời thăm tất cả. Tôi không mong ǵ hơn, được gặp lại các bạn.

    Thân mến

    DƯƠNG VĂN MINH10-bis, Boulevard du Téméraire9130 Montherey . France

  9. #49
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh
    Tài liệu mật của CSVN






    + Thân thế và gia đ́nh



    - Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Thọ Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm)


    Ông Dương Văn Huề (gốc Hoa) và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gáị Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân VN . Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.


    Gia đ́nh ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.


    - Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.



    Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đ́nh ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa t́m được đơn vị th́ bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp.


    Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường vơ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “VNCH”.



    Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương ngườị Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn th́ ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị t́nh nghi hoạt động cho “VC” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn d́ ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù...



    - Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30.4.1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dàỵ Có lúc lănh đạo Thành phố (đồng chí Vơ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ư khéo là đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lư do: “Các anh các chị sống được th́ tôi cũng sống được nếu chưa quen th́ phải tập lại cho quen”.


    Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lănh sự Pháp ở Saigon đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lư nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đă có Chính phủ VN lo rồi”.


    Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả ǵ Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xă hội Pháp.



    + Quá tŕnh binh địch vận đối với Tướng Dương Văn Minh



    Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, T́nh báo, An ninh T4 (Saigon - Gia Định), Trí vận...



    1. Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam



    Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Vơ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN đề nghị và được cấp trên đồng ư điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Tỵ


    Cuối tháng 12.1960, đồng chí Mười Ty lên đường.



    Tháng 8.1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đ́nh, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và t́m hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Saigon và em thứ tám là Dương Thu Vân.



    Thấy t́nh h́nh thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ư kiến của lănh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đ́nh Diệm độc tài, gia đ́nh trị, phủ nhận công lao của ḿnh (tảo thanh B́nh Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ t́m cách làm.



    Ngày 01.01.1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và lên làm Quốc trưởng VNCH lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ư định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.



    Sau cuộc đảo chính Ngô Đ́nh Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay th́ hết tranh căi về điều này, nhưng vẫn c̣n cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.



    Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:



    + Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh v́ sao làm thế? Ông trả lời, đại ư: Người VN có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đă gắn bó đời ḿnh và mồ mả ông chạ Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, v́ lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của ḿnh.



    + Bộ trưởng quốc pḥng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói... Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.

    Tháng 1.1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.



    + Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ư muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt ḥa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.

    - Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ư đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01.1964, chính quyền Mỹ đă đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Ḥa VN bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay CS”.


    Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Saigon phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.



    Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp.


    Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ư chờ tin của Mười Tỵ Nhưng v́ bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.



    Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, th́ Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ư kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ư kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành
    phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử th́ ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lư ǵ, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không c̣n lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn...



    Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Vơ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được...”



    Cuối năm 1970,... theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục t́m một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy tṛ có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.



    Tháng 3 và 4.1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ư ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống th́ t́m cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.


    Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28.4.1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Saigon gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đă góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Saigon “án binh bất động”, tan ră tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.



    2. Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”



    Tháng 9.1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Saigon - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”... (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư kư ṭa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc...).



    Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban Anninh T4, chỉ đạo A10 t́m cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệụ



    Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đ̣i Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).



    Ngày 01.3 và cuối tháng 3.1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề...) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “...Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.



    3. Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh



    Cụm điệp báo VĐ2 thuộc pḥng t́nh báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Saigon. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28.4.1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở t́nh báo) hẻm đường Triệu Đà, Saigon, để báo ư kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn t́m gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam để xin ư kiến xử trí t́nh h́nh Saigon. Đồng chí Sáu Trí phân tích t́nh h́nh và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ư kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh - Nguyễn Văn Huyền - Vũ Văn Mẫu.



    4. Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị



    Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7.1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng ḥa b́nh, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.



    Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí QuốcHương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đă chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba. Trên thực tế th́ lực lượng ta đă h́nh thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6.1969 với mục tiêu là: đ̣i các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ ḥa giảidân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luâ.tsư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02.1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đ̣i thi hành hiệp định Paris”, xác định ḿnh là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đ̣i thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.



    Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, kư giả, tướng lĩnh[1]. Hằng tuần, nhóm họp bàn về t́nh h́nh thời sự chính trị (lúc t́nh h́nh sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn pḥng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.



    -Theo ông Lư Quư Chung (Hồi kư), tuần lễ đầu tháng 4.1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đă họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ư định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.



    5. Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Saigon


    Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi h́nh hiệp định Paris, ḥa b́nh, chấm dứt chiến tranh, đ̣i dân chủ, cải thiện dân sinh... các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 kư giả Saigon ngày 10.10.1974, ngày “kư giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đă có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20.4.1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh... đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi hành hiệp định Paris, đ̣i ḥa b́nh, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT..., là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.


    + Mỹ, Pháp với tướng Dương Văn Minh


    * Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng ḥa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lănh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chốị Đại sứ Mỹ Bunker c̣n trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa pḥng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa).
    Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ c̣n Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ.


    - Thiệụ


    Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đă bị nhân dân và báo chí Saigon đấu tranh đ̣i Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương tŕ hoăn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, măi đến ngày 26.4.1975, lưỡng viện Saigon đă bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống VN Cộng ḥa với 147.151 phiếụ



    * Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28.4.1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam) gợi ư Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam .



    Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lư Quư Chung, sáng ngày 30.4.1975, tướng t́nh báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ư ông Minh nên kêu gọi Tàu can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay CS Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đă từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đă quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Tàu”.



    + Tướng Dương Văn MInh với 3 ngày làm tổng thống



    15 giờ chiều ngày 28.4.1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.



    Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.



    Về Bộ quốc pḥng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ trưởng. (Theo ông Lư Quư Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc pḥng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).



    17 giờ ngày 28.4.1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.



    Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi kư), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề pḥng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).



    Đêm 28.4, Tướng Dương Văn Minh và gia đ́nh dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).


    Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi kư), đêm 28.4.1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đ́nh bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên ḷng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo th́ có thể ra đị Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Saigon, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.



    Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh Saigon trưa ngày 30.4.1975



    + Ngày 29.4.1975



    Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi VN trong ṿng 24 giờ để giải quyết ḥa b́nh ở VN.



    Đến 16 giờ chiều ngày 29.4, đă thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đă tan ră (trừ bộ phận biệt phái).



    Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29.4.1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đă ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.



    Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Vơ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đă thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, v́ đă thông báo cho bên trong biết “Saigon không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đă chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29.4.1975).



    Từ chiều và tối ngày 29.4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngỏ”, đầu hàng. Như ông Lư Quư Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “c̣n chờ
    ǵ nữa mà không đầu hàng”[2].



    + Ngày 30.4.1975



    - 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đă chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ t́nh h́nh quân sư.. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn.



    Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.



    - 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.



    Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ư có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh nàỵy. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.


    - 9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Ḥa ngưng nổ súng, và ở đâu th́ ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam VN để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong ṿng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.


    Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.



    Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đă xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở th́ tùy”.



    - 11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.



    Buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập tối ngày 2.5.1975


    + Kết luận


    1. Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu c̣n mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có ḥa b́nh, độc lập và ḥa hợp dân tộc.



    2. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lư Quư Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ư để thương thuyết với cách mạng v́ đă thấy không c̣n khả năng thương thuyết; cũng không có ư để tiếp tục chiến tranh v́ lâu nay ông Minh chủ trương hoà b́nh, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rơ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức th́ ngày 29.4.1975, đă ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..


    3. Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Saigon - Gia Định đă tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng t́nh, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đă quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30.4.1975 là hành động thức thời, làm giảm ư chí đề kháng của đại bộ phận
    quân đội Saigon vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Saigon c̣n nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xă khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rơ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai tṛ quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đă góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Saigon và nhiều đô thị c̣n nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.



    Chú thích :
    (1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - xă hội - thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa Miền Nam .



    (2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản Saigon tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “VNCH”.



    (3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.



    (4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà

  10. #50
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    LỜI PHÂN TRẦN CỦA TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỀ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975

    TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG

    Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đă trôi qua được trên 31 năm. Thường th́ thời gian là yếu tố xóa nḥa mọi nỗi đau của quá khứ, nhưng đối với đa số người miền Nam, vết đau 30 tháng 4 c̣n tươi rói v́ những đau đớn, mất mát xảy ra cho họ và gia đ́nh do Cộng sản gây ra sau ngày 30 tháng 4. Hàng ngàn người bỏ ḿnh trong những trại tù cải tạo độc ác, tàn bạo của Cộng sản, hàng trăm ngàn người bỏ ḿnh trên biển cả khi vượt biển t́m tự do. Nghĩ đến ngày 30 tháng 4, đa số người dân miền Nam oán trách Đại tướng Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng để đưa đến cảnh ' nước mất nhà tan " sau này. Từ trước đến nay đă có nhiều dư luận phê phán chuyện đầu hàng ô nhục của tướng Minh nhưng tâm tư và suy nghĩ của tướng Minh khi quyết định đầu hàng Cộng sản là chuyện không ai suy đoán nổi. Ông Minh không viết sách và tránh trả lời phỏng vấn nên khó ai đoán biết tâm tư , suy nghĩ của ông khi đầu hàng như thế nào. Sau này mới biết tướng Minh đă bộc bạch tâm tư suy nghĩ của ông về quyết định đầu hàng trong biến cố 30 tháng 4 trong một lá thư gửi cho một người đàn em cũ là Trung tướng Nguyễn chánh Thi vào năm 1987 khi tướng Minh ở Pháp. Xin cám ơn Trung tướng Thi đă cho phép người viết bài này công bố bức thư của tướng Minh để soi sáng phần nào lịch sử Việt Nam cận đại.

    Đại tướng Dương văn Minh nhậm chức Tổng thống do Tổng thống Trần văn Hương trao lại chỉ vài ngày trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.( Dương văn Minh nhậm chức tổng thống vào ngày 27 tháng 4 năm 1975..Bởi vậy người ta thường gọi Dương văn Minh là tổng thống 3 ngày ). Buổi chiều nhậm chức tổng thống trong dinh Độc lập th́ trời u ám và có mưa.. Phóng viên Nguyễn mạnh Tiến ( hiện nay đang làm ở Đài Á châu tự do) lúc ấy đang làm cho Đài phát thanh Sài G̣n, đă tường thuật buổi lễ nhậm chức này. Phóng viên Tiến đă bắt đầu bài phóng sự tường tŕnh bằng câu nói " Buổi lễ nhậm chức tổng thống xảy ra vào buổi chiều trong dinh Độc lập trong khi bên ngoài trời mưa u ám như t́nh thế đất nước hiện nay.." Trực giác cảm nhận của Phóng viên Tiến thật chính xác v́ chỉ vài ngày sau, miền Nam rơi vào tay Cộng sản để rồi đưa đến bao tang tóc, mất mát cho dân chúng miền Nam.

    Toàn bộ bức thư của tướng Dương văn Minh viết cho tướng Nguyễn chánh Thi có nội dung như sau:

    15-4-87
    " Thi,
    Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi c̣n lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
    Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đă gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không _ Pháp chẳng giúp đỡ ǵ _ ḿnh sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
    Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rơ hết.
    Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
    Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi ḿnh phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của ḿnh gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu ( cũng như nhiều người ) không rơ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đă tham khảo ư kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ c̣n lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đă nói và đă nhắn nhủ để cứu dân.
    Riêng tôi, tôi không tự tử không phải v́ thiếu can đảm, nhưng v́ những lư do rất đơn sơ:
    _ Tôi không tự sát v́ thân thể ḿnh do Trời Đất ( Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, ḿnh không có quyền hy sinh.
    _ Ḿnh có quyền hy sinh: tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v..v Tóm tắt ḿnh chỉ có quyền hy sinh những ǵ ḿnh tạo ra mà thôi.
    Đây là một lư thuyết tôi đă hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, v́ lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đă dám làm th́ tôi cũng dám chấp nhận những búa ŕu bất cứ từ đâu tới. Không có ǵ thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần th́ có ngày sum họp trên quê cha đất tổ.
    Tôi đă nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong ǵ hơn được gặp lại các bạn.
    Thân mến
    Dương văn Minh

    Đọc những lời phân trần trên của tướng Minh cho thấy những ảnh hưởng đến từ bên ngoài về quyết định đầu hàng Cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông cũng biện bạch cho quyết định không tự tử của ông sau khi đầu hàng. Thật ra những người đặt vấn đề tướng Minh nên tự tử v́ nh́n gương của những bậc tiền bối như cụ Phan thanh Giản đă uống thuốc độc tự tử khi phải giao mấy tỉnh ở miền Nam cho Pháp và quan Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tự tử khi thành Hà Nội mất vào tay quân Pháp. Sau này nh́n những tấm gương tử tiết của 5 vị tướng Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Hưng, Nguyễn khoa Nam người ta lại tiếc cho tướng Dương văn Minh đă không tử tiết để nêu gương anh dũng cho ngàn sau. Dĩ nhiên quyết định t́m đến cái chết không phải lúc nào cũng là một quyết định dễ dàng trong bất kỳ t́nh huống nào của cuộc sống. Tướng Minh đă biện luận cho quyết định không tự sát để duy tŕ mạng sống của ông v́ lề lối suy nghĩ của ông và ông cho biết là ông sẵn sàng nhận chịu mọi sự phê phán của thế gian. Tướng Minh đă qua đời cách đây mấy năm ở California, Hoa Kỳ, Tổng thống Thiệu cũng qua đời ở Boston, Hoa Kỳ không lâu sau khi ông Minh từ trần.

    Phải nói rằng khi Tổng thống Nguyễn văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975 th́ t́nh h́nh miền Nam đă đi tới giai đoạn hết thuốc chữa. Quyết định không viện trợ khẩn cấp 300 triệu của Quốc Hội Mỹ coi như cái chết của miền Nam chỉ c̣n là vấn đề thời gian. Sau này có nhiều dư luận đặt vấn đề là tại sao Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không bán đi 16 tấn vàng để lấy tiền mua vũ khí cho quân đội miền Nam tiếp tục chiến đấu. Dĩ nhiên Tổng thống Thiệu không phải ngu dại ǵ mà không biết đến điều ấy nhưng phải thấy rằng chuyện giật sập miền Nam năm 1975 là quyết định của Mỹ và chắc chắn Mỹ sẽ không dễ dàng cho phép ông Thiệu bán vàng để mua vũ khí bảo vệ miền Nam. Số vàng 16 tấn này sau này lọt vào tay Cộng sản sau 1975 và theo sự tiết lộ của Bùi Tín th́ số vàng này cũng dần dần bị tẩu tán bởi những tay lănh đạo tham ô ở miền Bắc.

    Phải nói là ở thời điểm kư Hiệp định Paris năm 1973, chắc chắn ở cương vị lănh đạo, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cũng nh́n thấy rơ sự rút lui chạy làng của người đồng minh Hoa Kỳ.. Đáng lư ra ông Thiệu phải lo xây dựng chiến khu ở miền Tây để pḥng sau này Sài g̣n có bị mất th́ ông sẽ về miền Tây lănh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng ông Thiệu không phải là người lănh đạo yêu nước, thương dân. Ông chỉ quan tâm nhiều đến mạng sống và của cải của ông và gia đ́nh. Ông tiếp tục bám víu quyền lực ngày nào c̣n viện trợ Mỹ, nghĩa là ngày nào c̣n xôi thịt. Cuộc bầu cử độc diễn năm 1971 cho thấy ông Thiệu dùng mọi thủ đoạn xấu xa, bẩn thỉu để duy tŕ quyền lực. Đến khi đất nước lâm nguy, Mỹ cúp viện trợ th́ lúc ấy ông mới từ chức và t́nh chuyện " được làm vua, thua chạy trước ". Tội làm mất miền Nam là của Tổng thống mặt trơ trán bóng vô liêm sỉ Nguyễn văn Thiệu chứ nhất định không phải là tội của tướng Dương văn Minh.

    Một điều nữa cũng nên nói ra ở đây là trong những ngày hấp hối của miền Nam, có một chuyện lạ kỳ là Trung Cộng đă t́m cách liên lạc với chính phủ Dương văn Minh với ư định muốn viện trợ cho miền Nam chống lại sự tấn công của Cộng sản miền Bắc. Trong một cuộc nói chuyện thân mật với anh em sinh viên ở Pháp sau khi định cư ở Pháp , tướng Dương văn Minh có kể lại chuyện này và cho biết ông từ chối đề nghị giúp đỡ của Trung Cộng v́ nghĩ rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Ông Minh cho rằng chuyện nhận viện trợ của Trung Cộng là một chuyện làm không có lợi cho đất nước Việt Nam. Cựu dân biểu Lư quư Chung ( vốn là bộ trưởng thông tin trong chính phủ Dương văn Minh) trong cuốn sách " Hồi kư không tên " xuất bản ở Việt Nam mới đây cũng có nói đến chuyện này nhưng ông Chung không dám nêu đích danh Trung Cộng mà chỉ nói đến một cách bóng gió. Lư do là mối quan hệ giữa Việt Cộng và Trung cộng đang hồi thắm thiết hữu nghị nên ông Trung không dám nêu đích danh Trung Cộng là kẻ đă t́m cách viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của Việt Nam Cộng Ḥa nhằm cứu văn sự sụp đổ của miền Nam trước sự tấn công của miền Bắc.

    Tại sao Trung cộng đă viện trợ cho Việt cộng trong nhiều năm mà lại t́m cách cứu văn miền Nam khỏi sự sụp đổ trong những ngày tháng cuối cùng ? Câu trả lời là mặc dù Trung cộng viện trợ cho Việt cộng v́ là anh em trong khối xă hội chủ nghĩa nhưng Trung cộng rất ngại chuyện Việt cộng chiến thắng ở miền Nam v́ Trung cộng nghĩ rằng một nước Việt Nam thống nhất và hùng cường sẽ là trở ngại cho âm mưu bành trướng bá quyền của Trung cộng. Đó là nguyên nhân Trung cộng làm một chuyện rất nghịch lư và khó hiểu là t́m cách thương thảo để viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của miền Nam trong những giờ phút hấp hối. Trung cộng t́m cách viện trợ cho miền Nam không phải v́ thiện ư mong muốn nhân dân miền Nam được sống trong tự do mà v́ không muốn nh́n thấy một nước Việt Nam thống nhất hùng cường, và chuyện này có hại có âm mưu bành trướng lănh thổ của Trung cộng.

    Sau ngày đổi đời 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản đă không cho "tắm máu " hàng loạt như một số phóng viên ngoại quốc dự đoán nhưng đă cho " phơi xương" từ từ những người miền Nam ngă ngựa trong những trại tù cải tạo. Chính vị sự chết chóc do Cộng sản gây ra cho người miền Nam sau 30 tháng 4 làm cho người ta oán trách quyết định đầu hàng của Dương văn Minh. Nói Dương văn Minh đầu hàng để tránh sự đổ máu cho nhân dân miền Nam là một nhận xét không hoàn toàn đúng. Sài g̣n không bị san thành b́nh địa v́ quyết định đầu hàng của Dương văn Minh nhưng máu của người miền Nam vẫn tiếp tục đổ sau ngày 30 tháng 4.. Cựu Thủ tướng Vc Vơ văn Kiệt đă thẳng thắn ca ngợi quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh trong một bài viết kỷ niệm ngày 30 tháng 4 mới đây. Dĩ nhiên quyêt định này đă tiết kiệm nhiều sinh mạng bộ đội miền Bắc. Cộng sản trả ơn cho Dương văn Minh bằng cách không đưa Dương văn Minh vào trại cải tạo và cho ra đi nước ngoài định cư sau này. Nếu sau ngày 30 tháng 4 mà không có sự trả thù tàn bạo của Cộng sản đối với những người miền Nam ngă ngựa th́ dư luận phê phán chắc chắn sẽ bớt nghiêm khắc về quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh.

    Đỗ Mậu trong cuốn hồi kư " Việt Nam máu lửa quê hương tôi " đă phê phán ông Minh vận động để lên chức tổng thống trong những ngày cuối của miền Nam là một chuyện " ách giữa đàng, mang vào cổ " . Đó là một nhận xét chí lư. Ôâng Minh không phải là một nhà chính trị khôn ngoan, can đảm, quyền biến. Ôâng đă sai lầm khi t́m cách giành chức tổng thống trong giờ phút đất nước dầu sôi lửa bỏng nên ông đă phải hứng chịu nhiều sự chê trách, phê phán trong quyết định đầu hàng nhục nhă trong ngày 30 tháng 4.

    Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền ḥa, nhưng rơ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Đại tướng Vơ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đ́nh, sai lầm của người chủ gia đ́nh có thể dẫn tới chuyện gia đ́nh ấy suy sụp, tan vỡ. C̣n nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà " tham sinh úy tử " , nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến th́ chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức ḿnh, nếu ḿnh " tài hèn, trí đoản " mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lănh đạo quốc gia th́ chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho ḿnh những sự nhục nhă ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách.
    Los Angels, một chiều hiu quạnh, đ́u hiu đầu tháng 10 năm 2006

    TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
    Email: dalatogo@yahoo.com

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 22-11-2011, 01:00 AM
  2. Replies: 85
    Last Post: 24-04-2011, 11:18 PM
  3. Replies: 1
    Last Post: 22-03-2011, 08:51 PM
  4. Hé lộ mật lệnh “ban” thuốc độc giết danh tướng của Hitler
    By Phó thường dân in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 2
    Last Post: 08-03-2011, 10:48 PM
  5. Replies: 2
    Last Post: 12-12-2010, 06:08 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •